Tài liệu Đề tài Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ: Lời mở đầu
T
rong những năm gần đây, lĩnh vưc tiền tệ, hoạt động ngân hàng và Thị trường tài chính đã trở thành một trong những lĩnh vực kích thích nhất của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính đang thay đổi nhanh chóng với những phương tiện tài chính mới xuất hiện theo từng ngày, từng giờ. Công nghiệp hoạt động ngân hàng trước kia vốn lặng lẽ, nay trở nên sôi động và thường xuyên được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng, thị trường chứng khoán đã trở thành điểm hẹn chung cho tất cả mọi người, mọi thành phần kinh tế và trở thành mạch máu quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các nước phát triển; vấn đề chỉ đạo chính sách tiền tệ là khâu trung tâm trong những cuộc tranh luận về đường lối kinh tế.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21, Thế giới đang chứng kiến những thay đổi căn bản trong sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội cũng như quan hệ quốc tế, kinh tế ngày càng giữ vai trò quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tác động sâu sắc tới ...
97 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
T
rong những năm gần đây, lĩnh vưc tiền tệ, hoạt động ngân hàng và Thị trường tài chính đã trở thành một trong những lĩnh vực kích thích nhất của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính đang thay đổi nhanh chóng với những phương tiện tài chính mới xuất hiện theo từng ngày, từng giờ. Công nghiệp hoạt động ngân hàng trước kia vốn lặng lẽ, nay trở nên sôi động và thường xuyên được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng, thị trường chứng khoán đã trở thành điểm hẹn chung cho tất cả mọi người, mọi thành phần kinh tế và trở thành mạch máu quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các nước phát triển; vấn đề chỉ đạo chính sách tiền tệ là khâu trung tâm trong những cuộc tranh luận về đường lối kinh tế.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21, Thế giới đang chứng kiến những thay đổi căn bản trong sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội cũng như quan hệ quốc tế, kinh tế ngày càng giữ vai trò quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời tác động sâu sắc tới chính trị, quân sự, văn hoá, xã hội, dân tộc và môi trường sinh thái. Tổng hoà các tác động đó dẫn đến hai dòng phát triển dường như thuận nghịch là hợp tác và cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Những chuyển động này của toàn cầu tác động mạnh mẽ đến các quốc gia, làm ấm dần quan hệ giữa các quốc gia.
Hoà cùng nhịp điệu với xu thế chung của toàn cầu, Việt Nam đã và đang tiến hành mở rộng quan hệ ngoại giao, thương mại với tất cả các nước trong khu vực cũng như trên thế giới theo quan điểm “đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại” do Đảng và Nhà nước đưa ra. Thực hiện đường lối này, đến nay Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao được với hơn 150 nước và vùng lãnh thổ, nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương đã được ký kết và gần đây nhất phải kể đến là Hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ, Hiệp định đánh dấu một bước ngoặt chiến lược trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững.
Để thực hiện thành công các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, nền kinh tế Việt Nam đã và đang phải trải qua quá trình cơ cấu và cơ cấu lại, trong đó phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính được coi là nhiệm vụ quan trọng, có tính cơ sở, bởi tài chính đã từng bước được ví như là mạch máu của một nền kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển thì các dòng vốn phải được lưu thông tốt và đều đặn, liên tục. Mặc dù những cam kết và quy định giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ về lĩnh vực tài chính trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ là khá khắt khe so với trình độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam nhưng chính những yêu cầu được đặt ra trong Hiệp định sẽ mang lại cho thị trường tài chính Việt Nam cơ hội để tự đổi mới và hoàn thiện mình, từ đó đẩy nhanh sự phát triển của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề hiện nay đang được khá nhiều người quan tâm tìm hiểu là: những yêu cầu mà Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đặt ra cho thị trường tài chính Việt Nam là gì và thị trường tài chính Việt Nam sẽ phải thay đổi ra sao để đáp ứng được những yêu cầu đó? Để giải đáp một phần vấn đề này, em xin chọn đề tài “Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ” làm chủ đề nghiên cứu cho bài khoá luận của mình.
Khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về thị trường tài chính và những cam kết về thị trường tài chính trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ.
Chương II: Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ.
Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển thị trường tài chính Việt Nam theo các cam kết đặt ra trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ.
Đây là một đề tài có phạm vi rộng lớn, nhưng trong giới hạn của một đề tài khoá luận tốt nghiệp, em chỉ đi sâu khai thác một số khía cạnh trên thị trường tài chính mà em cho là chịu ảnh hưởng nhiều nhất của quá trình hội nhập nền tài chính quốc tế. Cũng thông qua đây, em muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới ThS. Đặng Thị Nhàn, người đã đưa ra nhiều ý kiến quý báu và tận tình hướng dẫn để em có thể hoàn thành tốt khoá luận này. Tuy nhiên, do trình độ cũng như khả năng phân tích và tổng hợp tư liệu của bản thân còn hạn chế, cộng với sự eo hẹp về mặt thời gian nên khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót hạn chế. Em rất mong nhận được sự thông cảm cũng như ý kiến chỉ bảo của các thầy cô nhằm rút ra những kinh nghiệm quí báu phục vụ cho việc hoàn thiện đề tài này cũng như việc học tập và nghiên cứu sau này.
Chương I: Tổng quan về thị trường tài chính và những cam kết về thị trường tài chính trong Hiệp định thương mại Việt - mỹ
I. Khái niệm thị trường tài chính
1. Khái niệm
Thị trường tài chính là thị trường trong đó vồn được chuyển từ những người hiện có vốn dư thừa sang những người thiếu vốn.
Nền kinh tế nào cũng đều có nhu cầu to lớn để vận hành và phát triển kinh tế. Vậy thì, vốn lấy từ đâu ra? Nói chung, vốn lấy từ ba nguồn:
+ Nhà nước- Chủ nhân của xí nghiệp quốc doanh cấp vốn cho các xí nghiệp của mình dưới hình thức cho vay, nhằm đảm bảo sự tăng trưởng của chúng;
+ Hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính- những cơ quan này chấp thuận cho các xí nghiệp và các công ty vay với những điều kiện nhất định;
+ Qua trung gian thị trường tài chính- một công cụ hết sức quan trọng về phương diện cấp vốn.
Một vấn đề được nhiều người thừa nhận là các nền kinh tế của các nước công nghiệp hoá đã phát triển mạnh mẽ, bền vững nhờ sự phát triển ổn định của thị trường tài chính. Thị trường tài chính cấp vốn cho nền kinh tế bằng hai cách: tăng tư bản và cho vay vốn. Vậy điều này diễn ra như thế nào?
Một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường bắt đầu vận hành được chủ yếu nhờ số vốn đóng góp ban đầu của các “cổ đông” sáng lập. Dần dần doanh nghiệp phát triển, “ăn nên làm ra”, doanh nghiệp cần thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Có thể lúc đầu bằng tài sản của mình và các khoản lợi nhuận thu được do doanh nghiệp trả, các cổ đông sáng lập có thể góp vốn thêm để xí nghiệp phát triển. Nhưng rồi đến một lúc nào đó khi nhu cầu vốn lớn mãi lên họ sẽ không còn đủ khả năng theo kịp tốc độ tăng trưởng đó. Cơ cấu tài chính xí nghiệp sẽ mất cân đối nghĩa là hoặc các khoản tín dụng ngắn hạn đãvượt quá xa nhu cầu cấp vốn lưu động, hoặc vốn tự có chỉ còn đủ cấp một phần nhỏ cho tài sản kinh doanh, trong khi đó các khoản công ty cho vay không dễ gì thu hồi về nhanh được. Doanh nghiệp có thể bị đe doạ phá sản! Trong tình huống này, một khoản tiền vốn “nóng” rót từ bên ngoài vào là tối cần thiết. Khoản tiền đó có thể lấy từ Thị trường tài chính!
Cơ chế huy động vốn thông qua thị trường tài chính được hiểu như sau: Một số tác nhân kinh tế có nhu cầu đầu tư nhiều hơn phần mình tiết kiệm được- và do đó cần đến vốn từ bên ngoài (số này, nói chung, là các xí nghiệp thuộc khu vực sản xuất và Nhà nước). Trong khi đó, một số tác nhân kinh tế khác có khoản tiền tiết kiệm nhiều hơn khoản đầu tư- và do vậy có khả năng cấp vốn (số này thông thường là các hộ gia đình). Một trong số các “công cụ” tổ chức ra việc lưu chuyển vốn từ nơi này đến nơi khác chính là Thị trường tài chính. Việc lưu chuyển này có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau hoặc là các doanh nghiệp trực tiếp mua khoản tiết kiệm này của các hộ gia đình trên Thị trường tài chính (thông thường tại thị trường chứng khoán); hoặc là các doanh nghiệp mua lại khoản vốn đó gián tiếp tại các tổ chức tài chính trung gian. Thị trường chứng khoán chỉ là một trong những công cụ cấp vốn, nhưng là một trong những công cụ cấp vốn hợp lý và hiệu quả nhất.
2. Phân loại Thị trường tài chính
2.1. Phân loại theo phương thức vay
Theo cách này Thi trường tài chính (TTTC) được chia ra làm 2 loại là Thị trường nợ và Thị trường vốn cổ phần. Bởi trên thực tế có hai cách để một công ty hay một cá nhân có thể vay vốn trong TTTC. Phương pháp chung nhất là người đi vay sẽ phát hành một công cụ vay nợ- có thể là trái khoán hay một món vay thế chấp- để trao cho người vay nắm giữ. Người đi vay phải trả cho người cho vay những khoản tiền lãi nhất định được ghi trong công cụ nợ. Mức lãi suất này lớn hay nhỏ phụ thuộc vào giá trị tiền vay và thời gian vay. Hết thời hạn cho vay, người đi vay phải thanh toán toàn bộ số tiền bao gồm cả cả vốn lẫn lãi cho người cho vay (nếu lãi chưa được trả hết). Trên thị trường nợ, vị thế của người phát hành ra công cụ nợ rất quan trọng. Vị thế của người phát hành cao thì khả năng thanh toán tiền lãi và hoàn vốn đi vay cao và ngược lại. Một công cụ vay nợ là ngắn hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là một năm hay ít hơn và là dài hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là 5 năm trở lên. Công cụ vay nợ có kỳ hạn thanh toán giữa 1 và 5 năm được gọi là trung hạn.
Phương pháp thứ hai để vay vốn là phát hành những chứng khoán vốn ví dụ như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. Chúng là những chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn đã góp của cổ đông vào doanh nghiệp, do doanh nghiệp phát hành và được chia lãi (gọi là cổ tức) theo phần vốn đã góp cho doanh nghiệp và được huởng các quyền lợi khác do Điều lệ của doanh nghiệp cổ phần quy định.
Sự khác biệt chủ yếu giữa các công cụ nợ và các chứng khoán vốn là ở chỗ người sở hữu các công cụ nợ được thanh toán lãi suất đều đặn, đúng quy định đã thoả thuận giữa công ty và các chủ nợ bất kể là công ty đó làm ăn có lãi hay không. Trong khi đó các cổ đông của công ty lại là những người có quyền đòi hưởng cổ tức sau cùng và mức cổ tức được hưởng này lại tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của công ty. Nhưng khi lợi nhuận và giá trị tài sản của công ty tăng lên thì các thì các cổ đông lại là những người được hưởng lợi trực tiếp bởi vì họ thực sự là những ông chủ của công ty với mức quyền lợi phụ thuộc số vốn đóng góp của họ.
2.2. Phân loại theo thời điểm phát hành chứng khoán
Theo cách này ta có TTTC cấp một và TTTC cấp hai.
TTTC cấp một là thị trường phát hành ra những chứng khoán vốn và chứng khoán nợ để huy động vốn hoặc tăng vốn cho doanh nghiệp.
TTTC cấp hai là thị trường trong đó diễn ra việc mua đi, bán lại các chứng khoán cũ đã được phát hành trên thị trường cấp một.
Thị trường cấp một là loại thị trường mà công chúng không biết rõ bởi vì việc bán chứng khoán cho người đầu tiên mua nó diễn ra trong phòng kín. Các công ty phát hành chứng khoán trên TTTC cấp một nhằm mục đích tăng vốn điều lệ cho công ty. Do TTTC cấp một là một thị trường phát hành nên cơ cấu của nó phải bao gồm đầy đủ các yếu tố tạo lập chứng khoán như hình thức chứng khoán, thủ tục tăng vốn, các nghiệp vụ giao dịch chứng khoán mới, các yếu tố pháp lý có liên quan tới việc đăng ký, lưu thông và bảo quản, cất trữ chứng khoán…
Thị trường cấp hai là thị trường mua bán những chứng khoán đã được phát hành từ trước và việc mua bán được tổ chức công khai với nhiều công cụ thiết bị thông tin cập nhật, hiện đại. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp hai không làm tăng vốn của công ty mà chỉ có tác dụng dịch chuyển vốn từ nơi này sang nơi khác, từ người này sang người khác. Những ví dụ về TTTC cấp hai là các Sở Giao dịch chứng khoán, các Thị trường ngoại hối, Thị trường tài chính kỳ hạn.
TTTC cấp hai thực hiện hai chức năng: Thứ nhất, nhờ có TTTC cấp hai mà những công cụ tài chính chuyển đổi được ra tiền mặt dễ dàng hơn, nghĩa là nó có tính “lỏng” cao hơn. Điều này làm cho các công cụ tài chính có tính hấp dẫn hơn với công chúng và làm tăng cầu về hàng hoá trên TTTC cấp một. Thứ hai, thị trường cấp hai xác định giá của mỗi chứng khoán mà công ty phát hành bán ở thị trường cấp một. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường cấp một sẽ chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường cấp hai sẽ chấp nhận cho chứng khoán này. Giá chứng khoán ở thị trường cấp hai càng cao thì giá phát hành ở TTTC cấp một càng cao và ngược lại
2.3. Phân loại theo cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán
Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán được mua bán trên thị trường, TTTC được chia ra làm 2 loại là thị trường tiền tệ và thị trường vốn
Thị trường tiền tệ là một thị trường tài chính trong đó chỉ có những công cụ nợ ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán từ 1 năm trở xuống) được mua bán.
Thị trường vốn là thị trường trong đó những công cụ vay nợ dài hạn hơn (kỳ hạn thanh toán lớn hơn 1 năm), và cổ phiếu được mua bán.
So với những công cụ vay nợ dài hạn, những công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản cao, dao động giá nhỏ và ít rủi ro hơn cho nên chúng thường được mua bán rộng rãi. Tuy nhiên hoạt động trên thị trường vốn lại thu hút được nhiều nhà đầu tư kinh doanh vốn và các công ty lớn hơn bởi giá trị giao dịch trên thị trường này lớn hơn nhiều so với Thị trường tiền tệ.
II. Cơ cấu thị trường tài chính
Việc phân tích cơ cấu TTTC được tiến hành dựa trên cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán. Theo cách phân loại này, Thị trường tài chính bao gồm Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn. Ngoài ra, cơ cấu TTTC còn có thể phân ra thêm 1 loại nữa là thị trường ngoại tệ hay còn gọi là thị trường ngoại hối. Tại Việt Nam, thị trường này còn ở dạng sơ khai và được đặt trong Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng- tức là một thành phần của Thị trường tiền tệ. Nhưng ở hầu hết các nước phát triển mà Mỹ là một điền hình thì thị trường này hoạt động như một bộ phận TTTC tương đối độc lập. Do đó việc nghiên cứu riêng thị trường ngoại hối là rất cần thiết.
1. Thị trường tiền tệ
1.1. Khái niệm Thị trường tiền tệ
Theo nghĩa rộng, Thị trường tiền tệ là thị trường vay vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tài chính và khách hàng của họ. Trước đây, Thị trường tiền tệ được hình thành do nhu cầu của các Ngân hàng muốn trao đổi với nhau các khoản vốn tạm thời dư dôi ở một số Ngân hàng với những khoản vốn thiếu ở một số Ngân hàng khác. Do đó, việc tham gia Thị trường tiền tệ chỉ hạn chế trong một số tổ chức tài chính nhất định như các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư.
Những năm gần đây, khái niệm Thị trường tiền tệ được mở rộng bao hàm cả không chỉ Ngân hàng và các tổ chức tài chính mà còn cả các doanh nghiệp không phải Ngân hàng. Ngân hàng và các tổ chức tài chính này mua và bán trên thị trường số vốn tạm thời dư thừa nhằm duy trì khả năng thanh toán của mình, cho vay để kiếm lãi, vay vốn để hoạt động.
Thị trường tiền tệ kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là “tiền tệ”. Sự biến động về số lượng, tỷ giá của loại hàng hoá này không chỉ ảnh hưởng tới việc kinh doanh của mỗi cá nhân mà còn tác động tới sự ổn định và tăng trưởng của cả một nền kinh tế. Chính vì vậy, Thị trường tiền tệ luôn được Nhà nước quan tâm và kiểm soát chặt chẽ bằng hệ thống pháp luật.
Đối tượng tham gia Thị trường tiền tệ là các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng vay để cho vay với lãi suất cao hơn. Trong công nghệ này, các Ngân hàng thương mại hoạt động trong giới hạn quy định của NHTƯ về khoản dự trữ bắt buộc (khoản này không được trả lãi) và về các khoản vay vốn cho hoạt động tín dụng (NHTƯ khống chế bằng lãi suất chiết khấu).
1.2. Hoạt động của Thị trường tiền tệ
Trong nền kinh tế, một số cá nhân, doanh nghiệp thường có lượng tiền nhàn rỗi, ngược lại một số các cá nhân, doanh nghiệp khác lại cần tiền để mua sắm đầu tư. Cũng như sự vận động của bất kỳ hàng hoá nào, tiền vận động từ nơi có tiền đến nơi cần tiền thông qua Thị trường tiền tệ. ở đây, các cá nhân, doanh nghiệp này thường tác động lẫn nhau sao cho người cho vay và người đi vay đều có lợi nhất. Lãi suất trên Thị trường tiền tệ cũng giống như giá cả thị trường của hàng hoá khác phụ thuộc vào cung cầu tiền tệ trên thị trường.
Cung tiền tệ trên thị trường là khả năng có thể đáp ứng các nhu cầu về tiền tệ bao gồm các khối lượng tiền tệ sẵn có và tiền tệ có thể cho vay được. Trong nền kinh tế, số tiền đang lưu hành ngoài Ngân hàng, các khoản tiền gửi ở Ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng khác có thể rút ra được đã hình thành nên tổng mức cung. Thông thường, Chính phủ có thể kiểm soát được tổng mức cung tiền tệ trong nền kinh tế.
Cầu tiền tệ trên thị trường là nhu cầu về tiền tệ của các cá nhân, doanh nghiệp để mua sắm, đầu tư v.v… Cầu tiền tệ là đại lượng nhạy cảm với lãi suất. Khi lãi suất tăng lên, trong các điều kiện không đổi, cầu thường giảm xuống và ngược lại. Và tác động của cung cầu tiền tệ đến lãi suất diễn ra như sau: Do giá cả hàng hoá tăng lên, nhu cầu về đầu tư sản xuất, mua sắm cũng tăng lên v.v… cầu tiền tệ cũng tăng lên và làm cho lãi suất cũng tăng theo. Tuy nhiên, mức tăng này của lãi suất cũng có một giới hạn nhất định. Sự tăng lên của lãi suất đến một mức độ nào đó, người vay sẽ thấy sử dụng tiền vay không có hiệu quả bằng cho vay, nói cách khác lợi nhuận thu được do sử dụng đồng vốn đi vay nhỏ hơn lãi suất vay, các doanh nghiệp sẽ không vay được nữa hoặc chuyển từ đi vay sang cho vay, kết quả là kéo lãi suất xuống. Tình hình cũng sẽ diễn ra như vậy nếu cung tiền tệ bị giảm đi do các chính sách thắt chặt tiền tệ. Ngược lại, khi cung tiền tệ tăng lên, lãi suất trên thị trường sẽ giảm xuống.
Thị trường tiền tệ không phải là nơi có địa điểm “hữu hình” để người mua và người bán đến gặp nhau và thực hiện các giao dịch, mà chỉ là một khái niệm nói lên sự tiếp xúc giữa hai yếu tố cơ bản của thị trường là cung và cầu để hình thành nên các hoạt động cũng như hình thành giá cả tín dụng (lãi suất). Đối tượng của Thị trường tiền tệ là các chứng khoán ngắn hạn thông thường dưới 1 năm, các hối phiếu thương mại, các kỳ phiếu Ngân hàng, các khế ước giao hàng, các tín phiếu Kho bạc ngắn hạn, v.v… Nhưng đây là các công cụ tài chính có khả năng thanh khoản cao và ít rủi ro, đặc biệt đối với những người cần một khoản tiền mặt, thì họ có thể dễ dàng bán các loại phiếu ghi nợ ngắn hạn hơn là bán các loại phiếu ghi nợ dài hạn và chịu phí tổn ít hơn. Hơn nữa, các phiếu ghi nợ ngắn hạn ít bị rủi ro, vì thời gian hoàn vốn ngắn và người chủ nợ có thể tính toán được ngay giá cả và mức lãi suất của nó bằng phép tính đơn giản. Giá cả của các loại phiếu ghi nợ này cũng lên xuống linh hoạt theo quy luật cung cầu.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ của các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng bị khống chế bởi lãi suất và chịu sự điều tiết của NHTƯ. Mức tăng, giảm lãi suất phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về tiền tệ, vào chính sách tiền tệ của NHTƯ và các chính sách của Chính phủ. NHTƯ giữ tiền dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng để đảm bảo cho sự hoạt động an toàn của chúng và các hoạt động tiền tệ, tín dụng nói chung trong nền kinh tế. Do số lượng các tổ chức tín dụng này rất lớn nên NHTƯ chỉ cần sử dụng một phần số tiền dự trữ bắt buộc để dự trữ là đủ. Số còn lại có thể cho các tổ chức tín dụng vay.
Vậy, Thị trường tiền tệ đã thực hiện 2 chức năng cơ bản, đó là: Cân đối, điều hoà khả năng chi trả giữa các Ngân hàng; và cân đối các nguồn vốn vay và cho vay giữa các tổ chức tín dụng và NHTƯ.
Có thể phân biệt hai loại nghiệp vụ được thực hiện trên Thị trường tiền tệ. Một là, nghiệp vụ cho vay ngắn hạn của NHTƯ cho các Ngân hàng thương mại vay để thực hiện chức năng cung ứng, cân bằng tiền tệ hay người cho vay cứu cánh cuối cùng, hoặc của các tổ chức tín dụng có số dư tạm thời về khả năng chi trả đối với các tổ chức tín dụng đang gặp khó khăn về nguồn vốn huy động. Hai là, nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn hạn.
Trong nghiệp vụ thứ nhất, đối tượng của Thị trường tiền tệ là hoạt động cho vay và giá cả của khoản tiền cho vay là lãi suất. Các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng đang thiếu vốn cố gắng huy động được chúng với lãi suất càng thấp càng tốt, còn các Ngân hàng cho vay lại cố gắng tìm kiếm lãi suất cho vay cao. Đây là thị trường dành cho các công cụ nợ ngắn hạn: Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được (negotiable certificates of deposit), thương phiếu, tín phiếu Ngân hàng, trái phiếu kho bạc ngắn hạn, giấy nợ khấu trừ trước (Discount note), số tiền vay mượn giữa các Ngân hàng. Nơi đây những nhà đầu tư như Ngân hàng, công ty uỷ thác, công ty bảo hiểm có số thặng dư tiền mặt tạm thời sẽ cố gắng khai thác số tiền này trong một thời gian rất ngắn, thậm chí chỉ cách một đêm bằng cách cho những người khác vay như kho bạc Nhà nước, NHTM, các công ty cổ phần, các nhà kinh doanh (Dealer), chính quyền địa phương, các công cụ Thị trường tiền tệ ngắn hạn để thanh toán nợ ngắn hạn hay để đáp ứng các quy định về tiền mặt tạm thời.
Những người mua bán ở Thị trường tiền tệ liên tục liên lạc với nhau và với những người đi vay và nhà đầu tư (người cho vay) để kiếm lợi nhuận trong các cơ hội mua bán song hành. Việc này làm cho giá cả được thống nhất trên thị trường.
Nhà đầu tư bao gồm NHTM, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính, Ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng v.v…ngoài lý do hoa lợi hấp dẫn tụ hợp trong Thị trường tiền tệ còn vì 3 lý do cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, đây là thị trường có tính linh hoạt cao (dễ chuyển đổi ra tiền mặt)
- Thứ hai, có mức độ an toàn vốn cao vì người phát hành (người đi vay) thông thường được đánh giá có khả năng tín dụng cao. Tuy nhiên, nhà đầu tư phải lưu ý rằng có một số loại công cụ tín dụng không thể xem là hoàn toàn không có rủi ro như kỳ phiếu…
- Thứ ba, thời gian đáo hạn trong thị trường tiền tệ rất ngắn do đó ít bị rủi ro hơn.
2. Thị trường vốn
2.1. Các quan điểm về Thị trường vốn
Thị trường vốn (hay còn gọi là thị trường tư bản) là nơi diễn ra hoạt động mua- bán các chứng khoán và các giấy ghi nợ trung và dài hạn.
Liên quan đến quan hệ giữa thị trường vốn và thị trường chứng khoán, hiện nay đang có hai quan điểm chủ yếu sau:
Quan điểm thứ nhất, cho rằng thị trường vốn và thị trường chứng khoán là khác nhau vì công cụ của Thị trường vốn ngoài các chứng khoán dài hạn, còn có các giấy ghi nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Quan điểm thứ hai, xuất phát từ định nghĩa chứng khoán là một công cụ tài chính có thể mua bán chuyển nhượng được, cho rằng Thị trường vốn và thị trường chứng khoán chỉ là một.
Nhưng đứng trên góc độ của một người đang tìm hiểu và nghiên cứu TTTC trong bối cảnh hội nhập quốc tế, không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia, tác giả ủng hộ quan điểm cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn chỉ là một. Bởi lẽ, nếu xét về mặt nội dung, thì Thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua và bán các sản phẩm tài chính. Thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt tách rời nhau, mà nó là thực thể thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Thực tế trên thế giới, người ta hay nói đến thị trường chứng khoán- hình thức giao dịch vốn, mà ít nói đến thị trường vốn- quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua, bán, chuyển nhượng các giấy tờ có giá. Sở dĩ ở Việt Nam thường hay tách riêng hai khái niệm này là bởi vì thị trường chứng khoán ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, các hình thức ghi nợ còn nhiều hơn là hình thức mua bán lại các chứng khoán có giá.
2.2. Hoạt động của thị trường vốn
Xét bề ngoài, hoạt động trên thị trường vốn không chỉ là các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay chủ thể này sang tay chủ thể khác một cách đơn thuần. Về thực chất, đây chính là quá trình chuyển dịch vốn ở hình thái tiền tệ, hay nói cách khác, nó là quá trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Do đó, các quan hệ mua, bán các chứng khoán và các giấy ghi nợ trung, dài hạn trên thị trường vốn phản ánh sự thay đổi các chủ thể sở hữu về chứng khoán và các giấy ghi nợ trung, dài hạn. Vì vậy, Thị trường vốn, xét về mặt bản chất, phản ánh các quan hệ mua bán không phải một số lượng nhất định các tư liệu sản xuất, các khoản tiền mặt, mà là quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và vốn tiền mặt.
Như đã phân tích ở phần 2.1. Các quan điểm về thị trường vốn, thị trường vốn và thị trường chứng khoán từ nay sẽ được coi là một, cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Nhắc đến thị trường chứng khoán có nghĩa là chúng ta đang đề cập đến thị trường vốn và ngược lại.
Nếu dựa vào nguồn gốc ra đời chứng khoán thì thị trường chứng khoán được phân thành hai loại là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường chứng khoán sơ cấp (Primary Market) là thị trường mà ở đó là nơi phát hành ra những chứng khoán vốn và chứng khoán nợ, tức là thị trường sản sinh ra hàng hoá của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán sơ cấp có tác dụng huy động vốn hoặc tăng vốn cho các doanh nghiệp và là thị trường phát hành trái phiếu chính phủ để Nhà nước vay tiền của tất cả các thành phần kinh tế quốc dân. Chính vì lẽ đó, thị trường này còn được gọi là thị trường phát hành.
Các doanh nghiệp được quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn hoặc tăng vốn có thể có nhiều phương thức phát hành, trong các phương thức đó thì việc phát hành thông qua thị trường chứng khoán chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Do vậy, chức năng của thị trường chứng khoán sơ cấp là góp phần huy động vốn cho các doanh nghiệp và huy động tiền vay cho Chính phủ và cơ quan Chính phủ.
Khi huy động vốn bằng tiền cho doanh nghiệp hay Chính phủ, các doanh nghiệp và Chính phủ phải phát hành “giấy chứng nhận góp vốn hoặc vay tiền” cho người đầu tư và người cho vay, các giấy này được gọi là chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.
Chứng khoán vốn còn được gọi là cổ phiếu- là một chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn đã góp của cổ đông vào doanh nghiệp do doanh nghiệp phát hành và được chia lãi (gọi là cổ tức) của phần vốn đã góp theo quy định của doanh nghiệp, được hưởng các quyền do Điều lệ của doanh nghiệp cổ phần quy định.
Chứng khoán nợ là chứng thư xác nhận một khoản nợ của người phát hành ra nó, trong đó cam kết sẽ trả khoản nợ kèm với tiền lãi trong một thời hạn nhất định.
Các chứng khoán này có thể dùng để mua bán, chuyển nhượng, trao đổi v.v… trên thị trường, chúng được gọi là chứng khoán có giá. Vì vậy, thị trường chứng khoán sơ cấp còn có thêm một chức năng thứ hai là tạo ra “hàng hoá” cho thị trường chứng khoán. Công ty cổ phần là doanh nghiệp phát hành chứng khoán vốn và chứng khoán nợ chủ yếu trên thị trường sơ cấp. Có 3 phương thức phát hành như sau:
- Một là phát hành trực tiếp tại doanh nghiệp: là phương thức phát hành khá phổ biến có ưu điểm là bán thẳng tận gốc cho các nhà đầu tư cuối cùng, do đó giảm được chi phí phát hành.
- Hai là phương thức phát hành qua các trung gian tài chính mà họ có tư cách là người đại lý như Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm, Quỹ tương hỗ đầu tư v.v… Theo phương thức phát hành này, các doanh nghiệp có thể tiêu thụ một khối lượng lớn chứng khoán, do đó, huy động vốn tương đối nhanh. Tuy nhiên, chi phí của phương thức phát hành này lại rất cao.
- Ba là phương thức phát hành trực tiếp ra công chúng: Theo phương thức này, các doanh nghiệp phát hành trực tiếp chứng khoán ra công chúng dưới hình thức bảo lãnh (Under writing). Người đứng ra ký hợp đồng bảo lãnh chứng khoán gọi là Nhà bảo lãnh. Nhà bảo lãnh có thể là Ngân hàng, Công ty chứng khoán hoặc là những thể nhân chuyên kinh doanh trong lĩnh vực này.
Sau khi chứng khoán được phát hành ở thị trường sơ cấp, thì chứng khoán đó đã trở thành một loại hàng hoá đặc biệt, ta gọi là chứng khoán có giá (Securities).
Chứng khoán có giá sẽ được mua đi bán lại trên thị trường khác, thị trường này gọi là Thị trường chứng khoán thứ cấp (Secondary Market). Nguồn thu nhập từ việc mua bán chứng khoán này sẽ thuộc về các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh chứ không thuộc về các đơn vị phát hành ra chứng khoán đó.
Trung tâm của thị trường chứng khoán thứ cấp là Sở giao dịch chứng khoán (Stock Exchange) và thị trường giao dịch qua quầy OTC (Over-The- Counter). Đặc trưng kinh doanh của Sở giao dịch chứng khoán là đấu giá giữa những người mua cạnh tranh và giữa người bán cạnh tranh thông qua người trung gian. Còn đặc trưng của thị trường OTC là giao dịch trên cơ sở thương lượng trực tiếp giữa người bán và người mua chứng khoán.
Công việc hàng ngày của bất kỳ thị trường chứng khoán thứ cấp nào đều là việc mua bán các chứng khoán đã phát hành, gồm có cổ phiếu và cổ phần giữa những người đầu tư mà vì một nguyên nhân hoặc mong muốn nào đó, thay đổi quyết định đầu tư của mình. Đây là một thị trường thu hút sự chú ý của dân chúng và nó là nơi giao dịch hàng ngày giữa các nhà môi giới chứng khoán. Một thị trường thứ cấp với bất kỳ một quy mô nào đó đều có một chỉ số theo dõi giá cả được nhiều người biết đến như là “phong vũ biểu của thị trường”.
Thị trường chứng khoán sơ cấp và thị trường chứng khoán thứ cấp phụ thuộc lẫn nhau. Hiển nhiên, thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ không tồn tại nếu không có sự phát hành chứng khoán có thể chuyển nhượng tại thị trường sơ cấp. Sự thành công của thị trường thứ cấp còn chi phối sự thành công của thị trường sơ cấp. Thị trường chứng khoán sơ cấp thì huy động vốn nhàn rỗi và vốn tiết kiệm trong xã hội để đầu tư vào sản xuất từ đó làm cho quy mô vốn quốc gia tăng lên, góp phần tạo ra các lượng giá trị mới cho xã hội. Thị trường chứng khoán thứ cấp thì góp phần phân phối lại vốn giữa các ngành tạo ra tính lỏng cho Thị trường chứng khoán từ đó tạo ra động lực cho sự phát triển.
3. Thị trường ngoại hối
3.1. Khái niệm thị trường ngoại hối
Ngoài hai thị trường cơ bản nói trên còn có thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là nơi mà ở đó xảy ra việc mua và bán, trao đổi ngoại hối, trong đó chủ yếu là trao đổi, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh toán quốc tế.
Do tính chất riêng biệt chuyên mua bán ngoại tệ, nên ở nhiều nơi thị trường này hoạt động như một bộ phận thị trường tài chính tương đối độc lập. Tại Việt Nam, thị trường này còn ở dạng sơ khai và được đặt trong Thị trường tiền tệ.
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối đã hình thành hai hệ thống tổ chức khác nhau. Hệ thống hối đoái Anh- Mỹ và hệ thống hối đoái Châu Âu. Theo hệ thống Anh- Mỹ thì thị trường ngoại hối có tính chất biểu tượng, chỉ giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và người môi giới, quan hệ này có thể là trực tiếp, song chủ yếu là thông qua điện thoại, telex. Ngược lại, theo hệ thống lục địa (Pháp, ý…), thì thị trường ngoại hối có địa điểm nhất định, hàng ngày, những người mua cỡ lớn có các chi nhánh, đại lý ở nước ngoài giữ vai trò quan trọng trong thị trường ngoại hối. Các ngân hàng này kinh doanh ngoại hối là chủ yếu, còn các ngân hàng khác đóng vai trò phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh dưới sự chỉ đạo của các ngân hàng thương mại cỡ lớn này.
Tham gia vào thị trường ngoại hối gồm có:
- Các ngân hàng thương mại (NHTM): Các Ngân hàng này được phép tiến hành kinh doanh, giao dịch ngoại hối với tư cách là trung gian được uỷ quyền. Các Ngân hàng tiến hành giao dịch giữa các Ngân hàng với nhau và với các khách hàng khác.
- Các nhà môi giới là những trung gian được uỷ quyền giữa các Ngân hàng. Họ là những thành phần đóng góp tích cực vào hoạt động của thị trường ngoại hối bằng cách làm cho cung và cầu tiếp cận nhau theo từng giờ giao dịch và nhờ vào những mối quan hệ của mình, họ thường xuyên đưa lại những thông tin và khả năng tìm thấy bạn hàng nhanh chóng và kịp thời.
- Các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tham gia vào thị trường ngoại hối thường là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, thực hiện bán lại ngoại tệ cho ngân hàng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và mua ngoại tệ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá nước ngoài.
- Ngân hàng Trung ương (NHTƯ): Sự tham gia vào thị trường ngoại hối của NHTƯ là rất cần thiết. Một mặt để phục vụ khách hàng của Ngân hàng (các cơ quan hành chính, các tổ chức quốc tế…), mặt khác, NHTƯ là cơ quan giám sát hoạt động của thị trường theo quy định của Luật Ngân hàng. Thông qua diễn biến giá trị của đồng tiền trong nước, NHTƯ có thể can thiệp vào thị trường để quản lý tỷ giá hối đoái, hạn chế sự dao động của giá trị đồng tiền.
3.2 Hoạt động của thị trường ngoại hối
Có hai loại giao dịch chủ yếu trên Thị trường ngoại hối, đó là: mua bán ngoại tệ và cho vay ngoại tệ. Hai loại giao dịch này làm phát sinh hai bộ phận thị trường tương ứng của Thị trường ngoại hối là thị trường giao ngay (Spot Market) và thị trường giao dịch có kỳ hạn (Forward Market).
Thị trường giao ngay là thị trường mà việc mua bán, thanh toán và giao nhận ngoại hối xảy ra đồng thời.
Thị trường giao dịch có kỳ hạn là thị trường mà việc ký kết hoạt động mua bán ngoại hối và việc giao nhận ngoại hối không diễn ra đồng thời, có nghĩa là ký hợp đồng hôm nay nhưng giao nhận ngoại hối sau đó và ngày do hai bên thoả thuận. Thị trường ngoại hối có kỳ hạn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo hiểm ngoại hối, nhằm tránh những rủi ro do tỷ giá ngoại hối biến động gây ra.
Các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối gồm có:
- Nghiệp vụ mua bán ngoại hối có kỳ hạn: là một giao dịch trong đó mọi điều khoản của hợp đồng mua bán được định ra trong hiện tại, song việc thực hiện các điều khoản đó sẽ xảy ra trong tương lai, hay nói cách khác, đó là nghiệp vụ mua bán ngoại hối mà việc giao nhận sẽ tiến hành sau một thời gian nhất định, theo một tỷ giá thoả thuận lúc ký kết hợp đồng.
- Nghiệp vụ Arbitrate: là một dạng biến tướng của nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối giao ngay. Nghiệp vụ Artribate theo ý nguyên thuỷ của nó là việc lợi dụng sự chênh lệch về tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối khác nhau để thu lời thông qua hoạt động mua và bán. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm việc mua một lượng ngoại hối nhất định tại thị trường ngoại hối rẻ nhất hoặc bán một lượng ngoại hối đắt nhất vào một thời điểm nhất định. Trong trường hợp mua ngoại hối tại thị trường rẻ nhất đồng thời bán số ngoại hối đó tại thị trường ngoại hối đắt nhất thì gọi là Artribate chênh lệch hay Artribate không gian (Space Artribate).
- Nghiệp vụ SWAP: Lợi dụng cơ chế tín dụng SWAP, ngân hàng phối hợp mua và bán ngoại tệ giao ngay với mua, bán ngoại tệ có kỳ hạn theo hướng ngược lại nhằm kiếm lãi hoặc bảo tồn vốn. Nghiệp vụ SWAP không những có thể kiếm lãi mà còn có thể tránh được rủi ro tiền tệ biến động.
- Giao dịch hợp đồng ngoại hối Future: Trong khi các giao dịch kỳ hạn thường được tiến hành qua điện thoại, thì các giao dịch này thường diễn ra tại một địa điểm cụ thể, chẳng hạn như các sở giao dịch. Tại đây các hợp đồng mua bán ngoại tệ được ký kết thông qua môi giới. Các hoạt động Future có tính tiêu chuẩn hoá rất cao. Tỷ giá trong giao dịch Future thường cao hơn tỷ giá trong các giao dịch kỳ hạn do chi phí giao dịch Future cao hơn. Ngoài ra người đến giao dịch còn phải chịu một khoản phí môi giới được quy định theo tiêu chuẩn cho mỗi loại hợp đồng. Sau khi ký hợp đồng, người mua phải ký quỹ một khoản tiền quy định cho mỗi hợp đồng nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng.
Trong giao dịch kỳ hạn, hợp đồng mua bán được kết thúc bằng việc giao nhận thật vào ngày thoả thuận trước (Real Transaction). Còn trong giao dịch Furure, khách hàng có thể kết thúc hợp đồng vào bất cứ lúc nào bằng cách ký một hợp đồng khác mua (nếu hợp đồng trước là hợp đồng bán) hoặc bán (nếu hợp đồng trước là hợp đồng mua) với cùng số tiền và cùng ngày thanh toán. Tất nhiên tỷ giá của hai hợp đồng này không giống nhau. Trên thực tế hầu hết các giao dịch Future (trên 90%) kết thúc theo kiểu này. Đó chính là một dạng giao dịch khống, một công cụ bảo hiểm chống lại rủi ro hối đoái.
- Nghiệp vụ quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ (Option transaction): Giao dịch quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ là một loại giao dịch được thực hiện trên cơ sở ký hợp đồng quyền chọn mua (Call option) hoặc quyền chọn bán (Put option) một số lượng ngoại tệ nhất định, theo một giá quy định và việc thực hiện hợp đồng sẽ xảy ra trong tương lai. Trong giao dịch này, các chủ thể có thể lựa chọn quyền thực hiện hợp đồng hoặc cũng có thể lựa chọn quyền huỷ hợp đồng, nếu có lợi. Tuy nhiên nếu huỷ hợp đồng thì sẽ mất tiền đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng.
Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ của một nước. Tuỳ theo hệ thống hối đoái mà NHTƯ tác động lên Thị trường ngoại hối của nước đó. Vậy thì NHTƯ tác động vào Thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá hối đoái như thế nào? NHTƯ là một thành viên không thể thiếu trong các phiên ấn định tỷ giá và giành quyền can thiệp vào thị trường với tư cách là người mua hoặc người bán. Nếu tỷ giá có xu hướng giảm (tức là đồng tiền trong nước trở nên có giá trị hơn) thì NHTƯ sẽ mua ngoại tệ vào, nếu tỷ giá có xu hướng tăng (hay là đồng tiền trong nước bị mất giá) thì NHTƯ cần phải sử dụng dự trữ ngoại tệ của mình (tuy nhiên cũng cần phải cân nhắc sao cho không làm cạn kiệt số dự trữ ngoại hối) để tung ra bán.
III. Chức năng của Thị trường tài chính
1. Chức năng huy động vốn
TTTC tạo nên một chu trình cấp vốn thông qua chức năng của thị trường sơ cấp. Thị trường sơ cấp cho phép “lấy” vốn và trực tiếp chuyển đổi khoản tiết kiệm của các hộ gia đình thành các nguồn vốn dài hạn cho các xí nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đổi lại các khoản vốn thu được tại thị trường này, các công ty phát hành các chứng khoán, chủ yếu là các cổ phiếu và trái phiếu, chứa đựng hay nói cách khác “vật chất hoá” các quyền và quyền lợi của những người “bán vốn” cho họ. Vậy là thị trường sơ cấp thiết lập nên mối quan hệ giữa các tác nhân cần vốn và các tác nhân có khả năng cấp vốn. TTTC thực hiện các chức năng kinh tế cốt lõi trong việc dẫn vốn từ những người thừa vốn (vì họ chi tiêu ít hơn) sang những người thiếu vốn (vì họ muốn chi tiêu nhiều hơn) và việc dẫn vốn được thực hiện theo hai con đường:
Tài chính trực tiếp
Vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Những trung gian tài chính
Những người cho vay (Người tiết kiệm)
1. Các gia đình
2. Các hãng kinh doanh
3. Nhà nước
4. Người nước ngoài
Những người vay (Người chi tiêu)
1. Các hãng kinh doanh
2. Chính phủ
3. Nhà nước
4. Người nước ngoài
Các thị trường tài chính
Vốn
Tài chính gián tiếp
Tài chính trực tiếp
Vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Những trung gian tài chính
Những người cho vay (Người tiết kiệm)
1. Các gia đình
2. Các hãng kinh doanh
3. Nhà nước
4. Người nước ngoài
Những người vay (Người chi tiêu)
1. Các hãng kinh doanh
2. Chính phủ
3. Nhà nước
4. Người nước ngoài
Các thị trường tài chính
Vốn
Tài chính gián tiếp
Hình 1: những dòng vốn đi qua hệ thống tài chính
- Con đường thứ nhất: Tài chính trực tiếp
Trong tài chính trực tiếp (con đường phía dưới đáy ở sơ đồ) những người đi vay vốn trực tiếp từ người cho vay trong các TTTC bằng cách trao đổi với họ “chứng khoán”, những chứng khoán này hoặc là những cổ phiếu (quyền sở hữu) đối với thu nhập hoặc tài sản trong tương lai của người phát hành hoặc trái phiếu (trái quyền) đối với các khoản nợ của người vay. Như vậy, chứng khoán là tài sản có đối với người mua chúng và là tài sản nợ đối với những người phát hành chúng. Do đó ta thấy rằng nếu không có TTTC thì sẽ rất khó chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sang người có cơ hội đầu tư. Sự tồn tại của TTTC cũng có lợi ngay cả khi người đi vay không có mục đích kinh doanh.
Thực hiện chức năng chuyển vốn từ những người không có cơ hội đầu tư sang người có cơ hội đầu tư, TTTC giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
- Con đường thứ hai: Tài chính gián tiếp
Tài chính gián tiếp thông qua các trung gian tài chính. Trên sơ đồ ta có thể thấy tiền có thể chuyển từ người cho vay sang người vay bằng con đường thứ hai (con đường phía trên sơ đồ) được gọi là tài chính gián tiếp vì nó liên hệ thông qua nhân vật thứ ba. Một trung gian tài chính đứng giữa người cho vay và người vay, người tiết kiệm và người chi tiêu đồng thời giúp chuyển vốn từ người này sang người kia. Những trung gian tài chính thực hiện việc kinh doanh chuyển vốn từ người dư vốn sang người cần vốn bằng việc đặt một lãi suất cao hơn cho các món cho vay so với lãi suất của các món mà họ đi vay để thu lợi nhuận. Nhưng điều quan trọng hơn cả ở đây là hoạt động của các trung gian tài chính làm cho lãi suất- còn gọi là giá cả của tiền tệ phản ánh đúng cung cầu thị trường. Như vậy, nhờ hoạt động tài chính gián tiếp (được gọi là sự trung gian tài chính) thị trường tài chính được vận hành.
2. Chức năng luân chuyển vốn
Ngoài chức năng huy động vốn vừa nêu trên, TTTC còn thực hiện một chức năng khác đó là luân chuyển vốn.
Sự luân chuyển vốn xảy ra trên thị trường thứ cấp. ở đây diễn ra sự mặc cả, mua đi, bán lại các chứng khoán đã phát hành và do vậy luôn có sự chuyển sở hữu vốn kinh doanh từ tay người này qua tay người khác. Vậy là, TTTC cho phép huy động các khoản đầu tư dưới dạng các cổ phiếu và trái phiếu, nhưng đồng thời cũng dành cho người đầu tư khả năng “rút chân” ra khỏi thị trường vốn, nghĩa là rút tiền đã đầu tư ra khi cần.
3. Chức năng định giá trị doanh nghiệp
Hệ quả của việc đinh giá, mua bán chứng khoán trên TTTC là sự đánh giá lại các tài sản tài chính của từng tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường. Như vậy TTTC ngoài việc cung cấp thường xuyên các chỉ số tài chính cụ thể về trạng thái “sức khoẻ” của nền kinh tế, nó cho phép xác đinh một cách khách quan giá trị của từng doanh nghiệp tham gia vào thị trường.
Nhờ chức năng này, người đầu tư có được phương hướng đầu tư vốn rõ ràng hơn, các nhà quản lý có được quyết sách cụ thể hơn để phát triển doanh nghiệp của mình trong tương lai. Còn đối với các Chính phủ, đặc biệt các Chính phủ ở các nền kinh tế chuyển đổi có được căn cứ thực tiễn để tiến hành tư nhân hoá, cổ phần hoá hay thanh lý doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình.
4. Chức năng khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh
Kết quả của biến động chỉ số chứng khoán trên thị trường tác động trực tiếp đến uy tín của doanh nghiệp đã phát hành ra chứng khoán đó. Một cổ phiếu lên giá liên tục không những làm tăng giá trị tài sản của công ty mà còn làm tăng uy tín của nó trên thương trường. Ngược lại, một cổ phiếu xuống giá liên tục không những làm giảm giá trị tài sản mà còn làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Chính vì lý do này, để thu hút vốn đầu tư các doanh nghiệp cần phải không ngừng nâng cao uy tín của mình và nâng cao giá trị cổ phiếu. Một cổ phiếu của công ty muốn lên giá thì công ty phải thực sự làm ăn kinh doanh tốt, có hiệu quả. Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh không ngừng giữa các công ty để nâng cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả đầu tư vào kinh doanh.
IV. Vai trò của thị trường tài chính đối với nền kinh tế quốc dân
TTTC có một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Nó cho phép vốn chuyển từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi tới những người có cơ hội như thế. Làm việc này, TTTC đã giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của họ tốt hơn. Nó cung cấp vốn cho những người trẻ tuổi mua cái họ cần và cuối cùng có đủ khả năng thanh toán trả mà không buộc họ phải chờ cho đến khi họ tiết kiệm đủ món tiền để mua. TTTC lúc đang hoạt động hữu hiệu sẽ cải thiện đời sống kinh tế của mỗi người trong xã hội. Nói một cách chung nhất, TTTC đã khuyến khích người dân tiết kiệm và tạo thói quen để dành tích cực. Bởi vì khả năng sinh lợi của các loại chứng khoán gây ra ý muốn tiết kiệm để đưa tiền vào đầu tư. Mỗi người trong xã hội có một số tiền tiết kiệm bé nhỏ, nhưng tổng số tiền tiết kiệm của cả xã hội sẽ to lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào.
Đối với một nền kinh tế quốc dân, TTTC là nơi cung cấp vốn một cách hiệu quả cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Một đất nước muốn tiến hành thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì không nên quá trông chờ vào những nguồn vốn ở bên ngoài trong khi nguồn vốn trong nước không được chú ý khai thác triệt để. TTTC đã thực hiện xuất sắc vai trò khai thác mọi khả năng tiết kiệm và tự đầu tư phát triển của nhân dân, của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế… nâng cao các tỷ trọng của nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Thông qua TTCK- một bộ phận quan trọng, hiệu quả của TTTC, các chủ thể kinh tế đều có thể trở thành nhà đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế quốc dân và trở thành người chủ sở hữu một phần giá trị tài sản của doanh nghiệp. Hơn nữa, nhờ vào trào lưu quốc tế hoá TTTC quốc gia cho nên TTTC còn có vai trò là người dẫn vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước, đồng thời dẫn vốn đầu tư trong nước ra nước ngoài- những nước có cơ hội đầu tư và môi trường đầu tư có lợi hơn.
Cuối cùng, TTCK còn có vai trò như chiếc “phong vũ biểu” của nền kinh tế quốc dân. Sở dĩ như vậy là vì một nền kinh tế phát triển thì lợi nhuận đem chia cho các chủ đầu tư tăng lên. Lợi nhuận tăng cũng là một yếu tố làm cho giá cả chứng khoán tăng lên, dung lượng mua bán chứng khoán do đó cũng tăng theo. Ngược lại, kinh tế suy thoái sẽ dẫn đến sự hoạt động sút kém của thị trường. Những nhà hoạch định chính sách quản lý thường quan sát chiếc “phong vũ biểu” này để phân tích và dự đoán, đề ra các chính sách điều tiết kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thích hợp nhằm thông qua TTCK để tác động đến các hoạt động của nền kinh tế quốc dân hoặc ngược lại.
v. Giới thiệu chung về Hiệp định thương mại Việt- Mỹ
1. Bối cảnh ra đời Hiệp định thương mại Việt- Mỹ (HĐTMVM)
Chúng ta đi vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trùng với thời điểm trên Thế giới đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế. Xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên Thế giới. Cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất (từ dân đông, nhiều vũ khí và tiềm lực quân sự mạnh sang tiềm lực kinh tế), mục đích của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất trong quốc gia mình và đạt được mức tăng trưởng cao, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Tiềm lực kinh tế trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền. Vì thế, các quốc gia đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế. Muốn vậy, cần có môi trường hoà bình, ổn định để hợp tác phát triển.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ, phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu, vừa tạo khả năng tổ chức lại thị trường trong phạm vi toàn cầu, đưa toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế trở thành xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế.
Tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung và ra sức cạnh tranh kinh tế trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh. Vì sự tồn tại và phát triển của chính mình, các nước đều tiến hành điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Những động thái này làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn và kỹ thuật trên Thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Thương mại đã đạt tới bình diện toàn cầu khi những cản trở với giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng giảm đi. Hội nhập quốc tế thực chất là một cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế, củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của mỗi nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các quốc gia khác.
Với những lợi ích được thừa nhận rộng rãi như vậy, tự do hoá thương mại đã trở thành mục tiêu chung của cộng đồng quốc tế, việc dàn xếp các khung quy phạm thương mại quốc tế đã và đang được đưa vào chương trình nghị sự của các hội nghị toàn cầu. Thêm vào đó, các quốc gia ngày nay trong nỗ lực tăng cường hội nhập để phát triển của mình đã không dừng lại ở các Hiệp định thương mại đa biên có tính quốc tế của WTO… mà còn tăng cường sử dụng cả những Hiệp định thương mại song phương.
Hoà nhịp với xu thế phát triển chung của toàn cầu, hiện nay Việt Nam đang ra sức đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ học hỏi và vận dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của Thế giới vào việc phát triển kinh tế, rút ngắn thời gian thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngang tầm với nền kinh tế của những nước tiên tiến trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương như Indonesia, Malaysia, Philippin… Để đạt được mục tiêu đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện “đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”. Cho đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), tham gia với tư cách sáng lập viên của Diễn đàn hợp tác á Âu (ASEM), là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương… Bên cạnh đó, tính đến ngày 25/10/2000, Việt Nam đã ký được 58 Hiệp định thương mại song phương Báo cáo về phương hướng phát triển ngành thương mại Việt Nam trong thế kỷ tới của BTM, trang 5
, trong đó đáng chú ý là Hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ.
2. Nội dung cơ bản của Hiệp định
2.1. Giới thiệu chung về nội dung của HĐTMVM
Với 7 chương với 12 điều và 9 phụ lục, HĐTMVM là một Hiệp định toàn diện mang tính thực chất về kinh tế, gồm các lĩnh vực: thương mại hàng hoá, quyền sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ, phát triển quan hệ đầu tư, giải quyết tranh chấp… và được phân bổ theo cấu trúc:
Chương I: Thương mại hàng hoá (9 điều)
Chương II: Quyền sở hữu trí tuệ (18 điều)
Chương III: Thương mại dịch vụ (11 điều)
Chương IV: Phát triển quan hệ đầu tư (15 điều)
Chương V: Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh (3 điều)
Chương VI: Các quy định về tính minh bạch và quyền khiếu kiện (8 điều)
Chương VII: Điều khoản chung (8 điều)
Kèm theo cuối Hiệp định là các phụ lục A,B,C,D,E,F,G,H,I cùng với thư của Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Vũ Khoan và thư của đại diện thương mại Mỹ Charlene Barshefsky.
Có thể nói rằng hai nguyên tắc cơ bản xuyên suốt toàn bộ nội dung của Hiệp định là nguyên tắc Đãi ngộ Tối huệ quốc MFN (còn gọi là nguyên tắc đãi ngộ bình thường- NTR) và nguyên tắc đối xử quốc gia NT.
Theo nguyên tắc Đãi ngộ Tối huệ quốc MFN thì hai bên cam kết sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hoá dịch vụ nhập khẩu, nhà đầu tư của mỗi bên với hàng hoá và dịch vụ, nhà đầu tư của nước thứ ba (đương nhiên trừ các ưu đãi dành cho các nước trong liên minh thuế quan hoặc khu vực mậu dịch tự do hoặc mậu dịch đường biên mà một bên tham gia). Ví dụ, các nhà đầu tư của Mỹ sẽ được hưởng ưu đãi không kém hơn ưu đãi đối với hàng hoá, dịch vụ, nhà đầu tư của Nhật Bản, EU hay nước thứ ba nào khác và sẽ không được hưởng ưu đãi mà Việt Nam dành cho các nước cùng tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), ngược lại, Việt Nam cũng sẽ không được hưởng những ưu đãi mà Mỹ dành cho các nước trong khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA).
Theo nguyên tắc đối xử quốc gia NT trong HĐTMVM thì mỗi bên phải dành cho hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư của bên kia sự đối xử không kém phần thuận lợi hơn sự đối xử mà mình đã dành cho hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư của mình. Theo WTO thì nguyên tắc này chỉ áp dụng với sản phẩm, nhưng theo HĐTMVM thì diện áp dụng nguyên tắc này rộng hơn rất nhiều, áp dụng cả với công ty và các nhà đầu tư, dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
Đối với Việt Nam, HĐTMVM là một Hiệp định có phạm vi rộng, nội dung toàn diện và mức độ phức tạp hơn bất kỳ hiệp định thương mại nào đã ký kết từ trước đến nay, bởi vì: Thứ nhất, về mặt nội dung, so với các hiệp định thương mại hàng hoá Việt Nam đã ký kết trước đây, thì phạm vi điều chỉnh của HĐTMVM không chỉ giới hạn trong lĩnh vực thương mại hàng hoá mà đã mở rộng sang cả lĩnh vực thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư, bao gồm cả đầu tư gián tiếp, tạo thuận lợi cho kinh doanh… Thứ hai, về kết cấu, đây là hiệp định thương mại có nhiều chương, điều và phụ lục nhất. Thứ ba, quá trình đàm phán Hiệp định kéo dài gần 5 năm từ năm 1996 đến năm 2000.
Hiệp định được xây dựng trên cơ sở các nguên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế đã được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc là: “bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi quốc gia”. Hiệp định này còn tuân thủ các quy tắc và tiêu chuẩn được áp dụng trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhưng có tính đến đặc thù của Việt Nam là một nước đang phát triển đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và Thế giới.
2.2. Những cam kết cụ thể về Thị trường tài chính
Những cam kết giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về lĩnh vực tài chính trong HĐTMVM không được quy định cụ thể thành chương riêng mà được quy định trong chương III về thương mại dịch vụ dưới hình thức “các dịch vụ ngân hàng và tài chính” cùng với gần 50 hình thức dịch vụ khác như: dịch vụ pháp luật, các dịch vụ kế toán, kiểm toán, các dịch vụ kiến trúc, các dịch vụ giáo dục trong các ngành kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ… Trong chương III này, những nội dung như: khái niệm về hoạt động thương mại dịch vụ, nghĩa vụ của mỗi bên khi tiến hành các hoạt động thương mại dịch vụ,… được quy định khá cụ thể và chi tiết, kèm theo đó là bảng phụ lục G quy định lộ trình cam kết thương mại dịch vụ cụ thể về các nội dung: các lĩnh vực- ngành, các giới hạn về tiếp cận thị trường, các giới hạn về đối xử quốc gia trên cơ sở hai tiêu chí, đó là: các cam kết nền chung và các cam kết về từng lĩnh vực và ngành cụ thể. Theo đó, việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng và tài chính của nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được quy định như sau:
* Những loại hình dịch vụ ngân hàng và tài chính mà nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được phép kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm:
(i) Nhận tiền gửi và các khoản tiền từ công chúng;
(ii) Cho vay các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu dùng, tín dụng thế chấp, bao tiêu và các giao dịch thương mại khác;
(iii) Thuê mua tài chính;
(iv) Tất cả các giao dịch thanh toán và chuyển tiền, bao gồm các thẻ tín dụng, ghi nợ, báo nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng;
(v) Bảo lãnh và cam kết thanh toán;
(vi) Môi giới tiền tệ;
(vii) Quản lý tài sản như: quản lý tiền mặt, quản lý danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ trông coi bảo quản, lưu giữ và uỷ thác;
(viii) Các dịch vụ thanh toán và quyết toán đối với các tài sản tài chính bao gồm các chứng khoán, các sản phẩm tài chính phái sinh và các công cụ thanh toán khác;
(ix) Buôn bán cho tài khoản của mình hay cho tài khoản của khách hàng tại Sở giao dịch chứng khoán, trên thị trường chứng khoán không chính thức OTC hay trên các thị trường khác những sản phẩm sau:
a, Các sản phẩm của thị trường tiền tệ, bao gồm séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi;
b, Ngoại hối;
c, Các sản phẩm tài chính phái sinh, bao gồm, nhưng không hạn chế ở các hợp đồng giao dịch tương lai (Futures), và quyền chọn (Options);
d, Các sản phẩm dựa trên tỷ giá hối đoái và lãi suất, bao gồm các sản phẩm như hoán đổi (Swaps), các hợp đồng kỳ hạn (Forward);
e, Các chứng khoán có thể chuyển nhượng;
g, Các công cụ có thể thanh toán và các tài sản tài chính khác, kể cả vàng nén;
(x) Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả bảo lãnh phát hành và chào bán như đại lý (theo cách công khai hoặc theo thoả thuận riêng) và cung cấp các dịch vụ liên quan đến việc phát hành đó.
* Những loại hình dịch vụ ngân hàng và tài chính mà chính phủ Việt Nam chưa cam kết cho phép phía Hoa Kỳ được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam gồm:
(i) Cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính, và các phần mềm của các nhà cung cấp các dịnh vụ tài chính khác;
(ii) Tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác liên quan đến các hoạt động tại các mục từ (i) đến (ix) được nêu ở phần trên, kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, tư vấn và nghiên cứu đầu tư và danh mục đầu tư, tư vấn về thụ đắc và về chiến lược cơ cấu công ty.
* Những hình thức pháp lý mà nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ được phép thông qua để cung cấp dịch vụ tại Việt Nam bao gồm:
(i) Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ;
(ii) Ngân hàng liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ;
(iii) Công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ;
(iv) Công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ;
F Để thành lập và hoạt động tại Việt Nam, chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ, ngân hàng con của Hoa Kỳ và ngân hàng liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ phải nộp đơn xin giấy phép.
F Điều kiện để thành lập chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ tại Việt Nam:
Vốn do ngân hàng mẹ cấp phải tối thiểu là 15 triệu đô la Mỹ;
Ngân hàng mẹ có văn bản đảm bảo chịu mọi trách nhiệm và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.
F Điều kiện thành lập ngân hàng liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ hay ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ là vốn điều lệ tối thiểu 10 triệu đô la Mỹ.
F Điều kiện thành lập công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ và công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ:
Các chủ đầu tư phải kinh doanh 3 năm liên tục có lãi;
Vốn điều lệ tối thiểu đơn vị được thành lập là 5 triệu đô la Mỹ.
Theo bảng phụ lục G, có 7 cột mốc lộ trình cho việc triển khai thực hiện việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng và tài chính của các Nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp lý duy nhất thông qua đó các Nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ khác (ngoài ngân hàng và công ty thuê mua tài chính) có thể cung cấp các dịch vụ tài chính tại Việt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó, hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
Thứ hai, sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các Ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong thời gian 9 năm sau đó, các Ngân hàng Hoa Kỳ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần góp vốn của đối tác Hoa Kỳ không thấp hơn 30% nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
Thứ ba, trong vòng 8 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các pháp nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh phù hợp với biểu sau; sau thời gian đó, các hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
Năm thứ 1: 50% (vốn pháp định chuyển vào)
Năm thứ 2: 100%
Năm thứ 3: 250%
Năm thứ 4: 400%
Năm thứ 5: 600%
Năm thứ 6: 700%
Năm thứ 7: 900%
Năm thứ 8: đối xử quốc gia đầy đủ.
Thứ tư, trong vòng 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh ngân hàng phù hợp với biểu sau; sau thời gian đó, các hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
Năm thứ 1: 50% (vốn pháp định chuyển vào)
Năm thứ 2: 100%
Năm thứ 3: 250%
Năm thứ 4: 350%
Năm thứ 5: 500%
Năm thứ 6: 650%
Năm thứ 7: 800%
Năm thứ 8: 900%
Năm thứ 9: 1000%
Năm thứ 10: đối xử quốc gia đầy đủ.
Trong thời hạn bảo lưu, không có năm nào tỷ lệ huy động tiền Đồng cả hai kênh trên đây của chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ vượt mức đối xử quốc gia.
Thứ năm, sau 8 năm kể khi Hiệp định có hiệu lực, các định chế tài chính có vốn đầu tư Hoa Kỳ được phép phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối xử quốc gia.
Thứ sáu, chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ không được đặt các máy rút tiền tự động tại các địa điểm ngoài văn phòng của họ cho tới khi các Ngân hàng Việt Nam được phép làm như vậy. Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ không được lập các điểm giao dịch phụ thuộc.
Thứ bẩy, sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam dành đối xử quốc gia đầy đủ đối với quyền tiếp cận ngân hàng Trung Ương trong các hoạt động tái chiết khấu, swap, forward.
Hiệp định cũng quy định các Ngân hàng Hoa Kỳ được mua cổ phần của các Ngân hàng quốc doanh của Việt Nam, nhưng Việt Nam có thể hạn chế trên cơ sở đối xử quốc gia, việc tham gia cổ phần của các Ngân hàng Hoa Kỳ tại các Ngân hàng quốc doanh được cổ phần hoá như mức tham gia cổ phần của các Ngân hàng Việt Nam.
Ngoài ra, các Ngân hàng 100% vốn Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam có thể nhận thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn, phụ lục G của HĐTMVM quy định như sau: các đơn vị tài chính ngân hàng 100% vốn của Hoa Kỳ không được nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất, nhưng sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các đơn vị tài chính ngân hàng 100% vốn đầu tư Hoa Kỳ chỉ được quyền nhận tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và có được quyền sử dụng đất mà được thế chấp cho các khoản vay trong trường hợp mất khả năng thanh toán cho khoản vay, phá sản hay giải thể của xí nghiệp vay nợ đó.
Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng được những cam kết và lộ trình như trên, TTTC Việt Nam đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bởi lẽ: Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, còn đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. TTTC Việt Nam mới ở dạng sơ khai và non trẻ. Thị trường chứng khoán sau 3 năm hoạt động vẫn còn khá “trầm lắng” và chưa phát huy được vai trò chính là kênh huy động vốn dài hạn phục vụ cho việc phát triển kinh tế. Cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như các loại hình dịch vụ trên thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối còn đơn giản và thiếu tính hiện đại, chưa theo kịp với tốc độ phát triển của TTTC quốc tế. Ví dụ, theo các cam kết trong HĐTMVM, chỉ có một số loại hình dịch vụ trùng với lĩnh vực hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam như: thanh toán quốc tế, đầu tư dự án, tài trợ thương mại còn lại là hàng loạt các dịch vụ mới chưa được thực hiện tại Việt Nam như: môi giới tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm phái sinh. Thêm vào đó, các NHTM Việt Nam chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho khách hàng thông qua fax, telex, điện thoại… do đó chưa đáp ứng được những yêu cầu về “tính tốc độ” của thị trường tài chính.
Nhằm khắc phục những hạn chế để từng bước đáp ứng những yêu cầu được đặt ra trong HĐTMVM, tính đến nay, TTTC Việt Nam đã và đang có những bước “chuyển mình” đáng kể. Quá trình “chuyển mình” này của TTTC Việt Nam đang diễn ra như thế nào, chiến lược của các Nhà hoạch định chính sách ra sao, điều này sẽ được phân tích ở những phần sau của bài khoá luận.
Chương II: Thực trạng thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
I. Thực trạng thị trường tiền tệ Việt Nam
1. Quá trình hình thành và phát triển
1.1. Thị trường tiền tệ (TTTT) Việt Nam trước năm 1990
Trước năm 1990, hệ thống Ngân hàng Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung bao cấp. Trong khoảng thời gian đó, hệ thống Ngân hàng Việt Nam vẫn hoạt động theo cơ chế một cấp, với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ra đời năm 1951 thực hiện chức năng phát hành tiền tệ, điều tiết cung cấp tiền tệ và được giúp đỡ bởi các NHTM quốc doanh như: Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư phát triển và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. NHNN Việt Nam lúc đó không chỉ đơn thuần thực hiện chức năng quản lý Nhà nước mà nó còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động kinh tế với tư cách như một ngân hàng thương mại. Giai đoạn này, TTTT của Việt Nam là thị trường đóng cửa với đối tượng được phục vụ chính là các xí nghiệp và cơ quan nhà nước. Mối quan hệ ngân hàng và khách hàng không dựa trên cơ sở kinh tế mà chủ yếu theo cơ chế hành chính mệnh lệnh.
Từ tháng 6/1987, hệ thống Ngân hàng một cấp ở Việt Nam bắt đầu có sự đổi mới về tổ chức và hoạt động. Nghị quyết Hội nghị trung ương lần 2, khoá VI nêu rõ: “Kiện toàn NHNN làm nhiệm vụ phát hành và quản lý Nhà nước về tiền tệ- tín dụng. Phát triển các ngân hàng chuyên nghiệp là tổ chức kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng”. Ngày 26/3/1988, Chủ tịch HĐBT ban hành Nghị định số 53/HĐBT: “Cải tổ hệ thống ngân hàng từ một ngân hàng duy nhất trong nền kinh tế kế hoạch thành định chế ngân hàng hai cấp theo hướng kinh tế thị trường”. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, việc phân định vai trò, chức năng nhiệm vụ trong hệ thống ngân hàng chưa rõ ràng, dứt khoát. Các ngân hàng chuyên doanh vẫn gần như các vụ, cục tín dụng của NHNN. Tính chất pháp nhân, tính tự chủ kinh doanh còn hết sức hạn chế, ảnh hưởng của cơ chế bao cấp còn nặng nề đối với mọi hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Trong bối cảnh trên, chúng ta chưa tạo được một thị trường tiền tệ thực sự.
1.2. Thị trường tiền tệ Việt Nam sau năm 1990
Kết quả đổi mới toàn diện hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và những nỗ lực tạo dựng cơ sở pháp lý đã tạo ra các tiền đề cần thiết cho việc ra đời và phát triển thị trường tiền tệ.
Năm 1995 có thể coi là mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của thị trường tiền tệ, các loại hình thị trường tiền tệ bước đầu hình thành và đi vào hoạt động. Bên cạnh thị trường tín dụng truyền thống, thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đã được tổ chức. Đến nay, những loại hình thị trường tiền tệ sau đã đi vào hoạt động:
+ Thị trường tín dụng ngắn hạn là thị trường truyền thống, chiếm vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại.
+ Tháng 7/1993, theo Quyết định số 132/QĐ- NH14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Thị trường nội tệ liên ngân hàng được thành lập.
+ Ngày 8/06/1995, Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc chính thức đi vào hoạt động.
Các loại hình của thị trường tiền tệ tuy đã đi vào hoạt động nhưng mới ở dạng sơ khai, phạm vi của thị trường còn bó hẹp trong phạm vi của hệ thống ngân hàng, hầu như chưa có thị trường thứ cấp… Tuy nhiên, hoạt động của nó đã góp phần thúc đẩy giao lưu vốn, cung ứng vốn ngắn hạn, … góp phần quan trọng tạo nên sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. Sự ra đời của thị trường mở và triển khai nghiệp vụ thị trường mở vào ngày 12/7/2000 khiến cho thị trường tiền tệ chính thức không chỉ bó hẹp trong phạm vi ngân hàng mà sẽ được mở rộng trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, việc mua bán các công cụ nợ ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN của NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lượng tiền cung ứng đã bước đầu hình thành nên thị trường tiền tệ sơ cấp- bước phát triển mới về chất của thị trường tiền tệ Việt Nam.
2. Những kết quả đạt được
2.1. Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng
Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng là thị trường truyền thống, chiếm vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, là nguồn cung ứng vốn ngắn hạn chủ yếu cho nền kinh tế. Hoạt động trên thị trường này chủ yếu là hoạt động đi vay- huy động vốn và cho vay- sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại.
Cùng với sự đổi mới toàn diện hệ thống ngân hàng Việt Nam, quy mô và các loại hình ngân hàng tham gia hoạt động trên thị trường tín dụng ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Từ sau năm 1990, các ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và văn phòng đại diện ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam. Và đến năm 1994, các NHTM ngoài quốc doanh thực sự đi vào hoạt động thông qua việc nắm giữ một phần các tài sản của hệ thống ngân hàng. Trong bối cảnh như vậy, hoạt động của thị trường tín dụng cũng diễn ra khá sôi động.
Bảng 1: Sự phát triển quy mô của hệ thống ngân hàng Việt Nam
1990
1994
2001
2002
NHTM quốc doanh
4
4
6
6
NHTM cổ phần
0
36
48
46
NH liên doanh
0
3
4
5
Chi nhánh và văn phòng đại diện NH nước ngoài
0
41
103
103
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Với quy mô tăng dần qua các năm, trong thập kỷ 90, tỷ lệ cung cấp tín dụng của hệ thống Ngân hàng so với GDP tăng gần 2 lần từ 13% lên 25%, tỷ lệ huy động vốn cũng tăng tương tự từ 10% GDP lên 20% GDP. Quan trọng hơn là ngoài các doanh nghiệp quốc doanh, các thành phần kinh tế khác đã tham gia vào TTTT. Tỷ lệ tín dụng cho các xí nghiệp và các công ty quốc doanh giảm gần 2 lần từ 90% xuống 48%, phần vốn tín dụng cung cấp bởi 4 NHTM quốc doanh cũng chỉ chiếm 80% tổng tín dụng.
Hệ thống ngân hàng của chúng ta đã và đang được đổi mới và hiện đại hoá dần. Bên cạnh những loại hình ngân hàng mới trước đây chưa từng có, công nghệ, hoạt động của ngân hàng cũng đang từng bước được cải tiến theo hướng thị trường hoá. Ngoài những hình thức hoạt động thông thường như nhận tiền cho vay, các hình thức khác như bảo lãnh, thanh toán cũng đang được mở rộng dần, lượng dân cư mở tài khoản cá nhân tăng lên đáng kể. Cụ thể là, cuối năm 1994 tỷ lệ tiền mặt còn chiếm 42% trong tổng phương tiện thanh toán, đến cuối năm 1995 con số này là 34%, năm 2001 là 23,7% và đến cuối năm 2002 là 22,56% Báo cáo thường niên 2002- NHNN, trang 32
. Các loại thẻ thanh toán cũng đang từng bước được áp dụng, các hình thức uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu đã được sử dụng. Việc thanh toán hàng hoá và các dịch vụ được thực hiện một cách nhanh chóng và có hiệu quả. NHNN- theo Luật NHNN- là công cụ quản lỹ vĩ mô của Nhà nước, kiểm soát việc cung cấp tiền tệ và mối quan hệ giữa tiền với tăng trưởng kinh tế, lạm phát, giá cả, thất nghiệp, thị trường tiền tệ… bằng các công cụ thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, chính sách tái chiết khấu. NHNN không quan hệ trực tiếp với các đơn vị kinh tế, không huy động tiền gửi tiết kiệm cũng như cho vay. Các NHTM được chủ động kinh doanh tiền tệ, áp dụng những hình thức tín dụng phù hợp với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Bảng 2: Diễn biến doanh số các phương tiện thanh toán
Phương thức thanh toán
Doanh số 2001
Doanh số 2002
Doanh số 5 tháng 2003
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Séc
2.948
0,3
4.480
0,4
2.755
0,6
Uỷ nhiệm chi- chuyền tiền
678.244
77,9
846.509
76,1
345.218
69,2
Uỷ nhiệm thu
33.269
3,8
43.035
3,9
22.115
4,4
Thẻ - phương tiện thanh toán khác
156.280
18
218.288
19,6
128.296
25,4
Tổng cộng
870.744
100
1.112.312
100
499.014
100
Đơn vị: Tỷ đồng: % của từng phương thức so với tổng phương tiện thanh toán
(Nguồn: Tạp chí tài chính số 9/2003, trang 43)
Trong những năm qua, các NHTM đã mở ra nhiều hình thức huy động vốn với những kỳ hạn khác nhau: từ không kỳ hạn, đến kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm.
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, thu nhập của dân cư ngày càng được nâng cao, vì vậy, ngoài hình thức huy động vốn truyền thống, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã thực hiện đa dạng hoá thêm những hình thức vốn mới vừa tiên tiến vừa phù hợp với thói quen và tâm lý của người Việt Nam. Mọi người dân có nguồn tiền nhàn rỗi không chỉ có một cách gửi tiết kiệm như trước đây nữa mà được chủ động lựa chọn nhiều hình thức gửi tiền khác nhau với nhiều mức lãi suất khác nhau: như kỳ phiếu NHTM bằng VND và ngoại tệ, trái phiếu NHTM, tiết kiệm xây dựng nhà ở…
Các quỹ tín dụng nhân dân còn huy động vốn cổ phần từ các hộ sản xuất kinh doanh ở nông thôn với số vốn huy động lên tới hàng trăm tỷ đồng. Các loại trái phiếu ký danh, trái phiếu vô danh và tài khoản trái phiếu của Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư phát triển, Ngân hàng Công thương đã được phát hành trên thị trường vào các thời điểm khác nhau. Với các hình thức huy động vốn này, các ngân hàng đã có một nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng để đầu tư cho các nhu cầu của nền kinh tế.
Biểu 1: Tăng trưởng huy động vốn 2000-2002
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2002- Ngân hàng Nhà nước)
Biều 2: Tăng trưởng tín dụng năm 2000-2002
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2002- Ngân hàng Nhà nước)
Một hình thức huy động vốn quan trọng khác đang được các NHTM đẩy mạnh, đó là mở tài khoản cá nhân và sử dụng séc cá nhân. Gần đây, số lượng tài khoản cá nhân mở tại các NHTM tăng lên nhanh chóng. Tính đến đầu tháng 6/2003 đã có khoảng 550.000 tài khoản được mở (gấp 5 lần trong năm 2000) Tạp chí tài chính số 8/2003, trang 38
, trong đó, các NHTM ở thành phố Hồ Chí Minh đến hết ngày 31/5/2003 đã đạt 205.000 tài khoản, với số dư 3.867 tỷ đồng vượt mức dự kiến của năm 2003 là đạt từ 180.000 - 200.000 tài khoản với số dư 3600 - 4000 tỷ đồng Tạp chí tài chính số 9/2003, trang 43
. Hình thức này đầu tiên được thí điểm ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sau đó mở rộng ra cả nước. Đây cũng là hình thức động viên tiền nhàn rỗi của nhân dân, giảm dần tỷ trọng tiền mặt tài chính lưu thông.
2.2. Thị trường nội tệ liên ngân hàng
Thị trường nội tệ liên ngân hàng được thành lập vào tháng 6/1993 do NHNN tổ chức và điều hành nhằm giúp các tổ chức tín dụng là thành viên sử dụng nguồn vốn của mình có hiệu quả và đảm bảo khả năng chi trả trong thanh toán. Qua các phiên giao dịch gần đây, thị trường này đã giải quyết được một khối lượng lớn nhu cầu vốn tín dụng giữa các NHTM, trước khi vay tái chiết khấu ở NHTƯ trong thời gian vừa qua, các NHTM đã cho nhau vay khoảng trên 2.000 tỷ VND. Đến nay, thị trường này đã có khoảng 70 thành viên là các NHTM, NHCP, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh với doanh số đạt bình quân 60 tỷ đồng/ngày. Các NHTM nước ngoài và ngân hàng liên doanh đóng vai trò quan trọng trên thị trường này, vì họ là những ngân hàng cho các NHTM quốc doanh vay với doanh số lớn. Việc vay mượn theo quan hệ này là tự nguyện và theo lãi suất thoả thuận.
Bảng 3: Quy mô thị trường nội tệ liên ngân hàng Việt Nam theo các loại hình tổ chức tín dụng
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
6 tháng 2002
Doanh số
Số dư
Doanh số
Số dư
Doanh số
Số dư
Doanh số
Số dư
NHTMNN
102,1
10
133,6
12,6
153,2
17,6
103
16
NHTMCP
15,2
0,58
12,6
2,5
22,5
3,2
9,8
5,5
NHLD&NN
11,4
2,5
44,5
9,8
45,2
11,9
17,9
11,2
Tổng số
161,7
13,08
190,7
24,9
220,9
32,7
130,7
32,7
(Nguồn: Vụ tín dụng- Ngân hàng Nhà nước)
2.3. Thị trường tín phiếu kho bạc (TPKB)
Thị trường TPKB được triển khai thí điểm vào tháng 12/1994 và đầu năm 1995 đã đi vào hoạt động chính thức. Thành viên tham gia ngoài các NHTM, ngân hàng liên doanh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn có các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư- gọi chung là các tổ chức tài chính trung gian. Người mua là các Tổ chức tài chính trung gian, người bán là Bộ Tài chính (Kho bạc Việt Nam), giá mua là lãi suất qua đấu thầu, hình thức mua là ở dạng ghi sổ hay chứng chỉ tín phiếu.
Cho đến nay, dưới hình thức đấu thầu TPKB, Kho bạc Nhà nước đã thu được hàng nghìn tỷ đồng, việc đấu thầu qua NHNN đã tiết kiệm được một khoản chi phí rất lớn cho Ngân sách Nhà nước so với việc chi cục Kho bạc trực tiếp bán TPKB.
Thị trường đấu thầu TPKB ngày càng vận hành theo xu hướng tích cực với số phiên đấu thầu và khối lượng phát hành tăng dần qua các năm. Năm 2001 tổ chức được 46 phiên với khối lượng phát hành đạt 3.915 tỷ đồng (trong đó có 2.945 tỷ đồng TPKB kỳ hạn 364 ngày và 970 tỷ đồng TPKB kỳ hạn 182 ngày), bằng 88,15% khối lượng phát hành TPKB trong năm 2000. Nhưng sang năm 2002 đã tổ chức được 50 phiên đấu thầu với khối lượng phát hành đạt 8.410 tỷ đồng- một khối lượng phát hành cao nhất từ trước tới nay- bao gồm 2.202 tỷ đồng là TPKB với kỳ hạn 182 ngày, chiếm 26,17%; 6.208 tỷ đồng với kỳ hạn 364 ngày chiếm 73,83%. Tổng khối lượng trúng thầu của năm 2002 bằng 214,81% khối lượng TPKB phát hành năm 2001, chiếm 61,9% tổng số vốn huy động được của Kho bạc Nhà nước trong năm 2002 Tạp chí tài chính số 4/2003, trang 38,39
. Có được kết quả này là do Kho bạc Nhà nước đã chú trọng huy động vốn từ kênh phát hành tín phiếu thay cho các hình thức vay vốn khác như bán lẻ, đấu thầu trái phiếu qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung, đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, nhằm tận dụng được ưu thế huy động chủ động và hiệu quả cao của thị trường này, từ đó đảm bảo đáp ứng kịp thời cho nhu cầu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước; tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở- một công cụ quan trọng để NHNN thực thi chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường.
* Cơ chế quản lý lãi suất trên TTTT
Để ngày càng tăng cường khả năng huy động vốn từ các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đồng thời kích thích ham muốn tiết kiệm của người dân thì một công cụ đang được NHNN sử dụng khá hiệu quả là lãi suất. Lãi suất cũng chính là công cụ tiền tệ để thông qua đó Nhà nước tác động trực tiếp tới TTTT, củng cố và phát triển TTTT theo hướng phù hợp với những yêu cầu trong tiến trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Với lý do này, cho tới nay lãi suất TTTT Việt Nam đã trải qua nhiều lần điều chỉnh sao cho ngày càng phù hợp với xu thế biến động của TTTT trong nước, khu vực và quốc tế. Các lần điều chỉnh lãi suất có thể được tóm tắt trong bảng như sau:
Bảng 4: Bảng tóm tắt các lần điều chỉnh lãi suất
Lãi suất thực âm
Lãi suất thực dương
1989-1990
1992- 1996
1996- 1997
1998
1999
2000
T6/
2001
2002
2003
- Lãi suất được quy định cụ thể theo kỳ hạn, ngành nghề và khu vực kinh doanh
- Các tổ chức tín dụng chấp hành thụ động các mức lãi suất đã quy định
- áp dụng trần lãi suất tín dụng ngắn hạn và lãi suất cho vay thoả thuận
- Lãi suất tiền gửi vẫn được quy định cụ thể
- Xoá bỏ lãi suất cho vay thoả thuận, đưa thêm trần lãi suất tín dụng khu vực nông thôn và khu vực quỹ tín dụng vào hệ thống lãi suất cho vay.
- Xoá bỏ việc quy định cụ thể lãi suất tiền gửi
- áp dụng chênh lệch lãi suất đầu vào- đầu ra
- Thống nhất trần lãi suất tín dụng giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn.
- Tự do hoá hoàn toàn lãi suất đầu vào (xoá bỏ chênh lệch lãi suất đầu vào- đầu ra)
- Hợp nhất lãi suất cho vay ngắn hạn, dài hạn
- Xoá bỏ kiểm soát lãi suất tiền gửi ngoại tệ
- Lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản+ biên độ%
- Tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ
- áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận tại khu vực nông thôn
-Kiểm soát lãi suất qua các công cụ, chính sách tiền tệ gián tiếp
Lãi suất tín dụng dài hạn bị ấn định ở mức thấp hơn lãi suất tín dụng ngắn hạn
Lãi suất tín dụng dài hạn cao hơn lãi suất tín dụng ngắn hạn
Như vậy, có thể thấy rằng, lãi suất trên TTTT Việt Nam đang được điều chỉnh theo hướng “tự do hoá” để ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó, bắt nhịp cùng với những thay đổi trên TTTT quốc tế, NHNN Việt Nam cũng không ngừng nỗ lực hoàn thiện đổi mới các công cụ chính sách tiền tệ theo hướng chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp và ban đầu đã gặt hái được một số thành công. Thành công đầu tiên phải kể đến là ngày 12/7/2000, NHNN cho khai trương nghiệp vụ thị trường mở. Tính đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã đi vào hoạt động được hơn 3 năm. Đến hết năm 2002, số phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở đã được tăng cường từ 1 phiên/tuần năm 2001 lên 2 phiên/tuần. Thời gian thanh toán cũng được thực hiện ngay trong ngày giao dịch (T+0). Cũng trong năm 2002, NHNN đã thực hiện 58 phiên chào mua với doanh số trên 7.245 tỷ đồng, bằng khoảng 218% doanh số mua năm 2001, 27 phiên chào bán với doanh số đạt 1.700 tỷ đồng, bằng 274% doanh số bán năm 2001. Nghiệp vụ thị trường mở ra đời đã có tác động đến quá trình điều tiết và ổn định tiền tệ- lãi suất của NHNN. Đặc biệt, cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác như nghiệp vụ SWAP tiền tệ, tái cấp vốn, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần giải quyết tình trạng khó khăn vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng trong một số thời điểm thiếu hụt. Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường mở còn tạo điều kiện cho các NHTM nâng cao khả năng quản lý vốn khả dụng từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh và có giải pháp kịp thời về nguồn vốn.
3. Những vấn đề đặt ra đối với thị trường tiền tệ Việt Nam theo các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ
Đã hơn 3 năm kể từ khi Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được ký kết vào ngày 13/07/2003. Trong thời gian hơn 3 năm này TTTC Việt Nam nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng đã có những bước đi ban đầu để dần đáp ứng các quy định được cam kết trong bản Hiệp định. Có thể nói đây là những quy định khá cụ thể, chi tiết mà chiểu theo những cam kết này hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ phải trở nên “cởi mở” hơn cho các nhà đầu tư tài chính và ngân hàng của Hoa Kỳ. Lộ trình mở cửa dịch vụ tài chính- ngân hàng tính từ khi Hiệp định có hiệu lức tức là từ tháng 12/2001 được cam kết như sau:
- Trong 3 năm đầu, các ngân hàng Mỹ chỉ được cung cấp các dịch vụ thông qua các liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
- Sau 8 năm: các định chế tài chính có vốn của Mỹ được phát hành thẻ tín dụng
- Sau 9 năm: được mở chi nhánh ngân hàng 100% vốn của Mỹ. Trước thời gian này các ngân hàng Mỹ vẫn có thể lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần vốn góp không thấp hơn 30% nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định.
Như vậy, theo lộ trình này thì sau 9 năm, tức là từ tháng 12/2010, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ được phép cung cấp 12 phân ngành dịch vụ ngân hàng theo lộ trình 7 mốc. Lộ trình này còn xác định rõ mức độ tham gia của các loại hình dịch vụ ngân hàng và hình thức pháp lý mà các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được phép hoạt động tại Việt Nam, điều này cũng đồng nghĩa với yêu cầu cắt giảm bảo hộ về kinh doanh dịch vụ ngân hàng đối với các NHTM trong nước.
Như vậy, có thể nói các cam kết giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong HĐTMVM về lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng đã làm nảy sinh những thách thức nhất định đối với TTTT Việt Nam, đặc biệt là hệ thống ngân hàng Việt Nam- cơ quan quản lý Nhà nước và chi phối mọi hoạt động của TTTC trong đó có thị trường tiền tệ- trên thị trường trong và ngoài nước. Bởi lẽ, trên thị trường quốc tế, các tập đoàn tài chính ngân hàng lớn của Mỹ không những có một mạng lưới rộng lớn mà còn có bề dày kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, quan hệ tài chính rộng rãi sẽ đem lại nhiều bạn hàng và quyền được “mặc cả”; hơn nữa, nguồn vốn lớn cho phép các ngân hàng Mỹ chấp nhận rủi ro cao hơn các ngân hàng Việt Nam, do vậy lợi nhuận của họ thu được từ nguồn vốn khai thác ở Việt Nam sẽ lớn hơn so với các ngân hàng Việt Nam. Khả năng quản lý và công nghệ tiên tiến cho phép các ngân hàng Mỹ giảm chi phí giao dịch và chuyển vốn đầu tư vào những thị trường có lãi suất cao. Trong khi đó, các ngân hàng Việt Nam có thể còn đang chập chững, gặp phải không ít khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác thương mại và đầu tư ở nước ngoài.
Tại Việt Nam, việc thực thi Hiệp định có nghĩa là các ngân hàng Việt Nam sẽ có thêm đối thủ cạnh tranh lớn trên thị trường nhất là các ngân hàng Mỹ. Theo ông Đỗ Khắc Hưng, Phó vụ trưởng vụ Quan hệ quốc tế NHNN: “Việc nới rộng, tiến tới xoá bỏ hạn chế huy động tiền VND của các ngân hàng nước ngoài… có khả năng làm giảm thị phần của các ngân hàng Việt Nam so với hiện nay”. Đó là chưa nói đến những lợi thế mà ngân hàng Mỹ có được so với các ngân hàng nước ngoài khác đang hoạt động tại Việt Nam, khi Hiệp định thương mại có hiệu lực. Theo ông Nicolas Audier, Trưởng đại diện của hãng luật Gide Loyrette Nouel của Pháp tại Việt Nam, Hiệp định thương mại sẽ đặt các ngân hàng Mỹ vào vị trí thuận lợi để cung cấp các dịch vụ tốt hơn với chi phí thấp hơn các ngân hàng nước ngoài khác. Nói một cách khác, trên thị trường ngân hàng Việt Nam, chiếc bánh thị phần sẽ bị chia đi ít nhiều cho các ngân hàng Mỹ hoặc có vốn đầu tư của Mỹ.
Trước những thách thức nêu trên, ngay sau khi Hiệp định thương mại được ký kết, TTTT Việt Nam đã và đang thực hiện các chính sách cải tổ, đổi mới và tự hoàn thiện để chuẩn bị cho mình một bước đệm vững chắc trước khi các nhà cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng Hoa Kỳ tham gia vào các hoạt động tài chính trên thị trường tiền tệ Việt Nam. Tính đến nay, quá trình “cải tổ, đổi mới và tự hoàn thiện” đã đem lại một số thành công nhất định trên TTTT Việt Nam như: hệ thống ngân hàng hai cấp được củng cố về quy mô cũng như cơ chế điều hành hoạt động, quản lý; cùng với hệ thống ngân hàng hai cấp là sự ra đời một hệ thống các tổ chức tín dụng mới với sự có mặt của 4 hình thức sở hữu ngân hàng cùng hoạt động và phát triển (quốc doanh, cổ phần (gồm cả ngân hàng hợp tác), liên doanh và 100% vốn nước ngoài) làm thành một mạng lưới đủ rộng thực hiện việc cung cấp các dịch vụ tín dụng, thanh toán và đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế một cách có hiệu quả; các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng đang được triển khai mạnh mẽ theo hướng đa dạng hoá như dịch vụ thẻ tín dụng, lắp đặt hệ thống máy rút tiền tự động ATM, mở tài khoản cá nhân, giữa các ngân hàng với nhau thì áp dụng hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Với các hình thức huy động vốn khá đa dạng như kỳ phiếu NHTM, trái phiếu NHNN ký danh và vô danh, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có được một nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng để đầu tư cho các nhu cầu của nền kinh tế. Nội dung và hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia liên tục phát triển theo hướng giảm dần sự can thiệp chi tiết, trực tiếp của NHNN vào các hoạt động của tổ chức tín dụng; lãi suất trên TTTT được điều chỉnh theo hướng “tự do hoá” để ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế; nghiệp vụ thị trường mở được NHNN đưa vào sử dụng như một công cụ gián tiếp tác động đến quá trình điều tiết và ổn định tiền tệ- lãi suất của NHNN, cũng như góp phần giải quyết tình trạng khó khăn vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng trong một số thời điểm thiếu hụt…
Bên cạnh những thành công ban đầu kể trên, TTTT Việt Nam vẫn còn chứa đựng khá nhiều vấn đề tồn tại cần phải được giải quyết trước khi thời hạn lộ trình 9 năm kết thúc để ngày càng nâng cao sức cạnh tranh trong cuộc chạy đua với các ngân hàng và nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ. Những vấn đề đó là:
Thứ nhất, hệ thống NHTM nước ta có khả năng cạnh tranh thấp do yếu về trình độ chuyên môn và năng lực tài chính. Sau khi lộ trình 9 năm kết thúc, các ngân hàng Mỹ có thể thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Điều này có nghĩa là từ tháng 12/2010 các ngân hàng Việt Nam sẽ phải cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng Hoa Kỳ có quy mô, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm hơn hẳn. Thế nhưng, theo đánh giá của các chuyên gia thì hiện nay hệ thống NHTM nước ta có đặc trưng là khă năng cạnh tranh thấp do năng lực tài chính yếu. Cụ thể: 4 NHTM quốc doanh hiện chiếm 76% tổng nguồn huy động và 73,5% tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống, nhưng chỉ có tổng số vốn tự có xấp xỉ 800 triệu USD, đạt tỷ lệ an toàn vốn bình quân 5% (trong khi đó tỷ lệ này theo thông lệ quốc tế là 8%) Đầu tư chứng khoán số 173,31/03/2003, trang 14
. Điều này đã phản ánh khả năng chống đỡ rủi ro của các NHTM Việt Nam còn rất thấp. Bên cạnh đó là vấn đề quản lý nợ khó đòi của các NHTM. Tính đến ngày 31/12/2000 tổng số nợ xấu của các NHTM lên tới con số xấp xỉ 23.000 tỷ đồng và sau 2 năm 2001, 2002 các ngân hàng mới chỉ xử lý được 11.000 tỷ đồng Đầu tư chứng khoán số 183,9/06/2003, trang 15
. Những con số nêu trên đã chứng minh rằng khả năng quản lý nợ của các ngân hàng hiện tại vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Một vấn đề nữa cũng cần phải nói đến là đại bộ phận cán bộ ngân hàng còn yếu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và bất cập trong việc tiếp cận công nghệ hiện đại… Hệ thống thanh tra giám sát còn nhiều điểm chưa tương đồng với thông lệ quốc tế, chưa có hiệu quả và hiệu lực thực sự để đảm bảo việc tuân thủ các quy định về hoạt động ngân hàng. Để tránh nguy cơ tụt hậu trong cuộc chạy đua giữa các ngân hàng Việt Nam với các ngân hàng Mỹ thì ngay từ lúc này NHNN cũng như các NHTM cần phải có đối sách kịp thời để giải quyết các vấn đề được đưa ra ở trên. Hay nói như ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng vụ chiến lược phát triển ngân hàng- NHNN: “Có thể nói, NHNN và các NHTM đang đứng trước những vận hội to lớn cho sự phát triển, song thách thức và yếu kém hiện nay có thể làm cho hệ thống NHTM phải chịu phần thua thiệt nhiều hơn là phần lợi được hưởng trong quá trình hội nhập quốc tế. Thậm chí, có nguy cơ tụt hậu xa hơn với thế giới, nếu không có những cải cách bên trong thích hợp và đồng bộ với mở cửa thương mại, dịch vụ” Đầu tư chứng khoán số 173,31/03/2003, trang 14
.
Thứ hai, việc cung cấp các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng của hệ thống NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng, cơ chế tín dụng của các NHTM còn chứa đựng nhiều rủi ro. Theo các cam kết trong Hiệp định thì nhà cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng Hoa Kỳ được phép cung cấp 12 phân ngành dịch vụ ngân hàng. Trong số các loại hình dịch vụ được cam kết, bên cạnh một số loại hình dịch vụ trùng với lĩnh vực hoạt động của các NHTM Việt Nam như thanh toán quốc tế, đầu tư dự án, tài trợ thương mại là hàng loạt các dịch vụ mới chưa được thực hiện tại Việt Nam như môi giới tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm phái sinh nên nhìn chung các ngân hàng Hoa Kỳ có ưu thế về công nghệ và trình độ quản lý hơn hẳn các NHTM Việt Nam. Sức ép cạnh tranh đối với các NHTM Việt Nam sẽ tăng lên cùng với việc nới lỏng các quy định về hoạt động của các ngân hàng Hoa Kỳ, nhất là những ràng buộc về việc nhận tiền gửi, phát hành thẻ tín dụng và các máy rút tiền tự động. Trong bối cảnh đó, thị phần của các NHTM Việt Nam sẽ bị thu hẹp dần, nhất là tại các thành phố lớn và vùng kinh tế trọng điểm. Ngoài ra cạnh tranh giữa các ngân hàng Hoa Kỳ và các NHTM Việt Nam sẽ tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực:
Thị trường tín dụng; cạnh tranh về cho vay sẽ trở nên gay gắt khi các ngân hàng Hoa Kỳ đã hiểu rõ thị trường Việt Nam và môi trường pháp lý đảm bảo cho họ xử lý rủi ro để thu hồi nợ trong trường hợp cần thiết; trong đó, việc cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia hoạt động tái cấp vốn, tái chiết khấu, swap, forward từ NHNN (sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực) sẽ giúp họ bù đắp một phần vốn huy động còn bị hạn chế bởi lộ trình.
Giao dịch thanh toán và chuyển tiền; đây là lĩnh vực có ưu thế của các ngân hàng Hoa Kỳ cả về loại hình và chất lượng dịch vụ, sau khi có uy tín, các ngân hàng này sẽ thu hút một lượng đáng kể khách hàng Việt Nam.
Dịch vụ tư vấn môi giới kinh doanh tiền tệ, phát triển doanh nghiệp; lĩnh vực này cũng sẽ thu hút sự quan tâm của khách hàng Việt Nam, đặc biệt là dịch vụ liên quan đến chiến lược hoạt động của doanh nghiệp.
Thêm nữa, trong quá trình đàm phán, các ngân hàng Hoa Kỳ thường quan tâm và gây sức ép nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động tại Việt Nam dưới mọi hình thức, nhất là ngân hàng bán lẻ. Theo Hiệp định, các ngân hàng Hoa Kỳ không bị hạn chế về hình thức hiện diện (bao gồm cả mua cổ phần của NHTM quốc doanh và mở rộng lắp đặt hệ thống ATM như NHTM Việt Nam), về địa giới hành chính, về số lượng cho từng loại hình, nên các ngân hàng Hoa Kỳ có điều kiện tốt nhất cho việc tăng cường sự có mặt tại Việt Nam. Vì thế, ngoài những lĩnh vực cạnh tranh như đã đề cập, cạnh tranh gay gắt cũng sẽ tập trung vào việc mở rộng đối tượng khách hàng là dân cư dưới các hình thức hoạt động: tăng vốn huy động VND thông qua huy động tiết kiệm dân cư và vốn nhàn rỗi tạm thời của tổ chức phi kinh tế, mở rộng hoạt động mới, nhất là dịch vụ thu phí như thanh toán, chuyển tiền, môi giới, lưu ký, quản lý danh mục đầu tư của khách hàng.
Từ những điều phân tích trên có thể thấy rằng hệ thống ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức để chuẩn bị bước vào cuộc chạy đua với các ngân hàng Hoa Kỳ trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng, bởi lẽ:
- Mặc dù các NHTM Việt Nam đã và đang triển khai mạnh mẽ việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng song chất lượng của các loại hình dịch vụ còn thấp, công nghệ còn lạc hậu so với thế giới. Năm 2002, 4 NHTM quốc doanh lần lượt tung ra thị trường các loại thẻ rút tiền tự động (ATM) của mình nhưng cho đến nay chi phí đầu tư ban đầu cho mỗi ngân hàng vẫn cao và chưa mang lại cho khách hàng sự thuận tiện nhất khi dùng thẻ do vẫn chưa thể kết nối hệ thống ATM các ngân hàng. Các loại thẻ tín dụng, thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ mới chỉ được triển khai ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh… Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng mặc dù đã đi vào hoạt động song số lượng các ngân hàng tham gia còn hạn chế. Hơn nữa, tuy nói là đã được đa dạng hoá song các loại hình dịch vụ tài chính ngân hàng của hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chỉ dừng lại ở những lĩnh vực như: thanh toán quốc tế, đầu tư dự án, tài trợ thương mại. Những lĩnh vực được cam kết trong Hiệp định như: môi giới tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm phái sinh chưa hề được triển khai tại Việt Nam. Điều này đã và đang đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam trước yêu cầu gấp rút triển khai việc nghiên cứu và đưa vào thực hiện những loại hình mới này. Còn đối với những loại hình dịch vụ đã có mặt trên TTTC Việt Nam thì đòi hỏi các ngân hàng Việt Nam phải chủ động đầu tư đổi mới trang thiết bị, đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ tiên tiến, cải tổ phương thức quản lý, hiện đại hoá hệ thống thanh toán. Có làm như vậy thì các ngân hàng Việt Nam mới có thể nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, giữ vững thị phần đã có và không ngừng mở rộng thị phần ngay cả khi có sự tham gia của các ngân hàng Hoa Kỳ vào TTTT Việt Nam.
- Cơ chế tín dụng của các NHTM Việt Nam vẫn chưa hợp lý, hiệu quả, chứa đựng nhiều rủi ro, dễ dẫn đến khủng hoảng khi xảy ra biến cố. Nguyên nhân là do hiện nay trong tổng số 321.280 tỷ đồng nguồn vốn của các NHTM chỉ có 30% là vốn trung, dài hạn (trên 12 tháng) trong khi hệ thống ngân hàng cần đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn đối với nền kinh tế. Thực tế này đã buộc các NHTM phải dùng nguồn vốn huy động ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn của một số NHTM đã đến mức 60%, vượt xa so với quy định của NHNN là 30% và thông lệ quốc tế là 25%. Cơ cấu huy động và sử dụng vốn của các NHTM như hiện nay sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả và an toàn trong kinh doanh tiền tệ của NHNN, đặt các NHTM trước nhiều “rủi ro” nhất là khi các ngân hàng Hoa Kỳ được phép hoạt động tín dụng trên TTTT Việt Nam sau khi lộ trình 9 năm kết thúc.
Một điều đáng nói nữa là danh mục tín dụng của các NHTM vẫn rủi ro. Mặc dù tín dụng của hệ thống NHTM đã có nhiều cải thiện đáng kể, các NHTM cũng đã thận trọng hơn trong việc cho vay, song cơ cấu cho vay DNNN vẫn chiếm tỷ trọng cao (40% trong tổng dư nợ), cho vay nghành nông nghiệp cũng chiếm gần 30% tổng dư nợ tín dụng của các NHTM. Nhà nước tập trung khá nhiều vào các tổng công ty 90- 91. Với cơ cấu đó, danh mục tín dụng của hệ thống vẫn còn chứa đựng nhiều rủi ro khi các DNNN chậm được cải cách và còn làm ăn thua lỗ; khu vực sản xuất nông nghiệp vẫn dễ tổn thương trước các biến động của thị trường nông sản trong và ngoài nước. Những con số trên các báo chí gần đây cho biết riêng số lỗ của các công ty mía đường đã lên tới 2.400 tỷ đồng, nhưng số nợ gốc vay ngân hàng đã lên tới 4.300 tỷ đồng Tạp chí tài chính số 8/2003, trang 39
. Nếu không sớm giải quyết được tồn tại này thì hệ thống ngân hàng VN sẽ không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và sẽ đánh mất thị phần của mình vào tay các ngân hàng Hoa Kỳ khi các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ cùng tham gia cung cấp các dịch vụ tài chính- ngân hàng tại Việt Nam.
Như vậy, có thể nói, đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình theo hướng hiện đại hoá, không ngừng cải tiến và đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí tối đa, điều chỉnh cơ chế tín dụng phù hợp với sự đổi mới của nền kinh tế, là những vấn đề đang được đặt ra cho TTTT Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện các cam kết trong HĐTMVM.
Thứ ba, việc tiến hành “tự do hoá” lãi suất của NHNN chưa hợp lý. Theo các cam kết trong HĐTMVM, khi các ngân hàng Hoa Kỳ tham gia Thị trường nội tệ liên ngân hàng thì khả năng lớn hơn của các ngân hàng Hoa Kỳ sẽ có sức ép nhất định đối với hoạt động quản lý của NHNN, nhất là khi thị trường này hoạt động mạnh mẽ hơn và khi các ngân hàng Hoa Kỳ được phép tiếp cận nghiệp vụ tái chiết khấu của NHNN. Việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia cũng sẽ chịu ảnh hưởng của những biến động kinh tế- xã hội quốc tế. Như vậy vấn đề đặt ra cho TTTT Việt Nam là phải biết sử dụng một cách linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ. Tính tới nay, cơ chế điều hành lãi suất mặc dù đã được điều chỉnh theo hướng tự do hoá; một xu hướng vận động tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam. Tự do hoá lãi suất sẽ giúp cho việc phân phối các nguồn vốn có hiệu quả hơn, giúp cho các ngân hàng chủ động hơn trong việc huy động sử dụng nguồn vốn tạo tiền đề phát triển một TTTC lành mạnh. Tuy nhiên, một vấn đề đang được đặt ra cho quá trình thực hiện “tự do hoá” lãi suất ở Việt Nam đó là thời gian gần đây, lãi suất đang có xu hướng tăng cao, thậm chí rất cao, tạo nên sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức tín dụng có thể buộc ngân hàng chấp nhận những dự án nhiều mạo hiểm. Điều này, đến lượt mình, sẽ làm cho nền kinh tế trở nên dễ bị tổn thương, các tổ chức tài chính nhỏ khó có thể tìm được chỗ đứng trên thị trường, và do đó sự độc quyền trên TTTC càng có điều kiện lộng hành. Như vậy “tự do hoá” là rất tốt, tuy nhiên thực hiện việc “tự do hoá” lãi suất như thế nào cho phù hợp với điều kiện kinh tế của nước ta hiện nay, nhằm tạo một nền tảng vững chắc cho các tổ chức tín dụng cũng như các ngân hàng Việt Nam hoạt động hiệu quả ngay cả khi có sự góp mặt của các đối thủ cạnh tranh Hoa Kỳ, câu hỏi này là vấn đề cần suy xét của các nhà nghiên cứu kinh tế và các nhà chính sách Việt Nam.
Thứ tư, ở Việt Nam chưa có một NHTM quốc doanh nào được cổ phần hoá. Theo các thoả thuận giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ trong HĐTMVM, trong thời 9 năm đầu, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng liên doanh với các NHTM Việt Nam sẽ làm tăng áp lực cạnh tranh lên các NHTM Việt Nam. Điều này bắt buộc phía Việt Nam phải cân nhắc cổ phần hoá ít nhất một NHTM quốc doanh nhằm nâng cao chất lương quản lý, tăng nhanh lợi nhuận, tránh lãng phí nguồn vốn, thậm chí tạo ra nguồn vốn tiềm năng riêng rẽ mà không phải trông cậy vào vốn ngân sách, qua đó tăng sức mạnh cạnh tranh và đảm bảo an toàn cho hệ thống NHTM Việt Nam.
Thứ năm, hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động tài chính ngân hàng của nước ta còn bất cập và thiếu tính đồng bộ. Một vấn đề mấu chốt mang tính quyết định được đặt ra cho TTTT Việt Nam theo các cam kết trong HĐTMVM đó là vấn đề các văn bản pháp luật. Thực hiện các cam kết tại HĐTMVM không có nghĩa là chỉ cần tung ra các sản phẩm mới, tranh giành thị phần mà là phải chơi theo các “lụât chơi” quốc tế và cam kết tại HĐTMVM. Theo Hiệp định, nếu luật của Việt Nam chưa phù hợp với Hiệp định thì vẫn phải thực hiện các cam kết trong Hiệp định mà không chờ đến khi sửa luật. Thời gian qua, NHNN đã có những bước đi thích hợp để điều chỉnh “luật chơi” cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Từ năm 2001 và 2002, NHNN đã tiến hành sửa đổi quy chế cho vay với khách hàng của các tổ chức tín dụng, bổ sung quy định cho phép các cá nhân và pháp nhân nước ngoài được vay vốn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam theo đúng cam kết trong Hiệp định.
Tuy nhiên, do hệ thống các văn bản pháp luật của nước ta nói chung và văn bản của hệ thống ngân hàng nói riêng còn bất cập và thiếu tính đồng bộ nên để tạo một môi trường cạnh tranh bình đẳng, một môi trường pháp lý ổn định nhằm chuẩn bị tốt cho việc tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính- ngân hàng Hoa Kỳ thì ngay từ bây giờ NHNN Việt Nam cần phải rà soát và sửa đổi tất các các văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động ngân hàng và TTTT như: quy định của các vấn đề liên quan đến máy rút tiền tự động, nhận tiền gửi của các tổ chức tín dụng nước ngoài; cho phép các ngân hàng nước ngoài được huy động nhiều hơn VND. Việc nghiên cứu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các loại hình dịch vụ mới chưa từng được triển khai ở Việt Nam nhưng đã được cam kết tại Hiệp định cũng cần phải được tiến hành đồng thời.
II. Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam
1. Quá trình hình thành và phát triển
Sau giải phóng miền Nam tháng 4/1975, mô hình XHCN đã được áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước. Cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã phát huy hiệu quả trong giai đoạn chiến tranh và một số năm tiếp sau đó. Nhưng việc duy trì quá lâu một cơ chế bao cấp của Nhà nước như vậy đã nảy sinh mâu thuẫn, rối loạn sâu sắc trong việc phát triển kinh tế đất nước. Với cơ chế tập trung bao cấp, trong một thời gian dài, thị trường nói chung và Thị trường Ngoại hối (TTNH) nói riêng ở Việt Nam chưa có điều kiện hình thành và phát triển. Cho đến năm 1986, khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các yếu tố thị trường mới được hình thành và phát triển.
Nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, bảo vệ độc lập và chủ quyền về tiền tệ, phát triển nền kinh tế quốc dâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D2.doc