Tài liệu Đề tài Thực chất âm mưu và thủ đoạn của "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trên mặt trận văn hoá tư tưởng ở Việt Nam hiện nay: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử xã hội loài người đã chi nhận từ năm 1848, “Chủ nghĩa xã hội đã được tất cả các thế lực ở Châu Âu thừa nhận là một thế lực”. Từ khi ra đời nó được coi là một bóng ma đang ám ảnh bầu trời Châu Âu và giai cấp tư sản thế giới đã liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử bóng ma đó” [16 - 539].
Mưu đồ lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa để xoá bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và phủ định hình thái ý thức của chủ nghĩa Mác - Lê nin nhằm thiết lập một trật tự thế giới mới theo kiểu phương tây luôn luôn là mục tiêu chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Thực hiện âm mưu đó, chủ nghĩa đế quốc đã tiến hành bằng nhiều chiến lược phản cách mạng, không ngừng điều chỉnh đường lối, chính sách hòng đạt mục đích “Bá chủ thế giới”. Hiện nay, chúng đang ráo riết đẩy mạnh chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ để chống phá chủ nghĩa xã hội và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Na...
86 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1527 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực chất âm mưu và thủ đoạn của "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trên mặt trận văn hoá tư tưởng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử xã hội loài người đã chi nhận từ năm 1848, “Chủ nghĩa xã hội đã được tất cả các thế lực ở Châu Âu thừa nhận là một thế lực”. Từ khi ra đời nó được coi là một bóng ma đang ám ảnh bầu trời Châu Âu và giai cấp tư sản thế giới đã liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử bóng ma đó” [16 - 539].
Mưu đồ lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa để xoá bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và phủ định hình thái ý thức của chủ nghĩa Mác - Lê nin nhằm thiết lập một trật tự thế giới mới theo kiểu phương tây luôn luôn là mục tiêu chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Thực hiện âm mưu đó, chủ nghĩa đế quốc đã tiến hành bằng nhiều chiến lược phản cách mạng, không ngừng điều chỉnh đường lối, chính sách hòng đạt mục đích “Bá chủ thế giới”. Hiện nay, chúng đang ráo riết đẩy mạnh chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ để chống phá chủ nghĩa xã hội và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, “DBHB” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự; là chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc gây dao động, mơ hồ, ảo tưởng về mục tiêu cán bộ, đảng viên và nhân dân. Mục tiêu của chiến lược “DBHB” đối với cách mạng nước ta là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước mắt, chúng tập trung vào thúc đẩy tự do hoá chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ không giới hạn, thúc đẩy tư nhân hoá nền kinh tế thị trường theo hướng tư bản chủ nghĩa và “phi chính trị hoá lực lượng vũ trang để chủ động tiếp cận, chọn lọc và hành động từng bước, đánh có trọng điểm tiến tới hoá hoại toàn diện.
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng và phức tạp. Cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt hơn. Các thế lực phản động quốc tế tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “DBHB”, kết hợp với âm mưu bạo loạn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong đó chúng coi “DBHB” trên mặt trận văn hoá tư tưởng là khâu đột phá.
Phòng, chống chiến lược “DBHB” bạo loạn lật đổ của kẻ thù nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới vì mục tiêu “Dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” là một trong những vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, là trách nhiệm của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, nghiên cứu đề làm rõ âm mưu, thủ đoạn và tăng cường cảnh giác, chủ động trong biện pháp phòng chống có hiệu quả chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của Mỹ đối với Việt Nam là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ :
Ở Việt Nam trong 30 chống chiến tranh xâm lược, vấ đề này được kết hợp nghiên cứu trong việc tìm hiểu ý đồ, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động để có đối sách thích hợp, thể hiện trong các Nghị quyết công tác năm, chỉ thị, quyết định của lực lượng quốc phòng , nội vụ và tỏng văn kiện của Đảng, Nhà nước chỉ đạo thực hiện đấu tranh. Với tư cách là những đối tượng của chiến lược “DBHB”, Trung Quốc và Việt Nam đã nghiên cứu một cách khoa học và nghiêm túc về vấn đề này thông qua các công trình như:
- Trung Quốc: “Chiến lược DBHB của Mỹ” (Lương Văn Đồng chủ biên, Nxb Nhân dân Lĩnh Cát Lâm - Trung Quốc, 1992, Tổng cục II Bộ quốc phòng 1993), “Cuộc đọ sức hai chế độ xã hội - bàn về chống “DBHB” (Cốc Văn Khang, Nxb Hồ Nam ấn hành 1991, Nxb Chính trị quốc gia và Tổng cục II Bộ Quốc phòng dịch và xuất bản ở Việt Nam 1994), “hãy cảnh giác với cuộc chiến tranh thế giới không có khói súgn (Lưu Đình Á chủ biên,k Nxb Chính trị quốc gia, Tổng cục II, Bộ Quốc phòng, Hà Nội 1994).
- Việt Nam: Quyết tâm làm thất bại chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch (Ban tư tưởng - văn hoá TW, Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội 1994), “Chiến lược DBHB” (Nguyễn Anh Lân chủ biên, Nxb Tổng cục II Bộ Quốc phòng,Hà Nội 1993); Bàn về “DBHB” (Nguyễn Đỗ Hoàng, Nxb CAND, Hà Nội 1991)…
Những công trình này đã cung cấp một bức tranh khá toàn diện về chiến lược “DBHB” của địch. Nhìn chung, đây alf một đề tài khó, đòi hỏi người viết phải tham khảo nhiều tài liệu, có tư duy sâu sắc và một trình độ tổng hợp cao. Nhưng đề tài có sức hấp dẫn bởi nó không những có tính lịch sử mà còn có tính thời sự và được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Xuất phát từ tình hình thực tế đó, người viết luận văn đã tiếp cận vấn đề từ một góc độ văn hoá tư tưởng với mong muốn góp một chút công sức nhỏ bé vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA KHOÁ LUẬN .
* Mục đích: làm rõ thực chất âm mưu và thủ đoạn của “DBHB” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trên mặt trận văn hoá tư tưởng ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ: Nghiên cứu những hiện tượng, những hình thức biểu hiện của “DBHB” trên mặt trận văn hoá tư tưởng để phát hiện bản chất của nó. Từ đó đề xuất những giải pháp tích cực chống lại chiến lược “DBHB”, bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo từ nay về sau.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
* Cơ sở lý luận việc nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin. Khoá luận nghiên cứu một cách khách quan những luận điểm đối nghịch chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định tính đúng đắn và khoa học của ý thức hệ Mác - Lê nin.
* Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp kết hợp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích so sánh.
5. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA KHOÁ LUẬN.
Khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn trong quá khứ, hiện tại và tương lai của chủ nghĩa xã hội nói chung và Việt Nam nói riêng.
6. KẾT CẤU CỦA KHOÁ LUẬN.
CHƯƠNG I : “DBHB” VÀ “DBHB” TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM.
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHIẾN LƯỢC “DBHB”.
1. Diễn biến hoà bình là gì ?
Cuộc cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917 và sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước Nga đã mở ra con đường phát triển mới cho nhân loại. đó là con đường giải phóng dân tộc, giải phóng con người thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và các giai cấp bóc lột. Việc mở ra con đường này đồng nghĩa với sự bắt đầu một thời đại lịch sử mới mà trong đó địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản bị thách thức.
Ngay lập tức, chủ nghĩa tư bản thế giới, các thế lục phản động đã xúm lại tìm cách bóp chết chủ nghĩa xã hội ngay từ khi còn “trong trứng nước”. Ỷ vào tiềm lực hơn hẳn về kinh tế, quân sự, chúng đã phát động cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc chống nước Nga Xô Viết non trẻ trong những năm 1918 - 1922. Chúng đã hướng sức mạnh tàn phá do chủ nghĩa phát xít nhằm tiêu diệt Liên Xô (1941 - 1945). Song những nỗ lực của chủ nghĩa đế quốc trong việc dùng sức mạnh quân sự và chiến tranh để tiêu diệt Liên Xô - Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã bị thất bại thảm hại. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xo đang đứng vững trước những cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực đế quốc - phản động quốc trê. Trong khi đó, cách mạng lần lượt thành công ở các nước Đông Âu, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam. Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội - các cao trào giải phóng dân tộc đã thu hẹp đáng kể phạm vi thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Từ kinh nghiệm lịch sử ở giai đoạn trước, lẫn thực tế tình hình tư bản và đế quốc hiếu chiến nhận thấy rằng, không thể xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội hiện thực - xâm chiếm các nước xã hội chủ nghĩa bằng cách trực tiếp dùng thủ đoạn quân sự. Hơn nữa, việc phát động một cuộc chiến tranh qui mô lớn, trực diện tấn công vào các nước xã hội chủ nghĩa có thể đưa tới hậu quả ngược chiều là chủ nghĩa tư bản thế giới tiếp tục bị đe doạ và thất bại nặng nề hơn nhiều. Bằng chứng hùng hồn là hại cuộc chiến tranh thế gới do chủ nghĩa đế quốc gây ra đã đưa tới thắng lợi mở rộng phạm vi của chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, sau chiến tranh thất bại ở Việt Nam, những phần từ diều hâu phản động nhất buộc phải xem xét, cân nhắc lại những khả năng và hiệu quả của việc sử dụng sức mạnh quân sự, kinh tế của mình. Một loạt tác giả hàng đầu về nghiên cứu chiến lược của Mỹ như : Kitxingiơ, Brêdinxki, Mắcnamara… bắt đầu đưa ra những khuyến cáo về sự thay đổi chiến lược từ chỗ dùng sức mạnh quân sự “lấy thịt đè người” chuyển sang giải pháp “chiến tranh không cần khói súng”. Nhờ việc hoàn thiện chiến lược “DBHB” mà những năm gần đây chúng đã và dang giành được những thắng lợi nhất định. Chúng tấn công và làm cho mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu xụp đổ. Hiện nay, mũi nhọn của “DBHB” đang được ráo riết thực hiện thâm độc, quyết liệt, hướng trọng tâm vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như : Cu Ba, Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên nhằm thực hiện mục đích “Bá chủ toàn cầu”, làm “xanh hoá cái đầu đỏ”.
Vậy khái niệm về “DBHB” là gi ?
Khái niệm v“DBHB” được thể hiện qua rất nhiều cụm từ như : “Chuyển hoá hoà bình” (Peaceful change); “Biến đổi hoà bình” (Peaccful transformaton). “cách mạng hoà bình” (pcaceful revolution), “cạnh tranh hoà bình” (peaccful competitison); “Phương pháp hoà bình” (peacegul means). Thậm chí, các thế lực thù địch còn đưa ra khái niệm “Bom F”, chữ đầu của chữ Food, tức là “thức ăn” trong tiếng Anh. Khi nói về “Bom F”, Kitxinh giơ đã nói : “con đường bằng phẳng nhất để đi vào các nước đang phát triển là đi qua cái dạ dày của họ”. Mặc dù được gọi dưới nhiều tên khác nhau, nhưng thuật nghwx “DBHB” vẫn được sử dụng phổ biến nhất.
“DBHB” theo cách hiểu chung nhất đó là, chiến lược tấn công trên qui mô toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch do Mỹ khởi xướng với những ý tưởng ban đầu từ cuối những năm 40 nhằm thủ tiêu chủ nghĩa xã hội và phong trào cộng sản quốc tế trong điều kiện không thể giành thắng lợi bằng biện pháp quân sự. chiến lược “DBHB” được thực hiện thông qua việc sử dụng các phương thức tổng hợp, thủ đoạn hd phá hoại thâm độc, tinh vi với tính chất, phạm vi và mức độ khác nhau , kể cả biện pháp răn đe quân sự, diễn ra trên mọi lĩnh vực mà kinh tế chính trị, tư tưởng và nội bộ là mặt trận nóng bỏng, dân tộc tôn giáo là “ngòi nổ”. Các hoạt động này chủ yếu làm xuất hiện ngay trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa những nhân tố phản cách mạng, hỗ trợ và tiếp sức cho các nhân tố này mạnh dần lên trở thành lực lượng chính trị đối trọng với Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa; từng bước làm suy giảm tiến tới xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; làm suy yếu và làm mất dần bản sắc của chế độ xã hội chủ nghĩa; kết hợp tác động từ bên ngoài tạo ra sự vận động từ bên trong một cách toàn diện theo hướng tư bản chủ nghĩa từng bước chuyển hoá theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chiến lược này lợi dụng các đặc điểm tỏng môi trường quan hệ quốc tế, như sự đan xen và tương tác giữa hợp tác và cạnh tranh, xu hướng quốc tế hoá, khu vực hoá đồng thời với xu hướng đề cao chủ nghĩa dân tộc. Chúng lợi dụng các khẩu hiệu “dân chủ”, “nhân quyền” giả hiệu để kích động quần chúng, gây rối loạn xã hội. Chúng triệt để khai thác những sơ hở, thiếu sót, sự chưa hoàn chỉnh của đường lối chính sách trong cải tổ và đổi mới; Khoét sâu sai lầm trong tổ chức thực hiện, trong lãnh đạo và quản lý các mặt của đời sống xã hội. Quá trình “DBHB” là qúa trình đấu tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa đang cải tổ, cải cách, đổi mới, tức là xã hội đang trong qúa trình biến động, đang chứa đựng nhiều yếu tố ổn định. Tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, việc giải quyết tình thế chính trị này không nhất thiết diễn ra dưới dạng chuyển hoá “hoà bình” mà có thể xảy ra hỗn loạn chính trị - xã hội, thậm chí bạo loạn phản cách mạng, lật đổ không ngoại trừ khả năng can thiệp vũ trang từ bên trong.
2. Bản chất của “DBHB”.
Đối với thế giới tư bản chủ nghĩa, việc chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời, tồn tại và phát triển là điều chúng không thể chấp nhận được. Bởi vì :
Thứ nhất: Theo bản chất riêng của mình, chế độ xã hội chủ nghĩa là một con đường phát triển tất yếu của lịch sử mang chức năng phủ định trực tiếp mô hình đối lập - là cntb.
Thứ hai: Đối với thị trường thế giới vốn đã được chủ nghĩa tư bản giành giật và phân chia từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, mỗi nước cũng như toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa do sự tồn tại, độc lập và chủ quyền quốc gia của mình, đặc biệt do thể chế chính trị và kết cấu, cơ chế kinh tế đặc trưng và hoàn toàn mới mẻ của nó, đã thực sự là những vùng mà chủ nghĩa tư bản khó bề kiểm soát.
Do vậy, mọi hoạt động của giai cấp tư sản chống chủ nghĩa xã hội đều mang bản chất phản động và ngăn trở tiến trình lịch sử nhân loại. chiến lược “DBHB” dù không sử dụng các biện pháp quân sự, mục đích của nó vẫn là loại bỏ chủ nghĩa xã hội khỏi vũ đài chính trị thế giới, loại bỏ một hình thái kinh tế - xã hội tiên tiến nhất, kéo lịch sử trở về chủ nghĩa tư bản. Vì thế, chiến lược này mang bản chất chống cộng rất phản động, nguy hiểm. chiến lược “DBHB” là sự can thiệp toàn diện, thô bao vào công việc nội bộ của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn đầu, chủ yếu nó can thiệp ở khu vực ngoại vi, đặt trọng tâm vào các hoạt động bao vây, ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô với các nước xã hội chủ nghĩa và của các nước xã hội chủ nghĩa đối với phong trào giải phóng dân tộc. Nhưng sang giai đoạn “Vượt trên ngăn chặn” thì sự can thiệp này trở nên lộ liễu, trắng trợn. Nichsơn khẳng định rằng : “Không được chấp nhận quan điểm cho rằng, cộng sản có quyền cạnh tranh với chúng ta trong thế giới tự do, còn chúng ta thì không có quyền cạnh tranh với họ trong thế gới cộng sản, chúng ta phải phát triển chiến lược thi đua hoà bình với Matxcơva ở Đông Âu và ở cả Liên Xô, phải thúc đẩy ch “DBHB” dưới chế độ của họ [33].
Chúng ta biết rằng, chiến lược “DBHB” là âm mưu và hành động của chủ nghĩa đế quốc chống lại sự phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, những thủ đoạn tiến công lắt léo, tinh vi dưới các chiêu bài mị dân như : “Sự nhích lại gần”, “Giải phóng tư tưởng” hoặc “Cạnh tranh hoà bình”… đã đánh trúng tâm tư, nguyện vọng và ước mong của quần chúng nhân dân và một bộ phận cán bộ, đảng viên chiến lược “DBHB” đã che đậy được bản chất xấu xa, phản động của nó. Ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong giới ktrí thức và chính khách do mơ hồ, mất cảnh giác, ảo tưởng nên có nhiều người đứng ra bào chữa cho các hành động của chủ nghĩa đế quốc. Họ tự cho rằng, chủ nghĩa xã hội xụp đổ là do “tự DBHB” chứ không phải do can thiệp, tiến công của chủ nghĩa đế quốc từ bên ngoài.
3. Âm mưu và thủ đoạn của chiến lược “DBHB”.
Để thực hiện chiến lược “DBHB”, chủ nghĩa đế quốc huy động và sử dụng tổng hợp các lực lượng và biện pháp : chính trị, tư tưởng, kinh tế, ngoại giao, phá hoại ngầm, bạo loạn lật đổ, chiến tranh ngoại vi… nhằm gây cản trở cho việc phát triển và mở rộng các nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, tạo ra nhêìu khó khăn trong đời sống kinh tế - xã hội tinh thần ở các nước xã hội chủ nghĩa. Khi môi trường khách quan của “DBHB” xuất hiện thì chuyển hướng chiến lược “Vượt trên ngăn chặn” làm xụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa đế quốc tiến công bằng các biện pháp mềm dẻo, thúc đẩy ch đánh từ trong lòng của nước xã hội chủ nghĩa. Chú trọng vận dụng các thủ đoạn phi quân sự, tổng hợp và đa dạng cả về chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật, ngoại giao… trên cơ sở bí mật, êm thấm và xảo quyệt.
Hiện nay, trong chiến lược “DBHB”, vũ khí lợi hại nhất và được đặt lên hàng đầu trong suốt qúa trình thực hiện là vũ khí văn hoá - tư tưởng. Thực chất, đó là kế sách phá vỡ thành luỹ chủ nghĩa xã hội từ bên tỏng; là chiến lược “mối xông nhà”; là “thủ thuật làm nhụt ý chí dẫn đến mất niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, mất sức mạnh, mất nhuệ khí và nội lực của chủ nghĩa xã hội; tạo “Khoảng trống để đưa hệ tư tưởng tư sản, dẫn đến mục tiêu cuối cùng là xoá bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Với thủ đoạn “mối xông nhà” để thực hiện ý đồ làm ruỗng nát cơ cấu kinh tế chính trị , xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, cuộc chiến tranh văn hoá - tư tưởng được chủ nghĩa đế quốc phát động lần này xoay quanh trò bịp “phi ý thức hệ”, coi như không có tư tưởng phản nghịch, coi như không có đối kháng tư tưởng phản nghịch mà chỉ là sự “đồng nguyên” hoặc “đa nguyên” tư tưởng… Trò bịp “phi ý thức hệ”, “phi tư tưởng” thực chất hòng làm lu mờ bản chất giai cấp của hệ tư tưởng mác xít, làm xoá nhoà ranh giới và lập lờ “đánh lộn con đen”, làm cho nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa lơ là, mất cảnh giác, bị chia rẽ và suy yếu từ bên tỏng. Cách làm của chúng là “mưa dầm thấm lâu”, “nước chảy đá mòn”, kết hợp đẩy nhanh phá hoại với kiên trì chờ chuyển hoá. Tất nhiên cũng không loại trừ rằng khi tình thế cho phép chủ nghĩa đế quốc có thể lợi dụng tình hình phức tạp ở bên trong các nước để gây sự cố và xâm lược bằng quân sự.
Tóm lại, từ những nội dung trên chúng ta rút ra một số đánh giá sau:
Một là, chiến lược “DBHB” là con đẻ của quyết tâm tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, với tư cách là một hệ tư tưởng, ột con đường phát triển của xã hội loài người. Chiến lược này ra đời trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc đánh giá cùng với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành cải tổ, cải cách, cuộc đấu tranh lịch sử giữa hai hệ thống xã hội đối lập - chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới đã chuyển sang giai đoạn có ý nghĩa quyết định: “một mất một còn”. Vấn đề “Ai thắng ai” theo đánh giá của các chiến lược gia của chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một vấn đề thời sự trực tiếp chứ không còn là triển vọng lịch sử lâu dài.
Hai là, Thực chất của chiến lược “DBHB” căn cứ vào diễn biến tình hình ở mỗi nước xã hội chủ nghĩa và dựa vào các nhân tố chống đối ở bên trong mỗi nước mà tác động và tấn công một cách thích hợp trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, thực hiện một cuộc vận động phản cách mạng nhằm đưa các qúa trình kinh tế - xã hội, chính trị đang diễn ra ở mỗi nước chuyển sang con đường tư bản chủ nghĩa, đánh đổ Đảng Cộng sản và công nhân, đưa các lực lượng phục hồi chủ nghĩa tư bản lên cầm quyền.
Ba là, Chiến lược “DBHB” lấy mặt tấn công vào các nước xã hội chủ nghĩa làm chính, đồng thời, tăng cường, bao vây, gây sức ép từ bên ngoài.
Bốn là, trong chất lượng “DBHB”, mặt trận văn hoá - tư tưởng nổi lên hàng đầu. “DBHB” trước tiên diễn biến về mặt tư tưởng trên các lĩnh vực đời sống chính trị và kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy, việc phòng và chống “DBHB” là một trong những vấn đề cấp bách đối với chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói rêing. Điều đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có một chiến lược tập trung chỉ đạo và phối hợp thống nhất các lực lượng nhằm đánh bại âm mưu và hoạt động “DBHB” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Đồng thời, việc nghiên cứu và xác lập những luận cứ khoa học làm cơ sở cho đấu tranh chống “DBHB” cũng là một yêu cầu hết sức cấp thiết.
Xuất phát từ vấn đề trên, Đảng ta khẳng định rằng: “Bản chất của chiến lược “DBHB” này là chống chủ nghĩa xã hội, chống độc lập dân tộc. “DBHB” và đấu tranh chống “DBHB” thực chất là một cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc rất quyết liệt và gay gắt, giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa đế quốc [2 - 4].
Như vậy, mục đích của “DBHB” vẫn được thực hiện bằng việc chống phá đẩy lùi và đi đến xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, đưa các nước xã hội chủ nghĩa tham gia vào bộ máy “thế giới tự do” tvc. Qúa trình thực hiện v“DBHB” đối với các nước xã hội chủ nghĩa cho thấy mục tiêu này đã được bọn đế quốc diều hâu kiên trì theo đuổi và rõ ràng trên thực tế đã có những kết quả nhất định.
II. DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ - TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM.
1. Việt Nam đứng trước những thử thách mới:
Trong tình hình quốc tế đang diễn ra phứctạp như hiện nay thì tình hình khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á cũng có nhiều biến động mạnh mẽ. Ý thức độc lập, tự chủ, tự cường quốc gia và xu thế thúc đẩy các mối quan hệ khu vực phát triển, bình thường hoá, đa dạng hoá quan hệ ngày càng tăng trên cơ sở lấy lợi ích dân tộc, lợi ích kinh tế làm cơ sở. Kết quản quan trọng của Hội nghị cấp cao các nước “Không liên kết” họp ở Inđônêxia (9.1927) cũng như quan hệ giữa các nước Đông Nam Á phát triển đã phản ánh rõ nét xu thế đó.
Bước vào cuỗi thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX sự khủng hoảng toàn diện, sâu sắc dẫn đến sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội về mặt Nhà nước ở Liên Xô và Đông Âu đã làm cho các nước đang phát triển mất đi một chỗ dựa hùng hậu trên nhiều phương diện. Sau khi Liên Xô xụp đổ, Mỹ ra sức lợi dụng LHQ can thiệp, xâm nhập vào nhiều nơi hòng lập nên một trật tự thế giới mới do Mỹ thóng trị. Các nước lớn mâu thuẫn với nhau nhưng cũng thoả hiệp để giành lợi ích chiến lược.
Tình hình Đông Nam á - Đông Dương, vì vậy vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp như vtrong vấn đề Campu chia, Đông Timo, vấn đề tranh chấp biển Đông… Với vị trí tiền đồn quan trọng, Đông Nam á - Đông Dương đã và đang là khu vực tranh chấp gay gắt giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa các nước lớn trong các vấn để: Biên giới, lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo…
Tổng thống Mỹ - Burh (28.9.1991) cho rằng: Hầu hết 45 năm qua, trọng điểm số một của chúng ta là ngăn chặn ý thức hệ cộng sản - Đến nay chúng ta mới đối phó với thử thách đó một cách thành công… Nhưng Đông Nam á - Thái Bình Dương vẫn là xứ sở của những xã hội phát triển mạnh mẽ nhất về kinh tế chính trị. Ở đây vẫn còn một số chế độ cộng sản cuối cùng và những điểm nóng khu vực chiến lược như Campuchia, Bắc Triều Tiên và lãnh thổ tranh chấp chưa được giải quyết. Trong mọi trường hợp phức tạp này khi kỷ nguyên phiêu lưu của Liên Xô giảm xuống Mỹ vẫn cần có lực lượng mới ở Việt Nam, Cămpuchia, Bắc Triều Tiên.
Đến ngày 9.1.1992, Burh khẳng định tiếp : Lịch sử sẽ viết thời điểm này là một trong những bước ngoặt quan trọng nhất tiến tới một trật tự thế giới mới và chắc chắn là một bước ngoặt trên đường tiến tới tự do dân chủ trên toàn thế giới; đó là một bước ngoặt trên đường tiến tới tự do dân chủ trên toàn thế giới; đó là một việc lớn lao đối với nước Mỹ… Chúng ta phải có sự quan tâm cốt tử với Châu Á - Thái Bình Dương. Phải tăng cường hợp tác tổ chức kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương như là khuôn khổ thiết yếu trong khu vực. Phải khuyến khích Trung Quốc theo chính sách cải cách và công khai trong cả lĩnh vực kinh tế và chính trị để hoà nhập Trung Quốc vào cộng đồng quốc tế. Phải đảm bảo thực hiện đầy đủ Hiệp định hoà bình Pari về Campuchia và ủng hộ cải cách kinh tế chính trị nhằm thúc đẩy hoà bình và dân chủ ở Việt Nam - Lào - Cămpuchia - Và Burh cho rằng : “Xu hướng cải cách dân chủ ở Đông Âu vẫn chưa lan tới các xã hội Khổng tử - Lê nin ở Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Trung Quốc và phải tăng cường sức ép chính trị ở những nước này.
Trung Quốc cho rằng, chuyến đi của Burh sang ChâuÁ - Thái Bình Dương (1.1992) là để triển khai chiến lược chống phá và tìm mọi cách cản trở việc bình thường háo quan hệ Việt - Trung, tìm cách tách Lào và đặc biệt là Cămpuchia ra khỏi Việt Nam, biến Cămpuchia phụ thuộc ảnh hưởng của Mỹ, thành lập mặt trận chĩa mũi nhọn vào Trung Quốc và Việt Nam sau khi đã thành công trong công cuộc làm tan rã Liên Xô.
Trong bối cảnh đó của khu vực, từ những năm 80 Mỹ đã tích cực tiến hành chiến tranh phá hoại nhiều mặt ở Việt Nam. Từ năm 1989, nhất là khi Liên Xô và Đông Âu xụp đổ, thực hiện chiến lược “Toàn cầu” vượt trên ngăn chặn”, chúng ngày càng thúc đẩy chiến lược “DBHB” chống phá Việt Nam mà mũi nhọn là trên lĩnh vực văn hoá - tư tửơng.
Nich Sơn (12.1.1992) phát biểu : Giữa lúc chủ nghĩa cộng sản hất ra hỏi cuối cùng tại đế quốc ác quỷ (chỉ Liên Xô), Phương tây lại hướng đến những chính sách muốn nó sống ở Việt Nam. Đây là một diễn biến đang khinh hoàng. Bình thường hoá quan hệ và giải toả cấm vận thương mại của phương Tây đối với chính phủ cộng sản ở Hà Nội, là cung cấp một hệ thống cứu chết đuối cho một chế độ đang xâm lược ở nước ngoài và đàn áp tàn bạo ở trong nước… Một chế độ như chế độ ở Hà Nội không đáng và không nên được công nhận là một thành viên có tư cách tốt của cộng đồng quốc gia… Trong lúc chào mừng thất bại của ý thức hệ cộng sản, chúng ta phải cam kết chấm dứt ách áp bức ở Hà Nội đối với những người Việt Nam đã từng chiến đấu quả cảm với chúng ta”.
Như vậy, Mỹ cho rằng Liên Xô xụp đổ là “Hồi chuông báo tử giành cho phong trào cộng sản quốc tế”và là “cú trời giáng đánh vào các chính phủ cộng sản khác”. Do đó, phải tận dụng thời cơ chuyển trọng điểm sang xoá bỏ các nước XHCN còn lại, tập trung ở châu Á “DBHB”. Mỹ và các thế lực phản động cho rằng, thời cơ hành động đã chín muồi vf “cộng sản đã hết thời ở Việt Nam. Cho nên chủ trương phát triển và thống nhất lực lượng trong nước, chuẩn bị hành động. Chúng đánh giá Việt Nam không khỏi có những chuyển biến to lớn. Bởi vậy, phải kích động quần chúng với lá bà dân chủ đa nguyên, nhân quyền, chống tham nhũng và phải tận dụng thời điểm bùng nổ do “lực lượng chính không ai khác chính là những ngườicộng sản với nhau”. Chúng cho rằng, muốn chuyển hoá chế độ trước hết thúc đẩy “chính những người cộng sản đặt quyền lợi dân tộc lên trên”, lật đổ nhau từ tỏng nội bộ Đảng, vì không một nước lớn nào trực tiếp lật đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam mà chỉ có “cộng sản lật đổ cộng sản”, từ đó tập hợp lực lượng phản động trong tôn giáo nguỵ quân, nguỵ quyền và “dân chủ cấp trên” chớp thời cơ giành chính quyền.
Tóm lại, chiến lược “DBHB” đối với Việt Nam của Mỹ và các lực lượng phản động là một chiến lược cực kỳ nguy hiểm. Vì vậy, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải vững vàng trong thế trận đấu tranh trên mặt trận văn hoá - tư tưởng, làm vô hiệu hoá âm mưu và hoạt động “DBHB” của chủ nghĩa đế quốc đối với Việt Nam.
2. Các chiến lược “DBHB” chủ yếu được Mỹ và các thế lực thù địch sử dụng chống Việt Nam.
Sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, Mỹ tăng cường chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống phá Việt Nam. Ngày 23.9.1992, Thượng nghị Viện Mỹ đã thông qua dự luật số 954 để thực hiện “DBHB” chống Việt Nam, trong đó nhấn mạnh các vấn đề : “yêu cầu cải cách dân chủ”, đòi Việt Nam “tự do hoá chính trị”; “tôn trọng quyền con người”; “xây dựng một chính phủ dân chủ ở Việt Nam theo quan điểm của Mỹ: Thông qua dự luật này Mỹ không chỉ thể hiện quan điểm bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản cầm quyền Mỹ, mà còn xác định Việt Nam là mục tiêu tác động của chính quyền Mỹ về “Nhân quyền”, “Tự do dân chủ” và phát triển kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa làm cơ sở để Mỹ tiến công Việt Nam trong “DBHB”.
Ngày 12.7.1995, trong diễn văn tuyên bố bình thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ B.Clintơn đã công khai chủ trương và ý định của Mỹ là “bình thường hoá quan hệ để nhằm thúc đẩy “sự nghiệp tự do ở Việt Nam” như đã từng diễn ra ở Liên Xô và Đông Âu trước đây. “Cuốn Việt Nam vào cải cách kinh tế, cải cách dân chủ là biện pháp chính để thúc đẩy tự do ở Việt Nam theo quan điểm phương Tây. Với tinh thần đó, Mỹ đã nêu ra 3 bộ phận chiến lược quan trọng để đẩy mạnh hoạt động “DBHB” chống Việt Nam là:
Thứ nhất, chiến lược chi phối đầu tư, thực hiện “DBHB” bằng con đường kinh tế.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện đổi mới về kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, rất cần vốn, tri thức và công nghệ, Mỹ hiểu rất rõ điều đó và đề ra chủ trương điều phối tư bản của các nước vào thị trường Việt Nam bằng 3 đợt sóng: Đầu tiên là Đài Loan, Hồng Công và các nước Asian ; Thứ hai, là Hàn Quốc và các nước phương Tây; giai đoạn ba là các công ty Mỹ và các tập đoàn tư bản đa quốc gia, các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế do Mỹ chi phối.
chiến lược chi phối đầu tư với mục tiêu sâu xa là : Vực dậy nên kinh tế tư nhân, tạo ra những yếu tố có lợi về kinh tế cho phát triển tư bản chủ nghĩa. Thông qua đõ, Mỹ tìm cách nắm, hướng thành phần kinh tế tư nhân vào quỹ đạo của mình, lấn át kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, xoá bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có những công ty Mỹ núp dưới danh nghĩa các nước khác vào Việt Nam, đến nay ra hoạt động công khai bằng cách mua lại cổ phần trong các công ty đó. Đối với những công ty của các tập đoàn tư bản lớn của các nước, Mỹ đang tiến hành đàm phán, mua lại các cổ phần sao cho trong các liên doanh lớn và quan trọng Mỹ chiếm được số đa.
Đồng thời, chủ nghĩa tư bản triệt để viẹc ta mở rộng giao lưu quốc tế và nhu cầu thu hút vốn đầu tư (kể cả hình thức viện trợ phi chính phủ, từ thiện, nhân đạo) để gây sức ép đòi ta chấp nhận đa nguyên chính trị, để cho Đảng phái hoạt động công khai, khuyến khích phát triển nền kinh tế thị trường tự do theo hướng tư nhân hoá, để hình thành và phát triển giai cấp tư sản ở Việt Nam, thu hẹp kinh tế quốc doanh, làm suy yếu cơ sở vật chất của chế độ mới. Chính quyền một số nước đang gia tăng chỉ đạo và tài trợ các tổ chức phi chính phủ vào Việt Nam tổ chức các lớp học, các cuộc hội thảo; ký các chương trình giáo dục - đào tạo với các trường Đại học, hình thành các trung tâm nghiên cứu ở Việt Nam. Nhiều tổ chức phi chính phủ lâu nay mang danh nghĩa “nhân đạo” nay thấy rõ họ được Quốc hội, Chính phủ của họ tài trợ; thông qua các cá nhân với những thành phần khác nhau, có địa vị hợp pháp để thực hiện các chương trình thúc đẩy nền kinh tế thị trường ngày càng tự do, chuyển hoá chính trị ngày càng dân chủ hơn, văn hoá độc hại ngày càng có chỗ đứng trong lòng xã hội Việt Nam. Ý đồ của họ là thông qua lĩnh vực kinh tế và pháp luật để từng bước làm biến dạng, chuyển hoá chế độ chính trị ở nước ta.
Ngoài việc chi phối, đầu tư trên lĩnh vực kinh tế, Mỹ và các thế lực thù địch với Việt Nam luôn tìm cách mua huộc, lôi kéo cán bộ làm công tác quản lý kinh tế, nhất là cán bộ cấp cao của các ngành kinh tế mũi nhọn, hối lộ cán bộ thoái hoá, biến chất. Thủ đoạn này tạo cho chúng vừa có khả năng thâm nhập sâu vào nền kinh tế nước ta, vừa cài cắm những phần từ thân Mỹ và phương Tây trong bộ máy quản lý kinh tế ở nước ta.
Như vậy, mục tiêu chiến lược chi phối đầu tư, thực hiện “DBHB” trên lĩnh vực kinh tế của Mỹ và các thế lực phản động là nhằm gây ra sự chệch hướng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, dần dần thực hiện sự chuyển hoá từ kinh tế sang chính trị, làm xụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, chiến lược ngoại giao thân thiện.
Cuộc chiến tranh xâm lược mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam trước đây đã gây nên biết bao tội ác với nhân dân Việt Nam. Vì vậy, mục tiêu “ngoại giao thân thiện” trong qúa trình thực hiện “DBHB” là nhằm xoá đi hình ảnh nước Mỹ xấu xa, tàn bạo và gây dựng một hình ảnh mới của nước Mỹ: Mỹ là bạn của Việt Nam, và sẽ giúp Việt Nam xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, đưa Việt Nam đến “ấm nó”, “tự do”, “hạnh phúc”; rằng sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ); Trung Quốc các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, cũng như các nước tư bản khác ngày nay không thể so sánh được với sự giúp đỡ của Mỹ. Chiến lược này nhằm thúc đẩy tự do theo kiểu Mỹ ở Việt Nam, lôi kéo Việt Nam về phía Mỹ.
Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm lịch sử và tinh thần cảnh giác, chúng ta thấy rằng việc viện trợ của Mỹ cho Việt Nam không đáng là bao so với những lời hào phóng của họ, thậm chí còn chưa bằng một số nước khác. Hơn nữa các viện trợ đó của Mỹ thường gắn với những điều kiện chính trị ngang ngược, cũng như trong chiêu bài nhân đạo, chúng ta sẵn sàng hợp tác với Mỹ trong vấn đề POW/MIA. song, ngược lại Mỹ lại thiếu thiện chí trong vấn đề giải quyết nạn nhân chất độc màu da cam ở Việt Nam do Mỹ gây ra…
Vì thế, chiến lược “ngoại giao thân thiện” của Mỹ chỉ là một chiêu bài đánh vào lòng người dân Việt Nam mà thôi.
Thứ ba, chiến lược khoét ssau mâu thuẫn nội bộ, thực hiện “nội công ngoại kích” cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam làm nòng cốt để chuyển hoá Đảng, Mỹ tập trung lôi kéo đảng viên phụ trách kinh tế, kích động nói xấu cán bộ chính trị gây ra sự phân hoá, đối lập giữa “nhóm cán bộ kinh tế” và “nhóm cán bộ chính trị”, cố gắng làm phân hoá xã hội bằng tham nhũng, buôn lậu, tạo ra sự phân cực sâu sắc trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Mỹ tiến hành lôi kéo đội ngũ trí thức là tầng lớp trẻ và những người dễ dao động để “Nuôi dưỡng hạt nhân”, “Gieo mầm dân chủ”, “Tạo dựng ngọn cờ”, từ đó tạo thành phong trào chống đối Đảng và chế độ. Lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để gây áp lực dối với chính quyền.
Mỹ rất chú ý khai thác các khía cạnh tiêu cực vè kinh tế - văn hoá, xã hội ở Việt Nam để chống lại Đảng và Nhà nước ta. Tìm mọi cách thổi phòng và kích động những mâu thuẫn giữa Việt Nam với các nước, nhất là Trung Quốc, Campuchia và Lào đẻ gây chia rẽ. Chẳng hạn, khi ta và Trung Quốc ký hiệp định phân định biên giới trên bộ theo đúng các nguyên tắc và thông lệ quốc tế, Mỹ và các thế lực thù địch với Việt Nam tung tin rằng, chúng ta quá nhượng bộ Trung Quốc trong vấn đề lãnh thổ; gây nghi ngờ trong nhân dân ta và chia rẽ mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc.
Mỹ cho rằng, nếu xoá bỏ được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi để xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở các nước còn lại. Xuất phát từ mục đích đó, Mỹ đã không từ bỏ bất kỳ cơ hội thuận lợi nào, từ lợi dụng bối cảnh quốc tế mới có lợi cho Mỹ và những khó khăn tạm thời của Việt Nam, sử dụng tối đa ưu thế của phương Tây với hai mũi nhọn : văn hoá - tư tưởng và kinh tế. Kết hợp với bạo loạn lật đổ ở các địa bàn trọng điểm (VD như ở Tây Nguyên).
Trong thực hiện “DBHB” ở Việt Nam, Mỹ và các thế lực thù địch đã và đang ra sức thao túng, lợi dụng các tổ chức quốc tế, nuôi dưỡng các lực lượng phản động, chỉ đạo các hoạt động phá hoại từ bên ngoài vào nước ta, tìm mọi cách đưa các phần tử thân Mỹ vào các cơ quan kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội để phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, lũng đoạn chính sách của Nhà nước ta, nhằm tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ở nước ta hiện nay, tình hình lộ bí mật Nhà nước, bí mật nội bộ xảy ra ở nhiều nơi gây tác hại nghiêm trọng. Kẻ địch đã lợi dụng các hoạt động hội thảo, tập huấn, trao đổi… để khai thác bí mật quốc gia. Một số cán bộ ta đã cung cấp tài liệu cho nước ngoài. Có tổ chức nước ngoài đã nắm bắt được hơn 800 bộ hồ sơ cán bộ khoa học kỹ thuật của nước t.
Tình hình trên là do địch tăng cường hoạt động, đồng thời do ta sơ hở yếu kém, nhất là khâu quản lý đoàn ra, đoàn vào. Nhiều cán bộ Đảng viên vi phạm qui định của Nhà nước về qui chế làm việc trong các cơ quan văn phòng đại diện nước ngoài (ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thao thống kê có hàng trăm trường hợp nhận làm việc trong các văn phòng đại diện mà không xin phép). Một số do hám lợi về vật chất, muốn được học bổng của nước ngoài… nên tự ý quan hệ với nước ngoài, vi phạm nguyên tắc Đảng và qui định Nhà nước.
Sự cấu kết giữa các loại phản động trong và ngoài nước mang tính qui luật, phức tạp, nguy hiểm; vừa hoạt động gián điệp, tình báo, vừa hoạt động phá hoại gây rối, gây bạo loạn, tạo thời cơ lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta.
3. Mục tiêu chiến lược “DBHB” của Mỹ và các thế lực thù địch chống phá Việt Nam trên mặt trận văn hoá - tư tưởng.
Trong cuộc chính sách xâm lược Việt Nam, Mỹ ngày càng sa lầy nghiêm trọng. Đặc biệt, sau cuộc tấn công nổi dậy của quân dân miền Nam tết Mậu Thân (1968), Mỹ nhận thấy thất bại là không thể tránh khỏi. Vì thế, các chiến lược gia của Mỹ đã nhanh chóng vạch ra “kế hoạch hậu chiến” chuẩn bị cho cuộc rút quân viễn chinh ra khỏi miền Nam Việt Nam. Quả nhiên, tháng Giêng năm 1973, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari rút quân ra khỏi miền Nam nước ta. Chúng cũng dự kiến sau thất bại trực tiếp của Mỹ trong hoạt động can thiệp bằng quân sự, chính quyền Sài Gòn do Mỹ nâng đỡ, bảo trợ cũng sẽ bị lật đổ. Do vậy cùng một lúc Mỹ vừa chỉ đạo chính quyền Sài Gòn phá bỏ Hiệp định Pari, vừa ráo riết hoàn tất kế haọch “hậu chiến” - Đó chính là kế hoạch mở đầu thực hiện “DBHB” ở Việt Nam.
Thất bại về mặt quân sự ở Việt Nam là một sự cay đắng, một “cú sốc”, một nỗi nhục rất lớn đối với Mỹ. Qua đó chúng hiểu rằng muốn đánh bại Việt Nam thì phải đánh từ bên trong, và điều cốt yếu là dùng những người cộng sản lật đổ chế độ cộng sản”. Với mưu đồ xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, “chuyển hoá” Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản , và tăng cường vai trò thóng trị của Mỹ tại Đông Dương… chúng chủ trương phá hoại chúng ta về văn hoá - tư tưởng gây biến động về chính trị. Tất cả các biện pháp đều được đem ra thi thố; nào là cấm vận kỹ thuật cao, kích động tư nhân hoá, tung tiền giả, buôn lậu, làm chảy máu vàng, đô la…; nào là kích động nổi dậy đòi ruộng đất, cải thiện đời sống… gây đột biến kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó chúng truyền bá văn hoá, lối songs đồi truỵ độc hại, sa đoạ; kích động đòi hưởng thụ, mức sinh hoạt cao quá khả năng kinh tế cho phép. Chúng đẩy mạnh chiến tranh gián điệp, các hoạt động tình báo của CIA. Sử dụng sức mạnh quân sự để răn đe, xây dựng các tổ chức phản động lưu vong chống phá cách mạng. Chúng tập hợp, đỡ đầu, cổ vũ các tổ chức, những hoạt động của người Việt Nam ở nước ngoài chống phá ta dưới nhiều hình thức.
Mỹ tiêu diệt để lợi dụng và cấu kết với các thế lực phản động tiến hành kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt như đã nêu trên nhằm đánh vào “dạ dày” và “cầu não”, làm suy yếu ta, từ đó chúng dễ bề thôn tính khắc phục. Đặc biệt, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu xụp đổ, đế quốc Mỹ cùng các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam không thể tránh khỏi những biến động, chuyển hướng nên đã nôn nóng đẩy mạnh các hoạt động chống phá từ nhiều phía và tập hợp lực lượng phản động trong nước chuẩn bị nổi dậy và lật đổ.
Để nhận diện rõ nét mục tiêu chiến lược “DBHB” của thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay, có thể khái quát thành ba mục tiêu như sau :
Một là, Mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.
Hai là, Mưu toan xóa bỏ chủ nghĩa xã hội - mục tiêu, lý tưởng của Đảng và dân tộc ta.
Ba là, Mưu toan xoá bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc Việt Nam.
Ba mục tiêu trên mà các thế lực thù địch nhằm vào là ba vấn đề cốt tử của cách mạng nước ta và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bất cứ yếu tố nào trong ba yếu tố đó bị đánh sập đều làm rung chuyển và kéo theo sự sụp đổ của các yếu tố kèm theo.
* Mục tiêu của chiên lược “DBHB” nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh .
Chủ nghĩa Mác, từ khi ra đời năm 1848, đã hơn 150 năm nay luôn luôn là mục tiêu tấn công của các thế lực thù địch. Chủ nghĩa Mác vừa ra đời người ta đã hô hào hãy xua tan ngay các “bóng ma” đang ám ảnh Châu Âu lúc bấy giờ. Nhưng rồi hơn 150 năm trôi đi, “bóng ma” ấy không những bị xua tan mà ngày càng thấm sâu vào hàng trăm triệu trái tim, khối óc những người lao khổ trên thế giới vf nó thực sự là vũ khi tư tưởng lợi hại, là kim chỉ nam cho hành động của giai cấp công nhân, nhân dân các dân tộc bị áp bức đưng lên tự giải phóng mình. Chính vì lẽ đó mà chủ nghĩa đế quốc coi chủ nghĩa Mác là mục tiêu tấn công, là đối tượng số một của các chiến lược phản động của chúng, trong đó có chiến lược “DBHB”. Xoá bỏ chủ nghĩa Mác là xoá bỏ thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng của chúng ta.
Trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, văn hoá… chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch mới nổi với các thế lực phản động, các phần tử cơ hội chĩa mũi nhọn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng tuyên truyền luận điệu cho rằng : chủ nghĩa Mác- Lênin là “chủ nghĩa lý tưởng” kiểu không tưởng, là sự “suy ngẫm trong phòng đọc viện báo tàng Anh quốc”.
Theo quan điểm của giai cấp tư sản, chủ nghĩa xã hội là “sai lầm của lịch sử”, là sự đi ngược lại qui luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, họ cho rằng : chủ nghĩa xã hội đã thất bại, chứng minh - Lênin đã mất sức hấp dẫn toàn cầu của nó. Brêdinxki, tác giả cuốn sách “Thất bại lớn - sự hưng vong của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX cho rằng, chủ nghĩa Mác không phải là sản phẩm có tính tất yếu và tính kho học của qúa trình phản ánh hiện thực khách quan, mà chỉ là ý tưởng chủ quan áp đặt, vi phạm những qui luật lịch sử, rằng đó là do “một phần tử di dân nước Đức ở dòng máu do Thái suy ngẫm ra trong phòng đọc sách” của Viện bảo tàng nước Anh, mọi tư tưởng cơ bản về tư biện Tây Âu, cấy ghép vào một đế quốc Âu - Á xa xôi mang truyền thống chuyên chế phương Đông, sau đó do một nhà cách mạng nước Nga, chỉ biết ghi chép sổ sách đóng vai trò là nhà phẫu thuật ngoại khoa của lịch sử dựng nên, kết quả tất yêu sẽ dẫn tới sự hoang đường”.
Theo chúng, chủ nghĩa Mác - Lê nin đã lỗi thời, không còn thích hợp với thời đại ngày nay. Vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam do bế tắc về lý luận mới nêu ra tư tưởng Hồ Chí Minh, chứ thực tế làm gì có tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chỉ một lập luận thâm hiểm như vậy, chúng nhằm vào ba đích: phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta hòng dễ bề lừa gạt, lôi kéo những người mơ hồ, nhẹ dạ cả tin, bất mãn theo chúgn chống lại Đảng ta. Từ phạm vi một bộ phận người, chúng hi vọng dần dần xoá bỏ ý thức hệ, nền tảng tư tưởng của toàn xã hội, hòng tước bỏ vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh cách mạng của Đảng ta.
Để thực hiện mục tiêu bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng đánh vào những nguyên lý cụ thể của chủ nghĩa Mác. Chúng phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư của Mác và cho rằng, trong lao động xã hội hiện đại, người công nhân không còn bị bóc lột giá trị thặng dư, không bị bóc lột lao động sống như thời kỳ lao động thủ công cơ bắp trước đây. Chúng phủ nhận chủ nghĩa duy vật về lịch sử, phủ nhận lý luận về các hình thái kinh tế - xã hội. Chúng cho rằng, lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển qua các nền văn minh - chứ không phải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội như Mác nêu ra. Chúng phủ nhận lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp, phủ nhận lý luận về cách mạng xã hội, phủ nhận quy luật phát triển của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản . Từ việc phủ nhận những nguyên lý cụ thể như vậy, chiến lược “DBHB” đi đến phủ nhận toàn bộ lý luận của chủ nghĩa Mác. Theo chúng sự sụp đổ của Liên xô là xụp đổ từ gốc, xụp đổ từ lý luận về chủ nghĩa xã hội, vì vậy chúng coi việc làm chuyển hoá quan điểm tư tưởng trên phương diện lý luận, nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là mũi nhọn để chúng xâm nhập vào tận sâu lòng Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng chủ trương “phá vỡ thế đồng nhất một khối của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “phải làm cho được việc phân tán chế độ cộng sản Việt Nam thành nhiều trào lưu đối kháng nhau và kéo theo một số phần tử đối kháng tiến bộ về phía ta”.
Đi đối với việc đưa ra những luận điểm chống chủ nghĩa Mác - Lênin, cho đó là một giáo lí phi khoa học ; chúng công kích thực tiễn xã hội chủ nghĩa là “trăm năm hoài phí”, là một “bi kịch lịch sử” hoàn toàn không có ý nghĩa”. Nich Sơn đã cho rằng, chủ nghĩa xã hội đã không còn là “lực lượng hùng mạnh” khếin cho người ta sợ hãi như trước nữa, rằng chủ nghĩa xã hội sẽ bị biến mất trên hành tinh này vào năm 2000 và cũng có nghĩa là đến năm 1999 không cần đánh mà chủ nghĩa đế quốc vẫn chiến thắng. Chúng tách những luận điểm của Lênin ra khỏi những luận điểm của Mác và cho rằng chủ nghĩa Lê nin là “sai lầm lớn nhất” là nguồn gốc mọi sai lầm của Liên Xô. Theo chúng, Việt Nam đưa “giáo lý phương Tây” vào một nước gọi là nông dân chưa thoát khỏi mù chữ” là điều ngộ nhận, là một thứ xa xỉ tất yếu sẽ dẫn đến cảnh “nồi da nấu thịt”. Chúng hạ thần tượng Bác Hồ, xuyên tạc đời tư, phủ nhận một số tác phẩm, luận điểm và phong cách của Bác. Chúng nhận định rằng, muốn xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trước hết phải xoá bỏ thần tượng Bác Hồ. Chúng tung ra luận điệu, chủ nghĩa Mác và Bác Hồ chỉ còn tồn tại về một hình thức, theo chúng thực chất “chủ nghĩa cộng sản đã chết và chết hẳn ở Việt Nam”. Từ đó, chúng đưa ra quan điểm về con đường thứ ba : con đường trí tuệ do sinh viên, trí thức đảm nhận trước lịch sử.
* Mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Sau khi làm sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu thì chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đối tượng cần xoá bỏ. Đây cũng là nhu cầu “thiết lập trật tự thế giới mới: của Mỹ. Các giới cầm quyền cực hữu của Mỹ đã từng hạ quyết tâm xoá bỏ các nưcớ xã hội chủ nghĩa còn lại trong vài năm, sau khi Liên Xô và các nưcớ xã hội chủ nghĩa Đông Âu không còn tồn tại.
Brêdinxki thì luôn mồm nói răng: “học thuyết cộng sản chủ nghĩa đã lỗi thời” và “đến thế kỷ sau, chủ nghĩa cộng sản sẽ suy vong một cách không thể đảo ngược trong lịch sử”. Theo ông ta, đến năm 2017, trong dịp kỉ niệm 100 năm cách mạng tháng 10 Nga cách mạng của Bôn sê vích thì trên quảng trường Đỏ trước kia sẽ thành quảng trường tự do, và xung quanh lăng Lênin sẽ là xây dựng thành cửa ra vào một bãi đỗ xe ngầm dưới đất, làm chỗ kinh doanh cho dịch vụ du lịch. Những khách du lịch sẽ đến xem cuộc triển lãm “một trăm năm hoài phí - năm mươi triệu oan hồn” được tổ chức trong điện Kremli, và cuộc triển lãm này sẽ mở cửa vĩnh viễn.
Nic Sơn còn thả trí tưởng tưởng ra viễn cảnh, trong chương 10 cuốn “1999 chiến thắng không cần chiến tranh” rằng người Mỹ “sẽ cầm chắc cái gậy chỉ huy, lãnh tụ thế giới” và đó là chịu trách nhiệm tương lai của nước Mỹ.
Đối với Việt Nam, chúng chủ trương làm thay đổi “định hướng” lãnh đạo, từng bước xây dựng vị trí và thế lực ho các lực lượng chung lựa chọn để diễn biến êm ả, không ây nên những phản ứng ồn áo, chúng dung sự tác động đó hòng tạo ra trong nội bộ Đảng, Nhà nưcớ ta những phe nhóm màu sắc khác nhau, lấy danh nghĩa “dân chủ bàn bạc trên đường lối đổi mới” mà đề xướng những chủ trương xa lạ với bản chất xã hội chủ nghĩa, làm suy yếu địa vị lãnh đạo của Đảng, vai trò, tác dụng của nguyên tắc tập trung dân chủ, làm suy yếu hệ thống chính trị; thực hiện phi chính trị hoá lực lượng quân đội, các cơ quan quyền lực bảo vệ chế độ ta.
Mục tiêu của diễn biến hoà bình là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, thủ tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Biết chắc ở Việt Nam hiện nay không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, chúng tập trung điểm nóng là sự khủng hoảng mô hình chủ nghĩa xã hội. Chúng cho rằng, sự mất ổn định về mô hình tất yếu dẫn đến sự thiếu thống nhất về nhận thức và hành động, tạo ra sự chia sẻ về tư tưởng trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước, sự mất lòng tin trong nhân dân và gây nghi ngờ về con đường đã lựa hcọn.
* Mục tiêu chống phá Đảng ta của chủ nghĩa đế quốc và các thế lục thù địch.
Mỹ và các thế lực thù địch với Việt Nam hiểu rõ rằng, ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta có một sức mạnh vô cùng to lớn. Đó là tiềm lực tinh thần thấm sâu vào dân tộc Việt Nam trở thành lực lượng vật chất và là động lực phát triển xã hội ta suốt từ cuộc cách mạng tháng 8/1946 đến nay. Ý thức chính trị - xã hội chủ nghĩa đó đã và đang được Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng trong cuộc sống và có ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta trước đây, hiện nay và mai sau.
Bởi vậy, các thế lực đế quốc và phản động khi thực hiện “DBHB” ở nước ta ra sức phá hoại nhằm triệt tiêu động lực đó. Nhất là sau sự kiện ngày 11.9.2001, Mỹ điều chỉnh chiến lược an ninh quốc gia, dùng chiêu bài khủng bố để tập hợp lực lượng, đơn phương sử dụng sức mạnh quân sự để “đánh đòn phủ đầu”, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước với mục tiêu “vẽ lại bản đồ thế giới”, thực hiện âm mưu “bá chủ toàn cầu”. Đôpí với nước ta, Mỹ tiếp tục sử dụng chính sách hai mặt. Một mặt, Mỹ thúc đẩy quan hệ hợp tác trên một số lĩnh vực để lôi kéo ta, tạo thế hợp pháp để trở lại Việt Nam và địa bàn khu vực, mặt khác, Mỹ đẩy mạnh thực hiện “DBHB” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Để chống phá Đảng ta, chúng xác định phải chia rẽ nội bộ, bơm to, thổi phồng những mặt yếu kém, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng nảy sinh trong một số đảng viên thoái hoá, biến chất, coi đó là bản chất của Đảng. Chúng ra sức lợi dụng những nơi xảy ra “điểm nóng”, dụng bọn quá khích kích động một bộ phận nhân dân. Chúgn phát tán tài liệu chống Đảng, tung tin thất thiệt, vu khống làm giảm uy tín của Đảng… (chỉ riêng năm 2001, chúng ta đã phát hiện được 3476 tài liệu chiến tranh tâm lý, 43.160 thư ân xá quốc tế; năm 2002, phát hiện 5711 tài liệu chiến tranh tâm lý [ ]
Chúng ra sức tuyên truyền nói xấu ta vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”. Đây là con bài “sáng giá” trong cuộc canh tranh về ý thức hệ giữa các nước phương Tây và các nước xã hội chủ nghĩa. Thông qua bọn phản động người Việt lưu vong lập ra trên 700 tổ chức phản động người Việt, tác động đến chính phủ các nước để gây sức ép với Việt Nam. Chống phá sự hợp tác với Việt Nam, móc nối với bọn cơ hội chính trị, chống đối ở trong nước gửi tài liệu tuyên truyền xuyên tạc tình hình trong nước, đưa lực lượng về nước để tổ chức hoạt động khủng bố, chống phá cách mạng Việt Nam, tạo tâm lý xã hội bất an và tạo cớ cho bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Thông qua các hoạt động thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, kẻ địch âm mưu dùng “DBHB” hòng chuyển hoá ý thức hệ xã hội chủ nghĩa theo “quỹ đạo” tư sản. Chúng reo hy vọng cho hàng triệu người, khiến cho họ mơ tưởngtới xã hội tư bản hiện đại, tự rời bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng bịa đặt ra những cái gọi là “thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin lỗi thời”, “thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin trở nên lỗi thời”; “thuyết thất bại” … Và những luận điệu hoang đường khác. Chúng tâng bốc và đẩy mạnh “đa nguyên hoá chính trị”, cổ vũ “cải cách chính trị”… gây rối loạn trong Đảng, làm suy yếu quyền lãnh đạo, đi đến thủ tiêu tổ chức và vai trò của Đảng.
Song, trên thực tế, chúng không dễ dàng thực hiện được âm mưu “DBHB” nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Cũng như trước đây chúng đã từng tuyên bố “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, “Biến miền Nam Việt Nam trở thành bang thứ 51 của Mỹ”, “năm 1997 sẽ xoá nốt 4 nước xã hội chủ nghĩa còn lại” v.v… và v.v., nhưng chúng đâu có dễ dàng thực hiện được, Tuy nhiên, không vì thế mà chúng dễ dàng từ bỏ những mục tiêu chiến lược “DBHB” đối với nước ta, cũng như đối với các nước xã hội chủ nghĩa khác. Việc chúng có thực hiện được những mục tiêu đó hay không tuỳ thuộc chủ yếu vào bản lĩnh và sức mạnh của chúng ta.
4. Những phương tiện chủ yếu được chủ nghĩa đế quốc sử dụng để thực hiện chiến lược “DBHB”.
Thực hiện “DBHB” chống Việt Nam, các thế lực thù địch tiến hành hoạt động phá hoại điên cuồng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị - tư tưởng, văn hoá, đối ngoại, giáo dục… Trong đó hoạt động phá hoại văn hoá - tư tưởng được chúng coi là hoạt động hàng đầu, là khâu đột phá trong ý đồ đen tối nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Một trong những biện pháp mà cũng là một mũi tấn công cực kỳ lợi hại của toàn bộ chính sách “DBHB” mà các thế lực thù địch đã sử dụng là hệ thống tuyên truyền đại chúng (Mass Media) bao gồm: Đài phát thanh truyền hình, báo chí, phim ảnh…
Chủ nghĩa đế quốc luôn coi bộ máy tuyên truyền đại chúng là công cụ chủ yếu để thực hiện “DBHB”, sự coi trọng tác dụng tuyên truyền của chủ nghĩa đế quốc đã trải qua qúa trình nhận thức, thử nghiệm và đạt được những kết quả nhất định. Tổng thống Mỹ Aixenhao đã từng chỉ rõ : “Chi một đô la cho tuyên truyền bằng chi năm đo la cho quốc phòng”. Ở đây, các đặc điểm của phương tiện thông tin đại chúng được khai thác triệt để : gây ấn tượng nhanh và mạnh; lan truyền nhanh, công khai và âm ỉ; phổ biến rộng. Hoạt động này làm cho đối tượng bị tác động “nói” theo cách nói của chúng, “nghĩ theo cách nghĩ của chúng” (hoặc làm cho đối tượng “nghĩ” theo cách nghĩ mà chúng áp đặt), đi tới làm theo cách mà chúng mong muốn, bác bỏ, phá huỷ những cách nói, cách nghĩ, cách làm đúng đắn, chân chính, xoá bỏ những giá trị tốt đẹp.
Từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá, ráo riết thực hiện âm mưu và thủ đoạn “DBHB” trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên mặt trận văn hoá tư tưởng. Để tiến hành các hoạt động tuyên truyền có hiệu quả, các thế lực thù địch đã sử dụng các phương tiện hiện đại, huy động một lực lượng khổng lồ các phương tiện truyền thông đại chúng để phục vụ cho hoạt động phá hoại Việt Nam.
Ngoài những đài phát thanh dùng để thực hiện cho “DBHB” mang tính toàn cầu như Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA - Voice of American), Đài phát thanh châu Âu tự do (RFE - Radio of frcedom turepe); Đài phát thanh tự do (RF - Radio of frudom), đáng chú ý là từ đầu năm 1997 đến nay, Mỹ lập thêm đài Châu Á tự do, nâng tổng số đài phát thanh có chương trình tiếng Việt ở nước ngoài lên 37 đài. Lý do chủ nghĩa đế quốc lấy đài phát thanh làm công cụ tuyên truyền chính trong chiến lược “DBHB” vì nó có ưu thế riêng biệt so với các công cụ tuyên truyền khác như truyền hình, phim ảnh, báo chí. Nếu như truyền hình bị hạn chế vì điều kiện kinh tế kỹ thuật hay sự lưu thông báo chí, phim ảnh gặp nhiều khó khăn trong sản xuất vận chuyển, truyền bá và còn chịu ngăn cản bời quan hệ ngoại giao văn hoá thì phát thanh là công cụ bị hạn chế tí hơn, hoạt động tự do hơn, giá thành rẻ, diện tích phủ sóng lớn, hiệu quả cao. Chính vì lẽ đó, một trong những văn kiện Nghị viện Mỹ có noi: “Điện đài phát thanh là thủ đoạn duy nhất để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Để làm cho nước ta suy xụp về kinh tế, nhiễu loạn về tư tưởng, suy đồi về văn hoá, kẻ thù bên cạnh việc sử dụng các đài phát thanh còn âm mưu dùng sức mạnh của thông tin báo chí, phim ảnh, văn hoá phẩm độc hại. Đây cũng là thứ vũ khí lợi hại vì nó thẩm thấu từ từ, lặng lẽ, tiến tới triệt tiêu hoàn toàn - một công việc trước đây hàng trăm tỉ USD của chủ nghĩa đế quốc bị “thiêu rụi”. Không ít các dân tộc bị mất dần các giá trị văn hoá ngay chính trên tổ quốc mình. Chỉ có dân tộc nào có nội lực văn hoá mạnh mới vượt qua được sự “bức tử văn hoá” của các phương tiện báo chí truyền thông từ bên ngoài xâm nhập vào do các thế lực thù địch điều khiển.
Trong những năm vừa qua, từ bên ngoài lãnh thổ đã có gần 40 đài phát thanh, truyền hình có chương trình tiếng Việt, gần 500 tờ báo tạp chí in bằng tiếng Việt, trong đó không ít các cơ quan báo chí đưa tin vào chống phá nước ta. Thực tế ấy giúp chúng ta thấy rõ : Việt Nam là một đối tượng đặc biệt được các phương tiện thông tin đại chúng nước ngoài đề cập trên nhiều khía cạnh mà mục tiêu chủ yếu là góp tiếng nói để làm mất ổn định về chính trị, tiến tới làm đảo lộn cuộc kiến thiết hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Hơn nữa, việc báo chí, phim ảnh… hoạt động thiếu định hướng rõ ràng, đúng đắn cũng trở thành một trong những nguyên nhân làm cho xã hội bất ổn định, và làm cho hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng trở nên lộn xộn về tổ chức, lịch lạch về quan điểm chính trị: Đó chính là “mảnh đất màu mớ” để làm chỗ dựa cho chủ nghĩa đế quốc “doạ ma” chúng ta.
Nghiên cứu bức tranh chung về các phương tiện thông tin đại chúng của các thế lực chống phá Việt Nam chúng ta thấy rằng: hàng ngày, hàng giờ, người Việt Nam (kể cả ở nước ngoài) phải nghe ra rả các bài tường thuật, bình luận lạ tai về các sự kiện ở Việt Nam của các đài BBC (Anh), đài WA (Hoa Kỳ), đài FFI (Pháp)… không những thế, còn có đến 5 đài phát thanh của các tổ chức tôn giáo, 11 đài phát thanh thuộc các tổ chức người Việt ở nước ngoài mang nhiều mầu sắc chính trị khác nhau cũng “đổ xô” nói về Việt Nam với những thông tin không trung thực, thiếu khách quan, xa lạ với sự thật đang diễn ra ở Việt Nam. Ai đã có lần nghe các đài phát thanh của người Việt như : Sài Gòn Radio, Việt Nam radio, Việt Nam Califocnia, Diễn đàn dân chủ, Mẹ Việt Nam, Việt Nam tự do (ở Mỹ), Tiếng Việt radio (cộng hoà Séc), Chân trời mới (có địa chỉ liên lạc ở Nhật), chân lý Á Châu (tại một nước châu Á), Hoàn cầu radio (Hồng công)… đều không khỏi giật mình về sự “ác ý”, “ác khẩu”, phi sự thật, đổi trắng thay đen của một số tin tức và chương trình về Việt Nam. Một số người Việt Nam định cư ở nước ngoài sau khi về thăm đất nước đã tâm sự : “có về nước mới biết số đài củabọn tổ chức phản động “phục hưng Việt Nam”, “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam” chuyên nói những điều bịa đặt, ngoa ngoắt không tin tưởng được”. Nhiều Việt kiều trở về tổ quốc cũng cùng chung một suy nghĩ: Về đến tổ quốc mới thây báo chí bên ngoài xuyên tạc bậy như thế nào. Chỉ khổ cho nhiều bà con ta chưa về thăm quê hương nên luôn bị các đài báo này lừa dối.
Có thể nói, hệ thống báo in, báo nói, báo hình tiếng Việt do lực lượng từ bên ngoài tổ chức đã có mặt và phát sóng ở hầu hết các nước có đông người Việt định cư. Trụ sở của các đài này đã có ở các nước. Mỹ, Pháp , Canada, Anh, Cộng hoà Séc, Vaticăng, Nhật Bản và ngay ở các quốc gia và lãnh thổ thân cận Việt Nam như : Thái Lan, Philip pin, Campuchia, Hồng Công, Đài Loan. Mới đây, chính phủ Hoa Kỳ tự cảm thấy các quốc gia châu Á “còn thiếu thông tin”, chưa đủ làm một cuộc “động đất chính trị” nên đã cấp tốc xây dựng thêm đài phát thanh có tên “Châu Á tự do”. Như vậy, hàng ngày sóng của đài phát thanh từ bên ngoài đã “ồ ạt”, “chen lấn”, đổ xô phát tin vào đất nước Việt Nam.
Có thể nói, đây là hàng ngàn “quả bom thông tin” từ vệ tinh viễn thông dội xuống đất nước chúng ta, len lỏi vào tận bàn nước, giường ngủ của từng gia đình, nhằm làm lung lạc tư tưởng và ý chí của toàn dân ta. Kẻ địch coi vô tuyến truyền hình, đài phát và sách báo là phương tiện lợi hại nhất để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Dân tộc ta đã từng làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không trấn động địa cầu”, nhưng ngày nay, cuộc chiến từ trên không với kẻ địch trong âm mưu “DBHB” không thể xem thường vì chúng thâm độc và tinh vi hơn nhiều.
Một nhà nghiên cứu báo chí ở Mỹ đã nói rằng: tính trung bình, người Việt Nam đang có cả ngàn tờ báo lớn, nhỏ trên thế giới, đủ mọi loại và mang nhiều nội dung khác nhau. Đúng vậy, riêng ở Mỹ, hiện nay có hơn 200 tờ báo tiếng Việt từ không định kỳ đến báo tháng, báo tuần; tuần ra 2 số, ba số. Có 3 tờ báo ra hàng ngày ở Califoclia như : Người Việt, Việt Nam nhật báo, Việt Nam thời báo. Ở Canada, nước láng giềng của Mỹ cũng có tới 26 tờ báo tiếng Việt lớn, nhỏ với những cái tên như : Lửa Việt, Nắng mới, Trăm con, Gió mới, Đất mới, Đất Việt, Làng Văn… ở Châu Âu chỉ riêng tại nước Pháp cũng có tới hơn 30 tờ với chung cái tên : Thông luận, Quê mẹ, Nhân bản, Trắng - đen, Công luận, Tiếng gọi dân tộc. Ở Cộng hoà Liên Bang Đức cũng xuất hiện những tờ báo như : Độc lập, Đối thoại, Thiện chí…
Đó là chưa kể báo chí điện tử đang xuất hiện ở Mỹ do một số người Việt trẻ tuổi lập ra được gọi là “Mạng tin tức Việt Nam”. Họ rất quan tâm đến tình hình chính trị trong nước và sẵn sàng cung cấp thông tin miễn phí cho báo chí, hay cho các tổ chức phản động ở Pháp, Canada, Ôxtrâylia… Ngoài ra, còn có các bản tin miễn phí “Quốc gia thông tấn xã”, “Tin Biển”, “Tin miền Nam”.
Điểm qua một số nét về các phương tiện thông tin đại chúng sử dụng tiếng Việt ở nước ngoài, ta thấy bức tranh này khá mầu sắc, rất phức tạp và lộn xộn. Phải nói ngay rằng, đa phần các đài phát thanh truyền hình, báo chí bằng tiếng Việt đều bị các thế lực thù địch, các Đảng phái, hội đoàn, tổ chức của một số ít người Việt phản động lợi dụng để chống phá Nhà nước Việt Nam. Một số người trong ngành truyền thông ở chính các nước sở tại đã hợp tác chặt chẽ với các tổ chức của người Việt trong các hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam, cố ý tạo thành một mạng lưới, một diễn đàn chính trị với mục tiêu “chống chính quyền cộng sản Việt Nam”.
Cũng cần phải nhìn nhận khách quan rằng, không phải tất cả các báo, đài phát thanh tiếng Việt được xuất bản và phát sóng ở nước ngoài cùng chung một mục tiêu chống phá nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng phần lớn các phương tiện thông tin đại chúng này đã bị các thế lực thù địch, phản động bỏ tiền ra để lũng loạn, mua chuộc, chiếm đoạt cả toà soạn. Lênin từ lâu đã cảnh tỉnh. Quyền của bọn nhà giầu là tự do mua chuộc báo chí, tự do dùng tiền để tạo ra và giả mạo cái gọi là dư luận xã hội. Thực chất, đó là thử tự do báo chí cho bọn phản động, tự do giả dối để lừa bịp quần chúng nhân dân lao động. Đó là thứ tự do báo chí nhằm làm tăng lực lượng của các thế lực thù địch chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam. Lênin nhắc nhở chúng ta rằng : cho đến ngày nay, giai cấp tư sản và bọn phản động vẫn chưa chết, chúng vẫn còn sống, chúng ở cạnh chúng ta và đang rình chúng ta. Thông tin, báo chí của chúng ta sẽ trở thành một vũ khí trong tay giai cấp tư sản đó.
Lời dạy của Lênin vẫn còn nguyên tính thời sự nóng hổi, cấp bách đối với chúng ta. Được sự hà hơi, tiếp sức của bọn tư bản các đài phát thanh, tờ báo của những tổ chức “Hội Đoàn”, có truyền thống chống cộng đã đi tiên phong trong việc phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng coi những hành vi này là một công việc để kiếm sống ở hải ngoại. Chúng sử dụng báo chí để đăng những bài báo, tranh ảnh nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình thực tế ở Việt Nam, làm cho nhiều bà con xa Tổ quốc lâu năm hiểu sai về tình hình đất nước hiện nay.
Đối với nhân dân trong nước, một mặt các thế lực phản động phát sóng, phát thanh vào đất nước ta hàng ngày, hàng giờ; mặt khác một khối lượng lớn các tờ báo, mảnh báo, tài liệu có nội dung phản động được xâm nhập bí mật vào trong nước bằng nhiều hình thức : qua bưu điện, cửa khẩu, thông tin truyền fax… nghĩa là bằng nhiều con đường, miễn sao tài liệu xấu lọt vào Việt Nam càng nhiều càng tốt. Chúng muốn làm tất cả miễn là phá vỡ được con đường cách mạng đúng đắn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn.
* Những thủ đoạn, chính sách của bộ máy tuyên truyền đại chúng của chủ nghĩa đế quốc.
+ Lập lờ, lấp lửng làm ra vẻ khách quan, công bằng.
+ Lấy hiện tượng làm bản chất, lấy cục bộ, tiểu tiết làm cái toàn thể, tổng thể.
+ Cắt xén sự thật, chú ý “tìm chỗ ngứa” để “gãi”.
+ Lách vào những khuyết điểm, sai lầm, yếu kém sơ hở cảu ta.
+ Kích động với các cấp độ khác nhau.
Làm cho nhân dân thờ ơ với đất nước và cuộc sống.
Xúi giục thái độ phi chính trị.
Gây tâm lý bất mãn, chán chường đi tới chống đối chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chúng rất chú ý “phổ biến kinh nghiệm” trong các vụ việc xảy ra, chẳng hạn như ở Thái Bình, Đồng Nai (Làng Trà Cổ).
Có thể nêu ra những thủ đoạn chính mà các lực lượng thù địch đặc biệt chú ý sau đây :
+ Chúng ca ngợi những việc làm “thân hữu” với Việt Nam, nhằm gây nên trong đối tượng bị tác động thái độ thiện cảm với chúng.
+ Tăng cường tuyên truyền nền văn minh phát triển, mức sống và lối sống tư sản, hòng tạo nên sự ngưỡng mộ đối với chúng.
+ Chú ý tác động nhằm chinh phục những phần tử thoái hoá, biến chất tham nhũng, nhiều tham vọng cá nhân, cơ hội chủ nghĩa. Chúng khéo léo đề cao cái “tôi” kiểu Phương Tây gắn với “dân chủ”, “tự do” kiểu phương Tây.
+ Ra sức đưa nhanh những tin tức về tình hình nước ta, nhất là tình hình nội bộ của ta, gây tâm lý tin cậy về sự “nhanh nhạy” của chúng, về “khả năng khai thác thong tin” của chúng, và nghi ngờ ta bưng bít thông tin.
Như vậy, “thực đơn DBHB” qua các phương tiện thông tin đại chúng của các thế lực thù địch ngày càng đa dạng, nhiều mầu sắc, luôn được “cải thiện”, lắm ngón nghề. Chúng không chỉ nói đến chính trị, mà còn nói đủ cả khoa học, văn chương, nghệ thuật, hàng hoá và cả những “sưu tầm” chuyện lạ để câu khác.
Chúng ta cần cảnh giác rằng, giọng điệu của các phương tiện thông tin đại chúng thù địch với ta thường ít gay gắt, ít trắng trợn hơn so vớithời kỳ chiến tranh. Đây là một điểm khác biệt với báo chí của người Việt phản động lưu vong: cay cú và thù hận với dân tộc và chế độ ta.
5. Các phương pháp chủ yếu thâm nhập văn hoá tư tưởng ở Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc trong chiến lược “DBHB”.
Phương pháp 1 : Chủ nghĩa đế quốc dùng vấn đề tự do, dân chủ tư sản, vấn đề đa nguyên chính trị gây sức ép đòi Nhà nước Việt Nam thay đổi bản chất chế độ.
Từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã bảy tỏ quan điểm, thái độ của chúng ta đối với các vấn đề tự do, dân chủ tư sản và vấn đề đa nguyên chính trị. Cần chống khuynh hướng vô chính phủ, dân chủ tư sản… Chúng ta khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng, đa chính trị. đó là sự khẳng định đúng đắn, có cơ sở lý luận và thực tiễn” [11- 125, 126].
Từ năm 1986 trở lại đây các thế lực thù địch trong và ngoài nước dấy lên một phong trào tuyên truyền cho tự do, dân chủ tư sản, thậm chí họ còn đặt điều kiện cho bình thường hoá quan hệ. Cựu tổng thống Mỹ - Nich Sơn có quan điểm là “tự do, dân chủ, nhân quyền” là con bài sáng giá trong cuộc đấu tranh về ý thức hệ mạnh mẽ nhất đối với các nước xã hội chủ nghĩa và Việt Nam. Hiện nay, Mỹ cho rằng Việt Nam không theo đường lối đa đảng, không theo tư bản chủ nghĩa nên đã tìm mọi thủ đoạn để làm cho những người cộng sản mơ hồ, mất phương hướng. Thủ đoạn phổ biến để tiến công tư tưởng vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là :
+ Lợi dụng triệt để những sai lầm, thất bại của Liên Xô và Đông Âu để “chớp thời cơ”, khuynh hướng cái gọi là “thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa tư bản”, vu cáo, xuyên tạc sự thật bằng cách khai thác những thông tin có thật nhưng bị cắt xén, thêm thắt những nội dung xấu.
+ Lợi dụng triệt để những sai lầm trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam để kích động nhân dân chống chế độ xã hội chủ nghĩa.
Suốt từ những năm 1975 đến nay, khi tiến hành các hoạt động tuyên truyền chống Việt Nam, dù bằng hình thức này các thế lực thù địch cũng đặc biệt chú ý lợi dụng và khoét sâu những yếu kém, những sai lầm trong hoạt động của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chủ nghĩa đế quốc cho rằng, “là một trong những nước cộng sản còn lại ở Châu Á, Việt Nam có lẽ là một quốc gia có nền chính trị lỗi thời nhất châu Á hiện bat, Trong khung cảnh vai trò chủ chốt về kinh tế và chính trị của khu vực, dân chủ hoá ở Việt Nam là rất quan trọng đối với nhân dân Việt Nam và sự lớn mạnh của khu vực. Do vậy, chính phủ Việt Nam cần chấp nhận những hình thức tự do chính trị, đa nguyên đa đảng”.
Chúng ta biết rằng, chủ nghĩa đế quốc thúc đẩy “Đa nguyên hoá chính trị”, “chế độ đa đảng”, “chế độ phân quyền” ở Việt Nam là nhằm mục đích gieo rắc sự bất bình trong công chúng với Đảng Cộng sản và Nhà nước. Chúng kích động những lực lượng xã hội vốn không hoà hợp với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ nhièu năm qua đứng lên chống chế độ xã hội chủ nghĩa; ra sức tung “hoả mù” và thuyết phục các thế lực phản động trong và ngoài nước nổi dậy đòi chia quyền.
Chúng lợi dụng tầng lớp trí thức để chống lại nhân dân lao động, khuyên Việt Nam nên tiếp nhận những quan điểm phi mác xít về con đường phát triển của một “thế giới mới”. Để thực hiện chiến lược “Phương Tây hoá cả gói” trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc đã dụng mọi thủ đoạn hết sức tinh vi và khôn khéo như việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền ý thức hệ tư sản, thổi phồng quan niệm giá trị, “tự do, dân chủ, nhân quyền”, về “bình đẳng, công bằng, bác ái” của giai cấp tư sản, chúng còn đẩy nhanh việc thâm nhập văn hoá tư tưởng bằng đủ mọi hình thức: công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp; thông qua giao lưu dân gian và con đường ngoại giao.
Trong vài năm qua thông qua quan hệ hợp tác đào tạo, khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ đã từng bước lôi kéo cán bộ, đảng viên âm mưu đào tạo lớp người thân phương Tây ở Việt Nam. Cần lưu ý là chúng rất chú ý đến việc lựa chọn số con em các cán bộ chủ chốt, số cán bộ trẻ có năng lực, số văn nghệ sĩ, trí thức cấp tiến… để cho ra nưcớ ngoài đào tạo, nhằm đạt được các mục đích lâu đai. Nich Sơn ngạo mạn tuyên bố rằng: nếu như “tư tưởng tự do phương Tây chỉ cần chiếm lĩnh được trận địa tư tưởng trong các nước xã hội chủ nghĩa, ươm trồng được “những hạt giống tự do” thì tư tưởng tự do ấy sẽ đạp bằng mọi chướng ngại trên đường, phá tan mọi cánh cửa nhà lao, bóp chết và làm tan rã mọi nền chuyên chính tàn bạo” mọi cách khác, tư tưởng tự do hoá tư sản phương Tây sẽ lay chuyển cả nền móng các nước xã hội chủ nghĩa và cuối cùng sẽ lay chuyển cả thế giới vô sản… “ [19 - 167].
Như vậy, cái gọi là “tự do, dân chủ tư sản, đa nguyên hoá chính trị” mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đưa ra thực chất là “cấy” vào xã hội ta những nền tảng tư tưởng chống chủ nghĩa xã hội và tạo thế cho các lực lượng phi xã hội chủ nghĩa phát triển và có chỗ đứng ở Việt Nam. Đến một lúc nào đó, khi có thêm “chất xúc tác” vào, các lực lượng này sẽ là những nhân tố tạo ra “ngòi nổ” làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, đây chính là phương pháp và công cụ chủ yếu của chiến lược “DBHB” mà các thế lực phương Tây tiến hành trong các nưcớ xã hội chủ nghĩa và ở Việt Nam.
Phương pháp 2 : Chủ nghĩa đế quốc sử dụng mạng lưới tình báo gián điệp trong “DBHB” chống phá Việt Nam.
Trong qúa trình thực hiện “DBHB” đối với Việt Nam, với kinh nghiệm “dùng cộng sản để chống cộng sản”, “dùng cộng sản để lật đổ cộng sản”, các thế lực thù địch rất chú trọng sử dụng các hoạt động ngầm. Tổ chức các đường daay tình báo gián điệp, vừa chống ta từ bên ngoài, vừa tìm mọi cách xâm nhập nội bộ ta gây cơ sở và hoạt động chia rẽ, phá hoại từ bên trong.
Hoạt động ngầm trong chiến lược “DBHB” đã được Mỹ và các thế lực thù địch tiến hành ngay từ khi khởi thao “kế hoạch hậu chiến” (1968). Để thực hiện “DBHB”, chúng huy động cả một hệ thống cơ quan mật vụ chỉ đạo hoạt động, thực hiện kế hoạch đối với từng nước mà các thế lực thù địch gọi là “hàng rào dân chủ”. Những năm gần đây, chúng chủ trương thông qua các tổ chức mang tính chất “phi chính phủ” để thực hiện các hoạt động tình báo. Bằng mọi cách làm, các thế lực đê quốc Mỹ và phản động quốc tế đã được Quốc hội Mỹ chi 35 triệu USD năm 1994 cho tổ chức hỗ trợ quốc gia vì dân chủ của Mỹ, trong đó chương trình “vận động dân chủ cho Châu Á” chi ngân sách Mỹ năm 1994 là 1,3 triệu USD.
Tổ chức “vận động dân chủ” của Mỹ tác động vào Việt Nam có hệ thống phối hợp hoạt động da dạng từ “Viện cộng hoà quốc tế” (IRI), “Trung tâm doanh nghiệp tư nhân quốc tế” (CIEF), đến “Viện dân chủ quốc gia” trực thuộc Đảng dân chủ. Các tổ chức này đã hoạt động ở các nước : Miến Điện, Campuchia, Thái Lan, Việt Nam, Xrilânghiên cứu, Băng-La-Đét…
Tổ chức phi chính phủ quan trọng nhất đó là “quĩ quốc gia vì dân chủ” (national. Endowent for Democracy. NEFD). Theo đánh giá của Thời báo Newyork time, quỹ này chính là một tổ chức được lập ra “để tránh hiện tượng nghi vấn cho rằng công việc nàh (dân chủ hoá) là do chính phủ Mỹ nhúng tay vào”. Như vậy, thực chất hoạt động của N
NEFD chỉ nhằm hợp pháp hoá, công khai hoá hoạt động tình báo của chúng mà thôi.
Hoạt động của các cơ quan mật vụ thực hiện “DBHB” đối với Việt Nam trong giai đoạn này chủ yếu là nhằm tác động vào nội bộ ta, gây mất ổn định và thúc đẩy hình thành các nhân tố chống đối từ bên trong.
Hoà đồng với chiến dịch “Cho một Việt Nam tự do” của chủ nghĩa đế quốc, các nước phương Tây còn nuôi dưỡng, dung túng cho các tổ chức phản động trong số kiều dân Việt Nam đang định cư ở nước ngoài tiến hành các hoạt động tuyên truyền chống lại Tổ quốc. Trong đó, chúng lập ra cái gọi là “Liên minh các phong trào đấu tranh giành tự do và dân chủ cho Việt Nam”, nhằm tập hợp mọi lực lượng chống cộng, đề ra “cương lĩnh canh tân”, kêu gọi các lực lượng trong nước nổi dậy vào ngày 30-4 hàng năm. Trên thực tế, các lực lượng thù địch bên ngoài này đã làm hậu thuẫn cho các phẩn tử chống chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cả vật chất lẫn tinh thần, chúng còn hướng dẫn phương kế hoạt động, soạn thảo, in ấn tài liệu dùng để phá hoại tư tưởng như các tài liệu lập luận về đa nguyên, đa đảng, về tự do dân chủ tư sản… rồi gửi vào trong nước cho bọn phản động nội địa sử dụng, hoạt động.
Cùng với hoạt động ngầm trong chiến lược “DBHB” nhằm phá hoại sự ổn định về chính trị, cản trở sự phát triển về kinh tế - xã hội và gây bạo loạn lật đổ, gần đây các thế lực thù địch đã phát triển chiến thuật hoạt động kết hợp với phương thức bất bạo động dưới danh nghĩa “hoà hợp, hoà giải dân tộc”, “hợp tác” với Đảng Cộng sản Việt Nam để xây dựng đất nước. Đồng thời, được sự hỗ trợ từ bên ngoài chúng tiến hành gây sức ép với Nhà nước ta nhằm tựhc hiện qúa trình “dân chủ hoá Việt Nam” tiến tới xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Phương pháp 3 : Chủ nghĩa Đế quốc sử dụng lá bài “nhân quyền” để phá hoại tư tưởng đối với Việt Nam.
Sau ngày 30.4.1975, các nước phương Tây mà trước hết là Mỹ đã dung lên vấn đề “nhân quyền ở Việt Nam”. Ngày 2.7.1993 khi Tổng thống Mỹ B.clintơn tuyên bố là Mỹ không ngăn cản IMF giải quyết vấn đề vay nợ của Việt Nam, ông ta còn nói là sẽ nêu lên với phía Việt Nam những lo ngại về nhân quyền đang ciễn ra và thúc ép có sự tiến bộ trong các lĩnh vực về tự do, dân chủ và cải cách kinh tế cơ bản.
Dự luật số 954 của Thượng Nghị Viện Mỹ được thong qua ngày 23.9.1993 đã thể hiện quan quan điểm của Mỹ về “Nhân quyền” và “dân chủ” tại Việt Nam, trong đó nhấn mạnh tới “yêu cầu thúc đẩy cải cách dân chủ”, cải thiện nhân quyền thế giới, đòi Việt Nam cần có “Tự do chính trị”, “Tôn trọng quyền con người” và có một chính phủ dân chủ… Như vậy, có thể khẳng định cái gọi là “nhân quyền” chỉ là chỗ dựa để thế lực thù địch tuyên truyền phá hoại Việt Nam trong nhiều năm qua. Hay đây chính là cái cớ để chúng tuyên truyền kích động trong nhiều năm qua. Hay đây chính là cái cớ để chúng tuyên truyền kích động dư luận thế giới cô lập Việt Nam, reo rắc sự nghi ngờ trong các công dân Việt Nam đối với Nhà nước. Đồng thời, kích động và khơi dậy sự phản kháng mà lâu nay đã được giải toả trong số những người cộng tác với chế độ cũ hiện đang còn lại ở Việt Nam.
Trong cái gọi là vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, ngoài những luận diệu xuyên tạc về tình hình, vu cáo chúng ta đàn áp những người đã cộng tác với chính quyền cũ, cái thế lực thù địch còn đề cập, xuyen tạc chính sách của Nhà nước ta về tôn giáo, dân tộc; xuyên tạc chính sách giới văn nghệ sĩ.
Đây là những vấn đề diễn ra rất phức tạp ở Việt Nam. Thông qua “vấn đề “nhân quyền”, thực chất các thế lực chống Việt Nam muốn tìm cớ để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chúng âm mưu tạo ra sự bất bình chống lại Nhà nước trong tầng lớp nhân dan, dồn mũi nhọn của dư luận vào bộ máy Nhà nước ta.
Mặc dù Hiến chương Liên hiệp quốc qui định rõ quan hệ ngoại giao giữa các nước cần phải “tôn trọng nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hoà bình”… Nhưng Mỹ tìm mọi cách lợi dụng danh nghĩa ngoại giao nhân quyền để can thiệp vào Việt Nam, chúng còn mang quân đi can thiệp và đàn áp dân tộc khác và ngay cả với nhân dân mình.
Theo thóng kê tren toàn nước Mỹ, ít nhất có đến hai triệu người không nơi cư trú, hàng năm có hàng triệu thanh niên bỏ nhà ra đi, lang thang đầu đường xó chợ, nạn phân biệt chủng tộc vẫn chưa được giải quyết tận gốc, sự bình đẳng giữa người với người chỉ là một lời nói xuông, sự phân hoá giầu nghèo ngày càng nghiêm trọng…
Chính phủ Mỹ không có cách nào giải quyết nổi những vấn đề tren, cũng không đảm bảo được sự an toàn tối thiểu về sinh mạng và tài sản của nhân dân Mỹ. Thủ đô Oasinh tơn, một thành phố được mệnh danh là đẹp nhất, văn minh nhất lại đầy rẫy những tội ác và nạn khủng bố… thì làm sao Mỹ có thể nhân danh “nghĩa vụ cao cả” bảo vệ quyền chân chính, tự do cho mọi người - chẳng qua đó chỉ là sự giả dối “đánh lận con đen” của tên “sen đầm quốc tế” mà thôi.
Nhà nước Việt Nam luôn luôn tôn trọng nhân quyền, việc các thế lực thù địch dung lên cái gọi là “vấn đề nhân quyền” ở Việt Nam là sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của chúng ta, là điều kiện để ép ta thoả hiện, nhượng bộ về chính trị, hay đổi đường lối để đi theo quĩ đạo của chúng.
Vì vậy, để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội vững mạnh ở Việt Nam, Đảng và nhân dân ta phải luôn cảnh giác với luận điệu lừa bịp của CNĐQ về vấn đề nhân quyền.
Phương pháp 4 : Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động ra sức tấn công phá hoại ý thức đạo đức, ý thức them mỹ của dân tộc Việt Nam.
- Về đạo đức :
Thực hiện “DBHB” ở Việt Nam, CNĐQ và các thế lực phản động coi việc phá hoại ý thức đạo đức dân tộc, đạo đức XHCN là một trong những Phương pháp hữu hiệu và nhanh nhất. Những thứ nọc độc “chủ nghĩa hiện sinh”, chủ nghĩa thực dụng” đã thúc đẩy dục vọng cá nhân và phát triển chủ nghĩa cá nhân, hòng lôi cuốn mọi người vào lối sống ích kỷ hưởng thụ, xa lìa đồng bào, gia đình, thầy trò, bố mẹ, con cháu… đến lãng quân nghĩa vụ đối với tổ quốc và đối với quan hệ xã hội văn minh, văn hoá. Mọi hành vi vô đạo đức, chạy theo đồng tiền tham nhũng, buôn lậu, cố ý làm trái pháp luật và những hành vi phạm pháp khác… được các thế lực “DBHB” khuyến khích, lợi dụng khai thác mặt trái của cơ chế thị trường, của mở cửa để tạo cho an ninh- trật tự xã hội không ổn định, tạo ra lớp người cơ hội trong xã hội “Tát nước theo mưa”, như là hiện tượng tất yếu của thời cuộc.
Hoạt động ở Liên Xô, Đông Âu trước đây và hoạt động ở các nước XHCN hiện nay, thế lực “DBHB” đang đánh vào giá trị đạo đức, tức là đánh vào ga trị tinh thần thiêng liêng nhất của một quốc gia, dân tộc hòng làm mất đi sức sống tinh thần và sức mạnh truyền thống đoàn kết - cội nguồn của mọi thắng lợi trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh xã hội, xây dựng giải phóng quốc gia dân tộc mình bằng những chuẩn mực đạo đức, lối sống và lẽ sống.
Khi những chuẩn mực đạo đức, lý tưởng cuộc sống bị đảolộn ở đất nưcớ đối phương là thời cơ để chúng tiến công xâm nhập. Và khi chuẩn mực đạo đức, lý tưởng đã mất thì pháp luật cho dù đã có truyền thống kỷ cương nhất ở một quốc gia dân tộc cũng sẽ bất lực trong quản lý xã hội, mất tác dụng trong sự nghiệp bảo vệ một chính thể, một chế độ xã hội.
Vì từng công dân cụ thể, khi đã sa đoạ về phẩm chất đạo đức thì khó tránh khỏi sự sa đoạ về chính trị khi cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang là một trong những động lực phát triển xã hội thực hiện mà ngày nay loài người đang trải qua. Vì vậy, chúng tìm mọi cách làm tha hoá đạo đức, lối sống thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
- Về pháp luật.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân lấy liên minh giữa GCCN với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng ta lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền của ta mang tính GCCN, cho nên nhà nưcớ ấy mang tính nhân dân sâu sắc. Pháp luật của nhà nước luôn luôn phản ánh ý chí của nhân dân ta hướng tới CNXH.
Mỹ và các thế lực thù địch tiến hành “DBHB” tấn công vào ý thức pháp luật của ta, nghĩa là tấn công vào quyền lực của nhân dân, tấncông vào chế độ ta. Chúng vu khống chế độ ta không có tự do, dân chủ; không tôn trọng nhân quyền; vu cáo đàn áp những người bất đồng chính kiên mỗi khi chúng ta trừng trị những kẻ vi phạm pháp luật. Dưới chiêu bài “Quyền con người” chúng kích động tình trạng bất tuân pháp luật, làm rối trật tự an ninh trên đất nước ta.
- Về nghệ thuật:
Tiến hành “DBHB” hớn nửa thế kỷ qua, kẻ thù đã chi không ít tiền của và công sức cho các hoạt động phá hoại của chúng tra trên lĩnh vực đặc biệt quan trọng này.
ý thức them mỹ coi nghệ thuật là biểu hiện cao nhất của mối quan hệ them mỹ giữa con người với thực hiện. Nó phản ánh thoả mãn đời sống tinh thần của con người bằng cái đẹp, cái cao thượng làm cho cái đẹp phát triển rực tỡ trong nghệ thuật, thực chất là các nghệ sĩ đưa cái đẹp từ cuộc sống vào các tác phẩm nghệ thuật. Sáng tạo những hình tượng nghệ thuật cao đẹp và phong phú về xã hội không chỉ góp phần tô điểm cho cuộc sống xã hội mà chủ yếu góp phần phát triển sâu sắc cuộc sống với các chức năng của nó : chính trị - giáo dục - đạo đức.
Trong lịch sử xã hội xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh giữa hai con đường, hai hệ tư tưởng giữa hai giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên mặt trận them mỹ chưa lúc nào dừng, cũng bởi vì cuộc sống con người thúc bách. Mọi cái đẹp của nhân dân lao động, của các quốc gia dân tộc XHCN luôn luôn là mục tiêu phá hoại của CNĐQ với những phương thức và biện páhp được chuẩn bị chu đáo.
Bằng mọi thủ đoạn gây ra sự lộn xộn giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác… bọn đế quốc hòng làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ta về thẩm mỹ văn hoá, đạo đức dân tộc ngày càng sa sút.
Thay vào món ăn tinh thần đó “văn hoá chợ đen”, sách báo băng hình với những quan điểm lỗi thờivà những khuynh hướng nghệ thuật tạo ra những thị hiếu tinh thần thấp hèn phục vụ mưu đồ chính trị nhằm chuyển hoá chế độ XHCN. Việt Nam với tư cách là một quốc gia có chủ quyền, luôn ngăn chặn và không cho phép những chấtg độc tinh thần tư sản và những cặn bã văn hoá phương Tây được tự do xâm nhập. Vì vậy, con đường them thấu đó vào nước ta không thể đi bằng con đường giao lưu quốc tế bình thường và ngoại giao chân chính, mà chủyêú thông qua con đường bí mật văn hoá lậu và “văn hoá nhập trái phép”.
Chúng ta biết rằng cái đẹp đã và đang có mặt trong thái độ và năng suất lao động trong đổi mới, mở cửa, cớ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước; trong ý thức và hiệu quả chiến đấu bảo vệ tổ quốc, trong đấu tranh chống tội phạm; trong công tác học tập, nghiên cứu ứng dụng KH-KT; trong niềm tin và lối sống dân tộc văn minh, văn hoá… Cái đẹp, ý thức them mỹ đang làm chức năng của một đối tượng mang tính xã hội rộng lớn. Do cuộc sống thực tiễn đòi hỏi mà Đảng, Nhà nước ta, nhân dân ta ra sức đẩy lùi cái xấu, đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực, vừa tấn công tội phạm vừa nêu cao những tấm gương đẹp trong mọi mặt hoạt động xây dựng đất nước giầu mạnh, công bằng, văn minh theo hướng XHCN, lật đổ ý đồ thâm độc của CNĐQ trong chon lược “DBHB”.
Phương pháp 5 : Chủ nghĩa đế quốc lợi dụng thế lực tôn giáo, gây mâu thuẫn dân tộc hòng làm tan rã vai trò lãnh đạo của ý thức hệ mác xít.
Dân tộc và tôn giáo là những vấn đề vốn tự thân đã chứa đựng những phức tạp. Một khuynh hướng khác chống Việt Nam của CNĐQ và các thế lực thù địch trong “DBHB” là tập hợp ll phản động trong tôn giáo, dân tộc ít người, lợi dụng tín ngưỡng, kích động chống CNXH.
Trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, CNĐQ đã gây ra nhiều cuộc xung đột về sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, và gây mất ổn định ở nhiều nơi, đỉnhcao là cao trào lưu đòi ly khai, tự trị ởNga, Inđônêxia, Nam Tư, Mác xê đô nia…
ở Việt Nam, vấn đề dân tộc thường gắn lion với vấn đề tôn giáo. Mỹ đã lợi dụng các tôn giáo như Đạo Thiên chúa, Đạo Phật, Đạo tin lành, Các tôn giáo này chi phối nhiều mặt đời sống xã hội, là chỗ dựa để thâm nhập, tiến hành “DBHB” ở Việt Nam. Lợi dụng chính sách cải cách, mở cửa của ta, chúng đẩy mạnh nhiều hoạt động chống phá từ bên ngoài vào các vùng dân tộc thiểu số như ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam. Mốtố tên phản động cầm đầu đã bộc lộ rõ hoạt động móc nối liên lạc với bọn phản động nguỵ quân, nguỵ quyền trước kia kích động chia rẽ; móc nối với các tổ chức phản động người Việt lưu vong nhất là ở Mỹ để nhận chỉ thị, tài trợ rồi tổ chức tiến hành các hoạt động phá hoại: Chúng xuyên tạc sự thật, ra sức rêu rao rằng ở Việt Nam, người dân tộc bị áp bức, không có quyền bình đẳng, để nhằm tác động tư tưởng đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
- Về vấn đề dân tộc :
Những nằm gần đây, hoạt động “DBHB” của Mỹ nhằm làm phức tạp thêm đến các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong đó nổi lên là vùng dân tộc ở Tây Nguyên, vùng dân tộc Châmp ; vùng dân tộc H’Mông, vùng dân tộc Thái; vùng dân tộc khác. Mỹ và các thế lực thù địch thường tập trung vào những xu hướng sau đây:
+ Lợi dùng và kích động xu hướng chia rẽ dân tộc, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, kỳ thị, đòi ly khai (điển hình là đòi thành lập Nhà nước Đề - giải quyết độc lập của người Thượng ở Tây Nguyên), tập hợp ll phản động trong các dân tộc thiểu số, kích động số người ra đi bất hợp pháp, gây rối loạn về chính trị, kinh tế, xã hội để tạo cớ can thiệp vào Việt Nam.
Lợi dụng những vấn đề phức tạp do lịch sử để lại, khơi dậy những hận thù dân tộc, kích động tư tưởng đòi tự trị dưới các khẩu hiệu : “Giải phóng cao nguyên Đề - giải quyết”, “Người Khơ me về Campuchia”, đòi tự trị cho 16 Châu Thái…
Lợi dụng những sai sót của ta trong việc thực hiện chính sách dân tộc và những khó khăn gay gắt trong đời sống hiện tại của đồng bào các dân tộc thiểu số, để xuyên tạc, đả kích gây hoài nghi với chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta. Qui mọi khó khăn nghèo đói, sự chậm phát triển ở vùng cao dân tộc là do Nhà nước khôngquan tâm đến vấn đề dân tộc, do người kinh chiếm đất, đồng hoá dân tộc…
Đặc điểm nổi bật trong đời sống xã hội của các dân tộc thiểu số là sự tồn tại của lớp ngườ được quần chúng suy tôn, tín nhiệm tự nguyện hay theo sự ràng buộc của phong tục tập quán. Họ thường được đồng bào tìm đến bày tỏ tâm tư nguyện vọng. Lợi dụng điều đó, Mỹ và các thế lực thù địch rất chú ý lôi kéo những người có ảnh hưởng lớn trong dân tộc thiểu số để tạo dung “Ngọn cờ”, thông qua đó nắm quần chúng tập hợp ll.
- Về vấn đề tôn giáo.
Mặc dù chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã được quần chúng có đạo và quần chúng không theo đạo thực hiện tốt đẹp trong lịch sử Việt Nam từ trước đến nay, nhưng kẻ địch luôn âm mưu và hoạt động chống phá. Khi hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, Polgar - Phó đại diện Mỹ, trim CIA ở Sài Gòn đã nhận định “Sau này Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam thì ll đấu tranh với Việt cộng chủ yếu là các tôn giáo, còn các Đảng phái thì không có ll” [28 -67].
Hồng y Rossi, bộ trưởng truyền giáo của Vaticăng năm 1974 sang thị sát tình hình giáo hội thiên chúa miền Nam Việt Nam, cũng kết luận : “Gíao hội miền nam Việt Nam chống cộng sản đến cùng bằng vũ lực là sai lầm và sẽ thất bại. Nội bộ giáo hội miền Nam Việt Nam đầy rẫy mâu thuẫn, chưa chuyển hướng hoạt động thích hợp để sẵn sàng đối phó với cộng sản khi chiến tranh kết thúc” [28 - 67].
Từ năm 1975 đến nay, do bị tác động chỉ đạo từ bên ngoài vào, các thế lực lợi dụng đạo thiên chúa ởvn đã liên tiếp hoạt động tuyên truyền ý thức hệ độc lập, gây mâu thuẫn giữa những người theo đạo với chính quyền và nhà nước ta.
Cùng với sự chuẩn bị về tư tưởng, các thế lực thù địch tìm mọi cách tài trợ cho bọn phản động tang nước nhằm củng cố, phát triển tôn giáo, tạo ra lực lượng tại chỗ để triển khai các hoạt động chống Việt Nam. Chúng tìm cách nâng cao vai trò của giáo hội với ý đồ tách giáo hội ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, công khai đòi tự do cho các hoạt động của tôn giáo để làm cơ sở pháp lý trong việc đấu tranh với Nhà nước ta. Chúng lợi dụng đổi mới, dân chủ để hợp pháp trong việc đấu tranh với Nhà nước ta. Chúng lợi dụng đổi mới, dân chủ để hợp pháp hoá về tổ chức, khôi phục các hội đoàn tôn giáo, phát triển tín đồ; mở rộng địa bàn hoạt động vào các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa… Hoạt động này được sự chỉ đạo và tảitợ từ bên ngoài như Vaticăng và tổ chức tôn giáo lưu vong (nhất là mặt trận Liên tôn).
ngoài những tôn giáo được Nhà nước ta công nhận (Thiên chúa giáo, Phật giáo, Tin lành, Cao đài, Hoà hảo và Hồi giáo), trong những năm gần đây ở nước ta đã phát triển thêm những đạo mới từ nước ngoài vào mang tính chất tạp giáo, tà giáo như : Đạo Quang Minh, Đạo bà Hai, Thanh Hải vô thượng sư, Long Hoa Di lạc… ở Cao Bằng và một số nơi khác chúng dung lên cái gọi là “Đạo Bác Hồ” để lôi kéo quần chúng tham gia. Những tạp giáo này có xu hướng phát triển, lan rộng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, đe doạ an ninh quốc gia.
Những năm gần đây, Toà thánh Vaticăng cùng các tổ chức tôn giáo phản động lưu vong tích cực can thiệp vào công việc nội bộ của ta, đặc biệt là trong viẹc xắp xếp nhân sự, bổ nhiệm chức sắc giáo hội ở các giáo phận. Hơn thế nữa, chúng còn cấu kết với các tổ chức phản động lưu vong để chỉ đạo bọn phản động tay sai tạo ra các điểm nóng, kích động các tín đồ và các tầng lớp nhân dân chống lại chính quyền các cấp (điển hình nhưvụ ngày 24.5.1993 ở Huế, bạo loạn ở Gia Lai, Đắc Lắc vào đầu năm 2001). Vì vậy, chúng ta phải hết sức cảnh giác với âm mưu lợi dụng vấn dề dân tộc, tôn giáo chống XHCN trong hoạt động “DBHB” của CNĐQ và các thế lực thù địch.
CHƯƠNG II : CHỐNG DIỄN BIẾN HOÀ CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC TRÊN MẶT TRẬN VĂN HOÁ TƯ TƯỞNG Ở VIỆT NAM.
1. Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trong cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình của chủ nghĩa đế quốc.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cho thấy rằng: mặc dù diễn ra dưới nhiều hình thái khác nhau, song những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự xụp đổ gần giống nhau. Nguyên nhân sâu xa là qúa trình xây dựng CNXH, bên cạnh những thành tựu vĩ đại có những nhược điểm, khuyết điểm chậm được khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Nhưng nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là trong qúa trình cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức, đối ngoại… CNĐQ đứng đầu là đế quốc Mỹ không ngừng triển khai thực hiện chiến lược chống CNXH, chống cộng bằng các thủ đoạn “DBHB” với quan điểm tiến công: “Một trong những uy hiếp lớn nhất với chế độ Xô viết là sự giao tiếp giữa hai hệ tư tưởng, giữa nhân dân nước họ và nhân dân nước ta, giữa xã hội của họ và xã hội của ta” [36, 110].
Phân tích sự tan vỡ của các nước XHCN Liên Xô và Đông Âu, chúng ta cần tỉnh táo nhận ra bộ mặt thật của kẻ thù, phải nhìn thấu đáo về bản chất của “DBHB” để kiên quyết đấu tranh chống việc thẩm thấu vào tư tưởng, văn hoá, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
1.1. Nhận thức đúng đắn về tính sáng tạo và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh .
CNĐQ và các thế lực phản động khi tiến hành “DBHB” đối với các nước XHCN luôn coi trọng diễn biến về mặt lý luận tư tưởng. Nếu như ở thế kỷ trước, chúng chống chủ nghĩa Mác, thì bước sang thế kỷ này chúng chống chủ nghĩa Lênin , và ở Việt Nam chúng chống tư tưởng Hồ Chí Minh bằng mọi hình thức. Do đó, để nhận thức đúng chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải xác lập những luận cứ khoa học và thực tiễn để đập tan những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
-Luận điểm thứ 1:CNĐQ công kích chủ nghĩa Mác-Lênin Là hệ tư tưởng mang tính tôn giáo phi khoa học nên cần phải bác bỏ.
Chúng ta khẳng định rằng, ý kiến này là không đúng, hoặc là do ngộ nhận, hoặc là sai lầm từ ngoài gắn vào cho chủ nghĩa Mác. Thực chất, đây là một học thuyết khoa học bắt nguồn từ thực tiễn và cải tạo thực tiễn.Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, các tư tưởng XHCN có nguồn gốc sâu xa từ trong sự phát triển vật chất và tinh thần của nhân loại. Chủ nghĩa Mác không nằm ngoài trào lưu ấy, nên nó thuộc về xã hội, thuộc về con người.
Mac-Ăngghen đã từng nhấn mạnh: Những kết luận và nguyên lý của CNXH khoa học không phải là những quan niệm trừu tượng như “công bằng”, “bác ái”, “hạnh phúc” theo ngôn từ trống rỗng, mà đều xuất phát từ xu hướng của xã hội hiện thực. CNXH khoa học của Mác không xa lạ như những ước mơ trên thiên đường. Nó gần gũi đời thường, nó nhìn nhận tỉnh táo về những nhu cầu hiện thực và những khả năng thực tế có thể đáp ứng được. Những khả năng đó nằm trong sự phân tích và giải quyết những mâu thuẫn sâu sắc ngay chính trong lòng xã hội TBCN.Việc các phần từ chống cộng luôn tìm mọi cách để công kích chủ nghĩa Mác, gắn cho nó đủ thứ tội danh, càng thể hiện rõ nó không phải là liều thuốc ru ngủ tinh thần đối với đông đảo quần chúng. Tại sao ở các nước phương Tây, người ta khuyến khích hoặc không ngăn chặn xây dựng nhà thờ, được tự do giảng đạo, người ta cung kính đón tiếp Giáo hoàng?. Bởi vì tất cả các tôn giáo, giáo phái ở đây chẳng có gì nguy hại đối với chế độ tư bản. Chủ nghĩa Mác không phải là một giáo lý, mà là vũ khí của quần chúng nhân dân. Nếu đã coi đó như một tôn giáo, thậm chí là tôn giáo viển vông, thì có gì kẻ thù của chủ nghĩa Mác lại lo sợ nó đến thế? Hốt hoảng đến thế? và chống phá nó điên cuồng đến thế?.
Chủ nghĩa Mác có sức thuyết phục, có tính hấp dẫn lớn và bị công kích quyết liệt, cũng vì đó là một luận thuyết khoa học. Đó là sự tổng kết kinh nghiệm của nhân loại được roi sáng bởi một thế giới quan triết học, sâu sắc và những kiến thức rộng về lịch sử. Có người cho rằng, chủ nghĩa Mác bắt nguồn từ cuộc đấu tranh của GCVS chống GCTS vì vậy hệ tư tưởng này thiếu tính khách quan, khoa học. Nhận định này cũng là sai lầm. Chủ nghĩa Mác vừa mang tính lý luận, tư tưởng, vừa có tính hiện thực cao. Nó xuất hiện và ngày càng được hoàn thiện không phải nằm ngoài con đường phát triển chủ yếu của văn minh thế giới. Ngược lại, nó được chắt lọc từ tất cả những gì tốt đẹp nhất, tiến bộ nhất mà KHTN, KHXH và KHNV tích luỹ được.
- Lập luận thứ hai: CNĐQ cho rằng, mỗi lý thuyết chỉ đúng và chỉ có vai trò trong một thời hạn nhất định. Chủ nghĩa Mác ra đời đã trên 150 năm, vì vậy nó đã lỗi thời. Đảng Cộng sản Việt Nam do bế tắc về lý luận nên mới nêu ra tư tưởng Hồ Chí Minh, chứ thực tế làm gì có tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nói như vậy là chúng đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu đặc điểm nội tại của chủ nghĩa Mác với tư cách là một khoa học. Lê nin nói rằng: toàn bộ tinh thần học thuyết Mác đòi hỏi phải xem xét mỗi nguyên lý của nó theo: phươngdiện lịch sử; trong mối quan hệ với tất cả những nguyên lý khác; và theo kinh nghiệm thực tiẽn của lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sản phẩm chủ quan, phản ánh tâm lý nguyện vọng của người dân Việt Nam đối với lãnh tụ kính yêu của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và lý sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay. Điều đó tiếp tục khẳng định sức sống và giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh trước những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù.
- Lập luận thứ ba : Theo CNĐQ ngày này khoa học đã phát triển gấp bội so với thời Mác- Lênin, vì vậy Đảng ta nên dựa vào các khoa học khác, không nên bám giữ chủ nghĩa Mác-Lênin nữa.
Đó là một cách hiểu không đúng về mối quan hệ qua lại giữa trìnhđộ văn minh của nhân loại với chủ nghĩa Mác. Khi ra đời, chủ nghĩa Mác đã kế thừa tinh hoa trí tuệ loài người. Trong qúa trình tồn tại, chủ nghĩa Mác do bản chất của nó, không ngừng thu hút những thành tựu mới nhất của khoa học và tổng kết kinh nghiệm lịch sử. Và mỗi khi trong khoa học có những phát minh vượt thời đại, chủ nghĩa Mác lại được bổ xung, phát triển lên một trình độ cao hơn. Chủ nghĩa Mác không đối lập với các khoa học. Đó không phải là một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ngoài con đường phát triển của văn minh thế giới. Những người cộng sản toàn thế giới đã và sẽ tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lê nin theo hướng đó. Bản chất sáng tạo của chủ nghĩa Mác cho phép và đòi hỏi phải làm như vậy.
Sự nghiệp giải phóng người lao động luôn luôn cần đến một lý luận “về điều kiện giải phóng” dẫn đường. Đó chỉ có thể là chủ nghĩa Mác - Lê nin. Rõ ràng là người ta có thể chôn cất một con người nhưng không thể chôn cất một tư tưởng, một học thuyết, nhất là khi tư tưởng, học thuyết ấy có đầy đủ căn cứ khoa học, đã thức tỉnh hàng trăm, hàng nghìn triệu con người đứng lên đấu tranh tự giải phóng trong suốt hơn một thế kỷ, làm cho các thế lực thù địch nhiều phen phải run sợ khi thấy rõ tư tưởng, học thuyết ấy đã lá sự nối tiếp của văn hoá, văn minh nhân loại và bản thân nó đã trở thành những giá trị của nền văn hoá, văn minh của cả loài người. Lịch sử sẽ đánh giá một cách khách quan, đúng đắn, công bằng những tư tưởng cách mạng và khoa học ấy.
Quá trình đi lên của cách mạng Việt Nam bên cạnh những thắng lợi, còn có cả thất bại, tổn thất nhất thời, cục bộ. Những sai lầm ấy có cả nguyên nhân sâu xa từ chỗ chúng ta hiểu không đúng, vận dụng không đúng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta.Trước sự tấn công điên cuồng của các lực lượng thù địch và sự phản bội đối với chủ nghĩa Mác - Lê Nin, Đảng ta phải khách quan đấu tranh bảo vệ với tinh thần khoa học và cách mạng, với tư duy đổi mới độc lập và sáng tạo để học thuyết đó thể hiện được sức sống mạnh mẽ trên đất nước Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới.
1.2. Nhận thức rõ bản chất của xã hội chủ nghĩa dân chủ, CNTB hiện đại, chống đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
“Hoà bình - tự do - dân chủ - hạnh phúc”, những tiếng ngọt ngào ấy bao giờ cũng được loài người trân trọng, ước ao và tư lâu con người luôn bận tâm vì những lý tưởng ấy. Lịch sử chỉ dành cho số phận của loài người và của nhiều dân tộc những khoảng thời gian hoà bình và rất ngắn so với chiều dài của nó. Thế kỷ XX đã chịu thảm hoạ của hai cuộc chiến tranh thế giới. Nếu không có cách mạng tháng Mười và không có CNXH hiện thực, cứ mặc cho CNĐQ tự do cướp bóc và tự do tranh giành bằng súng đạn thì thử hỏi thế giới sẽ ra sao?
Cách mạng tháng 10 cũng là cuộc cách mạng đặt nền móng cho một nền dân chủ mới, cao nhất - dân chủ XHCN, dân chủ đối với đông đảo các tầng lớp nhân dân. Còn CNTB mà có người cho đó là tương lai vĩnh cửu thì sao? Nói nó là tốt đẹp, dân chủ ư? Đừng quên rằng chủ nghĩa phát xít đã ra đời từ chế độ TBCN. Cũng đừng quên rằng Việt Nam đã từng phải chịu đựng cuộc xâm lược của Pháp, Nhật Bản và Mỹ. Ai cũng biết rằng chế độ TBCN không chỉ bao gồm lối sống Mỹ, chế độ đại nghị Pháp, điện tử Nhật Bản. Nó còn bao gồm cả vùng ngoại vi mà người ta thường gọi là “thế giới thứ 3” ở châu Phi và châu Mỹ La tinh. Tại những nơi ấy hiện đang có hơn 500 triệu người bị đe doạ chết đói, có khoảng hơn 1,6 tỉ người đang sống trong khốn khổ, cùng cực. Vậy ở đâu và ai là người vi phạm dân chủ? không nói đâu xa, cứ xem tại nước Nga hôm qua và hôm nay cũng có thể tìm được lời giải cho câu hỏi ấy.
Năm 1917, cuộc tiến công Cung Điện Mùa Đông được tiến hành bởi hàng vạn công nhân, nông dân, binh lính, nhưng ai cũng biết đó là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất. Còn những ngày đầu năm 1993 tại Matxcơva, ai ai cũng thấy cảnh tượng xe tăng, lính chiến được lệnh nhân danh dân chủ để nã đạn vào toà nhà Quốc hội Nga, bắn thẳng vào đám đông biểu tình là quần chúng nhân dân. Ngày 3 tháng Mười đã được gọi là “ngày chủ nhật đẫm máu”. Theo con số thông báo chính thức, tính đến 10 giờ sáng ngày 9.10.1993, có 142 người được coi là bị thiệt mạng trong các cuộc trung độ. Và như Bộ trưởng Y tế Nga F. Nêtraép cho biết : “Điều đáng buồn nhất là trong số những người chết, đa số là dân thường, chỉ có 6 quần chúng, 5 nhân viên bộ nội vụ và 10 cảnh sát”. Rõ ràng, chỉ nhân dân là người bị thiệt thòi nhất trong mọi biến cố của nước Nga.
Vậy nên, ai đó có “nói nghiêng, nói ngả” thì cũng không thể đặt dấu chấm hết vào cách mạng tháng 10. Đúng là CNTB đã đạt được trình độ phát triển chưa từng thấy, nhưng nó không đủ khả năng và rất vô trách nhiệm trong việc giải quyết khắc phục tình trạng nghèo đói, bất công. Hơn nữa nền “dân chủ toàn dân” mà CNĐQ nêu ra chỉ là sự lừa bịp để che đậy cho dân chủ GCTS mà thôi. Ở các nước tư bản, dân chủ chỉ giành cho những người có thế lực giàu có, đó là dân chủ cho một số ít người thuộc GCTS, còn tuyệt đại đa số nhân dân lao động thì họ không hề được hưởng quyền dân chủ. CNXH chúng ta công khai thừa nhận dân chủ ở các nước XHCN mang tính giai cấp nhưng đó là dân chủ của tuyệt đại đa số nhân dân lao động.
Hãy thử xem việc “Bầu cử” trong xã hội tư bản có thực sự là dân chủ không ? Ngay trong luật pháp Mỹ đã quy định : Những người nghèo, những công dân phải nhận tiền cứu trợ của Nhà nước thì không có quyền bỏ phiếu; Ai muốn đăng ký cử tri để được đi bầu cử phài “qua trắc nghiệm tri thức”, nếu không đạt thì không được đi bầu; hay ở một số bang ở Mỹ cũng qui định : Chỉ có ai đã sống ở bang đó từ một năm trở lên mới được đi bầu cử. Hạn chế này khiến cho số công nhân làm theo mùa và những người thất nghiệp mất quyền bầu cử. Thậm chí, họ còn quy định: chỉ ai có tài sản đạt giá trị số lượng nào đó thì mới được quyền bỏ phiếu nhiều lần…thử hỏi đó là dân chủ ư?
Hiện nay ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta. Các thế lực thù địch không ngừng công kích, vu khống, bôi nhọ hòng làm mất uy tín của Đảng và chia rẽ nhân dân với Đảng. Chúng đòi Đảng ta phải từ chức, phải “tự nguyện lột xác”, và “xám
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT (38).doc