Tài liệu Đề tài Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định: Lời nói đầu.
Tạo việc làm cho người lao động luôn là một vấn đề hết sức cấp bách, được các cấp chính quyền quan tâm rất nhiều. Có rất nhiều chương trình hỗ trợ tạo điều kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm, số người có việc làm ngày một tăng lên tương ứng với nó là tỷ lệ thất nghiệp giảm. Mỗi địa phương khác nhau có những đặc điểm khác nhau ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. Do đó, khi nghiên cứu địa phương nào đó cần căn cứ vào tình hình cụ thể ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động để đưa ra biện pháp và hiệu quả phù hợp.
Huyện Trực Ninh nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung đã và đang đẩy mạnh chương trình XĐGN và tạo việc làm, chương trình tạo thêm được nhiều chỗ làm việc mới và giảm đáng kể hộ nghèo. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, thời gian làm việc ở nông thôn thấp, công tác XĐGN và tạo việc làm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Xuất phát từ thực tế đó, trong thời gian thực tập ở Phòng Nội vụ Lao động TBXH, với chuyên ngành theo học là kinh tế lao ...
58 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu.
Tạo việc làm cho người lao động luôn là một vấn đề hết sức cấp bách, được các cấp chính quyền quan tâm rất nhiều. Có rất nhiều chương trình hỗ trợ tạo điều kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm, số người có việc làm ngày một tăng lên tương ứng với nó là tỷ lệ thất nghiệp giảm. Mỗi địa phương khác nhau có những đặc điểm khác nhau ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. Do đó, khi nghiên cứu địa phương nào đó cần căn cứ vào tình hình cụ thể ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động để đưa ra biện pháp và hiệu quả phù hợp.
Huyện Trực Ninh nói riêng và tỉnh Nam Định nói chung đã và đang đẩy mạnh chương trình XĐGN và tạo việc làm, chương trình tạo thêm được nhiều chỗ làm việc mới và giảm đáng kể hộ nghèo. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, thời gian làm việc ở nông thôn thấp, công tác XĐGN và tạo việc làm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Xuất phát từ thực tế đó, trong thời gian thực tập ở Phòng Nội vụ Lao động TBXH, với chuyên ngành theo học là kinh tế lao động em đã chọn đề tài: “Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định”. Qua đây em cũng xin đề xuất một số giải pháp, kiến nghị về vấn đề tạo việc làm cho người lao động để nâng cao hiệu quả tạo việc làm ở huyện Trực Ninh.
Chuyên đề gồm 3 phần:
+ Phần 1: Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
+ Phần 2: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
+ Phần 3: Giải pháp và kiến nghị về tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Phần 1: Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Song con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi và chỉ khi họ có điều kiện để sử dụng sức lao động của họ để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trình người lao động làm việc hay nói cách khác là khi họ có được việc làm.
1. Khái niệm việc làm và phân loại việc làm.
Việc làm.
Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban đầu (C) như máy móc, nhà xưởng, vật liệu… và chi phí về sức lao động (V). Quan hệ kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ công nghệ của sản xuất. Có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc sử dụng nhiều sức lao động, tức là khi công nghệ thay đổi thì quan hệ tỷ lệ giữa C và V cũng thay đổi theo. Trong điều kiện kỹ thuật thủ công thì một đơn vị C có thể kết hợp với nhiều V, ngược lại trong điều kiện tự động hóa sản xuất theo dây truyền thì đòi hỏi ít V nhưng nhiều C (công nghệ sử dụng nhiều vốn). Vì vậy tùy từng điều kiện cụ thể để lựa chọn phương án phù hợp để tạo việc làm cho người lao động.
Theo điều 13, chương II (Việc làm) Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam có ghi rõ: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Theo khái niệm trên một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện:
- Hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình (đó là tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.
- Hoạt động đó không được pháp luật cấm (đó là tính pháp lý của việc làm). Hoạt động có ích không giới hạn về hành vi, ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do tìm kiếm việc làm, hoặc tạo ra việc làm cho người khác trong khuân khổ pháp luật, không còn bị phân biệt đối sử trong các thành phần kinh tế.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ nhau, là điều kiện cần và đủ của mọi hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu hoạt động đó tạo ra thu nhập nhưng lại vi phạm pháp luật cũng không được coi là việc làm. Một hoạt động dù là hợp pháp và có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm - chẳng hạn như nội trợ của phụ nữ cho chính gia đình mình.
Tuy nhiên, khái niệm trên còn có những hạn chế:
- Tính hợp pháp của hoạt động được thừa nhận là việc làm tùy thuộc vào luật pháp và thể chế của mỗi quốc gia và cũng có thể thay đổi theo từng thời kỳ. Có hoạt động được thừa nhận là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận là việc làm ở nước khác (Mại dâm của phụ nữ được thừa nhận là việc làm ở Thái Lan, Philippines. Nhưng nghề này không được thừa nhận ở Việt Nam).
- Không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình, cho xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm công (công việc nội trợ).
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) cũng đưa ra khái niệm: Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Phân loại việc làm.
Theo khái niệm việc làm của Bộ Luật lao động của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, việc làm thể hiện dưới các dạng:
Công việc mà người lao động nhận được tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hoặc hiện vật.
Công việc mà người lao động thu được lợi nhuận cho bản thân.
Công việc mà người lao động làm cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao.
Theo mức độ sử dụng lao động, việc làm chia ra:
Việc làm đầy đủ: Nghĩa là mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu lao động đều có việc làm nếu chỉ xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động (Tức là có sự phù hợp giữa C và V).
Việc làm hợp lý: Là việc làm được tạo ra trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này cho phép sử dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động.
Việc làm cũng có thể chia ra người có việc làm, người không có việc làm (thất nghiệp), người có việc làm tạm thời, việc làm ổn định.
Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là những người làm việc ít hơn mức mà họ mong muốn. Thiếu việc làm được biểu hiện dưới hai dạng: hoặc là người lao động không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, hoặc là những việc làm có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống do đó họ muốn làm thêm để có thu nhập.
Thất nghiệp được hiểu là sự mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất.
Người có việc làm gồm những người làm việc trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra kể cả lao động làm nghề giúp việc gia đình được trả công, hoặc tạm thời nghỉ việc do ốm đau, tai nạn, nghỉ lễ, nghỉ phép hoặc tạm thời nghỉ việc do thời tiết xấu.
Người thất nghiệp gồm những người trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm và có nhu cầu được làm việc.
Người thiếu việc làm gồm những người trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn số giờ quy định trong tuần, trong tháng hoặc trong năm và có nhu cầu làm thêm giờ; hoặc là những người có tổng số giờ làm việc bằng số giờ theo quy định trong tuần, tháng, năm nhưng có thu nhập quá thấp nên muốn làm thêm để có thu nhập.
2. Nội dung tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu của thị trường.
Hay tạo việc làm cho người lao động là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động.
Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu của dân số. Chất lượng lao động phụ thuộc vào kết quả đào tạo, phát triển của giáo dục, y tế. Ngoài ra vấn đề môi trường cho sự kết hợp các yếu tố này hết sức quan trọng. Nó bao gồm các chính sách, điều kiện khuyến khích người lao động trong công việc. Thực tế thị trường lao động chỉ có thể được thi hành khi người lao động với người sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi đến nhất trí vấn đề sử dụng sức lao động. Do vậy vấn đề tạo việc làm cho người lao động phải được nhìn nhận ở cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời không thể thiếu vai trò của Nhà nước. Đó chính là cơ chế ba bên của tạo việc làm, cơ chế này đòi hỏi sự tham gia tích cực của người lao động, Nhà nước và người sử dụng lao động.
Về phía người lao động, muốn tìm được việc làm phù hợp có thu nhập đương nhiên phải có kế hoạch thực hiện và đầu tư cho phát triển sức lao động của mình hoặc dựa vào các nguồn tài trợ (từ gia đình, từ các tổ chức xã hội ) để tham gia đào tạo, phát triển, nắm vững một nghề nhất định – điều kiện cần thiết cho người lao động tham gia vào thị trường lao động.
Về phía Nhà nước, tạo ra hành lang pháp lý, ban hành các luật lệ, chính sách liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động, tạo môi trường pháp lý kết hợp sức lao động với tư lieu sản xuất là bộ phận cấu thành trong cơ chế tạo việc làm cho người lao động.
Về phía người sử dụng lao động gồm các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế xã hội cần thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra để không chỉ tạo chỗ làm việc mà còn duy trì và tạo thêm chỗ làm việc cho người lao động. Đó cũng chính là duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó người sử dụng lao động cần có vốn để mua hoặc thuê nhà xưởng (nơi làm việc), công nghệ, máy móc thiết bị, nguyên liêu, mua sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ. Hơn nữa để mở rộng quy mô sản xuất chủ sử dụng lao động không chỉ có vốn mà cần kinh nghiệm quản lý, biết vận dụng linh hoạt chính sách của Nhà nước, quản lý lao động khoa học và nghệ thuật .
Tóm lại, cơ chế tạo việc làm cho người lao động đòi hỏi sự tham gia tích cực cả ba phía : Nhà nước, người sử dụng lao động và của chính bản thân những người lao động. Sao cho cơ hội việc làm và mong muốn nguyện vọng được làm việc của người lao động gặp nhau trên thị trường đúng lúc, đúng chỗ.
Vì vậy, khi nghiên cứu tạo việc làm cần chú ý đến vấn đề đầu tư của Nhà nước cũng như tư nhân là các khu vực có thể tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Vấn đề là đầu tư chủ yếu vào khu vực thành thị, khu vực công nghiệp vì thường ở đó tỷ lệ lợi nhuận cao, thuận lợi cho sản xuất. Tuy nhiên, có thể sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này lên, bỏ qua khu vực nông thôn.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
a) Điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ.
Cầu lao động bắt nguồn từ cầu sản xuất, phát triển kinh tế. Sản xuất càng phát triển, quy mô ngày càng mở rộng nhu cầu lao động ngày càng lớn. Muốn mở rộng sản xuất phát triển kinh tế phải dựa vào các tiền đề vật chất. Do đó tiền đề vật chất là nhân tố tiên quyết trước hết ảnh hưởng đến tạo việc làm.
Điều kiện tự nhiên của một vùng là có sẵn ngoài ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn độ màu mỡ tự nhiên của đất đai, diện tích canh tác bình quân. Điều kiện khí hậu, thủy văn thuận lợi hay bất lợi cho phát triển các loại cây trồng, vật nuôi. Trữ lượng hầm mỏ, tài nguyên rừng… Trước hết đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất. Thực tế nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất nhưng còn tùy thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò củ đất là khác nhau.
Trong nông nghiệp, đất đai không chỉ tham gia là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực không thể thay thế được .
Tuy nhiên mỗi vùng, mỗi địa phương lại có giới hạn khác nhau về diện tích đất, địa hình, trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng đó. Hiện nay với diện tích đất có hạn, dân số đông, diện tích đất bình quân trên đầu người thấp nhất thì vấn đề sử dụng ruộng đất đạt hiệu quả cao là rất khó khăn. Vì vậy, khai thác chiều sâu của ruộng đất để mỗi đơn vị ruộng đất ngày càng cho ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu về nông lâm thủy sản cho con người. Nếu đất được sử dụng đúng mục đính hợp lý thì chất lượng của đất ngày càng tốt hơn. Do đó để tạo nhiều việc làm cho người lao động, nhất là lao động nông thôn thì vấn đề chú trọng công tác vừa chăm sóc đất, vừa kết hợp trồng lúa, hoa màu sen kẽ là hết sức cần thiết, tránh tình trạng nông nhàn cho người nông dân.
Trong công nhiệp, đất đai thường được sử dụng trong xây dựng nhà máy, công ty, xí nghiệp. Do đó đất cũng trở thành tư liệu sản xuất hàng đầu. Tuy vậy vấn đề đầu tư cho công nghiệp đang hết sức được chú trọng, phần lớn lao động được thu hút vào làm việc trong lĩnh vực này. Cơ cấu lao động đang có xu hướng chuyển mạnh sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nên các cấp các ngành đều tạo điều kiện cho sự phát triển, xây dựng quy mô các doanh nghiệp công nghiệp. Làm tốt công tác này cũng có nghĩa là làm giảm tỷ lệ thất nghiệp như hiện nay.
Như vậy, điều kiện tự nhiên nói chung và đất đai nói riêng là vô cùng quan trọng trong sản xuất.Vì thế muốn tạo được việc làm cho người lao động thì phải xem xét vấn đề này, đánh giá xem việc sử dụng đất có hợp lý không, đất nào dùng cho nông nghiệp, đất nào dùng cho công nghiệp là hợp lý nhất.
Điều kiện thứ hai chúng ta đề cập đến là vốn. Vốn có vai trò rất quan trọng , không thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Vốn được thể hiện bằng tiền của tư liệu lao động được sử dụng vào trong sản xuất. Trong nông nghiệp, sự tác động của vốn tới hiệu quả kính tế của nó không phải là bằng cách trực tiếp mà thông qua cây trồng vật nuôi, ngoài ra còn biểu hiện ở yếu tố kỹ thuật. Cơ cấu chất lượng vốn phải phù hợp với từng loại đối tượng sản xuất, từng loại đất đai. Mặt khác nhiều khi do thời gian thu hồi vốn chậm nên cần phải có khối lượng vốn lưu động tránh tình trạng vốn bị ứ đọng. Vốn trong nông nghiệp tăng cao thì cơ hội tạo việc làm cho người lao động trong sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều, họ có thể đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút nhiều lao động tham gia. Trong công nghiệp cũng vậy, vốn có vai trò quan trọng, là yếu tố tất thiết để ngành phát triển. Vốn trong công nghiệp được sử dụng rất nhiều, ngoài xây dựng nhà xưởng còn phải mua sắm thiết bị nguyên vật liệu, máy móc, vốn để dự trữ cho quay vòng. Càng nhiều vốn để đầu tư, quy mô sản xuất ngày càng được nâng cao và số lượng lao động thu hút làm việc ngày càng nhiều hơn.
Do vậy vốn vô cùng quan trọng trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động vốn có thể cho phép mở rộng sản xuất, tăng quy mô, nâng cao hiệu quả và có thể thu hút lao động, tạo cơ hội việc làm cho người lao động.
Nhân tố thuộc về sức lao động.
Cơ chế tạo việc làm đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của cả ba phía: Người chủ sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. Do đó, nhân tố ảnh hưởng quyết định đến tạo việc làm cho người lao động là sức lao động trên cả hai phương diện là số lượng và chất lượng. Nhân tố này bao gồm những đòi hỏi mà người lao động cần có để đáp ứng được những yêu cầu của người sử dụng lao động.
Trước hết cần hiếu sức lao động là khả năng trí lực, thế lực của con người. Đó là tri thức, sức khỏe, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động.
Trong bối cảnh của một nước đang phát triển như Việt Nam, cung về số lượng lao động không phải là vấn đề đáng bàn vì đang dư cung, quan trọng hơn là vấn đề về sức lao động. Vì thế, người lao động muốn kiếm được việc làm có thu nhập cao, phù hợp với năng lực, trình độ, cần phải có các thông tin về thị trường lao động, tức là cần đầu tư vào vốn con người cả về thể lực và trí lực. Do đó, thông tin thị trường lao động giúp cho người lao động lựa chọn được ngành nghề mà thị trường lao động đang cần và sẽ cần trong tương lai để thực hiện đầu tư vào vốn con người có hiệu quả. Mỗi người lao động cũng cần phụ thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mình, tranh thủ các nguồn tài trợ để tham gia giáo dục, đào tạo, phát triển sức lao động nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức và kinh nghiệm. Đó cũng chính là điều kiện cần thiết để duy trì việc làm, tạo cơ hội việc làm có thu nhập và nâng cao vị thế của bản thân mỗi người lao động.
Cơ chế, chính sách kinh tế xã hội ảnh hưởng đến tạo việc làm.
Cơ chế chính sách của chính phủ, chính quyền địa phương, các quy định của chủ doanh nghiệp là nhóm nhân tố rất quan trọng tạo việc làm cho người lao động. Đó chính là môi trường kinh tế và môi trường xã hội ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
Môi trường kinh tế thể hiện sự hoạt động của thị trường hàng hóa đang diễn ra trong khu vực, giá trị kinh tế của vùng, sự hoạt động của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá những yếu tố này để tìm ra xu hướng, tiềm năng phát triển kinh tế của vùng cho đầu tư phát triển sản xuất, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
Yếu tố hết sức quan trọng đó là môi trường xã hội. Những cơ chế, chính sách, sự quan tâm của các cấp, các ngành đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Đó là các chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, ra luật đầu tư thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo cho người dân, phổ biến tốt các vấn đề xã hội khác đang được quan tâm… thì mới có thể làm tốt công tác tạo việc làm cho người lao động. Yếu tố tâm lý cũng hết sức quan trọng, liên quan tới công việc của người lao động, đặc biệt là yếu tố tinh thần cho người lao động. Vì vậy người sử dụng lao động cần hết sức chú ý tới tâm lý người lao động, tạo cảm giác mong muốn được làm việc, hăng say làm việc cho người lao động.
Có thể nói nhóm nhân tố này rất đa dạng như các chính sách kinh tế vĩ mô hay vi mô và có thể theo ngành, lĩnh vực, vùng… ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. Chẳng hạn, chính sách đổi mới trên tầm vĩ mô chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần… đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Do đó cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực và theo vùng thay đổi không chỉ về số lượng mà đặc biệt là về chất lượng lao động. Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể thì thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân cũng được khuyến khích phát triển đúng hướng.
Như vậy, vấn đề tạo việc làm cho người lao động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng chủ yếu nhất vẫn là những yếu tố được nêu ở trên. Các yếu tố này có sự tác động qua lại với nhau. Để tạo được việc làm cần có tư liệu sản xuất, nhưng có tư liệu sản xuất rồi cần phải có sức lao động phù hợp với trình độ chuyên môn. Hai yếu tố này là điều kiện cần, yếu tố môi trường là điều kiện đủ tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề tạo việc làm.
4. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động.
Tạo việc làm cho người lao động được coi là vấn đề búc xúc trong mọi thời đại. Bởi nếu người lao động bị thất nghiệp, thiếu việc làm thì đó là biểu hiện của việc không sử dụng và khai thác hết nguồn lực con người vốn có trong xã hội, là sự lãng phí nguồn lực của xã hội và mất đi một phần thu nhập của người dân. Với xã hội, thất nghiệp làm giảm thu nhập và mất khoản chi phí trợ cấp thất nghiệp, đời sống kinh tế xã hội giảm. Với người thất nghiệp họ phải làm bất cứ việc gì miễn là kiếm được tiền trang trải cuộc sống thậm chí vi phạm pháp luật. Nhất là ở khu vực thành thị, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng cao dẫn đến tệ nạn xã hội ngày càng nhiều. Còn đối với những người đang có việc làm họ sẽ bị sức ép về kinh tế, làm việc ở mức tiền công thấp, ngày làm việc kéo dài nhưng lại luôn bị đe dọa mất việc làm. Thất nghiệp còn dẫn đến thiệt hại cho nền kinh tế, đem lại khó khăn cho gia đình và xã hội. Từ những khó khăn về kinh tế gây tác động và ảnh hưởng đến lĩnh vực xã hội dấn tới hiện tượng tiêu cực xã hội. Do đó, tạo việc làm có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của một nền kinh tế và đối với xã hội. Tạo việc làm cho người lao động chính là khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người, giúp họ tham gia vào quá trình sản xuất, là yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế.
Ngày nay, tạo việc làm có ý nghĩa sống còn đối với một nền kinh tế, là biện pháp hữu hiệu nhất để đẩy lùi nạn thất nghiệp bởi thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói và tệ nạn xã hội.
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ghi nhận: Tạo việc làm cho người lao động đáp ứng quyền lợi của người lao động – quyền có việc làm và nghĩa vụ phải làm việc của người trong tuổi lao động, có khả năng lao động.
Tạo việc làm cho người lao động cũng là công cụ quan trọng của Đảng, Nhà nước nhằm thực hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang đặt ra với con người, kích thích người lao động sáng tạo và đem lại cuộc sống tốt đẹp cho họ, đảm bảo công bằng xã hội. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, tạo cho mọi người có điều kiện như nhau đối với việc chăm sóc sức khỏe, phát triển giáo dục, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Với trình độ tri thức, hiểu biết xã hội, người lao động sẽ khắc phục được hạn chế của mình và phát huy năng lực lao động. Tạo việc làm đầy đủ sẽ giúp cho dân quyền tự do, bình đẳng cùng với tất cả các thành viên khác trong cộng đồng; có ý nghĩa to lớn trong cuộc điều chỉnh lợi ích, thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho người lao động. Việc làm và thu nhập sẽ nâng cao vị thế của người lao động trong gia đình và ngoài xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ đó tạo một cơ cấu xã hội mới, năng động, xóa bỏ những cách biệt quá xa giữa người giàu, người nghèo. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động là biện pháp trung tâm của mọi quốc gia, nó cho phép không chỉ giải quyết các vấn đề kinh tế mà cả các vấn đề xã hội. Khi tạo việc làm cho người lao động một cách đúng đắn và môi trường xã hội thuận lợi là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến tiềm năng sáng tạo của con người thúc đẩy họ lao động tìm tòi hết mình, cống hiến cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó tạo việc làm cho người lao động là hết sức cần thiết góp phần ổn định xã hội, tạo lên sức mạnh tổng hợp có khả năng khắc phục từng bước nguy sơ tụt hậu về kinh tế, giảm tệ nạn xã hội…
Từ sự phân tích khái niệm trên, chúng ta đi sâu tìm hiểu thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định từ đó có thể đưa ra các giải pháp cho vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở huyện trong những năm tới, tiến tới mục tiêu tăng số việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn huyện.
Phần 2: Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Quê hương Trực Ninh nổi tiếng về những ngày hội truyền thống tưng bừng ở các ngôi chùa cổ, với những làng nghề truyền thống có thời gian đã từng là bí truyền đến nỗi quy định con trai – con gái trong làng không được kết hôn với người làng khác để gìn giữ công nghệ và bí quyết nghề làng mình, hay những mùa lúa tám đặc sản thơm lừng. Con người Trực Ninh hiền lành, cần cù chịu khó và hiếu khách, họ luôn biết tìm tòi và vượt lên trên những gian khổ khó khăn. Trực Ninh còn được thiên nhiên ưu đãi cho những vùng đất trù phú, khí hậu ôn hòa đồng thời cũng thuận tiện trong giao thông cả đường bộ và đường thủy. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa – Trực Ninh có nhiều ưu thế cả về thiên nhiên, con người và xã hội.
I. Những đặc điểm cơ bản ảnh hưởng đến việc làm ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
1. Đặc điểm tự nhiên.
Huyện gồm 21 xã, thị trấn (19 xã, 2 thị trấn), với tổng diện tích là 143,5 km2; nằm ở cửa ngõ phía nam của tỉnh Nam Định, nằm trên quốc lộ 21, đi qua quốc lộ 10 nối liền với thủ đô Hà Nội – trung tâm của cả nước bởi quốc lộ 1A. Phía nam giáp huyện Hải Hậu, phía tây giáp huyện Nam Trực, phía đông giáp Thái Bình. Đây là vị trí thuận lợi cho giao thông liên lạc và giao lưu phát triển kinh tế của huyện. Một mặt tiếp giáp với vùng biển Quất Lâm (Giao Thủy, Hải Hậu) là điều kiện cho huyện đẩy mạnh phát triển kinh tế biển. Nằm trong khu vực Đông Bắc Bộ, khí hậu phân thành 4 mùa rõ rệt thuận tiện rất nhiều trong sản xuất kinh doanh; Gần các con sông lớn như sông Hồng, sông Ninh Cơ thuận lợi cho tưới tiêu, đất đai màu mỡ thích hợp phát triển cây trồng vật nuôi. Gần đây các chuyên gia địa chất trong và ngoài nước đang lấy mẫu và tiến hành phân tích trữ lượng dầu mỏ trong lòng đất. Vì vậy, rất có thể công nghiệp Trực Ninh sẽ có thêm ngành mới là ngành công nghiệp khai thác dầu khí, có một số xã trong huyện ở trong lòng đất chứa trữ lượng khí ga, tuy nhiên không nhiều. Như vậy, địa hình thuận lợi, giao thông thuận tiện, khí hậu ôn hòa và đất đai màu mỡ, cộng thêm một số tài nguyên thiên nhiên là những điều kiện tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện Trực Ninh.
Đặc điểm kinh tế xã hội.
Dân số, lao động, việc làm, mức sống.
Trực Ninh là một huyện đông dân, năm 2006 với mật độ dân số là 1355 người/km2, tổng dân số là 194.443 người (49,3% nữ; 50,7% nam), trong khi đó tổng diện tích chỉ là: 143,5 km2, tỷ lệ tăng dân số năm 2005 là 0.8%. Có tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động thuộc vào loại khá cao với 54,4%. Hàng năm có khoảng trên 1000 người bước vào độ tuổi lao động. Số liệu trên cho thấy huyện Trực Ninh có tiềm năng về số lượng lao động rất lớn. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng góp phần tạo điều kiện sản xuất phát triển kinh tế. Theo thống kê của Phòng Nội vụ Lao động TBXH năm 2006 vừa qua đã giải quyết việc làm cho 4.256 lao động, xuất khẩu được 250 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Riêng khu vực sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ thời gian sử dụng trong lao động liên tục tăng, đến nay đã là 80%, kinh tế hộ gia đình phát triển khá mạnh, người nông dân có ít thời gian nhàn rỗi hơn, tập trung cho sản xuất kinh tế hộ gia đình. Vì thế, năm 2001 thu nhập bình quân của huyện mới chỉ là 3.347 nghìn đồng/người/tháng, đến năm 2005 đã là 4.463 nghìn đồng/người/tháng, lương thực bình quân tính trên đầu người đã đạt 530kg.
Những con số trên đã khái quát sơ bộ phần nào về tiềm lực lao động và khả năng giải quyết việc làm của Đảng bộ và nhân dân huyện Trực Ninh. Tuy nhiên, còn rất nhiều những bất cập trong việc giải quyết những tệ nạn xã hội, tìm việc cho người dân và nâng cao mức sống cho dân cư. Đây là câu hỏi lớn cần tháo gỡ từng bước trong tiến trình phát triển kinh tế của huyện.
Tăng trưởng kinh tế.
Là một huyện có trên 70% lao động làm việc trong ngành nông nghiệp, thậm chí trong 21 xã, thị trấn có những xã chỉ là thuần nông. Nhưng bên cạnh đó, Trực Ninh còn có một số ngành thuộc các lĩnh vực công nghiệp – dịch vụ cũng khá phát triển góp phần tạo việc làm và tăng GDP hàng năm cho cả huyện.
Bảng 1: Giá trị sản xuất các ngành kinh tế ( theo giá hiện hành).
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng GTSX (Triệu đồng)
Trong đó:
+ Nông – lâm – thủy sản (trđ)
% so với tổng GTSX (%)
+ Công nghiệp – xây dựng (trđ)
% so với tổng GTSX (%)
+ Dịch vụ (trđ)
% so với tổng GTSX (%)
933.654
434.473
46,53
187.757
20,11
311.424
33,36
1.067.557
431.981
40,46
271.212
25,41
364.364
34,13
1.305.737
506.653
38,80
399.936
30,63
399.148
30,57
1.519.648
500.029
32,90
598.765
39,40
420.854
27,70
1.805.033
608.835
33,73
736.100
40,78
460.098
25,49
(Nguồn: Phòng Thống kê-Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội
huyện Trực Ninh giai đoạn 2002-2006)
Số liệu trên cho thấy giai đoạn 2002-2006 tổng giá trị sản xuất của huyện tăng lên qua các năm. Năm 2002 GTSX mới chỉ là 933.645 triệu đồng, sang 2003 con số này lên đến 1.067.557 triệu đồng và năm 2006 GTSX lên đến 1.805.033 triệu đồng (tăng gấp đôi so với năm 2002). Tổng GTSX của huyện tăng lên, điều này là do GTSX của các ngành đều tăng lên. GTSX năm 2002, ngành nông nghiệp (nông – lâm – thủy sản) là 434.473 triệu đồng; công nghiệp – xây dựng là 187.757 triệu đồng; dịch vụ là 311.424 triệu đồng, đến năm 2006 GTSX của các ngành lần lượt là nông nghiệp: 608.835 triệu đồng; công nghiệp – xây dựng: 736.100 triệu đồng; dịch vụ: 460.098 triệu đồng. Tuy nhiên tốc độ tăng của các ngành là khác nhau, công nghiệp – xây dựng có tốc tăng nhanh nhất. Vì thế ngành công nghiệp – xât dựng mới chỉ chiếm 20,11% tổng GTSX năm 2002 nhưng đến năm 2006 thì con số này đã lên đến 40,78%, điều này làm cho GTSX công nghiệp – xây dựng vượt ngành nông nghiệp và đứng đầu về GTSX. Ngành nông nghiệp giảm về tỷ trọng trong tổng GTSX nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng đóng góp phần lớn vào tổng GTSX. Ngành dịch vụ GTSX cũng đã tăng, tuy nhiên tốc dộ tăng của ngành này còn chậm nên vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong tổng GTSX của huyện, thâm chí còn giảm (năm 2002 là 33,36%, năm 2006 là 25,49%). Công nghiệp và dịch vụ tăng lên là một điều đáng mừng và đây là những ngành có tiềm năng về thu hút lao động và phát triển kinh tế. Theo con số thống kê thì trong năm 2005 GTSX của một số ngành được tổng hợp cụ thể như sau:
+ Lương thực, thực phẩm đạt 13.600 triệu đồng.
+ Công nghiệp dệt: 43.600 triệu đồng.
+ Chế biến gỗ - tre nứa: 11.000 triệu đồng.
+ Vật liệu xây dựng: 32.400 triệu đồng.
+ Sản xuất sản phẩm kim loại: 2.800 triệu đồng.
+ Bàn ghế - giường tủ: 19.000 triệu đồng.
+ Ươm tơ: 130 tấn.
+ Thêu ren: 15.000 m2.
+ Mây tre đan xuất khẩu: 500 triệu đồng.
Những con số trên phần nào nói lên khả năng phát triển kinh tế của huyện. Số lượng sản phẩm làm ra rất đa dạng, liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ hàng bán và doanh thu cũng vì thế mà tăng lên. Do đó, riêng năm 2005 tổng thu từ ngân sách huyện đạt 97.209 triệu đồng, tăng 112.3%. Tính bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện 5 năm gần đây đạt khoảng 8,9-9,7%. Tốc độ này được xếp vào loại khá. Tuy nhiên, huyện vẫn còn tiềm năng để tạo ra GTSX cao hơn.
Số liệu trên cũng cho thấy một số ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp – dịch vụ khá phát triển, ngành nông nghiệp có xu hướng giảm. Điều này là hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự chuyển dịch này thể kiện qua cơ cấu GDP theo các ngành kinh tế.
Bảng 2: Cơ cấu GDP theo các ngành kinh tế.
Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Nông – lâm – thủy sản
25,78
24,7
24,05
23,30
22,76
Công nghiệp – xây dựng
34,01
35,08
36,15
36,61
37,02
Dịch vụ
40,21
40,22
39,8
40,09
40,22
(Nguồn: Phòng thống kê-Báo cáo tình hình KT-XH
huyện Trực Ninh giai đoạn 2002-2006)
Luôn đi theo một chiều hướng nhât định: Tăng tỷ trọng GDP ngành công nghiệp – dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Điều này không có nghĩa là đóng góp của ngành nông nghiệp vào GDP chung ngày càng thấp đi mà do lao động được thu hút từ ngành này chuyển qua ngành kia, dần dần quỹ đất sử dụng trong nông nghiệp ít di, được áp dụng nhiều hơn tiến bộ kỹ thuật nên năng suất rất cao. Thống kê từ năm 2002 đến 2006 cho thấy: GDP công nghiệp, dịch vụ tăng và nông nghiệp giảm từ 25,78% năm 2002 xuống còn 22,76% năm 2006, tốc độ giảm này còn thấp. Điều này cũng đồng nghĩa với khả năng phát triển kinh tế còn chưa cân xứng với tiềm năng và thế mạnh của vùng, cần được thực hiện mạnh dạn hơn.
Về ngành nghề kinh doanh và sản phẩm: Toàn huyện có khoảng 40 doanh nghiệp vừa và nhỏ (chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân). Các doanh nghiệp này hàng năm thu hút khoảng 2000 lao động vào làm việc. Ngoài ra, huyện còn là một trong những cái nôi về ngành nghề thủ công, những ngành nghề như: Ươm tơ, dệt may, mây tre đan, trạm khắc gỗ, thêu ren… nằm rải rác ở khắp các xã, thị trấn. Những nghề này chủ yếu thu hút lực lượng lao động tự do, những lúc nông nhàn họ tham gia sản xuất để tăng thêm thu nhập đảm bảo cuộc sống. Nhưng cũng có một số làng nghề nổi tiếng như: Ươm tơ ở làng Cổ Chất – xã Phương Định; trạm khắc gỗ ở Trung Lao – xã Trung Đông… toàn bộ lao động tự do trong khu vực này tham gia làm nghề truyền thống, họ không làm nông nghiệp hoặc nếu có làm thì đến ngày thu hoạch họ thêu lao động khu vực khác, công việc chính của họ là làm nghề thủ công truyền thống. Còn lại, ở những khu vực khác lao động tự do làm thêm các ngành nghề này quanh năm nhưng đến mùa vụ nông nghiệp họ lại nghỉ vài ngày và khi xong họ lại trở lại làm những công việc kia. Chính vì luân phiên có công việc làm như vậy cho nên tính bình quân toàn huyện tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn đạt tới 81% (theo số liệu thống kê năm 2006). Và theo số liệu của phòng Nội vụ LĐTBXH những ngành nghề này thu hút khoảng 34% dân số cả huyện. Có một ưu điểm ở đây là: Những ngành nghề này nhẹ nhàng, dễ làm nên thu hút được nhiều tầng lớp lao động tham gia (cả người già, trẻ em – những người ngoài độ tuổi lao động). Ngoài ra, trong huyện còn có một số ngành như trồng cây cảnh, vật nuôi cảnh… sản phẩm làm ra được nhiều nơi ưa chuộng do hiện nay trồng cây cảnh, nuôi vật cảnh là một thú chơi rất phổ biến. Đây chính là lợi thế để phát triển và mở rộng ngành. Kể đến nữa là những người bán hàng sáo, bán lẻ, sửa chữa xe máy, xe đạp, đồ điện tử… Người lao động làm công việc này nằm rải rác ở khắp mọi khu vực trong huyện, đặc biệt những nơi gần chợ tiện đường giao thông, gần trung tâm kinh tế - văn hóa của huyện.
Về văn hóa, giáo dục, y tế: Trực Ninh nổi tiếng với ngôi chùa Cổ Lễ được công nhận là di tích lịch sử và đưa vào sử dụng như một khu du lịch sinh thái. Ở các xã cũng có những đền, chùa, nhà thờ hàng năm tổ chức các lễ hội dân gian rất phong phú, đa dạng đem lại những nhu cầu về tinh thần không nhỏ cho dân cư trong huyện. Tổng kết cuối năm 2006 cho thấy có 341 làng đạt tiêu chuẩn nếp sống văn hóa. Đây là thành quả của những nỗ lực, cố gắng không ngừng của nhân dân các đơn vị này, góp phần không nhỏ trong việc đưa đời sống dân cư tiến lên.
Huyện Trực Ninh cũng nổi tiếng là vùng đất hiếu học, có nhiều trường chuyên ở cả 3 cấp. Hàng năm tính trung bình tỷ lệ tốt nghiệp của toàn huyện đạt trên 95%, số học sinh - sinh viên theo học ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ngày càng gia tăng, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2006 lên đến 32% và trên 80% học sinh học hết trung học cơ sở đều có xu hướng học tiếp lên cấp 3. Đây là điều đáng mừng cho Trực Ninh trong việc đầu tư cải tạo chất lượng nguồn vốn nhân lực.
Về y tế: Với một bệnh viện thị trấn, trạm y tế của các xã và các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân, hàng năm các cơ sở này phục vụ được khoảng 755 nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, bệnh viện thị trấn ngoài điều trị tây y còn có cả đông y với những bài thuốc quý mà nguyên liệu được trồng ngay tại cơ sở, giá rẻ phù hợp với điều kiện của những người dân nghèo. Cùng với sự nhiệt tình, tận tụy của các y bác sỹ cho nên viện ngày càng nhận được lòng tin, sự tín nhiệm của nhân dân.
Với một bề dày lịch sử lâu đời và những đức tính tốt đẹp, biết chia sẻ, nhường nhịn, cùng nhau vươn lên nên trong các mảng văn hóa, y tế, giáo dục Trực Ninh đã đạt được nhiều thành tựu, các đơn vị hàng năm đều nhận được cờ thi đua khen thưởng của tỉnh. Và một điều đáng chú ý hơn cả là đời sống nhân dân được cải thiện trông thấy, kinh tế - văn hóa - xã hội đều có những thay đổi tích cực đáng mừng.
II. Phân tích thực trạng việc làm của người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
1. Quy mô và tỷ lệ lao động có việc làm qua các năm ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Là một huyện đông dân, với mật độ dân số thuộc hàng cao, huyện Trực Ninh có tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt 54,4%, hàng năm huyện có khoảng 1000 người bước vào độ tuổi lao động. Tuy nhiên, số lao động có việc làm chiếm tỷ lệ chưa cao so với tổng số lao động trên địa bàn huyện.
Bảng 3: Quy mô và tỷ lệ lao động có việc làm qua các năm của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2002
2003
2004
2005
2006
1. Tổng số lao động (1).
+ Số lao động có việc làm.
+ % so với (1).
2. Số lao động được giải quyết việc làm mới.
Người
Người
%
Người
113.743
99.662
87,62
2.950
114.573
100.236
87,49
3250
115.047
100.844
87,65
3750
115.368
101.125
87,65
4035
115.780
101.486
87,65
4256
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quả giải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Qua bảng số liệu trên có thể nói nguồn lao động của huyện là rất dồi dào, số lao động hàng năm có tăng lên nhưng tăng ít. Cụ thể: năm 2002 số lao của huyện là 113.743 người đến năm 2006 con số này là 115.780 người, tức là bình quân mỗi năm số lao động tăng lên khoảng 500 lao động. Điều này là do số lao động này chịu ảnh hưởng lớn bởi tỷ lệ người hàng năm bước vào độ tuổi lao động mà điều này lại phụ thuộc vào mức sinh của 15 năm trước.
Theo đặc điểm chung của lao động cả nước với nguồn lao động dồi dào nhưng lại lãng phí trong sử dụng sức lao động do số việc làm được tạo ra hàng năm chưa cao. Số lao động có việc làm so với tổng số lao động chiếm tỷ lệ chưa cao. Năm 2002, số lao động có việc làm là 99.662 người (chiếm 87,62% tổng số lao động) đến năm 2006 số lao động có việc làm là 101.486 người (chiếm 87,65% tổng số lao động), tức là sau 5 năm số lao động có việc làm chỉ tăng lên được 1.824 người. Điều này là không tương xứng với số việc làm mới được tạo ra hàng năm. Cụ thể: Năm 2002 số lao động được giải quyết việc làm mới là 2.950 người, con số này hàng năm tăng khoảng 1000 người; năm 2006 số việc làm mới được tạo ra lên đến 4.256 người. Sự bất tương xứng này là do số việc làm được tạo ra hàng năm tuy nhiều nhưng lại thiếu tính chắc chắn, hay là những việc làm ngắn hạn, việc làm không được duy trì lâu dài.
Số lao động có việc làm chiếm tỷ lệ chưa cao so với tổng số lao động (khoảng 88%) và tỷ lệ này thay đổi không đáng kể, thậm chí là không đổi qua các năm 2004 đến 2006 là 87,65%. Do số lao động có việc làm tăng chậm và tăng tương ứng với tổng số lao động nên dẫn đến số tương đối gần như không đổi.
Số chỗ việc làm mới tăng dần qua các năm, tăng nhiều nhất là năm 2003-2004 (chênh lệch 500 chỗ việc làm) do bắt đầu từ năm 2004 huyện tập trung phát huy triệt để các dự án giải quyết việc làm cho người lao động. Đó là dự án cho vay vốn đối với các tổ chức sản xuất kinh doanh và hộ gia đình để phát triển sản xuất kinh doanh và chương trình xóa đói giảm nghèo với việc hỗ trợ về vốn, tư liệu sản xuất. Năm 2004, Ngân hàng chính sách xã hội huyện Trực Ninh đã giải ngân cho vay vốn xóa đói giảm nghèo được trên 8 tỷ đồng với trên 3000 lượt hộ nghèo tạo thêm được hàng nghìn chỗ việc làm mới. Ngoài ra huyện thực hiện dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông.
2. Cơ cấu và phân bố việc làm qua các năm của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Việc làm qua các năm phân theo thành phần kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Trực Ninh là một huyện mà lao động chủ yếu trong ngành nông nghiệp, chủ yếu lao động làm việc trong khu vực ngoài nhà nước. Những năm gần đây do huyện chú trọng phát triển nông nghiệp thông qua chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển đa dạng nhiều thành phần – từ đó giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ ngày càng được nâng cao. Mà chủ yếu những ngành này thuộc thành phần kinh tế khu vực ngoài nhà nước nên lao động thuộc thành phần kinh tế này tăng lên đáng kể. Bảng 4 thể hiện rõ hơn thực trạng việc làm của lao động huyện theo thành phần kinh tế.
Bảng 4: Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm qua các năm chia theo thành phần kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2002
2003
2004
2005
2006
1. Số lao động có việc làm (1)
2.Lao động làm việc trong khu vực Nhà nước
+ % so với (1)
3. Lao động làm việc trong khu vực ngoài Nhà nước
+ % so với (1)
Người
Người
%
Người
%
99.662
3.299
3,3
96.363
96,7
100.236
3.705
3,7
96.531
96,3
100.844
3.746
3,7
97.098
96,3
101.125
3.706
3,7
97.419
96,3
101.486
3.714
3,7
97.772
96,3
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quả giải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Số liệu cho thấy về quy mô hầu hết số lao động làm việc trong các thành phần kinh tế đều tăng. Tuy nhiên, xét về tỷ lệ thì sự tăng giảm này là khác nhau. Cụ thể, số lao động làm việc trong thành phần kinh tế khu vực trong nhà nước năm 2002 là 3.299 người (3,3% so với tổng số lao động có việc làm), từ các năm 2003 đến 2006 số lao động làm việc trong khu vực này tăng lên nhưng không đáng kể (giữ ở mức khá ổn định khoảng 3.700 người – tỷ lệ không đổi ở mức 3,7%). Nguyên nhân là do cơ hội việc làm không nhiều trong khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là khi quy định mới cho độ tuổi hưu của người lao động.
Đối với thành phần kinh tế ngoài nhà nước, hàng năm số lao động làm việc trong khu vực này không ngừng tăng lên. Cụ thể năm 2002 số lao động làm việc trong khu vực này là 96.363 người đến năm 2006 là 97.772 người. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực này so với tổng số lao động có việc làm cũng ổn định và không đổi trong bốn năm từ 2003 đến 2006 là 96,3%. Nguyên nhân là do hầu hết các công ty, xí nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn huyện đều hoạt động dưới dạng tư nhân, nhỏ lẻ vì thế chủ yếu lao động được thu hút vào khu vực này. Đó là các cơ sở sản xuất gỗ (ở Trung Lao – xã Trung Đông), mây tre đan (ở An Mỹ - xã Trung Đông), dệt (ở Cự Trữ - xã Phương Định), ươm tơ (ở Cổ Chất – xã Phương Định)… Nhìn chung, số lao động được tạo việc làm ở khu vực ngoài nhà nước là chủ yếu chiếm đến 96% tổng số người có việc làm. Tuy nhiên vấn đề nảy sinh là bảo hiểm và vấn đề an toàn trong lao động, họ thường chịu thiệt thòi. Do đó huyện cần có biện pháp quản lý chặt chẽ vấn đề quyền lợi cho người lao động. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước chủ yếu là những cơ sở sản xuất của các làng nghề thủ công mỹ nghệ nhưng đầu ra cho các sản phẩm ở khu vực này còn khó khăn do đó việc làm không được đảm bảo và ổn định lâu dài. Ngoài ra, khu vực này không đòi hỏi khắt khe về người lao động, thu hút được nhiều đối tượng lao động là người già, ngoài trẻ - người ngoài tuổi lao động.
Như vậy, nhìn chung trong hai khu vực thì khu vực kinh tế ngoài nhà nước thu hút nhiều lao động hơn. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng thu hút nhiều lao động vào làm việc cho thấy đây là dấu hiệu đáng mừng và cần được phát huy trong những năm tới.
Việc làm qua các năm phân theo ngành kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của huyện qua bảng 5 cho thấy cơ cấu lao động chuyển dần từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Bảng 5: Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm qua các năm theo ngành kinh tế của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2002
2003
2004
2005
2006
Số lao động có việc làm (1)
Chia theo:
1. Nông – lâm – thủy sản.
+ % so với (1)
2.Công nghiệp – xây dựng.
+ % so với (1)
3. Dịch vụ .
+ % so với (1)
Người
Người
%
Người
%
Người
%
99.662
74.851
75,1
15.757
15,8
9.054
9,1
100.236
74.352
74,2
16.085
16,0
9.799
9,8
100.844
68.808
68,2
21.431
21,3
10.605
10,5
101.125
68.667
67,9
21.500
21,3
10.958
10,8
101.486
68.778
67,8
21.687
21,3
11.021
10,9
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Số liệu cho thấy số lao động tập trung chủ yếu trong ngành nông nghiệp. Cụ thể là năm 2002 là 76.851 người có việc làm (chiếm tỷ lệ cao so với tổng số lao động có việc làm là 75,1%) đến năm 2006 giảm xuống còn 68.778 người có việc làm (chiếm 67,8% so với tổng số lao động có việc làm). Nguyên nhân là do huyện Trực Ninh cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, phần lớn lao động trong huyện làm nông nghiệp, có đến 70% lao động làm nghề nông. Gần đây, ngành nông nghiệp đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng giá trị thu nhập trên một ha canh tác. Do đó, ngành nông nghiệp luôn là ngành thu hút nhiều lao động vào làm việc.
Ngành đứng thứ hai thu hút nhiều lao động đó là ngành công nghiệp – xây dựng. Số lao động làm việc trong ngành công nghiệp tăng qua các năm. Cụ thể năm 2002 là 15.757 người đến năm 2006 là 21.687 người. Tuy nhiên, tốc độ tăng này còn thấp nên số lao động làm việc trong ngành này cũng mới chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ 21,3% so với tổng số lao động có việc làm, tỷ lệ này không thay đổi từ năm 2004 đến năm 2006. Đây là ngành thu hút và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động nếu như được tập trung phát triển. Những năm gần đây với chương trình GQVL của huyện Trực Ninh đã được UBND huyện tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp chính để GQVL ở địa phương. Một trong những giải pháp nhằm phát triển kinh tế tạo việc làm tại chỗ cho người lao động đó là tập trung đầu tư sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề ở các xã, thị trấn, nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy nhanh tiến độ xây dựng cụm công nghiệp thị trấn Cổ Lễ, xã Trực Hùng, TT Cát Thành, tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích và thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp, ưu tiên các dự án đầu tư ở các ngành có lợi thế phát triển và thu hút nhiều lao động như: Cơ khí, dệt may, chế biến nông sản…, có chính sách phát triển các ngành nghề mới, phát triển doanh nghiệp để tạo thêm chỗ làm việc mới cho người lao động. Tuy nhiên, việc thực hiện các dự án này còn lúng túng trong thời gian đầu thực hiện nên mới chỉ tạo ra ít việc làm làm cho số lao động có việc làm năm 2003 là 16.085 người (chiếm 16% so với tổng số lao động có việc làm) đến năm 2004 là 21.431 người (chiếm 21,3% so với tổng số lao động có việc làm). Những năm tới cần phải đẩy nhanh tiến độ xây dựng cụm công nghiệp và tập trung đầu tư cho các làng nghề truyền thống bởi đây là những ngành có tiềm năng thu hút lao động rất lớn, nhất là làng nghề ở các xã, thị trấn. Nếu chúng ta biết cách khai thác triệt để việc làm từ các làng nghề thì sẽ giải quyết được một lượng việc làm lớn do huyện có 10 làng nghề truyền thống, một số làng nghề sản phẩm xuất khẩu ra thị trường bên ngoài.
Dịch vụ là ngành có đóng góp số lao động làm việc là thấp nhất. Song số liệu cho thấy số lao động làm việc trong ngành này là tăng qua các năm và tăng với tốc độ cao nhất so với hai ngành kia. Cụ thể năm 2002 số lao động làm việc trong ngành này là 9.045 người (chiếm 9,1% tổng số lao động có việc làm) đến năm 2006 là 11.021 người (chiếm 10,9% tổng số lao động có việc làm). Điều này chứng tỏ đây là ngành có tiềm năng tạo ra được nhiều chỗ làm việc cho người lao động với việc phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển thương mại dịch vụ.
Qua đây ta thấy đang có sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ ngành nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Đó là dấu hiệu tốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội và tạo việc làm cho người lao động của huyện, tuy nhiên sự chuyển dịch này còn chậm. Huyện cần tìm biện pháp để có kết quả cao hơn nữa, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động hơn.
Việc làm qua các năm phân theo miền của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Với 21 xã, thị trấn trên địa bàn huyện được chia làm 4 miền dọc theo vị trí địa lý của huyện, các xã trong cùng miền có đặc điểm gần như nhau.
Miền 1 bao gồm: Thị trấn Cổ Lễ, xã Trực Chính, xã Trung Đông, xã Phương Định, xã Liêm Hải. Đây là miền có dân số đông nhất và cũng rộng nhất với Thị trấn Cổ Lễ là trung tâm văn hóa – chính trị của huyện, các trụ sở của cơ quan huyện đều nằm trên Thị trấn Cổ Lễ. Các xã còn lại của miền là những xã có các làng nghề truyền thống, như chế biến gỗ ở Trung Lao - Trung Đông; mây tre đan ở An Mỹ - Trung Đông; dệt ở Dịch Diệp - xã Trực Chính; ươm tơ ở Cổ Chất - xã Phương Định. Xã Liêm Hải chạy dọc theo trục đường 21 nối liền với các huyện Giao Thủy, Hải Hậu, thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Miền 2 gồm: Xã Việt Hùng, xã Trực Tuấn, Thị trấn Cát Thành, xã Trực Đạo, xã Trực Thanh. Thị trấn Cát Thành là một thị trấn mới được thành lập, trước kia là xã Cát Thành nổi tiếng với nghề tàu biển ở làng Phú An. Các xã ở miền 2 cũng nổi tiếng với nghề truyền thống như thủ công mỹ nghệ, cói chiếu ở Văn Lãng – xã Trực Tuấn; đan vó ở Hạ Đồng – xã Trực Đạo; đan cót ở Ngọc Đông – xã Trực Thanh. Xã Việt Hùng nằm trên trục đường giao thông của huyện nối liền giao thông liên lạc với các huyện khác trong tỉnh.
Miền 3 gồm các xã: Trực Nội, Trực Khang, Trực Mỹ, Trực Hưng, Trực Thuận. Miền nay không có làng nghề truyền thống lại không ở vị trí trung tâm huyện, lao động chủ yếu làm nghề nông là chính.
Miền 4 gồm các xã: Trực Đại, Trực Thái, Trực Thắng, Trực Phú, Trực Cường, Trực Hùng. Miền 4 nằm giáp huyện Giao Thủy, Hải Hậu, nơi có bãi biển Quất Lâm, Hải Thịnh thuận lợi cho phát triển kinh tế biển và giao lưu phát triển kinh tế với các huyện. Ngoài ra Trực Hùng còn có làng nghề kéo cán và se sợi ở làng Tân Lý.
Số lao động được tạo việc làm mới hàng năm của các miền thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 6: Quy mô và cơ cấu lao động có việc làm mới qua các năm theo miền của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2004
2005
2006
Số lao động có việc làm mới (1)
Chia theo:
1. Miền 1.
+ % so với (1)
2. Miền 2.
+ % so với (1)
3. Miền 3.
+ % so với (1)
4. Miền 4.
+ % so với (1)
Người
Người
%
Người
%
Người
%
Người
%
3.750
1.249
33,3
840
22,4
608
16,2
1.053
28,1
4.035
1.319
32,7
912
22,6
681
16,9
1.123
27,8
4.256
1.378
32,4
973
22,9
700
16,4
1.204
28,3
( Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo kết quả giải quyết việc làm của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định giai đoạn 2002-2006)
Qua bảng số liệu cho thấy số việc làm mới được tạo thêm hàng năm của mỗi miền đều tăng lên, cụ thể:
Miền 1 là miền có số việc làm mới được tạo ra nhiều nhất, chiếm trên 30% tổng số việc làm mới được tạo ra hàng năm. Năm 2004 cả huyện tạo thêm được 3.750 chỗ làm việc mới thì miền 1 chiếm 33,3 % tương ứng với 1.249 chỗ làm việc mới. Đến năm 2006 cùng với sự tăng lên của tổng số việc làm mới là 4.256 chỗ việc làm thì miền 1 chiếm 32,4% với 1.378 chỗ việc làm mới. Với vị trí là trung tâm đầu não của huyện, miền 1 giữ vai trò quan trọng, thương mại dịch vụ phát triển sớm tạo thêm được nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động. Nông nghiệp ở miền này cũng phát triển, đất đai mầu mỡ nhờ phù sa sông Hồng bồi đắp thuận lợi cho phát triển cây trồng vật nuôi tạo điều kiện thu hút nhiều lao động tham gia sản xuất. Lúc nông nhàn người lao động ở miền này lại tham gia sản xuất những mặt hàng truyền thống của những làng nghề truyền thống trên địa bàn miền. Những làng nghề truyền thống của miền không những thu hút, tạo được nhiều chỗ làm việc cho lao động trong miền mà còn thu hút được nhiều lao động từ những nơi khác. Sản phẩm của những làng nghề truyền thống của miền rất phong phú, chất lượng ngày càng được nâng cao có thể tiêu thụ qua xuất khẩu ra nước ngoài. Vấn đề đặt ra ở đây là duy trì chỗ làm việc cho người lao động. Muốn vậy miền cần phải tìm đầu ra ổn định cho các sản phẩm truyền thống này.
Miền 4 là miền có số việc làm mới tạo ra hàng năm đứng thứ hai với 1.053 chỗ làm việc năm 2002 (chiếm 28,1% tổng số việc làm mới). Số việc làm mới được tạo thêm cũng tăng qua các năm, đến năm 2006 miền 4 tạo thêm được 1.204 chỗ việc làm mới (chiếm 28,3 % tổng sô việc làm làm mới). Như phân tích trên chúng ta thấy đây là miền tiếp giáp với huyện Giao Thủy, Hải Hậu thuận lợi cho phát triển kinh tế biển và giao lưu phát triển kinh tế. Xã Trực Hùng của miền thuộc cụm công nghiệp đang được đầu tư phát triển nên thu hút được khá nhiều lao động vào làm việc. Miền 4 cũng là miền có số lao động tham gia xuất khẩu lao động và lao động đi tỉnh ngoài. Năm 2006 cả huyện có 900 lao động đi làm vệc tỉnh ngoài; 250 lao động đi xuất khẩu thì miền 4 chiếm 31% số lao động đi tỉnh ngoài với 278 lao động; 34% số lao động đi xuất khẩu lao động tương ứng với 85 người. Xã Trực Phù và xã Trực Hùng là những xã điển hình được huyện dùng làm mẫu để tuyên truyền và nhân rộng mô hình phát triển kinh tế và giải quyết việc làm bằng hình thức xuất khẩu lao động. Ngoài ra miền này còn phát triển ngành trồng cây cảnh, nuôi vật cảnh, hội sinh vật cảnh cũng được thành lập ở xã Trực Đại tạo thêm được nhiều việc làm tại chỗ cho người lao động. Xã Trực Hùng cũng là xã nổi tiếng với nghề tàu biển tạo được rất nhiều việc làm cho lao động nam của miền.
Cùng với sự phát triển chung của toàn huyện, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển đa dạng nhiều thành phần, miền 2 là miền mà các xã có sự phát triển kinh tế khá đồng đều. Thị trấn Cát Thành là một điểm công nghiệp thuộc cụm công nghiệp của huyện, được nhiều doanh nghiệp đầu tư, đây là những cơ hội lớn để người lao động tìm kiến việc làm. Thị trấn Cát Thành mới thành lập năm 2006 là một tiềm năng lớn thu hút đầu tư, đặc biệt là ngành cơ khí hay nghề tàu biển ở làng Phú An thu hút rất nhiều lao động nam không chỉ ở miền 2 mà còn thu hút những lao động trên địa bàn lân cận. Nông nghiệp ở đây cũng phát triển, được phù sa sông Ninh Cơ bồi đắp thu hút được nhiều lao động.
Miền 3 là miền có số lao động được giải quyết việc làm mới hàng năm thấp nhất (16% tổng số lao động), số lao động được giải quyết hàng năm đạt 600 – 700 người. Đây là miền duy nhất không có làng nghề truyền thống, địa phương tự tạo việc làm là chính, lao động chủ yếu làm nông nghiệp, có xã chỉ là thuần nông như xã Trực Thuận. Tuy nhiên, số người trong tuổi lao động của miền này là 14.931 người, ít hơn các miền khác (thấp nhất huyện) chiếm khoảng 15% số người trong tuổi lao động của toàn huyện. Chính vì thế mà số người thất nghiệp ở miền này không phải là cao nhất huyện.
Mặc dù số lao động tạo thêm hàng năm của miền 1 là cao nhất song miền này luôn tồn tại tỷ lệ thất nghiệp cao do số người trong độ tuổi lao động của miền này đông chiếm 33,5% số người trong độ tuổi lao động của toàn huyện với 33.389 người trong tuổi lao động. Điều này đòi hỏi những năm tới huyện cần có biện pháp dịch chuyển lao động giữa các xã nhằm làm giảm áp lực cho người lao động ở những xã thuộc miền 1. Tạo điều kiện cho lao động ở xã vay vốn, phát triển kinh tế trang trại, hướng dẫn người lao động lao động áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
3. Những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Điều kiện tự nhiên, vốn, công nghệ.
Đất và tình hình sử dụng đất: Với tổng diện tích là 143,5 km2, với khoảng 65% đất dùng trong nông nghiệp tức là khoảng 93,275km2 đất nông nghiệp, dân số đông do đó bình quân đất dùng trong nông nghiệp thấp. Chủ yếu là đất trồng trọt chăn nuôi, đất dùng trong công nghiệp và xây dựng là rất ít. Do được bồi đắp bởi phù sa sông Hồng và sông Ninh nên chất lượng đất của huyện khá tốt, độ phì nhiêu cao phù hợp với phát triển cây trồng vật nuôi. Với đặc điểm là vùng đồng bằng, huyện xác định hướng chính là thâm canh tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp. Thực hiện tốt chuyển dịch cơ cấu cây giống, giống năng suất cao, ngắn ngày…, xác định đúng thời vụ, tận dụng thuận lợi về nhiệt độ, ánh sáng, tránh mưa, lũ… Cụ thể:Các xã miền 3 chủ yếu lao động làm việc trong ngành nông nghiệp cần đẩy mạnh công tác hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả; Các xã miền 4 đẩy mạnh hơn nữa công tác trồng cây cảnh, nuôi vật cảnh do công việc này sử dụng nhiều lao ngoài độ tuổi lao động. Những xã này cần phát triển kinh tế trang trại rộng rãi, đặc biệt là trồng hoa, trồng rau sạch xuất khẩu sang khu vực khác tạo điều kiện cơ hội việc làm cho lao động các xã; Xã Phương Định, Trực Chính cần tập trung trồng dâu, nuôi tằm phục vụ cho nghề dệt. Đặc biệt các xã trong huyện cần trú trọng trồng các giống lúa ngắn ngày cho năng suất cao, chất lượng tốt (giống lúa tám thơm, nếp). Ngoài ra cần triệt để sử dụng đất trong thâm canh tăng vụ, gối vụ, có thể trồng hoa màu như ngô, khoai, sắn, cà chua… để tạo thêm việc làm lúc nông nhàn tránh tình trạng lãng phí nguồn nhân lực.
Diện tích đất dùng trong công nghiệp của huyện ngày một tăng lên mỗi năm vài ha đất dùng vào xây dựng nhà máy, xưởng sản xuất. Diện tích đất sẽ bị thu hẹp nếu không có biện pháp mở rộng diện tích. Cần thực hiện tốt công tác quy hoạch đối với đất sử dụng vào xây dựng cơ sở hạ tầng tránh tình trạng có quy hoạch nhưng sau đó để đất hoang phí. Việc xây dựng cụm công nghiệp Thị trấn Cổ Lễ, Thị trấn Cát Thành, xã Trực Hùng càng nhanh càng tốt, cần đảm bảo nguồn điện và nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt và cho sản xuất. Với diện tích đất hạn chế như hiện nay việc phát triển các ngành kinh tế tạo việc làm cho lao động là vấn đề khó khăn. Huyện cần có biện pháp phù hợp quản lý đất đai chặt chẽ hơn tránh tình trạng lãng phí đất.
- Cơ sở hạ tầng và việc áp dụng khoa học kỹ thuật: Nhìn chung tất cả các con đường trong huyện đều được rải nhựa hoặc đổ bê tông. Mạng lưới giao thông đa dạng đang phát triển, trục đường 21 đi qua huyện đang có kế hoạch mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, thu mua nguyên vật liệu, buôn bán và nhu cầu đi lại cho người dân. Mấy năm gần đây hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu được xây dựng đồng bộ và đưa vào sử dụng. Cuối năm 2005 và đầu năm 2006 huyện đã tổ chức sửa chữa lớn và nâng cấp đường dây điện đảm bảo phục vụ sản xuất và tiêu dùng (toàn huyện có 5 hợp tác xã dịch vụ điện). Các công ty, xí nghiệp cũng được xây dựng trên địa bàn huyện. Thông tin liên lạc đang được chú ý phát triển, mạng lưới thông tin rộng khắp (khoảng 30% số hộ dùng điện thoại bàn), tín dụng xã ngày càng phát triển (toàn huyện có 8 quỹ tín dụng nhân dân xã và 1 quỹ tín dụng nhân dân huyện).
Khoa học kỹ thuật cũng được đưa vào áp dụng rộng khắp trong nông nghiệp làm năng suất cây trồng vật nuôi có chuyển biến tích cực, có giá trị kinh tế cao.
Toàn huyện có khoảng 40 doanh nghiệp vừa và nhỏ, tính trung bình mỗi doanh nghiệp có khả năng thu hút từ 15-20 lao động, các doanh nghiệp được trang bị các máy móc tiên tiến, xây dựng nâng cấp nhà xưởng. Đặc biệt có một nhà máy gạch Tuynel đang hoàn thiện dần và sắp đưa vào hoạt động với tổng số vốn đầu tư lên đến hơn chục tỷ đồng. Ngoài ra, năm 2004-2005 có thêm 3 nhà máy dệt được thành lập thu hút từ 30-40 lao động góp phần đáng kể trong giải quyết việc làm ở nông thôn Trực Ninh.
Như vậy, nhìn tổng quát có thể thấy cơ sở hạ tầng của Trực Ninh khá phát triển, chỉ cần tính từ đầu năm đến cuối năm đã thấy có sự thay đổi đáng kể, các con đường đổ ra thị trấn liên tiếp được sửa chữa, nâng cấp. Huyện còn đang thi công lắp đặt công trình nước sạch cho các xã và dự định trong năm tới sẽ lắp đặt thêm cho khoảng 5 xã nữa. Tuy vậy, vẫn còn thiếu những máy móc hiện đại phục vụ cho các ngành công nghiệp - dịch vụ và như thế cần có những đầu tư nhiều hơn cho mảng này.
Tình hình sử dụng vốn:
Trong mọi ngành sản xuất, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng. Vốn là điều kiện để có tư liệu lao động. Nói chung, nguồn vốn của huyện còn hạn hẹp, hơn nữa người lao động rất ít vốn, đặc biệt đối với khu vực nông thôn vì thế chưa tận dụng hết các nguồn lực trong sản xuất. Huyện đã có rất nhiều biện pháp tạo vốn cho người lao động và người sử dụng lao động như hỗ trợ vốn, cho vay với lãi suất thấp, đối với doanh nghiệp thì được miễn, giảm thuế sử dụng đất trong những năm đầu. Tổng kinh phí do chương trình quốc gia GQVL năm 2006 là 2.374 triệu đồng. Qua báo cáo huyện thì vốn vay đã góp phần phát triển sản xuất, tạo nhiều chỗ làm việc cho người lao động, điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7: Tình hình sử dụng vốn của quỹ quốc gia GQVL qua các năm của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
2006
Tổng vốn.
Triệu đồng
2345,6
2551,8
2720
2734
Số dự án.
Dự án
134
147
160
161
Số lao động thu hút.
Người
200
289
402
950
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH- Báo cáo thực hiện dự án GQVL từ
nguồn vốn quốc gia giai đoạn 2003-204)
Vốn được sử dụng vào giải quyết việc làm ngày càng hiệu quả. Số lao động được thu hút vào làm việc đều tăng lên qua các năm, đặc biệt năm 2005-2006 số dự án chỉ tăng lên 1 trong khi số lao động được giải quyết việc làm tăng lên 548 người (= 950-402). Huyện Trực Ninh với lợi thế phát triển các làng nghề truyền thống, thu hút nhiều lao động tự do. Đó là khu vực kinh tế phi chính thức, là những hộ gia đình và những chủ sản xuất kinh doanh. Chính vì thế nguồn vốn cho vay đối với những đối tượng này được đặc biệt chú ý.
Có hai loại vốn là vốn tự có và vốn vay. Nếu tính sơ qua có thể thấy tiềm lực về vốn tự có là mỏng, bình quân khoảng 6 triệu đồng/ hộ gia đình. Số vốn này nếu đem sử dụng phát triển kinh tế hộ gia đình thì là ít và chưa đủ. Còn trong các ngành nghề thủ công thì thường có những chủ kinh doanh lớn hơn, những người lao động lao động nghèo không có khả năng về vốn thì chủ yếu đi làm thuê cho những người chủ này. Những người chủ này có năng lực về vốn tự có, ngoài ra hàng năm họ thường được vay thêm vốn từ các ngân hàng hoặc từ các nguồn vốn ưu đãi của nhà nước liên kết với một số tổ chức quốc tế như quỹ Việt - Đức tài trợ để phát triển kinh tế vùng. Theo con số thống kê thì một năm những làng nghề như ươm tơ, dệt vay khoảng 3-4 tỷ đồng; nghề mộc vay trên 20 tỷ đồng của ngân hàng và các nguồn vay khác. Một số ngành như thêu, mây tre đan thì ít hơn khoảng 1 tỷ đồng. Nhìn chung số vốn nợ đọng quá hạn không nhiều khoảng 10%, điều này chứng tỏ việc sử dụng vốn vay để phát triển kinh doanh thu hút lao động là có hiệu quả.
Như vậy, có thể thấy rằng: Lượng vốn hàng năm cung cấp để phát triển sản xuất kinh doanh đối với hộ gia đình và chủ sản xuất kinh doanh là tương đối. Vốn này cũng được sử dụng rất hữu ích, có hiệu quả mang đến nhiều cơ hội việc làm cho lao động. Tuy vậy, trong công tác thẩm định cho vay vốn còn nhiều thủ tục rờm rà, mong rằng sớm có những cách giải quyết nhanh hơn, hướng dẫn cụ thể hơn tạo điều kiện phát triển hơn nữa kinh tế huyện, từ đó thu hút được nhiều lao động.
Nguồn vốn cho vay tập trung chủ yếu vào cơ sở hạ tầng giáo dục, đào tạo nghề, phát triển tiểu thủ công nghiệp, xây dựng doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện. Nhìn chung lượng vốn được huy động cho sản xuất còn chưa đáp ứng được con số mỗi năm cần cho vấn đề đầu tư xây dựng. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn và thách thức lớn cần giải quyết.
Lực lượng lao động của huyện.
Lực lượng lao động của huyện không ngừng tăng lên qua các năm. Hàng năm, huyện có một lực lượng lao động khá lớn cần tìm việc làm. Tuy vậy lao động không có việc làm những năm qua nhiều gần 1000 lao động. Trong số thất nghiệp, số lao động có trình độ không phù hợp với công việc cũng khá cao. Chất lượng lao động của huyện còn thấp (năm 2006 tỷ lệ lao động qua đào tạo là 32% với 35.500 người). Nhìn chung, mỗi năm trung bình có khoảng 28,18% số lao động trong độ tuổi được qua đào tạo về học chuyên ngành ở các trường đại học, cao đẳng hay học nghề trong các trường trung học, làng nghề, cơ sở, trung tâm dạy nghề. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở huyện còn rất nhiều, mặc dù cứ đều đặn hàng năm giảm tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo và tăng tỷ lệ qua đào tạo nhưng tốc độ này còn chậm mới chỉ thay đổi được những con số ở hàng đơn vị, bảng 8 thể hiện rõ điều này:
Bảng 8: Chất lượng lao động những năm qua của
huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng số lao động (1).
Trong đó:
Lao động qua đào tạo.
+ % so với (1)
Lao động chưa qua đào tạo.
+ % so với (1)
Người
Người
%
Người
%
99.662
24.018
24,1
75.644
75,9
100.236
26.261
26,2
73.975
73,8
100.844
28.236
28
72.608
72
101.125
30.944
30,6
70.181
69,4
101.486
32.475
32
69.011
68
(Nguồn: Phòng thống kê-Báo cáo dân số - lao động
giai đoạn 2002-2006 huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định)
Tuy số người thất nghiệp hàng năm không ngừng tăng, những người thất nghiệp có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì họ lại không về quê. Vì thế, muốn chất lượng lao động được nâng lên thì huyện cần đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Huyện cần có chính sách khuyến khích người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bằng các biện pháp khác nhau, cả vật chất lẫn tinh thần, tạo điều kiện cho họ có thể tìm được việc làm phù hợp. Số lao động không có trình độ chuyên môn cần được cử đi học thêm các lớp đào tạo tại địa phương (có thể ở Hà Nội, các tỉnh khác). Đồng thời tạo điều kiện cho sinh viên ra trường trở về quê hương công tác, tránh hiện tượng chảy máu chất xám trong lực lượng lao động huyện.
Cơ chế chính sách kinh tế xã hội của huyện.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế:
Tổ chức chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi thu hút lao động vào đầu tư thâm canh. Tập trung phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là phát triển các làng nghề truyền thống thu hút rất nhiều lao động. Nhìn chung, những năm qua huyện đi vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, chưa có sự đồng bộ, sản xuất kinh doanh chưa đi vào ổn định, ngành nghề dịch vụ còn kém. Đặc biệt sản xuất công nghiệp quy mô còn nhỏ, trình độ công nghệ chưa hiện đại. Huyện cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, chế biến, công nghiệp nhẹ, phát triển dịch vụ thương mại.
Thị trường tiêu thụ:
Bất cứ ai khi tiến hành sản xuất kinh doanh trước hết họ phải nghĩ đến nguồn cung cấp tư liệu sản xuất và thị trường tiêu thụ, sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo cả chất lượng và số lượng. Điểm mạnh của huyện là các ngành nghề thủ công, sản phẩm của kinh tế hộ gia đình thông thường được bán ngay trong vùng hoặc các huyện, tỉnh lân cận. Đặc biệt có một số ngành như: Thêu, mây tre đan, ươm, dệt tơ tằm, mộc còn có thị trường ở các tỉnh xa thuộc miền Trung, miền Nam, thậm chí được xuất khẩu ra nước ngoài như: Trung Quốc, Lào, Thái Lan. Có một số thị trường trở thành truyền thống ở một số ngành như: Ươm, dệt tơ tằm (thị trường là Nam Cao – Thái Bình); mộc (thị trường: Đà Nẵng, Hà Nội, Quảng Nam…); thêu ren (thị trường: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh). Hiện nay có một số sản phẩm thế mạnh của huyện như: Tơ, dệt, mây tre đan, thêu… chất lượng rất cao đáng tin cậy có thể len lỏi cả vào những thị trường khó tính như ở các thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh). Tuy vậy, nhưng số lượng chưa nhiều và chưa có một sản phẩm nào mang một danh hiệu một tên gọi nổi tiếng. Vả lại có một số đặc điểm trong các ngành nghề này là: Sản xuất nhỏ lẻ, tách rời nhau nên sản phẩm của mỗi hộ gia đình lại mang bán ở những thị trường khác nhau. Điều này làm cho huyện thiếu tính liên kết, đồng bộ sản phẩm ở các thị trường dẫn đến hạ thấp giá thị sản phẩm. Do đó, cần phải có những biện pháp cụ thể trong đầu tư công nghệ, chất lượng lao động, vốn… để sản phẩm ngày càng có uy tín trên thị trường, nhất là tạo được thương hiệu trên thị trường. Tích cực sáng tạo, phát huy ưu điểm để sản phẩm ngày càng có chất lượng, dần dần có chỗ đứng, có thương hiệu trên những thị trường quen thuộc và ngoài ra còn tìm cách mở rộng sang những thị trường mới có tiềm năng mà các cơ sở sản xuất kinh doanh trong huyện chưa hề xâm nhập tới.
Cơ chế chính sách của TW và địa phương:
Trong những năm qua Phòng Nội vụ Lao động TBXH đã tích cực chủ động tham mưu cho Huyện ủy – UBND huyện Trực Ninh triển khai thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động đảm bảo đúng quy định. Các cơ quan ban ngành địa phương đã nhiệt tình và nỗ lực phấn đấu làm việc để phát triển kinh tế xã hội. Tỉnh đã cùng huyện tập trung thực hiện chương trình quốc gia, đặc biệt là chương trình mục tiêu việc làm, xóa đói giảm nghèo và phòng chống tệ nạn xã hội. Chương trình giải quyết việc làm của huyện Trực Ninh đã được UBND huyện tập trung chỉ đạo các cấp các ngành thực hiện hai nhóm giải pháp chính để GQVL ở địa phương là:
+ Phát triển kinh tế xã hội để tạo việc làm và giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động xã hội như: Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ; tập trung đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; phát triển làng nghề ở các xã, thị trấn; phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ.
+ Thực hiện các giải pháp hỗ trợ. Đó là các chương trình cho vay vốn mức lãi suất ưu đãi; đào tạo nghề gắn với giới thiệu việc làm; đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động; ngoài ra còn thực hiện một số chương trình tín dụng, ngân hàng phục vụ người nghèo, chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình…
Năm 2005, 2006 việc thực hiện giải quyết việc làm đạt kết quả khá tốt (trên 4.000 việc làm mới mỗi năm). Công tác đào tạo nghề gắn với dịch vụ giới thiệu việc làm hoạt động hiệu quả hơn. Trung tâm dạy nghề Trực Ninh nay là Trường dạy nghề, đã đào tạo 1.950 lao động, trong đào tạo dài hạn là 1.100 người, ngắn hạn là 850 người, tư vấn giới thiệu việc làm cho hơn 500 lượt người.
Tạo việc làm là một trong những vấn đề bức xúc và liên quan đến cuộc sống của nhiều người. Do đó cần có sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự phối hợp đồng bộ giữa các ban ngành đoàn thể, giữa các chương trình, dự án.
Những mặt tồn tại và nguyên nhân:
Trong những năm qua huyện đã khắc phục được phần nào những khó khăn, cũng đã có những kinh nghiệm và những hướng đi đúng trong công tác tạo việc làm. Hàng năm số lao động được tạo việc làm của huyện không ngừng tăng lên. Có được kết quả đó là nhờ sự quan tâm nhiệt tình của các cấp ủy Đảng, các ban ngành lãnh đạo tới cuộc sống của người dân. Tuy nhiên, còn tồn tại một số vấn đề sau:
Số lao động được giải quyêt việc làm của huyện thấp hơn số lao động cần được giải quyết việc làm, lao động thường xuyên không có việc làm và thiếu việc làm còn chiếm tỷ lệ cao khoảng 30% tương ứng với 30.176 người.
Chất lượng lao động của huyện chưa cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo của huyện đạt 32% tổng số lao động có việc làm (năm 2006), số lao động chưa có trình độ thì phải mất thời gian lâu cho quá trình đào tạo. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ít, còn phải tuyển ở nơi khác đến, chất lượng lao động nhiều khi chưa đạt tiêu chuẩn.
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn ở mức cao, năm 2006 là 1,5%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn chiếm 81% ( năm 2006). Như vậy vẫn có một lực lượng lao động không có việc làm hoặc việc làm không đầy đủ.
Các ngành nghề ở địa phương không được đào tạo theo chiều sâu, quy trình công nghệ không được đổi mới, nhiều sản phẩm không cạnh tranh được với thị trường bên ngoài.
Các hoạt động trợ giúp người lao động, người thất nghiệp chưa đủ mạnh
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đủ mạnh để tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động.
Nguyên nhân của những tồn tại:
Ngân sách cho vấn đề tạo việc làm chưa đáp ứng được, số lượng vốn chỉ mới đáp ứng được trên 50% nhu cầu. Biện pháp thực hiện chưa đạt hiệu quả cao. Việc biên chế cán bộ làm công tác quản lý lao động và tạo việc làm chưa được coi trọng cả về số lượng và chất lượng theo yêu cầu của phát triển nền kinh tế thị trường.
Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật chưa được đồng bộ, chưa được chú trọng. Thiết bị sản xuất của các cơ sở sản xuất có thể được đổi mới nhưng chưa mở rộng được quy mô, lạc hậu, giá thành cao, tính cạnh tranh giảm. Các cơ sở sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn về vấn đề tài chính, vốn kinh doanh tư nhân chủ yếu là vốn vay ngân hàng, vốn tự có của các hộ gia đình còn mỏng. Thiếu đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật giỏi, năng động nên vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản gặp nhiều khó khăn, cơ sở chế biến những mặt hàng này chưa đạt tiêu chuẩn.
Việc thu hút vốn đầu tư bên ngoài chịu sự cạnh tranh gay gắt bởi các khu vực lân cận, nhu cầu đầu tư là rất lớn song nguồn vốn và khả năng huy động nội lực lại hạn chế.
Hạ tầng cơ sở đã được cải thiện nhưng chất lượng chưa cao, nhiều đoạn đường sửa đi sửa lại gây ách tắc và hạn chế đi lại, nhất là cơ sở hạ tầng cho phát triển thương mại dịch vụ. Sự hấp dẫn đầu tư cho lĩnh vực này chưa cao, còn tồn tại tư tưởng nhà nước bao cấp.
Huy động vốn phát triển nhanh nhưng chủ yếu là vốn ngắn hạn, nguồn vốn trung và dài hạn còn ít do đó chưa đáp ứng được nhu cầu. Thủ tục vay vốn còn phức tạp, đôi lúc chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Trong phương hướng hàng năm của các cấp ngành về vấn đề giải quyết việc làm chưa được đề cập đúng vị trí, các chỉ tiêu quan trọng chưa được lượng hóa. Số liệu điều tra về lao động việc làm trước đây không được đầy đủ vì thế việc thu thập số liệu xây dựng mất nhiều thời gian. Vẫn còn tồn tại bộ phận chưa có ý thức tự tạo việc làm, còn trông chờ vào Nhà nước.
Từ những phân tích khách quan nhận thấy, việc tạo việc làm có khả quan nhưng chưa cao. Số người chưa có việc làm và người thiếu việc làm còn nhiều, là một lãng phí vô hình lớn về tài lực và nhân lực, cũng là lãng phí về lực đối với xã hội.
Trực Ninh là một huyện nông nghiệp nhưng nói chung giá trị hàng hóa nông nghiệp chưa cao, sản phẩm còn thiếu tính đa dạng. Ngành công nghiệp, dịch vụ ngày càng thu hút nhiều lao động. Tuy vậy, mức sống chung của huyện còn thấp. Đã có một số sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu nhưng số lượng không nhiều. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chưa cao.
Tóm lại, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động của huyện cần phải tiếp tục giải quyết nhiều mặt nữa, cần phối hợp mọi biện pháp, nhân lực thích hợp, không nên quá kỳ vọng và đề cao kết quả đã đạt được.
Phần 3: Giải pháp và kiến nghị về việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
I. Mục tiêu việc làm trong những năm tới của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Trong những năm qua nền kinh tế của huyện có những bước tăng trưởng khá, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng giá trị thu nhập trên một ha canh tác, các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển đa dạng nhiều thành phần, các làng nghề truyền thống của huyện như dệt, thêu ren, mộc, tơ tằm, mây tre đan, … đang ngày một phát triển, các khu vực công nghiệp: Thị trấn Cổ Lễ, xã Trực Hùng, thị trấn Cát Thành đang được nhiều doanh nghiệp đầu tư, đây là những cơ hội lớn để người lao động tìm kiếm việc làm.
Để người lao động có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, Trung tâm dạy nghề huyện Trực Ninh đã liên tiếp đào tạo và cung ứng hàng nghìn công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp trong nước cũng như xuất khẩu lao động. Đây cũng là một giải pháp quan trọng trong việc giải quyết việc làm được UBND huyện quan tâm chỉ đạo. Căn cứ vào kết quả đã đạt được của năm 2006, Phòng Nội vụ Lao động TBXH huyện Trực Ninh xây dựng chỉ tiêu kế hoạch những năm còn lại của giai đoạn 2006-2010 như sau:
Bảng 9: Mục tiêu giải quyết lao động việc làm những năm tới của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Chỉ tiêu
Đơn vị
2007
2008
2009
2010
1. Dân số
1000 người
201,0
202,5
204,2
206,0
2. Dân số trong độ tuổi lao động
1000 người
113,4
114,5
115,8
117,0
3. Số lao động tham gia trong nền KTQD
1000 người
104,1
105,1
106,0
107,0
4. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị
%
1,4
1,3
1,2
1,0
5. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động khu vực nông thôn
%
82
83
84
85
6. Tổng số lao động được tạo việc làm
Chia theo nơi làm việc:
+ Tại địa phương
+ Đi làm ở tỉnh ngoài
+ Xuất khẩu lao động
+ GQVL từ quỹ quốc gia GQVL
1000 người
1000 người
1000 người
1000 người
1000 người
5,07
2,45
1,10
0,37
1,15
5,7
2,7
1,25
0,45
1,3
6,4
3,1
1,4
0,5
1,4
7,0
3,43
1,5
0,57
1,5
(Nguồn: Phòng Nội vụ LĐTBXH-Báo cáo xây dựng chỉ tiêu kế hoạch giai đoạn 2007-2010 của huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định)
Với mục tiêu chủ yếu: Mỗi năm giải quyết được 5.500 lao động có việc làm, đến năm 2010 giải quyết được 7.000 lao động có việc làm; Công tác dạy nghề: Mỗi năm đào tạo được từ 2.000 đến 3.000 lao động, đến năm 2010 số người qua đào tạo nghề là 37.400 người đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề là 32%, đưa số lao động qua đào tạo lên 49.100 người đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo là 42%; Công tác xóa đói giảm nghèo: Mục tiêu đến năm 2010 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 5,5%.
II. Giải pháp và kiến nghị về việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
1. Giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Để đạt được những mục tiêu trên, chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của huyện để tạo việc làm cho người lao động như sau:
1.1. Phát triển kinh tế xã hội để tạo việc làm và giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động xã hội:
Hiện nay cả cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của huyện còn lạc hậu. Mặc dù trong những năm qua đã có những chuyển biến đáng kể song còn chậm chạp dẫn đến sự chuyển đổi về lao động chưa mạnh mẽ, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và việc làm của người lao động nông thôn. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cầu kinh tế trên các phương diện. Trước hết là chuyển dịch cơ cấu cây trồng – vật nuôi. Trong sản xuất phải xác định rõ trồng cây gì có hiệu quả cho địa phương. Cần phải có tỷ lệ hợp lý để cân đối giữa cây lúa cho năng suất cao và lúa đặc sản. Ngoài ra, tiến hành hình thành các vùng có tính chất chuyên canh, vùng rau sạch… Trong chăn nuôi cần chú ý hình thành các trại nuôi tập trung, quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài huyện. Bên cạnh đó, công tác phục vụ sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, dịch vụ tài chính, kỹ thuật nông nghiệp chế biến nông sản cần phải tổ chức lại theo hướng hợp tác xã cổ phần dịch vụ. Ngoài ra, yêu cầu phải đa dạng hóa ngành nghề nông nghiệp nông thôn cả về chiều rộng và chiều sâu, tập trung vào các ngành dịch vụ nông nghiệp như chế biến, lưu thông hàng hóa giúp thu hút nhiều lao động nông nghiệp.
Tập trung đầu tư sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề ở các xã, thị trấn, nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy nhanh tiến độ xây dựng cụm công nghiệp thị trấn Cổ Lễ, xã Trực Hùng, thị trấn Cát Thành, tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích và thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp, ưu tiên các ngành có lợi thế phát triển và thu hút nhiều lao động như: Cơ khí, dệt may, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản…, tranh thủ phát triển các ngành nghề mới, đầu tư cho nhà xưởng cho các doanh nghiệp để tạo thêm chỗ làm việc mới cho người lao động.
Cần tranh thủ nguồn vốn phục vụ đê kè (tránh tình trạng hỏng không kịp sửa); Nâng cấp mở rộng hệ thống đường bộ, tận dụng sử dụng lao động phổ thông tại chỗ.
Trực Ninh có những ưu thế rất lớn về những làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường sự tồn tại và phát triển của các làng nghề này cũng gặp không ít những khó khăn. Đó là sự cạnh tranh về mẫu mã, giá cả đối với các mặt hàng khác cùng chủng loại. Do đó, phát triển làng nghề yêu cầu tùy thuộc rất nhiều vào việc xây dựng đội ngũ nghệ nhân giỏi và việc truyền nghề cho lao động. Ngoài ra, cần tính đến sự hỗ trợ của các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các doanh nghiệp trên địa bàn về công nghệ, nguyên liệu và khâu tiêu thụ sản phẩm.
1.2. Nhóm giải pháp hỗ trợ.
Hỗ trợ về vốn: Vốn là một trong những nguồn lực quan trọng hàng đầu trong sản xuất. Nông thôn huyện đang có nhu cầu rất lớn về vốn để phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề, mở rộng quy mô kinh doanh. Hiện nay, phổ biến nhất là hình thức tín dụng – hình thức được đánh giá có hiệu quả, cần mở rộng ngày càng nhiều những hình thức này như: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng dành cho người nghèo, các quỹ tín dụng nhân dân, các ngân hàng cổ phần, hợp tác xã tín dụng… Ngoài ra, cần huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong một bộ phận dân cư để đầu tư cho sản xuất với lãi suất hợp lý để tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông thôn. Đặc biệt chương trình cho vay từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm với các dự án giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn huyện. Để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này UBND huyện cần chỉ đạo Phòng Nội vụ Lao động TBXH, Ngân hàng chính sách xã hội, cùng với các ngành chức năng và các xã, thị trấn tuyên truyền phổ biến cho nhân dân về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cho vay vốn để giải quyết việc làm. Công tác thẩm định trước khi quyết định cho vay vốn cần phải được thực hiện nghiêm túc (thực hiện cho vay đúng mục đích, đúng đối tượng), đảm bảo thuận lợi nhanh chóng, tránh gây phiền hà khó khăn. Các dự án sử dụng vốn vay cần phải được kiểm tra quản lý, phân công phụ trách kiểm tra và có báo cáo thường xuyên về việc sử dụng vốn của chủ dự án (để hiệu quả đồng vốn là cao nhất).
Tổ chức dạy nghề gắn với tạo việc làm, cần làm như sau: Việc dạy nghề phải được thực hiện theo hợp đồng học nghề; Tổ chức các lớp đào tạo tập huấn cho cán bộ làm công tác dịch vụ việc làm, giáo viên dạy nghề; Đầu tư trang thiết bị cho các trung tâm dạy nghề nhất là cho các cơ sở dạy nghề dành riêng cho người khuyết tật, hỗ trợ các làng nghề truyền thống; Cần giáo dục định hướng cho học sinh phổ thông; Để đạt được mục tiêu mỗi năm giải quyết 5.500 chỗ làm việc mới, rõ ràng chi phí cho vấn đề này là rất lớn. Do đó, đầu tư đào tạo nghề phát triển cần đi sâu đào tạo nghề phù hợp (đúng người, đúng việc). Cần thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn: Nguồn ngân sách Nhà nước là chính nhưng cũng cần chú ý thu hút vốn địa phương, doanh nghiệp. Cũng có thể cắt cử cán bộ đi học ở các trung tâm để nâng cao trình độ, kiến thức kỹ năng.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, để làm tốt công tác này thời gian tới cần làm tốt: Chuẩn bị tốt nguồn lực (có kế hoạch dạy nghề, liên kết với các cơ sở đào tạo và các cơ quan xuất khẩu lao động; Hướng cho học sinh học ngoại ngữ khi học phổ thông; Đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề để đạt được kết quả cuối cùng là người lao động có trình độ); Tìm kiếm thị trường xuất khẩu lao động (thị trường trong nước: Hà Nội, Hải Phòng… và các khu công nghiệp khác; thị trường ngoài nước: Đài Loan, Hàn Quốc, Malaixia…; Xuất khẩu trực tiếp cho các công ty xuất khẩu lao động).
Tổ chức các dịch vụ việc làm trong thị trường lao động, chẳng hạn như tổ chức các hội chợ việc làm tạo điều kiện để người lao động và người sử dụng lao động gặp nhau; Huyện cũng cần phải tổ chức kiểm tra giám sát các thông tin thị trường và kiểm tra giám sát các trung tâm việc làm.
1.3. Các giải pháp kiểm soát việc thực hiện chỉ tiêu tạo việc làm.
Thành lập ban chỉ đạo phân công cán bộ làm công tác tạo việc làm ở các xã, thị trấn. Hiện nay, ở mỗi xã, thị trấn đã có cán bộ TBXH chuyên trách nên công tác kiểm soát việc thực hiện chỉ tiêu tạo việc làm ở từng xã, thị trấn đạt hiệu quả cao tạo điều kiện cho việc kiểm soát cấp huyện được chặt chẽ và hiệu quả hơn, điều này cần được phát huy.
Tuyên truyền thấy rõ tính cấp bách cần thiết tạo việc làm cho người lao động. Các cấp ngành cần đưa mục tiêu cụ thể theo từng tháng, quý, năm từ đó đặt ra mục tiêu, bài học cho thời gian tới.
Thiết lập hệ thống báo cáo thống kê trong các cơ sở doanh nghiệp về tình hình sử dụng lao động. Tổ chức kiểm tra, kiểm soát lao động việc làm trên toàn huyện.
Thông tin về thị trường lao động: Thông tin tuyên truyền về chương trình việc làm như pháp luật, thực trạng lao động việc làm, giới thiệu nội dung hỗ trợ việc làm của Nhà nước và đoàn thể thông qua báo, đài, truyền hình, phóng sự, …
1.4. Giải pháp đối với lãnh đạo và tổ chức thực hiện.
Tranh thủ sự chỉ đạo của Huyện ủy - UBND huyện, sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Lao động TBXH, sự phối hợp của các cấp ngành, với sự phấn đấu nỗ lực của cán bộ công chức trong ngành.
Nhiệm vụ của các ngành, các cấp có liên quan: Ngành Lao động TBXH là cơ quan thường trực chỉ đạo chặt chẽ của trung tâm dịch vụ việc làm, cơ sở đào tạo nghề, trường nghề, tổng hợp chung tình hình thất nghiệp, tạo việc làm…
Ngành tài chính kế toán, Kế hoạch đầu tư, Ngân hàng đề xuất các giải pháp vốn, chính sách vay vốn và thu hút vốn.
UB dân số với nhiệm vụ kiểm soát sự gia tăng dân số, đặc biệt là lực lượng lao động nơi khác đến.
2. Một số kiến nghị tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Là một huyện nằm ở vị trí thuận lợi trong giao thông liên lạc; có những ngành nghề truyền thống lâu đời thu hút nhiều lao động, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, số lao động trong huyện chưa phát huy hết được khả năng khiến năng suất và thu nhập còn thấp. Do đó cần phải có biện pháp và hướng đi đúng, kịp thời để khắc phục những nhược điểm, tận dụng phát huy những ưu điểm sẵn có trong nguồn vốn của lực lượng lao động. Qua phân tích số liệu, tìm hiểu tình hình lao động ở huyện Trực Ninh, xin góp ý một số ý kiến trong việc cải tạo chất lượng lao động phục vụ cho những ngành nghề truyền thống:
2.1. Hoàn thiện công tác đào tạo nghề.
Xây dựng hoàn thiện hệ thống vật chất cơ sở hạ tầng.
Trong số 10 cơ sở dạy nghề có 1 trung tâm và 9 cơ sở dạy nghề của tư nhân. Trung tâm dạy nghề với 1 dãy nhà 2 tầng khoảng 18 phòng, dãy nhà cấp 4, do được thành lập từ năm 2000 nên có nhiều trang thiết bị phục vụ cho quá trình học còn thiếu, máy móc phương tiện chưa đủ hiện đại để giúp học sinh có cơ hội tiếp cận cái mới. Ở những cơ sở dạy nghề tư nhân trang thiết bị còn thiều thốn, cũ kỹ cần phải được đầu tư vốn để nâng cấp thay thế cho phù hợp hơn.
Hiện nay, khi hệ thống thông tin toàn cầu đang được cập nhật chi tiết từng ngày, từng giờ thì nhu cầu về tin tức rất cao. Tuy nhiên, ngay tại trung tâm có khoảng 10 máy vi tính chưa được nối mạng và số người biết sử dụng máy thì rất ít, còn ở các cơ sở tư nhân thì hầu như là không có. Điều này cũng cần phải lưu ý để những học sinh có cơ hội hơn trong việc tiếp nhận thông tin và học hỏi kịp thời cái mới ngoài xã hội.
Do đặc thù một số ngành như may mặc, thêu, đan học ngắn nên phải mở các lớp dạy nghề ngắn ngày đào tạo kịp thời lượng lao động để sản xuất những sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng khó tính của khách hàng.
Đào tạo.
Qua điều tra cho thấy: Những cơ sở dạy nghề trên địa bàn huyện chủ yếu dạy các nghề như sửa chữa máy móc, may mặc. Còn các ngành nghề truyền thống như: Mây tre đan, thêu thùa… hầu như không có trong chương trình dạy và học, cần lưu ý bổ sung thêm trong chương trình dạy. Được biết, thường thì mỗi ngành nghề truyền thống đều có những nghệ nhân rất giỏi, rất am hiều về nghề. Cơ sở dạy nghề nên mời họ về trực tiếp dạy học sinh chắc chắn sẽ có hiệu quả cao và lại kinh tế vì tiền lương trả cho họ sẽ không quá cao. Như thế trung tâm sẽ bỏ ra được một khoản tiền dành cho đầu tư máy móc trang thiết bị.
Một điều đáng chú ý ở đây nữa là đội ngũ giáo viên: Cần phải tìm nhiều giáo viên giỏi, yêu nghề, phải có cách truyền đạt dễ hiểu, dễ tiếp thu. Vì đại đa số những học sinh học nghề ở đây mới chỉ học hết cấp I, cấp II nên khả năng nhận thức của họ không được nhanh nhạy bằng những người học hết cấp cao hơn. Do vậy, muốn dạy có hiệu quả thì người thầy phải biết lắng nghe ý kiến của học sinh và phải có kiến thức sâu rộng truyền đạt cho học sinh bằng những cách dễ hiểu nhất.
Công tác hướng nghiệp.
Hiện nay, có một tình trạng chung trong công tác giáo dục đào tạo đó là: học sịnh sau khi học hết phổ thông trung học đều có xu hướng, cố gắng sao cho thi được vào một trường Cao đẳng, Đại học nào đó. Có học sinh ôn thi 2 – 3 năm không được, cuối cùng trở thành người không có công ăn việc làm, không biết làm việc gì dễ bị sa ngã vào những tệ nạn xã hội; hoặc có những người sau khi học xong ra trường cũng không có việc làm vì họ học những ngành ít có cơ hội kiếm được việc làm trên thị trường chính thức. Vì vậy làm cho lượng thất nghiệp ngày một tăng lên. Thiết nghĩ, các bậc phụ huynh, giáo viên, các cơ quan chức năng phải có những cách tuyên truyền phổ biến hướng nghiệp cho các em ngay từ khi học xong trung học cơ sở, dẫn dắt để các em suy nghĩ lựa chọn cho mình con đường đi đúng đắn, thấy được học nghề cũng là một cách để bước vào cuộc sống tương lai chắc chắn và ổn định.
Còn nhiều bất cập trong công tác giáo dục – đào tạo nghề, mong rằng các trung tâm, các cơ sở đào tạo của huyện sớm khắc phục những khó khăn trước mắt, ngày càng hoàn thiện hơn về chất lượng cơ sở hạ tầng, trau dồi tăng cường đội ngũ giáo viên để thu hút được nhiều học sinh và hàng năm đưa ra ngoài xã hội những lao động lành nghề phù hợp với yêu cầu của thị trường giúp tăng trưởng kinh tế của huyện, góp phần phát triển đất nước.
2.2. Công tác quản lý, sử dụng lao động đối với các ngành nghề truyền thống.
Hàng năm huyện có khoảng 100 người lao động bước vào tuổi lao động, trong đó chỉ có trên 25% là công nhân viên làm công ăn lương hoặc công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc khu vực chính thức. Số lao động còn lại thuộc khu vực phi chính thức. Nhận thức rõ vai trò tạo việc làm to lớn của khu vực kinh tế phi chính thức nhưng lại còn nhiều thiếu sót trong công tác quản lý và sử dụng lao động khu vực này:
Về công tác quản lý.
Quản lý về số lượng lao động: Phải thường xuyên theo dõi những biến động trong dân số để có những biện pháp điều chỉnh cho hợp lý với điều kiện kinh tế xã hội của huyện. Tránh hiện tượng dư thừa lao động làm nảy sinh nhiều tệ nạn gây bất ổn cho an ninh trật tự của huyện. Các cơ quan có thẩm quyền và Nhà nước cần có những ưu đãi thiết thực về vốn, những chính sách để phát triển kinh tế hộ gia đình, phát triển các làng nghề truyền thống (là địa điểm thu hút nhiều lao động). Và hơn nữa tránh được tình trạng những lao động này ồ ạt đổ ra các thành phố lớn kiếm việc, làm quá tải gây sức ép lớn về nhiều mặt ở các thành phố (nhà ở, điện nước …), những thanh niên nông thôn có công việc ổn định đi vào nề nếp sẽ hăng hái nhiệt tình tham gia sản xuất, xây dựng quê hương, sống lành mạnh, lao động ngoài độ tuổi được làm những công việc nhẹ nhàng giúp có thêm thu nhập cải thiện cuộc sống gia đình.
Quản lý về chất lượng lao động: Không phải cứ đầu tư cho các trung tâm, các cơ sở dạy nghề đầy đủ về cơ sở vật chất và những điều kiện khác thì sẽ có được một chất lượng đầu ra như mong muốn. Trong quá trình dạy và học cần phải có sự động viên, khuyến khích, những việc thiết thực bám sát thực tế (những làng nghề sản xuất ra sản phẩm cần phải tìm được thị trường tiêu thụ, sản phẩm kinh tế hộ gia đình bán phải được giá…), có như thế mới thu hút được học sinh học nghề để nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Trong quá trình dạy, giáo viên phải thường xuyên cập nhật những tin tức, kiến thức mới, trau dồi thêm nghiệp vụ để kịp thời truyền đạt cho học sinh. Như vậy khi ra trường học sinh mới tự tin đi xin việc và làm việc hiệu quả. Trong quá trình học cần có những xuất học bổng cho những học sinh học giỏi, ưu đãi những học sinh nghèo để các em có cơ hội được học, được đào tạo giúp các em thoát nghèo.
Chất lượng lao động không chỉ ở trình độ học vấn, độ hiểu biết nghề nghiệp, điều hết sức quan trọng được thể hiện ở sức khỏe, thể lực của người lao động. Những người lao động thuộc khu vực kinh tế phi chính thức thường không có được sự quan tâm của các cấp chính quyền về mảng y tế, sức khỏe. Do đó, khi bị ốm đau họ thường tự lực đến các cơ sở y tế để khám chữa bệnh. Không có thẻ BHYT họ phải bỏ toàn bộ chi phí, rất tốn kém, đặc biệt là những lao động nghèo. Do vậy, cần có sự quan tâm hơn về sức khỏe, thể lực của người lao động lao động thông qua công tác y tế và thể dục thể thao rèn luyện sức khỏe.
Về sử dụng lao động.
“Li nông bất li hương” là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, theo đó các cấp chính quyền và nhân dân Trực Ninh đã có rất nhiều cố gắng trong việc dịch chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Hàng năm, diện tích đất nông nghiệp có chiều hướng giảm xuống, lao động trong các ngành công nghiệp – dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên, kinh tế phát triển mang đến nhiều công nghệ máy móc hiện đại giúp thay thế nhiều lao động chân tay. Chính điều này đã làm giảm cầu sử dụng lao động trong các cơ sở sản xuất kinh doanh khiến người lao động không có việc làm. Vì vậy, có thể thấy trong một số ngành hàng năm có xu hướng giảm tỷ lệ sử dụng lao động. Mặt khác, số lao động qua đào tạo nghề khi ra trường có những người chưa tìm được việc làm ngay tại địa phương hoặc không muốn làm vì tiền công thấp nên họ lại bắt đầu cuộc hành trình gia nhập vào đội ngũ lao động tự do ở khu vực kinh tế phi chính thức tại các thành phố lớn. Trước tình hình này, cần lưu ý công tác sử dụng lao động của huyện ở một số mặt:
+ Cần có tỷ lệ hợp lý giữa thu hút đầu vào đào tạo nghề và nhu cầu sử dụng lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh.
+ Hỗ trợ, giúp đỡ về vốn ban đầu, cơ sở vật chất, giúp kinh tế hộ gia đình phát triển bằng các biện pháp như: Cho vay với lãi suất hợp lý, đầu tư cây giống, con giống trong trồng trọt và chăn nuôi… để họ tự lo cho cuộc sống gia đình mình; nếu hộ nào khá giả có thể có khả năng mượn thêm lao động ngoài, giúp giảm bớt lực lượng lao động tự do dư thừa ở nông thôn.
+ Một số nghề thủ công truyền thống cần được hỗ trợ về vốn, được cung cấp thông tin về thị trường thường xuyên, được giúp đỡ cho việc tìm đầu ra cho sản phẩm góp phần giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trong huyện.
+ Mặt khác trong công tác xuất khẩu lao động, các cơ quan chức năng cần năng động hơn nữa để giúp một số lao động có cơ hội đi làm việc ở một số nước có nhu cầu về lao động giản đơn.
+ Cần có dịch vụ tư vấn hỗ trợ tìm việc miễn phí để những lao động này được hiểu rộng hơn và biết cách tìm việc.
+ Trong mỗi xã, thị trấn cần có những đoàn thanh niên tích cực, năng động, sáng tạo tập trung tham gia sản xuất ngành nghề truyền thống hay mạnh dạn đầu tư vào ngành chăn nuôi, trồng cây giúp thu hút nhiều thanh niên khác hăng hái tham gia. Cần thành lập những chi hội phụ nữ giúp nhau làm ăn để phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ gia đình thu hút được nhiều lao động, nhất là lao động nữ và lao động ngoài độ tuổi.
Trên đây là một số ý kiến đóng góp trong công tác cải tạo chất lượng lao động khu vực kinh tế phi chính thức. Các cấp, ban ngành đoàn thể trong huyện sớm có những chương trình cụ thể, những việc làm thiết thực giúp lao động trong khu vực này, nâng đỡ để họ có khả năng tự lo cho cuộc sống gia đình bản thân, làm giàu ngay trên đất quê hương. Và kéo dài theo đó là nền kinh tế huyện phát triển nhanh, bền vững.
Kết luận
Tạo việc làm là một trong những vấn đề bức xúc, mang tính toàn cầu, nếu vấn đề tạo việc làm không được giải quyết thì không một mục tiêu nào đặt ra như ổn định xã hội, công bằng xã hội, … có thể giải quyết được. Nhận thức rõ tầm quan trọng của tạo việc làm đối với sự phát triển kinh tế xã hội, những năm gần đây nhờ chính sách đổi mới, nền kinh tế huyện Trực Ninh tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được nâng lên một cách rõ rệt, hàng năm tạo được từ 3-4 nghìn lao động. Tuy nhiên, Trực Ninh là một huyện có cơ cấu kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, dân số đông, bình quân đất nông nghiệp thấp, số lao động chưa có việc làm hàng năm từ 8 đến 9 nghìn lao động. Đây là một nhu cầu bức xúc được các cấp ủy Đảng chính quyền và mỗi người lao động huyện Trực Ninh đang từng bước tháo gỡ.
Tài liệu tham khảo:
Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế xã hội hàng năm của huyện Trực Ninh.
Đề án xã hội hóa dạy nghề đến 2010 Sở Lao động TBXH tỉnh Nam Định.
Chương trình mục tiêu Quốc gia XĐGN và việc làm của Chính Phủ.
Niên giám thống kê huyện Trực Ninh giai đoạn 2001-2005.
Giáo trình Kinh tế Nguồn nhân lực. Chương tạo việc làm cho người lao động. TS Trần Thị Thu
Giáo trình Kinh tế lao động.
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn.
Sau thời gian nghiên cứu và thực tập ở Phòng Nội vụ Lao động thương binh xã hội huyện Trực Ninh, em đã thực hiện chuyên đề “ Tạo việc làm cho người lao động ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định”. Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Trần Xuân Cầu cùng các thầy cô trong khoa Kinh tế lao động & dân số đã trang bị cho em kiến thức, giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường. Nhân đây, em cũng xin cảm ơn các cô chú, anh chị công tác tại Phòng Lao động TBXH huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định đã tạo điều kiện tận tình giúp đỡ em nghiên cứu tìm hiểu thực tế để hoàn thành chuyên đề này.
Trong quá trình thực tập không tránh khỏi những thiếu sót do còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm thực tế. Kính mong thầy cô góp ý cho chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25848.DOC