Đề tài Thị trường du lịch Việt Nam với vấn đề mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại công ty cổ phần bảo hiểm PIJICO

Tài liệu Đề tài Thị trường du lịch Việt Nam với vấn đề mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại công ty cổ phần bảo hiểm PIJICO: Lời mở đầu Trong xu hướng một nền kinh tế thế giới đang lớn mạnh hàng ngày, mở rộng và phát triển chính là xu hướng tất yếu, là điều kiện không thể thiếu được để mọi tổ chức, doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành nghề… có thể đứng vững và tự khẳng định mình. bảo hiểm Việt Nam cũng như ngành bảo hiểm trên toàn thế giới cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Là một trong hàng trăm các nghiệp vụ mà các công ty bảo hiểm đang tiến hành triển khai, bảo hiểm du lịch tiến hành bảo hiểm cho các đối tượng liên quan đến hoạt động du lịch, mà cụ thể là khách du lịch và hành lý, vật dụng mang theo của họ. Với bản chất gắn liền với sự tồn tại và phát triển của hoạt động du lịch, một hoạt động đang phát triển hết sức mạnh mẽ trong nền kinh tế hiện đại, bảo hiểm du lịch đang đứng trước một tiềm năng và cơ hội vô cùng to lớn cho sự mở rộng và phát triển của mình. Chính thức ra đời vào tháng 6/1995, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) cũng như đại đa số các công ty hoạt động trên lĩnh vực bảo hiểm phi nh...

doc90 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1164 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thị trường du lịch Việt Nam với vấn đề mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại công ty cổ phần bảo hiểm PIJICO, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong xu hướng một nền kinh tế thế giới đang lớn mạnh hàng ngày, mở rộng và phát triển chính là xu hướng tất yếu, là điều kiện không thể thiếu được để mọi tổ chức, doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành nghề… có thể đứng vững và tự khẳng định mình. bảo hiểm Việt Nam cũng như ngành bảo hiểm trên toàn thế giới cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Là một trong hàng trăm các nghiệp vụ mà các công ty bảo hiểm đang tiến hành triển khai, bảo hiểm du lịch tiến hành bảo hiểm cho các đối tượng liên quan đến hoạt động du lịch, mà cụ thể là khách du lịch và hành lý, vật dụng mang theo của họ. Với bản chất gắn liền với sự tồn tại và phát triển của hoạt động du lịch, một hoạt động đang phát triển hết sức mạnh mẽ trong nền kinh tế hiện đại, bảo hiểm du lịch đang đứng trước một tiềm năng và cơ hội vô cùng to lớn cho sự mở rộng và phát triển của mình. Chính thức ra đời vào tháng 6/1995, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) cũng như đại đa số các công ty hoạt động trên lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ khác đã tiến hành triển khai nghiệp vụ bảo hiểm du lịch từ ngay những ngày đầu thành lập. Qua hơn 6 năm hoạt động và phát triển, nhưng làm thế nào để triển khai hiệu quả hơn nữa, mở rộng và phát triển nghiệp vụ trước tiềm năng vô cùng to lớn của thị trường du lịch Việt Nam vẫn là một vấn đề cần bàn và được sự quan tâm của lãnh đạo công ty cũng như tất cả những ai liên quan và quan tâm đến PJICO. Sau một thời gian thực tập và tìm hiểu về hoạt động của công ty PJICO, mà đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm du lịch đang được PJICO triển khai, bản thân em thấy rằng vẫn còn nhiều những vướng mắc cần được quan tâm thích đáng đối với nghiệp vụ này. Chính vì vậy, em quyết định chọn đề tài viết luận văn là: “Thị trường du lịch Việt Nam với vấn đề mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại công ty cổ phần bảo hiểm PIJICO”. Luận văn được chia ra làm 3 phần lớn: Chương I : Tổng quan chung về bảo hiểm và bảo hiểm du lịch Chương II : Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại PIJICO Chương III : Một số giải pháp nhằm mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại PIJICO. Với khoảng thời gian thực tập chưa nhiều và số kiến thức còn ít ỏi của mình, kinh nghiệm thực tế lại non kém, chắc chắn rằng luận văn không tránh khỏi những sai sót. Nhưng với sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của các thầy cô bộ môn Bảo Hiểm, đặc biệt là giáo viên hướng dẫn trực tiếp, cô tôn thanh huyền, hi vọng rằng bài luận văn này ít nhiều sẽ có ích đối với việc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại PIJICO nói riêng và thị trường bảo hiểm du lịch Việt Nam nói chung. Chuơng I: Tổng quan chung về bảo hiểm và bảo hiểm du lịch I. Lý luận chung về bảo hiểm 1. Khái niệm về bảo hiểm Bảo hiểm có nguồn gốc rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại mà cho đến nay người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm xuất hiện từ khi nào. Tuy nhiên, ngay từ những thời kỳ đầu người ta đã xác định được bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ và nhà bảo hiểm thì bán các sản phẩm vô hình. Nhưng rất khó để đưa ra một khái niệm thực sự chính xác và nhất quán về bảo hiểm. Tuỳ theo khía cạnh xem xét và theo từng quan điểm tuỳ theo quan điểm mà người ta đưa ra các khái niệm khác nhau về bảo hiểm. Đứng trên góc độ tài chính : Bảo hiểm thực chất là một hoạt động dịch vụ nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi. Đứng trên góc độ pháp lý : Bảo hiểm thực chất là sự cam kết giữa hai bên mà một bên đồng ý bồi thường cho bên kia nếu bên kia đóng phí bảo hiểm Bảo hiểm thực chất là một quá trình lập quỹ dự phòng bằng tiền do những người cùng có khả năng gặp phải một loại rủi ro nào đó tạo nên. Bảo hiểm thực chất là tổng thể các mối quan hệ kinh tế – xã hội giữa những người tham gia và người bảo hiểm nhằm mục đích ổn định cuộc sống và sản xuất cho người tham gia khi họ gặp phải khó khăn hay rủi ro bất ngờ xảy ra không ai lường trước được và đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia. Một định nghĩa mà được coi là mang tính chất chung nhất của bảo hiểm : Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho người thứ ba hoặc chính anh ta. Tuy nhiên, dù được định nghĩa như thế nào chăng nữa thì chúng ta cũng cần nhận thấy được bản chất của hoạt động bảo hiểm thể hiện ở những nội dung sau : Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính chứ không phải là hoạt động sản xuất, sản phẩm của các công ty bảo hiểm là sản phẩm vô hình. Mối quan hệ giữa các bên tham gia được xác định thông qua một bản cam kết, thực chất là một hợp đồng bảo hiểm, đồng thời cũng là một hợp đồng kinh tế. Hợp đồng bảo hiểm rằng buộc quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia. Bảo hiểm vừa mang tính kinh tế – xã hội, dịch vụ, đồng thời còn mang tính nhân đạo và nhân văn cao cả. Bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Về cơ bản, bảo hiểm chỉ thực hiện với những rủi ro bất ngờ xảy ra không ai lường trước được. 6. Mục đích chính của bảo hiểm là bồi thường và chi trả bảo hiểm nhằm giúp người tham gia ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất. Ngoài ra, bảo hiểm còn đáp ứng một số nhu cầu khác của người tham gia như tiết kiệm, tạo lập quỹ giáo dục con cái, khởi nghiệp kinh doanh, cưới xin… 2. Phân loại bảo hiểm Thông thường, toàn bộ ngành bảo hiểm trên thế giới được chia thành hai mảng lớn, đó là: + Bảo hiểm xã hội + Bảo hiểm thương mại Tuy nhiên, do những đặc điểm riêng biệt mà một số nước trên thế giới lại chia thành nhiều mảng nhỏ hơn gồm: + Bảo hiểm xã hội + Bảo hiểm y tế + Bảo hiểm thất nghiệp + Bảo hiểm thương mại Cũng nằm trong số những nước trên nhưng do chưa có điều kiện để triển khai bảo hiểm thất nghiệp nên ở Việt Nam hiện nay ngành bảo hiểm được chia ra thành ba mảng lớn sau : Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm y tế 3. Bảo hiểm thương mại Trong đó, mảng bảo hiểm thương mại đang là lĩnh vực được quan tâm và ngày càng phát triển mạnh mẽ với sự tham gia kinh doanh, chiếm lĩnh thị phần của ngày càng nhiều các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Có thể định nghĩa, bảo hiểm thương mại là một quá trình lập quỹ dự phòng bằng tiền do những người có cùng khả năng gặp phải một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên và từ đó quỹ bồi thường cho những người tham gia khi họ gặp phải những rủi ro bất ngờ gây hậu quả thiệt hại và đáp ứng một số nhu cầu khác của họ. Trong bảo hiểm thương mại, căn cứ vào đối tượng tham gia người ta có thể chia bảo hiểm thương mại thành ba loại hình sau: bảo hiểm tài sản : Là vì bảo hiểm có đối tượng được bảo hiểm là tài sản của tất cả các cá nhân, doanh nghiệp trong nền kinh tế. Bảo hiểm trách nhiệm : Có đối tượng bảo hiểm là phần trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại. Do vậy đối tượng được bảo hiểm trong loại bảo hiểm hết sức trừu tượng, thiệt hại phải liên quan trực tiếp người thứ ba. Thiệt hại đó có thể là thiệt hại về tài sản, về con người và cũng có thể là thiệt hại về kinh doanh của bên thứ ba. Bảo hiểm con người: Bảo hiểm con người là một trong những loại hình bảo hiểm cơ bản nhất trong bảo hiểm thương mại. Đối tượng của bảo hiểm thương mại có thể là tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khoẻ hoặc các sự kiện liên quan đến cuộc sống con người và có ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Để phân loại các loại hình bảo hiểm con người, người ta có thể dựa vào các tiêu thức như căn cứ vào thời hạn bảo hiểm (bảo hiểm con người ngắn hạn và dài hạn), căn cứ vào hình thức bảo hiểm (bắt buộc hoặc tự nguyện), căn cứ vào kỹ thuật quản lý (theo kỹ thuật phân chia hoặc tồn tích) và căn cứ vào rủi ro bảo hiểm. Phân loại theo tiêu thức rủi ro bảo hiểm người ta đã chia bảo hiểm con người ra làm hai loại: 1. Bảo hiểm nhân thọ: Là loại hình bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro liên quan đến tuổi thọ con người. 2. Bảo hiểm con người phi nhân thọ: Là loại hình bảo hiểm chỉ liên quan đến các rủi ro như : bệnh tật, tai nạn, mất khả năng lao động và cả tử vong. Đặc điểm của loại này là không liên quan đến tuổi thọ con người. Trong bảo hiểm con người phi nhân thọ lại có rất nhiều các nghiệp vụ khác nhau như : bảo hiểm sinh mạng cá nhân, bảo hiểm tai nạn con người 24/24, bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật, bảo hiểm tai nạn hành khách, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm cưới xin… và trong dó có nghiệp vụ bảo hiểm khách du lịch. Như vậy, ta có thể đưa ra một sơ đồ phân loại các loại hình bảo hiểm một cách tổng quát để từ đó thấy rõ được vị trí của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch theo sơ đồ 1 sau: Sơ đồ 1: phân loại các loại hình bảo hiểm (1) (3) (2) Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm y tế Bảo hiểm thương mại Bảo hiểm tài sản Bảo hiểm trách nhiệm Bảo hiểm con người Bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm phi nhân thọ Bảo hiểm du lịch ………….. Bảo hiểm Chú thích: Phân loại theo mục đích sử dụng quỹ. Phân loại theo đối tượng được bảo hiểm Phân loại theo sự kiện bảo hiểm. 3. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm . Như ta đã biết, bảo hiểm xuất hiện từ khi người ta còn chưa biết đến khái niệm “bảo hiểm”. Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết được chính xác bảo hiểm xuất hiện khi nào, chỉ biết rằng nó có nguồn gốc rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại. Sở dĩ bảo hiểm xuất hiện sớm như vậy vì người ta sớm nhận ra được vai trò không thể thiếu được của bảo hiểm trong cuộc sống. Trong cả cuộc đời của mình, bất cứ ai cũng hơn một lần gặp phải rủi ro. Rủi ro là điều không thể tránh được, nhưng đối phó với rủi ro bằng cách nào là cách riêng của mỗi người, mỗi cộng đồng xã hội. Có người tự tích luỹ, đi vay, tự hình thành các quỹ tương hỗ…Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp thì có thể thực hiện theo các cách thức như chấp nhận rủi ro, phòng tránh rủi ro… Nhưng tất cả các biện pháp trên đều ít nhiều gặp phải những hạn chế nhất định, gây bất tiện cho người thực hiện nó. Cuộc sống càng phát triển, quy mô sản xuất ngày càng mở rộng thì những biện pháp trên trở nên không thiết thực nữa. Lúc đó, một biện pháp mà đã ra đời từ rất lâu, đã nhen nhóm phát triển trong mọi nền kinh tế… đến lúc này trở nên rất thích hợp, đó chính là bảo hiểm. Như vậy, với vai trò không thể thiếu được trong mọi nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, cùng với sự tăng dần của mức sống, quy mô sản xuất kinh doanh… Bảo hiểm ngày càng trở nên vững mạnh, trở thành một khâu tài chính trung gian thiết yếu, một biện pháp đối phó với rủi ro phổ biến của mọi cá nhân, doanh nghiệp. Dù trong trường hợp nào, ta cũng có thể nhận thấy được những tác dụng và vai trò không thể phủ nhận sau đây của bảo hiểm: Thứ nhất, bảo hiểm góp phần ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất – kinh doanh tiếp tục phát triển bình thường. Đây là vai trò được thể hiện rõ ràng nhất của bảo hiểm. Chỉ cần đóng một khoản phí tương đối nhỏ (so với số tiền bảo hiểm), khi rủi ro xảy ra, các cá nhân cũng như các doanh nghiệp sẽ được các công ty bảo hiểm bồi thường một khoản lớn hơn nhiều so với khoản phí đã đóng. Từ đó, họ có thể ổn định cuộc sống cũng như kinh doanh, tiếp tục một cuộc sống bình thường như trước khi có rủi ro. Đó là vai trò hết sức to lớn của bảo hiểm. Thứ hai, bảo hiểm ra đời còn góp phần đề phòng hạn chế tổn thất, điều đó góp phần bảo đảm an toàn cho xã hội. Sở dĩ như vậy vì sau khi thu phí bảo hiểm, bao giờ nhà bảo hiểm cũng trích ra một phần phí trong đó để đầu tư cho công tác đề phòng, hạn chế tổn thất. Ví dụ như xây dựng các đường nánh nạn cho xe ô tô, các biển báo nguy hiểm, các hướng dẫn tại các khu du lịch… Thứ ba, bảo hiểm đã góp phần vào làm giảm nhẹ cho ngân sách Nhà nước (nhờ việc thực hiện lĩnh vực bảo hiểm xã hội), đồng thời còn làm tăng thu cho ngân sách Nhà nước (thông qua đóng thuế…). Hơn nữa, bảo hiểm chính là một lĩnh vực đóng góp khá lớn vào GDP cho các nước (Anh : 9.6%, Nhật : 7.7%, Hàn Quốc : 11%, Việt Nam: 0.6%…) Thứ tư, ta thấy nhất là đối với các nền kinh tế lớn mạnh thì mỗi công ty bảo hiểm thường là những nhà đầu tư cớ lớn góp phần phát triển nền kinh tế nói chung và ngành tài chính nói riêng. Sở dĩ như vậy vì quỹ bảo hiểm thu được luôn luôn có một bộ phận quỹ dự trữ, dự phòng va một bộ phận quỹ nhàn rỗi chưa được sử dụng thì sẽ được đem đi đầu tư. Thứ năm, bảo hiểm ra đời còn góp phần tập trung được lượng tiền mặt nhàn rỗi nằm tản mạn ở tất cả các tầng lớp dân cư trong xã hội để hình thành quỹ bảo hiểm. Quỹ này không chỉ để đầu tư mà còn qóp phần thực hiện tiết kiệm, chống làm phát, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Thứ sáu, bảo hiểm ra đời còn góp phần khắc phục được tâm lý sản xuất nhỏ tiểu nông, tạo điệu kiện cho các cá nhân doanh nghiệp mạnh dạn vay vốn để đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá. Trên đây là sáu tác dụng cũng như vai trò nổi bật nhất của bảo hiểm. Ngoài ra bảo hiểm còn có rất nhiều tác dụng khác. Đối với mỗi cá nhân, mỗi tổ chức tham gia thì tác dụng và vai trò của bảo hiểm lại thể hiện một cách cụ thể, riêng biệt. Bảo hiểm du lịch 1. Sự cần thiết phải tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm du lịch. Trong bất cứ xã hội nào, khi nền kinh tế càng phát triển thì các ngành dịch vụ cũng phát triển song song, tỷ trọng của các ngành dịch vụ trong toàn bộ nền kinh tế ngày càng cao. Sở dĩ như vậy vì xã hội càng phát triển thì các mong muốn và nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, phong phú. Đặc biệt là nhu cầu về các loại hình dịch vụ, trong đó có nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí. Khi mức sống được nâng cao, người ta không phải quan tâm nhiều đến vấn đề “ăn no mặc ấm” như trước nữa. Nhu cầu thỏa mãn những đòi hỏi về tinh thần của mình, nghỉ ngơi, giải trí, tìm hiểu về xã hội cũng như môi trường cuộc sống xung quanh được coi trọng nhiều hơn. Dịch vụ du lịch đã ra đời để đáp ứng các nhu cầu đó. Tại hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ngày 28/6/1991 được tổ chức tại Việt Nam đã định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài nơi ở thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian đã được các tổ chức quốc tế quy định sẵn, mục đích của chuyến đi không phải để kiếm tiền trong phạm vi vùng đến thăm”. Du lịch bao gồm nhiều loại dựa theo đặc điểm cũng như mục đích của người đi du lịch như du lịch chữa bệnh (du lịch y tế ), du lịch nghỉ ngơi giải trí, du lịch thể thao, du lịch văn hoá, du lịch công vụ, du lịch tôn giáo, du lịch thăm hỏi, du lịch quá cảnh… Họ đi du lịch bằng đủ các phương tiện khác nhau từ xe đạp, xe máy cho đến ô tô, tàu hoả, máy bay và tàu thuỷ… Người đi du lịch có thể đi cá nhân hoặc đi theo đoàn, dài ngày hay ngắn ngày… Dù đi du lịch nhằm mục đích gì, bằng phương tiện nào, theo đoàn hay đi riêng lẻ, dài ngày hay ngắn ngày… thì nhu cầu, mong muốn tối thiểu của khách du lịch cũng là phải được an toàn, thuận lợi trong toàn bộ chuyến đi. Tuy nhiên, rủi ro lại có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cuộc sống của mỗi con người, kể cả khi đi du lịch. Đặc biệt, khi đi du lịch thể thao hay giải trí tại các vùng biển, sông nước… thì rủi ro càng dễ xảy ra hơn. Do vậy, khi không may gặp phải rủi ro thì việc được đảm bảo vệ mặt tài chính, phương tiện chăm sóc y tế… nhằm khắc phục rủi ro là mong muốn của mọi khách du lịch, cho dù trước đó họ có thể phải mất đi một chi phí nhỏ cho sự bảo đảm đó. Bảo hiểm du lịch được hình thành trước các đòi hỏi bức xúc và chính đáng của khách du mong muốn. Tóm lại, bảo hiểm du lịch ra đời và phát triển là sự cần thiết tất yếu đáp ứng nhu cầu của đông đảo du khách, góp phần đem lại niềm vui và cảm giác an toàn trọn vẹn cho họ trong toàn bộ hành trình du lịch. Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của ngành du lịch cũng là tiền đề cho sự phát triển tất yếu của nghiệp vu bảo hiểm du lịch tại mọi quốc gia. 2. Vai trò của bảo hiểm du lịch. 2.1 Đối với người tham gia bảo hiểm và xã hội. Đối với người tham gia bảo hiểm, vai trò của bảo hiểm du lịch đã thể hiện hết sức rõ ràng ngay từ khi người tham gia bảo hiểm có ý tưởng về việc mua bảo hiểm. Với một khoản phí rất nhỏ so với giá trị bảo hiểm (thường là bằng 0,015 STBH), nhưng bảo hiểm du lịch đã mang lại cho khách hàng một tâm lý thoải mái, một cảm giác an toàn, được bảo đảm… một điều hết sức quan trọng đối với khách du lịch. Hơn nữa, khi không may xảy ra rủi ro thì những mất mát thiệt hại về hành lý (trừ khách du lịch trong nước) sẽ được nhà bảo hiểm đền bù một cách hợp lý cho người tham gia, góp phần ổn định tài chính hoặc ít nhất cũng đền bù một phần đáng kể giúp người tham gia không bị thiệt hại lớn trong chuyến du lịch đó. Không những được bảo đảm về tại sản, khi không may gặp phải rủi ro dẫn đến thương tật, tử vong…. Bảo hiểm chính là người góp phần chi trả cho các chi phí y tế, dịch vụ, chi phí thuê xe cấp cứu, chi phí hồi hương… cho người được bảo hiểm,giúp họ khắc phục khó khăn, chạy chữa được kịp thời… Như vậy, bảo hiểm du lịch có tác dụng tích cực đến từng cá nhân tham gia bảo hiểm. Điều đó cũng có nghĩa là nó cũng có ảnh hưởng tích cực đến toàn bộ xã hội. Góp phần ổn định cuộc sống và tài chính cho khách du lịch cũng là góp phần ổn định một bộ phận dân cư trong xã hội, ổn định xã hội. Hơn nữa, trong công tác đề phòng và hạn chế tổn thất các công ty bảo hiểm đã kết hợp với các khu du lịch, các công ty du lịch, cơ quan hữu quan… thực hiện các biện pháp nhằm đề phòng hạn chế rủi ro cho khách hàng như tuyên truyền, hướng dẫn tại các khu du lịch, các biển báo nguy hiểm, các phương tiện cứu hộ… Tất cả, nhằm bảo vệ khách du lịch, mang lại sự ổn định cho xã hội. 2.2 Đối với các công ty bảo hiểm Tại các nước phát triển trên thế giới, nhất là các nước có nhiều địa điểm du lịch, các công trình văn hoá - nghệ thuật nổi tiếng… như Mỹ, Pháp , Trung Quốc, Hà Lan… thì bảo hiểm du lịch là một nghiệp vụ rất được quan tâm chú trọng. Không mang lại doanh thu khổng lồ như các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu… nhưng bảo hiểm du lịch lại đem đến cho các công ty bảo hiểm một lượng doanh thu ổn định (tăng trưởng đều qua các năm), một tỷ lệ lợi tức khá cao và ít khi bị biến động. Sở dĩ như vậy vì thông thường khi đi du lịch khách du lịch đều thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn cho mình. Tuy nhiên, họ vẫn mua bảo hiểm du lịch nhằm có được một sự an toàn tuyệt đối về tài chính, đem lại sự thoải mái về tâm lý cho họ. Chính vì vậy, bảo hiểm du lịch chính là một trong những nghiệp vụ mà có số vụ tổn thấp, tỷ lệ lợi tức trên doanh thu nghiệp vụ là tương đối cao. Tại Việt Nam hiện nay, tuy chưa phải là một nghiệp vụ mà được các công ty thực sự quan tâm chú trọng, đặt lên hàng đầu. Nhưng hiện nay, với sáu công ty bảo hiểm kinh doanh trên lĩnh vực này (Bảo Việt, Bảo Minh, Bảo Long, PJICO,PVIC, PTI), bảo hiểm du lịch đã dần tìm được chỗ đứng cho mình. Tỷ lệ doanh thu nghiệp vụ trên tổng số doanh thu của các công ty tăng dần. Bảo hiểm du lịch đang dần đóng góp một lượng doanh thu và lợi nhuận đáng kể cho các công ty. 2.3 Mối quan hệ với ngành du lịch. Ta biết rằng, mối quan hệ giữa du lịch và nghiệp vụ bảo hiểm du lịch là một mối quan hệ tương hỗ. Sự phát triển của hoạt động này là động lực thúc đẩy, là tiền đề cho sự phát triển của hoạt động kia và ngược lại. Tác động của bảo hiểm du lịch tới ngành du lịch. Sự tác động tích cực của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch lên sự phát triển của ngành du lịch được thể hiện hết sức rõ ràng. Trước hết, là về lượng khách du lịch. ở những nơi mà bảo hiểm du lịch được thực hiện tốt thì lượng khách du lịch thường đông hơn, đặc biệt là đối với khách du lịch quốc tế. Với rất nhiều người, bảo hiểm du lịch là một điều kiện cần để họ có thể đi du lịch đến một vùng khác, nhất là những khu du lịch ngoài đất nước họ vì khi đi du lịch thông thường khách du lịch không mang theo quá nhiều tiền nên bảo hiểm du lịch chính là chỗ mà họ có thể tin cậy khi rủi ro không may xảy ra. Vì vậy, thực hiện tốt nghiệp vụ bảo hiểm du lịch không những làm tăng lượng khách nội địa mà còn góp phần quan trọng vào việc thu hút khách du lịch quốc tế – một đối tượng rất quan trọng của ngành du lịch. Hơn nữa, khi tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm du lịch, các công ty bảo hiểm thường trích một phần phí để chi cho công tác đề phòng, hạn chế tổn thất. Các công ty này sẽ tiến hành xây dựng các đường lánh nạn (cho cả bảo hiểm xe cơ giới), các biển báo tại các địa điểm du lịch, lập các đội cứu hộ, các trung tâm y tế… Những việc này đã đem lại lợi ích trực tiếp cho ngành du lịch, góp phần vào việc tạo ra sự an toàn, thoải mái cho du khách, tăng uy tín của các địa điểm du lịch. Tác động của ngành du lịch tới nghiệp vụ bảo hiểm du lịch Ngược lại, chỉ khi tồn tại khái niệm “du lịch” thì các công ty bảo hiểm mới nghĩ tới khái niệm “bảo hiểm du lịch”. Du lịch là điều kiện tất yếu, tiền đề cho việc tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm du lịch. Muốn mở rộng và phát triển được nghiệp vụ bảo hiểm du lịch thì ngành du lịch không thể không phát triển. Khi lượng khách nội địa cũng như quốc tế tăng, thì số khách hàng tham gia mua bảo hiểm du lịch cũng tăng lên. Những năm gần đây, nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có sự phát triển, đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân được nâng cao, nhu cầu đi tham quan, giải trí … tăng lên không ngừng. Đặc biệt, lượng khách quốc tế tới Việt Nam ngày càng tăng. Tất cả, tạo ra những thuận lợi, một thị trường tiềm năng vô cùng lớn cho các công ty bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm du lịch nói riêng. Sự phát triển của ngành du lịch đã đóng góp một phần rất lớn cho nghiệp vụ bảo hiểm du lịch trong tất cả các công ty bảo hiểm ở Việt Nam cũng như thế giới. 3.Nội dung cơ bản của bảo hiểm du lịch. Như đã đề cập trong cách phân loại các loại hình bảo hiểm ở trên, bảo hiểm du lịch chính là một nghiệp vụ nằm trong nhóm bảo hiểm con người phi nhân thọ. Ban đầu chỉ là bảo hiểm bảo hiểm tai nạn khách du lịch, tức là chỉ bảo hiểm cho tính mạng và tình trạng sức khoẻ của du khách. Sau đó, với sự tăng lên trong nhu cầu của khách du lịch, các công ty bảo hiểm mới tiến hành bảo hiểm tài sản và hành lý mang theo cho du khách. Từ đó bảo hiểm tai nạn khách du lịch có tên là bảo hiểm du lịch. Nội dung của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch bao gồm đối tượng bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm, hình thức bảo hiểm… đã được PJICO ban hành trong “Quy tắc bảo hiểm cho khách du lịch”, kèm theo quyết định số 06/TC/QD/BH ngày 02/01/1993 của Bộ trưởng Bộ Tài chính như sau: 3.1 Bảo hiểm cho khách du lịch trong nước Theo tổng cục du lịch Việt Nam định nghĩa : khách du lịch trong nước : “khách du lịch trong nước là công dân Việt Nam rời khỏi nơi ở thường xuyên của mình có sử dụng dịch vụ lưu trú qua đêm của tổ chức kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam” Đối tượng bảo hiểm : Đối tượng bảo hiểm trong trường hợp này là tính mạng và tình trạng sức khoẻ của khách du lịch (không có tài sản ). Khách du lịch gồm: + Những người Việt Nam đi tham quan, nghỉ mát, tắm biển, leo núi… hoặc nghỉ tại khách sạn, nhà hàng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. + Trường hợp người được bảo hiểm khảo sát, thám hiểm, biểu diễn nguy hiểm, đua xe, đua ngựa, đua thuyền, thi đấu có tính chất chuyên nghiệp các môn (bóng đá, đấm bốc, leo núi, lướt ván)… chỉ được bảo hiểm với điều kiện đã nộp thêm phụ phí theo quy định. phạm vi bảo hiểm: 1. Các rủi ro được bảo hiểm : + Chết, thương tật thân thể do tai nạn: Tại nạn ở đây được hiểu là do một lực bất ngờ, ngoài ý muốn của người được bảo hiểm, từ bên ngoài tác động lên thân thể người được bảo hiểm và là nguyên nhân duy nhất, trực tiếp làm cho người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật thân thể. + Chết do ốm đau, bệnh tật bất ngờ trong thời hạn bảo hiểm. + Chết hoặc thương tật thân thể do người được bảo hiểm có hành động cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, của nhân dân và tham gia chống các hành động phạm pháp. 2. Các rủi ro không được bảo hiểm : + Người được bảo hiểm cố ý vi phạm pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan du lịch, chính quyền địa phương nơi du lịch. + Hành động cố ý của người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp. + Điều trị hoặc sử dụng thuốc không theo chỉ dẫn của y, bác sĩ điều trị. + Chiến tranh. Hình thức bảo hiểm : 1. Bảo hiểm chuyến: Các tập thể có yêu cầu tham gia bảo hiểm chuyến, PJICO ký hợp đồng bảo hiểm với các tập thể kèm theo danh sách các cá nhân được bảo hiểm. Trong trường hợp tham gia bảo hiểm cá nhân, PJICO cấp giấy chứng nhận cho từng cá nhân. Phí do người tham gia bảo hiểm hoặc đại diện cho người tham gia bảo hiểm nộp cho PJICO khi ký hợp đồng bảo hiểm. Bảo hiểm có hiệu lực kể từ thời điểm bắt đầu của chuyến du lịch tại nơi xuất phát và kết thúc khi chuyến du lịch hoàn thành theo thời gian và địa điểm ghi trên hợp đồng bảo hiểm. 2. Bảo hiểm tại khách sạn: + Trường hợp phí bảo hiểm được thu cùng với tiền phòng ở khách sạn, hoá đơn thu tiền phòng có phần phí bảo hiểm được coi là bằng chứng đã tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm có hiệu lực kể từ thời điểm người được bảo hiểm hoàn thành thủ tục nhận phòng tại khách sạn cho đến khi người được bảo hiểm đã làm xong thủ tục trả phòng. + Trường hợp cá nhân yêu cầu tham gia bảo hiểm tại khách sạn, PJICO cấp giấy chứng nhận cho từng cá nhân sau khi đã nộp đủ phí bảo hiểm theo quy định. Bảo hiểm có hiệu lực kể từ thời điểm người được bảo hiểm hoàn thành thủ tục nhận phòng tại khách sạn cho đến 12.00h ngày kết thúc bảo hiểm trên giấy chứng nhận bảo hiểm. 3.Bảo hiểm tại điểm: Trường hợp vé vào cửa khu du lịch có thu phí bảo hiểm được coi là hợp đồng bảo hiểm tại điểm. Bảo hiểm có hiệu lực từ khi người được bảo hiểm qua cửa kiểm soát vé để vào khu du lịch và kết thúc ngay khi người được bảo hiểm ra khỏi cửa kiểm soát đó để trở về nơi cư trú. 3.2 Bảo hiểm cho người nước ngoài du lịch Việt Nam Tổng cục du lịch Việt Nam cũng định nghĩa: khách du lịch quốc tế : “ khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến Việt Nam không quá 12 tháng với mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, hành hương, thăm viếng bạn bè người thân, tìm hiểu cơ hội đầu tư kinh doanh”. Đối tượng bảo hiểm : Bao gồm tính mạng, tình trạng sức khoẻ và hành lý mang theo của người được bảo hiểm. Trong trường hợp này PJICO nhận bảo hiểm cho người nước ngoài du lịch Việt Nam kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài gồm: + Những người vào Việt Nam tham quan, thăm viếng bạn bè, bà con, dự hội nghị, hội thảo quốc tế, đại hội, thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật, công tác. + Những người đang cư trú tài Việt Nam như chuyên gia, công nhân, học sinh, những người làm việc trong các đoàn ngoại giao, các tổ chức quốc tế khi đi du lịch trong lãnh thổ Việt Nam. + Trong trường hợp người được bảo hiểm khảo sát, thám hiểm, biểu diễn nguy hiểm, đua xe, đua ngựa, đua thuyền, thi đấu các môn thể thao có tính chất chuyên nghiệp như : bóng đá, đấm bốc, leo núi, lướt ván… chỉ được bảo hiểm với điều kiện đã nộp thêm phụ phí bảo hiểm cho PJICO theo quy định. Phạm vi bảo hiểm : 1. Các rủi ro được bảo hiểm : Gồm các rủi ro sau: + Thương tật thân thể hoặc chết do tai nạn + ốm đau hoặc chết không do tai nạn trong thời hạn bảo hiểm. + Mất, thiệt hại hành lý và vật dụng mang theo người có thể quy hợp lý do các nguyên nhân : cháy, nổ, phương tiện chuyên chở bị: đâm, va, chìm, lật đổ, rơi. + Mất nguyên kiện hành lý ký gửi theo chuyến hành trình. 2. Các rủi ro không được bảo hiểm: a.Rủi ro xảy ra do những nguyên nhân trực tiếp sau: + Người được bảo hiểm cố ý vi phạm: pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan du lịch, của chính quyền địa phương nơi du lịch. + Hành động cố ý của người được bảo hiểm hoặc người kế thừa hợp pháp. + Người được bảo hiểm bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác. + Chiến tranh. b.Các chi phí do những nguyên nhân sau: + Người được bảo hiểm phát bềnh tâm thần, mang thai (trừ trường hợp xảy thai do hậu quả của tai nạn), sinh đẻ. + Người được bảo hiểm tiếp tục điều trị vết thương hoặc bệnh tật phát sinh từ trước khi hợp động bảo hiểm có hiệu lực. + Điều trị hoặc sử dụng thuốc không theo chỉ dẫn của y, bác sĩ điều trị. c.Những thiệt hại về hành lý: + Mất vàng, bạc, đá quý, kim loại quý, tiền mặt, séc du lịch, các chứng chỉ có giá trị như tiền, hộ chiếu, bằng lái xe, vé các loại, tài liệu, chứng từ, bản vẽ, bản thiết kế. + Đồ vật bị xây xát, ướt mà không làm mất đi chức năng của nó + Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trưng thu, cầm giữ hoặc tịch thu Bảo hiểm cho người Việt Nam du lịch nước ngoài Đối tượng bảo hiểm Bao gồm tính mạng, tình trạng sức khoẻ và tài sản, hành lý mang theo của người được bảo hiểm. PJICO nhận bảo hiểm cho công dân Việt Nam ra nước ngoài nghỉ mát, tham quan, thăm viếng bạn bè, bà con, dự các hội nghị quốc tế, đại hội, thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật, làm việc… theo các hình thức: + Tập thể đi thành đoàn có tổ chức và chương trình cụ thể đã định trước. +Cá nhân. Trong trường hợp người được bảo hiểm khảo sát, thám hiểm, biểu diễn nguy hiểm, đua xe, đua ngựa, đua thuyền, thi đấu các môn thể thao có tính chất chuyên nghiệp như : bóng đá, đấm bốc, leo núi, lướt ván… chỉ được bảo hiểm với điều kiện đã nộp thêm phụ phí bảo hiểm cho PJICO theo quy định. Phạm vi bảo hiểm : 1. Các rủi ro được bảo hiểm gồm: + Thương tật thân thể do tai nạn + ốm đau hoặc chết không do tai nạn trong thời hạn bảo hiểm + Mất, thiệt hại hành lý và vật dụng riêng mang theo người có thể quy hợp lý do các nguyên nhân: cháy, nổ, phương tiện chuyên chở bị: đâm, va, chìm,lật đổ,rơi. + Mất nguyên kiện hành lý theo chuyến hành trình. 2. Các rủi ro không được bảo hiểm gồm: a.Rủi ro xảy ra do những nguyên nhân trực tiếp sau: + Người được bảo hiểm cố ý vi phạm: pháp luật, quy định của cơ quan tổ chức đi du lịch. + Hành động cố ý của người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp. + Người được bảo hiểm bị ảnh hưởng của rượu, bia và các chất kích thích tương tự khác. + Chiến tranh b.Những chi phí phát sinh trong các trường hợp: + Người được bảo hiểm phát bệnh tâm thần, mang thai (trừ trường hợp xảy thai do hậu quả của tai nạn), sinh đẻ. + Người được bảo hiểm tiếp tục điều trị vết thương hoăc bệnh tật phát sinh từ trước khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. + Điều trị hoặc sử dụng thuốc không theo chỉ dẫn của y, bác sĩ điều trị. c. Những thiệt hại về hành lý trong các trường hợp: + Mất vàng, bạc,đá quý, kim loại quý, tiền mặt, séc, hộ chiếu, bằng lái xe, vé các loại, chứng từ có giá trị như tiền, tài liệu, bản vẽ, bản thiết kế. + Đồ vật bị xây sát, ướt mà không làm mất đi chức năng của nó. + Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trưng thu, cầm giữ hoặc tịch thu. III.Các điều kiện để đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm du lịch ở Việt Nam Thị trường du lịch Việt Nam và nhu cầu của khách du lịch. Đây chính là điều kiện tiên quyết và cơ bản nhất cho sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch. Du lịch không phải là nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu đó chỉ nảy sinh khi các nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ở… đã được thoả mãn. Chính vì thế, thì trường du lịch luôn phát triển song song với sự phát triển kinh tế của các nước. Nền kinh tế càng phát triển, đời sống của người dân càng được nâng cao thì thị trường du lịch cũng càng mở rộng và lớn mạnh. Nước ta trong những năm gần đây, bộ mặt của nền kinh tế thay đổi từng ngày. Thị trường du lịch cũng có những bước tiến rõ rệt, lượng khách du lịch trong nước cũng như quốc tế tăng mạnh qua các năm. Trước hết, ta nhìn vào lượng khách nội địa, là lượng khách chủ yếu của thị trường du lịch và cũng là một bộ phận khách hàng chủ yếu trong số khách hàng mua bảo hiểm du lịch tại các công ty bảo hiểm. PJICO chính thức thành lập vào năm 1995, thì từ năm 1995 trở lại đây, lượng khách du lịch nội địa đã tăng hơn 2,5 lần. Ta có thể thấy được sự tăng trưởng này qua biểu 1 sau: Biểu 1: lượng khách du lịch nội địa tại việt nam trong thời gian qua Năm Kháchdu lịch nội địa ( lượt khách) Mức tăng trưởng (%) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 5.500.000 6.500.000 8.500.000 9.600.000 10.000.000 12.000.000 13.500.000 - 18.2 30.77 12.9 4.2 20.0 12.5 Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam Không những lượng khách du lịch tăng mạnh trong cả nước, mà riêng trên địa bàn Hà Nội – là nơi mà PJICO triển khai kinh doanh nhiều nhất, thì lượng khách nội địa cũng tăng đáng kể. Điều đó thể hiện qua biểu 2: Biểu 2: lượng khách du lịch nội địa trên địa bàn hà nội. Năm Khách du lịch nội địa (lượt người) Mức tăng trưởng (%) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 311.600 705.230 818.180 900.000 935.000 2.000.000 - 126,32 16,02 10,00 3,9 113,9 Nguồn : Sở du lịch Hà Nội Như vậy có thể thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của khách du lịch nội địa trong cả nước nói chung và địa bàn Hà Nội nói riêng là một điều kiện hết sức thuận lợi để các công ty bảo hiểm có thể triển khai thành công nghiệp vụ bảo hiểm du lịch. Có khách du lịch mới có bảo hiểm du lịch và khách du lịch có tăng thì bảo hiểm du lịch mới có thể phát triển mở rộng. Hơn nữa, không chỉ có khách du lịch nội địa, mà có thể thấy khách du lịch quốc tế tới Việt Nam cũng tăng mạnh trong những năm gần đây. Cùng với việc mở cửa thị trường, hoà chung vào dòng chảy văn hoá - kinh tế – xã hội của cả thế giới, chúng ta lại có hàng loạt các danh lam thắng cảnh, di tích văn hoá lịch sử nổi tiếng như Hạ Long, Huế, Hội An va hàng loạt các điểm đến ở thủ đô Hà Nội… Dòng chữ : “Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới đã trở nên quen thuộc trong con mắt của du khách quốc tế cũng như Việt Nam”. Không những thế, Việt Nam được công nhận là “điểm đến an toàn nhất của khu vực Châu á - Thái Bình Dương” và mới đây lại được đánh giá là “điểm đến thân thiện nhất để đi du lịch của khu vực Châu á - Thái Bình Dương”. Chỉ trong năm 2001, toàn ngành đã đón 2,336 triệu lượt khách du lịch quốc tế, vượt 5.9% mức kế hoạch đề ra và tăng 8.9% so với năm 2000. Riêng khu vưc Hà Nội năm 2001 đã đón 694.369 lượt khách quốc tế, tăng 62,5% so với năm 2000. Ta có thể thấy được sự gia tăng của lượng khách du lịch quốc tế tới Việt Nam qua biểu 3 sau: Biểu 3: khách du lịch quốc tế tới Việt Nam Năm Khách du lịch quốc tế ( lượt người) Thị phần so với thế giới (%) 1985 1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 40.000 250.000 1.350.000 1.607.000 1.716.000 1.520.000 1.781.000 2.145.000 2.336.000 0,04 0,05 0,24 0,27 0,28 0,24 0,27 0,3 0,3 Nguồn: Ngân hàng thế giới (WB) Từ biểu trên ta có thể quan sát được sự tăng trưởng mạnh mẽ của lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Nếu ở thời điểm năm 1985 lượng khách du lịch quốc tế tới Việt Nam mới chỉ là 40.000 lượt người, thì tới năm 1995 đã là 1.350.000 lượt người và đạt tới 2.336.000 lượt người trong năm 2001. Lượng khách quốc tế tới Việt Nam tăng nhanh không chỉ ở con số tuyệt đối mà còn tăng nhanh cả về tương đối so với cả thị trường du lịch thế giới. Nếu như năm 1985 lượng khách quốc tế chỉ chiếm 0,04% lượng khách du lịch quốc tế toàn thế giới thì đến năm 1995 đã là 0,24. Tính đến nay, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đã chiếm 0,3% lượng khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới và chiếm 1,8% khu vực Đông á. Nếu Việt Nam vẫn tiếp tục chiếm thị phần như vậy thì dự tính đến năm 2020 khách du lịch quốc tế tới Việt Nam sẽ đạt 12 triệu lượt khách. Mặt khác, khách du lịch quốc tế tới Việt Nam đã tăng trung bình là 9,7% trong những năm gần đây. Nếu vẫn giữ nguyên tỷ lệ tăng trưởng này thì tính đến năm 2020 lượng khách du lịch quốc tế tới Việt Nam sẽ là 13,8 triệu lượt người. Nếu tỷ lệ tăng chỉ bằng một nửa so với con số 9.7 thì lượng khách quốc tế tới Việt Nam năm 2020 cũng là 8,8 triệu người. Ta có bảng dự báo lượng khách quốc tế tới Việt Nam trong những năm gần đây như sau: Biểu 4: dự báo lượng khách quốc tế tới Việt Nam trong thời gian tới Đơn vị: Lượt khách Năm Khách quốc tế 2000 2005 2010 2015 2020 2.145.000 2.650.000 4.129.000 5.549.000 8.077.000 Nguồn: Ngân hàng thế giới ( WB) Như vậy, với sự phát triển mở rộng của thị trường du lịch Việt Nam – lại trong điều kiện nước ta đang tập trung vào ưu tiên phát triển ngành du lịch, với sự khôi phục, tôn tạo và bảo vệ hàng loạt các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử, văn hoá… Điều kiện quan trọng và cơ bản nhất cho các công ty bảo hiểm phi nhân thọ tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm du lịch đã có. Không những thế, thị trường du lịch phát triển đồng nghĩa với lượng khách du lịch nội địa và quốc tế tăng lên không ngừng như đã thấy ở trên. Và tất yếu, nhu cầu mua bảo hiểm du lịch của khách du lịch cũng tăng lên rõ rệt cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Điều đó có nghĩa, không những lượng khách du lịch mua bảo hiểm du lịch hàng năm của các công ty bảo hiểm tăng hàng năm mà tỷ lệ khách mua bảo hiểm du lịch trong tổng số du khách hàng năm cũng tăng. Điều này có thể giải thích được là do trình độ dân trí của người dân ngày một nâng cao, mà nhu cầu bảo hiểm luôn phát triển song song với trình độ dân trí. Hơn nữa, khách du lịch cũng ngày càng có xu hướng đi xa hơn, dài ngày hơn… nên nhu cầu mua bảo hiểm cũng cao hơn. Đặc biệt với khách du lịch quốc tế, việc mua bảo hiểm du lịch nhiều khi là điều kiện tối thiểu phải có để họ có thể bắt đầu chuyến du lịch. Như vậy, với một hệ thống pháp luật khá đầy đủ cho phép các công ty bảo hiểm kinh doanh trên lĩnh vực bảo hiểm (quy định rõ ràng trong luật kinh doanh bảo hiểm), cùng với một thị trường du lịch đang phát triển lớn mạnh và nhiều tiềm năng, nhu cầu được bảo hiểm của khách du lịch không ngừng tăng lên… Những yếu tố khách quan cho việc triển khai và đẩy mạnh nghiệp vụ bảo hiểm du lịch đã có. Điều còn lại chỉ phụ thuộc vào điều kiện chủ quan của chính các công ty bảo hiểm. Khả năng của các công ty bảo hiểm. Thứ nhất, phải xét đến điều kiện tài chính của các công ty. Mỗi công ty bảo hiểm khi mới thành lập đều phải có một lượng vốn tối thiểu theo quy định của Nhà nước. Từ đó, các công ty bắt đầu triển khai các nghiệp vụ của mình và tiến hành lập các quỹ dự trữ, dự phòng… Cũng như các nghiệp vụ khác, để có thể tiến hành được nghiệp vụ bảo hiểm du lịch, các công ty bảo hiểm phải tiến hành trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ… đủ lớn để có thể bồi thường cho khách hàng bất cứ lúc nào khi không may xảy ra rủi ro. Kế đó, các công ty bảo hiểm cũng phải có một đội ngũ cán bộ công nhân viên đủ lớn để thực hiện tốt nghiệp vụ. Vì với nghiệp vụ này, nhiều khi không phải khách hàng tìm đến với công ty mà là công ty phải tìm đến với khách hàng, nên các công ty bảo hiểm phải có một đội ngũ cán bộ công nhân viên đủ lớn để có thể tiến hành các công việc như khảo sát thị trường, tiếp cận khách hàng, sau đó lại tiến hành các khâu bồi thường, giám định, đề phòng – hạn chế tổn thất… Hiện nay ở nước ta hầu hết các công ty bảo hiểm đều chưa có cán bộ trực tiếp thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm du lịch mà nó mới chỉ được thực hiện đồng thời với các nghiệp vụ khác trong phòng bảo hiểm phi hàng hải. Thế nên, bảo hiểm du lịch vẫn chưa phát triển thực sự đúng với tiềm năng của nó. Một yếu tố cũng ảnh hưởng khá lớn đến việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm du lịch nói riêng và các tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm khác nói chung đó chính là uy tín của công ty bảo hiểm trên thị trường. Uy tín của công ty bảo hiểm có thể có được do sức mạnh về tài chính, tuổi đời của công ty, nhưng cũng có thể có được từ thái độ chăm sóc, bồi thường… cho khách hàng của công ty. Hiện nay, Bảo Việt vẫn là công ty có “tiếng nói” lớn hơn cả trong ngành bảo hiểm Việt Nam, nhưng Bảo Việt không còn độc quyền như trước đây nữa. PJICO, tuy mới thành lập được hơn 6 năm, nhưng đã dần khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Điều đó thể hiện băng việc thị phần của PJICO trên thị trường bảo hiểm tăng dần và hiện nay PJICO đang đứng thứ 3 về thị phần trong toàn bộ các công ty bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam. Hơn nữa, địa bàn hoạt động của PJICO lại tập trung chủ yếu ở Hà Nội- nơi hoạt động du lịch đang phát triển mạnh những năm gần đây. Tất cả những điều đó đều hết sức thuận lợi cho PJICO đẩy mạnh việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm du lịch của mình. Chương II: tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại PJICO I.sơ lược chung về PJICO 1.Lịch sử ra đời Xuất phát từ chủ trương phát triển nền kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong đó nổi bật là chủ trương cổ phần hoá và phát triển các công ty cổ phần theo luật công ty 1990, đồng thời xuất phát từ chính sách mở cửa, phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam – một thị trường mà cho tới trước năm 1994 vẫn còn do Nhà nước độc quyền và chưa phát triển - thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đã có thêm một số doanh nghiệp mới. Ngoài tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt ) còn có nhiều công ty bảo hiểm khác như công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long), công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVIC), công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện PTI… Cũng trên đà đó, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex đã được thành lập theo NĐ100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ, theo giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số 06-TC/GCN ngày 17/5/1995 của Bộ Tài chính, Giấy phép thành lập số 1873/GP-UB ngày 18/6/1995 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060256 ngày 15/6/1995 của Uỷ ban kế hoạch (nay là Sở kế hoạch - Đầu tư ) thành phố Hà Nội. (Công ty có tên giao dịch là PJICO, tên gọi tiếng Anh là: PETROLIMEX JOIN- STOCK INSURANCE COMPANY,viết tắt là PJICO) Như vậy, PJICO là công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên ra đời theo NĐ100/CP của Chính phủ. PJICO chịu trách nhiệm hữu hạn, thuộc sở hữu của các cổ đông, có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính, hạch toán kinh tế độc lập, có con dấu riêng theo mẫu quy định của Nhà nước. PJICO thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Hiện nay, PJICO có trụ sở chính tại 22 Láng Hạ - Đống Đa – Hà Nội. Trụ sở chính của PJICO có đầy đủ tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, có con dấu riêng, có bảng cân đối tài sản, tự chủ về tài chính, chịu trách nhiệm về mọi mặt trước pháp luật. Vốn đầu tư của PJICO do các cổ đông thành viên tự nguyện đóng góp bằng tiền vốn của mình và một phần do phát hành cổ phiếu trên thị trường. Biểu 5: Các sáng lập viên và tỷ lệ đóng góp vốn đầu tư (Năm 1995) Đơn vị Tỷ lệ (%) Vốn góp (triệu đồng) Cổ phiếu (tờ) 1.Tổng công ty xăng dầu Việt Nam 2. Ngân hàng công thương Việt Nam 3. Tổng công ty thép Việt Nam 4. Công ty tái bảo hiểm quốc gia 5. Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ 6. Công ty thiết bị an toàn 7. Công ty điện tử Hà Nội 8. Cá nhân 51 10 6 8 3 0.5 2 19.5 28050 5500 3300 4400 1650 275 1100 10725 4025 2750 1650 2200 825 138 550 5362 Nguồn: Tổng công ty PJICO Tổng vốn đầu tư của PJICO là 55 tỷ đồng Việt Nam. Trong đó, vốn điều lệ là 53 tỷ đồng Việt Nam, tiền ký quỹ là 2 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư được chia thành 27.500 cổ phần, mệnh giá cổ phiếu là 2.000.000 (hai triệu đồng Việt Nam ). PJICO có thời hạn hoạt động là 25 năm kể từ ngày được cấp giấy phép hoạt động, hết thời hạn, nếu muốn tiếp tục hoạt động thì PJICO phải xin ra hạn. 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của PJICO 2.1 Các nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm Hiện nay, PJICO đang thực hiện kinh doanh các nghiệp vụ sau: Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải. Gồm: Bảo hiểm thân tàu Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển, đường bộ và đường hàng không. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu Bảo hiểm nhà thầu đóng tàu Bảo hiểm tàu sông, tàu cá Nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng hải. Gồm: Bảo hiểm xe cơ giới Bảo hiểm kết hợp con người Bảo hiểm học sinh, giáo viên Bảo hiểm khách du lịch Bảo hiểm hành khách Nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và tài sản. Gồm Bảo hiểm mọi rủi ro về xây dựng và lắp đặt Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp Bảo hiểm máy móc Bảo hiểm trách nhiệm Bảo hiểm hỗn hợp tài sản cho thuê mướn Nghiệp vụ tái bảo hiểm. PJICO nhượng và nhận tái bảo hiểm các nghiệp vụ bảo hiểm Các hoạt động khác Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm : Giám định, điều tra, tính toán phân bổ tổn thất, đại lý giám định, xét giải quyết bồi thường và truy đòi người thứ ba. Hợp tác đầu tư tín dụng, liên doanh liên kết với các bạn hàng trong và ngoài nước. 2.2 Kết quả hoạt động kinh doanh. Theo kết quả báo cáo kinh doanh hàng năm của tổng công ty, trong hơn 6 năm qua, tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân của PJICO là 39%/ năm. Đây là mức tăng trưởng tương đối cao so với nhiều doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp và mới mẻ của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm. PJICO cũng luôn hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch do hội đồng quản trị giao. Năm 1996 hoàn thành 120% kế hoạch; Năm 1997 hoàn thành 124% kế hoạch; Năm 1998 hoàn thành 113,4% kế hoạch; Năm 1999 đạt mức 100% kế hoạch; Năm 2000 đạt 114% kế hoạch. Ngay sau khi thành lập, PJICO đã nhanh chóng triển khai rộng rãi các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ hiện có đến các đối tượng khách hàng trong, ngoài cổ đông, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Công ty đang thực hiện hơn 400 nghiệp vụ bảo hiểm trong các lĩnh vực hàng hải, tài sản, hoả hoạn, xây dựng lắp đặt, xe cơ giới, con người. Số lượng khách hàng của PJICO ngày càng tăng lên, bao gồm hàng loạt các khách hàng lớn nhỏ thuộc mọi ngành nghề, lĩnh vực,tổ chức, cá nhân trong cả nước cũng như nước ngoài. Nhiều khách hàng lớn, nhiều dịch vụ công trình lớn thuộc nhiều lĩnh vực vực đã được bảo hiểm tại PJICO như : Phần lớn các đội tàu chở dầu lớn của các hãng tàu Việt Nam, nhà máy thuỷ điện sông Hinh, đường dây tải điện Hàm Thuận - Đami, đường quốc lộ số 1, đường quốc lộ số 5, cầu Hàm Rồng, Phú Lương, Khách sạn DEAWOO, toà nhà HITC, hành khách đường sắt Việt Nam. Tính đến nay, trung bình hàng năm PJICO nhận trách nhiệm bảo hiểm tổng giá trị tài sản khoảng 200 ngàn tỷ đồng. Do vậy, PJICO đặc biệt quan tâm đến vấn đề kinh doanh tái bảo hiểm. Nhiều công trình có giá trị lớn từ 1000 tỷ đồng đến 2000 tỷ đồng vẫn được khách hàng tham gia bảo hiểm với PJICO là nhờ vào mạng lưới quan hệ quốc tế và các nhà tái bảo hiểm trên thế giới đứng sau hỗ trợ. Từ năm 1996 đến nay, PJICO đã chủ động xây dựng phương án tái bảo hiểm hàng năm, mở rộng quan hệ tái bảo hiểm trực tiếp với hàng chục công ty tái bảo hiểm lớn trên thế giới như : Munich Re, Cologne Re, Harford Re, Hannover Re, Willis Faber, Lloy’d… nhằm đảm bảo cho PJICO trong kinh doanh. Hơn nữa, với nguồn vốn nhàn rỗi của mình, mặc dù môi trường đầu tư ở Việt Nam còn hạn hẹp, rủi ro cao nhưng PJICO vẫn luôn chú trọng và sử dụng tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư sao cho vừa có hiệu quả, vừa an toàn. Kết quả, doanh thu đầu tư của PJICO qua các năm tăng trưởng không ngừng (năm 1995 thu 2,925 tỷ đồng, năm 1996 thu 5,304 tỷ đồng, năm 1997 thu 6,060 tỷ đồng, năm 1998 thu 6,512 tỷ đồng, năm 1999 thu 8,037 tỷ đồng và năm 2000 là 8,890 tỷ đồng). Và mặc dù rủi ro cao nhưng PJICO vẫn chưa để xảy ra sự cố nào trong hoạt động đầu tư của mình. Với kết quả của các hoạt động kinh doanh đem lại, hàng năm PJICO đã chi trả lãi cổ tức cho các cổ đông bình quân là 1,2%/năm, cao gấp 1,5 – 2 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng. PJICO cũng luôn thực hiện tốt nghĩa vụ đóng thuế vào ngân sách Nhà nước. Mặc dù mới ra đời và cũng không được hưởng nhiều các chính sách ưu đãi của Nhà nước nhưng sau hơn 6 năm hoạt động PJICO luôn nộp thuế đúng hạn và đầy đủ, đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước được trên 50 tỷ đồng. Cũng như mọi doanh nghiệp khác, bên cạnh những thuận lợi, những thành công đạt được trong lĩnh vực kinh doanh, PJICO cũng không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Có những khó khăn là khó khăn chung của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam, do những yếu tố khách quan như luật pháp, điều kiện kinh tế… đem lại. Cũng có những khó khăn mà chỉ riêng có của PJICO như đội ngũ cán bộ công nhân viên còn chưa đủ mạnh, chế độ hạch toán phụ thuộc ở một số chi nhánh văn phòng còn gây nên sự chậm chạp trong khâu bồi thường, chi trả… Nhưng PJICO vẫn đang cố gắng để khắc phụ những khó khăn đó, từng bước tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường và củng cố cho uy tín, vị thế của PJICO ngày càng vững chắc hơn. II. vài nét về thị trường bảo hiểm du lịch Việt Nam Như đã trình bày, bảo hiểm du lịch là một nghiệp vụ thuộc nhóm bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại. Tiền thân của bảo hiểm du lịch là bảo hiểm tai nạn cho khách du lịch, được triển khai cùng với những nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ khác như bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm toàn diện học sinh, bảo hiểm tai nạn 24/24. Đến năm 1987 bảo hiểm du lịch được tách ra thành một nghiệp vụ bảo hiểm độc lập. Đây là bước phát triển quan trọng trong lĩnh vực bảo hiểm con người. Bảo hiểm du lịch tách riêng ra đã đáp ứng được một lượng nhu cầu lớn của du khách, cũng như tiềm năng phát triển du lịch trong tương lai. Ngày 28/02/1987 Bộ tài chính đã ban hành Quy tắc Bảo hiểm khách du lịch trong nước theo quyết định số 69/TC – BH đánh dấu một bước phát triển mới của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch. Ngày 7/4/1989 Bộ tài chính ban hành quy tắc nghiệp vụ bảo hiểm người nước ngoài du lịch Việt Nam. Điều này giúp công ty bảo hiểm mở rộng nghiệp vụ bảo hiểm du lịch cho tất cả các đối tượng khách du lịch trong và ngoài nước. Đến ngày 02/01/1993 Bộ tài chính đã ban hành quy tắc thống nhất về bảo hiểm du lịch. Đây là quy tắc bảo hiểm đầy đủ cho các đối tượng khách du lịch: Khách du lịch nội địa, người nước ngoài du lịch Việt Nam, người Việt Nam du lịch nước ngoài với đầy đủ các điều khoản và biểu phí hoàn chỉnh. Tuy nhiên, cho đến trước năm 1993 thì nghiệp vụ bảo hiểm du lịch nói riêng và toàn bộ thị trường bảo hiểm nói chung hoạt động hết sức đơn điệu, trên thị trường chỉ có một mình Bảo Việt độc quyền hoạt động. Nhưng từ sau khi nghị định 100CP ra đời ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm đã chấm dứt thời kỳ độc quyền của Bảo Việt. Các công ty bảo hiểm thuộc nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau đã ra đời, đầu tiên là với sự xuất hiện của Bảo Minh vào ngày 18/11/1994, tiếp sau đó là PJICO, Bảo Long, PVIC… Thị trường bảo hiểm đã trở nên hết sức sôi động, các công ty bảo hiểm bắt đầu bước vào một cuộc cạnh tranh hết sức gay gắt. Kết quả của quá trình ấy là sự giảm dần thị phần của Bảo Việt và sự tăng thị phần khá nhanh chóng của một số công ty bảo hiểm khác như Bảo Minh, PJICO, PVIC… Cho đến nay, đã có 10 công ty bảo hiểm thuộc các loại hình doanh nghiệp khác nhau đã và đang kinh doanh trên lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Trong đó, PJICO tuy vẫn còn khá nhỏ bé bên cạnh “người khổng lồ” Bảo Việt, nhưng công ty cũng có những bước tiến đáng khích lệ trong việc chiếm lĩnh thị trường. Điều đó thể hiện qua việc tăng nhanh thị phần của PJICO qua các năm và sau hơn 6 năm hoạt động, PJICO đã trở thành công ty bảo hiểm lớn thứ 3 trên lĩnh vực phi nhân thọ. Ta có thể thấy được sự thay đổi về tỷ lệ chiếm lĩnh thị phần của các công ty trên lĩnh vực phi nhân thọ từ năm 1995 đến năm 2000 qua biểu 6 như sau: Biểu 6 : Thị phần của các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam các năm qua ( Lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ) Đơn vị: % Tên công ty Năm 95 Năm 96 Năm 97 Năm 98 Năm 99 Năm 2000 Bảo Việt Bảo Minh PVIC Bảo Long PJICO VIA UIC PTI BIDV- QBE Allianz-AGF 82,92 15,54 --- 1,54 --- --- --- --- --- 69,06 20,28 4,96 1,49 4,08 --- --- --- --- --- 63,45 21,15 6,64 1,71 5,89 1,1 --- --- --- --- 60,90 22,28 6,76 1,28 5,8 1,09 1,62 0,27 --- --- 56,86 24,52 4,80 1,52 5,78 1,69 1,94 2,80 0,09 --- 50,9 25,1 5,0 1,4 6,4 2,4 2,4 4,0 0,4 2,0 Nguồn: Tổng kết cuối năm 2000 của VINARE Cũng như trên toàn bộ thị trường bảo hiểm nói chung, thị trường bảo hiểm du lịch nói riêng cũng có sự cạnh tranh khá gay gắt giữa các công ty bảo hiểm cùng triển khai nghiệp vụ này. Hiện nay, trên thị trường Việt Nam có 6 công ty bảo hiểm cùng cung cấp sản phẩm bảo hiểm du lịch đó là: Bảo Việt, Bảo Minh, Bảo Long, PTI, PVIC và PJICO. Theo ước tính của các chuyên gia nghiên cứu về thị trường bảo hiểm Việt Nam thì doanh số của phí thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm du lịch ở Việt Nam còn thấp, chỉ dừng ở khoảng chừng 3 tỷ hoặc hơn 3 tỷ một năm, một con số có thể coi là rất nhỏ so với doanh số thu phí từ các nghiệp vụ khác trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay, mặc dù rằng doanh số của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch cũng có sự gia tăng đáng kể trong các năm qua. Trong số hơn 3 tỷ doanh thu đó, Bảo Việt chiếm khoảng 50% thị phần, Bảo Minh chiếm khoảng 30%, 20% còn lại là do các công ty khác nắm giữ trong đó PJICO chiếm khoảng 9% thị phần. Như vậy, mặc dù có những bước tiến đáng kể nhưng vẫn không thể phủ nhận rằng doanh thu phí bảo hiểm du lịch của bảo hiểm Việt Nam còn thấp, bảo hiểm du lịch chưa phải là một nghiệp vụ mạnh của các công ty bảo hiểm. Sở dĩ như vậy vì mức đền bù cho khách du lịch còn thấp và lượng khách nội địa cũng như quốc tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới là chưa đông. Mức đền bù cao nhất cho khách nước ngoài du lịch vào Việt Nam là 100 triệu đồng/người/lần. Trong khi đó mức đền bù cao nhất cho khách du lịch trong nước chỉ khoảng 50 triệu đồng. Tại Bảo Việt hay PJICO thì mức đền bù cũng tương tự, cao nhất chỉ là 10.000 USD (khoảng 150 triệu đồng Việt Nam) cho khách du lịch quốc tế. Hơn nữa, hiện nay hầu hết các công ty bảo hiểm trong nước chưa cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho người Việt Nam đi du lịch nước ngoài hoặc có cung cấp thì cũng rất ít khách hàng tham gia. Đây là một sự lãng phí vì đối tượng này thường là những người có thể mua bảo hiểm với mức phí cao để được đền bù xứng đáng khi gặp rủi ro. Lý do của việc này chính là do các công ty bảo hiểm Việt Nam đa phần chưa triển khai được các dịch vụ cần thiết cho khách du lịch Việt Nam khi ở nước ngoài, ví như cung cấp dịch vụ cấp cứu khẩn cấp, dịch vụ y tế hữu hiệu, dịch vụ luật sư tư vấn, dịch vụ cảnh sát cứu trợ, dịch vụ đền bù nhanh… Một điểm yếu nữa của sản phẩm bảo hiểm du lịch của các công ty bảo hiểm nước ta khiến thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa thể phát triển mạnh mẽ thực sự được là trong khi sản phẩm bảo hiểm du lịch ở nước ngoài khá phong phú và tạo nhiều tiện ích cho khiến cho người mua an tâm thì các sản phẩm bảo hiểm du lịch bán trong nước lại quá đơn giản. Mặc dù bản mô tả sản phẩm của các công ty bảo hiểm đều nói rằng bảo hiểm sẽ bảo hiểm cho mọi rủi ro, tai nạn bất ngờ gây thương tích, thương tật hay thiệt mạng trong suốt hành trình trên lãnh thổ Việt Nam với người Việt Nam du lịch trong nước và thêm một điều khoản cùng với điều khoản đã nói ở trên là bảo hiểm hư hỏng mất mát hành lý do tai nạn với người nước ngoài du lịch tại Việt Nam và người Việt Nam đi du lịch nước ngoài. Nhưng vấn đề là ở chỗ, hạn mức bồi thường quá nhỏ chỉ từ khoảng từ 20 triệu đến 150 triệu đồng Việt Nam cho người và từ khoảng từ 5 triệu đến 15 triệu đồng Việt Nam cho hành lý. Với những công ty du lịch chỉ mua ở mức phổ thông là từ 5 đến 10 triệu đồng Việt Nam cho khách du lịch trong nước thì nếu không may có rủi ro xảy ra, mức bồi thường này quá nhỏ, chỉ là một khoản an ủi. Chính vì những lý do trên nên dù phí mua bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay là thấp, nhưng việc thuyết phục các công ty lữ hành, các du khách mua bảo hiểm khi đi du lịch là một vấn đề khá khó khăn. Bởi du khách thì chưa cảm thấy cần thiết và hiệu quả, còn các công ty du lịch cũng khó lòng dám mua hạn mức cao vì nếu vậy sẽ đội giá vé các tour du lịch vốn đang bị cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Như vậy, thị trường bảo hiểm du lịch ở Việt Nam hiện nay còn khá nhỏ bé và hạn chế. Nhưng tiềm năng của thị trường là vô cùng lớn, vì vậy, tìm cách mở rộng thị trường, phát triển nghiệp vụ về cả chất lượng và số lượng là vấn đề cần quan tâm của PJICO cũng như các công ty bảo hiểm phi nhân thọ khác. III. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại PJICO Khâu khai thác Quy trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm du lịch của công ty Khai thác luôn là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào. Khâu này có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của mỗi nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng cũng như toàn công ty bảo hiểm nói chung. Đặc biệt đối với những nghiệp vụ còn non trẻ, thị trường chưa lớn như bảo hiểm du lịch thì khâu khai thác giữ vai trò sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của nghiệp vụ đó. Vì nguyên tắc quan trọng nhất trong kinh doanh bảo hiểm là nguyên tắc “số đông bù số ít”, nên các công ty bảo hiểm phải làm tốt được công tác khai thác, thu hút được một số lượng đủ lớn khách hàng, thì mới có được nguồn quỹ đủ lớn chi cho công tác bồi thường. Như vậy, khai thác không chỉ có ý nghĩa đối với công ty bảo hiểm mà nó còn có ý nghĩa xã hội rất lớn – khai thác được lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn trong xã hội, khai thác tốt mới có đủ phí để thành lập các quỹ dự trữ, dự phòng, bồi thường được cho khách hàng, ổn định tài chính cho công ty, ổn định xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của khâu khai thác, PJICO đã rất quan tâm đến việc hoàn thiện công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm du lịch. Xuất phát từ phương châm: “lấy chữ tín làm trọng, coi khách hàng là trên hết, nâng cao trình độ về chuyên môn và chất lượng phục vụ khách hàng”, kết hợp với sự đánh giá cao về tầm quan trọng của khâu khai thác, PJICO đã đề ra khẩu hiệu cho hoạt động khai thác của mình đó là: “năng động, tích cực, khoa học, nhanh và tôn trọng lợi ích của khách hàng cũng như cộng tác viên”. Ngay từ khi mới thành lập, công ty đã không ngừng mở rộng địa bàn khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch nói riêng và tất cả các nghiệp vụ khác của toàn công ty nói chung. PJICO đã đặt nhiều văn phòng đại diện ở các thành phố lớn, hàng trăm tổng đại lý đã được mở ra ở các khu vực đông dân cư, nhiều người qua lại, thuận tiện cho việc bán bảo hiểm. Tất cả nhằm đảm bảo cho khâu khai thác được thực hiện tốt nhất, triệt để nhất, bám sát khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận và tham gia bảo hiểm tại công ty. Cũng tương tự như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, quy trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm du lịch được công ty thực hiện theo một trình tự tổng thể. Sau đó, tuỳ vào đặc điểm riêng của từng nghiệp vụ, mà các bước trong quy trình sẽ được cụ thể hoá một cách thích hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Hiện nay, bảo hiểm du lịch tại PJICO được thực hiện theo một quy trình như ở sơ đồ sau: Lập kế hoạch khai thác Tuyên truyền vận động Khách hàng cũ Khách hàng mới Lập báo cáo Nhắc tái tục Chào bảo hiểm Bán bảo hiểm Nộp phí Sơ đồ 2 : Quy trình khai thác bảo hiểm du lịch tại PJICO Bước 1: Lập kế hoạch khai thác Vì du lịch là một hoạt động mang tính thời vụ nên công ty đã thực hiện việc lập kế hoạch khai thác cho từng kỳ (theo tháng, theo quý). Công việc này được tiến hành dựa vào từng điều kiện của thị trường, địa bàn hoạt động của công ty. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm du lịch, do khách du lịch tập trung nhiều vào mùa xuân và mùa hè nên công ty phải lập một kế hoạch khai thác cụ thể để có thể tập trung nguồn lực vào những tháng trọng điểm của năm. Trong quá trình lập kế hoạch khai thác, các cán bộ khai thác bảo hiểm cũng tiến hành khảo sát nhu cầu về bảo hiểm du lịch của các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp và cá nhân trong và ngoài nước. Đồng thời các cán bộ khai thác bảo hiểm cũng tiến hành khảo sát nhu cầu trực tiếp tại các khách sạn, nhà nghỉ, các địa điểm du lịch, các công ty du lịch… PJICO sẽ căn cứ vào khả năng đi du lịch và nhu cầu mua bảo hiểm của các tổ chức và cá nhân nêu trên để lập kế hoạch khai thác bảo hiểm trong năm. Kế hoạch khai thác nghiệp vụ được xây dựng chi tiết từ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của cả công ty đến nhiệm vụ, phương hướng của phòng nghiên cứu thị trường và từng khai thác viên bảo hiểm. Một trong những kế hoạch khai thác cụ thể nhất và hay được sử dụng nhất là kế hoạch về doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch nói riêng và toàn bộ doanh thu của tất cả các nghiệp vụ của mỗi văn phòng, chi nhánh phải đạt được trong một năm. Bước 2: Xây dựng và đề ra các biện pháp khai thác Khi có được kế hoạch khai thác thì từng khai thác viên bảo hiểm sẽ tự tìm ra cho mình những biện pháp cụ thể phù hợp với từng điều kiện nhất định. Giả sử đối với khách du lịch quốc tế thì phải có biện pháp khai thác khác với khách du lịch trong nước, biện pháp khai thác khách du lịch có tổ chức khác với khách du lịch cá nhân… Trong năm, công ty sẽ họp thường kỳ để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các văn phòng, tập huấn cho các khai thác viên mới về một số biện pháp khai thác để học tập và rút kinh nghiệm. Cùng với việc khai thác các cổ đông của công ty, các chi nhánh, văn phòng đều tập trung vào việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Tất cả các văn phòng, chi nhánh và đại lý của PJICO đều có một sự sáng tạo riêng trong các biện pháp khai thác trên tinh thần chung của công ty nhằm phù hợp với điều kiện riêng có của mình. Bước 3: Tổ chức khai thác Khi tiến hành khai thác, ngoài các nguyên tắc cơ bản khi tiếp xúc với khách hàng để có thể ký kết hợp đồng được dễ dàng thì các khai thác viên bảo hiểm cũng cần biết cách để thuyết phục khách hàng từ chỗ không có ý định tham gia bảo hiểm hoặc hiện không tham gia bảo hiểm tại PJICO đến chỗ quyết định mua bảo hiểm của công ty. Các khai thác viên cần đưa ra các lý lẽ hợp lý, các dẫn chứng cụ thể về các công tác bồi thường, đề phòng hạn chế tổn thất, chăm sóc khách hàng… để khách hàng có thể tin tưởng và mua bảo hiểm tại công ty. Nếu khách hàng đồng ý tham gia bảo hiểm thì khai thác viên bảo hiểm sẽ cấp giấy yêu cầu bảo hiểm cho khách hàng để họ kê khai đồng thời tiến hành các công việc như đánh giá rủi ro, xác định số tiền bảo hiểm… sau đó tiến hành chào phí cho khách hàng và thông báo cho lãnh đạo công ty để ký kết hợp đồng (trong những trường hợp cần thiết). Một trong những công việc quan trọng nhất của giai đoạn này chính là việc nhân viên khai thác chào phí cho khách hàng. Sau khi có đầy đủ các thông tin do khách hàng cung cấp, khai thác viên và cộng tác viên bảo hiểm sẽ tính phí trên cơ sở những thông tin đó. Biểu phí của PJICO phải được lập trên cơ sở quy định của Bộ tài chính. Cụ thể ta có biểu phí và số tiền bảo hiểm (STBH) cho khách du lịch được quy định trong "Quy tắc bảo hiểm cho khách du lịch" của PJICO như sau: Biểu phí và số tiền bảo hiểm cho khách du lịch trong nước: Số tiền bảo hiểm: Tuỳ theo sự lựa chọn từ 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) đến 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) Việt Nam. b. Phí bảo hiểm : Gồm: + Phí cơ bản Khách du lịch tham gia bảo hiểm chuyến hoặc ở nhà khách, khách sạn: Phí nộp = 0,015%/ STBH/ người/ ngày Khách du lịch chỉ tham gia bảo hiểm ở các khu vực du lịch: Có tắm biển, leo núi hoặc đi thuyền trên sông nước: Phí bảo hiểm = 0,010%/ STBH/ lượt người - Ngoài các trường hợp trên: Phí bảo hiểm = 0,005%/ STBH/ lượt người + Phụ phí : áp dụng cho các trường hợp người được bảo hiểm khảo sát, thám hiểm, biểu diễn nguy hiểm, đua xe, đua ngựa, đua thuyền, thi đấu có tính chất chuyên nghiệp các môn : bóng đá, đấm bốc, leo núi, lướt ván… Phụ phí = 0,1%/STBH/ người/ cuộc thi đấu/ ngày Các quy định khác về phí bảo hiểm : Nếu chuyến đi của người đươc bảo hiểm không thực hiện đúng như dự định trong thời hạn bảo hiểm do gặp phải bão, lụt, hoả hoạn, động đất hoặc đường xá, cầu cống, phương tiện chuyên chở bị hư hỏng thì thời hạn quy định trong hợp đồng bảo hiểm chuyến được tự động kéo dài cho đến khi hoàn thành chuyến đi mà không phải nộp thêm phí bảo hiểm. Tuy nhiên, thời gian này không được vượt qua 48 giờ. Nếu quá thời hạn phải báo cho văn phòng, chi nhánh PJICO gần nhất để xét bảo hiểm tiếp, tính thêm phí bảo hiểm hoặc đình chỉ bảo hiểm tuỳ từng trường hợp cụ thể. Nếu trường hợp người được bảo hiểm tự ý chấm dứt hành trình du lịch thì hiệu lực của bảo hiểm chuyến cũng kết thúc ngay tại thời điểm chấm dứt đó và PJICO không có trách nhiệm hoàn phí. Trường hợp xin gia hạn giấy chứng nhận bảo hiểm tại khách sạn thì người được bảo hiểm phải nộp thêm phí bảo hiểm trước khi hết hạn ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Trường hợp một trong hai bên đề nghị huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, phải thông báo cho bên kia biết trước 24 giờ. Nếu hợp đồng được hai bên thoả thuận huỷ bỏ thì phí bảo hiểm của thời gian còn lại sẽ được hoàn trả 80% với điều kiện, đến thời điểm đó, người được bảo hiểm chưa lần nào được PJICO chấp nhận trả tiền bảo hiểm. Biểu phí và STBH đối với người nước ngoài du lịch Việt Nam: Số tiền bảo hiểm (STBH): Tuỳ theo sự lựa chọn của người tham gia bảo hiểm. Bằng ngoại tệ (USD) Về người: Từ 1000 USD đến 10.000 USD/người. Về hành lý : Bằng 10% STBH về người. Bằng đồng Việt Nam: Về người : Từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng/người Về hành lý : Bằng 10% STBH về người. b.phí bảo hiểm : + Phí cơ bản : Thời hạn bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm 1 người/ngày trên số tiền bảo hiểm về người Từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 10 0,015% Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20 0,012% Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 60 0,010% Từ ngày thứ 61 đến ngày thứ 90 0,008% Từ ngày thứ 91 trở đi 0,005% + Phụ phí : áp dụng cho các trường hợp người được bảo hiểm khảo sát, thám hiểm, biểu diễn nguy hiểm, đua xe, đua ngựa, đua thuyền, thi đấu có tính chất chuyên nghiệp các môn : bóng đá, đấm bốc, leo núi, lướt ván… Phụ phí = 0,1%/STBH/người/cuộc thi đấu/ngày c.Các quy định khác về phí bảo hiểm : 1. Nếu chuyến đi của người đươc bảo hiểm không thực hiện đúng như dự định trong thời hạn bảo hiểm do gặp phải bão, lụt, hoả hoạn, động đất hoặc đường xá, cầu cống, phương tiện chuyên chở bị hư hỏng thì thời hạn quy định trong hợp đồng bảo hiểm chuyến được tự động kéo dài cho đến khi hoàn thành chuyến đi mà không phải nộp thêm phí bảo hiểm. Tuy nhiên, thời gian này không được vượt qua 48 giờ. Nếu quá thời hạn phải báo cho văn phòng, chi nhánh PJICO gần nhất để xét bảo hiểm tiếp, tính thêm phí bảo hiểm hoặc đình chỉ bảo hiểm tuỳ từng trường hợp cụ thể. 2. Nếu trường hợp người được bảo hiểm tự ý chấm dứt hành trình du lịch thì hiệu lực của bảo hiểm chuyến cũng kết thúc ngay tại thời điểm chấm dứt đó và PJICO không có trách nhiệm hoàn phí. 3. Trường hợp xin gia hạn giấy chứng nhận bảo hiểm tại khách sạn thì người được bảo hiểm phải nộp thêm phí bảo hiểm trước khi hết hạn ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. 4. Trường hợp một trong hai bên đề nghị huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, phải thông báo cho bên kia biết trước 24 giờ. Nếu hợp đồng được hai bên thoả thuận huỷ bỏ thì phí bảo hiểm của thời gian còn lại sẽ được hoàn trả 80% với điều kiện, đến thời điểm đó, người được bảo hiểm chưa lần nào được PJICO chấp nhận trả tiền bảo hiểm Biểu phí và số tiền bảo hiểm đối với người Việt Nam đi du lịch nước ngoài Số tiền bảo hiểm Tuỳ theo sự lựa chọn của người tham gia bảo hiểm Bằng ngoại tệ (USD) Về người: Từ 1000 USD đến 10.000 USD/người. Về hành lý : Bằng 10% STBH về người. Bằng đồng Việt Nam: Về người : Từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng/người Về hành lý : Bằng 10% STBH về người. Phí bảo hiểm + Phí cơ bản : Với tập thể đi thành đoàn có tổ chức và chương trình cụ thể đã định trước: Thời hạn bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm 1 người/ngày trên số tiền bảo hiểm về người Từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 10 0,012% Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20 0,010% Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 60 0,008% Từ ngày thứ 61 đến ngày thứ 90 0,007% Từ ngày thứ 91 trở đi 0,005% Với cá nhân: Thời hạn bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm 1 người/ngày trên số tiền bảo hiểm về người Từ ngày thứ 1 đến ngày thứ 10 0,015% Từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 20 0,012% Từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 60 0,010% Từ ngày thứ 61 đến ngày thứ 90 0,008% Từ ngày thứ 91 trở đi 0,005% + Phụ phí : áp dụng cho các trường hợp người được bảo hiểm khảo sát, thám hiểm, biểu diễn nguy hiểm, đua xe, đua ngựa, đua thuyền, thi đấu có tính chất chuyên nghiệp các môn : bóng đá, đấm bốc, leo núi, lướt ván… Phụ phí = 0,1%/STBH/người/cuộc thi đấu/ngày c. Các quy định khác về phí bảo hiểm : 1. Trường hợp người đi du lịch vượt quá thời gian ghi trên hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm và xin gia hạn hợp đồng bảo hiểm, đại diện người được bảo hiểm phải nộp thêm phí bảo hiểm trước khi hết hạn đã ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Nếu không xin gia hạn thì sẽ kết thúc vào 24 giờ ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm quy định. 2. Trường hợp người được bảo hiểm đang đi với tư cách là hành khách công cộng trở về nước và nếu theo dự định sẽ đến nơi trước khi kết thúc thời hạn ghi trên hợp đồng bảo hiểm, nhưng bị chậm chễ vì lý do khách quan thì thời hạn bảo hiểm được tự động kéo dài cho tới khi hành trình trở về của người được bảo hiểm chấm dứt và không phải nộp thêm phí bảo hiểm. 3. Trường hợp một trong hai bên đề nghị huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, phải thông báo cho bên kia biết trước 24 giờ. Nếu hợp đồng được hai bên thoả thuận huỷ bỏ, phí bảo hiểm của thời gian còn lại sẽ được trả 80% với điều kiện đến thời điểm đó, người được bảo hiểm chưa có lần nào được PJICO chấp nhận trả tiền bảo hiểm. Ký kết hợp đồng bảo hiểm và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm Khâu cuối cùng trong bước tổ chức khai thác bảo hiểm chính là ký kết hợp đồng bảo hiểm và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Đây là khâu đòi hỏi phải tiến hành một cách chính xác, cẩn thận. Vì vậy, khai thác viên bảo hiểm phải chuẩn bị đầy đủ các tài liệu để ký kết hợp đồng bảo hiểm và thực hiện tuần tự theo các bước sau : 1. Cán bộ bảo hiểm gửi giấy yêu cầu bảo hiểm cho đơn vị được bảo hiểm, lập làm 3 bản (gồm cả danh sách đối tượng bảo hiểm): Một bản lưu tại đơn vị được bảo hiểm Một bản lưu ở phòng Một bản lưu ở phòng kế toán tài vụ (Có mẫu kèm theo chữ ký và dấu của thủ trưởng đơn vị, phần tính phí do cán bộ của PJICO tính) 2. Khi đơn vị được bảo hiểm gửi lại giấy yêu cầu bảo hiểm và danh sách người được bảo hiểm, điều khoản thanh toán có thể bằng séc, uỷ nhiệm chi hoặc ngân phiếu… Các cán bộ bảo hiểm sẽ gửi lại đơn vị được bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm có chữ ký và dấu của PJICO và đơn vị khách hàng. 3. Hợp đồng bảo hiểm được lập thành 3 bản: 01 bản gửi cho đơn vị được bảo hiểm 01 bản lưu tại phòng bảo hiểm phi hàng hải 01 bản lưu tại phòng kế toán bảo hiểm Thời hạn bảo hiểm có hiệu lực tính từ ngày đơn vị được bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm cho PJICO và được PJICO chấp nhận cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Nếu có yêu cầu khác về thời hạn thanh toán phí, tăng giảm người tham gia bảo hiểm, điều chỉnh thời hạn bảo hiểm… thì phải được PJICO chấp nhận bằng văn bản. Đối với khách du lịch nội địa : Các tập thể có thể tham gia bảo hiểm chuyến. PJICO ký hợp đồng bảo hiểm với các tập thể kèm theo danh sách các cá nhân được bảo hiểm. Trường hợp tham gia bảo hiểm cá nhân, PJICO cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho từng cá nhân. Phí bảo hiểm do người tham gia hoặc đại diện người tham gia nộp cho PJICO khi ký hợp đồng bảo hiểm. Đối với người nước ngoài du lịch Việt Nam : PJICO cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho từng cá nhân tham gia bảo hiểm. Phí bảo hiểm do người tham gia hoặc đại diện người tham gia nộp cho PJICO khi nhận giấy chứng nhận bảo hiểm. Hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo thời gian ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Trường hợp người được bảo hiểm được PJICO cấp giấy chứng nhận trước khi vào Việt Nam, hiệu lưc của hợp đồng bảo hiểm bắt đầu từ khi làm xong thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam, và trong mọi trường hợp, người được bảo hiểm rời khỏi Việt Nam trước khi hết thời hạn ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm thì hiệu lực bảo hiểm đều kết thúc khi làm xong thủ tục xuất cảnh để rời khỏi Việt Nam. Đối với người Việt Nam đi du lịch nước ngoài : Trường hợp tham gia bảo hiểm tập thể, PJICO ký hợp đồng với tập thể kèm theo danh sách các cá nhân được bảo hiểm. Trường hợp tham gia bảo hiểm cá nhân, PJICO cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho từng cá nhân. Phí bảo hiểm do người tham gia bảo hiểm hoăc đại diện cho người tham gia bảo hiểm nộp cho PJICO khi ký hợp đồng bảo hiểm. Bước 4 : Kiểm tra việc giám sát quá trình khai thác bảo hiểm. Việc kiểm tra, giám sát quá trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm du lịch cũng như tất cả các nghiệp vụ khác được tiến hành đồng thời ở các chi nhánh, văn phòng và tổng công ty. Tại các chi nhánh, văn phòng đại diện thì trưởng chi nhánh, văn phòng đại diện đó có nhiệm vụ tự mình kiểm tra, giám sát tình hình khai thác của các cá nhân trong phòng mình. Từ đó, thường xuyên thông báo cho công ty về tình hình khai thác của văn phòng mình theo tháng, quý, năm… Từ phía công ty, các lãnh đạo công ty cũng thường xuyên theo dõi, giám sát tình hình khai thác nghiệp vụ của các văn phòng thông qua báo cáo của các trưởng phòng. Từ đó, cán bộ công ty sẽ đưa ra các biện pháp điều chỉnh kịp thời, nâng cao hiệu quả của khâu khai thác, tránh tình trạng bị động đối với khách hàng. Bước 5 : Đánh giá rút kinh nghiệm trong công tác khai thác PJICO luôn tổ chức các buổi họp vào sáng thứ hai hàng tuần để đánh giá, rút kinh nghiệm trong hoạt động của toàn công ty. Căn cứ vào bản báo cáo của các văn phòng, các phòng nghiệp vụ, công ty sẽ tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm về hoạt động chung của các phòng và tình hình khai thác hiện đang gặp phải những khó khăn gì, những điểm cần phải sửa đổi trong quá trình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm du lịch cũng như các nghiệp vụ khác… Đồng thời cũng rút ra những bài học, những kinh nghiệm hay mà một phòng nào đó đã thực hiện tốt, để các phòng khác có thể thực hiện theo. Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại PJICO kết quả khai thác toàn công ty. Kết quả khai thác được thể hiện ở biểu sau: Biểu 7 : Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại PJICO (1995 – 2001) Năm Khách du lịch nội địa BH người Việt Nam đi du lịch nước ngoài BH người nước ngoài du lịch tại Việt Nam Tổng SNTG (người) DT (tr.đ) SNTG (người) DT (tr.đ) SNTG (người) DT (tr.đ) SNTG (người) DT (tr.đ) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 - 13.672 10.416 15.916 20.804 23.964 35.497 - 68,203 48,115 70,367 121,292 162,707 275,922 - - 22 36 39 44 57 - - 2,151 4,196 4,586 5,593 7,584 - - 13 27 40 53 51 - - 1,874 4,041 5,460 7,244 6,219 - 13.672 10.451 15.979 20.883 24.061 35.605 - 68,203 52,140 78,604 131,338 175,904 289,725 Nguồn: Tổng công ty PJICO Chú thích : SNTG : số người tham gia bảo hiểm tại PJICO DT : Doanh thu phí của nghiệp vụ Như vậy ta thấy tính từ lúc bắt đầu tiến hành triển khai nghiệp vụ bảo hiểm du lịch, trừ năm 1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực, doanh thu phí và số người tham gia bảo hiểm du lịch tại PJICO ngày càng tăng qua các năm. Đặc biệt là từ năm 1999 trở lại đây, khi Nhà nước chủ trương ưu tiên phát triển ngành du lịch Việt Nam, biến Việt Nam thành “điểm đến của thiên niên kỷ mới”, thì doanh thu phí bảo hiểm du lịch tại PJICO đã có sự gia tăng mạnh. Tính từ năm 1996, chỉ qua 6 năm triển khai, doanh thu phí bảo hiểm du lịch đã tăng gấp 4,2 lần. Mức tăng trưởng doanh thu phí của nghiệp vụ này thuộc dạng cao nhất trong các nghiệp vụ bảo hiểm đang được tiến hành triển khai tại PJICO, dù rằng doanh thu phí của nghiệp vụ này vẫn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong doanh thu toàn công ty. Mặc dù PJICO vẫn đồng thời tiến hành triển khai cả 3 loại hình bảo hiểm du lịch là bảo hiểm cho khách du lịch trong nước, bảo hiểm cho người nước ngoài du lịch Việt Nam và bảo hiểm cho người Việt Nam đi du lịch nước ngoài. Nhưng thực tế ta thấy hai loại hình bảo hiểm cho người nước ngoài du lịch Việt Nam và người Việt Nam đi du lịch nước ngoài chiếm một tỷ lệ vô cùng nhỏ trong doanh thu phí của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch. Hơn nữa, đối với hai hình thức này, số khách tham gia bảo hiểm đòi huỷ bỏ hợp đồng rất cao, vì nhiều khi họ tham gia bảo hiểm chỉ vì một quy định bắt buộc để có thể du lịch vào Việt Nam hoặc ra nước ngoài. Sau khi đóng phí và có được đơn bảo hiểm để hoàn thành những thủ tục của riêng họ, họ sẽ yêu cầu huỷ hợp đồng và nhận lại phí. Vì vậy, mặt mạnh và mối quan tâm chủ yếu của PJICO trong giai đoạn này vẫn là bảo hiểm cho khách du lịch nội địa. Ta có thể đánh giá tình hình triển khai cả nghiệp vụ bảo hiểm nói chung qua phân tích cụ thể tình hình triển khai bảo hiểm cho khách du lịch trong nước qua biểu 8 sau: Biểu 8 Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm người Việt Nam đi du lịch trong nước của PJICO Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 i. - Số khách du lịch nội địa (người) - Số khách tham gia bảo hiểm du lịch (người) - Số khách tham gia BH du lịch năm sau so với năm trước(%) - Tỷ lệ tham gia BH tại PJICO(%) II. – Doanh thu phí bảo hiểm ( nghìn đồng). - Doanh thu năm sau so với năm trước.(%) - Doanh thu phí bình quân một khách mua bảo hiểm du lịch (nghìn đồng). - Doanh thu phí các nghiệp vụ bảo hiểm con người PNT (%). - Tỷ lệ doanh thu so với tổng doanh thu của con người PNT(%) 6.500.000 13.672 - 0,21 68.230 - 4,99 6.764.842 1,006 8.500.000 10.416 76,18 0,123 48.115 70,55 4,619 12.225.136 0,394 9.600.000 15.916 145,89 0,166 70.367 146,88 4,421 14.325.081 0,494 10.000.000 20.804 136,90 0,208 121.292 127,37 5,830 17.097.929 0,709 12.000.000 23.964 115,19 0,199 162.707 134,15 6,789 16.318.308 0,997 13.500.000 35.497 150,00 0,263 275.922 169,58 7,773 19.995.565 1,38 Như vậy qua bảng trên ta thấy: Chỉ trừ năm 1997, còn số khách du lịch tham gia bảo hiểm của PJICO tăng khá nhanh qua các năm. Đặc biệt là vào năm 2001 vừa qua, số khách tham gia bảo hiểm du lịch tại PJICO đã là 35.497 người, tăng hơn 2,5 lần so với số khách tham gia năm 1996. Về tương đối, lượng khách tham gia bảo hiểm năm 2001 cũng tăng 50% so với năm 2000. Vì tốc độ tăng lượng khách du lịch nội địa trong năm 1997 so với 1996 là rất cao (từ 6,5 triệu người lên tới 8,5 triệu người), trong khi số khách tham gia bảo hiểm tại PJICO lại giảm xuống (từ 13.672 người xuống còn 10.416 người), nên tỷ lệ người tham gia bảo hiểm tại PJICO giảm mạnh trong năm 1997 (từ 0,21% năm 1996 xuống còn 0,123 vào năm 1997). Còn lại ta thấy, tỷ lệ khách du lịch tham gia bảo hiểm du lịch tại PIJICO luôn tăng đều qua các năm. Nếu như năm 1997 mới chỉ là 0,123% thì năm 2001 vừa qua, tỷ lệ này đã lên tới 0,263% số khách du lịch. Con số này cho ta thấy ý thức tham gia bảo hiểm du lịch của khách du lịch đã tăng lên khá rõ rệt qua các năm. Cùng với sự gia tăng của lượng khách du lịch mua bảo hiểm qua các năm, doanh thu phí nghiệp vụ này cũng tăng nhanh. Nếu như năm 1996 doanh thu phí nghiệp vụ này mới chỉ là 68,203 triệu đồng, năm 1998 là 48,115 triệu đồng thì năm 2001 vừa qua đã lên tới 275,922 triệu đồng. Tốc độ tăng của doanh thu phí tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng của số người tham gia bảo hiểm, điều này ta có thể thấy qua bảng. Từ đó dẫn tới doanh thu phí bình quân của một khách hàng tham gia bảo hiểm du lịch tại PIJICO tăng lên qua các năm. Năm 1996 là 4.990 đồng/người, năm 1997 là 4.619 đồng/người thì năm 1999 là 6.830 đồng/người, năm 2000 là 6.879 đồng/người và năm 2001 là 7.773 đồng/người. Sở dĩ có sự gia tăng trong doanh thu phí bình quân này là do khách du lịch mua bảo hiểm tại PIJICO với mức trách nhiệm cao hơn và họ đi dài ngày hơn (dẫn tới phí cao hơn). Không chỉ có sự gia tăng về số lượng khách tham gia và doanh thu phí nghiệp vụ qua các năm mà qua bảng trên cũng có thể thấy vị trí, chỗ đứng của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại PIJICO cũng đang được củng cố dần qua các năm, mặc dù so với các nghiệp vụ cơ bản khác, bảo hiểm du lịch vẫn đóng một vai trò hết sức mờ nhạt. Điều này có thể thấy rõ ở tỷ lệ giữa doanh thu phí của nghiệp vụ bảo hiểm du lịch so với tổng doanh thu của tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ. Tính từ năm 1997, tỷ lệ này là 0,334%, năm 1998 là 0,494%, năm 1999 là 0,709% và năm 2001 tỷ lệ doanh thu phí của nghiệp vụ so với tổng doanh thu phí bảo hiểm con người đã là 1,38%. Là hình thức cơ bản trong ba hình thức bảo hiểm du lịch được triển khai tại PIJICO. Mặc dù chưa thực sự được quan tâm chú trọng nhiều từ phía công ty, nhưng bảo hiểm du lịch cho khách du lịch trong nước đã đạt được những bước tiến rất đáng khích lệ qua các năm qua. Những thành công đạt được trong khâu khai thác này sẽ giúp các khâu còn lại của nghiệp vụ là giám định, bồi thường và đề phòng, hạn chế tổn thất được thực hiện tốt hơn. 1.2.2 kết quả khai thác bảo hiểm du lịch trên địa bàn Hà Nội. PIJICO có trụ sở chính tại Hà Nội, nên Hà Nội chính là địa bàn hoạt động chính của PIJICO. Mặc dù cũng gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của hàng loạt các công ty phi nhân thọ khác mà có trụ sở và địa bàn hoạt động chính cũng ở tại Hà Nội là Bảo Việt, PVIC, PTI, ngoài ra còn có Bảo Minh, Bảo Long cũng hoạt động rất mạnh trên địa bàn Hà Nội, nhưng với sự nỗ lực của mình mà PIJICO đang từng bước giành giật và nâng cao thị phần của tại khu vực này. Doanh thu phí thu được trên địa bàn Hà Nội luôn chiếm một tỷ lệ khá lớn trong doanh thu của toàn công ty. Nghiệp vụ bảo hiểm du lịch cũng không nằm ngoài xu hướng này. Với việc thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm chủ yếu là các công ty và các tổ chức, cá nhân chứ không phải là từ các khu du lịch, nên doanh thu phí nghiệp vụ trên địa bàn Hà Nội luôn chiếm một tỷ lệ khá lớn so với doanh thu phí nghiệp vụ của toàn công ty. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Biểu 9: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm du lịch của PIJICO Hà Nội Năm Doanh thu phí trên địa bàn Hà Nội (đồng) Doanh thu phí của toàn công ty ( đồng) Tỷ lệ giữa doanh thu phí tại HN so với toàn công ty ( %) 1996 1997 1998 1999 2000 2001 10.000.000 23.752.796 43.470.252 68.514.00 70.013.000 62.445.500 68.203.000 52.140.000 78.614.000 131.338.000 175.904.000 289.725.000 14,66 45,50 55,18 52,17 39,80 21,55 Nguồn: PJICO Hà Nội Như vậy, tỷ lệ doanh thu phí của PJICO Hà Nội so với toàn công ty là rất cao, cao nhất là vào năm 1998, doanh thu phí trên địa bàn Hà Nội chiếm tới 55,18% toàn công ty và năm 1999 là 52,17%. Tuy nhiên tỷ lệ này trong hai năm gần đây có xu hướng giảm. Nhất là vào năm 2001, trong khi doanh thu phí toàn công ty có sự tăng mạnh (từ 175,904 triệu đồng năm 2000 lên 289,925 triệu đồng năm 2001) thì doanh thu phí nghiệp vụ của PIJICO Hà Nội lại giảm xuống (từ 70,013 triệu đồng xuống còn 62,445 triệu đồng). Điều này đã dẫn đến việc doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm du lịch của PIJICO Hà Nội chỉ còn chiếm 21,55% so với toàn công ty. Tuy nhiên, như đã khẳng định, địa bàn Hà Nội là nơi triển khai mạnh nhất nghiệp vụ bảo hiểm du lịch của công ty cũng như đại đa số các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Do vậy chúng ta cần tìm hiểu cụ thể hơn về tình hình khai thác nghiệp vụ của PIJICO trên địa bàn này. Bao gồm 1 văn phòng công ty (PJICO Hà Nội) và 7 văn phòng diện khu vực dưới sự chỉ đạo trực tiếp của văn phòng công ty và gián tiếp của tổng công ty, các văn phòng này đóng chủ yếu ở các quận nội thành của Hà Nội và chỉ có một văn phòng đại diện khu vực ở Gia Lâm - Hà Nội. Kết quả khai thác cụ thể của PIJICO Hà Nội được thể hiện qua biểu 10 sau: Biểu 10: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm du lịch của PIJICO Hà Nội Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 1.Số khách tham gia bảo hiểm (người) 2. Số khách tham gia bảo hiểm năm sau so với năm trước (%). 3. Doanh thu phí bảo hiểm (nghìn đồng). 4. Doanh thu phí bảo hiểm bình quân một người (nghìn đồng) 5. Doanh thu năm sau so với năm trước (%). 567 - 10.000 3,895 - 5.126 203,19 23.752,796 4,634 237,52 11.217 218,83 43.370,252 3,867 182,59 14.247 126,96 68.514 4,881 156,71 19.280 135,35 70.013 3,631 102,79 15.620 81,02 62.445 4,092 89,19 Nguồn: PJICO Hà Nội Như vậy, chỉ có riêng năm 2001 là có sự giảm sút trong doanh thu phí cũng như số người tham gia bảo hiểm du lịch tại PIJICO trên địa bàn Hà Nội, còn số khách tham gia và doanh thu phí nghiệp vụ qua các năm luôn có sự gia tăng mạnh kể cả về con số tương đối lẫn tuyệt đối. Tuy nhiên, sự gia tăng về tương đối lại có xu hướng giảm dần, chẳng hạn số khách tham gia bảo hiểm năm 1997 so với 1996 tăng 103,19%, năm 1998 so với 1997 tăng 118% thì năm 1999 so với 1998 chỉ tăng 26,96%, năm 2000 so với 1998 tăng 35,35%, thậm chí năm 2001 còn giảm so với năm 2000 là 18,98%. Mức gia tăng về doanh thu phí cũng tương tự, năm 1997 tăng lên 137,52% về doanh thu phí so với năm 1996, năm 1998 tăng 82,59% so với năm 1997, năm 1999 tăng 56,71% so với năm 1998, năm 2000 chỉ tăng 2,19% so với năm 1999 và năm 2001 giảm 10,81% so với năm 2000. Không giống như doanh thu phí bình quân một khách du lịch tham gia tăng lên đáng kể qua các năm trong cả nước (năm 1996 là 4.990 đồng/người, năm 2000 bình quân 6.990 đồng/người, năm 2001 là 7.773 đồng/người), doanh thu phí bình quân một khách tham gia bảo hiểm du lịch tại PIJICO Hà Nội có sự giao động không đáng kể (năm 1996 là 3.867 đồng/người, năm 1997 là 4.634 đồng/người, năm 1998 là 3.867 đồng/người, năm 1999 là 4.811 đồng/người, năm 2000 là 3.631 đồng/người, năm 2001 là 4.092 đồng/người). Sở dĩ chỉ có sự tăng nhẹ này là do khách tham gia bảo hiểm du lịch tại PIJICO Hà Nội vẫn chủ yếu là các công ty du lịch mua bảo hiểm cho khách du lịch của họ, mà các công ty này luôn tìm cách mua bảo hiểm cho khách hàng của mình ở mức thấp nhất để nhằm giảm chi phí cho một chuyến hành trình, cạnh tranh về giá, họ thương mua phí ở mức thấp nhất là 1500 đồng/người/ngày. Do vậy, mức phí chỉ tăng nhẹ như đã thấy. Trong 7 văn phòng đại diện khu vực và một văn phòng công ty đang tiến hành khai thác ở khu vực Hà Nội. Với mối quan hệ rộng rãi và phương thức khai thác thích hợp, văn phòng đại diện khu vực 1 (VPI) của công ty – 28 Lê Ngọc Hân – Hà Nội là văn phòng triển khai khâu khai thác đạt hiệu quả cao nhất đối với tất cả các nghiệp vụ nói chung đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm du lịch nói riêng. Doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm du lịch của VPI thường chiếm từ 25 đến 40% tổng doanh thu phí bảo hiểm du lịch tại khu vực Hà Nội, thậm chí còn lên tới 71%. Ta có thể thấy được biểu này qua biểu 11 sau với số liệu của hai năm 1998 và 2001 vừa qua mà trong đó năm 1998 là năm mà doanh thu phí bảo hiểm du lịch của VPI đạt tỷ lệ cao nhất : Biểu 11: Doanh thu phí bảo hiểm du lịch của các văn phòng của PIJICO Hà Nội Năm 1998 2001 Doanh thu phí (nghìn đồng) DT của VP/DT toàn khu vực Hà Nội.(%) Doanh thu phí (nghìn đồng) DT của VP/DT toàn khu vực Hà Nội. (%) VP công ty VP1 VP2 VP3 VP4 VP5 VP6 1.208 30.001 6.943 4.937 - - - 2.43 70,81 16,38 10,38 - - - 9608,5 20.293 4.201 3.831 6.908,5 6.236,5 10.367 15,387 32,497 6,727 6,135 11,062 9,987 17,775 Tổng 42.370 100% 62.445,5 100% Nguồn: PJICO Hà Nội Năm 1998 là năm mà VPI khai thác đạt hiệu quả cao nhất, chiếm 70,81% doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm du lịch của PJICO Hà Nội. Còn năm 2001 vừa qua, do sự nỗ lực cố gắng của tất cả các VP khác nên doanh thu phí của VPI chỉ còn đạt 32,497%, nhưng đây vẫn là tỷ lệ cao nhất trong các văn phòng tại khu vực Hà Nội 2 . Khâu giám định và bồi thường Giám định Giám định là một khâu có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bảo hiểm. Giám định nhằm xác định nguyên nhân, mức độ thiệt hại thực tế của tổn thất, từ đó xem tổn thất có thuộc phạm vi bảo hiểm không. Nếu như giám định chính xác thì kết quả bồi thường sẽ chính xác, tránh tình trạng trục lợi trong bảo hiểm. Điều này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động du lịch có phạm vi khá rộng mà tổn thất xảy ra ảnh hưởng trưc tiếp đến tính mạng và tài sản của con người. Nhận thức được điều này nên PJICO cũng rất chú trọng đến khâu này. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua, tổn thất chủ yếu xảy ra khách du lịch trong nước, đối với khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam và người Việt Nam đi du lịch nước ngoài tham gia bảo hiểm ở PJICO thì chưa xảy ra một vụ tổn thất đáng kể nào. Với khách du lịch trong nước, số vụ tổn thất cũng không nhiều và mức độ không nghiêm trọng. Do vậy, khâu giám định đối với nghiệp vụ bảo hiểm du lịch tại PJICO được tiến hành khá nhanh chóng và đơn giản. Chỉ một số ít trường hợp công ty mới phải cử hoặc thuê chuyên gia giám định xuống tận hiện trường, còn lại phần lớn các vụ tổn thất là giám định thông qua các giấy tờ khám nghiệm hiện trường của công an, chính quyền địa phương, giấy chứng thương, chứng tử của các cơ quan y tế… Tuy kết quả không hoàn toàn tuyệt đối chính xác nhưng với các vụ tổn thất nhỏ thì phương pháp này sẽ tiết kiệm chi phí cho công tác giám định, đồng thời còn đẩy nhanh thời gian giám định, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ tồn đọng qua các năm. Qua 6 năm triển khai nghiệp vụ, tất cả các vụ tổn thất của nghiệp vụ hầu như đã được giải quyết ngay trong năm. Chỉ có một vụ tồn đọng vào năm 1998 và 1 vụ vào năm 2001 vừa qua do phải tiến hành bồi thường vượt cấp. Tuy nhiên, không thể vì một thực trạng có thể gọi là “tốt” trong giai đoạn hiện nay mà PJICO có thể “coi thường” công tác giám định. Để chuẩn bị tốt hơn cho việc phát triển nghiệp vụ vào những năm tới, PJICO vẫn thường xuyên tổ chức đào tạo những cán bộ giám định cho các nghiệp vụ bảo hiểm trong đó có bảo hiểm du lịch. 2.2 Bồi thường Có thể nói bồi thường là khâu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó quyết định tới toàn bộ kết quả quá trình kinh doanh của các công ty bảo hiểm. Xuất phát từ công thức : Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí, mà bồi thường là khoản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu chi phí nên sự biến động của chi bồi thường sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến lợi nhuận của công ty. Bồi thường thể hiện chất lượng của dịch vụ bảo hiểm nên việc bồi thường nhanh chóng, kịp thời, chính xác sẽ giữ được chữ tín với khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường trong và ngoài nước. Không những thế, nó còn có ý nghĩa về mặt xã hội bởi công tác này thực hiện tốt sẽ động viên kịp thời cho khách hàng không may bị thiệt hại. Trước hết ta xét đến các nội dung của chế độ bồi thường nghiệp vụ đang được tiến hành tại PJICO: Quyền lợi của người được bảo hiểm. Đối với khách du lịch trong nước: Bao gồm các quyền lợi sau: 1.Trường hợp người được bảo hiểm bị chết do tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, PJICO sẽ trả toàn bộ số tiền ghi trong hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. 2.Trường hợp người được bảo hiểm bị thương do tại nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, PJICO trả tiền bảo hiểm theo quy định tại “Bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm” theo quy định của Bộ Tài Chính. 3. Trường hợp người được bảo hiểm bị chết do ốm đau, bệnh tật thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, PJICO sẽ trả 50% số tiền bảo hiểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. 4.Trường hợp trong vòng một năm kể từ ngày xảy ra tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, người được bảo hiểm bị chết hoặc vết thương trầm trọng hơn do hậu quả của tai nạn đó, PJICO sẽ trả phần chênh lệch còn lại giữa số tiền bảo hiểm phải trả cho trường hợp này với số tiền đã trả trước đó. 5.Trường hợp hậu quả của tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm trầm trọng hơn do bệnh tật hoặc sự tàn tật có sẵn của người được bảo hiểm hoặc điều trị vết thương không kịp thời và không theo sự chỉ dẫn của cơ quan y tế, thì PJICO chỉ trả tiền bảo hiểm như đối với loại vết thương tương tự ở người có sức khỏe bình thường được điều trị một cách hợp lý. Đối với người nước ngoài du lịch Việt Nam : Bao gồm các quyền lợi sau: 1.Trường hợp người được bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, PJICO sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. (Thương tật toàn bộ vĩnh viễn được hiểu theo quy tắc này bao gồm các trường hợp: mất một chân và một tay hoặc mất cả hai chân hoặc hai tay hoặc mù cả hai mắt. Mất chân tay có nghĩa là phẫu thuật cắt rời bàn tay hoặc bàn chân và mất hẳn chức năng tay hoặc chân) 2.PJICO trả tiền bảo hiểm đối với những chi phí cần thiết và hợp lý do hậu quả của tai nạn, ốm đau thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Bao gồm : Chi phí cấp cứu và chi phí y tế trong thời gian điều trị ở Việt Nam Tiền phòng và ăn tại bệnh viện trong thời gian điều trị ở Việt Nam mỗi ngày bằng 0.2 % số tiền bảo hiểm. Chi phí hồi hương được bảo hiểm trong trường hợp không tiếp tục điều trị tại Việt Nam gồm các chi phí : Tiền thuê xe cấp cứu đưa ra sân bay trở về nước; Tiền thuê thêm ghế phụ, dụng cụ y tế và thuốc điều trị mang theo; Tiền ăn, ở tại khách sạn và đi lại cho một người cần phải đi kèm để chăm sóc người được bảo hiểm khi hồi hương, theo yêu cầu của giám đốc bệnh viện nơi người được bảo hiểm đang điều trị do tình trạng thương tật hoặc bệnh tật quá hiểm nghèo của người được bảo hiểm. 3.Trường hợp người được bảo hiểm chết không do tai nạn, PJICO chỉ chi trả chi phí chôn cất hoặc hoả táng tại Việt Nam hoặc chi phí vận chuyển thi hài và hành lý của người được bảo hiểm về nước. 4.Trường hợp trong vòng 180 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, người được bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do hậu quả trực tiếp của tai nạn, PJICO sẽ trả phần chênh lệch giữa số tiền bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm với số tiền đã trả trước đó. 5.PJICO bồi thường cho người được bảo hiểm hành lý và vật dụng riêng bị mất hoặc bị thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm theo các quy định dưới đây, nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm về hành lý ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm: Những đồ vật bị mất, thiệt hại theo lời khai của người được bảo hiểm sẽ được PJICO xem xét, giải quyết bồi thường theo giá trị thực tế của nó tại thời điểm mất, thiệt hại trên cơ sở giá trị thực tế của đồ vật mới tương tự ở mức bán hàng tại thời điểm trả tiền bồi thường. Trường hợp đồ vật bị hỏng nhẹ, nếu thay thế phụ tùng hoặc sửa chữa có thể dùng được, PJICO thanh toán chi phí sửa chữa và thay thế phụ tùng tại Việt Nam. Trường hợp không có điều kiện sửa chữa và thay thế phụ tùng tại Việt Nam thì PJICO bồi thường theo tỷ lệ tổn thất. Giới hạn bồi thường với bất kỳ một khoản mục nào ghi trong danh mục hành lý và vật dụng riêng là 20% STBH về hành lý ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Một cặp hoặc một bộ của đồ vật được coi là một khoản mục Trường hợp hành lý hoặc vật dụng riêng đã được bồi thường do bị mất, sau tìm thấy được thì người được bảo hiểm có quyền nhận lại hành lý đã tìm và hoàn lại số tiền PJICO đã bồi thường. Nếu người được bảo hiểm không nhận lại số tài sản này trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của PJICO, PJICO có quyền xử lý số tài sản đó để bù đắp số tiền đã bồi thường. Đối với người Việt Nam đi du lịch nước ngoài: Bao gồm các quyền lợi sau: Trường hợp người được bảo hiểm bị chết do tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, PJICO trả toàn bộ số tiền ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Trường hợp người được bảo hiểm bị thương do tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, PJICO trả tiền bảo hiểm theo quy định tại “Bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm”. PJICO trả tiền bảo hiểm đối với những chi phí cần thiết và hợp lý do hậu quả của tai nạn, ốm đau thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, nhưng không vượt quá STBH ghi trong hợp đồng bảo hiểm bao gồm: Tiền trợ cấp mỗi ngày nằm điều trị do ốm đau tại bệnh viện ở nước ngoài bằng 0,2% số tiền bảo hiểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Chi phí hồi hương cho người được bảo hiểm trong trường hợp không tiếp tục điều trị nước ngoài gồm các chi phí: Tiền thuê xe cấp cứu đưa ra sân bay trở về nước; Tiền thuê ghế phụ, dụng cụ y tế và thuốc men điều trị mang theo. Tiền ăn, ở tại khách sạn và đi lại cho một người cần phải đi kèm để chăm sóc cho người được bảo hiểm khi hồi hương, theo yêu cầu của giám đốc bệnh viện nơi người được bảo hiểm đang điều trị do tình trạng thương tích hoặc bệnh tật quá hiểm nghèo của người được bảo hiểm. Chi phí vận chuyển xác hoặc tro và hành lý của người được bảo hiểm về Việt Nam trong trường hợp người được bảo hiểm chết do tai nạn. Trường hợp hoả táng ở nước ngoài sẽ được thanh toán chi phí hoả táng. 4.Trường hợp trong vòng 1 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, người được bảo hiểm bị chết hoặc vết thương trầm trọng hơn do hậu quả trực tiếp của tai nạn đó, PJICO sẽ trả phần chênh lệch còn lại giữa số tiền bảo hiểm phải trả cho từng trường hợp với số tiền đã trả. 5.PJICO bồi thường cho người được bảo hiểm hành lý và vật dụng riêng bị mất, thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm theo các quy định dưới đây, nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm hành lý ghi trong hợp đồng bảo hiểm : Trường hợp mất hỏng: Những đồ vật bị mất, thiệt hại theo lời khai của người được bảo hiểm sẽ được PJICO xem xét, giả quyết bồi thường theo giá trị thực tế của nó tại thời điểm mất, thiệt hại trên cơ sở giá trị của vật mới tương tự ở nước bán hàng tại thời điểm bồi thường. Đồ vật bị hỏng nhẹ, nếu sửa chữa hay thay thế phụ tùng có thể dùng được, PJICO thanh toán chi phí sửa chữa và thay thế phụ tùng tại nước ngoài hoặc ở Việt Nam. Giới hạn bồi thường đối với bất kỳ một khoản nào ghi trong danh mục hành lý, vật dụng riêng là 20% số tiền bảo hiểm hành lý Trường hợp hành lý hoặc vật dụng riêng đã được bồi thường do bị mất, sau được tìm thấy thì người được bảo hiểm có quyền nhận lại hành lý đã tìm thấy và hoàn trả lại số tiền PJICO đã bồi thường. Nếu người được bảo hiểm không nhận lại số tài sản này trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của PJICO, PJICO có quyền xử lý số tài sản đó để bù đắp số tiền đã bồi thường. Trường hợp mất nguyên kiện hành lý gửi theo chuyến hành trình, PJICO bồi thường cho người được bảo hiểm tối đa với mỗi kilogam hành lý là 2% STBH hành lý. Trường hợp hành lý hoặc vật dụng riêng đã được bồi thường do bị mất, sau được tìm thấy thì người được bảo hiểm có quyền nhận lại hành lý đã tìm thấy và hoàn trả lại số tiền PJICO đã bồi thường. Nếu người được bảo hiểm không nhận lại số tài sản này trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của PJICO, PJICO có quyền xử lý số tài sản đó để bù đắp số tiền bồi thường. Thủ tục yêu cầu bồi thường và trả tiền bảo hiểm Đối với khách du lịch trong nước Khi rủi ro xảy ra, người được bảo hiểm hoặc đại diện cho người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho PJICO gần nhất hoặc khách sạn hoặc tổ chức du lịch biết trong vòng 24 giờ. Sau đó người được bảo hiểm phải thực hiện những chỉ dẫn của PJICO, khách sạn hoặc tổ chức du lịch. Khi yêu cầu trả tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc đại diện của người được bảo hiểm hoặc thừa kế hợp pháp phải gửi cho PJICO các chứng từ sau đây trong vòng 30 ngày kể từ ngày người được bảo hiểm trị khỏi bệnh hoặc bị chết nhưng không quá 1 năm kể từ ngày xảy ra tai nạn: Giấy yêu cầu bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm và bản sao danh sách người được bảo hiểm, hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc vé vào cửa có bảo hiểm. Biên bản tại nạn có xác nhận của cơ quan du lịch, chính quyền địa phương hoặc công an nơi người được bảo hiểm bị tai nạn. Xác nhận điều trị của cơ quan y tế (giấy ra viện, phiếu điều trị và các giấy tờ liên quan đến việc điều trị tai nạn…) Giấy chứng tử và giấy xác nhận quyền thừa kế hợp pháp (trường hợp chết) Trường hợp người được bảo hiểm uỷ quyền cho người khác nhận tiền bảo hiểm phải có giấy uỷ quyền hợp pháp. Số tiền bảo hiểm sẽ được trả cho người được bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm uỷ quyền. Trường hợp người được bảo hiểm chết thì người thừa kế hợp pháp nhận số tiền đó. Trường hợp không có người thừa kế hợp pháp nhận tiền bảo hiểm, PJICO thanh toán chi phí cho cơ quan hoặc cá nhân nào đã đứng ra tổ chức chôn cất cho người được bảo hiểm nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm quy định. PJICO có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thanh toán tiền bảo hiểm trong vòng 21 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ. Thời hạn người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp khiếu nại về việc trả tiền bảo hiểm là 6 tháng kể từ ngày người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp nhận được thông báo kết quả giải quyết bồi thường của PJICO. Quá thời hạn trên, mọi khiếu nại đều không có giá trị. Đối với người nước ngoài du lịch Việt Nam và người Việt Nam đi du lịch nước ngoài : Khi rủi ro được bảo hiểm xảy ra, người được bảo hiểm hoặc đại diện người được bảo hiểm cần phải thông báo cho PJICO gần nhất hoặc khách sạn hay tổ chức đoàn du lịch biết trong vòng 24 giờ và thực hiện theo chỉ dẫn của PJICO, khách sạn hoặc tổ chức đoàn du lịch. Đối với người Việt Nam du lịch nước ngoài thì phải báo cho tổ chức đoàn du lịch hoặc đại lý của PJICO tại nước đến du lịch. Khi yêu cầu trả tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc đại diện của người được bảo hiểm hoặc người thừa kế hợp pháp cần nộp cho PJICO các chứng từ sau đây trong vòng 30 ngày kể từ ngày người được bảo hiểm rời khỏi bệnh viện, hoặc chết, hay mất, thiệt hại về hành lý: Đơn yêu cầu trả tiền bảo hiểm có ghi địa chỉ chính xác (khách nước ngoài du lịch Việt Nam) hoặc giấy yêu cầu trả tiền

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13120.DOC
Tài liệu liên quan