Tài liệu Đề tài Thị trường Thương phiếu Việt Nam: Thực trạng và giải pháp: 1
Trường Đại học Ngoại thương
Khoa Tài chính Ngân hàng
Đề tài Thuyết trình: Thị trường Thương phiếu Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp
Giáo viên hướng dẫn: Tiến sĩ Trần Thị Lương Bình
Nhóm số 2 Mã sv
Lê Đình Vũ 0851010307
Đặng Thị Thu Huế 0851010719
Nguyễn Khánh Linh 0851020101
Lưu Thị Thu Trang 0751001235
Phan Thị Thúy Hoa 0752000317
Nguyễn Đức Nguyệt Minh 0851010329
Hà Nội, tháng 9/2011
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................. 3
Chương 1. Lý luận chung về thương phiếu và thị trường thương phiếu .... 4
1.1. Khái niệm .......................................................................................... 4
1.2. Những đặc điểm cơ bản của lưu thông thương phiếu ....................... 4
1.3. Phân loại thương phiếu ..................................................................... 6
1.4. Thị trường thương phiếu .............................................................
31 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1860 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thị trường Thương phiếu Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Trường Đại học Ngoại thương
Khoa Tài chính Ngân hàng
Đề tài Thuyết trình: Thị trường Thương phiếu Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp
Giáo viên hướng dẫn: Tiến sĩ Trần Thị Lương Bình
Nhóm số 2 Mã sv
Lê Đình Vũ 0851010307
Đặng Thị Thu Huế 0851010719
Nguyễn Khánh Linh 0851020101
Lưu Thị Thu Trang 0751001235
Phan Thị Thúy Hoa 0752000317
Nguyễn Đức Nguyệt Minh 0851010329
Hà Nội, tháng 9/2011
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................. 3
Chương 1. Lý luận chung về thương phiếu và thị trường thương phiếu .... 4
1.1. Khái niệm .......................................................................................... 4
1.2. Những đặc điểm cơ bản của lưu thông thương phiếu ....................... 4
1.3. Phân loại thương phiếu ..................................................................... 6
1.4. Thị trường thương phiếu ................................................................... 8
Chương 2. Thực trạng thị trường thương phiếu Việt Nam ....................... 15
2.1. Thực trạng sử dụng thương phiếu ở Việt Nam thời gian qua ......... 15
2.2. Thực trạng phát triển thị trường thương phiếu trong giai đoạn vừa
qua .................................................................................................................... 16
2.3. Đánh giá chung ............................................................................... 19
Chương 3. Giải pháp phát triển thị trường thương phiếu ở Việt Nam ..... 25
3.1. Các giải pháp vi mô ........................................................................... 25
3.2. Nhóm các giải pháp vi mô .............................................................. 27
KẾT LUẬN ............................................................................................... 30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 31
3
LỜI MỞ ĐẦU
Chưa bao giờ thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay
về cả phạm vi hoạt động, khối lượng giao dịch, chủng loại hàng hóa dịch
vụ trao đổi. Cùng với sự phát triển của thương mại, hàng loạt công cụ
thanh toán thay thế tiền mặt ra đời và phát triển, trong đó có thương phiếu.
Để tối ưu hóa các nguồn vốn, gia tăng tốc độ vòng quay của đồng
vốn cho các hoạt động thương mại, một trong các biện pháp quan trọng là
đa dạng hóa các phương thức và công cụ của thị trường vốn ngắn hạn như
đẩy mạnh sự hình thành và phát triển của thị trường thương phiếu.
Phát triển thị trường thương phiếu còn là đòi hỏi thực tế trong quá
trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay. Trong bối cảnh
Việt Nam tăng cường hợp tác kinh tế với các tổ chức kinh tế quốc tế và
liên kết khu vực, việc phát triển thị trường thương phiếu sẽ góp phần đưa
thị trường tài chính nước ta chủ động hôi nhập vào thị trường tài chính thế
giới.
Bên cạnh đó, việc phát triển thị trường thương phiếu Việt Nam còn
góp phần thúc đẩy các hoạt động thương mại phát triển. Đồng thời, khi
thương mại phát triển, sẽ tác động trở lại giúp thị trường vốn nói chung và
thị trường thương phiếu nói riêng có sự phát triển hoàn thiện hơn.
Để vận dụng lý thuyết môn Thanh toán quốc tế vào thực tế, được sự
đồng ý của Tiến sỹ Trần Thị Lương Bình, chúng em xin mạnh dạn nghiên
cứu đề tài: Thị trường thương phiếu Việt Nam – Thực trạng và Giải
pháp.
Đề tài được bố cục làm 3 phần:
Chương 1. Lý luận chung về thương phiếu và thị trường thương
phiếu.
Chương 2. Thực trạng thị trường thương phiếu Việt Nam.
Chương 3. Giải pháp phát triển thị trường thương phiếu ở Việt Nam
4
Chương 1. Lý luận chung về thương phiếu và thị trường thương
phiếu
1.1. Khái niệm
Thương phiếu là một tài sản tài chính vô hình, hình thái vật chất của
thương phiếu (mảnh giấy nhỏ) chỉ chứa đựng một lượng giá trị rất nhỏ, không
đáng kể, tuy nhiên chúng đều chứa đựng những quyền pháp lý đối với lợi ích
tương lai của chúng. Những lợi ích tương lai của thương phiếu được thể hiện
trong hình thức và nội dung của thương phiếu và được luật pháp điều chỉnh và
bảo vệ.
Thương phiếu gồm có hối phiếu và kỳ phiếu.
Theo Luật Công cụ chuyển nhượng của Việt Nam năm 2005 “Hối phiếu
đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh
toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời
điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng”.
Kỳ phiếu là một cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu ký phát
ra hứa trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng quy định trên kỳ phiếu
hoặc theo lệnh của người này để trả cho người khác.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của lưu thông thương phiếu
1.2.1. Thương phiếu hình thành từ giao dịch cơ sở
Giao dịch cơ sở của thương phiếu là giao dịch hợp đồng thương mại. Hợp
đồng thương mại quy định quyền và nghĩa vụ của hai bên mua và bán. Người
bán có nghĩa vụ giao hàng và có quyền lợi nhận tiền thanh toán từ người mua.
Người mua có nghĩa vụ thanh toán và có quyền lợi nhận hàng từ người bán.
Đối với hối phiếu, người bán sẽ giao hàng trước và sau đó ký phát hối
phiếu đòi tiền người mua sau. Ngược lại, đối với kỳ phiếu, người mua sẽ ký phát
kỳ phiếu cam kết trả tiền cho người bán; sau khi nhận được kỳ phiếu, người bán
sẽ giao hàng.
Như vậy, giao dịch cơ sở là cái có trước, thương phiếu là cái có sau.
Không có giao dịch cơ sở thì sẽ không có sự hình thành thương phiếu tương
ứng.
5
1.2.2. Thương phiếu được nhận diện dễ dàng, trực tiếp
Thương phiếu là tài sản tài chính vô hình. Chúng chỉ là những tờ giấy nhỏ
nhưng chứa đựng những quyền pháp lý đối với lợi ích tương lai. Dung lượng các
quyền pháp lý này được thể hiện ở hình thức và nội dung của thương phiếu. Vì
vậy, có nhận dạng được hình thức và nội dung của thương phiếu một cách dễ
dàng và trực tiếp thì mới có thể nhận biết được dung lượng các quyền pháp lý
đối với lợi ích tương lai của thương phiếu.
1.2.3. Thương phiếu là trái vụ một bên
Thương phiếu là một chứng chỉ do một người ký phát ra lệnh cho người
bị ký phát thực hiện một nghĩa vụ dân sự - trả tiền (đối với hối phiếu) hoặc một
chứng chỉ do người phát hành cam kết đối với người thụ hưởng sẽ thực hiện một
nghĩa vụ dân sự - trả tiền (đối với kỳ phiếu).
Vì vậy nghĩa vụ dân sự có được thực hiện hay không hoàn toàn phụ thuộc
vào sự chấp nhận của người bị ký phát đối với hối phiếu và khả năng thực hiện
nghĩa vụ dân sự của người phát hành đối với kỳ phiếu.
1.2.4. Tính “trừu tượng” của thương phiếu
Trên thương phiếu không cần thể hiện nguyên nhân sinh ra việc lập
thương phiếu, mà chỉ cần ghi rõ số tiền phải trả và những nội dung liên quan đến
việc trả tiền.
Trong lưu thông, giá trị pháp lý của thương phiếu cũng không bị ràng
buộc vào nguyên nhân nào phát sinh ra nghĩa vụ trả tiền của thương phiếu. Một
khi thương phiếu được phát hành và chuyển giao cho người khác thì thương
phiếu trở thành một chứng thư độc lập, trong lưu thông. Người thụ hưởng và
người trả tiền thương phiếu không cần quan tâm tới việc khoản nợ trên thương
phiếu có hay không có hình thành trên giao dịch cơ sở nào. Hay nói cách khác,
khoản nợ ghi trên thương phiếu là hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc vào sự
tồn tại hay không tồn tại của giao dịch cơ sở.
1.2.5. Tính lưu thông của thương phiếu
Thương phiếu có thể được lưu thông từ người này sang người khác trong
thời hạn hiệu lực của nó. Căn cứ vào mục đích của lưu thông thương phiếu,
người ta có thể chia ra làm 3 loại lưu thông khác nhau.
6
Nếu lưu thông nhằm mục đích để đòi tiền, tức là người thụ hưởng thương
phiếu ủy thác cho ngân hàng đòi tiền người trả tiền thương phiếu, thì lưu thông
thương phiếu có vai trò như là phương tiện thanh toán thay cho tiền mặt.
Nếu lưu thông nhằm mục đích chuyển nhượng quyền hưởng lợi thương
phiếu, tức là người thụ hưởng thương phiếu ký hậu chuyển nhượng thương
phiếu cho người khác, thì lưu thông thương phiếu có vai trò như chuyển nhượng
tài sản.
Dạng lưu thông thứ 3 là lưu thông “hàng hóa thương phiếu”. Thương
phiếu là một loại tài sản tài chính, do vậy người sở hữu thương phiếu có thể bán
thương phiếu cho ngân hàng để lấy tiền ngay hoặc cầm cố thương phiếu để vay
tiền của ngân hàng. Lưu thông này không mang tính chất lưu thông thanh toán
thương phiếu hay lưu thông chuyển nhượng thương phiếu mà là lưu thông “hàng
hóa thương phiếu”.
1.3. Phân loại thương phiếu
Căn cứ vào người tạo lập thương phiếu, thương phiếu có thể chia thành hối
phiếu và kỳ phiếu.
Căn cứ vào thời hạn trả tiền, thương phiếu có thể chia thành các loại sau:
+ Thương phiếu thanh toán ngay khi xuất trình (at sight or on demand
commercial Bill): là loại thương phiếu cam kết hoặc yêu cầu thanh toán ngay khi
xuất trình hoặc yêu cầu thanh toán ngay khi nhìn thấy hoặc trên thương phiếu
không quy định thời hạn thanh toán.
+ Thương phiếu thanh toán sau một thời gian xác định (usance, time
commercial Bill): là thương phiếu có quy định thời hạn thanh toán vào một ngày
quy định trên thương phiếu hoặc sau một thời hạn nhất định để từ ngày có thể
xác định trên thương phiếu (ví dụ như ngày xuất trình để chấp nhận, ngày phát
hành thương phiếu).
Căn cứ vào việc thanh toán có kèm chứng từ thương mại hay không,
thương phiếu có thể chia thành 2 loại:
+ Thương phiếu kèm chứng từ (documentary commercial Bill) là thương
phiếu mà việc thanh toán dựa vào chứng từ thương mại gửi kèm với các điều
kiện D/P (documents against payment – trả tiền đổi chứng từ), D/A (documents
7
against other acceptance – chấp nhận thanh toán đổi chứng từ), D/TC
(documents against other terms and conditions – thực hiện các điều khoản và
điều kiện khác đổi lấy chứng từ).
+ Thương phiếu trơn (clean commercial Bill) là thương phiếu mà việc
thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán không dựa vào chứng từ thương mại gửi
kèm.
Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng của thương phiếu, có thể chia thành 3
loại:
+ Thương phiếu đích danh (nominated commercial Bill) là thương phiếu
ghi rõ tên người thụ hưởng không kèm theo từ “theo lệnh” – pay to X bank.
+ Thương phiếu vô danh hay trả cho người cầm thương phiếu (nameless
commercial Bill, Commercial Bill to Bearer) là thương phiếu không ghi tên
người thụ hưởng hoặc ghi trả cho người cầm phiếu (pay to bearer). Đối với
thương phiếu này, bất cứ ai cầm được phiếu đều có thể trở thành người thụ
hưởng thương phiếu.
+ Thương phiếu trả theo lệnh (commercial Bill to order) là thương phiếu
ghi trả theo lệnh của người nào đó (pay to order of…). Người có nghĩa vụ trả
tiền của thương phiếu sẽ trả tiền cho người thụ hưởng hoặc sẽ trả theo lệnh của
người thụ hưởng.
Căn cứ vào phạm vi sử dụng thương phiếu, có thể chia thành 2 loại:
+ Thương phiếu nội địa: là thương phiếu không có yếu tố quốc tế: người
ký phát - người bị ký phát và người phát hành - người thụ hưởng đều là người cư
trú. Thương phiếu này chỉ sử dụng trong phạm vi một nước.
+ Thương phiếu quốc tế là thương phiếu có yếu tố quốc tế: người ký phát
- người bị ký phát và người phát hành có 1 bên hoặc cả 2 bên là người phi cư
trú. Thương phiếu quốc tế được sử dụng phổ biến trong thanh toán tín dụng
quốc tế.
Căn cứ vào cơ sở hình thành thương phiếu:
+ Thương phiếu thực (commercial Bill): là thương phiếu hình thành trên
cơ sở giao dịch cơ sở như hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
8
+ Thương phiếu khống (Accomodation Bill): là thương phiếu không hình
thành dựa trên giao dịch cơ sở. Ví dụ, lợi dụng đặc điểm về tính trừu tượng về
nguyên nhân đòi tiền của thương phiếu, 2 ông A và B thỏa thuận với nhau tạo
lập 1 hối phiếu để vay tiền ngân hàng bằng phương thức chiết khấu hoặc cầm cố
hối phiếu đó.
Luật nhiều nước cấm phát hành thương phiếu khống. Tuy nhiên, hối phiếu
của người chấp nhận (acceptor’s Bill) là một loại hối phiếu khống tương đối
thịnh hành ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời như: Bỉ, Pháp,
Đức.
1.4. Thị trường thương phiếu
1.4.1. Khái niệm
Thị trường thương phiếu là thị trường ở đó diễn ra việc kinh doanh
thương phiếu nhằm thỏa mãn các nhu cầu về vốn ngắn hạn của các chủ thể trong
nền kinh tế và nhằm mục đích kiếm lời.
Thương phiếu là một loại tài sản tài chính. Người sở hữu thương phiếu có
quyền chuyển nhượng các quyền pháp lý đó cho một hay nhiều người khác,
hoặc nhượng bán hoặc cầm cố các quyền đó cho ngân hàng hoặc công ty tài
chính để nhận một số tiền nhất định do 2 bên thỏa thuận.
Nếu cung các quyền đó lớn hơn cầu thì số tiền nhận được sẽ ít đi, ngược
lại thì số tiền nhận được sẽ nhiều hơn. Quan hệ cung cầu các quyền này chịu ảnh
hưởng lớn bởi thị trường hàng hóa – dịch vụ và thị trường tín dụng trong nền
kinh tế quốc dân. Thị trường thương phiếu hình thành và phát triển trên cơ sở
mối quan hệ đó.
1.4.2. Đặc điểm
Thương phiếu là một loại hàng hóa đặc biệt của thị trường thương phiếu.
Thương phiếu cũng có 2 thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi.
Giá trị sử dụng của thương phiếu thể hiện ở các quyền pháp lý đối với
những lợi ích tương lai mà nó mang lại cho người thụ hưởng. Các quyền pháp lý
chủ yếu này bao gồm:
+ Hưởng lợi số tiền ghi trên thương phiếu đó;
9
+ Sử dụng thương phiếu làm phương tiện thanh toán;
+ Sử dụng thương phiếu làm vật cầm cố để vay tiền ngân hàng;
+ Chuyển nhượng các quyền pháp lý đối với những lợi ích tương lai do
thương phiếu mang lại cho một hay nhiều người khác;
+ Bán thương phiếu (chiết khấu) cho ngân hàng để nhận tiền ngay;
+ Quyền khiếu nại, khởi kiện thương phiếu khi thương phiếu bị vi
phạm…
Giá trị sử dụng của thương phiếu được hình thành kể từ khi thương phiếu
được tạo lập cho đến khi thương phiếu hết hạn hiệu lực.
Tuy nhiên, người thụ hưởng thương phiếu muốn nhận ngay được các lợi
ích của mình, họ thường nhượng lại các quyền và lợi ích đó cho ngân hàng, ngân
hàng phải trả cho họ một giá nhất định. Nếu giá đó được người thụ hưởng chấp
nhận thì hành vi trao đổi thương phiếu xuất hiện. Giá đó gọi là giá trị trao đổi
của thương phiếu.
Các quyền pháp lý đối với những lợi ích tương lai do thương phiếu mang
lại cho người thụ hưởng là nội dung thương lượng mua bán giữa người thụ
hưởng và ngân hàng. Các quyền và lợi ích này lớn, ổn định và ít rủi ro thì giá cả
của nó cao, ngược lại thì giá cả của nó thấp. Do các quyền và lợi ích này tồn tại
vô hình, cho nên hàng hóa thương phiếu là một loại hàng hóa đặc biệt.
Kinh doanh thương phiếu trên thị trường thương phiếu được hiểu là các
hành vi chiết khấu, bảo lãnh, chấp nhận, cầm cố và nhờ thu thương phiếu.
Do thương phiếu là một hàng hóa đặc biệt, cho nên kinh doanh thương
phiếu cũng mang tính chất đặc biệt khác với các hàng hóa thông thường. Hoạt
động kinh doanh thương phiếu của các trung gian tài chính, chủ yếu là các ngân
hàng thương mại bao gồm 2 loại cơ bản.
Một là, ngân hàng bỏ vốn ra cho vay đầu tư để kiếm lợi nhuận thông qua
nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu. Nếu tổng vốn bỏ ra nhỏ hơn tổng vốn thu về
thì kinh doanh có lãi, ngược lại thì lỗ.
Hai là, ngân hàng không bỏ vốn ra kinh doanh, mà chỉ dựa vào địa vị và
uy tín của mình trên thương trường để cung ứng dịch vụ bảo lãnh, chấp nhận,
nhờ thu thương phiếu… cho khách hàng để thu phí.
10
Lưu thông thương phiếu trên thị trường là ngắn hạn do đặc điểm của tín
dụng thương mại là loại tín dụng ngắn hạn.
Lưu thông ngắn hạn của thương phiếu nói trên sẽ quyết định đến đặc điểm
ngắn hạn của hoạt động kinh doanh thương phiếu trên thị trường thương phiếu.
Một là, thị trường thương phiếu là một thị trường năng động trong kinh
doanh, do đó, để thị trường phát triển ổn định và bền vững cần phải có một chế
độ thẩm định khách hàng một cách chính xác và một hệ thống các giải pháp
phòng ngừa rủi ro hiệu quả.
Hai là, thị trường thương phiếu là một thị trường nhạy cảm với các biến
động về kinh tế, chính trị của xã hội. Để thích ứng với điều này cần phải có một
chiến lược và sách lược kinh doanh thích nghi với những biến động thường
xuyên của tình thế, hạn chế rủi ro, kinh doanh có hiệu quả.
Các thành viên tham gia thị trường thương phiếu bao gồm chủ yếu là các
ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng huy động và cho vay ngắn hạn
chủ yếu trong nền kinh tế, cho nên ngân hàng thương mại là thành viên chủ yếu
của thị trường thương phiếu. Ngoài ra, các tổ chức tài chính khác cũng có thể
tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường thương phiếu như Ngân hàng
Trung ương trong nghiệp vụ tái chiết khấu thương phiếu của ngân hàng thương
mại; công ty tài chính, quỹ hỗ trợ xuất nhập khẩu trong nghiệp vụ cho vay cầm
cố, chiết khấu, bảo lãnh thương phiếu.
Mục đích hoạt động của thị trường thương phiếu là nhằm thỏa mãn các nhu
cầu vốn ngắn hạn của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại trong nền
kinh tế quốc dân và thu lợi nhuận của các chủ thể này với từ cách là người
cho vay.
Có 2 thành tố cấu thành lợi nhuận từ kinh doanh thương phiếu: lãi từ các
nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố và phí từ các nghiệp vụ bảo lãnh, chấp nhận, nhờ
thu thương phiếu. Cả 2 mục đích này gắn bó hữu cơ với nhau. Nhu cầu vốn ngắn
hạn cho hoạt động thương mại được thỏa mãn đầy đủ bao nhiêu thì lợi nhuận thu
về từ hoạt động kinh doanh thương phiếu càng có điều kiện tăng thêm bấy
nhiêu. Hoạt động kinh doanh thương phiếu phát triển sẽ hỗ trợ cho tín dụng
thương mại mở rộng quy mô, kéo dài thời hạn, do đó, sẽ đáp ứng cao nhu cầu
vốn ngắn hạn cho hoạt động thương mại.
11
Nơi diễn ra thị trường thương phiếu là các quầy giao dịch của các trung
gian tài chính mà chủ yếu là các ngân hàng thương mại.
Nếu thương phiếu giao dịch trên thị trường là những chứng chỉ truyền
thống hay còn gọi là các chứng từ bằng giấy thì thị trường thương phiếu là thị
trường giao dịch tập trung mà ở đó các doanh nghiệp mang thương phiếu đến
các quầy giao dịch ngân hàng để xin chiết khấu, cầm cố, chấp nhận, bảo lãnh,
nhờ thu.
Ngược lại nếu thương phiếu tồn tại dưới dạng phi chứng từ (electronic
documents) thì thị trường thương phiếu là thị trường phi tập trung, hay còn gọi
là thị trường thương phiếu điện tử hoặc thị trường không gian (Space Market).
Tại thị trường phi tập trung này, mọi giao dịch thương phiếu đều được tiến hành
thông qua các phương tiện điện tử như điện thoại, computer, fax…
Từ những đặc điểm trên, có thể thấy thị trường thương phiếu là thị trường
rất linh hoạt, chứa đựng sự nhạy cảm cao.
1.4.3. Phân loại thị trường thương phiếu
Căn cứ vào đối tượng thương phiếu được mua bán:
+ Thị trường hối phiếu: thị trường kinh doanh hối phiếu giữa một bên là
người ký phát hoặc người thụ hưởng hối phiếu với một bên là các trung gian tài
chính.
+ Thị trường kỳ phiếu: là thị trường kinh doanh kỳ phiếu giữa một bên là
người thụ hưởng kỳ phiếu và một bên là các trung gian tài chính.
Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh:
+ Thị trường chiết khấu thương phiếu: là thị trường mua bán thương phiếu
giữa người thụ hưởng với các trung gian tài chính.
+ Thị trường bảo lãnh thương phiếu: là thị trường trong đó theo yêu cầu
của người trả tiền thương phiếu, các trung gian tài chính đứng ra bảo đảm thanh
toán thương phiếu.
+ Thị trường chấp nhận thương phiếu: là thị trường trong đó theo yêu cầu
của người trả tiền thương phiếu, các trung gian tài chính chấp nhận trả tiền trực
tiếp khi có yêu cầu hoặc khi thương phiếu đáo hạn.
+ Thị trường cầm cố thương phiếu: là thị trường mà tại đó, người thụ
hưởng thương phiếu chưa đến hạn thanh toán mang thương phiếu đến các trung
gian tài chính cầm cố để vay tiền.
12
+ Thị trường nhờ thu thương phiếu: là thị trường mà tại đó người thụ
hưởng thương phiếu ủy thác cho ngân hàng thu tiền từ người trả tiền trên thương
phiếu đó.
1.4.4. Các chủ thể tham gia thị trường thương phiếu:
1.4.4.1. Căn cứ vào cơ cấu chủ thể
Người ký phát hối phiếu.
Người bị ký phát hối phiếu.
Người phát hành kỳ phiếu.
Người thụ hưởng thương phiếu.
Người chiết khấu thương phiếu: là một trung gian tài chính, mua thương
phiếu của người thụ hưởng thương phiếu theo một giá thỏa thuận.
Người chấp nhận thương phiếu: là người ký chấp nhận thanh toán thương
phiếu theo các điều kiện quy định trên thương phiếu.
Người bảo lãnh thương phiếu: là người tham gia quan hệ bảo lãnh thương
phiếu thông qua hành vi ký bảo lãnh thương phiếu.
Người trả tiền thương phiếu: Đối với hối phiếu, người trả tiền là người bị
ký phát. Tuy nhiên, người bị ký phát có thể yêu cầu người thứ ba trả tiền hối
phiếu. Đối với kỳ phiếu, người trả tiền là bản thân người phát hành kỳ phiếu
hoặc một người khác do người phát hành yêu cầu như ngân hàng bảo lãnh,
ngân hàng chấp nhận.
1.4.4.2. Căn cứ vào hình thái tổ chức của chủ thể trên thị trường thương
phiếu:
Ngân hàng trung ương: tham gia với tư cách là người điều tiết vĩ mô hoạt
động của thị trường thương phiếu.
Các định chế tài chính trung gian: ngân hàng thương mại, công ty tài chính,
công ty bảo hiểm, các tổ chức tiết kiệm và cho vay, các quỹ đầu tư.
Các doanh nghiệp/cá nhân: là chủ thể chủ yếu của giao dịch cơ sở và chủ
thể chính của thị trường thương phiếu.
1.4.5. Vai trò của thị trường thương phiếu đối với hoạt động thương
mại
Một là, đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Việc sử dụng thương
phiếu như là công cụ tín dụng trực tiếp giữa các doanh nghiệp có ưu thế hơn
hẳn so với các nguồn vốn tín dụng khác như thời hạn cấp tín dụng linh hoạt,
điều kiện, thủ tục cấp tín dụng đơn giản. Do đó, nó góp phần làm giảm sức ép
13
về vốn đối với doanh nghiệp thương mại, đặc biệt trong điều kiện tốc độ lưu
thông hàng hóa rất nhanh, trong khi vốn của ngân hàng thương mại chỉ có
hạn.
Hai là, thương phiếu là công cụ có thể chuyển nhượng, nên việc phát triển
thị trường thương phiếu tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại mở rộng
hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp thông qua các nghiệp vụ chiết
khấu, cầm cố, bảo lãnh thương phiếu…Tín dụng ngân hàng thông qua thị
trường thương phiếu đã trở thành người hỗ trợ đắc lực cho tín dụng thương
mại phát triển.
Ba là, gắn kết hoạt động tín dụng với quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hóa. Thông qua các nghiệp vụ chiết khấu, cầm cố, chấp nhận, bảo lãnh
thương phiếu, các ngân hàng thương mại đã có điều kiện gắn kết giữa quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hóa của nền kinh tế với việc cấp tín dụng.
Điều đó là cho việc cấp tín dụng của ngân hàng luôn gắn liền với nhu cầu vốn
thực của nền kinh tế và làm giảm áp lực vốn đối với các doanh nghiệp trong
nền kinh tế.
Mặt khác, nhờ sự tồn tại và phát triển của thị trường thương phiếu mà việc
mua bán hàng hóa có thể được thực hiện ngay một cách thuận lợi, không cần
phải chờ đến khi người mua có tiền thì người bán mới bán được hàng hóa, nhờ
đó đã nắm bắt kịp thời được cơ hội kinh doanh, hạn chế rủi ro tiềm ẩn đối với
sản xuất là khó bán được hàng.
Bốn là, góp phần phát triển cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt trong
hoạt động thương mại. Thương phiếu có thể thực hiện chức năng thanh toán
bên cạnh chức năng phương tiện tín dụng. Có thể trong một vòng khép kín,
các giao dịch kinh tế H-T-H’ hoặc T-H-T’ hoàn toàn chỉ sử dụng thương
phiếu mà không cần dùng đến tiền mặt.
1.4.6. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của thị trường thương phiếu
Nghiệp vụ chiết khấu: là việc các trung gian tài chính mua các thương
phiếu của người thụ hưởng trước hạn thanh toán với một mức giá do 2 bên
thỏa thuận. Thực chấp của nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu là các trung
gian tài chính cung cấp tín dụng cho người thụ hưởng thương phiếu.
Nghiệp vụ bao thanh toán truy đòi và miễn truy đòi (factoring/forfaiting):
là hình thức phát triển của nghiệp vụ chiết khấu ở cấp độ cao hơn. Bao tín
dụng là loại hình chiết khấu trọn gói tất cả các khoản thu của nhà xuất khẩu
14
hoặc người bán trong 1 thời gian nhất định theo những điều kiện quy định
trong hợp đồng bao thanh toán ký kết giữa các công ty factoring hoặc
forfaiting với nhà xuất khẩu hoặc người bán.
Nghiệp vụ bảo lãnh: là nghiệp vụ mà trong đó trung gian tài chính với tư
cách là người thứ ba cam kết sẽ thanh toán thương phiếu nếu như người trả
tiền thương phiếu không thanh toán hoặc không thanh toán đầy đủ thương
phiếu đó.
Nghiệp vụ cầm cố thương phiếu: cầm cố thương phiếu để vay vốn trung
gian tài chính là việc người thụ hưởng thương phiếu có nghĩa vụ chuyển giao
thương phiếu mà mình là người sở hữu cho trung gian tài chính để làm vật
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ bao gồm nợ gốc và lãi.
Nghiệp vụ chấp nhận và chấp nhận hoàn trả
Nghiệp vụ chấp nhận là nghiệp vụ trong đó một trung gian tài chính theo
yêu cầu của người bị ký phát đứng ra ký chấp nhận thanh toán hối phiếu vo điều
kiện trong thời hạn hiệu lực của hối phiếu.
Chấp nhận hoàn trả là một hình thức chấp nhận trong đó người xuất khẩu
không chuyển hối phiếu đến ngân hàng của người nhập khẩu yêu cầu chấp nhận
trả tiền, mà chuyển đến một ngân hàng hạng nhất do 2 bên thỏa thuận để chấp
nhận trả tiền.
Nghiệp vụ nhờ thu thương phiếu: là nghiệp vụ trong đó người hưởng lợi
thương phiếu ủy thác cho ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên thương phiếu từ
người trả tiền ghi trên thương phiếu đó.
15
Chương 2. Thực trạng thị trường thương phiếu Việt Nam
2.1. Thực trạng sử dụng thương phiếu ở Việt Nam thời gian qua
2.1.1. Thương phiếu chủ yếu được dùng trong thanh toán quốc tế
Từ năm 1954 đến năm 1999, thương phiếu chỉ được sử dụng trong lĩnh
vực kinh tế đối ngoại. Các doanh nghiệp Việt Nam khi phát hành hối phiếu đòi
tiền thương nhân hoặc ngân hàng nước ngoài mặc nhiên áp dụng Luật Thống
nhất về hối phiếu ULB-1930.
Với chính sách mở cửa, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới,
mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu của nước
ta cũng được đổi mới. Trong hoạt động thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam
sử dụng hối phiếu trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, nhờ thu
trong các hợp đồng mua bán ngoại thương.
Trong đó, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu sử dụng hối phiếu với tư
cách là người bị ký phát khi nhập khẩu hàng hóa và là người thụ hưởng khi xuất
khẩu hàng hóa ra nước ngoài, còn kỳ phiếu chưa thấy được sử dụng.
Các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành giao dịch thông qua các ngân hàng
thương mại. Tỷ lệ doanh số thanh toán có sử dụng thương phiếu (thanh toán
bằng L/C và nhờ thu) chiếm đa phần, khoảng trên 80% tổng doanh số thanh toán
quốc tế ở hầu hết các ngân hàng thương mại.
Bảng 1: Tình hình thanh toán xuất nhập khẩu của 4 ngân hàng thương mại
lớn, giai đoạn 2005-2009 (nguồn: báo cáo thường niên của các ngân hàng).
Đơn vị: Tỷ USD
Ngân hàng 2005 2006 2007 2008 2009
Ngân hàng Vietcombank 20.958 22.800 26.323 32.501 25.620
Ngân hàng Vietintbank 5.651 6.790 7.695 11.270 12.100
Ngân hàng BIDV 6.450 ____ 5.150 21.577 24.527
Ngân hàng Agribank 5.857 6.131 7.248 10.643 9.700
2.1.2. Thương phiếu ít được dùng trong thương mại nội địa
Trước đây Việt Nam xây dựng nền kinh tế theo hoạt thuyết kinh tế xã hội
chủ nghĩa nên không thừa nhận sự tồn tại của tín dụng thương mại và thương
phiếu – công cụ của tín dụng thương mại cũng không ra đời.
Trên thực tế, trong nội địa khi mua bán hàng trả tiền ngay của các doanh
nghiệp thường sử dụng công cụ hóa đơn thương mại để đòi tiền. Còn khi bán
16
hàng trả chậm, việc thu tiền trong tương lai thường được thực hiện dưới hình
thức người bán trực tiếp ghi sổ nợ người mua và việc thu tiền về sau dựa trên cơ
sở sự tin cậy làm đảm bảo.
Thực trạng này bất cập ở chỗ, hóa đơn thương mại không phải là công cụ
tài chính đòi tiền với mục đích và nội dung phát hành là để thu tiền mà chỉ là
chứng từ thương mại nhằm mô tả hàng hóa và các tính chất của một giao dịch
thương mại.
Còn việc ghi sổ nợ khi bán chịu hàng hóa đã để lại một bài học quý giá
cho các thương nhân chợ Đồng Xuân (Hà Nội) và chợ Rồng (Nam Định) khi
xảy ra 2 vụ cháy chợ khiến các chủ nợ không thu hồi được vốn vì không có các
công cụ tài chính được phát hành và được bảo vệ theo pháp luật.
Về kỳ phiếu, hiện tại thị trường kỳ phiếu chủ yếu do các ngân hàng phát
hành và chủ yếu phát hành kỳ phiếu với thời hạn ngắn nhằm huy động tiền gửi
của người dân, ít dùng trong thương mại.
Bảng 2. Số liệu về kỳ phiếu do Ngân hàng Công thương phát hành (triệu
đồng).
2010 2009 2008 2007
Dưới 12
tháng (1)
12 tháng - 5
năm (2)
(1) (2) (1) (2) (1) (2)
105.856 6 3.070.655 6 3.255.526 188 119.914 6
2.2. Thực trạng phát triển thị trường thương phiếu trong giai đoạn
vừa qua
2.2.1. Thực trạng cơ sở pháp lý
Hiện nay nguồn luật điều chỉnh hoạt động trên thị trường thương phiếu là
Luật các công cụ chuyển nhượng, được Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005,
Luật các Tổ chức tín dụng, ban hành ngày 29/6/2010; Luật Ngân hàng Nhà
nước, ban hành ngày 29/6/2010…
2.2.2. Chủ thể tham gia phát triển thị trường thương phiếu trong hoạt
động thương mại
Do thương phiếu chưa được sử dụng rộng rãi trong thương mại nội địa mà
mà mới chỉ sử dụng chủ yếu trong quan hệ thương mại quốc tế, cho nên các chủ
thể tham gia thị trường thương phiếu trong hoạt động thương mại ở Việt Nam
17
chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và các ngân hàng
thương mại.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia
quan hệ hối phiếu với tư cách là người ký phát, người thụ hưởng khi là người
xuất khẩu, là người bị ký phát khi là người nhập khẩu. Trong quan hệ kỳ phiếu,
các doanh nghiệp Việt Nam tham gia với tư cách là người thụ hưởng khi là
người xuất khẩu, là người phát hành khi là người nhập khẩu.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam là chủ thể của thị trường thương
phiếu, là người trả tiền khi giữ vai trò là ngân hàng phát hành L/C, là người thụ
hưởng khi chiết khấu thương phiếu, là người cho vay khi nhận cầm cố thương
phiếu, là người bảo lãnh, chấp nhận khi tiến hành bảo lãnh và chấp nhận thanh
toán thương phiếu, là người nhận ủy thác khi thực hiện phương thức thanh toán
nhờ thu.
2.2.3. Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường thương
phiếu
2.2.3.1. Nghiệp vụ kinh doanh chiết khấu hối phiếu tín dụng chứng từ
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán
trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng viết một thư cam kết (L/C)
trả tiền hối phiếu (hoặc hóa đơn) của người hưởng lợi với điều kiện người hưởng
lợi xuất trình chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C. Hầu
hết các cam kết trả tiền của ngân hàng phát hành ghi trong L/C là cam kết trả
tiền hối phiếu của người hưởng lợi phát hành.
Trên cơ sở thực tế hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, người hưởng lợi L/C
phải lập các chứng từ quy định trong L/C như chứng từ vận tải, hóa đơn thương
mại… và ký phát hối phiếu đòi tiền nghân hàng phát hành L/C. Như vậy, hối
phiếu chỉ được phát hành trên cơ sở thực hiện L/C nói riêng hay hợp đồng xuất
nhập khẩu nói chung.
Có 2 loại chiết khấu hối phiếu thường được áp dụng ở Việt Nam: chiết
khấu trong L/C và chiết khấu ngoài L/C.
Chiết khấu trong L/C là loại chiết khấu trong đó ngân hàng phát hành L/C
cho phép người hưởng lợi L/C có thể chiết khấu hối phiếu tại bất cứ ngân
hàng nào ở nước họ (chiết khấu tự do) hoặc tại 1 ngân hàng chỉ định (chiết
khấu chỉ định).
Chiết khấu trong L/C ở Việt Nam có đặc điểm:
18
+ Ngân hàng chiết khấu thường là các chi nhánh của ngân hàng phát hành.
Đối với L/C chiết khấu tự do, ngân hàng thông báo thường là ngân hàng chiết
khấu.
+ Người có nghĩa vụ trả tiền các hối phiếu tín dụng chứng từ là ngân hàng
phát hành/ngân hàng xác nhận, vì vậy ngân hàng phát hành hoặc xác nhận phải
là ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế và là những ngân hàng đại lý của
ngân hàng chiết khấu Việt Nam.
+ Chiết khấu trong L/C là loại chiết khấu miễn truy đòi lại tiền người ký
phát hối phiếu.
Chiết khấu ngoài L/C là loại chiết khấu được thỏa thuận giữa ngân hàng và
người hưởng lợi L/C mà không do L/C quy định. Người hưởng lợi L/C có thể
thông qua ngân hàng thông báo xuất trình hối phiếu và chứng từ đòi tiền ngân
hàng phát hành hoặc cũng có thể bán hối phiếu và chứng từ cho một ngân
hàng nào đó mà họ đồng ý mua.
Đặc điểm:
+ Bất cứ ngân hàng nào ở nước người hưởng lợi L/C cũng có thể trở
thành ngân hàng chiết khấu, tuy nhiên, việc xuất trình hối phiếu và chứng từ
phải thông qua ngân hàng thông báo.
+ Do L/C không quy định chiết khấu nên ngân hàng phát hành không chịu
trách nhiệm đối với những chứng từ và hối phiếu đã được chiết khấu. Chính vì
vậy, chiết khấu ngoài L/C không phát triển lắm ở Việt Nam.
+ Việc miễn truy đòi trong chiết khấu là do 2 bên thương lượng quyết
định.
2.2.3.2. Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu nhờ thu
Phương thức thanh toán nhờ thu quy định rằng, người xuất khẩu sau khi
giao hàng thì ký phát hối phiếu (hoặc hóa đơn) đòi tiền người nhập khẩu và ủy
thác cho ngân hàng thu tiền hối phiếu (hoặc hóa đơn).
Việc ủy thác ngân hàng thu tiền hối phiếu có 2 cách khác nhau: một là chỉ
ủy thác thu hối phiếu, hai là ủy thác thu hối phiếu kèm với các chứng từ gửi
hàng. Theo tập quá thanh toán quốc tế ở Việt Nam, các doanh nghiệp thường ủy
thác nhờ thu theo cách thứ 2.
Ủy thác thu hối phiếu kèm chứng từ gửi hàng thường kèm với các điều
kiện giao chứng từ D/P, D/A, D/TC.
19
Các doanh nghiệp Việt Nam khi áp dụng phương thức nhờ thu thường sử
dụng hối phiếu làm công cụ đòi tiền người nhập khẩu. Phương thức nhờ thu
chiếm tỷ trọng nhỏ trong thanh toán hàng xuất khẩu ở Việt Nam nên lượng hối
phiếu phát sinh từ phương thức này cũng ít hơn nhiều so với phương thức tín
dụng chứng từ.
Thông thường phương thức thanh toán nhờ thu thường thu tiền rất chậm,
có khi tới 3, 4 tháng sau khi giao hàng. Để khắc phục tình trạng này, người thụ
hưởng hối phiếu có thể chọn 1 trong 2 cách là cầm cố hối phiếu để vay tiền ngân
hàng hoặc bán hối phiếu (chiết khấu) cho ngân hàng để thu tiền trước hạn.
Bảng 3. Cơ cấu sử dụng thương phiếu trong thanh toán xuất khẩu của
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Năm
2000 2001 2002 2003 2004
Tỷ
USD
%
Tỷ
USD
%
Tỷ
USD
% Tỷ USD % Tỷ USD %
Hối phiếu 4.163 100 4.894 100 4.923 100 5.762 100 6.920 100
Tín dụng
chứng từ
3.750 89 3.723 71 3.471 76 4.263 72 5.051 73
Nhờ thu 413 11 1.171 29 1.452 24 1.499 28 1.869 27
2.2.3.3. Nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán thương phiếu
Tồn tại chủ yếu hiện nay đối với bảo lãnh thanh toán hối phiếu trả chậm
theo L/C mà các ngân hàng Việt Nam phát hàh cho nước ngoài hưởng lợi là
ngân hàng phải đứng ra trả nợ thay cho khách hàng vì khách hàng không trả tiền
hối phiếu đúng hạn hoặc mất khả năng thanh toán.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu phát sinh tình trạng này là do khâu
thẩm định khách hàng của ngân hàng thương mại Việt Nam chưa chuẩn xác,
thiếu độ tin cậy.
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Những kết quả đạt được
Một là, thương phiếu từ chỗ chỉ được đề cập một cách manh mún trong
một số luật có liên quan đã được Nhà nước ban hành một Pháp lệnh riêng để
điều chỉnh thương phiếu năm 1999 và sau này là Luật các công cụ chuyển
20
nhượng năm 2005. Sự ra đời của Luật các công cụ chuyển nhượng đánh dấu
mốc quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường thương phiếu
nước ta.
Hai là, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã và đang sử dụng
hối phiếu trong thanh toán hàng xuất nhập khẩu. Ở Việt Nam, thương phiếu (chủ
yếu là hối phiếu) được sử dụng làm phương tiện thanh toán và tín dụng quốc tế
trong lĩnh vực ngoại thương với vai trò là phương tiện đòi tiền của các phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ, nhờ thu và thư bảo lãnh.
Các thành tố của thị trường thương phiếu đã và đang xuất hiện đặt nền
móng cho sự hình thành và phát triển của thị trường thương phiếu Việt Nam
trong tương lai.
Ba là, nghiệp vụ kinh doanh thương phiếu của các ngân hàng thương mại
như chiết khấu, cầm cố, bảo lãnh, nhận ủy thác nhờ thu đã hình thành. Việc các
ngân hàng thương mại mở rộng các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán bằng
thương phiếu giúp cho các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, từ đó
nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh.
Ngoài ra, trong quá trình phát triển các nghiệp vụ thanh toán bằng thương
phiếu, các tổ chức tài chính trung gian đã khôn chỉ đưa thương phiếu trở thành
một công cụ hữu ích trên thị trường vốn ngắn hạn, mà còn góp phần đẩy nhanh
tiến trình hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam với thị trường tài chính thế
giới.
2.3.2. Tồn tại, hạn chế
2.3.2.1. Nghiệp vụ kinh doanh thương phiếu tuy có phát triển, nhưng thị
trường thương phiếu Việt Nam chưa thực sự hình thành.
Các nghiệp vụ kinh doanh thương phiếu đã mang lại lợi ích cho cả 2 phía
doanh nghiệp và ngân hàng, cho nên nó đã được phát triển khá sớm ở nước ta.
Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có thị trường tự do tín dụng, tự do hóa lãi suất chưa
hình thành, ngoài kênh tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại, kênh huy
động vốn trên thị trường chứng khoán còn non yếu, nên trên thị trường chưa
xuất hiện quan hệ cung cầu đối với “hàng hóa” thương phiếu trong các nghiệp
vụ chiết khấu, cầm cố, bảo lãnh thương phiếu. Yếu tố kinh doanh trong nghiệp
vụ chiết khấu, cầm cố… thương phiếu chưa hình thành, cơ chế “xin - cho” vẫn
chi phối trên thị trường này.
21
Thương phiếu chỉ được sử dụng trong quan hệ thanh toán quốc tế của Việt
Nam với nước ngoài, tuy nhiên chủng loại chưa phong phú. Các doanh nghiệp
Việt Nam mới chỉ sử dụng hối phiếu làm công cụ đòi tiền khi xuất khẩu, còn
chưa sử dụng kỳ phiếu trong thanh toán hàng nhập khẩu.
Thương phiếu là công cụ không thể thiếu của các phương thức thanh toán
như tín dụng chứng từ, nhờ thu, bảo lãnh, L/C dự phòng, bao tín dụng, thư ủy
thác mua, treo tài khoản ở nước ngoài, ghi sổ… Thực trạng sử dụng các phương
thức thanh toán của doanh nghiệp Việt Nam từ trước tới nay cho thấy mới sử
dụng hối phiếu như là công cụ đòi tiền trong phương thức tín dụng chứng từ,
nhờ thu, còn các phương thức khác chưa thấy sử dụng, đặc biệt là đối với kỳ
phiếu.
Để hình thành một thị trường, trong nền kinh tế phải hội đủ những thành tố cơ
sở tối thiểu sau đây:
Một là phải có một lượng hàng hóa nhất định để đưa vào thị trường;
Hai là phải có nhu cầu đối với hàng hóa đó;
Ba là phải có người bán người mua
Cuối cùng là có hệ thống pháp lý điều tiết và bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ
của những thành viên của thị trường. Cả 4 yếu tố cơ bản đó vẫn chưa hình
thành đầy đủ ở Việt Nam.
2.3.2.2. Bất cập về chủ thể tham gia thị trường thương phiếu
Trong thương mại nội địa, các doanh nghiệp thường sử dung các công cụ
thanh toán như chuyển khoản qua tài khoản ngân hàng, séc, còn chưa sử dụng
hối phiếu và kỳ phiếu. Có thể nói đây là mặt hạn chế trong sử dụng thương
phiếu ở nước ta.
Do thương phiếu chưa được sử dụng trong thương mại nội địa mà mới chỉ
được sử dụng trong quan hệ thương mại quốc tế, nên các chủ thể tham gia thị
trường thương phiếu trong hoạt động thương mại ở Việt Nam rất hạn chế. Điểm
mặt các chủ thể tham gia thị trường thương phiếu ở Việt Nam hiện chỉ thấy có
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và các ngân hàng thương mại.
Nếu thương phiếu được sử dụng trong nội địa, các thành phần chủ thể
tham gia thị trường thương phiếu Việt Nam sẽ phong phú hơn nhiều.
22
Nhu cầu tín dụng của các thương nhân trong nền kinh tế chủ yếu là do hệ
thống ngân hàng thương mại cung ứng, nhưng vì khả năng của hệ thống ngân
hàng có hạn nên các chủ thể đã phải bán chịu hàng hóa cho nhau, ai cũng là chủ
nợ của nhau, không có công cụ (thương phiếu) để bù trừ nợ lẫn nhau. Do đó,
sinh ra hiện tượng chiếm dụng vốn lẫn nhau, không có cách giải quyết.
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Nền kinh tế nước ta có xuất phát điểm thấp, lại đang trong quá
trình chuyển đổi
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm gần đây thuộc vào hàng
những nước cao nhất thế giới, song chưa có tính ổn định, lạm phát còn ở mức
cao. Thu nhập của dân chúng còn thấp, lại chưa được đào tạo cơ bản các kiến
thức về thị trường tài chính nói chung, thương phiếu và thị trường thương phiếu
nói riêng. Chúng ta lại chưa có các chính sách phù hợp để khai thác mọi nguồn
lực trong dân chúng. Vì vậy, khi có tiền người dân chỉ có thói quen gửi tiết
kiệm, mua vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản.
Khi cần vốn, các doanh nghiệp chủ yếu vay vốn qua hệ thống ngân hàng
mà không phát hành thương phiếu để vay vốn lẫn nhau. Nhìn chung các doanh
nghiệp Việt Nam chưa thực sự quan tâm tới thương phiếu và thị trường thương
phiếu. Điều này làm cho việc sử dụng thương phiếu ở Việt Nam còn quá hạn
chế.
2.3.3.2. Nền kinh tế còn nặng thói quen sử dụng tiền mặt
Thương phiếu là một trong những công cụ của chế độ thanh toán không
dùng tiền mặt, nhưng Việt Nam là một trong những quốc gia có thói quen sử
dụng tiền mặt trong thanh toán nội địa, nên thương phiếu khó có thể nảy mầm
trên thói quen này. Theo nghiên cứu của IMF, tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh
toán của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực.
2.3.3.3. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm dụng vốn của xã hội nhiều
nhưng lại có độ tín nhiệm thấp.
Trên thực tế, độ tín nhiệm của các doanh nghiệp nước ta không cao, các
doanh nghiệp khi có quan hệ mua bán chịu chỉ lập các văn bản thỏa thuận với
nội dung đơn giản về thời gian trả chậm, số tiền trả chậm, không sử dụng thương
phiếu. Do vậy, thường dẫn đến nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau.
23
Số liệu công bố gần đây về tình trạng công nợ dây dưa giữa các doanh
nghiệp nhà nước với nhau là những con số khổng lồ: EVN – Tập đoàn điện lực
Việt Nam hiện đang nợ Tập đoàn dầu khí hơn 5.000 tỷ đồng, nợ Tập đoàn Than
khoáng sản Việt Nam 1.600 tỷ đồng.
2.3.3.4. Hình thức tín dụng chủ yếu của nền kinh tế là tín dụng qua hệ
thống ngân hàng thương mại
Thị trường chứng khoán chưa phát triển, tiềm ẩn nhiều rủi ro, chưa trở
thành kênh huy động vốn lớn cho doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp thiếu
vốn thì đi vay ngân hàng thương mại. Các doanh nghiệp thiếu tính năng động,
tìm tòi các nguồn vay khác như phát hành trái phiếu doanh nghiệp hay phát hành
thương phiếu để huy động vốn của các bạn hàng. Thực tế, cho đến nay cũng mới
chỉ có 2 doanh nghiệp tư nhân lớn: Công ty Cổ phần Vincom và Công ty Cổ
phần Hoàng Anh Gia Lai phát hành trái phiếu ra nước ngoài để huy động vốn
đầu tư vào trong nước.
2.3.3.5. Rủi ro do sử dụng thương phiếu trong hoạt động thương mại còn
chưa có biện pháp phòng ngừa kịp thời, hữu hiệu.
Thương phiếu là một công cụ tài chính quan trọng được sử dụng trong tín
dụng thương mại. Tín dụng trước hết xuất phát từ sự tín nhiệm, tin cậy. Như
vậy, ngay khi phát hành, tự bản thân các quyền pháp lý đối với những lợi ích
tương lai của thương phiếu đã ngầm hàm chứa những dấu hiệu rủi ro dựa trên sự
tín nhiệm của người ký phát đối với người bị ký phát (hối phiếu) hoặc của người
phát hành đối với người thụ hưởng (kỳ phiếu).
Khi doanh nghiệp và các tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp
vụ phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán,
truy đòi… của thương phiếu hầu như không phụ thuộc vào hợp đồng giao dịch
cơ sở mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên có liên quan. Sự tách
biệt giữa chứng từ và hàng hóa đã tạo nên khe hở để một số tổ chức, cá nhân
tiến hành lừa đảo ngân hàng, như phát hành thương phiếu khống nhằm lừa đảo
thông qua nghiệp vụ chiết khấu ngân hàng hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp
thôn qua người mua, người bán.
Tại các nước có thị trường thương phiếu phát triển, để giảm thiểu rủi ro
cho các bên liên quan khi sử dụng thương phiếu, trên thị trường có các tổ chức
xếp loại thương phiếu. Ở Việt Nam, thị trường thương phiếu còn đang trong giai
24
đoạn phát triển nên chưa có tổ chức xếp hạng thương phiếu và các chứng từ có
giá ngắn hạn khác. Do vậy, việc sử dụng thương phiếu, đặc biệt là trong hoạt
động thương mại ở nước ta rất dễ gặp phải rủi ro.
Các doanh nghiệp và các trung gian tài chính còn có thể gặp phải rủi ro lãi
suất khi thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu. Khi lãi suất trên thị
trường tăng lên sẽ đẩy các doanh nghiệp vào tình trạng phải đối mặt với sự gia
tăng chi phí sản xuất. Các trung gian tài chính có thể gặp phải rủi ro do chênh
lệch giữa mệnh giá thương phiếu và số tiền được đảm bảo thanh toán hoặc số
tiền chấp nhận thanh toán của bên thứ ba (nếu có). Rủi ro ở chỗ số tiền chênh
lệch giữa mệnh giá thương phiếu và phần vốn gốc được ngân hàng chấp nhận
bảo lãnh thanh toán có thẻ không thanh toán được hoặc thanh toán không đủ.
Cuối cùng, một rủi ro cũng thường gặp là rủi ro mất khả năng thanh toán
do nguyên nhân bất khả kháng. Rủi ro này có thể phát sinh do chủ hàng bị tổn
thất do các nguyên nhân khách quan dẫn đến mất khả năng thanh toán, khi đến
hạn thì người thụ hưởng hoặc ngân hàng chiết khấu thương phiếu có thể không
được thanh toán do người bị ký phát hối phiếu hoặc người phát hành kỳ phiếu
mất khả năng chi trả thương phiếu
Ở các nước phát triển, người ta thường lập các quỹ dự phòng thanh toán
thương phiếu. Ở Việt Nam, việc phát triển các quỹ dự phòng thanh toán thương
phiếu còn chưa phát triển nên phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển của thị
trường thương phiếu.
25
Chương 3. Giải pháp phát triển thị trường thương phiếu ở Việt
Nam
3.1. Các giải pháp vi mô
3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật thương phiếu và thị trường thương
phiếu
Hệ thống pháp luật quốc gia giống như là một hệ thần kinh của cơ thể con
người. Có hệ thần kinh hoàn thiện thì mới đảm bảo cho cơ thể phát triển lành
mạnh. Hiện nay, hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và hệ thống pháp
luật điều chỉnh thương phiếu nói riêng vẫn còn nhiều bất cập.
Trước mắt, nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật các
công cụ chuyển nhượng. Luật này được ban hành từ năm 2005 nhưng đến nay
vẫn chưa có nghị định hướng dẫn thi hành.
Về thuật ngữ hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ quy định trong luật
này chưa chính xác vì hối phiếu có 2 loại: hối phiếu thương mại và hối phiếu tài
chính. Nếu luật chỉ điều chỉnh hối phiếu đòi nợ tức là hối phiếu thương mại, vậy
hối phiếu tài chính sẽ được điều chỉnh bởi luật nào?
Bên cạnh đó, thuật ngữ hối phiếu nhận nợ là chưa chính xác, đồng thời
cũng không phù hợp với cách dùng thông dụng trong hoạt động thương mại, vay
nợ, thanh toán quốc tế là kỳ phiếu hay giấy nhận nợ.
3.1.2. Thể chế hóa chế độ thanh toán không dùng tiền mặt
Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời, đặc biệt là có thị
trường thương phiếu phát triển, thương phiếu có thể thay cho tiền mặt chấp hành
chức năng phương tiện thanh toán.
Thương phiếu là một thành phần của khối lượng tiền tệ M2, do đó, góp
phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa phát triển, giảm sức ép phát hành tiền mặt đưa
vào lưu thông, do đó góp phần chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền.
Thu hẹp tối đa thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế để tạo cơ hội
hạn chế đi đến xóa bỏ nạn tham nhũng công quỹ.
26
Thanh toán bằng tiền mặt là mặt đối nghịch với thanh toán bằng thương
phiếu. Vì vậy, muốn thị trường thương phiếu phát triển thì phải thu hẹp thị
trường tiền mặt ở Việt Nam. Mối quan hệ này là tỷ lệ nghịch.
Giải pháp cho vấn đề này là:
Ban hành Luật hoặc Pháp lệnh thanh toán không dùng tiền mặt trong phạm
vi toàn quốc.
Buộc tất cả các giao dịch từ một số tiền nhất định trở lên phải thanh toán
qua tài khoản tại ngân hàng thương mại.
Nhà nước quy định mức tiền mặt tồn quỹ tối thiểu tại các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, chính trị, xã hội, trên mức đó phải gửi vào tài khoản mở tại ngân
hàng.
Nghiên cứu chuyển hình thức sổ tiết kiệm sang chứng chỉ tiền gửi có thể
chuyển nhượng (CDs). Bằng hình thức này có thể mở rộng diện người dân sử
dụng công cụ chuyển nhượng của ngân hàng, tạo thói quen sử dụng dịch vụ
ngân hàng trong dân cư.
3.1.3. Hoàn thiện cơ chế tự do hóa lãi suất.
Lãi suất tự do hóa là cơ chế lãi suất trong đó không có hoặc chỉ có sự can
thiệp rất hạn chế của nhà nước vào việc hình thành lãi suất. Lãi suất khi đó sẽ
được hình thành trên cơ sở thị trường, quan hệ cung – cầu.
Tự do hóa lãi suất góp phần làm dòng vốn trong xã hội được tự do lưu
chuyển, lãi suất khi đó tự điều chỉnh theo tín hiệu thị trường, lúc đó nó phản ánh
được giá của vốn, giá cả thương phiếu trên thị trường.
Lãi suất ngân hàng là cơ sở định giá chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố,
chấp nhận và chấp nhận hoàn trả các chứng từ có giá nói chung, thương phiếu
nói riêng.
Kiểm soát lãi suất quá chặt chẽ sẽ khuyến khích hình thành các công cụ
tài chính, trung gian tài chính phi chính thức cạnh tranh với các công cụ tài
chính và trung gian tài chính chính thức, làm cho thị trường tài chính thiếu tính
minh bạch và khó phát triển.
27
3.2. Nhóm các giải pháp vi mô
3.2.1. Tạo “hàng hóa” cho thị trường thương phiếu
Muốn hình thành một thị trường, trước tiên phải có hàng hóa cho thị
trường đó. Để có thương phiếu sử dụng trong thương mại, cần phải thể chế hóa
việc sử dụng các công cụ thanh toán trong ký kết và thực hiện các hợp đồng mua
bán thay cho thanh toán bằng tiền mặt phổ biến như hiện nay.
Do đó, giải pháp có thể là:
Tất cả các hợp đồng mua bán chịu ký kết giữa các doanh nghiệp phải sử
dụng hối phiếu trả chậm hoặc kỳ phiếu trả chậm có bảo lãnh thanh toán làm
công cụ thah toán. Riêng đối với hối phiếu thì người mua hoặc một người thứ
ba do người mua ủy quyền phải ký chấp nhận thanh toán hối phiếu thì mới có
thể giành được quyền nhận hàng.
Các hợp đồng mua bán trả tiền ngay sau khi xuất trình chứng từ gửi hàng
(D/P) cũng nên bắt buộc sử dụng hối phiếu trả tiền ngay.
Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân và dân doanh phát hành và sử dụng
thương phiếu trong quan hệ mua bán chịu nội địa.
3.2.2. Thành lập các công ty định mức tín nhiệm
Hệ số tín nhiệm là chỉ tiêu để thông qua đó người ta nhận dạng được thực
trạng về khả năng tài chính của doanh nghiệp. Các nhà kinh doanh thương phiếu
thường dựa vào hệ số tín nhiệm của các tổ chức phát hành thương phiếu cao hay
thấp để quyết định có đầu tư vào thương phiếu đó hay không hoặc quyết định
đến mức giá của thương phiếu đó. Vì vậy, hệ số tín nhiệm có tác động rất tích
cực đến sự phát triển của thị trường thương phiếu.
Các nước có nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ rất coi trọng hệ số tín
nhiệm trong đầu tư và kinh doanh các chứng từ có giá.
Đối với Việt Nam, ngay từ bây giờ cũng cần có hệ số tín nhiệm để lành
mạnh hóa thị trường tín dụng, bảo vệ các nhà kinh doanh thương phiếu và các tổ
chức tín dụng, tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại, chủ thể chủ yếu
tham gia thị trường thương phiếu.
28
Để thành lập công ty định mức tín nhiệm nội địa, cần phải tìm được một
số nhà bảo trợ chính, sự trợ giúp kỹ thuật của các công ty định mức tín nhiệm uy
tín quốc tế.
Bên cạnh đó, khi hình thành công ty định mức tín nhiệm, nên thành lập
dưới dạng công ty cổ phần để có tính độc lập, cộng đồng cao. Nên hạn chế tỷ lệ
sở hữu vốn điều lệ đối với cổ đông nhằm tránh sự chi phối quá sâu của bất kỳ ai
làm giảm chất lượng hệ số tín nhiệm cung cấp ra thị trường.
3.2.3. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro
Như đã phân tích ở trên, hoạt động tín dụng liên quan đến thương phiếu
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vì vậy, các tổ chức tín dụng tại Việt Nam khi triển khai các
nghiệp vụ tín dụng liên quan đến thương phiếu, cần thiết phải có những biện
pháp phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra.
Một số biện pháp chủ yếu:
Tăng cường chất lượng khâu thẩm định.
Ràng buộc các yếu tố đảm bảo: ký quỹ, cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh
bằng tài sản của bên thứ ba…
Thực hiện giám sát thường xuyên.
Bảo hiểm hàng hóa phải thu.
Thực hiện tốt trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng.
3.2.4. Tăng cường đào tạo, phổ cập kiến thức về thương phiếu, thị trường
thương phiếu và vai trò của nó trong nền kinh tế.
Yếu tố con người đóng vai trò quyết định sự phát triển và hội nhập của thị
trường thương phiếu. Nguồn nhân lực của thị trường thương phiếu phải bao gồm
lực lượng cán bộ và nhân viên tác nghiệp có trình độ và kiến thức nhất định.
Kinh nghiệm của các nước có thị trường thương phiếu phát triển cũng cho
thấy, để thị trường thương phiếu phát triển, các tác nhân trong nền kinh tế phải
hiểu rõ tác dụng, ưu điểm của thương phiếu trong thanh toán.
Do đó, để thực hiện giải pháp này, cần chú trọng một số công việc sau:
29
Tăng cường đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội
ngũ cán bộ điều hành, quản lý, đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia hoạt động
của thị trường.
Đổi mới, hoàn thiện nội dung các loại tài liệu liên quan đến thị trường
thương phiếu phù hợp với yêu cầu của thực tế.
Tuyên truyền giáo dục kiến thức về thương phiếu và thị trường thương
phiếu.
Cần có chính sách hướng dẫn và khuyến khích doanh nghiệp trong việc sử
dụng thương phiếu.
30
KẾT LUẬN
Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tăng
cường hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh quan hệ thương mại với tất cả
các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc phát triển thị trường thương phiếu
nhằm phát triển hoạt động thương mại ở nước ta là điều rất cần thiết.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này có vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có ý
nghĩa lý luận. Đối với sinh viên học môn Thanh toán quốc tế, việc nghiên cứu
đề tài này giúp làm sáng tỏ lý luận và góp phần vận dụng lý luận vào thực
tiễn, hoàn thành chương trình đào tạo tại Đại học Ngoại thương. Tuy nhiên,
do thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài nghiên cứu là vấn đề khó, do đó đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng em mong sẽ nhận được sự
góp ý của các thầy cô và các bạn cùng lớp nhằm hoàn thiện đề tài hơn nữa.
Qua đây, chúng em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo,
Tiến sĩ Trần Thị Lương Bình đã hướng dẫn chúng em trong quá trình nghiên
cứu đề tài này./.
31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Thanh toán Quốc tế, GS.NGƯT Đinh Xuân Trình (chủ biên),
Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, 2009.
2. Thị trường Thương phiếu ở Việt Nam, GS.NGƯT Đinh Xuân Trình,
TS.Đặng Thị Nhàn, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, 2006.
3. Luật các công cụ chuyển nhượng 2005.
4. Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010.
5. Luật Ngân hàng Nhà nước năm /2010.
6. Báo cáo thường niên các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010 của
các ngân hàng Vietcombank, BIDV, Vietinbank, Agribank
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Thuyết trình- Thị trường Thương phiếu Việt Nam – Thực trạng và giải pháp.pdf