Tài liệu Đề tài Tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam đến năm 2015: MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng phổ biến và là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO). Du lịch không chỉ đem lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh tế, tạo nhiều việc làm, phát triển các ngành dịch vụ, cơ sở hạ tầng mà còn là phương tiện thúc đẩy hòa bình, giao lưu văn hóa và tạo ra những giá trị vô hình nhưng bền chặt. Nhờ những đóng góp to lớn về mặt kinh tế xã hội du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới như UAE, Ai Cập, Hy Lạp, Thái Lan… và ở Việt Nam trước những tác động to lớn đó của du lịch thì Đại hội Đảng lần IX đã nêu rõ: “Phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Quán triệt tinh thần đó thì ngành du lịch ở Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong một vài năm trở lại đây. Và kể từ khi cuộc khủng bố 11-9 xảy ra thì Việt Nam một điểm đến an toàn đ...
138 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam đến năm 2015, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng phổ biến và là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO). Du lịch không chỉ đem lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh tế, tạo nhiều việc làm, phát triển các ngành dịch vụ, cơ sở hạ tầng mà còn là phương tiện thúc đẩy hòa bình, giao lưu văn hóa và tạo ra những giá trị vô hình nhưng bền chặt. Nhờ những đóng góp to lớn về mặt kinh tế xã hội du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới như UAE, Ai Cập, Hy Lạp, Thái Lan… và ở Việt Nam trước những tác động to lớn đó của du lịch thì Đại hội Đảng lần IX đã nêu rõ: “Phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Quán triệt tinh thần đó thì ngành du lịch ở Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong một vài năm trở lại đây. Và kể từ khi cuộc khủng bố 11-9 xảy ra thì Việt Nam một điểm đến an toàn đã thực sự thu hút được ngày càng nhiều lượng khách du lịch quốc tế đến để tìm hiểu về đất nước, con người và văn hóa. Thế nhưng, năm 2008 khi mà cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra thì du lịch sớm chịu ảnh hưởng và bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng này do tính rất nhạy cảm với các biến cố của bản thân ngành du lịch. Do đó, lượng khách quốc tế đến Việt Nam cuối năm 2008, đầu năm 2009 đã giảm đáng kể, doanh thu giảm và hàng loạt các doanh nghiệp du lịch gặp khó khăn. Trước tình hình đó, một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải làm sao để có thể thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong thời gian tới để tiếp tục phát triển ngành du lịch - ngành công nghiệp vàng của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, chúng em đã chọn đề tài: “Tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam đến năm 2015” để làm công trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2009.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đứng trước tình tình ngày càng sụt giảm của khách du lịch quốc tế đến Việt Nam chúng em thực hiện bài nghiên cứu này nhằm mục đích tìm ra những nguyên nhân đang hạn chế việc khách du lịch quốc tế đến với Việt Nam trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam trong tình hình khủng hoảng tài chính toàn cầu đang lan rộng và Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào WTO.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Bài nghiên cứu có 3 nhiệm vụ chính như sau:
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận chung về du lịch quốc tế và thu hút khách du lịch quốc tế trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu, đồng thời luận giải sự cần thiết phải tăng cường thu hút khách du lịch đối với một quôc gia.
Trình bày tổng quan về thị trường du lịch quốc tế trong giai đoạn 2001 – 2008, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút khách du lịch quốc tế của Việt nam và thực trạng thu hút khách du lịch của nước ta trong khoảng thời gian 2001 – 2008, đánh giá các ưu điểm cũng như tồn tại mà ngành du lịch nước ta gặp phải giai đoạn 2001 – 2008 (giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu vào WTO và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu diến ra vào năm 2008).
Nêu định hướng cho sự phát triển của ngành du lịch của nước ta trong những năm tới và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam trong điều kiện cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang lan rộng và hội nhập ngày càng sâu vào WTO.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thu hút khách du lịch quốc tế. Tuy thu hút khách du lịch có thể được nghiên cứu trên giác độ vĩ mô (quốc gia) và vi mô (các công ty trong ngành du lịch) nhưng bài viết này chủ yếu đề cập đến hoạt động thu hút khách du lịch quốc tế ở tầm vĩ mô (đứng trên giác độ của một quốc gia) để trình bày và luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm có thời gian và không gian nghiên cứu.
Về mặt thời gian nghiên cứu: các số liệu phân tích được lấy từ năm 2001 – 2008 và đề xuất các định hướng, giải pháp đến năm 2015.
Về mặt không gian: không gian nghiên cứu được trải rộng, đề tài không chỉ nghiên cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn trên toàn thế giới.
Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu được viết dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng áp dụng các phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp logic và phương pháp phân tích kinh tế…để trình bày các vấn đề lý luận và thực tiễn.
Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng để diễn lại quá trình phát triển thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2001 cho đến hết năm 2008.
Phương pháp logic được sử dụng hệ thống hóa các vấn đề làm khung lý luận và vận dụng vào phân tích thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giai đoạn 2001 – 2008. Từ đó rút ra các ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại trong việc thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam.
Phương pháp phân tích kinh tế được sử dụng phân tích sự biến động của các nhân tố môi trường làm ảnh hưởng đến hoạt động thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO nhằm đề xuất các định hướng và các giải pháp tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam đến năm 2015.
Kết cấu của bài viết
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung chính của bài nghiên cứu thì gồm 3 chương sau:
Chương 1: Lý luận chung về thu hút khách du lịch quốc tế trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu
Chương 2: Thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2001-2008
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam đến năm 2015
NHỮNG KHÓ KHĂN
TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐỂ TÀI
Trong quá trình nghiên cứu đề tài mặc dù đã rất cố gắng tìm tòi và nghiên cứu nhưng chúng em đã gặp phải một số khó khăn sau:
Thứ nhất, do đây là lần đầu tiên thực hiện nghiên cứu khoa học nên các thành viên trong nhóm đã có không ít những bỡ ngỡ từ những việc như cách nghiên cứu, bố cục bài nghiên cứu cũng như cách trình bày bài nghiên cứu sao cho chặt chẽ.
Thứ hai, do thời gian nghiên cứu có hạn, lại còn đang bận rộn bởi việc học chuyên ngành nên bài nghiên cứu có thể còn nhiều thiếu sót mà chúng em chưa kịp chỉnh sửa.
Thứ ba, do không gian nghiên cứu là toàn bộ quốc gia nên chúng em đã gặp phải khó khăn trong việc đi điều tra thực tế, do vậy bài viết chỉ đơn thuần dựa vào những thông tin thứ cấp mà các thành viên thu thập được.
Cuối cùng nhóm em cũng gặp phải nhiều khó khăn trong việc thu thập các số liệu phục vụ cho việc phân tích trong bài viết. Mộ số số liệu cần cho bài việt nhưng chúng em không thu thấp được.
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài này, chúng em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Hường – người đã tận tình chỉ dẫn chúng em để chúng em hoàn thành được bài nghiên cứu của mình.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ
Mục tiêu của chương 1 là xây dựng khung lý thuyết cho việc phân tích và đánh giá hoạt động thu hút khách du lịch quốc tế trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu. Để thực hiện mục tiêu trên, chương này sẽ xem xét từ những khía cạnh tổng quan về du lịch, du lịch quốc tế, khách du lịch quốc tế và thu hút khách du lịch quốc tế. Với cách tiếp cận từ rộng đến hẹp, toàn bộ nội dung chính của chương 1 được trình bày thành bốn vấn đề sau đây: (1) Du lịch quốc tế; (2) Những vấn đề chung về khách du lịch quốc tế; (3) Lý luận về thu hút khách du lịch quốc tế; (4) Sự cần thiết phải tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu.
1.1 Du lịch quốc tế
1.1.1 Du lịch
1.1.1.1 Khái niệm du lịch
Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Hội đồng Lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council – WTTC) đã công bố du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với nhiều quốc gia, du lịch là một trong ba ngành kinh tế hàng đầu. Du lịch ngày nay đã trở thành một đề tài hấp dẫn, một vấn đề mang tính chất toàn cầu.
Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển của loài người và phát triển với tốc độ rất nhanh. Song cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm “du lịch” thống nhất do tồn tại các cách tiếp cận khác nhau và dưới các góc độ khác nhau mà các tác giả có các định nghĩa khác nhau về du lịch; do sự khác nhau về ngôn ngữ và cách hiểu khác nhau về du lịch ở các nước khác nhau và do tính chất đặc thù của hoạt động du lịch. Sau đây, chúng ta xem xét một số khái niệm tiêu biểu về du lịch:
Khái niệm cơ bản về du lịch được Liên hiệp Quốc các tổ chức lữ hành chính thức - IUOTO (International Union of Official Travel Oragnizations- sau này trở thành WTO) đưa ra như sau: “Du lịch được hiểu là hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống...”.
Như vậy, theo định nghĩa này, hoạt động được xem là du lịch dựa trên các tiêu thức:
- Du lịch là đi đến nơi khác với “địa điểm cư trú thường xuyên” có nghĩa là loại trừ các chuyến đi trong phạm vi nơi ở thường xuyên và các chuyến đi có tổ chức thường xuyên hàng ngày (các chuyến đi thường xuyên định kỳ có tổ chức phường hội giữa nơi ở và nơi làm việc và các chuyến đi phường hội khác có tổ chức thưỡng xuyên hàng ngày).
- Mục đích của chuyến đi: “Không phải để làm ăn, tức không phải để làm một nghề hay một việc kiếm tiền sinh sống…” - có nghĩa là loại trừ việc hành nghề lâu dài hoặc tạm thời.
Michael Coltman (Mỹ) đã đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về du lịch: “Du lịch là sự kết hợp và tương tác của bốn nhóm nhân tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”.
Có thể thể hiện mối quan hệ đó bằng sơ đồ sau:
Du khách
Nhà cung ứng dịch vụ du lịch
Chính quyền địa phương nơi đón khách du lịch
Dân cư sở tại
Hình 1.1: Sơ đồ thể hiện sự kết hợp và tương tác giữa bốn nhóm nhân tố trong dịch vụ du lịch.
Từ góc độ thay đổi về không gian của du khách, có thể đưa ra định nghĩa về du lịch: Du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang một nước khác mà không thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc.
Nhìn từ một góc độ khác, góc độ kinh tế, người ta lại định nghĩa về du lịch như sau: Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu tham quan giải trí nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác.
Trong Luật du lịch Việt Nam 2005, thuật ngữ “Du lịch” được hiểu như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.” Khoản 1, Điều 4, Chương I, Luật du lịch Việt Nam 2005
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Nội dung của du lịch không ngừng được mở rộng và ngày càng phong phú.
Đặc điểm của du lịch
Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội. Do vậy du lịch vừa mang đặc điểm của ngành kinh tế vừa mang đặc điểm của ngành văn hóa xã hội. Các đặc điểm chủ yếu của du lịch là:
Tính vô hình
Du lịch là một ngành dịch vụ, vì vậy du lịch mang đặc điểm của dịch vụ nói chung đó là tính vô hình. Tính vô hình của dịch vụ du lịch thể hiện ở việc đánh giá chất lượng du lịch rất khó khăn vì chất lượng du lịch thường được đánh giá mang tính chủ quan, phụ thuộc phần lớn vào khách du lịch. Chất lượng dịch vụ được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ cảm nhận về chất lượng của khách du lịch.
Tính cao cấp của nhu cầu du lịch
Du lịch là nhu cầu thứ cấp song nó là một nhu cầu thứ cấp đặc biệt: chỉ sau khi thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu người ta mới nghĩ đến du lịch. Nhưng không phải ai cũng có thể đi du lịch bởi ngoài điều kiện phải có thời gian rỗi, du lịch đòi hỏi phải có khả năng thanh toán cao cho các dịch vụ được cung cấp. Theo quy luật cung cầu thông thường, khi giá sản phẩm tăng thì lượng cầu đối với sản phẩm đó thường giảm, nhưng trong du lịch giá cả đi cùng với chất lượng. Giá cao nhưng chất lượng tốt lại thu hút được nhiều khách hơn, tức lượng cầu du lịch tăng.
Tính tổng hợp
Tính tổng hợp của du lịch thể hiện ở hai phương diện sau:
Tính tổng hợp và đồng bộ trong nhu cầu du lịch: Nhu cầu du lịch là tổng hợp của nhiều nhu cầu: nhu cầu đi lại, ăn nghỉ, vui chơi, giải trí và các nhu cầu bổ sung khác. Các nhu cầu trên xuất phát đồng bộ trong một khoảng thời gian nhất định (thời gian đi du lịch).
Tính tổng hợp trong hoạt động kinh doanh du lịch: Một sản phẩm du lịch tổng hợp không thể do một đơn vị kinh doanh tạo ra mà do tổng hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng tạo ra. Trong một chuyến đi du lịch, khách du lịch không chỉ sử dụng một sản phẩm du lịch đơn thuần, mà phải sử dụng một sản phẩm du lịch tổng hợp.
Tính không lưu kho cất trữ được của sản phẩm du lịch
Phần lớn quá trình tạo ra và tiêu dùng các sản phẩm du lịch trùng nhau về không gian và thời gian nên sản phẩm du lịch không thể lưu kho cất trữ như các hàng hóa thông thường khác. Ví dụ như trong một khách sạn, nếu không có khách đến thuê phòng thì khách sạn đó vẫn phải bỏ ra các chi phí để dọn dẹp phòng, người ta không thể “cất trữ” các phòng đó được. Do đó, để tạo ra sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng sản phẩm du lịch là một việc khó khăn.
Tính phụ thuộc vào tài nguyên du lịch
Du lịch chỉ có thể phát triển ở những nơi có tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch của một điểm đến là mọi thứ tạo nên sức hấp dẫn, thu hút người dân sống ở ngoài nơi đó đến tham quan, du lịch và được sử dụng vào mục đích kinh doanh du lịch. Thông thường, du lịch phát triển ở những nơi có tài nguyên thiên nhiên đẹp, độc đáo hay các tài nguyên nhân tạo như kiến trúc cổ, đền chùa…Việc phát triển du lịch ở những nơi không có tài nguyên du lịch là vô cùng khó khăn.
Tính không thể dịch chuyển của các sản phẩm du lịch
Người ta không thể đưa sản phẩm du lịch đến nơi có khách du lịch mà bắt buộc khách du lịch phải đến những nơi có sản phẩm du lịch để thỏa mãn nhu cầu của mình thông qua việc tiêu dung sản phẩm du lịch. Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch phải có sự tham gia trực tiếp của khách hàng. Đặc điểm này gây khó khăn cho việc tiêu thụ sản phẩm du lịch.
Tính thời vụ
Tính thời vụ trong du lịch mang tính phổ biến ở tất cả các nước và các vùng có hoạt động du lịch. Du lịch không diễn ra đều đặn vào tất cả các thời gian trong năm tại cùng một điểm đến mà chỉ tập trung vào những khoảng thời gian nhất định trong năm (như du lịch biển, nghỉ mát…), hoặc trong tuần (du lịch cuối tuần), trong ngày (đến khách sạn, nhà hàng...).
Tính nhạy cảm
Du lịch chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố và đặc biệt nhạy cảm với các yếu tố trong môi trường vĩ mô. Các yếu tố của môi trường vĩ mô bao gồm: môi trường kinh tế, tình hình chính trị- xã hội, luật pháp… ảnh hưởng lớn đến hoạt động du lịch. Các yếu tố này có thể tác động theo chiều hướng tích cực, làm du lịch phát triển nhanh chóng, thuận lợi, song cũng có thể khiến du lịch không thể tiếp tục phát triển.
Phân loại du lịch
Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành những loại hình sau:
Du lịch quốc tế
Du lịch quốc tế là hình thức du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Khách du lịch phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch.
Du lịch nội địa
Du lịch nội địa là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa.
Du lịch chữa bệnh
Ở hình thức này, khách đi du lịch theo nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho bản thân họ. Có nhiều hình thức chữa bệnh như : chữa bệnh bằng khí hậu (khí hậu núi, khí hậu biển…), chữa bệnh bằng nước khoáng (tắm nước khoáng, uống nước khoáng), chữa bệnh bằng bùn, chữa bệnh bằng hoa quả, chữa bệnh bằng sữa…
Du lịch để nghỉ ngơi, giải trí
Nhu cầu chính làm nảy sinh hình thức này là sự cần thiết phải nghỉ ngơi để phục hồi thể lực và tinh thần của mỗi người. Đây là loại hình du lịch có tác dụng giải trí, làm cuộc sống thêm đa dạng, giúp tinh thần con người sảng khoái hơn.
Du lịch thể thao
Đây là một hình thức khá phổ biến, dành cho những người ham mê hoạt động thể thao. Hình thức này lại phân ra thành du lịch thể thao chủ động và du lịch thể thao bị động.
Du lịch thể thao chủ động là hình thức khách đi du lịch để tham gia trực tiếp vào hoạt động thể thao như : leo núi, săn bắn, câu cá, trượt tuyết, đá bóng…
Du lịch thể thao bị động là những cuộc hành trình của du khách để xem các cuộc thi thể thao quốc tế, các thế vận hội Olympic…
Du lịch văn hóa
Mục đích chính của du lịch văn hóa là nhằm nâng cao hiểu biết cho cá nhân về các lĩnh vực như lịch sử, kiến trúc, kinh tế, hội họa, cuộc sống của người dân đất nước khác cùng các phong tục tập quán nơi đó.
Có hai hình thức du lịch văn hóa:
Du lịch văn hóa với mục đích cụ thể: Khách du lịch có thể đi du lịch với các mục đích đã định sẵn.
Du lịch văn hóa với mục đích tổng hợp: đi du lịch với mục đích thỏa mãn những tò mò, niềm ham thích mở mang kiến thức của mình.
Du lịch công vụ
Khách du lịch không chỉ đi du lịch với những mục đích như chữa bệnh, giải trí, văn hóa, mà đôi khi còn nhằm thực hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Với mục đích này, khách đi du lịch nhằm tham dự các cuộc hội nghị, hội thảo, các cuộc triển lãm…
Du lịch tôn giáo
Loại hình du lịch này nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo các đạo giáo khác nhau.
Du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương
Loại hình du lịch này nảy sinh do nhu cầu của những người đi xa quê hương đi thăm họ hàng, bạn bè thân quen, đi dự lễ cưới, lễ tang…
Du lịch quá cảnh
Du lịch quá cảnh là hình thức du lịch nảy sinh do nhu cầu đi qua lãnh thổ của một nước nào đó trong thời gian ngắn để đến nước khác.
Căn cứ vào đối tượng khách du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành: (1) Du lịch thanh thiếu niên; (2) Du lịch dành cho người cao tuổi; (3) Du lịch phụ nữ, du lịch gia đình.
Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành:
Du lịch theo đoàn
Ở loại hình du lịch này, các thành viên tham dự đi theo đoàn và thường có chuẩn bị sẵn chương trình từ trước, trong đó đã định ra nơi sẽ tới thăm, nơi lưu trú và ăn uống. Du lịch theo đoàn có thể được tổ chức theo hai hình thức sau: Du lịch theo đoàn thông qua tổ chức du lịch và du lịch theo đoàn không thông qua tổ chức du lịch.
Du lịch cá nhân
Hình thức này cũng có hai loại là du cá nhân thông qua tổ chức du lịch và du lịch cá nhân không thông qua tổ chức du lịch. Du lịch cá nhân thông qua tổ chức du lịch là hình thức cá nhân đi du lịch theo kế hoạch định trước của tổ chức du lịch, tổ chức công đoàn hay tổ chức xã hội khác. Khách du lịch có thể không cần phải đi cùng đoàn mà chỉ cần tuân theo những điều kiện đã được thông báo và chuẩn bị trước. Du lịch cá nhân không thông qua tổ chức là hình thức đi du lịch tự do.
Căn cứ vào phương tiện giao thông. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành: (1) Du lịch bằng xe đạp; (2) Du lịch bằng xe máy; (3) Du lịch bằng xe ô tô; (4) Du lịch bằng tàu hỏa; (5) Du lịch bằng tàu thủy; (6) Du lịch bằng máy bay.
Căn cứ vào phương tiện lưu trú được sử dụng. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành những loại hình sau:
- Du lịch ở khách sạn;
- Du lịch ở khách sạn ven đường;
- Du lịch ở lều, trại;
- Du lịch ở làng du lịch.
Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành những loại hình sau:
- Du lịch nghỉ núi;
- Du lịch nghỉ biển, sông, hồ;
- Du lịch thành phố;
- Du lịch đồng quê.
Căn cứ vào thời gian du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành:
Du lịch dài ngày và du lịch ngắn ngày (thường được gọi là du lịch cuối tuần – weekend holiday).
Trong một chuyến đi du lịch, thường du khách có nhiều nhu cầu nảy sinh khác nhau, do đó ta thường gặp sự kết hợp của nhiều loại hình du lịch cùng một lúc như: du lịch công vụ kết hợp với du lịch văn hóa, du lịch nghỉ ngơi, giải trí bằng các loại phương tiện máy bay, ô tô…
1.1.2 Du lịch quốc tế
Khái niệm du lịch quốc tế
Phần trên chúng ta đã nghiên cứu tổng quan về du lịch. Theo cách phân chia loại hình du lịch dựa vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi, du lịch bao gồm du lịch quốc tế và du lịch nội địa.
Du lịch quốc tế là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của khách du lịch nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.
Như vậy, trong du lịch quốc tế, du khách phải đi du lịch vượt qua biên giới ít nhất hai quốc gia.
Ví dụ: Một du khách người Mỹ đi du lịch sang Việt Nam, Thái Lan, Singapore…
Đặc điểm của du lịch quốc tế
Du lịch quốc tế là một bộ phận của du lịch, nó mang các đặc điểm của du lịch nói chung, như: tính vô hình, tính cao cấp, tổng hợp…
Đặc điểm riêng của du lịch quốc tế là ở hình thức này khách du lịch phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch.
Các loại hình du lịch quốc tế
Du lịch quốc tế được phân thành du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế thụ động.
Du lịch quốc tế chủ động: Là hình thức du lịch của những người từ nước ngoài đến một quốc gia nào đó và tiêu ngoại tệ ở đó.
Ví dụ: khách nước ngoài đến Việt Nam du lịch, sử dụng các dịch vụ du lịch do ngành du lịch Việt Nam cung cấp. Trong trường hợp này, Việt Nam kinh doanh du lịch quốc tế chủ động.
Du lịch quốc tế chủ động tương đương với xuất khẩu vì tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho một quốc gia.
Du lịch quốc tế thụ động: Là hình thức du lịch của công dân một quốc gia nào đó và của những người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ quốc gia đó đi ra nước khác du lịch và trong chuyến di ấy họ đã tiêu tiền kiếm ra tại đất nước họ đang cư trú.
Ví dụ: Công dân Việt Nam đi du lịch ở nước ngoài, sử dụng các dịch vụ được do nước đó cung cấp. Trong trường hợp này, Việt Nam kinh doanh du lịch thụ động.
Du lịch quốc tế thụ động tương đương với nhập khẩu vì có hiện tượng xuất ngoại tệ từ một quốc gia ra nước ngoài. Du lịch quốc tế thụ động thường tạo ra lợi ích cho quốc gia đó về mặt xã hội.
Một bộ phận rất quan trọng cấu thành nên du lịch quốc tế là khách du lịch nói chung và khách du lịch quốc tế nói riêng. Đây là những người có nhu cầu du lịch, tạo ra lượng cầu về du lịch và có khả năng thanh toán để thỏa mãn nhu cầu của mình. Trên cơ sở đó, các quốc gia, các nhà cung ứng du lịch tạo ra các sản phẩm và dịch vụ du lịch đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng đó.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về khách du lịch quốc tế.
1.2 Những vấn đề chung về khách du lịch quốc tế
1.2.1 Tổng quan về khách du lịch
Khái niệm về khách du lịch
Định nghĩa về khách du lịch xuất hiện đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ XVIII tại Pháp. Cũng giống như khái niệm về du lịch, từ trước tới nay đã có rất nhiều định nghĩa về khách du lịch được đưa ra. Để nghiên cứu một cách đầy đủ và có cơ sở đáng tin cậy, chúng ta cần tìm hiểu và phân tích một số định nghĩa về “khách du lịch” được đưa ra từ các hội nghị quốc tế hay các tổ chức quốc tế về du lịch như sau:
Năm 1937, Liên hiệp các quốc gia- League of Nations đưa ra định nghĩa về khách du lịch: “Bất cứ ai đến thăm một đất nước khác với nơi cư trú thường xuyên của mình trong khoảng thời gian ít nhất là 24h”.
Theo định nghĩa này, tất cả những người được coi là khách du lịch là:
Những người khởi hành để giải trí, vì sức khỏe…
Những người khởi hành để gặp gỡ, trao đổi các mối quan hệ về khoa học, ngoại giao, tôn giáo, thể thao, công vụ…
Những người khởi hành vì các mục đích kinh doanh;
Những người cập bến từ các chuyến hành trình du ngoại trên biển, thậm chí cả khi họ dừng lại trong khoảng thời gian ít hơn 24h.
Những người không được coi là khách du lịch là:
Những người đến lao động, kinh doanh có hoặc không có hợp đồng lao động;
Những người đến với mục đích định cư;
Sinh viên hay những người đến học các trường;
Những người ở biên giới sang làm việc;
Những người đi qua một nước mà không dừng lại mặc dù cuộc hành trình qua nước đó có thể kéo dài 24h.
Định nghĩa của Liên hiệp Quốc tế của các Tổ chức chính thức về Du lịch- IUOTO (International of Union of Official Travel Organizations- sau là WTO):
Sau năm 1930, IUOTO đưa ra định nghĩa về “khách du lịch quốc tế- international tourist” với hai điểm khác với định nghĩa trên, đó là:
- Sinh viên và những người đến học ở các trường cũng được coi là khách du lịch.
- Những người quá cảnh không được coi là khách du lịch trong cả hai trường hợp: Hoặc là họ hành trình qua một nước không dừng lại trong thời gian > 24 giờ; hoặc là họ hành trình trong khoảng thời gian < 24 giờ và có dừng lại nhưng không với mục đích du lịch.
Định nghĩa về khách du lịch được chấp nhận tại Hội nghị ở Rôma (Ý) do Liên hợp quốc tổ chức về các vấn đề du lịch quốc tế và đi lại quốc tế (năm 1963):
Trong các chuẩn mực thống kê quốc tế của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO), khái niệm khách viếng thăm quốc tế (visitor) đóng vai trò quan trọng chính. Theo định nghĩa của Hội nghị tại Rôma (Ý) do Liên hợp quốc tổ chức về các vấn đề du lịch quốc tế và đi lại quốc tế (năm 1963), khách viếng thăm quốc tế được hiểu là người đến một nước khác, khác nước cư trú thường xuyên của họ, bởi mọi nguyên nhân, trừ nguyên nhân đến lao động để kiếm sống.
Theo Luật du lịch Việt Nam 2005: “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. Khoản 2, Điều 4, chương I, Luật du lịch Việt Nam 2005
Như vậy, các định nghĩa đã nêu ở trên về khách du lịch có các điểm khác nhau, song nhìn chung đều đề cập đến các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đề cập đến động cơ khởi hành (đi tham quan, nghỉ dưỡng, kết hợp kinh doanh…trừ động cơ lao động kiếm tiền);
Thứ hai, đề cập đến yếu tố thời gian đi du lịch;
Thứ ba, đề cập đến những đối tượng được thống kê là khách du lịch và những đối tượng không được thống kê là khách du lịch như: dân di cư, quá cảnh…
Đặc điểm của khách du lịch
Khách du lịch đến từ các nơi khác nhau sẽ có những đặc điểm riêng khác nhau, nhưng có thể tổng hợp thành các đặc điểm chủ yếu sau:
- Hầu hết các du khách đều thích một môi trường du lịch trong lành. Môi trường du lịch trong lành tức là môi trường có không khí trong lành, an toàn về tính mạng, vệ sinh thực phẩm, môi trường văn hóa lành mạnh…đối với khách du lịch.
- Nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp. Khách hàng sẵn sàng trả mức giá cao, song đòi hỏi chất lượng phục vụ phải cao, đáp ứng được nhiều dịch vụ bổ sung, giá cả hợp lý, sản phẩm du lịch đa dạng, họ muốn có chương trình du lịch hay với những hướng dẫn viên chuyên nghiệp, nhiệt tình thái độ niềm nở…
- Khách du lịch thích tham quan các di tích lịch sử, tìm hiểu bản sắc văn hóa, lễ hội truyền thống, làng nghề, thích mua sắm đồ thủ công mỹ nghệ, quà lưu niệm và thưởng thức các món ăn ở những nơi đến du lịch, thích các tour du lịch sinh thái như lặn biển, nghỉ dưỡng biển…
Phân loại khách du lịch
Theo Hội nghị ở Rôma của Liên hợp quốc tổ chức về các vấn đề du lịch quốc tế và đi lại quốc tế (năm 1963), khách viếng thăm quốc tế gồm hai thành phần: khách du lịch quốc tế và khách tham quan quốc tế.
Ngày 4-3-1993, theo đề nghị của Tổ chức du lịch thế giới (WTO), Hội đồng thống kê Liên hiệp quốc (United Nations Statistical Commission) đã công nhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch: (1)Khách du lịch quốc tế (International tourist); (2) Khách du lịch trong nước (Internal tourist); (3) Khách du lịch nội địa (Domestic tourist) và (4) Khách du lịch quốc gia (National tourist).
Khách du lịch trong nước (Internal tourist): Gồm những người là công dân của một quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ quốc gia đó đi du lịch trong nước.
Khách du lịch nội địa (Domestic tourist): gồm khách du lịch trong nước và những người từ nước ngoài đến một quốc gia du lịch.
Trong Luật du lịch Việt Nam 2005 quy định: “Khách du lịch bao gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế”. Khoản 1, Điều 34, chương V, Luật du lịch Việt Nam 2005
Cũng theo Luật du lịch Việt Nam 2005, khách du lịch nội địa được định nghĩa: “Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”. Khoản 2, Điều 34, chương V, Luật du lịch Việt Nam 2005
Như vậy, xem xét với cách phân loại của WTO, ở Việt Nam vẫn chưa có sự thống nhất trong việc dùng từ khách du lịch nội địa hay khách du lịch trong nước.
1.2.2 Khách du lịch quốc tế
Khái niệm khách du lịch quốc tế
Theo định nghĩa của Hội nghị tại Rôma (Ý) do Liên hợp quốc tổ chức về các vấn đề du lịch quốc tế và đi lại quốc tế (năm 1963), khách du lịch quốc tế (international tourist) là người lưu lại tạm thời ở nước ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian ít nhất là 24 giờ (hoặc sử dụng ít nhất một tối trọ). Động cơ khởi hành của họ được phân nhóm như sau:
- Thời gian rỗi (đi du lịch để giải trí, chữa bệnh, học tập, mục đích thể thao hoặc tôn giáo).
- Đi du lịch liên quan đến công việc làm ăn (ký kết giao kèo); thăm gia đình, bạn bè, họ hàng, đi du lịch để tham gia vào các cuộc hội nghị, đại hội, các cuộc đua thể thao…
Theo khái niệm trên, khách du lịch quốc tế bao gồm những người sau đây:
- Người nước ngoài, không sống ở nước đến thăm và đi theo các động cơ đã nêu trên.
- Công dân của một nước, sống cư trú thường xuyên ở nước ngoài về thăm quê hương.
- Nhân viên của các tổ lái (máy bay, tàu hỏa, tàu thủy, ô tô) đến thăm, nghỉ ở nước khác và sử dụng phương tiện cư trú. Ở đây kể cả những người không phải là nhân viên của các hãng giao thông vận tải mà là những lái xe tải, xe ca tư nhân.
Định nghĩa của Hội nghị quốc tế về du lịch tại Hà Lan năm 1989: “Khách du lịch quốc tế là những người đi thăm một đất nước khác, với mục đích tham quan, nghỉ ngơi, giải trí, thăm hỏi trong thời gian nhỏ hơn 3 tháng, những người khách này không được làm gì để được trả thù lao và sau thời gian lưu trú ở đó du khách trở về nơi ở thường xuyên của mình”.
Luật Du lịch Việt Nam 2005 quy định: “ Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”. (vi)
Phân loại khách du lịch quốc tế
Ngày 4-3-1993 theo đề nghị của Tổ chức Du lịch Thế giới, Hội đồng Thống kê Liên hiệp quốc (United Nations Statistical Commission) đã công nhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch:
Khách du lịch quốc tế (International tourist) bao gồm:
- Khách du lịch quốc tế đến (Inbound tourist): Gồm những người từ nước ngoài đến du lịch một quốc gia.
- Khách du lịch quốc tế ra nước ngoài (Outbound tourist): gồm những người đang sống trong một quốc gia đi du lịch nước ngoài.
1.3 Thu hút khách du lịch quốc tế
1.3.1 Khái niệm và bản chất của thu hút khách du lịch quốc tế
Thu hút khách du lịch quốc tế vào một quốc gia là tổng hợp các hoạt động của quốc gia đó nhằm thu hút được lượng ngày càng nhiều khách du lịch từ các quốc gia khác vào đất nước mình. Thực chất thu hút khách du lịch quốc tế là quảng bá hình ảnh đất nước và nhằm tới mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận về cho quốc gia đó.
1.3.2 Vai trò của việc thu hút khách du lịch quốc tế
Có nhiều cách tiếp cận trong việc trình bày vai trò của thu hút khách du lịch quốc tế. Bài viết này sẽ trình bày vai trò của thu hút khách du lịch quốc tế đối với nền kinh tế, đối với xã hội và doanh nghiệp du lịch.
1.3.2.1 Vai trò của việc thu hút khách du lịch quốc tế đối với nền kinh tế
Tăng thu nhập quốc dân
Du lịch được coi là ngành “xuất khẩu tại chỗ”. Các hàng hóa công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công, mỹ nghệ…được xuất khẩu trực tiếp tại các điểm đến trên lãnh thổ một quốc gia mà không phải chịu hàng rào thuế quan.
Khách du lịch quốc tế đến là những người đi du lịch ở nước ngoài và sử dụng đồng ngoại tệ của nước đến du lịch thông qua việc sử dụng các dịch vụ, mua sắm hàng tiêu dùng, các đồ thủ công mỹ nghệ... Đối với quốc gia làm du lịch, đây là hình thức du lịch chủ động, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn, góp phần cân bằng cán cân thương mại quốc tế.
Do vậy thu hút khách du lịch quốc tế đóng vai trò quan trọng, góp phần làm tăng thu nhập quốc dân.
Góp phần phân phối lại thu nhập giữa các vùng
Đa số các vùng phát triển du lịch là những vùng kém về sản xuất của cải vật chất. Do đó thu nhập của người dân ở những vùng này từ sản xuất là thấp. Thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế đến sẽ làm cho du lịch phát triển, tác động tích cực vào việc cân đối thu nhập của dân cư các vùng.
Thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển
Hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ liên ngành. Yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành này là cơ sở cho các ngành như: giao thông vận tải, tài chính, bưu điện, sản xuất đồ lưu niệm…phát triển. Lượng khách du lịch quốc tế đến với quốc gia càng nhiều thì giao thông quốc tế và hệ thống cơ sở hạ tầng của quốc gia như mạng lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện nước, các phương tiện truyền thông… càng được mở rộng và hoàn thiện. Lượng khách du lịch quốc tế nhiều còn mở ra thị trường tiêu thụ hàng hóa cho nền sản xuất xã hội.
Khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Các nhà đầu tư thường tìm đến các lĩnh vực kinh doanh thu được lợi nhuận cao trên mỗi đồng vốn bỏ ra. Một ưu điểm lớn của hoạt động kinh doanh du lịch là vốn đầu tư ban đầu vào du lịch tương đối ít so với các ngành công nghiệp nặng mà khả năng thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động, du lịch là một ngành công nghiệp “không khói”. Do đó, du lịch là một lĩnh vực hấp dẫn, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, du lịch tại quốc gia nào càng phát triển thì khả năng thu hút đầu tư càng lớn. Lượng khách du lịch quốc tế đến một quốc gia là thước đo độ hấp dẫn của du lịch tại quốc gia đó. Lượng khách quốc tế đến nhiều sẽ làm tăng sức hấp dẫn thu hút đầu tư.
Củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế
Thu hút khách du lịch quốc tế là mở rộng du lịch quốc tế, gắn liền với tăng lượng khách quốc tế đến, do đó tạo nên sự phát triển giao thông quốc tế, đồng thời góp phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế. Du lịch phát triển sẽ kích thích đầu tư nước ngoài và tăng cường chính sách mở cửa, từ đó thắt chặt mối quan hệ thương mại và kinh tế quốc tế.
1.3.2.2 Vai trò của việc thu hút khách du lịch quốc tế đối với xã hội
Giải quyết công ăn việc làm cho người dân
Du lịch là ngành tạo việc làm quan trọng. Thu hút khách du lịch quốc tế thúc đẩy sự phát triển của du lịch cùng với các ngành công nghiệp khác, từ đó tạo ra một khối lượng công việc lớn, giải quyết được tình trạng thiếu việc làm cho người dân. Riêng trong ngành du lịch, số lao động cần thiết cho các dịch vụ du lịch, đặc biệt là dịch vụ bổ sung là rất lớn. Số lao động này có thể tăng lên nhiều nếu các dịch vụ du lịch được nâng cao về chất lượng và phong phú về chủng loại.
Kích thích sự đầu tư mới vào cơ sở hạ tầng, cải thiện đời sống của dân cư
Để có thể thu hút khách du lịch cần có sự hỗ trợ của các ngành, trước hết là hệ thống cơ sở hạ tầng. Vì vậy, thu hút khách du lịch quốc tế kích thích sự đầu tư mới vào cơ sở vật chất. Hệ thống đường xá, các loại phương tiện giao thông, cũng như các cơ sở y tế, bưu điện, nhà hàng, khách sạn…được xây dựng, đời sống của dân cư tại địa phương thu hút được nhiều khách quốc tế sẽ được cải thiện.
Giảm quá trình đô thị hóa ở các nước phát triển
Tài nguyên du lịch thiên nhiên thường có nhiều ở những vùng núi, trung du, ven biển hay những nơi hẻo lánh, ít dân cư. Việc thu hút khách du lịch quốc tế sẽ tạo sức hấp dẫn thu hút đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng…làm thay đổi bộ mặt kinh tế- xã hội ở các vùng đó, góp phần phân bố lại dân cư, giảm mật độ dân cư quá cao ở các trung tâm kinh tế- xã hội lớn.
Đánh thức các nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền của dân tộc, tăng thu nhập cho người dân địa phương
Khi đi du lịch, du khách thường rất thích mua quà lưu niệm, nhất là các sản phẩm lưu niệm mang đậm dấu ấn của địa phương, quốc gia nơi đến du lịch. Lượng khách du lịch văn hóa ngày càng tăng, họ hay tìm đến tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa dân tộc…và mua các sản phẩm của các nghề thủ công mỹ nghệ. Từ đó, các nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền dân tộc như nghề khắc, khảm, đẽo, tạc tượng, làm tranh lụa…có điều kiện phục hồi và phát triển. Đồng thời qua đó làm tăng thu nhập cho người dân địa phương, tăng cường giao lưu văn hóa và xây dựng nếp sống văn minh ở mỗi địa phương.
Tăng cường giao lưu văn hóa, góp phần tuyên truyền quảng bá cho nước chủ nhà
Loại hình du lịch phổ biến là du lịch văn hóa với mục đích nâng cao hiểu biết cá nhân về các lĩnh vực: lịch sử, kiến trúc, hội họa,…, cuộc sống của người dân cũng như các phong tục tập quán của đất nước đến du lịch. Do đó, thu hút khách du lịch quốc tế tạo điều kiện tăng cường giao lưu văn hóa giữa các vùng miền, giữa các quốc gia. Du khách đến một đất nước khác, tiêu dùng sản phẩm trên đất nước đó, tìm thấy sự hài lòng ở một số mặt hàng, họ sẽ tuyên truyền về các mặt hàng tốt cho bạn bè, người thân,…tạo sức thu hút đối với các sản phẩm đó, bằng phương thức đó, nước làm du lịch có điều kiện xuất khẩu hàng hóa nhiều hơn. Thu hút khách du lịch quốc tế còn là phương thức quảng bá các thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hóa, về con người…của nước chủ nhà.
1.3.2.3 Vai trò của việc thu hút khách du lịch quốc tế đối với các doanh nghiệp du lịch
Khách du lịch quốc tế thường là những người có khả năng chi trả cao, và sẵn sang trả cao khi mức độ cảm nhận về chất lượng dịch vụ cao hơn so với kỳ vọng của họ. Nếu doanh nghiệp chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ thì khách du lịch quốc tế sẽ là nguồn tăng thu lợi nhuận lớn. Không những vậy, du khách quốc tế sẽ là những người tuyên truyền về hình ảnh doanh nghiệp với bạn bè quốc tế. Đó cũng là động lực thúc đẩy bản thân doanh nghiệp tự hoàn thiện và nâng cao về chất lượng dịch vụ và đội ngũ nhân viên.
Cụ thể vai trò của thu hút khách du lịch quốc tế đối với các doanh nghiệp du lịch như sau:
Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp gắn liền với việc thu hút khách du lịch
Các doanh nghiệp du lịch coi du lịch là một cơ hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch, thông qua đó thu lợi nhuận. Việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp du lịch và khách sạn gắn với các hoạt động du lịch, đặc biệt là hoạt động thu hút khách du lịch quốc tế. Do vậy, việc phát triển của các doanh nghiệp du lịch phụ thuộc việc thu hút khách du lịch.
Tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp
Doanh nghiệp kinh doanh du lịch cung cấp các sản phẩm du lịch đáp ứng các nhu cầu cơ bản của du khách như: ăn uống, lưu trú, vận chuyển. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn chú trọng cung cấp các dịch vụ bổ sung như: giải trí, mua sắm…Các dịch vụ bổ sung này thực sự mang lại lợi nhuận đáng kể cho các doanh nghiệp. Tỷ trọng giữa dịch vụ cơ bản và dịch vụ bổ sung càng nhỏ thì hiệu quả tổng hợp của kinh doanh du lịch càng cao. Trong khi đó, khách du lịch quốc tế lại có nhu cầu sử dụng các dịch vụ bổ sung cao. Việc thu hút khách du lịch sẽ tạo ra nguồn lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp.
Nâng cao sức cạnh tranh, uy tín, vị thế của doanh nghiệp
Chất lượng du lịch được đánh giá dựa trên cảm nhận của khách du lịch đối với các dịch vụ đã sử dụng. Chất lượng phục vụ của doanh nghiệp càng cao, sự thỏa mãn nhu cầu khách du lịch càng lớn, càng thu hút được nhiều khách đến với doanh nghiệp, tạo niềm tin của du khách với doanh nghiệp, từ đó nâng cao vị thế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ trong nước mà cả trên thế giới. Việc thu hút được nhiều khách du lịch chính là sự khẳng định uy tín cho doanh nghiệp.
Thu hút được nguồn nhân lực đông đảo, có trình độ
Kinh doanh du lịch cần sử dụng nhiều lao động, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bổ sung. Điều quan trọng trong kinh doanh là thu lợi nhuận dựa trên việc tạo được sự hài lòng cao nhất cho khách hàng. Khách du lịch quốc tế luôn đòi hỏi chất lượng phục vụ cao. Do đó, đòi hỏi ở đội ngũ lao động trong doanh nghiệp phải có thái độ phục vụ tốt, nhiệt tình, có trình độ hiểu biết rộng về các tài nguyên thiên nhiên, văn hóa, phong tục…
Tóm lại, du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia. Muốn phát triển du lịch thì việc quan trọng nhất là phải thu hút khách du lịch quốc tế. Thu hút khách du lịch quốc tế là một trong những trọng tâm của các hoạt động du lịch bởi chi trả của khách quốc tế khá cao và đây cũng là nguồn thu hút ngoại tệ lớn. Việc thu hút khách du lịch quốc tế đến một điểm đến hay một quốc gia nhiều lần sẽ góp phần tăng thu nhập quốc dân, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ du lịch (công nghiệp chế biến, sản xuất đồ thủ công, mỹ nghệ, ngành giao thông vận tải,ngân hàng, bưu chính…), tạo việc làm trực tiếp cho người dân địa phương…Như vậy, thu hút khách du lịch quốc tế góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, sự ổn định và bình đẳng trong xã hội (thông qua phân phối lại thu nhập giữa các vùng), giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao hình ảnh về một quốc gia lên tầm thế giới.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút khách du lịch quốc tế của một quốc gia
Trong phần này ta sẽ lần lượt nêu các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút khách du lịch quốc tế của một quốc gia bao gồm: (1) Tài nguyên du lịch, (2) Các điều kiện ảnh hưởng đến sự an toàn của khách du lịch quốc tế, (3) Các điều kiện phục vụ khách du lịch, (4) Các sự kiện kinh tế, chính trị, thể thao - văn hóa, (5) Những biến động của nền kinh tế, (6) Những biến động về an ninh, chính trị thế giới. Ta sẽ xem xét các thành phần của từng nhân tố và sự thay đổi các nhân tố đó tác động tích cực hay tiêu cực tới việc thu hút khách du lịch quốc tế của một quốc gia. Đây là cơ sở cho việc đánh giá thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế ở chương 2.
1.3.3.1 Tài nguyên du lịch
Các điều kiện về tài nguyên du lịch là các điều kiện cần để phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân tạo.
Các điều kiện về tài nguyên thiên nhiên tạo ra sức hấp dẫn khách du lịch quốc tế bao gồm: vị trí địa lý thuận lợi, địa hình đa dạng, khí hậu ôn hòa, thực, động vật phong phú, giàu nguồn tài nguyên nước.
Vị trí địa lý có ý nghĩa tiên quyết đến khả năng thu hút khách du lịch quốc tế. Những điều kiện về vị trí địa lý được đánh giá cao là điểm du lịch nằm trong khu vực phát triển du lịch, khoảng cách từ điểm du lịch đến các nguồn du lịch gần. Khoảng cách gần sẽ giảm được chi phí và thời gian đi lại cho du khách. Tuy nhiên, khoảng cách xa đôi khi cũng tạo sức hấp dẫn đối với khách du lịch quốc tế có khả năng thanh toán cao và hiếu kỳ.
Con người vốn không thích sự nhàm chán, do đó, địa hình phong phú, đa dạng, nhiều loại địa hình: biển, sông, hồ, núi, rừng…sẽ thu hút được nhiều du khách đến khám phá.
Mỗi loại hình du lịch đòi hỏi những điều kiện khí hậu khác nhau. Những nơi có khí hậu ôn hòa thường được khách du lịch quốc tế ưa thích. Họ thường không thích thời tiết quá lạnh hay quá nóng, quá khô hay quá ẩm, không thích nơi có nhiều gió…
Thực, động vật đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút khách du lịch quốc tế. Nếu thực, động vật phong phú và quý hiếm sẽ thu hút được du khách ham tìm tòi nghiên cứu. Những loại thực, động vật không có ở đất nước của họ thường tạo sức hấp dẫn mạnh.
Các nguồn tài nguyên nước như: ao, hồ, sông…vừa tạo điều kiện để điều hòa không khí, vừa tạo điều kiện phát triển du lịch. Các nguồn nước khoáng là cơ sở để phát triển du lịch chữa bệnh. Những nước giàu nguồn khoáng nổi tiếng là: Nga, Bungari, Pháp, Ý, Đức…
Tài nguyên nhân văn bao gồm các giá trị văn hóa, lịch sử, các thành tựu chính trị và kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch ở một điểm, một vùng hoặc một quốc gia.
Các giá trị lịch sử có sức thu hút đặc biệt với du khách quốc tế có hứng thú hiểu biết. Các nước như Cộng hòa Séc, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp…có nhiều tượng đài lịch sử từ thời phong kiến. Ở Ai Cập, Hy Lạp, Trung Quốc…lại nổi tiếng với những công trình lịch sử từ thời cổ đại. Tất cả các nước đều có các giá trị lịch sử, nhưng ở mỗi nước các giá trị lịch sử ấy lại có sức hấp dẫn khác nhau với khách du lịch quốc tế.
Các giá trị văn hóa như: các thư viện quốc gia lớn, các viện khoa học, trường đại học nổi tiếng, các tòa nhà kiến trúc đẹp, các trung tâm triển lãm nghệ thuật và điêu khắc…cũng thu hút khách du lịch quốc tế với mục đích tham quan, nghiên cứu…
Các phong tục tập quán cổ truyền luôn là các tài nguyên có sức thu hút cao đối với du khách quốc tế.
Các thành tựu kinh tế của một quốc gia thường được tuyên truyền, giới thiệu thông qua các cuộc triển lãm, trưng bày, hội chợ…Du khách quốc tế hay so sánh thành tựu kinh tế của quốc gia đến du lịch với những năm trước đó hoặc với kinh tế ở nước họ. Do đó, các thành tựu kinh tế cũng có sức hấp dẫn với phần lớn khách du lịch quốc tế.
Bên cạnh thành tựu về kinh tế, các sự kiện đặc biệt, các thành tựu chính trị có vai trò quan trọng trong việc thu hút khách du lịch. Các chính sách về đời sống xã hội, những vấn đề liên quan tới văn hóa và cuộc sống người dân, các cuộc hội thảo, hội nghị thường thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế.
1.3.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự an toàn của khách du lịch quốc tế
Nhu cầu về an toàn là nhu cầu cấp thiết thứ hai sau các nhu cầu cơ bản của con người. Họ sẽ tìm đến du lịch những nơi mà điều kiện an toàn đối với họ là cao nhất. Các điều kiện ảnh hưởng đến sự an toàn của khách du lịch quốc tế bao gồm:
Tình hình an ninh, chính trị của quốc gia
Tình hình chính trị hòa bình ổn định là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của một quốc gia. Nếu một quốc gia có nhiều tài nguyên du lịch, nhưng ở đó thường xuyên xảy ra bạo động, khủng bố, sự phân biệt chủng tộc, tôn giáo…thì cũng thể phát triển kinh doanh du lịch và thu hút khách du lịch quốc tế.
Trên thế giới, những nước có đường lối chính trị trung lập và có nền hòa bình, ổn định như Thụy Sỹ, Áo, Thụy Điển…thường có sức hấp dẫn đông đảo với khách du lịch quốc tế. Ngược lại, những quốc gia hay có những biến cố cách mạng như Philippin. Triều Tiên…hay thường xảy ra chiến tranh xung đột như I-ran, I rắc, Ixraen…sự phát triển của du lịch bị hạn chế.
Các tệ nạn xã hội (trộm cắp, ma túy…) cũng là nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút khách du lịch.
Nếu bộ máy bảo vệ an ninh, trật tự xã hội của một quốc gia hoạt động tốt sẽ tạo được cảm giác an toàn cho du khách, để họ yên tâm khi tìm đến với quốc gia đó.
Những biến động về thời tiết, khí hậu ở các vùng khác nhau của một quốc gia
Những biến động về thời tiết khí hậu thường là bất thường, khó thay đổi hoặc không thay đổi được, như thiên tai, bão lụt, động đất, sóng thần…Hậu quả của chúng thường là rất lớn. Không những chúng gây ra thiệt hại lớn về vật chất mà còn gây ra tổn thất về tinh thần cho nhiều người. Khi xảy ra bão lụt, động đất…tại khu vực nào thì nơi đó thường mất lượng lớn khách du lịch. Ví dụ như sóng thần tại Ấn Độ Dương đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến du lịch Thái Lan.
Vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm
Nhu cầu ăn uống là nhu cầu tối thiểu của mỗi người. Khi đi du lịch, khách du lịch quốc tế thường sử dụng lưu trú và dịch vụ ăn uống tại điểm đến du lịch. Họ rất quan tâm tới vấn đề vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm. Có nhiều du khách châu Mỹ và châu Âu muốn du lịch đến châu Phi, Đông Nam Á…song đây là khu vực độ ẩm cao, nhiều bệnh dịch (dịch hạch, sốt rét…) khiến họ lo sợ mắc phải các loại dịch bệnh, không dám đến. Do đó, một môi trường trong lành, thực phẩm đảm bảo là điều kiện thu hút được du khách quốc tế.
An toàn giao thông
Bên cạnh việc nâng cấp hệ thống đường xá, cầu cống, các phương tiện giao thông, thì việc đảm bảo sự an toàn khi tham gia giao thông cũng là điều kiện cần để thu hút khách du lịch quốc tế. Tỷ lệ xảy ra tai nạn giao thông cao sẽ làm giảm tỷ lệ khách đi du lịch.
1.3.3.3 Các điều kiện phục vụ khách du lịch
Bao gồm các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và đội ngũ nhân viên phục vụ khách du lịch.
Cơ sở hạ tầng kĩ thuật du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật được huy động tham gia vào việc khai thác tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và thực hiện các dịch vụ hàng hóa thõa mãn nhu cầu của du khách nói chung và khách du lịch quốc tế nói riêng trong các chuyến hành trình của họ. Theo cách hiểu này, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cả cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân tham gia vào việc khai thác tiềm năng du lịch như: hệ thống đường sá, cầu cống, bưu chính viễn thông, điện nước…
Theo nghĩa hẹp, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là toàn bộ các phương tiện vật chất kỹ thuật do các tổ chức du lịch tạo ra để khai thác tiềm năng du lịch, tạo ra các sản phẩm dịch vụ và hàng hóa cung cấp làm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm: hệ thống các khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyển…và bao gồm cả các công trình kiến trúc bổ trợ.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt, không ngừng được đổi mới và hoàn thiện sẽ tạo điều kiện thu hút khách du lịch quốc tế và ngược lại.
Đội ngũ nhân viên phục vụ khách du lịch:
Nhân lực luôn là yếu tố cốt lõi trong mọi hoạt động, bởi con người bằng hành động có nhận thức của mình tác động theo nhiều phương thức khác nhau vào các yếu tố vật chất tạo ra sản phẩm và dịch vụ phục vụ cuộc sống. Điều kiện để thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế là đội ngũ nhân viên phục vụ khách phải luôn trong tình trạng sẵn sàng đón tiếp khách và hoàn thành nhiệm vụ, nhiệt tình, năng động và nhã nhặn. Đội ngũ nhân viên làm việc không chuyên nghiệp, thái độ phục vụ không đúng mực sẽ là yếu tố kìm hãm sức thu hút khách du lịch quốc tế.
1.3.3.4 Các sự kiện kinh tế, chính trị, thể thao- văn hóa
Có một số sự kiện đặc biệt về kinh tế, chính trị, văn hóa, thể thao có thể thu hút được lượng lớn khách du lịch và là điều kiện đặc trưng để phát triển du lịch. Đó là các hội nghị, đại hội, các cuộc hội đàm dân tộc hoặc quốc tế, các cuộc thi Olympic, các cuộc kỷ niệm, tín ngưỡng hoặc chính trị, các dạ hội, liên hoan…Các sự kiện này thường diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng rất có ích trong sự phát triển du lịch.
1.3.3.5 Những biến động kinh tế, an ninh, chính trị thế giới
Các biến động lớn mang tính chất quốc tế như khủng hoảng tài chính toàn cầu, khủng hoảng kinh tế thế giới…tác động tiêu cực đến sự phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các chính phủ sẽ tìm cách giữ được sự ổn định của nền kinh tế. Người dân cũng sẽ cắt giảm chi tiêu, trong đó có chi tiêu cho việc du lịch. Lượng khách du lịch đến tụt giảm đáng kể khiến ngành du lịch của các quốc gia gặp khó khăn.
Những biến động như chiến tranh, sự căng thẳng trong quan hệ giữa các quốc gia cũng làm cho hoạt động du lịch không có điều kiện phát triển. Trước đây, thời kỳ chiến tranh thế giới hay cuộc chiến tranh lạnh, các nước trên thế giới phân chia thành các phe đối lập thì thị trường du lịch thế giới cũng phân chia tương đối thành 3 nhóm: thị trường du lịch của các nước xã hội chủ nghĩa, thị trường du lịch của các nước tư bản chủ nghĩa và thị trường du lịch của các nước đang phát triển. Sự giao lưu, du lịch giữa các khối thị trường trên là rất hạn chế. Do vậy, số lượng khách du lịch quốc tế thời gian đó (trước năm 1989) là ít hơn nhiều so với hiện nay.
1.3.4 Các công việc để thu hút khách du lịch quốc tế
Việc thu hút khách du lịch của một quốc gia được coi là thành công nếu thu hút được nhiều khách đến, thời gian lưu lại của du khách lâu hơn và đặc biệt là sự quay trở lại quốc gia đó nhiều lần của khách du lịch. Trong phần này, bài viết sẽ trình bày các công việc mà chính phủ, các bộ, ban ngành du lịch và các ngành liên quan cần thực hiện thường xuyên để thu hút khách du lịch. Mỗi công việc sẽ có các hướng giải pháp thực hiện khác nhau. Đây sẽ là cơ sở để chương 2 phân tích thực trạng thực hiện các công việc thu hút khách du lịch quốc tế của chính phủ.
Để thu hút khách du lịch quốc tế, chính phủ và các cơ quan nhà nước cần thực hiện các công việc sau đây:
1.3.4.1 Xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch của quốc gia đến với khách du lịch quốc tế
Điều đầu tiên để các quốc gia khác biết đến một quốc gia là thông qua lịch sử và địa lý, tiếp đến là du lịch, sau đó mới đến kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh...của quốc gia đó. Du lịch là một lĩnh vực quan trọng toát lên vẻ đẹp, bản sắc và điểm khác biệt của mỗi quốc gia, dân tộc. Du lịch kết tinh từ nhiều yếu tố văn hóa, địa lý và con người. Du lịch đồng thời có một nhiệm vụ cao cả là kết nối kinh tế, chính trị và ngoại giao. Do đó, du lịch cần phải được xem là bộ mặt, là hình ảnh của mỗi quốc gia.
Việc đẩy mạnh công tác quảng bá các tour du lịch, các tài nguyên du lịch, các chính sách hấp dẫn khách du lịch nhằm truyền bá hình ảnh đất nước, những cảnh đẹp, những nét đặc sắc về văn hóa, con người của quốc gia hay điểm đến, tạo được sự hấp dẫn cho khách du lịch nước ngoài, tạo động lực để du khách tìm đến với quốc gia hay điểm đến đó khám phá vẻ đẹp.
1.3.4.2 Xây dựng và thực hiện các chiến lược khai thác, bảo tồn, giữ gìn và tôn tạo tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là mọi thứ tạo nên sức hấp dẫn thu hút khách du lịch và phải được khai thác vào mục đích kinh doanh du lịch. Vấn đề khai thác tài nguyên như thế nào để đạt hiệu quả cao trong việc thu hút khách du lịch luôn là bài toán khó cho chính phủ và ngành du lịch của mỗi quốc gia. Việc khai thác được thể hiện thông qua việc phát triển các sản phẩm du lịch, tổ chức các sự kiện du lịch…
Tiềm năng về tài nguyên du lịch không phải là tiềm năng vô hạn, nhất là tài nguyên thiên nhiên. Không phải nơi nào cũng có thể phát triển du lịch, và bản thân tài nguyên du lịch nếu không có sự tác động có mục đích của con người cũng không thể trở thành những điểm du lịch hấp dẫn nhiều du khách được. Quá trình tác động đó có thể gây ra các ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới nguồn tài nguyên du lịch. Mục đích của việc khai thác, bảo tồn và tôn tạo tài nguyên du lịch là sử dụng tài nguyên du lịch một cách hợp lý. Bên cạnh tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân tạo cũng là yếu tố quan trọng để tạo sự hấp dẫn đối với khách du lịch, khiến họ muốn quay lại để khám phá những điều mới mẻ. Xây dựng các chiến lược khai thác tài nguyên du lịch như tổ chức các sự kiện du lịch, chỉ đạo phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng cho từng vùng miền…là các công việc quan trọng trong chính sách phát triển du lịch của mỗi quốc gia.
1.3.4.3 Đầu tư xây dựng và cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Một quốc gia muốn phát triển du lịch tốt phải có một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tốt. Có thể nói rằng trình độ phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của một quốc gia là vừa là điều kiện vừa là sự phản ánh trình độ phát triển du lịch của đất nước đó. Do đó công việc mỗi quốc gia thực hiện ngay từ ban đầu chính là đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch của nước mình.
Khách sạn, nhà hàng là những cơ sở vật chất đặc trưng trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Hệ thống khách sạn, nhà hàng cao cấp với các dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu cao của khách du lịch quốc tế sẽ là công cụ quan trọng để tạo sự hài lòng của du khách.
1.3.4.4 Cải thiện môi trường du lịch quốc gia
Du lịch rất nhạy cảm với biến động các chính trị, xã hội. Quốc gia nào thường xảy ra các bất ổn về chính trị, xã hội sẽ tạo yếu tố tâm lý hoang mang, lo sợ cho du khách, làm giảm lượng khách quốc tế đến quốc gia đó. Do đó các chính sách của chính phủ đối với du khách quốc tế, như bảo đảm an toàn, tạo được sự thuận lợi cho du khách khi đi du lịch trong quốc gia đó, bảo đảm được môi trường chính trị xã hội ổn định…là công việc tiên quyết để thu hút khách du lịch quốc tế.
1.3.4.5 Phối kết hợp hoạt động của ngành du lịch với các ngành liên quan phục vụ cho hoạt động du lịch
Hoạt động kinh doanh du lịch mang tính chất tổng hợp. Các thành viên tham gia vào quá trình tạo nên một sản phẩm du lịch tổng hợp là rất đa dạng. Do vậy, du lịch chỉ có thể phát triển khi có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành khác như: các hãng máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô…, nhà hàng, khách sạn, các đoàn ca nhạc dân tộc, các công ty tổ chức hoạt động vui chơi, giải trí…Sự kết hợp chặt chẽ này có thể được thực hiện trong việc phối hợp liên ngành tổ chức các tour du lịch, tổ chức các dịch vụ đi kèm, gắn liền với tour. Việc phối hợp giữa hoạt động của du lịch và các ngành này càng nhịp nhàng và thuận tiện cho khách du lịch thì càng tăng sự thỏa mãn và hài lòng ở du khách.
1.3.4.6 Phát triển nguồn nhân lực du lịch
Chất lượng du lịch là yếu tố quyết định khả năng thu hút khách du lịch tại một điểm đến. Nâng cao chất lượng dịch vụ luôn là mục tiêu quan trọng của mỗi quốc gia để phát triển du lịch. Trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ, yếu tố con người giữ vai trò quan trọng nhất bởi con người bằng sức lao động của mình tác động đến cơ sở vật chất kỹ thuật để khai thác các giá trị của tài nguyên du lịch tạo ra dịch vụ, hàng hóa cung ứng cho du khách. Do đó, chính phủ mỗi nước luôn đề ra các chương trình phát triển nguồn nhân lực tại đất nước mình, nhằm đào tạo đội ngũ lao động phục vụ du lịch chuyên nghiệp, có ý thức trách nhiệm và nhiệt tình.
1.3.4.7 Tuyên truyền và nâng cao ý thức cộng đồng về du lịch
Có thể nói du lịch là công việc của toàn xã hội. Sự phát triển của du lịch liên quan đến sự phát triển của nhiều ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, liên quan đến sự phát triển của các địa phương, tác động tới cuộc sống của mỗi người dân tại địa phương du lịch. Mỗi quốc gia cần thực hiện các biện pháp tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức cộng đồng về vai trò của du lịch để người dân ý thức được và góp phần tích cực trong việc phát triển du lịch.
1.3.5 Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động thu hút khách du lịch quốc tế
Chỉ tiêu về số lượng khách quốc tế đến qua các năm
Số lượng khách du lịch là tổng lượng khách đến và tiêu dùng sản phẩm tại một điểm đến trong kỳ nghiên cứu.
Số lượng khách du lịch quốc tế vào một quốc gia là tổng lượng khách du lịch đến và tiêu dùng sản phẩm tại quốc gia đó trong kỳ nghiên cứu.
Lượng khách tăng (giảm) tuyệt đối qua các năm
Chỉ tiêu này phản ánh sự biến động về mức độ tuyệt đối của lượng khách giữa hai thời gian. Có các chỉ tiêu về lượng khách tăng (giảm) tuyệt đối sau:
- Lượng khách tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn: phản ánh sự biến động về mức độ tuyệt đối của lượng khách giữa hai thời gian liền nhau và được tính theo công thức sau đây:
δi = yi – yi-1 (với i= 1,2,3…,n)
Trong đó:
δi là lượng khách tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn ở thời gian i so với thời gian trước đó là i-1
yi: mức độ tuyệt đối ở thời gian i
yi-1: mức độ tuyệt đối ở thời gian i-1
- Lượng khách tăng (giảm) tuyệt đối định gốc: phản ánh sự biến động về mức độ tuyệt đối của lượng khách trong hai khoảng thời gian dài và được tính theo công thức sau đây:
Δi = yi – y1 (với i= 2,3…,n)
Trong đó:
Δi là lượng khách tăng (giảm) tuyệt đối định gốc ở thời điểm i so với thời điểm ban đầu
yi là mức độ tuyệt đối ở thời điểm i
y1 mức độ tuyệt đối ở thời điểm ban đầu
- Lượng khách tăng (giảm) tuyệt đối bình quân: phản ánh mức độ đại diện của các lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn của lượng khách và được tính theo công thức sau đây:
Tốc độ phát triển về lượng khách qua các năm
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của lượng khách đến qua thời gian. Có thể tính các tốc độ phát triển sau đây:
- Tốc độ phát triển liên hoàn: phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của lượng khách đến ở thời gian sau so với thời gian liền trước đó và được tính theo công thức sau đây:
(với i= 2,3…,n)
Trong đó: ti tốc độ phát triển liên hoàn thời gian i so với thời gian i-1, biểu hiện bằng lần hoặc %.
- Tốc độ phát triển định gốc: phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của lượng khách đến ở những khoảng thời gian dài và được tính theo công thức sau đây:
(với i= 2,3…,n)
Trong đó: Ti tốc độ phát triển định gốc thời gian i so với thời gian đầu, biểu hiện bằng lần hoặc %.
- Tốc độ phát triển bình quân: phản ánh mức độ đại diện của các tốc độ phát triển liên hoàn của lượng khách và được tính theo công thức sau đây:
Tốc độ tăng (giảm) lượng khách qua các năm
Chỉ tiêu này phản ánh qua thời gian lượng khách đến đã tăng (giảm) bao nhiêu lần hoặc bao nhiêu phần trăm. Có thể tính các tốc độ tăng (giảm) sau đây:
- Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn: Phản ánh tốc độ tăng (giảm) lượng khách đến ở thời gian i so với thời gian i-1 và được tính theo công thức sau đây:
- Tốc độ tăng (giảm) định gốc: Phản ánh tốc độ tăng (giảm) lượng khách đến ở thời gian i so với thời gian đầu và được tính theo công thức sau đây:
- Tốc độ tăng (giảm) bình quân: Phản ánh tốc độ tăng (giảm) lượng khách đến đại diện cho các tốc độ tăng (giảm) lượng khách liên hoàn và được tính theo công thức sau đây:
(nếu biểu hiện bằng lần)
Hoặc:
(nếu biểu hiện bằng %)
Số ngày lưu trú (sự gia tăng thời gian lưu trú của du khách quốc tế)
Chỉ tiêu này đánh giá sự hài lòng của khách du lịch quốc tế khi sử dụng các dịch vụ du lịch tại một quốc gia. Số ngày lưu trú của du khách quốc tế tại một quốc gia được tính bằng khoảng thời gian lưu lại du lịch của du khách đó trong phạm vi quốc gia đến du lịch, và thường được thống kê dựa trên thời gian lưu trú của du khách tại các khách sạn. Số ngày lưu trú càng nhiều cho thấy các dịch vụ du lịch thỏa mãn được càng lớn nhu cầu của du khách quốc tế. Có thể xem xét chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu về thời gian lưu trú trung bình:
Tgltbq=NK/LK
Trong đó:
Tgltbq: thời gian lưu lại trung bình của một khách du lịch
NK: Số khách lưu trú trong một đêm
LK: Tổng lượt khách (một lượt khách tính từ lúc khách đến cho đến khi khách đi khỏi nơi lưu trú, như Làng du lịch, Motel…)
Số quốc gia có khách du lịch vào một quốc gia trong một năm
Dựa trên chỉ tiêu này, ta xem xét cơ cấu về điểm xuất phát của khách du lịch quốc tế đến một quốc gia nào đó, bao gồm các số liệu về các quốc gia có lượng khách du lịch đến quốc gia đó trong một năm nhiều nhất để tìm hiểu các đặc điểm của du khách, tìm cách đáp ứng tốt nhất nhu cầu của du khách từ các vùng, quốc gia khác nhau.
Số loại hình du lịch được du khách sử dụng nhiều nhất
Có rất nhiều loại hình du lịch. Mỗi loại hình du lịch mang những nét đặc trưng riêng. Sử dụng chỉ tiêu số khách sử dụng các loại hình dịch vụ để xem xét loại hình du lịch nào được sử dụng nhiều nhất, đâu là điểm hấp dẫn của từng loại hình, những loại hình nào chưa được du khách sử dụng nhiều. Từ đó có cơ sở để phát triển các loại hình du lịch ưu thế và tìm cách nâng cao các loại hình du lịch khác đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch quốc tế.
Số lượt khách quay trở lại du lịch ở một quốc gia
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá sức thu hút khách du lịch quốc tế của một quốc gia. Khi có điều kiện đi du lịch, du khách chọn quay lại một điểm đến, một quốc gia nào đó, chứng tỏ nơi đó đem lại sự hài lòng, thoải mái cao cho du khách. Điểm đến hay quốc gia đó đã tạo được hình ảnh tốt trong nhận thức của khách du lịch quốc tế, hoặc tạo được sự hấp dẫn đặc biệt khiến du khách muốn tiếp tục khám phá sâu hơn. Có thể căn cứ vào các giấy tờ liên quan tới quá trình du lịch của khách du lịch quốc tế để thống kê số lượt khách quay trở lại quốc gia đó.
Sự cần thiết phải tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu
Sự cần thiết của thu hút khách du lịch quốc tế trong điều kiện khủng hoảng xuất phát từ vai trò của du lịch với sự phát triển chung của nền kinh tế và ảnh hưởng của nhân tố khách quan đối với một quốc gia trong việc thu hút khách du lịch quốc tế.
Du lịch ngày càng chứng minh vai trò của mình trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Sự phát triển hay suy thoái của ngành du lịch sẽ ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế bởi nó có mối quan hệ mật thiết với các ngành kinh tế khác.
Du lịch là ngành nhạy cảm với các biến động của tình hình kinh tế, an ninh chính trị trên thế giới. Những biến động như khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ có xu hướng ảnh hưởng tiêu cực tới du lịch, làm giảm lượng khách đến một điểm đến hay một quốc gia nào đó.
Do vậy tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu là cần thiết.
Tóm lại, chương 1 đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về thu hút khách du lịch quốc tế, các nhân tố tác động và các chỉ tiêu đánh giá hoạt động thu hút khách du lịch quốc tế, nêu sự cần thiết của việc thu hút khách du lịch quốc tế trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các nhân tố tác động tới việc thu hút khách du lịch quốc tế và chỉ tiêu đánh giá hoạt động thu hút khách du lịch quốc tế trong chương 1 sẽ được sử dụng để chương 2 phân tích và đánh giá thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam trong giai đoạn 2001-2008 trong chương 2.
BẢN ĐỒ DU LỊCH VIỆT NAM
TRỤ SỞ HÀ NỘI
TRỤ SỞ HUẾ
TRỤ SỞ HỘI AN
TRỤ SỞ NHA TRANG
TRỤ SỞ MŨI NÉ
TRỤ SỞ TP HỒ CHÍ MINH
TRỤ SỞ ĐÀ LẠT
VÙNG CHÂU THỔ S. MÊ CÔNG
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THU HÚT KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2008
Mục tiêu nghiên cứu của chương 2 là phân tích và đánh giá thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế của Việt Nam trong khoảng thời gian 2001-2008 làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp cho thu hút khách du lịch quốc tế đến năm 2015. Để thực hiện được mục tiêu này chương 2 sẽ đi sâu vào phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới việc thu hút khách du lịch quốc tế và kết quả thu hút khách du lịch quốc tế mà ngành du lịch Việt Nam đạt được trong giai đoạn này. Đứng trên giác độ của ngành du lịch Việt Nam nội dung của chương này được trình bày thành ba vấn đề chính sau: (1) Sơ lược về thị trường khách du lịch quốc tế; (2) Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút khách du lịch quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2008; (3) Thực trạng của việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2008.
Sơ lược về du lịch quốc tế trong thời kỳ 2001 - 2008
Sau chiến tranh thế giới thứ II, du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng bình quân về khách du lịch là 6,93% về thu nhập 11,8% tốc độ tăng trưởng như vậy đã khiến cho ngành du lịch được coi là ngành công nghiệp số 1 của thế kỷ 21. Trong những năm đầu của thế kỷ 21 mà cụ thể là trong khoảng thời gian 2001 - 2008 thì vị trí số 1 của ngành du lịch trong nền kinh tế thế giới cũng đã được khẳng định thông qua việc du lịch đóng góp hơn 10% DGP toàn cầu.
Trong giai đoạn 2001 – 2007 tốc độ tăng trưởng của du lịch thế giới khá cao cùng với đó là doanh thu từ hoạt động du lịch liên tục tăng qua các năm mà cụ thể được thể hiện qua hình 2.1 doanh thu của hoạt động du lịch quốc tế.
Doanh thu từ hoạt động du lịch quốc tế
Hình 2.1: Doanh thu từ hoạt động du lịch quốc tế từ 2001 – 2007
(Đơn vị tỷ USD)
(Nguồn: Tổ chức du lịch thế giới)
Qua các năm thì năm 2004 và năm 2007 là năm mà du lịch quốc tế có tốc độ tăng trưởng mạnh, riêng năm 2007 tốc độ tăng trưởng của du lịch quốc tế 6,6% so với năm 2006 với hơn 903 triệu lượt khách quốc tế và doanh thu là 856 tỷ USD.
Với tốc độ tăng trưởng mạnh trong năm 2007 thì sang đến đầu năm 2008 tốc độ tăng trưởng của du lịch quốc tế vẫn đạt 5,7% so với cùng kỳ năm 2007 nhưng nhu một hệ quả tất yếu của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tốc độ tăng trưởng của du lịch chậm lại rơi xuống 2% vào những tháng hè trong và tốc độ tăng trưởng của sau tháng cuối năm 2008 đã rơi xuống -1%. Hiện tại thì tốc độ tăng trưởng của du lịch vẫn tiếp tục giảm nhưng du lịch vẫn được đánh giá là ngành có khả năng phụ hồi nhanh và kéo theo các ngành khác phụ hồi cùng với nó.
Trong giai đoạn này thì thị trường Châu Âu vẫn luôn là thị trường thu hút được nhiều khách du lịch nhất còn thị trường Châu Á - Thái Bình Dương lại là thị trường có tốc độ tăng trưởng cao. Việt Nam nằm trong khu vực này và hòa chung với tốc độ tăng trưởng của du lịch quốc tế thì tốc độ tăng trưởng của lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam trong thời kỳ 2001 – 2008 là 8,96% nhưng liệu con số đó đã phản ánh đúng thực trạng của việc thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam? Hai phần sau của chương này chúng em sẽ đi sau vào phân tích đánh giá thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2008.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút khách du lịch quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2008
Trong chương 1 chúng em đã nêu ra các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới việc thu hút khách du lịch quốc tế đối với một quốc gia thì trong phần này chúng em sẽ đi sâu vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút khách du lịch của Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2008.
Tài nguyên du lịch
Nhân tố đầu tiên không thể không nhắc tới ảnh hưởng tới việc thu hút khách du lịch đó là tài nguyên du lịch đây là nhân tố quyết định việc thu hút được nhiều hay ít khách du lịch tới địa điểm du lịch. Tài nguyên du lịch càng có tiếng vang thì càng có sức hấp dẫn đối với khách du lịch. Đối với một quốc gia, tài nguyên du lịch bao gồm đầy đủ hai loại là tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Việt Nam vốn là nước được thiên nhiên ưu đãi lại có tới hơn 4000 năm lịch sử chính vì vậy đây là một lợi thế cho nước ta trong quá trình thu hút khách du lịch.
Tài nguyên thiên nhiên
Theo như báo cáo về “Mức độ cạnh tranh du lịch 2009” do diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) phát hành ngày 4/3 vừa qua thì Việt Nam xếp thứ 23 thế giới về số lượng cảnh quan thiên nhiên được UNESCO công nhận là di sản thế giới và đứng thứ 21 thế giới về tổng số sinh vật được khoa học biết đến. Đây là lợi thế về điều kiện tự nhiên cho Việt Nam trong việc thu hút khách du lịch quốc tế. Trong phần dưới đây, chúng em sẽ làm rõ hơn những nhân tố về tài nguyên thiên nhiên này ảnh hưởng tới việc thu hút khách du lịch.
Xét về mặt địa hình thì Việt Nam có địa hình đa dạng được thể hiện qua việc ¾ diện tích là đồi núi nên có nhiều hang động, ghềnh thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh)...; động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá), di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình)...; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình - Sơn La), hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai), hồ thuỷ điện Yaly (Tây Nguyên), hồ Thác Bà (Yên Bái). Không chỉ có vậy, với ba mặt giáp với biển Đông Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km bao gồm nhiều đảo và quần đảo. Chỉ riêng Vịnh Bắc Bộ đã tập trung một quần thể gần 3.000 hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, các đảo Cát Hải, Cát Bà, đảo Bạch Long Vĩ... Xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phía Tây - Nam và Nam có các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu. Trong đó vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Ngoài ra, Việt Nam có tới 125 bãi biển, trong đó có 16 bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu)... rất thuận lợi để phát triển du lịch nghỉ biển.
Về khí hậu, do Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên Việt Nam có số giờ nắng trung bình cao khoảng 1.400 - 3.000 giờ/năm. Hơn nữa việc phải chịu tác động mạnh của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ trung bình ở Việt Nam dao động từ 21oC đến 27oC và tăng dần từ Bắc vào Nam. Mùa hè, nhiệt độ trung bình trên cả nước là 25oC (Hà Nội 23oC, Huế 25oC, thành phố Hồ Chí Minh 26o C). Nền nhiệt độ này thấp hơn hẳn so với các nước khác trong khu vực như với Thái Lan thì nhiệt độ trung bình vào mùa hè tới 34oC, đối với khu vực phía Nam thì nhiệt độ có thấp hơn, vào khoảng 28oC mà với khách du lịch đặc biệt là khách du lịch ở phương Bắc thì nhiệt độ cao khiến cho họ không chịu nổi. Đây là một điều kiện thuận lợi cho du lịch Việt Nam trong việc thu hút khách du lịch quốc tế. Tuy nhiên, độ ẩm lớn vào khoảng 80%, kết hợp với mưa nhiều (lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500mm – 2000mm) và đặc biệt Việt Nam thường hay gặp bão, lũ lụt, hạn hán (trung bình một năm có 6-10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán đe dọa) là những bất lợi đối với việc thu hút khách du lịch quốc tế.
Về tài nguyên rừng thì hiện tại Việt Nam đã giữ gìn và bảo tồn một số vườn quốc gia đa dạng sinh học quý hiếm như Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn (khu vực núi Phan-xi-păng, Lào Cai), Vườn quốc gia Cát Bà (Quảng Ninh), vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), vườn quốc gia Pù-mát (Quảng Bình), vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng (Quảng Bình), vườn quốc gia Bạch Mã (Thừa Thiên Huế), vườn quốc gia Côn Đảo (đảo Côn Sơn, Bà Rịa-Vũng Tàu), vườn quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai)… trong đó rừng quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên của thế giới. Rừng Việt Nam có hệ thực vật phong phú (khoảng 14600 loài thực vật) và có nhiều loại thực vật quý như: đinh, lim, sến, táu, cấm lai, gụ tắc, pơ mu… cùng với hệ động vật cũng rất đa dạng (275 loài thú có vú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng thể,…) trong đó có nhiều loài quý hiếm được ghi vào sách Đỏ của thế giới như tê giác, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ, voọc... Với các điều kiện trên thì Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển loại hình du lịch sinh thái thu hút các khách du lịch có lòng ham tìm tòi, nghiên cứu thiên nhiên. Nhưng đáng tiếc là công tác bảo tồn ở Việt nam vẫn chưa tốt khiến cho các khu rừng đang dần bị thu hẹp diện tích, nhất là rừng nguyên sinh. Nhiều loại động thực vật quý đang bị khai thác, săn bắn lén nên gỗ và chim thú đang dần bị cạn kiệt nhiều loại động vật quý đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
Cuối cùng trong phần tài nguyên thiên nhiên chúng em xin đề cập tới tài nguyên nước. Với nguồn suối nước khoáng cũng rất phong phú như: suối khoáng Quang Hanh (Quảng Ninh), suối khoáng Hội Vân (Bình Định), suối khoáng Vĩnh Hảo (Bình Thuận), suối khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi (Hoà Bình)... là tiền đề cho việc phát triển du lịch nghỉ ngơi, chữa bệnh. Tuy nhiên, loại hình du lịch này hiện nay vẫn chưa được quan tâm phát triển nhiều ở Việt Nam. Ở những điểm du lịch này chủ yếu là khách du lịch nội địa chứ hầu như ít thấy có khách du lịch quốc tế.
Việt Nam có nhiều thế mạnh về điều kiện tự nhiên nhưng việc khai thác và bảo tồn những thế mạnh này lại không tương xứng. Cũng vẫn trong bảng xếp hạng về “Mức độ cạnh tranh du lịch 2009”đã cho thấy tình hình môi trường ở Việt Nam cần được cải thiện. Chất lượng môi trường thiên nhiên ở Việt Nam nằm gần cuối bảng (hạng 122). Nó gây ảnh hưởng lớn tới quyết định đến Việt Nam của du khách nước ngoài.
Như đã giới thiệu ở trên, tài nguyên du lịch không chỉ bao gồm tài nguyên thiên nhiên mà còn bao gồm cả các tài nguyên nhân văn là các yếu tố do con người tạo nên. Ngày nay, du lịch khám phá văn hóa đang rất được phát triển trên thế giới, vậy thì Việt Nam có được những thế mạnh nào từ nguồn tài nguyên nhân văn của mình trong việc thu hút khách du lịch?
Tài nguyên nhân văn
Cùng với hàng nghìn năm lịch sử là 54 dân tộc anh em cùng chung sống hòa bình trên lãnh thổ Việt Nam đã tạo cho nước ta có lợi thế lớn về tài nguyên nhân văn. Các tài nguyên nhân văn này có ý nghĩa rất lớn trong việc thu hút khách du lịch do bản thân khách du lịch là những người luôn muốn tìm tòi, khám phá những điều mới lạ của một quốc gia khác. Hiện tại, Việt Nam có trên bảy nghìn di tích lịch sử (trong đó khoảng 2.500 di tích được nhà nước xếp hạng bảo vệ), văn hoá, dấu ấn của quá trình dựng nước và giữ nước, như đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu... Đặc biệt quần thể di tích cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Hàng nghìn đền, chùa, nhà thờ, các công trình xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật - văn hoá khác nằm rải rác ở khắp các địa phương. Cùng với đó là các lễ hội truyền thống, các làn điệu dân ca và các làng nghề thủ công khiến cho tài nguyên nhân văn của nước ta hết sức đa dạng.
Thứ nhất, về các công trình kiến trúc thì hiện tại nước ta có các công trình kiến trúc tượng trưng cho kiến trúc dân gian bao gồm kiến trúc gỗ và kiến trúc gạch đá. Có thể điểm tên một số di tích về kiến trúc gỗ như Chùa Một Cột, chùa Dâu, chùa Bối Khê, chùa Thái Lạc, chùa Keo, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương, đình Đình Bảng, những ngôi nhà cổ tại các thành phố lớn, nhất là tại Hà Nội, Hội An và Huế... Kiến trúc gạch đá: tiêu biểu được lưu giữ đến ngày nay là tháp chùa (tháp Hòa Phong, tháp Báo Thiên, tháp chùa Phổ Minh, tháp chùa Thiên Mụ…), cổng thành, tường thành (cổng thành nhà Hồ, cổng thành Hà Nội…), tam quan chùa đền (tam quan Văn Miếu, tam quan Trấn Vũ, cửa Hiển Nhân), Cột cờ Hà Nội, cửa Ngọ Môn Huế... Kiến trúc gạch đá còn một bộ phận đáng kể các đền đài do người Chăm xây dựng (thường gọi là tháp Chăm) nằm rải rác từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận, tiêu biểu và tập trung nhất ở Khu di tích Mỹ Sơn. Không chỉ có vậy, từ thế kỷ 19, kiến trúc Việt Nam có sự chuyển hóa, hòa trộn giữa hai trường phái kiến trúc của Châu Âu, Bắc Mỹ và kiến trúc truyền thống Á Đông. Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng với những khu phố theo kiểu ô bàn cờ thuận lợi cho việc đi lại. Nhiều tòa nhà đươc xây dựng theo phong cách cổ điển Châu Âu như Phủ Chủ tịch, Tòa án Tối cao, Nhà hát lớn Hà Nội, Ngân hàng Ngoại thương, Tòa Thị chính Sài Gòn, Bưu điện Trung tâm thành phố Sài Gòn, một số biệt thự… Một điều khá thú vị là ngay cả những công trình kiến trúc mang đậm phong cách châu Âu ấy khi xây ở Việt Nam lại được pha lẫn bóng dáng đình chùa và những nét kiến trúc truyền thống của Việt Nam, mà tiêu biểu nhất là nhà thờ Phát Diệm chính điều này đã tạo cho các công trình kiến trúc này mang những điểm khác biệt so với ở những nơi trên thể giới và hơn nữa nó sẽ không làm cho du khách nước ngoài đặc biệt là khách du lịch Châu Âu không thấy nhàm chán khi đến tham quan những địa điểm này.
Thứ hai, Việt Nam có nhiều lễ hội cổ truyền như Tết Nguyên Đán, Rằm Tháng Bẩy, Rằm Tháng Tám, lễ hội Đền Hùng... nhất là Tết Nguyên Đán đây là dịp mà du lịch Việt Nam đón lượng lớn du khách quốc tế đến Việt Nam. Nhưng ở mỗi vùng có những nét sinh hoạt trong các lế hội khách nhau ví dụ như vào Tết Nguyên Đán thì ở miền Bắc sử dụng hoa đào làm loài hoa đặc trưng, đi đâu cũng thấy sắc hồng của hoa đào nhưng với miền Nam thì màu vàng của hoa mai lại là màu đặc trưng vậy nên khách du lịch muốn được đi thăm thú cả hai miền để xem sự khác nhau giữa hai miền. Do Việt Nam có tới 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam nên số lượng các lễ hội riêng của từng vùng, từng dân tộc nhiều và phong phú. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế...
Không chỉ có vậy, Việt Nam còn có các làn điệu dân ca độc đáo mà không nơi nào trên thế giới có được như dân ca quan họ Bắc Ninh, ca trù, hát trầu văn, lý Nam Bộ,… cùng với nó là các loại hình văn hóa nghệ thuật đã được phát triển lâu đời và có giá trị về nhiều mặt. Có những loại hình nghệ thuật đã trở thành biểu tượng mang đặc trưng riêng của từng vùng như hát Chèo gắn với đồng bằng Bắc Bộ, hát tuồng với miền Trung, ca tài tử, cải lương ở Nam Bộ… Trong đó, Nhã nhạc Cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đặc biệt, nước ta còn có loại hình múa rối nước đã từng đạt huy chương vàng trong cuộc thi múa rối quốc tế năm 2000. Tất cả các loại hình nghệ thuật trên đều rất được du khách yêu thích do nó là những nét đặc trưng cho Việt Nam mà không một nơi nào trên thế giới có được.
Với khách du lịch thì khi đi du lịch họ vẫn phải thỏa mãn các nhu cầu sinh lý hàng ngày trong đó không thể thiếu việc được thưởng thức các món ăn ngon. Món ăn ngon còn giúp cho du khách sẽ nhớ tới nơi mình đến nhiều hơn và có mong muốn được quay trở lại đó. Việt Nam là quốc gia có nhiều món ăn ngon, nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn được nhiều du khách nước ngoài biết đến như: Phở (Hà Nội), bún bò (Huế), cao lầu (Hội An), hủ tiếu (Nam Bộ)… mỗi món ăn có những đặc trưng riêng mà du khách nước ngoài đến với Việt Nam không thể bỏ qua.
Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam có lịch sử lâu đời và phong phú với nhiều mặt hàng nổi tiếng cả trong và ngoài nước cũng là một nhân tố thu hút khách du lịch do các sản phẩm gốm, sơn mài, lụa, mây tre… có mặt tại nhiều nơi trên thế giới và được ưa chuộng nên nó đã gây sự tò mó, kính thích sự ham tìm hiểu của du khách nước ngoài đến Việt Nam để tham thú các làng nghề, tìm hiểu quá trình tạo ra các sản phẩm đó và thậm chí là cả liên kết đê kinh doanh xuất khẩu loại hàng hóa.Hiện tại, ở Việt Nam có trên 6.000 làng nghề, các địa phương, có nhiều làng nghề nổi tiếng ở các tỉnh như Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng Nam, Thái Bình…với đa dạng các nghề truyền thống như nghề kim hoàn, nghề chạm gỗ, nghề khảm, nghề dệt lụa, nghề thêu, nghề mây tre đan…. Nhiều sản phẩm của làng nghề truyền thống được các du khách nước ngoài yêu thích như Lụa (Hà Đông), Gốm (Bát Tràng)…
Tài nguyên nhân văn của Việt Nam không chỉ dừng lại ở đó, mà còn phải kể tới các thành tựu về kinh tế, chính trị mà nước ta đã đạt được. Vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất là Đảng cộng sản Việt Nam thì hiện nay nước ta là một trong các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên thế giới chính điều này đã thu hút các khách du lịch tò mò muốn tìm hiểu về đời sống xã hội hay các du khách muốn đến Việt Nam để tìm kiếm các cơ hội kinh doanh. Song cơ sở hạ tầng giao thông và cơ sở hạ tầng du lịch của Việt Nam vẫn còn yếu kém. Theo như báo cáo về “Mức độ cạnh tranh du lịch 2009” của diễn đàn kinh tế thế giới thì các tiêu chí về cơ sở hạ tầng giao thông và cơ sở hạ tầng du lịch của Việt Nam đều có thứ hạng rất thấp. Chất lượng đường sá của Việt Nam xếp thứ 102/133, kém Singapore 99 bậc và Thái Lan 70 bậc. Trong khi đó, chất lượng cơ sở hạ tầng hàng không của VN đứng ở vị trí 92, kém Singapore 91 bậc và Thái Lan 64 bậc.
Như vậy, tài nguyên du lịch của nước rất phong phú đa dạng và đặc sắc là tiền đề cho việc thu hút khách du lịch đến Việt Nam. Tuy nhiên, việc khai thác các tài nguyên này thì vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của nó nguyên nhân của vấn đề này sẽ được chúng em trình bày phần thực trạng của việc thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự an toàn khách du lịch quốc tế
Theo như lý thuyết của Maslow về nhu cầu của con người thì nhu cầu của con người bao gồm 5 nhu cầu cơ bản trong đó có nhu cầu về an toàn. Với khách du lịch thì yếu tố này ảnh hưởng rất lớn tới quyết định có đi đến điểm du lịch đó hay không. Với Việt Nam thì yếu tố này được thể hiện nổi trội ở tình hình an ninh chính trị, xã hội, thiên tai, dịch bệnh, yếu tố về vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm và tình hình an toàn giao thông.
Tình hình an ninh chính trị
Tình hình an ninh chính trị là yếu tố ảnh hưởng lớn tới sự an toàn của du khách. Trong gian đoạn 2001 – 2008 trên thế giới đã có những cuộc khủng bố, bao động mà điển hình nhất là cuộc khủng bố 11/9 ở Mỹ, vụ đánh bom ở khu du lịch Bali (Indonesia), và hàng loạt các vụ đánh bom khủng bố ở nhiều nước trên thế giới…gây hoang mang cho du khách nên những điểm đến an toàn là lựa chọn số một của khách du lịch. Trong khi đó Việt Nam vẫn tiếp tục được nhiều cơ quan nghiên cứu du lịch và thông tấn phương tây thừa nhận là “điểm du lịch an toàn và thân thiện nhất khu vực Châu á- Thái Bình Dương”.
Là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa với hệ thống chính trị đã thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng chính trị (là Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo, với tôn chỉ là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam nên tình hình chính trị ở Việt Nam ổn định hơn ở các quốc gia khách như Thái Lan. Trong năm 2008, ngành du lịch Thái Lan đã gánh chịu tác động lớn từ bất ổn chính trị của mình, các sân bay bị dóng của do cuộc biểu tình của người dân chính vì vậy mà có rất nhiều du khách Hàn Quốc, Úc, Nhật Bản, Canada và Anh đã chuyển tua từ Thái lan sang Bali, Maldives và Việt Nam.
Như vậy, tình hình chính trị hòa bình ổn định là một lợi thế đối với Việt Nam, tuy nhiên ngược lại với sự hòa bình ổn định của chính trị lại là vấn đề tệ nạn xã hội làm xấu đi hình ảnh Việt Nam trong mắt du khách, khiến cho họ cảm thấy không an toàn khi ở Việt Nam.
Các tệ nạn xã hội
Các tệ nạn xã hội tiêu biểu mà ảnh hưởng trực tiếp tới du khách đó là trộm cắp, móc túi, cướp giật, và tệ nạn ăn xin. Các tệ nạn xã hội này thường xảy ra ở các lễ hội nơi có đông khách du lịch. Vấn đề trộm cắp, cướp giật và móc túi làm cho du khách không yên tâm về tài sản của mình, không thể tự do thỏa mái khi du lịch ở Việt Nam và nhất là nếu khách du lịch nào bị trộm cắp, cướp giật hay móc túi thì họ sẽ có ấn tượng xấu về Việt Nam, họ có thể không quay lại Việt Nam và thậm chí là phổ biến điều đó cho những người khác.
Nạn ăn xin là một vấn đề lớn mà Việt Nam cần phải giải quyết. Vấn đề ăn xin ngày càng biến tướng, nó không chỉ đơn thuần là việc những người nghèo khổ xin sự giúp đỡ của người khác mà nó dường như trở thành một nghề để kiềm tiền. Ở những địa điểm du lịch, gần như nơi nào cũng bắt gặp những đứa trẻ con, hoặc những người già ăn xin nhưng họ không chỉ đơn thuần là ngồi một chỗ mà họ chạy theo, đeo bám khách đòi khách du lịch phải cho tiền bằng được, nếu không cho thậm chí khách du lịch còn bị mắng nhiếc rất thiếu văn hóa chính điều này vừa gây cho du khách cảm giác bực bội khó chịu vừa làm cho khách du lịch cảm thấy thiếu an toàn..
Thiên tai, dịch bệnh
Trong phần tài nguyên thiên nhiên, Việt Nam là một đất nước có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi nhưng lại thường xuyên xảy ra các thiên tai như bão, lũ lụt, hạn hán. Đặc biệt, năm 2008 vừa qua là một năm đáng nhớ khi mà thủ đô của cả nước nơi tập trung đông dân cư và khách du lịch quốc tế đã xảy ra trận lụt lịch sử khiến cho các du khách không khỏi bàng hoàng ngạc nhiên.
Tuy nhiên các thiên tai xảy ra ở Việt Nam chưa có tính chất nguy hiểm được coi là thảm họa ảnh hưởng lớn tới khách du lịch như sóng thần xảy ra ở Ấn Độ Dương năm 2004 ảnh hưởng trực tiếp tới ngành du lịch của Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia… theo như các nhà khoa học ở viện Vật lý địa cầu Việt Nam thì nguy cơ xảy ra sóng thần ở Việt Nam là hầu như không có.
Tuy thiên tai là chưa đáng nguy hiểm nhưng dịch bệnh lại là vấn đề đáng lo ngại nhất ở Việt Nam. Các dịch bệnh ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của khách du lịch, đây là một yếu tố gây ảnh hưởng tiêu cực tới việc thu hút khách du lịch quốc tế. Trong giai đoạn 2001 – 2008 thì ngành du lịch Việt Nam đã chịu ảnh hưởng lớn của các dịch bệnh. Các dịch bệnh ảnh hưởng lớn tới các du khách đó là dịch SART xảy ra vào năm 2003 và dịch cúm gia cầm. Dịch SART thì về cơ bản nó chúng ta đã khống chế được và từ năm 2004 cho đến nay nó đã không xảy ra ở Việt Nam. Nhưng dịch cúm gia cầm thì năm nào cũng xảy ra và thời điểm xảy ra thường bắt đầu vào mùa xuân vốn là mùa lễ hội và mùa thu hút khách du lịch đến nước ta nhiều nhất. Do có những tác động mạnh mẽ từ phía Chính phủ và các địa phương đã làm giảm dịch trong những năm gần đây nhưng về cơ bản thì nó vẫn là mối đe doạn đối với khách du lịch.
Không chỉ có hai dịch bệnh trên mà ở Việt Nam có nhiều dịch bệnh khác mà hầu như năm nào cũng xảy ra như dịch sởi, dịch sốt xuất huyết, dịch tả… Hơn nữa do Việt Nam là một nước nhiệt đới nóng ẩm gió mùa nên độ ẩm thường cao điều này càng làm cho các dịch bệnh dễ lây lan hơn.
Mặc dù Chính phủ cùng các bộ ngành liên quan đã tăng cường các công tác phòng tránh bệnh và cũng đã kiểm soát được các dịch bệnh như dịch SART (năm 2003 Việt Nam là một trong những nước đầu tiên khống chế được dịch viêm đường hô hấp cấp này) nhưng cho đến nay thì ấn tượng về các bệnh dịch ở Việt Nam vẫn còn đối với khách du lịch quốc tế đặc biệt là dịch cúm gà.
Vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm
Khách du lịch đến với Việt Nam đa phần là khách du lịch đến từ quốc gia đã phát triển nên họ có một đời sống rất văn minh và môi trường sống an toàn hơn chúng ta rất nhiều. Chính vì vậy khi đến du lịch một đất nước họ thường đánh giá về vấn đề môi trường, vệ sinh thực phẩm so sánh nước này với các nước khác.
Ở Việt nam thì vấn đề về vệ sinh môi trường là một vấn đề nghiêm trọng. Trước tiên là vấn đề về rác thải. Tại các khu du lịch thì tình trạng rác rưởi tràn lan là tình trạng thường thấy như ở bãi biển Đồ Sơn – Hải Phòng thì nước biển có kèm theo nhiều rác, khách du lịch đến đây chỉ còn biết nhìn ngán ngẩn mà không dám xuống tắm biển. Còn ở các thành phố lớn thì nguồn nước lại là một vấn đề đáng lo. Nguồn nước ở các sông hồ bị ô nhiễm, đặc biệt công tác về cấp thoát nước không tốt nên chỉ cần một trận mưa lớn đã có thể gây lụt lội ở một số nơi. Năm 2008 là năm mà Hà Nội có trận lụt lịch sử, và sau trận lụt này các dịch bệnh như sốt xuất huyết, tiêu chảy có khả năng hoành hành gây không ít lo ngại cho khách du lịch đến với nơi đây. Vấn đề ô nhiễm còn thể hiện ở không khí, các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh nơi tập trung một lượng khách du lịch quốc tế thì tình trạng ô nhiễm không khí là vấn đề rất nghiêm trọng. Theo như khảo sát của OCR Worldwide, một công ty tư vấn về các vấn đề liên quan đến nhân lực và việc làm như an toàn môi sinh cho biết Sài Gòn và Hà Nội thuộc 20 thành phố có môi trường làm việc kém nhất thế giới mà một trong các lý do là vì ô nhiễm không khí. Khói bụi trong không khí làm cho bầu không khí trở nên ngột ngạt, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của khách du lịch làm họ dễ mắc các bệnh về đường hô hấp.
Ngoài môi trường thì thực phẩm cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới sức khỏe của khách du lịch. Vấn đề về vệ sinh thực phẩm của Việt Nam vẫn chưa được đảm bảo. Khách du lịch luôn muốn được thưởng thức các món ăn dân tộc đặc trưng cho Việt Nam nhưng họ cũng rất lo ngại khi dùng bữa ở những địa điểm như các quán vỉa hè, hay thưởng thức ở những vùng thôn quê không có gì minh chứng cho việc an toàn về vệ sinh thực phẩm nên có thể họ đành dùng bữa trong khách sạn. Không chỉ có vậy, tình trạng thực phẩm bị sử dụng quá nhiều hóa chất cấm sử dụng như cá tẩm ure, nước tương chưa M3PCD, rau không sạch và thậm chí rau sử dụng các loại hóa chất để kinh thích tăng trưởng thực sự là một vấn đề đáng lo.
Như vậy, các vấn đề về môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm có những ảnh hưởng không tốt đối với quá trình thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam.
Tình hình an toàn giao thông
Tai nạn giao thông không có gì lạ với thế giới, nó không trừ một ai kể cả những người nổi tiềng như công nương Diana. Chính vì vậy mà an toàn giao thông là một yếu tố cần thiết để đảm bảo an toàn cho khách du lịch. Thế nhưng, có thể nói, với bất kỳ du khách nước nào khi được hỏi "đến Việt Nam điều gì bạn lo lắng nhất" thì họ lập tức trả lời: "Sợ nhất tai nạn giao thông". Điều này cũng không có gì là khó hiểu khi mà đường chật người đông, xe máy thì lạng lách, phóng vù vù bất chấp cả các tín hiệu giao thông. Có sự kiện rất đáng buồn cho Việt Nam là vào năm 2006, Giáo sư Seymour Papert thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) với tấm lòng vì Việt Nam đã đặt chân xuống lòng đường Hà Nội để khảo sát một mô hình toán học để mô phỏng tình trạng giao thông trên đường phố Hà Nội thế nhưng thất đáng tiếc giáo sư già đã phải ngã xuống trên đường phố Hà Nội vì một chiếc xe máy. Không chỉ có tai nạn giao thông mà tình trạng tắc nghẽn giao thông cũng liên tục xảy ra. Mà mỗi khi tắc đường hì khói, bụi, tiếng ồn và các phương tiện giao thông còn leo cả lên vỉ hè, chiếm dụng các lề đường dành cho khách dạo bộ.
Thông qua giao thông, khách du lịch còn đánh giá được cả ý thức của người dân Việt Nam, hình ảnh các bạn trẻ lạng lách, vượt đèn đỏ… làm xấu đi hình ảnh về người dân Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Các điều kiện phục vụ khách du lịch
Khách du lịch đến một điểm đến và có muốn quay trở lại với điểm đến đó hay không phụ thuộc rất nhiều sự hài lòng hay không hài lòng của du khách khi ở điểm đến đó. Mà sự hài lòng này lại phục thuộc chính vào các yếu tố phục vụ du khách. Khách du lịch chỉ có thể hài lòng khi mà các điều kện phục phụ phải tốt, thuận tiện, con người phải hòa nhã, thân thiện, đáp ứng kịp thời các nhu cầu của khách du lịch. Chính vì vậy, trong phần này em đề cập tới hai vấn đề chính ảnh hưởng lớn tới việc thu hút khách du lịch quốc tế vào Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2008 đó là: yếu tố về cơ sở hạ tầng kỹ thuật du lịch và các yếu tố về nguồn nhân lực phục vụ trong du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội:
Vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu lại trải qua các cuộc chiên tranh khoc liệt nên cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội bao gồm hệ thống đường xá, nhà ga, sân bay, bến cảng, hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống cấp thoátt nước, mạng lưới điện…
Hệ thống đường hàng không
Hệ thống đường hàng không Việt Nam bao gồm cơ sở hạ tầng là các sân bay quốc tế và các sân bay nội địa.
Các sân bay quốc tế gồm: Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay quốc tế Phú Bài, sân bay Cam Ranh, sân bay quốc tế Cát Bi.
Việt Nam hiện nay có tổng cộng 26 sân bay các loại có bãi đáp hoàn thiện, trong đó có 8 sân bay có đường băng dài trên 3.000 m có khả năng đón được các máy bay loại cỡ trung trở lên như Airbus A320, Airbus A321…
Tuy nhiên các sân bay hiện nay ngoài sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và sân bay quốc tế Nội Bài thì các sân bay thường thiếu thốn các tiện nghi như các xe chở khách còn ít khách xuống khỏi máy bay phải đứng chen chúc nhau trong xe đón khách, phòng chờ còn chật hẹp… gây ấn tượng xấu về cái nhìn ban đầu cho du khách.
Về hệ thống đường bộ
Hệ thống đường bộ chính tại Việt Nam bao gồm các con đường Quốc lộ, nối liền các vùng, các tỉnh cũng như đi đến các của khẩu quốc tế với Trung Quốc, Lào, Campuchia. Hệ thống quốc lộ bao gồm khoảng hơn 33 con đường quốc lộ trong đó quan trọng nhất là đường quốc lộ 1. Đây là con đường nối liền cả ba vùng Bắc Trung Nam.với tổng chiều dài 2260 km, qua 31 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Trên quốc lộ 1 có tổng tất cả 400 cây cầu, trong đó có những cây cầu lớn như cầu Chương Dương (Hà Nội), cầu Mỹ Thuận (Tiền Giang), cầu Cần Thơ (Cần Thơ).
Toàn bộ các tuyến đường Quốc lộ có tổng chiều dài khoảng 17.300 km, trong đó gần 85% đã tráng nhựa. Ngoài các đường quốc lộ còn có các đường tỉnh lộ, nối các huyện trong tỉnh, huyện lộ nối các xã trong huyện. Các tuyến tỉnh lộ có tổng chiều dài khoảng 27.700 km, trong đó hơn 50% đã tráng nhựa. tuy nhiên có một thực trạng về hệ thống đường bộ tại các đô thị, các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,… thì các phần lớn con phố hẹp về chiều ngang, nên thường dễ gây ra tắc đường và hiện tượng người dân đi xe lên vỉ hè, lấn đường của người đi bộ.
Hệ thống các cảng biển
Các cảng biển chính hiện nay gồm: cảnh Hải Phòng, cảng Cái Lân ở miền Bắc, cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn ở miền Trung và cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái ở miền Nam. Tuy nhiên các cảng biển này chủ yếu là các cảng hàng hóa nên nó không đáp ứng được các yêu càu dành cho cảng đón khách du lịch.
Hệ thống thông tin viễn thông
Trên thị trường Việt Nam hiện nay có các nhà cung cấp dịch vụ viến thông như: Tập đoàn bưu chính viến thông Việt Nam (VNPT), tổng công ty viễn thông quân đội Viettel, Hà Nôi telecom, S-Fone telecom… tuy nhiên cơ sở hạ tầng của ngành vẫn của thực sự tốt, nó thể hiện ở việc điện thoại di động còn trường hợp bị mất song, hệ thống điện thoại thẻ cho khách nước ngoài chưa phát triển…
Trong những năm từ 2001 - 2008 thì hệ thống Internet cũng đang dần dần phát triển tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho du khách đặc biệt là khách du lịch công vụ.
Hệ thống cấp thoát nước
Mặc dù chính phủ đã đầu tư rất nhiều cho hệ thống cấp thoát nước nhưng cho đến nay tình hình vẫn không mấy khả quan đặc biệt là tại các đô thị. Tình trạng chỉ một trận mưa rào đủ lớn đã khiến cho một số con phố bị ngập lụt. Năm 2008 là năm mà Hà Nội, thủ đô của cả nước phải hứng chịu một trận lụt lịch sử mà nguyên nhân chính là do hệ thống thoát nước của thành phố còn quá yếu.
Mạng lưới điện
Ở Việt Nam hiện nay đang có các nhà máy điện như: nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhà máy thủy điện Sơn La, nhà máy thủy điện Ytali, và một số các nhà máy nhiệt điện và thủy điện khác. Tuy nhiên, hiện tại thì ngành điện Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được các nhau cầu cảu người dân đặc biệt và vào mùa hè còn xảy ra tình trạng khan hiếm điện. Khách du lịch phần đông là những người đến từ các quốc gia ôn đới nên khả năng chịu nóng của họ không tốt chính vì vậy mà trong mùa hè, nếu nhưng bị mất điện thì đây quả là một sự trải nghiệm khó khăn của khách du lịch. Nhưng dự kiến đến năm 2020 thì Việt Nam sẽ có nhà máy điện nguyên tử. Nhà máy này sẽ cung cấp được lượng điện đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Tất cả các yếu tố về cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội đều giúp cho khách du lịch thuận tiện hơn trong quá trinh đi du lịch, và trong quá trình này thì các yếu tố về cơ sở hạ tầng du lịch như cơ sở lưu trú, các khu vui chơi giải trí, các phương tiện vận chuyển khách… sẽ góp phần phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch:
Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch Việt Nam trong gia đoạn 2001 -2008 nổi trội lên là vấn đề thiếu trầm trọng các khách sạn lớn phục vụ nhu cầu của khách du lịch quốc tế. Cho đến năm 2008 thì tổng số khách sạn 4 sao và 5 sao trên cả nước chỉ đạt 1,16% tổng số cơ sở lưu trú của cả nước, tương ứng là số buồng ngủ cao cấp chiếm 9,25% tổng số buồng ngủ trên cả nước. Đay là một con số khá khiêm tốn đối vơi ngành du lịch, nó khiến cho du lịch Việt Nam mất đi khả năng phụ vụ khách du lịch vào những thời gian cao điểm.
Không chỉ có vậy, ngành du lịch còn thiếu các phương tiện vận chuyển khách du lịch quốc tế riêng để phục cụ khách du lịch đi một mình, khách du lịch công vụ… Như Thái Lan, họ có hệ thống xe buýt đón khách ở sân bay và đưa khách về các khách sạn hoặc các điểm đến của họ trong thành phố. Các xe buýt này làm nhiệm vụ gôm những khách có nhu vàu muốn đi đến mộ điểm du lịch nào đó và họ hẹn với khách du lịch ngày giờ cụ thể để đón khách. Đây là một hình thức phục vụ khách du lịch rất hay, Việt Nam nên học hỏi để áp dụng.
Về các cơ sở vui chơi, giải trí hiện nay ở Việt Nam các cơ sở này đang dần phát triển tuy nhiên chất lượng của phần đông các cơ sở này chưa cao, chưa thực sự có sự đọc đáo và khác biệt giữa các cơ sở. Hầu như đi đến khu vui chơi iair trí nào ta cũng dễ dàng bắt gặp các trò chơi tương tự nhau như các trò chơi cảm giác mạnh nhưng thực sự các trò chơi này nếu so với nước ngoài thì còn thua xa, hay như xem phim 4D thì nội dung của các bộ phim này chưa thực sự hấp dẫn… Chính vì vậy mà chúng ta đã chưa thu hút được nhiều khách du lịch quốc tế.
Cơ sở vật chất là một phần nhưng yếu tố quan trọng không kém đó là con người. Người dân Việt Nam luôn có nổi tiếng về sự thân thiện nhưng thực sự đội ngũ nhân viên phục vụ khách du lịch như thế nào?
Đội ngũ nhân viên phục vụ khách du lịch
Đội ngũ nhân viên phục vụ khách du lịch là những người trực tiếp gặp gỡ, tiếp xúc với khách du lịch nên thái độ, cách ứng xử của họ sẽ tạo cho du khách cảm giác thỏa mái hay không thỏa mái, vui vẻ hay khó chịu… Trong những năm gần đây, đã có rất nhiều cơ sở đào tạo về nhân viên phục vụ khách du lịch, cung cấp cho họ các kỹ năng để phục vụ khách chuyên nghiệp, nhưng cho đến nay thì đội ngũ nhân viên phục vụ khách du lịch của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm yếu. Nếu như so sánh với đội ngũ nhân viên của Thái Lan thì ta thấy sự khác biệt khá xa, chỉ nói riêng việc vận chuyển đồ đạc, khi khách du lịch đến nơi đón khách thì gần như không phải xách đồ của mình trong suốt cuộc hành trình, mà có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_chinh_913.doc