Tài liệu Đề tài Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam: MỤC LỤC
Lời nói đầu…………………………………….………………………………………………………………………………………..1
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC
I. Thu hút FDI tại Trung Quốc qua các giai đoạn………………………….…………………………3
1. Giai đoạn thăm dò (1979-1985)……………………………………………………………………………….……3
2. Giai đoạn phát triển ổn định (1986-1991)……………………………………………….………………….3
3. Giai đoạn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ (1992-1993)…………………………...……5
4. Giai đoạn điều chỉnh (1994 đến nay)…………………………………………………………………...………6
II. Đặc điểm FDI tại Trung Quốc…………………………………………………………………………………...8
1. Nguồn vốn đầu tư…..………………………….……….……………………………………………………………………...8
2. Đối tác đầu tư…………………………………………………………………………………………………...………...……10
3. Quy mô của các dự án đầu tư………………………………………………………………………………………14
4. Hình thức đầu tư …………………………………………………………………………………………………………….16
5. Lĩnh vực đầu tư ………………………………………………………………………………………………………………20
6. Địa bàn đầu tư…..……...………………………………………………………………………………………………………21
III. Những nhân tố tạo nên sức hấp dẫn đầu tư ...
117 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1133 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời nói đầu…………………………………….………………………………………………………………………………………..1
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC
I. Thu hút FDI tại Trung Quốc qua các giai đoạn………………………….…………………………3
1. Giai đoạn thăm dò (1979-1985)……………………………………………………………………………….……3
2. Giai đoạn phát triển ổn định (1986-1991)……………………………………………….………………….3
3. Giai đoạn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ (1992-1993)…………………………...……5
4. Giai đoạn điều chỉnh (1994 đến nay)…………………………………………………………………...………6
II. Đặc điểm FDI tại Trung Quốc…………………………………………………………………………………...8
1. Nguồn vốn đầu tư…..………………………….……….……………………………………………………………………...8
2. Đối tác đầu tư…………………………………………………………………………………………………...………...……10
3. Quy mô của các dự án đầu tư………………………………………………………………………………………14
4. Hình thức đầu tư …………………………………………………………………………………………………………….16
5. Lĩnh vực đầu tư ………………………………………………………………………………………………………………20
6. Địa bàn đầu tư…..……...………………………………………………………………………………………………………21
III. Những nhân tố tạo nên sức hấp dẫn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc…22
1. Kinh tế tăng trưởng mạnh………………………….………………………………………………………………….22
2. Tiềm lực thị trường to lớn………………………………………………………………………………………..……23
3. Giá thành lao động và giá thành đất đai thấp……………………………………………………….….24
4. Trung Quốc gia nhập WTO…………………………………………………………………………………...……..24
CHƯƠNG II
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC
I. Tác động của FDI đối với nền kinh tế Trung Quốc………………………………………...….27
1. Tác động tích cực……………………………………………………………………………………………………………27
2. Những tác động tiêu cực………………………………………………………………………………………...……..32
II. Những bài học thành công trong thu hút FDI ở Trung Quốc……………………….33
1. Từng bước mở rộng địa bàn đầu tư…………………………………………………………………………….33
2. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư……………………………………………………...43
3. Chính sách hợp lý trong đa dạng hoá nguồn đầu tư…………………………………………...…..51
III. Những bài học chưa thành công…………………………………………………………………………...59
1. Hoạt động quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài còn nhiều
bất cập, cần rút kinh nghiệm ………………………………………………………………………….………..59
2. Trong thu hút FDI, tài sản của nhà nước bị thất thoát nghiêm trọng…………………62
3. Chưa có chính sách thích hợp để bảo hộ thị trường trong nước…………………….……62
4. Các nhà đầu tư còn khống chế kỹ thuật trong doanh nghiệp liên doanh……….….64
5. Chưa thực sự coi trọng chất lượng của đầu tư trực tiếp nước ngoài……………………65
CHƯƠNG III
VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TRONG HOẠT ĐỘNG THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC Ở VIỆT NAM
I. Vài nét về sự tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc……….....67
1. Những nét tương đồng……………………………………………………………………………………………….…..67
2. Những khác biệt…………………………………………………………………………………………………………..….71
II. Thực trạng FDI ở Việt Nam trong thời gian qua……………………………………………….73
1. Về số dự án, vốn đầu tư và quy mô dự án…………………………………………………………..……73
2. Về cơ cấu đầu tư…………………………………………….……………………………………………………………..…75
3. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư của các dự án FDI tại Việt Nam……………………...……80
4. Tác động tích cực của FDI……………………………………………………………………………………...……81
5. Những thuận lợi và khó khăn trong thu hút FDI ở Việt Nam hiện nay………..……84
III. Vận dụng kinh nghiệm trong hoạt động thu hút FDI của Trung Quốc ở
Việt Nam………………………………………….………...……………………………………………………………………88
1. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước…………………………………………………………..……88
2. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, lành mạnh hoá nền kinh tế vĩ mô…………….89
3. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư……………………...………………………………90
4. Đa dạng hóa các đối tác đầu tư……………………………………………………………………………...……92
5. Xây dựng định hướng và quy hoạch tổng thể về thu hút FDI………………………...……92
6. Nâng cao trình độ phát triển nguồn nhân lực…………..………………………………………………93
7. Nâng cao hiệu quả các KCN, KCX……………………………………………………………………………94
8. Tăng cường hội nhập, tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới………………...94
9. Nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư………………………………………………..……95
Kết luận………………………………………………………………………..……………………………………………………..…96
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………………………………………………………98
LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 20 năm (từ 1979 đến nay) thực hiện chính sách cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, thu hút sự chú ý của cả thế giới. Kim ngạch ngoại thương hai chiều của Trung Quốc đã tăng từ 28 tỷ USD năm 1982 lên 510 tỷ USD năm 2001. Năm 2001, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu đứng thứ bẩy thế giới (266,3 tỷ USD) và là nước nhập khẩu đứng thứ 8 trên thế giới (243,7 tỷ USD). Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, nền kinh tế Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng. Vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt. Nhiều nhà kinh tế nhận định rằng, từ nay đến hết thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc.
Một trong những yếu tố tạo nền sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thậm chí đã vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2002 với 52,7 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành động lực của sự phát triển kinh tế Trung Quốc và chính nó là yếu tố then chốt để nước này thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Quan trọng hơn, nó là cơ sở chủ yếu để Trung Quốc thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp, khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu là chính sang thành nước sản xuất và xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Nhờ có đầu tư trực tiếp nước ngoài mà đất nước Trung Quốc đã thay da đổi thịt. Nếu như trước khi mở cửa, Trung Quốc được ví như một hành tinh chết, không sinh sôi, không nảy nở, phát triển thì sau 20 năm mở cửa, một đất nước Trung Quốc lớn mạnh đang hình thành, tạo nên một trong những “điều thần kỳ kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ”.
Việt Nam tiến hành cải cách mở cửa sau Trung Quốc 8 năm nên việc tham khảo kinh nghiệm trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc trong quá trình phát triển kinh tế là cần thiết.
Về mặt lý luận, nó giúp ta có thêm dữ liệu để hiểu kỹ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa là điều kiện để đánh giá chuẩn xác hơn sự tác động của loại hình kinh tế này đối với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. Về thực tiễn, Trung Quốc phát triển kinh tế thành công một phần lớn là nhờ đã triệt để tận dụng những ưu thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bài học thiết thực được đúc kết là nước nào có năng lực thu hút và biết sử dụng hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thì kết quả đạt được trong quá trình phát triển tương đối thành công.
Chúng ta tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc chính là cơ sở để học hỏi những thành công và né tránh những điều chưa hợp lý mà Trung Quốc đã vấp phải. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải là “chìa khoá vạn năng”, nó cũng có những mặt trái nên trong khoá luận này, tôi xin đề cập cả những bài học thành công cũng như chưa thành công của Trung Quốc. Tham khảo một cách có chọn lọc những bài học kinh nghiệm là yêu cầu cần thiết, bổ ích cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận chia thành 3 chương:
Chương I: Thực trạng thu hút FDI tại Trung Quốc.
Chương II: Những bài học kinh nghiệm trong thu hút FDI tại Trung Quốc.
Chương III: Vận dụng kinh nghiệm trong hoạt động thu hút FDI của trung quốc ở Việt Nam.
Do trình độ và thời gian có hạn nên khoá luận này không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Bùi Thị Lý, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong việc hoàn thành khoá luận này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2003.
Người viết
Học viên Nguyễn Thị Thu Hảo
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC
Năm 1979 đánh dấu việc Trung Quốc mở cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Kể từ đó đến nay, tình hình thu hút FDI tại Trung Quốc đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Có thể tóm tắt quá trình thu hút FDI tại Trung Quốc thành bốn giai đoạn.
I. THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC QUA CÁC GIAI ĐOẠN
1. Giai đoạn thăm dò (1979 - 1985)
Do Trung Quốc có một thời gian dài đóng cửa bài ngoại nên đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc trong giai đoạn đầu này chỉ mang tính thăm dò, mức độ chậm chạp, quy mô không lớn. Chủ yếu là các dự án đầu tư vào vùng duyên hải của các nhà tư bản vừa và nhỏ ở Hồng Kông, Ma Cao. Các nhà đầu tư chủ yếu đầu tư vào các công trình nhà hàng, khách sạn thu lợi tương đối cao. Hầu hết các hạng mục quy mô nhỏ, kỹ thuật thấp, kỳ hạn quay vòng vốn ngắn. Tính tới cuối năm 1985, Trung Quốc đã thu hút được 6.321 hạng mục, với số vốn đầu tư thực tế là 4,72 tỷ USD. Hầu hết các hạng mục sử dụng nhiều lao động vào những ngành gia công cấp thấp hoặc trung bình. Mục đích của nhà đầu tư lúc đó là lợi dụng sức lao động rẻ ở Trung Quốc.
2. Giai đoạn phát triển ổn định (1986 - 1991)
Đầu năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh. Chiến lược thu hút FDI được cựu Tổng bí thư Đảng CS Trung Quốc Triệu Tử Dương gọi là “lưỡng đầu tại ngoại”, tức là dựa vào bên ngoài cả về cung đầu vào lẫn thị trường đầu ra. Với chiến lược này, Trung Quốc quyết định lấy mục tiêu kinh tế loại hình hướng ra bên ngoài là kết hợp công thương, lấy xây dựng công nghiệp làm chủ, lấy trọng điểm từ việc trải ra kinh doanh chuyển hướng cơ bản sang nắm sản xuất, nâng cao trình độ để đạt hiệu quả kinh tế. Đây là quyết định có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển kinh tế ở Trung Quốc. Chính sách này rất khác so với chính sách của nhiều nước công nghiệp hoá mới (NICs) là thu hút FDI vào sản xuất thay thế nhập khẩu. Đặc điểm của Trung Quốc là đồng thời chuyển đầu tư nước ngoài từ thay thế nhập khẩu sang hướng về xuất khẩu đồng thời vẫn thực hiện công nghiệp hoá. Đặc điểm này đã làm cho các nhà đầu tư chú ý.
Các nhà đầu tư từ trên 60 nước và khu vực, chủ yếu là từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Nhật Bản và các nước phát triển phương Tây đã đến Trung Quốc. Họ chủ yếu đầu tư vào các ngành năng lượng, thông tin, chế tạo máy, điện tử, dệt, công nghiệp nhẹ, hoá chất, nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, đánh cá, xây dựng và ngành bất động sản. Những dự án được chấp thuận ở các tỉnh và thành phố duyên hải chiếm 80% tổng số của cả nước. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài có sự chuyển hướng từ các ngành kinh doanh dịch vụ sang các ngành công nghiệp chế tạo, chủ yếu là các ngành công nghiệp tập trung nhiều lao động, sản phẩm được tái xuất qua Hồng Kông phù hợp với chiến lược sử dụng vốn nước ngoài cho mục đích xuất khẩu của Trung Quốc, đã làm tổng sản lượng công nghiệp tăng lên.
Năm 1991, Trung Quốc đã thông qua việc khống chế vĩ mô, kết hợp chặt chẽ chính sách ưu đãi trong thu hút vốn nước ngoài và chính sách ngành nghề của đất nước, khuyến khích có trọng điểm đầu tư nước ngoài vào các hạng mục theo hướng phù hợp với chính sách ngành nghề, các hạng mục phải có quy mô tương đối lớn và có kỹ thuật tiên tiến. Đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển vững chắc hơn. Theo báo cáo điều tra của Cục mậu dịch Hồng Kông, từ năm 1979 - 1991, Trung Quốc đã phê chuẩn 12.100 hạng mục vốn nước ngoài, kim ngạch ký kết theo hiệp định là 121,5 tỷ USD, vốn lợi dụng thực tế đạt 79,6 tỷ USD.
Nhìn chung, giai đoạn 1984 - 1991, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc phát triển ổn định, có sự tăng trưởng cao. Đặc điểm chủ yếu của đầu tư là các hạng mục mang tính sản xuất ngày càng tăng, (riêng năm 1991 chiếm trên 90%). Các hạng mục mang tính kỹ thuật tiên tiến và thuộc loại hình xuất khẩu ngày càng nhiều.
3. Giai đoạn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ (1992 - 1993)
Bước sang thập kỷ 90, sau chuyến đi thị sát của Đặng Tiểu Bình ở các tỉnh phía Nam, tại Đại hội XIV năm 1992, Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định đẩy nhanh tốc độ kinh tế thị trường. Cả nước đã hình thành kết cấu mở cửa đối ngoại bao gồm 339 huyện thị với diện tích hơn 50 vạn km2 và hơn 300 triệu người. Trung Quốc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ngày càng phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của kinh tế thị trường, mở rộng thêm các lĩnh vực đầu tư, quyết định đẩy nhanh sự phát triển của ngành nghề thứ ba và đặc biệt là mở rộng thị trường nội địa. Các nhà đầu tư đã nhìn thấy thị trường nội địa rất tốt, tiềm lực rất lớn, do vậy họ đã đầu tư ồ ạt vào thị trường trong nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc tăng trưởng cao chưa từng thấy. Số lượng đầu tư của thương gia nước ngoài tăng theo cấp số nhân. Năm 1992, tổng số hạng mục đầu tư của thương gia nước ngoài ký kết trên cả nước là 48.764 hạng mục, tăng 3,75 lần so với 1991. Nó vượt quá cả tổng số hạng mục thời kỳ 1979 - 1991 là 42.027 hạng mục. Kim ngạch ký kết theo hiệp định là 58,12 tỷ USD, tăng 4,85 lần so với 1991, vượt qua tổng kim ngạch ký kết thời kỳ 1979 - 1991, là 52,54 tỷ USD. Kim ngạch sử dụng thực tế là 11,01 tỷ, tăng 2,52 lần so với năm 1991. Năm 1993, số dự án đầu tư của thương gia nước ngoài lên tới 83.437 hạng mục, tăng 71,1% so với năm 1992. Kim ngạch ký kết theo hiệp định là 111,44 tỷ USD, tăng 149,95% so với năm trước. Đồng thời nó cũng nhiều hơn tổng kim ngạch ký kết 14 năm trước đó (1987 - 1992) là 110,46 tỷ USD. Mức sử dụng thực tế đạt 27,52 tỷ USD, tăng 2,49 lần so với năm 1992 và tương đương 80% tổng kim ngạch 14 năm trước đó.
Nguồn FDI trong 2 năm đến từ hơn 120 nước và khu vực. Tốc độ tăng trưởng của các nước phương Tây tăng nhanh. Trong đó các công ty xuyên quốc gia (TNCs), các nhà tư bản từ 3 cường quốc Mỹ - Nhật - EU ngày càng tăng cường số lượng đầu tư vào Trung Quốc.
TNCs và các nhà tư bản lớn phương Tây đầu tư vào Trung Quốc mang theo một số loại hình đầu tư mới, quy mô đầu tư lớn, khởi điểm kỹ thuật cao, sản phẩm cao cấp hoá. Các dự án mang tính sản xuất trong kết cấu ngành nghề giảm xuống. Các dự án mang tính phi sản xuất phát triển tương đối nhanh. Đặc biệt là ngành bất động sản tăng cao, chiếm tỷ trọng lớn trong số các dự án và tỷ lệ trong số vốn của hiệp định từ 9,3% và 31% năm 1992 lên đến 13,57% và 39,28% năm 1993.
Do đầu tư tăng cao đã gây nên những cơn sốt đầu tư, gây ra tình trạng rối loạn về bất động sản, về mở khu chế xuất, khu khai thác kinh tế kỹ thuật. Đầu tư tăng cao đã làm cho nền kinh tế trở nên quá nóng. Năm 1992, kinh tế tăng trưởng 12%, năm 1993 tăng 13,4%. Tốc độ tăng trưởng này đã kéo theo rối loạn về tài chính tiền tệ, tổng cung và tổng cầu mất cân bằng ảnh hưởng đến lạm phát.
Năm 1992, 1993, tuy đầu tư tăng trưởng cao nhưng tỷ trọng kim ngạch sử dụng thực tế trong kim ngạch hiệp định mỗi năm là 18,9% và 24,7%, thấp hơn so với mấy năm trước đó. Tình trạng này xẩy ra một phần do ở nhiều địa phương đã mù quáng đưa các hạng mục đầu tư mà tiền vốn đồng bộ trong nước kèm theo không đủ, thiết bị cơ sở hạ tầng không theo kịp, nguyên liệu, nhiên liệu, cung ứng không đủ.
Nhìn chung, FDI những năm 1992 - 1993 tăng trưởng với tốc độ cao ở Trung Quốc. Đặc trưng cơ bản của nó là mở rộng khu vực đầu tư, mở rộng ngành nghề, mở rộng quy mô dự án, cải thiện kết cấu đầu tư, kết cấu ngành nghề có sự chuyển biến cao cấp hoá.
4. Giai đoạn điều chỉnh (1994 đến nay)
Trước tình trạng FDI tăng trưởng quá nóng trong giai đoạn 1992 - 1993, từ năm 1994, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh chiến lược thu hút FDI theo hướng:
+ Đưa tiền vốn vào từ công nghiệp gia công thông thường chuyển sang các ngành nghề cơ sở, ngành nghề tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật.
+ Từ tiếp nhận những hạng mục nhỏ chuyển sang tiếp nhận những hạng mục lớn và vừa.
+ Từ thu hút tiền vốn ngành nghề chuyển sang thu hút tiền vốn lưu thông quốc tế.
+ Từ xây dựng doanh nghiệp mới là trọng tâm chuyển sang cải tạo những doanh nghiệp cũ.
+ Từ việc đưa đầu tư vào đối tượng bị động chuyển sang đưa vào đối tượng chủ động, có lựa chọn, chú trọng hơn đến chất lượng của đầu tư.
Chính sách điều chỉnh đã làm dịu tình trạng kinh tế quá nóng của Trung Quốc trong 2 năm 1992 - 1993. Trong 6 tháng đầu năm 1994, những cơn sốt về mở khu chế xuất và bất động sản đã dịu xuống. Số lượng dự án mở khu chế xuất, khu phát triển kỹ thuật ở các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, Sơn Đông, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Liêu Ninh, Hà Bắc đã giảm từ hơn 1.200 khu xuống chỉ còn 200 khu. Kim ngạch dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 143,5% trước đây chỉ còn tăng 43,9%. Ở khu vực duyên hải - điểm nóng mà thương gia nước ngoài đầu tư ngoài Thượng Hải - tăng một chút 1,5%, với kim ngạch tăng 14,2%, các tỉnh và thành phố khác đều có xu thế giảm đi, trong đó, Giang Tô giảm 55,5%, Sơn Đông giảm 50%.
Nhờ điều chỉnh mà đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đã có sự chuyển biến rõ rệt từ số lượng sang chất lượng. Từ năm 1994 đến nay, mặc dù kim ngạch hiệp định có xu hướng giảm đi nhưng kim ngạch sử dụng thực tế tăng lên. Thượng Hải và Bắc Kinh từng nơi tăng trưởng 2,1 lần và 2,7 lần. Sơn Đông tăng ít nhất cũng đạt 17%. Tính chung cả nước trong năm 1994, số hạng mục đầu tư được Trung Quốc phê chuẩn là 47.490, giảm 43,09% so với năm 1993. Số kim ngạch đầu tư ký kết theo hiệp định là 81,41 tỷ USD, giảm 26,95%. Song số kim ngạch sử dụng thực tế là 33,75 tỷ USD, tăng 22,78%, chiếm 41,5% trong tổng kim ngạch đầu tư ký kết theo hiệp định. Vốn FDI thực tế vào Trung Quốc trong hai năm tiếp theo 1995, 1996 cũng vẫn tăng đều đặn với mức 10%/ năm.
Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 mà luồng vốn FDI vào Trung Quốc có sụt giảm trong hai năm 1998, 1999. Kim ngạch thực tế trong hai năm này lần lượt chỉ đạt 43,7 tỷ USD và 40,3 tỷ USD, giảm 1% và 7% so với những năm trước đó. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ làm giảm thực lực kinh tế của các nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan, Hồng Kông, vốn là những đối tác đầu tư chủ yếu của Trung Quốc (chiếm hơn 75% tổng vốn FDI). Các nước này phải giải quyết những khó khăn nội tại nên giảm đầu tư ra nước ngoài nói chung và vào Trung Quốc nói riêng. Trung Quốc đã tiến hành một loạt các biện pháp nhằm tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư như: duy trì ổn định tỷ giá đồng NDT, duy trì tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, tiếp tục đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng, lựa chọn những hạng mục đầu tư có hiệu quả cao, nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật của các hạng mục. Nhờ vậy, từ năm 2000, FDI vào Trung Quốc bắt đầu phục hồi trở lại mức 40,77 tỷ USD, 46,87 tỷ USD vào năm 2001, và tăng lên con số kỷ lục là 52,7 tỷ USD vào năm 2002 và theo dự đoán trong năm 2003 sẽ đạt 60 tỷ USD. Hiện nay, có hơn 400.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc 180 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động ở Trung Quốc.
II. ĐẶC ĐIỂM FDI TẠI TRUNG QUỐC
1. Nguồn vốn đầu tư
Với thị trường tiêu thụ khổng lồ và môi trường đầu tư thuận lợi, Trung Quốc là một mảnh đất màu mỡ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Như Lord Powell, Chủ tịch của China - British Council tuyên bố: “Đường phố Trung Quốc không được dát vàng. Nhưng Trung Quốc tới nay đã thu hút nhiều vốn FDI hơn bất cứ quốc gia nào, trừ Mỹ, và thu hút được một lượng FDI lớn gấp 10 lần lượng FDI vào Ấn Độ.”
Lượng vốn FDI đổ vào Trung Quốc ngày càng nhiều. Chỉ riêng trong giai đoạn 1996 - 1999, FDI vào Trung Quốc đạt 126 tỉ USD, gấp 6 lần FDI vào Nhật Bản. Nếu như năm 1991, Trung Quốc chỉ đứng thứ 13 thế giới và thứ 3 trong các nước đang phát triển về thu hút FDI thì từ năm 1992 - 1998, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu của thế giới về thu hút FDI. Tuy nhiên, năm 1999, FDI giảm từ mức 48 tỷ USD (1998) xuống còn 40,4 tỷ USD (1999). Đây là lần đầu tiên luồng FDI vào Trung Quốc có sự giảm sút kể từ khi Trung Quốc cải cách kinh tế và mở cửa từ 1979. Từ năm 2000, FDI đã khởi sắc trở lại mức 40,7 tỷ USD, tăng lên 46,8 tỷ USD vào năm 2001 và tăng lên con số kỷ lục là 52,7 tỷ USD vào năm 2002.
Hình 1: 13 nước thu hút FDI hàng đầu thế giới năm 2000 và 2001
Đơn vị : tỷ USD
Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2002.
Tính tới cuối năm 2001, tổng kim ngạch ký kết theo hiệp định đạt 731,9 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 395,192 tỷ USD. Riêng năm 2001, Trung Quốc đã phê chuẩn 26.140 hạng mục, với số vốn ký kết theo hiệp định là 69,19 tỷ USD, số vốn sử dụng thực tế đạt 46,87 tỷ USD.
Như vậy mặc dù sự kiện 11 tháng 9 có làm sụt giảm đầu tư toàn cầu nhưng nhờ việc Trung Quốc gia nhập WTO (tháng 11 / 2001), nên đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc vẫn gia tăng. Với 46,84 tỷ USD tiếp nhận được, Trung quốc đã chiếm 23% vốn FDI vào các nước đang phát triển và chiếm 6,4% vốn FDI toàn cầu.
2. Đối tác đầu tư
Hình 2: Đầu tư chủ yếu của MNCs và Tư bản Hoa kiều (expatriates)
giai đoạn 1983 - 1997
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Guha, Ashok and Ray, Amit S. (2000), “Multinational vs Expatriate FDI: A comparative Analysis of the Chinese and Indian experience”, New Delhi.
Ngay từ khi mới mở cửa, Trung Quốc đã huy động tối đa tiềm năng của người Hoa ở nước ngoài phục vụ cho hoạt động thu hút đầu trực tiếp nước ngoài. Người Hoa ở nước ngoài không những đã trở thành lực lượng hùng hậu tiến hành việc tuyên truyền, quảng bá chính sách, vận động, làm môi giới... đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Trung Quốc mà họ còn là những nhà đầu tư chủ yếu trực tiếp chuyển vốn về nước thực hiện các dự án đầu tư. Theo thống kê của nhiều chuyên gia kinh tế Trung Quốc, có tới 70 - 80% số dự án và trên 65% tổng vốn FDI vào Trung Quốc là của tư bản Hoa kiều.
Trong tổng vốn đầu tư của tư bản người Hoa và Hoa kiều đầu tư về Trung Quốc đại lục, đầu tư của Hoa kiều ở Hồng Kông, Đài loan, Ma Cao chiếm tỷ trọng chủ yếu. Điều này giải thích tại sao Hồng Kông, Đài Loan luôn nằm trong danh sách những đối tác đầu tư lớn nhất của Trung Quốc.
Bảng 1: Mười nhà đầu tư lớn nhất Trung Quốc năm 2001
Đơn vị: tỷ USD
STT
Nước
Số hạng mục
Kim ngạch theo hiệp định
Tỷ trọng
Kim ngạch thực tế
Tỷ trọng
1
Hồng Kông
8.008
20,69
30%
16,72
36%
2
Mỹ
2.606
7,51
11%
4,43
9%
3
Nhật Bản
2.019
5,42
8%
4,35
9%
4
Đài Loan
4.214
6,91
10%
2,98
6%
5
Hàn Quốc
2.909
3,49
5%
2,15
5%
6
Singapore
675
1,98
3%
2,14
5%
7
Đức
280
1,17
2%
1,21
3%
8
Vương quốc Anh
269
1,52
2%
1,05
2%
9
Hà Lan
114
0,97
1%
0,78
2%
10
Pháp
151
0,57
1%
0,53
1%
Nguồn: China Statistical Yearbook 2001
Bảng 1 cho thấy bức tranh đầu tư theo các đối tác đầu tư tại Trung Quốc. Ta thấy Hồng Kông là đối tác lớn nhất với 36% vốn FDI, tuy nhiên đang có xu hướng giảm dần. Nếu như trong giai đoạn 1979 - 1997, lượng vốn đầu tư của Hồng Kông vào Trung Quốc đại lục đạt khoảng 111 tỷ USD, chiếm 53% thì năm 2001, vốn đầu tư thực tế của Hồng Kông chỉ còn chiếm 36%, với 8.008 dự án và vốn đăng ký đạt 20,68 tỷ USD.
Đầu tư của Đài Loan vào Trung Quốc thoạt nhìn chiếm con số rất khiêm tốn là 2,98 tỷ USD vốn thực hiện, đứng thứ 4 trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc và thậm chí có người còn cho rằng trong những năm qua, tầm quan trọng của các nhà đầu tư Đài Loan đang giảm dần. Trong giai đoạn 1992 - 1998, FDI của Đài Loan chiếm 8,5% nhưng trong 3 năm gần đây, tỷ trọng FDI của Đài Loan luôn dao động trên dưới 6%. Nhưng những con số thống kê chính thức này chưa phản ánh hết tiềm lực vốn khổng lồ của các nhà đầu tư Đài Loan. Trong thực tế, vốn đầu tư của Đài Loan về Trung Quốc đại lục vượt xa cả Mỹ và Nhật Bản, chỉ đứng sau Hồng Kông về quy mô.
Nguyên nhân là Chính phủ Đài loan, vì lý do chính trị, đưa ra những quy định hạn chế lượng FDI tối đa mỗi doanh nghiệp Đài Loan được đầu tư vào Trung Quốc và cấm một số ngành công nghiệp không được đầu tư về đại lục nên các doanh nghiệp Đài Loan đã tìm mọi cách “lách luật” bằng cách thành lập công ty mới ở một nước trung gian như Hồng Kông, Singapore, British Virgin Islands…để thông qua đó chuyển vốn đầu tư về Trung Quốc. Do vậy, đầu tư của “True Taiwan - một Đài Loan thực sự” lớn hơn con số thống kê rất nhiều. Tuy nhiên , từ tháng 1 / 2001, Chính phủ Đài Loan đã bãi bỏ quy định về mức trần 50 triệu USD mà mỗi cá nhân được đầu tư về Trung Quốc nội địa và quyết định sẽ cấp phép tự động cho các dự án dưới 20 triệu USD, cùng với việc Trung Quốc mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo quy định của WTO, các công ty Đài Loan sẽ được chuyển vốn trực tiếp về Trung Quốc chứ không phải thông qua một nước trung gian nữa. Đầu tư của Đài Loan về Trung Quốc trong thời gian tới chắc chắn sẽ tăng. Tính đến hết năm 2001, đã có 40.000 công ty Đài Loan tại đại lục, là nguồn đóng góp chủ lực cho ngân sách và tạo ra công ăn việc làm cho 10 triệu lao động.
Từ tháng 9 / 1993, Bộ hợp tác kinh tế đối ngoại của Trung Quốc cho phép các công ty xuyên quốc gia được đến Trung Quốc và mở rộng hơn phạm vi kinh doanh với các công ty này, nhiều công ty xuyên quốc gia và tập đoàn tài chính lớn trên thế giới đã dồn dập đầu tư vào Trung Quốc với hy vọng sẽ có chỗ đứng lâu dài trong thị trường có tiềm năng khổng lồ này. Với phương châm “Lấy thị trường đổi lấy kỹ thuật”, “Lấy thị trường đổi lấy vốn”, “Lấy thị trường để phát triển”, Trung quốc thực thi các biện pháp linh hoạt để mở rộng thị trường nội địa, thiết lập và cải tiến cơ chế cạnh tranh trên thị trường, cải thiện môi trường đầu tư nên số lượng các công ty xuyên quốc gia đã tăng lên nhanh chóng. Đáng chú ý là từ năm 1994, trong khi vốn đầu tư cam kết từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan giảm thì đầu tư từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đức lại tăng lên ở những mức độ khác nhau. Quy mô trung bình của mỗi dự án đều cao gấp đôi so với các dự án đầu tư từ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan vì hầu hết đây là những công ty lớn.
Theo số liệu mới nhất của UNCTAD năm 2001, hơn 400 trong số 500 TNCs lớn nhất thế giới đã đến Trung Quốc đầu tư. Từ năm 1995 đã có 30 nhà doanh nghiệp nổi tiếng của các công ty Nhật Bản và Đức đã đầu tư xây dựng ở Trung Quốc với tổng cộng 231 doanh nghiệp, trong đó chỉ có 25 doanh nghiệp được thành lập vào những năm 80, còn lại 80% số doanh nghiệp chỉ đến năm 1993 mới được xây dựng. Như vậy, đa số các doanh nghiệp có đầu tư của TNCs được thành lập từ sau 1993. Tính tới cuối năm 1996, 18 trong số 20 công ty lớn nhất của Mỹ, 17 trong số 20 công ty lớn nhất của Nhật Bản, 8 trong số 10 công ty lớn nhất của Đức, 16 trong 20 công ty lớn nhất của Hàn Quốc đã có mặt tại Trung Quốc.
Mỹ là đối tác đầu tư lớn thứ hai ở Trung Quốc sau Hồng Kông, với vốn FDI tăng từ 354 triệu USD (1990) lên 4,4 tỷ USD năm 2001. Cùng với Hồng Kông, cửa ngõ của Trung Quốc với thế giới, Trung Quốc ngày càng trở thành địa chỉ đầu tư ưa thích của các công ty Mỹ. FDI của Mỹ vào Trung Quốc và Hồng Kông (2000) lên con số kỷ lục 4,4 tỷ USD - tăng 4% so với năm 1999 và chiếm 3,1% tổng vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ ra nước ngoài. Năm 2001, kim ngạch đầu tư theo hiệp định của Mỹ đạt 7,5 tỷ USD, kim ngạch thực tế đạt 4,43 tỷ USD, chiếm 10% tổng lượng FDI thực hiện của Trung Quốc. Đầu tư của Mỹ tập trung vào những ngành sản xuất tạo giá trị gia tăng cao (thiết bị điện tử, viễn thông), dịch vụ (bảo hiểm, tài chính, phân phối) và dầu khí.
Nhật Bản xếp hạng thứ ba, sau Mỹ trong danh sách 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc năm 2001 với 2.019 dự án và vốn sử dụng thực tế đạt 4,3 tỷ USD, chiếm 9%. Nếu tính chung cả giai đoạn 1979 - 1997 thì đầu tư của Nhật Bản trội hơn của Mỹ. Năm 1995 và 1996 là hai năm đánh dấu lượng đầu tư rất lớn của Nhật Bản. Trong hai năm này, các công ty Nhật Bản đã ký rất nhiều dự án đầu tư vào Trung Quốc. Năm 1995 có 2.946 hợp đồng với tổng số vốn ký kết đạt 7,59 tỷ USD, và năm 1996 là 1.742 hợp đồng với 5,8 tỷ USD. Năm 1997, đầu tư của Nhật Bản đạt mức 4,33 tỷ USD, cao hơn gần 1 tỷ so với mức đầu tư thực tế của Mỹ. Tuy nhiên năm 1997 cũng đánh dấu sự chững lại của đầu tư Nhật Bản, chủ yếu do sự đình trệ của nền kinh tế Nhật, nên đến năm 1998 lượng đầu tư của Nhật chỉ bằng một nửa lượng đầu tư của Mỹ, hạ vị trí của Nhật xuống hàng thứ ba, sau Mỹ, trong số các nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc.
Ngoài Hàn Quốc và Singapore (chiếm 5% lượng vốn đầu tư thực hiện), các nước còn lại trong 10 nước dẫn đầu về đầu tư trực tiếp tại Trung Quốc chiếm tỷ trọng rất nhỏ, từ 1-2%. Các nước châu Âu chỉ mới thực sự gia tăng đầu tư vào Trung Quốc trong mấy năm gần đây và việc đầu tư chủ yếu được thực hiện qua các công ty xuyên quốc gia. Tuy nhiên, với việc Trung Quốc gia nhập WTO tháng 11 / 2001, đầu tư của các nước này trong tương lai gần chắc chắn sẽ tăng.
3. Qui mô của các dự án đầu tư
Bảng 2: Quy mô bình quân một dự án giai đoạn 1985 - 2001
Đơn vị: triệu USD
Năm
Bình quân dự án
Năm
Bình quân dự án
1985
1,930
1994
1,714
1986
1,892
1995
2,403
1987
1,661
1996
3,0
1988
1,071
1997
2,5
1989
0,969
1998
2,54
1990
0,907
1999
2,6
1991
0,923
2000
2,78
1992
1,192
2001
2,64
1993
1,336
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê Trung Quốc 2001
Qua bảng trên, ta thấy quy mô đầu tư vào mỗi hạng mục đầu tư nước ngoài biến động không đều qua các năm. Thời kỳ đầu mở cửa, quy mô dự án nhỏ. Giữa thập kỷ 80, quy mô dự án khá cao, xấp xỉ 2 triệu USD một dự án. Tuy nhiên, quy mô này lại giảm vào những năm cuối của thập kỷ 80 và xu hướng tăng lại bắt đầu từ năm 1992 trở lại đây, từ mức 1,2 triệu USD/dự án lên 3 triệu USD/dự án.
Khoảng thời gian đầu, do đầu tư của thương gia nước ngoài còn mang tính thăm dò, nên các dự án có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Giữa thập kỷ 80, do đa số các dự án tập trung vào xây dựng các công trình cơ sở nên quy mô đầu tư của hạng mục tương đối lớn, lên tới gần 2 triệu USD/dự án. Từ năm 1986, mục tiêu kinh tế chuyển sang sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong cả nước và xuất khẩu thu ngoại tệ, chính phủ khuyến khích đầu tư vào chế biến hàng xuất khẩu và những ngành thâm dụng nhân công. Để tận dụng những ưu đãi, các nhà đầu tư đã chú trọng vào những ngành như: may mặc, sản xuất đồ điện tử thứ cấp, là những ngành không cần vốn đầu tư lớn. Do vậy, quy mô đầu tư giảm xuống dưới 1 triệu USD /dự án.
Nghiên cứu kỹ hơn, ta sẽ nhận thấy quy mô đầu tư của tư bản người Hoa ở Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao luôn nhỏ hơn mức bình quân trong giai đoạn đầu thập kỷ 90 trở về trước. Điều này quyết định tới quy mô nhỏ các hạng mục đầu tư nước ngoài vì Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan luôn là những đối tác đầu tư chủ yếu của Trung quốc. Quy mô một hạng mục của Ma Cao chỉ có 1,17 triệu USD, của Đài Loan đạt 0,844 triệu USD. Nguyên nhân là đầu tư của tư bản người Hoa và Hoa kiều mang tính truyền thống gia tộc là chính. Đầu tư của họ chủ yếu là vào những xí nghiệp vừa và nhỏ, ít vốn, phân tán, quản lý rời rạc, phương thức kinh doanh theo kiểu truyền thống. Theo số liệu điều tra của Trung Quốc năm 1992, những doanh nghiệp quy mô đầu tư dưới 1 triệu USD thường là những doanh nghiệp gia công vừa và nhỏ, loại hình tập trung nhiều lao động. Đối với những doanh nghiệp quy mô trên 1 triệu USD, thì có trên 80% tập trung vào ngành tập trung nhiều lao động như dệt may, giầy da, quần áo, đồ thể thao.
Từ năm 1993, chính sách khuyến khích TNCs phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường ngày càng lôi kéo nhiều TNCs đầu tư vào Trung Quốc. Điểm nổi bật của các hạng mục đầu tư của TNCs là quy mô lớn hơn của tư bản Hoa kiều rất nhiều. Đặc biệt, các hạng mục kỹ thuật cao, mới của các khu khai thác kinh tế kỹ thuật ven biển đã nâng cao từ 10% mấy năm trước lên 30% vào năm 1994, quy mô mỗi hạng mục tăng từ 1,8 triệu USD năm 1993 lên 2,4 triệu năm 1995. Ở Quảng Đông, Bắc Kinh và Thượng Hải, các hạng mục đầu tư quy mô lớn tăng lên rõ rệt. Trong năm 1993, ở Quảng Đông có tới 738 hạng mục được phê chuẩn trên 10 triệu USD, tăng 527 hạng mục so với trước. Cũng cùng năm đó ở Bắc Kinh có 202 hạng mục trên 10 triệu USD, trong đó có tới 49 hạng mục đầu tư trên 50 triệu USD. Ở Thượng Hải có 146 công ty xuyên quốc gia, đầu tư 281 hạng mục, vốn ký kết theo hiệp định là 3,722 tỷ USD, bình quân mỗi hạng mục là 13,5 triệu USD. Đặc biệt, trong những năm gần đây đã xuất hiện những dự án có số vốn kỷ lục như: khu công nghiệp Tô Châu - Singapore, tổng đầu tư 20 tỷ USD, khu khai thác kinh tế Dương Phố - Hải Nam, tổng đầu tư 130 tỷ USD.
Quy mô các hạng mục đầu tư nước ngoài tăng mạnh đã làm cho FDI có sự chuyển biến từ số lượng sang chất lượng. Đây là đặc điểm nổi bật của hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc trong những năm gần đây. Đó là lý do tại sao từ 1994 đến nay, mặc dù FDI ký kết theo hiệp định giảm nhưng FDI thực tế ngày càng tăng.
4. Hình thức đầu tư
Bảng 3: FDI tại Trung Quốc theo hình thức đầu tư năm 2001 và 2000
Đơn vị: triệu USD
TT
Hình thức đầu tư
Kim ngạch ký kết
Kim ngạch thực hiện
2001
2000
% tăng
2001
2000
% tăng
1
Liên doanh
17.540
20.030
-12
16.250
14.590
11
2
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
8.310
8.050
3
6.060
6.500
-7
3
DN 100% vốn nước ngoài
42.980
34.010
26
23.550
19.140
23
4
DN cổ phần đầu tư nước ngoài
330
210
57
460
110
31,8
5
Các hình thức khác
30
350
-91
530
440
20,4
Tổng cộng
69.190
62.650
10
46.850
40.770
15
Nguồn: China Statistical Yearbook 2001
Số liệu ở bảng 3 cho thấy hình thức đầu tư chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp “ba vốn”, tức là các doanh nghiệp hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, doanh nghiệp chung vốn (còn gọi là doanh nghiệp liên doanh) và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Năm 2000, doanh nghiệp hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp chung vốn và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lần lượt chiếm 12,7%; 32% và 54% vốn đăng ký và 16%; 35%; 46% tổng vốn đầu tư thực hiện. Năm 2001, tỷ trọng này lần lượt là 12%; 25%; 62% tổng vốn đăng ký và 13%; 34,7% và 50,3% vốn đầu tư thực hiện.
Doanh nghiệp hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng là doanh nghiệp kiểu hợp đồng, chủ đầu tư là nước ngoài cung cấp tiền vốn, thiết bị, kỹ thuật, Trung Quốc cung cấp tiền vốn, địa điểm, nhà xưởng hiện có, cơ sở trang thiết bị, sức lao động và các dịch vụ lao động. Tỷ lệ bỏ vốn của phía nước ngoài không thấp hơn 25% vốn đăng ký. Hai bên cùng nhau hợp tác hoạt động hoặc cùng hợp tác sản xuất kinh doanh. Hình thức này khác với doanh nghiệp liên doanh ở chỗ hai bên không thành lập pháp nhân mới. Khi chấm dứt hợp đồng, tài sản của doanh nghiệp trở thành sở hữu không bồi hoàn của phía Trung Quốc. Hình thức này rất phát triển trong giai đoạn đầu khi Trung Quốc đang xây dựng các đặc khu kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng vì nó đáp ứng yêu cầu về mặt thời gian, không mất nhiều thời gian đàm phán. Tuy nhiên, do đây là hình thức hợp tác giản đơn nên có xu hướng giảm dần cả về tỷ trọng lẫn tiến độ thực hiện. Vốn đầu tư thực tế theo hình thức này năm 2001 chỉ đạt 6 tỷ USD, giảm 7% so với mức 6,5 tỷ USD năm 2000.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp hợp doanh kiểu cổ phần. Nó là phương thức chủ yếu để thu hút đầu tư nước ngoài. Nó do các công ty, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác hoặc cá nhân nước ngoài cùng đầu tư, cùng kinh doanh, cùng chịu lỗ lãi, rủi ro với các công ty doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế khác của Trung Quốc. Hình thức trách nhiệm của nó là công ty trách nhiệm hữu hạn. Vốn góp của hai bên là vốn pháp định (25%), còn lại là vốn vay. Vốn vay này do công ty liên doanh đứng ra vay và có trách nhiệm hoàn trả. Doanh nghiệp liên doanh trong thời gian liên doanh không được giảm bớt tiền vốn đăng ký kinh doanh của mình. Các bên chung vốn phân chia lợi nhuận, gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ đầu tư. Ở thời kỳ đầu cải cách mở cửa, hình thức chiếm tỷ trọng chủ yếu vì được ưu đãi nhiều nhất về thuế xuất nhập khẩu hải quan so với các hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp hợp tác kinh doanh và vì Trung Quốc không cho phép doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên, hiện nay với việc Trung Quốc mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo khuyến nghị của WTO, hình thức này đang có xu hướng giảm sút, nhường chỗ cho hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vốn đăng ký theo hình thức doanh nghiệp liên doanh năm 2001 chỉ đạt 17,54 tỷ USD, giảm 12% so với mức 20,03 tỷ USD năm 2000. Tỷ trọng của doanh nghiệp liên doanh cũng giảm từ 32% vốn đăng ký năm 2000 xuống còn 25% năm 2001.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp mà toàn bộ vốn đầu tư do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư, xây dựng ở Trung Quốc theo luật pháp Trung Quốc, không kể những cơ cấu chi nhánh trên lãnh thổ Trung Quốc và các tổ chức kinh tế khác. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là pháp nhân Trung Quốc. Loại doanh nghiệp này phát triển rất mạnh mẽ ở Trung Quốc trong thời gian gần đây. Năm 2001, có tới 62% vốn FDI, tương đương 42,98 tỷ USD đăng ký theo hình thức này. Tỷ trọng của hình thức này trong tổng vốn thực hiện cũng đạt mức cao nhất so với các hình thức khác: 46% năm 2000 và 50% năm 2001. Hình thức này được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng vì họ được toàn quyền quyết định việc quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ năm 1992 - 1993, bên cạnh tiền vốn ngành nghề vào Trung Quốc theo doanh nghiệp “ba vốn” còn có tiền vốn lưu thông quốc tế theo các nhà đầu tư phương Tây vào Trung Quốc. Tiền vốn lưu thông này do các loại quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, cung cấp. Nó trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các công ty đầu tư, công ty chứng khoán vào Trung Quốc, dưới các phương thức mua bán chứng khoán, lưu thông tiền vốn cổ phần, xây dựng quỹ tham gia cổ phần, đưa tiền vốn vào Trung Quốc nhằm thu lợi. Những tiền vốn lưu thông này không tự mình lưu thông mở xưởng, làm hoạt động sản xuất thương mại mà nó theo đuổi tỷ suất cổ tức cố định, lâu dài, rủi ro tương đối nhỏ, tính lưu động tiền vốn cao, giá thành trực tiếp quản lý kinh doanh tương đối thấp.
Doanh nghiệp cổ phần đầu tư nước ngoài năm 2001 thu hút được 330 triệu USD vốn đăng ký (chiếm 0,5% vốn đăng ký), tăng gấp rưỡi năm 2000 và 460 triệu USD vốn thực hiện (chiếm gần 1% tổng vốn thực hiện), tăng 31,8% so với năm 2000. Đặc điểm của hình thức này là toàn bộ tiền vốn do những cổ phần mức bằng nhau tạo thành, các chủ đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, cổ phần trưng tập tới các nhà đầu tư khác. Những cổ phiếu này có thể lưu thông trong giao dịch chứng khoán hoặc chuyển nhượng trên thị trường trong nước và ngoài nước. Mục đích là để thu hút nhiều nhà đầu tư tăng vốn mở rộng cổ phần hơn nữa và tham gia vào cải cách doanh nghiệp quốc doanh. Tính đến cuối năm 1996, có 86 công ty Trung Quốc trong danh sách các công ty bán cổ phiếu B (cổ phiếu phát hành bằng NDT ở Thượng Hải và bằng HKD tại Thâm Quyến chỉ dành cho các nhà đầu tư nước ngoài). 86 công ty này bán cổ phiếu thu được gần 3 tỷ USD. Đầu năm 1997, Uỷ ban Chứng khoán nhà nước công bố thêm danh sách 33 doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu B.
Từ 1995 đến nay, các doanh nghiệp nước ngoài mở rộng cổ phần và tham gia vào thị trường chứng khoán Trung Quốc. Điều này đánh dấu hoạt động đầu tư của nước ngoài đã bắt đầu dựa vào thị trường vốn. Hoạt động đầu tư nước ngoài cũng bước vào giai đoạn đầu tư quy mô lớn, hệ thống hoá. Hình thức doanh nghiệp cổ phần chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.
5. Lĩnh vực đầu tư
Tính đến năm 1995, trong tổng vốn FDI vào Trung Quốc có 57,1% được đưa vào các ngành công nghiệp, 36% vào các ngành dịch vụ, 5% vào các ngành nông nghiệp, nghề rừng, chăn nuôi gia súc, nghề cá, bảo vệ nguồn nước. Như vậy, các ngành công nghiệp nhìn chung vẫn thu hút được đa số vốn FDI.
Thời kỳ đầu, song song với quy mô đầu tư nhỏ thì đầu tư cũng chỉ tập trung vào những ngành dịch vụ, chủ yếu là kinh doanh khách sạn, điểm vui chơi giải trí, xây cao ốc, vì những lĩnh vực này dễ thu hồi vốn. Từ năm 1986, Trung Quốc ban hành “Những quy định ưu đãi dành cho nhà đầu tư nước ngoài” trong đó ban hành nhiều ưu đãi nếu các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy, đầu tư vào công nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 1986, công nghiệp chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ bé 27,7% trong tổng vốn FDI thì đến năm 1990 đã tăng lên 84,4%. Năm 1992 và 1993, tỷ trọng này có giảm đi nhưng vẫn giữ ở mức cao là 55,3% và 45,9%. Thời kỳ này, đa số đầu tư tập trung vào những ngành công nghiệp gia công tập trung nhiều lao động, kỹ thuật thấp hoặc trung bình, sản phẩm chủ yếu để tái xuất hoặc xuất khẩu như: công nghiệp thực phẩm, đồ uống, dệt, may mặc, giầy da, đồ chơi, xà phòng, thuốc tẩy, chế tạo vỏ container...Công nghiệp nhẹ và công nghiệp gia công lần lượt chiếm 58,34% và 30,54% đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp. Do kết cấu như trên nên sức cạnh tranh của các doanh nghiệp liên doanh thời kỳ 1986 - 1991 còn bị hạn chế.
Năm 1994, chính phủ Trung Quốc có sự điều chỉnh kết cấu ngành nghề, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực dịch vụ và các ngành cơ sở nên lĩnh vực đầu tư được mở rộng, tuy nhiên, công nghiệp vẫn giữ vị trí chủ đạo. Trọng điểm ngành nghề đã được Trung Quốc chuyển từ công nghiệp gia công sang các ngành tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật, thu hút đầu tư nước ngoài hợp lý, từng bước có lựa chọn về mặt kỹ thuật cao. Các dự án theo quy định ưu tiên trong chính sách ngành nghề của Nhà nước về tái thiết và phát triển các ngành điện tử, máy móc, cơ khí và hoá dầu được hưởng nhiều ưu đãi.
Nhờ chính sách điều chỉnh, FDI vào các ngành dịch vụ ngày càng tăng. Trung Quốc khuyến khích đầu tư vào những hoạt động tư vấn, bảo hiểm, lưu thông tiền tệ, ngoại thương, du lịch, thương nghiệp bán lẻ. Tới cuối năm 1996, Trung Quốc đã phê chuẩn thành lập 148 cơ quan tài chính tiền tệ có vốn nước ngoài, 18 liên doanh bán lẻ, 2 liên doanh về mậu dịch đối ngoại. Hoạt động của các ngân hàng và các công ty bảo hiểm cũng đã phục vụ đắc lực cho mục tiêu thu hút vốn nước ngoài của Trung Quốc. Tính đến cuối năm 1995, tổng số vốn các ngân hàng này huy động được đã lên tới 3 tỷ USD tiền gửi và đã cho vay gần 30 tỷ USD, trong đó trên 90% là cho vay trong nước. Trung Quốc cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh tiền tệ và ngoại thương.
Đầu tư vào bất động sản tăng cực kỳ nhanh, tỷ lệ so với tổng số từ 6,9% năm 1986 lên 30,6% và 39,3% trong các năm 1992 và 1993. Trong năm 1994, nhiều dự án bất động sản phải chịu thua lỗ nặng nề. Đến nửa đầu năm 1995, tỷ lệ vốn đầu tư vào ngành này chỉ còn 26 %.
Nông nghiệp thu hút được ít vốn đầu tư nhất với mức tỷ lệ bình quân trên tổng lượng FDI là dưới 3%. Gần đây, nhờ những chính sách khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp mà tỷ trọng đầu tư vào ngành này có xu hướng tăng lên, đạt 5% vào năm 1995.
6. Địa bàn đầu tư
Thời kỳ đầu, FDI tại Trung Quốc chủ yếu đến từ tư bản người Hoa và Hoa kiều ở Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao nên địa điểm lý tưởng nhất cho đầu tư của họ là vùng ven biển Đông Nam. Nơi đây giao thông thuận tiện, được chính phủ Trung Quốc ưu tiên chọn làm trọng điểm đầu tư và quan trọng hơn, nơi đây chính là quê hương của phần lớn bà con Hoa kiều. Trong vùng này, 5 tỉnh thành gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang Tô, Sơn Đông và Thượng Hải có mức độ tập trung cao nhất. Năm 1992, 1993, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào 5 tỉnh thành này chiếm 70,8% và 66,2% FDI cả nước. Cho đến nay, những thành phố ven biển vẫn là nơi tập trung FDI lớn nhất. Năm 1998, lượng vốn FDI vào 14 thành phố ven biển chiếm tới 88% tổng lượng FDI của cả nước.
Khu vực rộng lớn nhưng lại thu hút lượng FDI ít hơn cả là vùng sâu trong nội địa. Trong nhiều năm, tỷ trọng FDI vào vùng này chỉ chiếm trên dưới 10% trong tổng lượng FDI cả nước. Nhằm hạn chế bớt sự chênh lệch về phân bố đầu tư giữa các vùng, gần đây, chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm tăng sự hấp dẫn hơn nữa của miền Trung và miền Tây đối với nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ có những cố gắng như vậy mà gần đây, đầu tư nước ngoài đã vươn tới những tỉnh nằm sâu trong nội địa. Bằng Tường, một tỉnh nghèo thuộc biên giới Tây Nam, chỉ trong vòng 5 năm 1992 - 1997 đã thu hút được 21 xí nghiệp “ba vốn” với lượng vốn đầu tư trị giá 33,6 triệu USD.
Đầu tư nước ngoài cũng có sự phát triển nhanh ở các tỉnh Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam của khu vực Nam Trung Bộ, Tứ Xuyên ở khu vực Tây Nam. Kế tiếp theo là bốn tỉnh, khu: Cam Túc, Tân Cương, Ninh Hạ, Thanh Hải của vùng Tây Bắc. Đến cuối năm 1993, 4 tỉnh, khu này đã cho phép thành lập số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lần lượt là 823, 570, 264, 67 triệu USD. Kim ngạch ký kết theo hiệp định lần lượt là: 0,467; 0,352; 0,102 và 0,028 tỷ USD. Kim ngạch sử dụng thực tế lần lượt đạt: 12,7; 53; 15,42; 3,92 triệu USD.
III. NHỮNG NHÂN TỐ TẠO NÊN SỨC HẤP DẪN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI TRUNG QUỐC:
Trung Quốc là một mảnh đất đầu tư mầu mỡ đối với các nhà đầu tư nước ngoài vì những lí do sau đây:
1. Kinh tế tăng trưởng mạnh
Trung Quốc là một thị trường đầy tiềm năng, đặc biệt khi các thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ đã tương đối bão hoà. Tính theo ngang giá sức mua PPP, Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ và người ta dự đoán quy mô của thị trường này sẽ vượt Mỹ vào năm 2020. Theo tạp chí Econosystem số ra ngày 23 / 7 / 2001, Trung Quốc duy trì được mức tăng trưởng GDP bình quân một năm khá cao 10,1% trong suốt mười năm từ 1991 đến 2000 và mức tăng trưởng trung bình là 9,7% kể từ 1980. Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng.
Bảng 4: Tăng trưởng GDP thực tế hàng năm của Trung Quốc giai đoạn 1991 - 2000
Đơn vị: phần trăm (%)
Bình quân giai đoạn 1991-2000
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002*
10,13
10,5
9,6
8,8
7,8
7,1
8,0
7,0
7,1
Nguồn: tạp chí Econosystem số 23 / 7 / 2001. (2002*: số liệu ước tính)
Năm 2001, trong bối cảnh suy giảm chung của nền kinh tế toàn cầu, Trung Quốc là nền kinh tế duy nhất duy trì được tốc độ tăng trưởng 7%.
Theo “Kế hoạch năm năm lần thứ 10” (2001 - 2005) về phát triển kinh tế xã hội của Quốc hội Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Trung Quốc sẽ được duy trì ở mức 7%/năm. Với mức tăng trưởng này, đến năm 2005, GDP của Trung Quốc sẽ đạt 15.500 tỷ NDT, tương đương 1.870 tỷ USD, mức GDP bình quân đầu người sẽ đạt 9.400 NDT (1.140 USD).
2. Tiềm lực thị trường to lớn
Với số dân đông nhất thế giới (1,3 tỉ người), Trung Quốc là một thị trường to lớn đầy hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài lợi thế là một thị trường tiêu dùng khổng lồ, Trung Quốc còn có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú: Hiện nay, tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc đứng thứ 3 trên thế giới, chủng loại phong phú và số lượng rất lớn. Trung Quốc là một trong những nước giàu nhất thế giới về các nguồn khoáng sản quan trọng như than, quặng sắt, kim loại màu: mangan chiếm 10% trữ lượng thế giới, vonfram chiếm 90% trữ lượng thế giới, molipden chỉ kém có Mỹ, antimoan chiếm khoảng 75-80% trữ lượng thế giới. Trong những năm gần đây, sản phẩm mang tính tài nguyên tăng nhanh. Than nguyên khai, xi măng, bông, vải bông, nguyên liệu dầu, đứng đầu thế giới. Lượng phát điện và sản lượng thép đứng thứ 4 thế giới, sản lượng dầu thô đứng thứ 5 thế giới.
3. Giá thành lao động và giá thành đất đai thấp
Với hơn 1,3 tỷ dân, hàng năm Trung Quốc cung cấp một nguồn lao động dồi dào cho sản xuất và lưu thông. Hơn nữa, giá thành lao động lại rẻ. Tiền lương bình quân ở Trung Quốc bằng 1/10 các nước NICs và bằng 1/30 của Nhật, Mỹ và một số nước tư bản phát triển. Bên cạnh giá lao động rẻ, giá cả đất đai để sử dụng xây dựng nhà máy, doanh nghiệp ở Trung Quốc cũng rất rẻ, chỉ bằng 1/30 ở Đài Loan. Giá thành lao động và giá đất đai thấp giúp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận, kích thích các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc.
4. Trung Quốc gia nhập WTO
Tháng 11 / 2001, sau một quá trình đàm phán kéo dài trong khuôn khổ WTO, Trung Quốc đã trở thành thành viên chính thức của WTO, một sự kiện quan trọng trong khuôn khổ hệ thống thương mại toàn cầu. Sự kiện này là hồi chuông mới nhất và vang xa nhất báo hiệu sự xuất hiện của Trung Quốc với tư cách một cường quốc kinh tế và chính trị đang lên.
Sự kiện này làm diễn ra một số thay đổi nhất định trong toàn bộ hệ thống quan hệ kinh tế thế giới. Hàng xuất khẩu của Trung Quốc trong 15 năm qua đã tăng 9 lần còn nhập khẩu tăng 5 lần. Về kim ngạch ngoại thương, Trung Quốc hiện đứng thứ 7 thế giới và dự kiến nước này sẽ nắm vị trí cao hơn nữa.
Tác động quan trọng của việc Trung Quốc gia nhập WTO là việc củng cố tiềm lực kinh tế của Trung Quốc. Trước hết, xuất khẩu của nước này sẽ tăng mạnh nhờ việc giảm thiểu các biện pháp phân biệt đối xử đối với hàng hoá Trung Quốc, đảm bảo cho Trung Quốc được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc trong quan hệ với các đối tác trong tổ chức này. Theo số liệu của Viện Hàn Lâm KHXH Trung Quốc, kim ngạch mậu dịch của Trung Quốc sẽ tăng từ 509,8 tỷ USD/2001 lên 600 tỷ USD năm 2005. Theo tính toán của ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế, GDP của Trung Quốc sẽ tăng 2-3%/ năm. Các chuyên gia Trung Quốc cho rằng việc này sẽ làm tăng GDP của Trung Quốc lên 2,9% hay 24 tỷ USD/ năm và tạo ra 10 triệu việc làm mới.
Việc mở rộng thị trường và cải thiện môi trường đối với hoạt động kinh doanh sẽ làm tăng mạnh nguồn vốn FDI. Theo số liệu của Viện hàn lâm KHXH Trung Quốc, FDI của Trung Quốc sẽ tăng lên 100 tỷ USD/năm vào năm 2005. Việc cơ cấu lại doanh nghiệp và toàn bộ các ngành dịch vụ như WTO khuyến nghị sẽ làm tăng hiệu quả phân phối lại các nguồn lực, tăng tiềm lực kinh tế của Trung Quốc.
Việc gia nhập WTO sẽ giúp Trung Quốc tăng cường định hướng thị trường trong hoạt động kinh tế của mình. Trung Quốc sẽ phải thực hiện các tiêu chuẩn quốc tế về mậu dịch hàng hoá, mậu dịch dịch vụ và trong các lĩnh vực bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Trung Quốc sẽ có những thay đổi trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua, Trung Quốc đã dành quy chế Tối Huệ Quốc đối với doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc thông qua các công ty trong nước. Trong khi đó, Trung Quốc vẫn có phân biệt đối xử đối với các công ty nước ngoài, ví dụ các yêu cầu về tỷ trọng sản phẩm trong giá thành sản phẩm cuối cùng, cam kết xuất khẩu và hạn chế bán hàng trong thị trường nội địa. Tuy nhiên, trong tương lai, Trung Quốc sẽ không thể áp dụng các biện pháp mâu thuẫn với các quy định của WTO. Trung Quốc sẽ phải đảm bảo chỉ được đối xử quốc gia với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và xóa bỏ ưu đãi đối với các công ty trong nước.
Những thay đổi trong quản lý đầu tư sẽ dẫn đến những thay đổi cơ cấu FDI. Dự báo vốn FDI vào khu vực dịch vụ sẽ tăng mạnh. Trong thập kỷ qua, 60% FDI tập trung vào công nghiệp. Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, việc phi điều tiết các khu vực tài chính, viễn thông, phân phối và dịch vụ nghề nghiệp sẽ góp phần làm tăng FDI vào các lĩnh vực này.
Ngoài ra, với môi trường kinh doanh thuận lợi, hệ thống pháp lý không ngừng được bổ sung, cơ sở hạ tầng không ngừng được hoàn thiện, Trung Quốc sẽ tiếp tục là địa điểm đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
CHƯƠNG II
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG THU HÚT FDI TẠI TRUNG QUỐC
Hơn hai mươi năm qua, Trung Quốc đã thực hiện đường lối mở cửa khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài nhằm phục vụ cho chiến lược cải cách kinh tế: chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường XHCN “mang màu sắc Trung Hoa”. Với những biện pháp và phương cách độc đáo chỉ có ở Trung Quốc, chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế Trung Quốc.
I. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC
1. Tác động tích cực
1.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Từ 1979 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã tăng lên rất nhanh. Nếu mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc vào năm 1979 mới đạt 3% thì đến giữa thập niên 90, tốc độ tăng trưởng đạt trên 10% và hiện duy trì ở mức trên 7%. Đạt được thành tựu kỳ diệu như vậy phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của FDI. Tính đến hết năm 2002, Trung Quốc có hơn 420.000 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đóng góp ngày càng lớn cho thu nhập quốc dân, từ mức 3,1% năm 1980 lên 19,6% năm 1999 và tăng vọt lên mức 32,3% GDP vào năm 2000. Thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ 8 (1991 - 1995), tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giá trị sản lượng công nghiệp của các doanh nghiệp “ba vốn” là 95,6%, dường như mỗi năm tăng lên 1 lần, trong khi các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước chỉ tăng 7,1%, doanh nghiệp công nghiệp tập thể tăng 28%. Năm 1998, tổng giá trị sản lượng công nghiệp của doanh nghiệp “ba vốn” chiếm 17,86% tổng giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước (xem bảng 5).
Bảng 5: Tỷ lệ các ngành công nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài trên tổng số công nghiệp của Trung Quốc
Đơn vị: phần trăm (%)
Lĩnh vực
Số doanh nghiệp
Tổng tài sản
Giá trị tăng thêm
Doanh thu
Thuế
Tổng cộng
9,15
17,53
17,86
20,52
17,26
Công nghiệp nhẹ
12,71
25,37
24,79
28,15
18,89
Công nghiệp nặng
5,81
13,45
13,2
15,1
16,16
Nguồn: Chỉnh lý từ Niên giám thống kê Trung Quốc năm 1998.
Bên cạnh đó, kết quả xuất khẩu nổi bật của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đóng góp tích cực cho sự phát triển của ngoại thương Trung Quốc. Các doanh nghiệp này có lợi thế hơn các doanh nghiệp trong nước trong việc xuất khẩu sản phẩm của mình, các lợi thế đó bao gồm: công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý và kiểm tra chất lượng tốt hơn, sản phẩm có danh tiếng hơn và có hệ thống tiêu thụ quốc tế rộng lớn hơn. Mức đóng góp gia tăng xuất khẩu của khu vực này năm 1988 là 18%, năm 1995 tăng lên 38,81% và năm 1997 lên tới 42%. Khu vực ĐTNN không chỉ thúc đẩy tăng trưởng tổng lượng xuất khẩu mà còn thúc đẩy việc cải thiện cơ cấu và nâng cấp sản phẩm xuất khẩu. Tuyệt đại bộ phận sản phẩm xuất khẩu của khu vực này là sản phẩm công nghiệp, tỷ trọng trung bình các năm đều hơn 90%. Tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến tăng từ 74,4% năm 1990 lên 83,7% năm 1994, tỷ trọng sản phẩm sơ cấp hạ từ 22,5% xuống còn 16,3%, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm cơ điện tăng từ 17,9% lên 26,4%. Kết cấu hàng hoá ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc tham gia ngày càng sâu vào mậu dịch thế giới.
Có thể nói, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận có sức sống nhất, là điểm tăng trưởng mạnh nhất trong nền kinh tế Trung Quốc những năm qua. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế Trung Quốc, trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao hàng năm của Trung Quốc có khoảng 4-5% thuộc về tiền vốn bên ngoài, điều này có nghĩa là tiền vốn của thương gia nước ngoài chiếm khoảng 3% tổng số tiền vốn trong nước, đã đóng góp hơn 30% cho sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.
1.2. Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đất nước
Trước khi mở cửa, Trung Quốc là một nước chậm phát triển với GDP năm 1978 là 358,8 tỷ NDT, thu nhập bình quân đầu người khu vực đô thị là 316 NDT, tích luỹ đầu tư hầu như không có. Để có được nguồn vốn, Trung Quốc đã áp dụng chính sách “thắt lưng buộc bụng” và mở cửa thu hút ĐTNN. Kể từ đó đến nay, nguồn vốn FDI đã có tác dụng bổ sung ngày càng lớn cho vốn đầu tư ở Trung Quốc.
Giai đoạn 1985 - 1995, vốn FDI thực tế bình quân một năm ở Trung Quốc đạt 11,7 tỷ USD, chiếm 6,4% vốn đầu tư cơ bản hàng năm của Trung Quốc. Tỷ lệ này tăng mạnh lên mức 14,6% vào năm 1997 rồi sau đó giảm nhẹ vào các năm 1998, 1999 và 2000, lần lượt chiếm 12,9%; 11,3% và 10,5% tổng vốn đầu tư cơ bản. FDI trong đầu tư tài sản cố định của Trung Quốc như vậy là khá cao so với mức bình quân 6,8% của thế giới.
Theo các số liệu thống kê, đầu tư trực tiếp của thương gia nước ngoài ước tính có tới 70% trở thành vốn đầu tư cố định, 30% trở thành vốn đầu tư lưu động. FDI đã trở thành nguồn vốn chủ yếu bù đắp vào chỗ thiếu trong tài sản cố định toàn xã hội của Trung Quốc.
Bên cạnh đó, thuế thu được của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là khoản đóng góp đáng kể cho nhu cầu chi tiêu, đầu tư của chính phủ. Năm 1992, tiền thuế liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại của Trung Quốc là 10,7 tỷ NDT, chiếm 2,1% số thuế tài chính cả nước, con số này năm 1995 là 65,96 tỷ NDT và chiếm13,2%.
Như vậy, FDI đã trở thành nguồn quan trọng bù đắp sự thiếu hụt trong tài sản cố định toàn xã hội của Trung Quốc và bổ sung cho nguồn thu nhập tài chính của Nhà nước.
1.3. Tạo điều kiện cho Trung Quốc phát triển công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ bù đắp sự thiếu hụt về vốn mà còn mang đến kỹ thuật và cơ chế quản lý hiện đại. Thông qua việc xây dựng các xí nghiệp “ba vốn”, Trung Quốc đã thu hút được một loạt kỹ thuật tiên tiến, bù vào chỗ thiếu của một số doanh nghiệp và ngành nghề của Trung Quốc. Trong đó tương đối nổi bật là những tiến bộ kỹ thuật như đường dây cáp quang, thiết bị thông tin, máy khí cụ tự động hoá, tivi mầu, thang máy, đường điện thống nhất quy mô lớn, máy điện cỡ nhỏ, ô tô con, vật liệu xây dựng loại mới, dược phẩm. Cùng với dòng chảy vào của FDI, những kinh nghiệm tổ chức và quản lý doanh nghiệp tiên tiến hiện đại cũng vào theo, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ chế kinh doanh theo hướng thị trường của các doanh nghiệp Trung Quốc.
Hiện nay, nhờ những chính sách hợp lý của chính phủ trong việc thu hút công nghệ cao, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đang có sự chuyển hướng sang các ngành công nghệ sinh học, vật liệu mới, đồ điện tử, công nghệ thông tin. Theo công bố chính thức của Viện Hàn lâm Trung Quốc, năm 2001, các doanh nghiệp này đã thành lập 124 trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ cao (Hi-tech R&D centers) tại Trung Quốc. Phần lớn các TNCs đều thành lập ít nhất một trung tâm R&D. Điển hình là các công ty Mỹ. Nếu như năm 1997, họ đầu tư 35 triệu USD cho hoạt động R&D tại Trung Quốc thì năm 1999, con số này đã tăng lên 305 triệu USD (tăng 771%), trong đó 292 triệu USD là của các hãng chế tạo còn 26 triệu USD còn lại là của các hãng dược phẩm đầu tư vào nghiên cứu và phát triển.
Mức độ thu hút công nghệ nguồn vào Trung Quốc ngày càng gia tăng. Theo thống kê của Cục Thương Mại Mỹ, năm 1997, chỉ có 13% doanh nghiệp có vốn nước ngoài ở Trung Quốc áp dụng những công nghệ hiện đại nhất của công ty mẹ vào Trung Quốc. Năm 2001, tỷ lệ này đã tăng lên 41% và ước tính năm 2002 lên mức 50%. FDI thực sự đã mang đến những kỹ thuật, công nghệ hiện đại và kỹ năng quản lý mới cho Trung Quốc.
1.4. Thúc đẩy sự hình thành thị trường các yếu tố sản xuất
Những hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc mang lại những phương thức hoạt động, những kinh nghiệm quản lý thị trường cho Trung Quốc, tạo điều kiện cho Trung Quốc dần hình thành thị trường các yếu tố sản xuất: thị trường kỹ thuật, thị trường vật tư, thị trường tiền vốn, thị trường lao động, thị trường đất đai.
Thứ nhất, FDI thúc đẩy hình thành thị trường nhà đất. Từ năm 1987, Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện nhượng bán quyền sử dụng đất của nhà nước cho các thương gia nước ngoài khai phát kinh doanh. Tính tới cuối năm 1990, khu vực ven biển nhượng bán tổng cộng 19,8 km2, thu về 19,5 tỷ NDT, trong đó, Thâm Quyến nhượng bán 6,5 km2, giá hợp đồng là 780 triệu NDT.
Thứ hai, FDI thúc đẩy sự hình thành thị trường vốn. Để có một thị trường tiền vốn, Trung Quốc đã từng bước xây dựng cơ sở và bộ phận chủ yếu của thị trường vốn, đó là thị trường chứng khoán, trong đó lại chia ra xây dựng thị trường cổ phiếu, trái khoán và thị trường quỹ tiền vốn. Thị trường cổ phiếu được chính thức thành lập ở Thâm Quyến và Thượng Hải năm 1992. Việc phát hành cổ phiếu loại B (cổ phiếu dành riêng cho thương gia nước ngoài) đã đánh dấu sự đột phá quan trọng trong thể chế tiền tệ của Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc còn phát hành cổ phiếu bằng ngoại tệ ở nước ngoài, chẳng hạn như cổ phiếu N được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán New York, cổ phiếu H được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hồng Kông.
Với sự phát triển trên, thị trường ở Trung Quốc ngày càng mở rộng. Nó thúc đẩy các loại nguồn vốn lưu thông, kết hợp các yếu tố sản xuất, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
Ngoài ra, FDI còn tạo công ăn việc làm cho một bộ phận đông đảo người lao động Trung Quốc, thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa Trung Quốc với Hồng Kông, Ma Cao, góp phần cân bằng thu chi giữa Trung Quốc với quốc tế.
Bên cạnh những tác động tích cực, FDI cũng gây một vài ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế Trung Quốc.
2. Những tác động tiêu cực của FDI đối với nền kinh tế Trung Quốc
2.1. Kết cấu ngành nghề của FDI còn chưa hợp lý, ảnh hưởng tới kết cấu ngành nghề chung của Trung Quốc
Trong tổng nguồn vốn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc, phần lớn đầu tư vào ngành công nghiệp trong khi đầu tư vào nông nghiệp và ngành dịch vụ vẫn còn khiêm tốn. Trong công nghiệp, phần lớn đầu tư vào ngành tập trung nhiều lao động, còn đầu tư ít vào ngành tập trung nhiều kỹ thuật và vốn, dẫn đến tình trạng Trung Quốc phải nhập phần lớn nguyên liệu để gia công lắp ráp, còn ít những hạng mục cao và mới. Ngành gia công thì tăng nhanh, trái lại ngành kỹ thuật cao thì tăng chậm, điều này đã ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
2.2. Quá trình thu hút FDI tạo ra sự phát triển chênh lệch giữa các vùng của Trung Quốc
Thời gian qua, FDI vào khu vực miền Trung và miền Tây chiếm tỷ trọng rất nhỏ và hầu như không đáng kể trong tổng luồng vốn FDI vào cả nước. Trong khi đó, các tỉnh, các thành phố ven biển lại là nơi tập trung chủ yếu của FDI. Theo tạp chí “The Taipei Times” ra ngày 12 / 1 / 1999, chỉ riêng tỉnh Quảng Đông thu hút được 26,5% tổng vốn FDI vào Trung Quốc năm 1998, trong khi cả miền Tây nội địa rộng lớn chỉ thu hút có 3%. Điều này gây ra sự phát triển mất cân đối giữa khu vực ven biển với miền Trung, miền Tây nội địa. Theo tài liệu thống kê của Trung Quốc trong hai chục năm qua, tổng giá trị sản xuất quốc nội ở khu vực miền Trung từ 31% xuống còn 27,5%, khu vực miền Tây từ 16,5% giảm còn 14,1%, khu vực miền Đông thì từ 52,5% nâng lên 58,3% so với cả nước. Năm 2000, thu nhập sau thuế trung bình trên đầu người là 6.280 NDT/ năm ở các thành phố ven biển trong khi ở các thành phố nội địa chỉ đạt 2.253 NDT. GDP/người ở thành phố ven biển cao gấp gần 3 lần khu vực nội địa.
2.3. FDI tăng cao ảnh hưởng đến kinh tế quá nóng
Có những giai đoạn FDI đổ vào Trung Quốc quá nhiều gây nên những cơn sốt đầu tư. Chẳng hạn như giai đoạn 1992 - 1993, do quá coi trọng việc đưa tiền vốn bên ngoài vào, các địa phương đua nhau theo đuổi tiền vốn nước ngoài, thậm chí đem việc thu hút FDI đánh đồng với phát triển kinh tế. Họ đua nhau miễn giảm thuế thu nhập, hạ thấp giá cả sử dụng đất đai, hình thành nên những “cơn sốt” cổ phiếu, nhà đất, khu khai phát, lợi dụng vốn ngân hàng...trên khắp cả nước. Một hậu quả trực tiếp mà những cơn sốt đem lại chính là đầu tư quá nóng. Đầu tư quá nóng ảnh hưởng làm kinh tế quá nóng. Lạm phát tăng cao trong hai năm liền, năm 1993 là 13,2%, 1994 là 21,7%.
Thu hút FDI nghiêng nhiều về ngành bất động sản. Quy mô đầu tư vào ngành này quá lớn: các dự án xây dựng quá nhiều đã làm tăng nhu cầu về vật liệu xây dựng. Do vậy ở một mức độ nhất định việc cung ứng vật liệu xây dựng bị căng thẳng, nó đã mở rộng khoảng cách giữa cung và cầu, thúc đẩy vật giá gia tăng. Ngành bất động sản phát triển mạnh còn nảy sinh hoạt động đầu cơ bất động sản buôn đất, buôn nhà làm cho giá các khâu chuyển nhượng vượt qua hàng chục lần, thậm chí hàng trăm lần giá nhượng bán đất gây nên sự bất ổn định của tiền tệ.
II. NHỮNG BÀI HỌC THÀNH CÔNG TRONG THU HÚT FDI Ở TRUNG QUỐC
1. Từng bước mở rộng địa bàn đầu tư
Trước khi tiến hành cải cách, nền kinh tế Trung Quốc cũng lâm vào tình trạng suy thoái toàn diện, nên khi thực hiện mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, tất cả các địa phương, các ngành đều đứng trước nhu cầu thiếu gay gắt về vốn. Tuy nhiên, vì mỗi vùng có trình độ phát triển khác nhau nên không thể cùng một lúc mở cửa tất cả các vùng. Với phương châm “dò đá qua sông”, vừa làm thử vừa rút kinh nghiệm, Trung Quốc đã ưu tiên mở cửa đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các vùng có điều kiện thuận lợi phát triển trước.
1.1. Xây dựng các đặc khu kinh tế (Special Economic Zones)
Khu vực ven biển Đông Nam của Trung Quốc có một ưu thế đặc biệt, đó là truyền thống kinh doanh buôn bán lâu đời và vị trí địa lý thuận lợi trong giao thương quốc tế. Nếu vùng này có thể đi vào thị trường quốc tế để tỏ rõ thế mạnh, tìm ra lối thoát để chuyển sang quỹ đạo hướng ra bên ngoài, tạo một cái nhìn tốt về nền kinh tế Trung Hoa thì chẳng những kinh tế vùng đó phát triển mà còn làm bàn đạp cho sự phát triển của cả miền Trung và miền Tây. Xuất phát từ ý nghĩ đó, năm 1980, Trung Quốc chính thức thành lập tại khu vực này bốn đặc khu kinh tế (ĐKKT): Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại tỉnh Quảng Đông và đặc khu Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Đến năm 1988, để đáp ứng nhu cầu mở cửa đối ngoại, Trung Quốc đã thành lập tỉnh đảo Hải Nam và toàn tỉnh đã trở thành đặc khu kinh tế thứ năm khiến cho quy mô các đặc khu ngày càng mở rộng.
Với phương châm “mượn gà đẻ trứng”: sử dụng vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài để phát triển kinh tế đất nước và chỉ rõ “những con gà cần mượn”, Trung Quốc đã không nhầm khi xác định các đối tượng đầu tư của chính sách thu hút vốn đầu tư bên ngoài: hơn ai hết, chính là 57 triệu người Hoa hải ngoại, là Đài Loan, là Hồng Kông, Ma Cao. Tiếp sau là tất cả những ai có khả năng cung cấp công nghệ cao và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Điều này lý giải tại sao Trung Quốc lại lựa chọn thành lập các đặc khu kinh tế ở những vị trí rất đắc địa:
Thứ nhất, các đặc khu đều nằm sát các thị trường tư bản: Thâm Quyến tiếp giáp với Hồng Kông, Chu Hải nằm cạnh Ma Cao, Sán Đầu và Hạ Môn đối diện với Đài Loan, giao thông đường biển, đường không thuận tiện với bên ngoài, là cầu nối của Trung Quốc với các trung tâm công nghiệp và thương mại trên thế giới, tạo cơ hội cho Trung Quốc du nhập vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài.
Thứ hai, các đặc khu là quê hương của hàng chục triệu người Hoa và Hoa kiều ở nước ngoài. Họ có vốn, có kỹ năng quản lý hiện đại, có kinh nghiệm ngân hàng, có kiến thức tiếp thị. Cộng đồng người Hoa ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế tài chính khổng lồ sẽ là lợi thế cho Trung Quốc khai thác vốn đầu tư.
Ngay từ khi bắt đầu xây dựng, Trung Quốc đã định các đặc khu kinh tế phải hoàn thành nhiệm vụ “bốn cửa sổ” là cửa sổ kỹ thuật, cửa sổ quản lý, cửa sổ tri thức và cửa sổ chính sách đối ngoại. Một mặt có nhiệm vụ làm ra số của cải vật chất ngày càng nhiều, dẫn đầu cả nước trong việc làm giàu. Mặt khác phải cung cấp cho nội địa những khoa học kỹ thuật mới và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tăng nhanh tiến trình 4 hiện đại hoá của đất nước.
Các đặc khu được xây dựng phần nào dựa trên mẫu các khu chế xuất, tức là cũng được thành lập để thu hút FDI, áp dụng và chuyển giao công nghệ mới và kỹ năng quản lý, mở rộng xuất khẩu và thu ngoại tệ và tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên mục tiêu của các đặc khu không chỉ dừng lại ở hướng về xuất khẩu như các khu chế xuất mà phải thực hiện nhiệm vụ kép bao gồm “ngoại diên”, tức là đưa đầu tư và kỹ thuật từ nước ngoài vào và “nội liên”, tức là thiết lập các mối quan hệ với các xí nghiệp nội địa Trung Quốc. Những kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm quản lý du nhập ở nước ngoài thông qua tiêu hoá và hấp thụ, truyền đạt, được chuyển vào nội địa theo mô hình hướng ra bên ngoài. Do vậy, ĐKKT của Trung Quốc ngoài chế biến xuất khẩu còn khuyến khích các nhà đầu tư vào nhiều lĩnh vực hơn khu chế xuất như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch...
Để thu hút FDI vào các đặc khu, Trung Quốc đã áp dụng một loạt các chính sách linh hoạt hợp lý.
Thứ nhất, áp dụng “dịch vụ một cửa”, Trung Quốc mạnh dạn phân quyền cho các đặc khu. Trung Ương chỉ thống nhất quản lý vĩ mô, từ bỏ việc can thiệp trực tiếp vào các vấn đề kinh tế của địa phương. Tính toán quản lý các thông số kinh tế cụ thể do địa phương hoàn toàn quyết định. Trung Ương cho phép các ĐKKT quyền hành chính, lập pháp và quản lý kinh tế ngang cấp tỉnh. Được đại hội đại biểu nhân dân Trung Quốc phê chuẩn, các ĐKKT có quyền ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động kinh tế trong phạm vi đặc khu, tuỳ theo yêu cầu thực tế và mức độ cần thiết hợp với đánh giá của đặc khu. Các ĐKKT hoàn toàn đủ thẩm quyền phê chuẩn các dự án có mức vốn đầu tư dưới 30 triệu USD với điều kiện không thuộc danh sách các hạng mục cần kiểm soát của nhà nước. Việc phân cấp quản lý này vừa có tác dụng rất tích cực trong việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương trong thu hút FDI, vừa giảm bớt sự cồng kềnh của bộ máy quản lý, tăng cường sức hấp dẫn của địa phương đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, các chính sách ưu đãi áp dụng tại các đặc khu tỏ ra rất mạnh bạo. Mặc dù đã có ưu thế về lao động rẻ và phí sử dụng đất thấp, mức ưu đãi về thuế đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong đặc khu vẫn cao hơn nhiều so với ngoài đặc khu, cụ thể là:
- Về thuế thu nhập doanh nghiệp:
Tại các ĐKKT, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN chỉ phải chịu mức thuế thu nhập 15% so với mức phổ biến 33%. Đối với doanh nghiệp có trên 70% sản phẩm xuất khẩu thì còn được hưởng mức thuế ưu đãi cao hơn nữa. Những doanh nghiệp nước ngoài sẵn có từ trước khi thành lập đặc khu được giảm thuế suất từ 33% xuống còn 24%, riêng các doanh nghiệp có áp dụng công nghệ cao được hưởng thuế suất 15%.
- Về thời hạn miễn giảm thuế:
Các doanh nghiệp tại các ĐKKT được hưởng những ưu đãi về thuế mà các doanh nghiệp ở các vùng khác không được hưởng. Trước khi ban hành luật thuế ĐTNN mới vào tháng 4 / 1991, kỳ miễn giảm thuế của các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài được hưởng là 5 năm, với các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là 3 năm. Với các xí nghiệp tại các ĐKKT có thời hạn kinh doanh từ 10 năm trở lên, được áp dụng thời hạn miễn thuế chung là 5 năm theo công thức 2+3 tức là được miễn thuế 2 năm đầu kể từ khi bắt đầu có lãi và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 3 năm tiếp theo. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành dịch vụ, thương nghiệp, thì kỳ miễn giảm thuế là 3 năm theo công thức 1+2. Đối với các ngành cần đặc biệt khuyến khích đầu tư, được miễn thuế 5 năm và giảm 50% thuế trong 5 năm tiếp theo. Tuy nhiên, sau khi ban hành luật thuế ĐTNN mới, thời hạn miễn giảm thuế không còn là một ưu đãi của đặc khu cho các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài nữa.
- Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài:
Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN ở các vùng khác ngoài đặc khu phải chịu mức thuế 10%, còn đối với các doanh nghiệp trong đặc khu được miễn hoàn toàn khoản thuế này.
Về các khoản thu nhập khác như lợi nhuận được chia, lãi suất, tiền thuê hay bán bản quyền nhận được của các doanh nghiệp nước ngoài trong ĐKKT, mà những doanh nghiệp này không có cơ sở kinh doanh tại Trung Quốc thì chỉ chịu thuế suất 10% thay vì chịu mức thuế 20% so với các khoản thu tương tự từ các vùng khác trong nước. Có thể tổng hợp các ưu đãi về thuế trên đây thành bảng sau:
Bảng 6: Những ưu đãi về thuế tại các đặc khu kinh tế
Phân loại
Doanh nghiêp
ngoài ĐKKT
Doanh nghiệp trong ĐKKT
Thuế thu nhập thống nhất
33%
15%
Thuế thu nhập với doanh nghiệp xuất khẩu trên 70 % sản lượng sản xuất ra
15%
10%
Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
10%
0%
Thuế thu nhập cho các doanh nghiệp không có cơ sở ở Trung Quốc
20%
10%
Thời hạn miễn giảm thuế
2 năm (giảm 50% cho 3-5 năm tiếp theo)
2 năm (giảm 50% cho 3-5 năm tiếp theo)
Nguồn: Nguyễn Minh Hằng, “Việc thành lập các ĐKKT ở Trung Quốc”, tạp chí “Nghiên cứu Trung Quốc”, số 5 / 1996
- Về thuế xuất nhập khẩu:
Chính sách thuế xuất nhập khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp trong đặc khu thay đổi theo thời gian được điều chỉnh cùng với những biến động của tình hình đầu tư. Các xí nghiệp có vốn ĐTNN không phải nộp thuế xuất nhập khẩu đối với thiết bị sản xuất, nguyên liệu, phụ tùng thay thế, linh kiện hoặc vật dụng khác cho nhu cầu của bản thân xí nghiệp. Với nguyên liệu, bán thành phẩm được nhập khẩu để gia công cho nước ngoài thì không thu thuế nhập khẩu. Trong thời gian 1995 - 1997, Trung Quốc không miễn thuế nhập khẩu đối với linh kiện, thiết bị và nguyên vật liệu. Nhưng từ đầu năm 1998, do ĐTNN có xu hướng giảm nên chính sách miễn thuế nhập khẩu lại được thực hiện.
Để khuyến khích xuất khẩu, Trung Quốc áp dụng chế độ thoái thu thuế giá trị gia tăng đã nộp, tức áp dụng mức thuế VAT đầu ra 0% cho hàng xuất khẩu. Đối với những mặt hàng chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, Trung Quốc tăng thuế xuất khẩu.
Bên cạnh đó, các chính sách lao động, tiền lương, tiêu thụ sản phẩm cũng được áp dụng rất linh hoạt nhằm tăng cường sức hấp dẫn của đặc khu:
- Chính sách về lao động và tiền lương:
Các doanh nghiệp hoạt động trong đặc khu có quyền tuyển dụng lao động từ trong và ngoài đặc khu. Việc tuyển dụng được thực hiện theo chế độ hợp đồng lao động. Công ty có quyền quyết định số lượng biên chế, mức lương, có quyền kỷ luật, sa thải công nhân theo pháp luật và các quy định trong hợp đồng lao động.
- Chính sách về thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Các sản phẩm sản xuất ra trong ĐKKT sẽ được tiêu thụ ở các thị trường sau:
+ Xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
+ Tiêu thụ ở chính trong đặc khu.
+ Đưa vào tiêu thụ trong thị trường nội địa. Nhà nước Trung Quốc luôn khuyến khích và yêu cầu các nhà sản xuất trong đặc khu nâng cao hơn nữa tỷ lệ xuất khẩu các sản phẩm của mình thông qua các biện pháp hành chính và kinh tế. Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN xuất khẩu trên 70% sản phẩm sản xuất ra sẽ được giảm thuế thu nhập 5%. Bên cạnh đó, một tỷ lệ nhất định hàng hoá được chuyển vào tiêu thụ tại thị trường nội địa. Tuy nhiên, những mặt hàng khi nhập vào thị trường nội địa phải chịu thuế nhập khẩu như khi nhập từ thị trường nước ngoài. Một phần hàng được tiêu thụ tại đặc khu và phần này không phải chịu thuế.
Những chính sách kinh tế và thể chế quản lý kinh tế đã thúc đẩy kinh tế đặc khu phát triển. Theo đánh giá của tạp chí “Khoa học xã hội Quảng Đông”, các ĐKKT hết sức nổi bật do có nhiều cái nhất: tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất, sử dụng vốn nước ngoài tập trung nhất, xí nghiệp liên doanh dày đặc nhất, khả năng xuất khẩu thu ngoại tệ nhanh nhất, phạm vi liên hệ với kinh tế nội địa rộng nhất, mức độ điều tiết của thị trường lớn nhất. Tính đến hết năm 1997, ở các đặc khu đã có gần 40.000 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký. Số vốn đầu tư nước ngoài sử dụng tại các đặc khu đạt dưới 50 tỷ USD, chiếm hơn 20% tổng vốn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc. Riêng năm 1997, mặc dù khu vực chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, các ĐKKT vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân cả nước. Theo tài liệu thống kê, GDP của ĐKKT đạt 252,2 tỷ NDT, tăng 15,4% so với năm 1996, vượt mức tăng trưởng bình quân của cả nước 5,6%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của ĐKKT đạt 68,96 tỷ USD, tăng 16,5% so với năm 1996, chiếm 21,2% trong tỷ trọng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Thu nhập tài chính trong dự toán đạt 24,58 tỷ NDT, tăng 22,2% so với năm 1996. Chỉ số hiệu qủa tổng hợp công nghiệp ở các ĐKKT cũng cao hơn so với năm 1996.
Sau hơn 20 năm xây dựng, đến nay, mỗi ĐKKT đã xác lập được các ngành chủ đạo cho riêng mình. Thâm Quyến có ngành điện tử dân dụng, tin học, sinh học. Hạ Môn có ngành nông nghiệp nhiệt đới hiệu quả cao, công nghiệp hoá dầu, du lịch... Không chỉ vậy, ĐKKT còn tiến hành điều chỉnh kết cấu tổ chức các doanh nghiệp, thành lập một tập đoàn xí nghiệp lớn: Thâm Quyến có 36 tập đoàn, Chu Hải có 19 tập đoàn.
Với những kết quả trên, việc xây dựng ĐKKT của Trung Quốc đã rất thành công. ĐKKT đã phát huy vai trò “bốn cánh cửa sổ” và “cầu nối”, có ảnh hưởng tích cực đối với trong và ngoài nước.
1.2. Xây dựng 14 thành phố mở cửa ven biển
Sau khi đặc khu kinh tế thành công, chứng minh đường lối mở cửa là đúng đắn, Trung Quốc tiếp tục xây dựng các mô hình mở rộng để tăng cường thu hút FDI. Tháng 4/1984, Trung Ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định mở cửa 14 thành phố ven biển gồm Thiên Tân, Thượng Hải, Đại Liên, Tân Hoàng Đảo, Yên Đài, Thanh Đảo, Liên Vân Cảng, Nam Thông, Ninh Ba, Ôn Châu, Phúc Châu, Quảng Châu, Trạm Giang và Bắc Hải với tổng diện tích hơn 100.000 km2 và dân số khoảng 45,38 triệu người. Cả 14 thành phố này đều là nơi kinh tế phát triển, đời sống dân cư khá giả hơn các vùng khác. Giá trị sản lượng công nghiệp chiếm 23% sản lượng của cả nước. Giao thông của các thành phố này đều rất thuận tiện cho giao lưu quốc tế đặc biệt là giao thông đường thuỷ. Ngoài ra, các thành phố này còn có bề dày lịch sử trong giao thương với bên ngoài, do vậy, nơi đây cũng là nơi có kinh nghiệm nhiều nhất trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Căn cứ theo đặc điểm riêng của mỗi thành phố, Trung Quốc chia các thành phố thành bốn loại lớn:
- Loại hình tổng hợp, gồm 3 thành phố: Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Châu.
- Loại hình thương mại, gồm 3 thành phố: Đại Liên, Thanh Bảo, Ninh Ba. Những thành phố này ngoài nhiệm vụ buôn bán tập trung còn làm nhiệm vụ trung chuyển buôn bán với nước ngoài.
- Loại hình cơ sở, gồm 6 thành phố: Phúc Châu, Ôn Châu, Nam Thông, Yên Đài, Trạm Giang, Bắc Hải. Các thành phố này là nơi sản xuất nguyên vật liệu, cấu kiện và năng lượng.
- Loại hình vận tải cảng, gồm 2 thành phố: Liên Vân cảng, và Tân Hoàng Đảo.
Các thành phố mở cửa ven biển là bước đi thứ hai của Trung Quốc trong thu hút FDI. Sử dụng những kinh nghiệm sẵn có trong các đặc khu, Trung Quốc tạo dựng hàng loạt chính sách thích hợp để thực hiện được mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài vào các thành phố này. Ngoài việc tăng cường phân cấp quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài đến chính quyền các thành phố này thì việc cho phép các thành phố xây dựng các khu khai phát (khu khai thác và phát triển kỹ thuật) là một việc làm quan trọng và hiệu quả. Khu khai phát là nơi được thành lập riêng trong vùng nhằm khuyến khích đầu tư vào các hạng mục tập trung nhiều tri thức kỹ thuật và những hạng mục có công nghệ mới. Trung Quốc đặc biệt khuyến khích các nhà đầu tư hợp tác nghiên cứu khoa học, hợp tác phát triển sản xuất, hợp tác nghiên cứu thiết kế phát minh, kỹ thuật, sản phẩm mới.
Để đạt được những mục tiêu đề ra tại khu khai phát, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra những chính sách rất ưu đãi tại các đặc khu này. Ngoài việc được hưởng toàn bộ ưu đãi như khi đầu tư ở ngoài khu, các nhà đầu tư còn được hưởng những ưu đãi như giảm 15% thuế thu nhập, miễn thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài mà lẽ ra họ phải nộp 10% theo mức chuyển. Tuy nhiên, để đảm bảo mục tiêu của khu khai phát là thực hiện “bốn hiện đại hoá”, Trung Quốc chỉ cho phép xây dựng ở đây những hạng mục có kỹ thuật tiên tiến, các hạng mục kỹ thuật bình thường không được đầu tư vào đây.
Một số khu khai phát được phát triển theo định hướng chức năng. Khu khai phát Phố Đông - Thượng Hải được phát triển theo bốn trọng điểm:
- Khu mậu dịch tiền tệ Lục Gia Thuỷ, là một trong những thương vụ trung tâm của Thượng Hải, đã khởi công xây dựng 67 công trình lớn để kinh doanh tổng hợp tiền tệ, thương mại.
- Khu chế xuất Kim Kiều, tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu.
- Khu bảo thuế Ngoại Cao Kiều có bốn chức năng: là khu kho bảo thuế, trung tâm mậu dịch tự do, khu chế xuất và là khu dịch vụ đời sống.
- Khu khoa học kỹ thuật cao Trường Giang.
Mục tiêu của việc xây dựng Phố Đông là nâng cao hơn nữa chức năng tổng hợp của Thượng Hải, đặt nền tảng cho việc xây dựng Thượng Hải thành một trong những trung tâm kinh tế, mậu dịch và tiền tệ lớn nhất bên bờ Tây Thái Bình Dương. Tại khu khai phát Phố Đông, thể chế kinh tế thị trường đã hình thành: ngành chứng khoán, tiền tệ, nội ngoại thương, tài sản nhà đất và các ngành phục vụ liên quan khác, giúp Thượng Hải chuyển đổi sang đô thị lớn, hiện đại hoá, làm đầu tàu dẫn dắt kinh tế cả nước phát triển. Việc mở cửa phố Đông đã cho ra đời thị trường tiền vốn với việc thành lập thị trường chứng khoán và đổi mới chế độ luân chuyển vốn gián tiếp.
Theo thống kê, trước khi khai phát phố Đông, tháng 4 / 1994, khu này mới chỉ có 37 hạng mục đầu tư của thương gia nước ngoài. Đến cuối tháng 8 / 1994, Phố Đông đã có 2.300 hạng mục tiền vốn nước ngoài của 43 nước và khu vực, tổng đầu tư 9,34 tỷ USD. Đặc biệt là có 45 công ty xuyên quốc gia đã có mặt tại phố Đông.
Hiện nay, các khu khai phát đang xúc tiến giai đoạn phát triển thứ hai, lấy công nghệ cao làm cốt lõi, mở rộng sản xuất, tăng cường tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá công nghiệp, nhất là hàng công nghiệp có sử dụng kỹ nghệ cao. Mượn công nghệ và kinh nghiệm quản lý nước ngoài để đào tạo công nhân và cán bộ quản lý của Trung Quốc.
Nhờ các chính sách linh hoạt, các thành phố ven biển đã thu hút được đầu tư nước ngoài mạnh mẽ. Có khoảng 80% FDI đổ vào các thành phố ven biển (kể cả các đặc khu kinh tế). Ngoài ra, nhờ những ưu đãi đặc biệt đối với các dự án công nghệ cao cộng với chính sách quản lý thông thoáng đối với công ty có vốn đầu tư nước ngoài mà các thành phố ven biển là nơi tập trung được nhiều công ty xuyên quốc gia. Riêng ở Thượng Hải có hơn 100 công ty xuyên quốc gia đang hoạt động.
Cho đến nay, các thành phố ven biển của Trung Quốc đã tương đối phát triển và đang xây dựng kế hoạch đẩy nhanh hơn các bước mở cửa không những ở vùng ven biển mà còn ở cả các vùng sâu trong nội địa, miền Trung và miền Tây, hình thành nên một cục diện mở cửa toàn phương vị, từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây.
Có thể nói, mặc dù Trung Quốc đất rộng, người đông, nhưng do thận trọng khi ra quyết định nên số lượng các ĐKKT và các hình thức mở rộng của chúng ở Trung Quốc là khá ít thậm chí rất ít, nhưng thành công lại rất cao. Các mô hình mở rộng chỉ được phép thành lập ở những nơi hội tụ đủ các điều kiện về cơ sở hạ tầng, về môi trường đầu tư và có nhiều thế mạnh truyền thống hoạt động công nghiệp và thương mại. Chỉ sau khi thực hiện các cuộc khảo sát nghiên cứu khả thi nghiêm túc, kỹ càng, có kết quả khảo sát khách quan, đảm bảo chắc chắn thành công mới ra quyết định thành lập. Việc Trung Quốc xây dựng các mô hình điểm thu hút FDI sau đó nhân rộng ra cả nước thực sự là một bước đi “chậm mà chắc”. Đó cũng là một trong những kinh nghiệm mà người Trung Quốc đã đúc kết từ câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông: “Một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy cả cánh đồng”.
2. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư
2.1. Cải thiện môi trường đầu tư “mềm”
Môi trường đầu tư “mềm” là toàn bộ cơ chế, chính sách có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và quá trình phát triển của hoạt động đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ đó, nó được coi là một trong những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng nhất đến khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Sự thành công trong thu hút FDI của Trung Quốc trong thời gian qua có một phần đóng góp mang tính quyết định của việc hoàn thiện môi trường đầu tư mềm này.
2.1.1. Về luật pháp:
Trung Quốc đã ban hành hơn 500 văn bản bao gồm các bộ luật và pháp quy liên quan đến quan hệ kinh tế đối ngoại và đầu tư trực tiếp, tương đối phù hợp với đòi hỏi của những quan hệ mở trong nền kinh tế thị trường. Chúng được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản là:
- Bình đẳng cùng có lợi, nghĩa là phải có lợi cho việc xây dựng hiện đại hoá của Trung Quốc, đồng thời các nhà đầu tư cũng thấy được lợi ích của mình. Nhà nước Trung Quốc bảo vệ vốn đầu tư, các lợi nhuận thu được và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư.
- Tôn trọng tập quán quốc tế: các nhà đầu tư có quyền tự chủ tương đối lớn trong sản xuất kinh doanh. Họ có thể áp dụng các phương thức quản lý phổ biến trên thế giới, không bị bó buộc bởi thể chế quản lý hiện hành của Trung Quốc.
Trên các nguyên tắc đó, Bộ luật hợp tác đầu tư giữa Trung Quốc và nước ngoài ra đời ngày 1 / 7 / 1979, đã đặt nền móng cho các nhà đầu tư vào Trung Quốc. Những nội dung chủ yếu của Bộ luật bao gồm:
- Các doanh nghiệp liên doanh Trung Quốc với nước ngoài là pháp nhân Trung Quốc chịu sự quản lý và bảo vệ của pháp luật Trung Quốc. Các doanh nghiệp này được phép kinh doanh vào các ngành khai thác năng lượng, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp hoá chất, luyện kim, chế tạo cơ khí, điện tử, máy tính, thiết bị thông tin, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, nông nghiệp, chăn nuôi trồng trọt, dịch vụ...
- Phương thức góp vốn có thể bằng hàng hoá, các công trình kiến trúc, nhà xưởng, thiết bị máy móc, hoặc vật liệu khác, bản quyền công nghệ sản xuất kỹ thuật, đất đai...
- Kỹ thuật mà doanh nghiệp tiếp thu phải thích hợp với việc sử dụng, phải tiên tiến, khiến cho sản phẩm của nó phải có hiệu quả kinh tế xã hội rõ rệt đối với trong nước hoặc có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Kỳ hạn chuyển nhượng hợp động kỹ thuật nói chung không quá 10 năm.
- Các quy định ưu đãi về thuế thu nhập, thuế xuất khẩu, nhập khẩu đối với doanh nghiệp liên doanh.
- Các quy định về chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của chủ đầu tư, các ưu đãi đối với hoạt động tái đầu tư.
Tháng 4 năm 1990, Trung Quốc đã tiến hành sửa đổi luật này, có những quy định có lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài ở ba vấn đề: quốc hữu hoá, kỳ hạn hợp doanh và lựa chọn giám đốc:
+ Nhà nước không thực hiện quốc hữu hoá và trưng thu doanh nghiệp liên doanh.
+ Người phía nước ngoài có thể làm giám đốc.
+ Kỳ hạn hợp doanh: được quy định khác nhau đối với các ngành khác nhau, các tình huống khác nhau. Có doanh nghiệp cần phải quy định, có doanh nghiệp không cần. Ở những doanh nghiệp có quy định kỳ hạn hợp doanh, nếu các bên hợp doanh đồng ý kéo dài kỳ hạn, cần phải nộp đơn xin cơ quan có thẩm quyền trước 6 tháng trứoc khi hết hạn hợp doanh.
Nhìn chung, bộ luật đầu tư của Trung Quốc đáp ứng được hai nguyên tắc cơ bản mà nước này đề ra, xứng đáng là nền tảng pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Sau khi ban hành bộ luật nói trên, để hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt bộ luật, văn bản dưới luật trên nhiều mặt có liên quan đến hoạt động này, bao gồm:
- Về hoạt động của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Trung Quốc đã ban hành các văn bản pháp luật như: Quy định về cách thức đăng ký doanh nghiệp liên doanh vào tháng 8 / 1990; Quy định về lao động trong xí nghiệp liên doanh vào tháng 8 / 1990; Luật thuế thu nhập xí nghiệp nước ngoài vào tháng 12 / 1981; Quyết định sửa đổi thuế thu nhập của doanh nghiệp liên doanh vào tháng 8 / 1993; Luật xí nghiệp 100% vốn nước ngoài vào tháng 4 / 1986...Như vậy, chúng ta thấy các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của xí nghiệp có vốn nước ngoài là khá đầy đủ và chi tiết, từ thủ tục đăng ký kinh doanh đến tuyển dụng lao động, hay các quy định về thuế... Hơn nữa, các quy định này lại rất cụ thể và rõ ràng, tạo rất nhiều thuận lợi cho các xí nghiệp này hoạt động. Theo đánh giá của một số chuyên gia luật nước ngoài thì sự đảm bảo về mặt pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài dưới hình thức lập các xí nghiệp ở Trung Quốc là khá đầy đủ và hiệu quả.
- Về việc bảo hộ bản quyền:
Trung Quốc đã ban hành những bộ luật sau: Luật nhãn hiệu, Luật li-xăng, Luật quyền tác giả, Điều lệ bảo hộ phần mềm máy tính...Ngoài ra, Trung Quốc còn tham gia các tổ chức quốc tế về bảo vệ quyền tri thức, quyền sở hữu công nghiệp như việc tham gia công ước Paris về bảo vệ bản quyền sở hữu công nghiệp. Trung Quốc còn ký hiệp định bảo hộ đầu tư với 67 nước, ký hiệp ước bảo hộ đa biên...Những việc làm như vậy của Trung Quốc đã tạo được tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các nhà tư bản phương Tây và các công ty xuyên quốc gia bởi họ đặc biệt sợ bị đánh cắp bản quyền khi đầu tư vào những nước đang phát triển như Trung Quốc.
- Về định hướng chiến lược thu hút FDI:
Đây là một vấn đề không chỉ Trung Quốc mà các nhà đầu tư cũng rất quan tâm. Vấn đề này đã được Trung Quốc đề cập tới khi ban hành “Quy định của Quốc vụ viện về khuyến khích đầu tư nước ngoài” (gọi tắt là quy định “22 điều mục”) năm 1986. Quy định này nhấn mạnh việc ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá và doanh nghiệp kỹ thuật tiên tiến trên 5 mặt:
+ Hạ thấp phí sử dụng đất đai. Ngoài các khu vực phồn hoa sầm uất của các thành phố lớn, phí khai thác và phí sử dụng tính thu mỗi năm mỗi m2 là 5-20 NDT, phí khai thác tính thu một lần. Nếu các doanh nghiệp trên tự khai phát, phí sử dụng cao nhất được tính là mỗi m2 mỗi năm 3 NDT.
+ Hạ thấp phí lao động: các công trình thuỷ điện, giao thông, thông tin thu phí theo tiêu chuẩn của các doanh nghiệp quốc doanh địa phương.
+ Miễn giảm thuế: đối với các sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm dầu thô, thành phẩm dầu và một số sản phẩm khác do nhà nước quy định được miễn thuế công thương thống nhất.
+ Khích lệ các nhà đầu tư nước ngoài tái đầu tư lợi nhuận. Nếu thời gian kinh doanh của dự án tái đầu tư trên 5 năm, qua cơ quan thuế vụ xét duyệt, người đầu tư sẽ được trả lại 40% thuế thu nhập đã nộp đối với phần tái đầu tư.
+ Bảo đảm hai điều kiện bên ngoài của doanh nghiệp kinh doanh sản xuất (bao gồm nhập khẩu hàng hoá có liên quan), tạo môi trường hoạt động tiền tệ thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. “22 điều mục” đã tạo một phạm vi rộng đáng kể so với các chính sách trước đó. Trước đây, các cơ sở đầu tư liên doanh được hưởng ưu đãi hơn các cơ sở hợp đồng kinh doanh và cơ sở 100% vốn nước ngoài. Còn “22 điều mục” không tính đến sự phân biệt đó miễn là chúng đủ tư cách là cơ sở kinh doanh xuất khẩu hoặc cơ sở kỹ thuật tiên tiến.
- Về mặt đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp có xung đột:
Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều hoạt động. Chẳng hạn, nước này đã công bố quy định cho phép các xí nghiệp dùng vốn nước ngoài có quyền từ chối và kiện những ai tuỳ tiện đến thu các khoản lệ phí bất hợp pháp từ cấp chính quyền địa phương cho đến cấp Trung Ương. Việc làm này không những cho phép Trung Quốc giảm đáng kể tình trạng hạch sách của một số cấp chính quyền đối với chủ đầu tư nước ngoài mà còn giúp giải quyết nhanh chóng những thắc mắc của họ. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư nếu phải đưa sự vụ ra trọng tài, Trung Quốc đã tham gia vào Trung Tâm quốc tế về giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID) và phê chuẩn công ước New York về thi hành các bản án của trọng tài nước ngoài. Ngoài ra, các cơ quan trọng tài của nước này cũng đã ký nhiều thoả thuận song phương với các cơ quan nước ngoài như Trung tâm trọng tài Bắc Kinh (BCC) ký thoả thuận hợp tác với Hiệp hội trọng tài Mỹ (AAA) về hợp tác giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Mỹ và Trung Quốc.
Gần đây, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã công bố “Bản danh sách về các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài”. Bản danh sách này bao gồm 371 lĩnh vực dành cho đầu tư nước ngoài và có 34 lĩnh vực không dành cho đầu tư nước ngoài. Riêng Bắc Kinh đã mở cửa hoàn toàn với 262 lĩnh vực dành cho các nhà đầu tư. Trước khi gia nhập WTO, con số này chỉ là 186 lĩnh vực. Phần lớn những lĩnh vực tăng thêm gồm các ngành công nghệ sinh học, điện tử, thiết bị viễn thông, dụng cụ và dây chuyền sản xuất. Việc định ra danh sách này thể hiện quyết tâm của Trung Quốc hướng FDI vào những ngành công nghệ hiện đại.
Tóm lại, ta thấy chính phủ Trung Quốc đã rất chú trọng đến việc tạo lập và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng tạo nên thành công cho hoạt động thu hút và sử dụng FDI ở Trung Quốc trong những năm qua.
2.1.2. Các ưu đãi tài chính
Các ưu đãi tài chính được coi là đòn bẩy trực tiếp vì nó liên quan trực tiếp đến lợi nhuận của các nhà đầu tư. Do đó, nó được xem như một cơ sở so sánh để nhà đầu tư đi đến quyết định có đầu tư hay không. Bởi vậy, trong những năm qua, Trung Quốc rất quan tâm đến việc thiết lập cơ chế ưu đãi tài chính cho các nhà đầu tư nước ngoài, cụ thể là:
- Ưu đãi về khu vực đầu tư:
Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xây dựng ở đặc khu kinh tế và các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mang tính chất sản xuất xây dựng ở khu khai phát tại 14 thành phố ven biển được giảm thuế thu nhập 15% theo tỷ lệ thuế.
- Ưu đãi về kỳ hạn kinh doanh:
Đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất, nếu kỳ hạn kinh doanh trên 10 năm, tính từ năm bắt đầu có lãi, năm thứ nhất và năm thứ hai họ được miễn thuế thu nhập, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 họ được giảm một nửa thuế thu nhập.
- Ưu đãi dành cho hành vi tái đầu tư.
- Đãi ngộ dành cho hành vi tái đầu tư thông thường: người đầu tư nước ngoài dùng số lợi nhuận thu được của xí nghiệp để tái đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp đó, hoặc đầu tư để xây dựng doanh nghiệp khác, nếu kỳ hạn kinh doanh không dưới 5 năm thì được trả lại 40% thuế thu nhập đã nộp với phần tái đầu tư.
- Ưu đãi dành cho hành vi tái đầu tư đặc biệt: các nhà đầu tư tái đầu tư xây dựng ở một số lĩnh vực đặc biệt như mở rộng xí nghiệp có kỹ thuật tiên tiến, mở rộng xí nghiệp xuất khẩu sản phẩm hoặc đầu tư cho các hạng mục xây dựng cơ bản và mở mang nông nghiệp trong đặc khu kinh tế Hải Nam thì có thể được trả lại toàn bộ số thuế thu nhập đối với phần tái đầu tư.
Những xí nghiệp trên nếu chưa đạt tiêu chuẩn xí nghiệp xuất khẩu sản phẩm hoặc chưa được xác nhận là xí nghiệp có kỹ thuật tiên tiến, trong thời gian 3 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh thì phải nộp lại 60% số thuế đã được truy lĩnh.
Từ tháng 1 / 1994, nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Trung Quốc đã tiến hành cải cách về thuế ở một số mặt sau:
- Thực hiện một chính sách thuế thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế nhằm đảm bảo sự bình đẳng về thuế, thúc đẩy cạnh tranh, thuế đánh không phân biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI.
- Thay thế thuế doanh nghiệp bằng thuế giá trị gia tăng và đơn giản hóa cơ cấu thuế suất.
- Giảm thuế thu nhập đánh vào các doanh nghiệp để kích thích sản xuất kinh doanh phát triển. Mở rộng diện thu thuế thu nhập cá nhân.
- Xóa bỏ dần các ưu đãi miễn giảm thuế và chuyển sang hình thức tài trợ cho các trường hợp đặc biệt cần thiết bằng chi ngân sách.
- Bổ sung một số loại thuế mới như thuế tài nguyên, thuế sở hữu. Hiện nay, Trung Quốc đang đi vào xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng và tự do.
Những chính sách ưu đãi về thuế tuy đôi lúc có bộc lộ những yếu điểm nhưng đã tỏ rõ tác dụng trong việc thu hút vốn bên ngoài, mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại ở Trung Quốc.
2.2. Cải thiện môi trường đầu tư “cứng”
Để tạo sức hấp dẫn với các nhà đầu tư, Trung Quốc dùng vốn ngân sách hoặc vốn vay để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo thứ tự ưu tiên vùng theo kiểu bậc thang, trước hết ở những vùng có điều kiện thuận lợi rồi tiếp đến là những vùng khó khăn hơn. Điển hình là kinh nghiệm xây dựng cơ sở hạ tầng ở các đặc khu kinh tế của Trung Quốc rất đáng được học tập. Với quan điểm “Làm tổ cho chim phượng hoàng vào đẻ trứng”, Trung Quốc muốn huy động tối đa vốn từ nước ngoài vào xây dựng và phát triển các đặc khu. Những chi phí chính của việc thành lập các ĐKKT có thể được chia làm hai phần: một phần liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng, bao gồm việc san lấp và khai phá mặt bằng, lắp đặt hệ thống cấp thoát nước, xây dựng mạng lưới điện, mắc điện thoại, làm đường sá, cầu cống. Theo thông lệ, phần chi phí này do những nhà đầu tư và chính phủ Trung Quốc cùng chịu. Phần do các nhà đầu tư nước ngoài chịu thay đổi tuỳ theo loại hợp đồng liên doanh ký kết giữa hai bên hay tuỳ thuộc vào phương thức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào đặc khu. Chẳng hạn trong hợp đồng chế biến nguyên liệu, chi phí này thuộc về Chính phủ Trung Quốc. Nhưng theo các phương thức “Liên doanh”, “Hợp đồng hợp tác kinh doanh”, các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đấu thầu thường phải cung cấp thiết bị và vốn, Chính phủ Trung Quốc cung cấp đất xây dựng, nhà xưởng, nhân công và số tiền tuỳ theo tính chất của hợp đồng. Đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì nhà đầu tư phải chịu các chi phí về công trường và nhà xưởng. Trong hầu hết các trường hợp, Chính phủ Trung Quốc phải trang trải các khoản chi phí liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Phần chi phí thứ hai liên quan đến việc phát triển đô thị trong những ĐKKT như: nhà ở, trường học, bệnh viện và các trung tâm công cộng... phần lớn do Chính phủ Trung Quốc chịu.
Theo chủ trương “chính phủ chỉ cho chính sách, không cho tiền”, chính quyền ở các ĐKKT đã phải vận dụng mọi khả năng để tự trang trải kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản. Để huy động vốn xây dựng đặc khu, ngoài biện pháp vay ngân hàng, các đặc khu mà đầu tiên là Thâm Quyến đã có một giải pháp mới là bán quyền sử dụng đất. Trong thời kỳ 1980 -1985, công ty nhà đất Thâm Quyến đã bán 45.400 m2 đất, thu về 4 tỷ HKD. Từ cuối năm 1987, Thâm Quyến đã cho công khai bán đấu giá quyền sử dụng đất với thời hạn sử dụng là 50 năm.
Một biện pháp khác là huy động vốn ứng trước từ những người sẽ sử dụng công trình hoặc hưởng lợi trực tiếp từ công trình với phương châm “Mượn gà đẻ trứng”. Các nhà đầu tư theo kiểu này sẽ được thuê công trình với những điều kiện ưu đãi nhất định. Nhiều công trình hạ tầng ở các ĐKKT Trung Quốc đã được xây dựng theo phương thức này.
Nhờ mạnh dạn sử dụng vốn ngân sách cũng như triệt để tận dụng các nguồn vốn để đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng mà Trung Quốc đã tạo lập được một hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hiện đại, tăng cường sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư.
3. Chính sách hợp lý trong đa dạng hoá nguồn đầu tư
3.1. Đối với Hoa kiều
Ngay từ khi thực hiện chính sách mở cửa, chính phủ Trung Quốc đã sớm nhận ra tiềm lực to lớn của bà con Hoa kiều. Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 57 triệu Hoa kiều đang sinh sống tại nhiều vùng lãnh thổ khác nhau. Ở bất cứ nơi nào, cộng đồng Hoa kiều cũng luôn chứng tỏ được vị trí và vai trò của mình trong xã hội.
Chẳng hạn theo số liệu thống kê, ở Đông Nam Á có khoảng 24 triệu người Hoa sinh sống nhưng họ chi phối tới 60% nền kinh tế trong vùng. Thái Lan có khoảng 3,5-5 triệu người Hoa nhưng họ chiếm tới 90% các tập đoàn tài phiệt ở nước này và chiếm tới 89% tổng kim ngạch trên thị trường cổ phiếu Băng Cốc. Ở Inđônêsia, người Hoa chiếm tới 73% trong tổng số 200 xí nghiệp lớn nhất nước. 10 tập đoàn lớn nhất nước này do người Hoa quản lý. Theo tin từ một tạp chí châu Mỹ, châu Á có 49 tỷ phú người Hoa trong đó 12 người sống ở Đài Loan, 10 người sống ở Hồng Kông, 9 người ở Thái Lan, 6 người ở Inđônêsia, 5 người ở Malaysia, 4 người ở Singapore và 3 người ở Phillipine. Người giầu nhất là một trùm bảo hiểm và kinh doanh bất động sản ở Đài Loan với mức tài sản khổng lồ lên tới 5,4 tỷ USD.
Hoa kiều không chỉ mạnh về tiềm lực kinh tế mà còn rất thành đạt trong khoa học kỹ thuật. Riêng ở Mỹ, hiện có trên 100 nghìn chuyên gia, học giả người gốc Trung Quốc, chiếm 8% tổng số Hoa kiều sinh sống ở đây. Đến nay, đã có 4 người Hoa ở hải ngoại được tặng giải thưởng Nobel, riêng ở Mỹ đã có 3 người. Người Hoa dù ở Mỹ, Nhật hay Tây Âu cũng đều được coi là “kho nhân tài”, chiếm 1/2 tổng số chủ tịch các phân hội thuộc Hội Công trình cơ giới của Mỹ, 1/3 số kỹ sư cao cấp của hãng máy tính lớn nhất của Mỹ IBM, 12,5% tổng số người làm trong các ngành đòi hỏi tri thức cao như nghệ thuật, kiến trúc tại Nhật Bản.
Với sức mạnh kinh tế ngày càng được tăng cường và lực lượng nhân tài hùng hậu, Hoa kiều được các nước phương Tây coi như một đế quốc thực sự: một đế quốc không biên giới, không thủ đô, không quốc kỳ, một cường quốc kinh tế thứ tư ở Châu Á sau Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Chính bởi tiềm lực Hoa kiều mạnh như vậy nên Trung Quốc rất muốn tiếp cận với vốn, kỹ thuật và bí quyết sản xuất của họ, đặc biệt là sự hợp tác của Hoa kiều trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới. Người Hoa và Hoa kiều sẽ là những người trung gian tốt nhất để giúp Trung Quốc mở cửa ra bên ngoài, là cầu nối để Trung Quốc mở rộng thương mại, đầu tư với thế giới. Hơn thế nữa, thu hút đầu tư của Hoa kiều còn có những thuận lợi lớn mà chủ đầu tư khác không có được, đó là:
- Người Hoa ở hải ngoại có một đặc điểm nổi bật, đó là lòng tự hào dân tộc, truyền thống yêu nước sâu sắc đã gắn vào máu thịt của người dân và được truyền từ đời này sang đời khác. Bởi vậy, dù ở bất cứ đâu, họ luôn hướng về tổ quốc. Khi Trung Quốc mở cửa, người Hoa đầu tư ồ ạt vào Trung Quốc. Họ có thể dễ dàng chấp nhận thua lỗ trong đầu tư với nội địa, bởi họ luôn nghĩ rằng họ đóng góp giúp Tổ quốc phát triển kinh tế và xây dựng đất nước hiện đại hóa.
- Người Hoa khi đầu tư về Trung Quốc có nhiều thuận lợi, họ có ngôn ngữ chung, có nền văn hoá chung. Đặc biệt mức độ hiểu biết về phong tục tập quán lễ nghi tôn giáo và đặc điểm tâm lý của người Trung Quốc của họ hơn hẳn các nhà đầu tư khác. Vì vậy, họ dễ dàng hợp tác với các nhà đầu tư trong nước, dễ khắc phục những trở ngại trong quá trình liên doanh liên kết.
Với những đặc điểm dân tộc, truyền thống văn hoá chung này, loại hình hợp tác đầu tư của người Hoa và Hoa kiều có tiềm lực rất lớn. Nhận thức được vai trò của đầu tư Hoa kiều đối với phát triển đất nước, từ cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc đưa ra nhiều biện pháp để thu hút đầu tư của Hoa kiều. Trung Quốc coi người Hoa và Hoa kiều ở nước ngoài là hậu duệ của Trung Quốc, coi người Hoa ở Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan là đồng bào, là máu mủ ruột thịt. Trung Quốc tuyên truyền giáo dục về văn hoá, truyền thống Trung Hoa cho cộng đồng người Hoa và Hoa kiều ở nước ngoài nhằm mục đích làm cho họ hướng về đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thu hút FDI tại Trung Quốc và kinh nghiệm với Việt Nam.doc