Đề tài Tăng cường quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam: MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh một loại hàng hóa đặc biệt - đó là tiền tệ. Vì thế hoạt động của một ngân hàng, của cả hệ thống ngân hàng mang rất nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro thanh khoản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa các ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng lan toả trong toàn hệ thống ngân hàng. Rủi ro thanh khoản là rủi ro lớn nhất mà một ngân hàng phải đối mặt, tất cả các rủi ro khác đều dẫn đến nguy cơ là làm ngân hàng giảm năng lực tài chính và từ đó không còn đảm bảo được thanh khoản. Thanh khoản cũng ví như sức khỏe của ngân hàng, một ngân hàng muốn hoạt động được thì phải luôn bảo đảm khả năng thanh khoản. Hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật tác động tới tất cả các lĩnh vực trong đời sống, trong đó có cả lĩnh vực tài chính ngân hàng. Công nghệ thông tin làm cho nguồn tiền của các ngân hàng...

doc62 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh một loại hàng hóa đặc biệt - đó là tiền tệ. Vì thế hoạt động của một ngân hàng, của cả hệ thống ngân hàng mang rất nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro thanh khoản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của ngành trong quan hệ vốn giữa các ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng lan toả trong toàn hệ thống ngân hàng. Rủi ro thanh khoản là rủi ro lớn nhất mà một ngân hàng phải đối mặt, tất cả các rủi ro khác đều dẫn đến nguy cơ là làm ngân hàng giảm năng lực tài chính và từ đó không còn đảm bảo được thanh khoản. Thanh khoản cũng ví như sức khỏe của ngân hàng, một ngân hàng muốn hoạt động được thì phải luôn bảo đảm khả năng thanh khoản. Hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật tác động tới tất cả các lĩnh vực trong đời sống, trong đó có cả lĩnh vực tài chính ngân hàng. Công nghệ thông tin làm cho nguồn tiền của các ngân hàng thương mại thay đổi mạnh mẽ, tạo thuận lợi và khó khăn cho ngân hàng. Các nguồn tiền ngày nay trở nên nhạy cảm hơn và thay đổi thường xuyên hơn làm cho tính ổn định của ngân hàng trở nên yếu đi. Từ 9/8/2007, trong không đầy một tháng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã phải bơm khoảng 200 tỉ USD vào hệ thống ngân hàng để tránh khủng hoảng thanh khoản, hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ vay mua nhà dưới chuẩn trước đó. Còn ở nước ta, 7 tháng đầu năm 2008, tình trạng khan hiếm tiền đồng, lãi suất tiền gửi đồng Việt Nam liên ngân hàng tăng lên một cách chóng mặt đã đẩy các ngân hàng thương mại vào cuộc chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới 18,6%/năm. Trong khi đó, về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hai lần tăng lãi suất cơ bản lên 12%/năm và 14%/năm, đồng thời, chỉ đạo các NHTM tuân thủ một cách nghiêm ngặt quy định không áp dụng lãi suất kinh doanh vượt quá 150% lãi suất cơ bản và không được thu phí đối với hoạt động cho vay. Mặc dù lãi suất huy động tăng cao như vậy nhưng theo nghiên cứu của một số chuyên gia thì thực sự đồng Việt Nam thu hút về ngân hàng lại không được như ý muốn của các nhà quản lý và tình trạng thanh khoản vẫn luôn bị những áp lực rất căng thẳng. Hậu quả là hoạt động kinh doanh của hầu hết các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí một vài ngân hàng nhỏ bị tê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại các ngân hàng hầu như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng theo hạn mức đối với những khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên rất cao, ở mức 18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng giảm sút một cách nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỷ và hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận năm 2008 khoảng 30- 40%. Tình hình đó đã gây ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đánh giá ở góc độ vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế thì những diễn biến như trên đã gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống xã hội. Qua đó cho ta thấy được tầm quan trọng của các nhà quản lý thanh khoản và công việc quản lý thanh khoản. Một thực tế hiện nay các Ngân hàng thương mại đều thấy tầm quan trọng của chiến lược quản lý rủi ro trong đó có rủi ro thanh khoản, nhưng phương pháp thực hiện vẫn còn nhiều bất cập và chưa theo kịp với trình độ công nghệ, trình độ quản lý của hệ thống ngân hàng hiện đại. Tại Ngân hàng Công thương Việt Nam, công tác quản lý thanh khoản vẫn còn một số tồn tại nhất định, việc quản lý thanh khoản đang trở nên lạc hậu trước xu thế phát triển chung và yêu cầu của hội nhập. Do đó, vấn đề chiến lược được đặt ra là cải cách hệ thống quản trị ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Hiểu được tầm quan trọng của công tác quản trị ngân hàng nói chung và quản lý thanh khoan nói riêng, cũng như muốn đưa ra một số ý kiến nhằm giải quyết tình trạng còn nhiều bất cập trên và tăng cường hơn trong công tác quản lý thanh khoản tại hệ thống Ngân hàng thương mại mà cụ thể hơn là Ngân hàng Công thương Việt Nam. Nên em đã chọn đề tài “Tăng cường quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam” Bố cục bài viết của em như sau: Chương I: Lý luận chung về quản lý thanh khoản tại ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng công tác quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam Chương III: Tăng cường công tác quản lý thanh khoản Đề tài được viết dựa vào các kiến thức mà em đã được các giảng dạy cộng thêm những kiến thức thực tế thu được trong thời gian thực tập. Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp toán học, lịch sử được em áp dụng để hoàn thành bài viết của mình. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Các khái niệm liên quan đến thanh khoản 1.1.1. Dự trữ thanh toán 1.1.1.1. Vốn khả dụng Thanh khoản luôn đi kèm với việc sử dụng vốn khả dụng. Nhu cầu thanh khoản là không như nhau tại mọi thời điểm, trong khi đó ngân hàng luôn phải đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ chi trả cho khách hàng một cách vô điều kiện. Muốn thế, ngân hàng phải có trong tay một lượng vốn khả dụng nhất định. Vốn khả dụng được hiểu là lượng tài sản cơ động mà ngân hàng có thể sử dụng ngay được. Thông thường vốn khả dụng bao gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác, là những tài sản mà ngân hàng có thể sử dụng bất kỳ lúc nào. Như vậy, vốn khả dụng được coi là tài sản có tính “lỏng” nhất, và do vậy, nó hầu như không hoặc có tính sinh lời rất ít. Ngân hàng phải luôn tìm cách để tối thiểu hóa lượng vốn khả dụng dù quan trọng nhưng không sinh lời này tại mỗi thời điểm, đủ để phục vụ nhu cầu thanh toán. 1.1.1.2. Dự trữ thanh toán Là khoản dự trữ nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng với khách hàng. Dự trữ thanh toán bao gồm vốn khả dụng và các tài sản có tính thanh khoản khác. Tài sản thanh khoản thường bao gồm: - Các giấy tờ có giá có khả năng chuyển đổi thành tiền với chi phí thấp, bao gồm tín phiếu Kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, trái phiếu Chính phủ. Chúng có độ rủi ro bằng 0, được giao dịch trên thị trường mở, được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận cầm cố, cho vay chiết khấu. - Trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước cũng được đánh giá là có độ rủi ro thấp. - Các khoản dự trữ ngoại tệ có khả năng chuyển đổi. - Các tài sản có tính thanh khoản khác. 1.1.2. Thanh khoản 1.1.2.1. Thanh khoản của ngân hàng Thanh khoản của ngân hàng được hiểu đơn giản là khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Một ngân hàng có tính thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả năng mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp hoặc cả hai sao cho phù hợp với nhu cầu thanh khoản. Như vậy khi ngân hàng không đáp ứng kịp thời nghĩa vụ thanh toán hoặc phải chịu tổn thất, chi phí cao để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán này sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản. Thanh khoản là một nội dung quản lý đặc biệt phức tạp trong công tác quản trị ngân hàng, khi mà dòng tiền vào, dòng tiền ra phát sinh không lường trước được, thay đổi liên tục hàng ngày, hàng giờ. 1.1.2.2. Tính thanh khoản của tài sản Tính thanh khoản của mỗi tài sản là khả năng chuyển tài sản thành tiền được đo bằng thời gian và chi phí. Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản càng giảm và ngược lại. Trong kế toán tài sản lưu động chia làm năm loại và được sắp xếp theo tính thanh khoản từ cao đến thấp như sau: tiền mặt,chứng khoán, đầu tư ngắn hạn, khoản phải thu, ứng trước ngắn hạn, và hàng tồn kho. Như vậy rõ ràng tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất, luôn luôn dùng được trực tiếp để thanh toán, lưu thông, tích trữ; còn hàng tồn kho có tính thanh khoản thấp nhất vì phải trải qua giai đoạn phân phối và tiêu thụ chuyển thành khoản phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian mới chuyển thành tiền mặt. 1.1.2.3. Tính thanh khoản của nguồn Được đo bằng thời gian và chi phí cơ hội để mở rộng nguồn khi cần thiết. Thời gian và chi phí càng cao thì tính thanh khoản của nguồn càng giảm. Khả năng huy động nguồn cũng góp phần tạo khả năng thanh toán cho ngân hàng. 1.1.3. Rủi ro thanh khoản Rủi ro thanh khoản được hiểu là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá mức khả năng thanh khoản dự kiến. Rủi ro thanh khoản ở mức cao làm cho ngân hàng phải gia tăng chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng. Ở mức cao hơn ngân hàng mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. Rủi ro thanh khoản có thể đến từ hoạt động bên nợ hoặc bên có hoặc từ hoạt động ngoại bảng của bảng cân đối tài sản. Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản nợ có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi người gửi tiền rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn. Với một lượng tiền gửi đọt ngột được rút ra lớn sẽ buộc ngân hàng phải đi vay thêm để bổ sung hoặc bán bớt tài sản. Do cần gấp nên khi huy động thì ngân hàng phải chịu lãi suất cao, hoặc bán gấp tài sản thì phải bán với giá thấp so với giá trên thị trường và từ đó làm giảm thu nhập của ngân hàng. Rủi ro thanh khoản từ bên tài sản có chủ yếu phát sinh khi nhu cầu vay tiền của khách hàng tăng đột ngột làm ngân hàng không đảm bảo đủ tiền ngay lập tức theo yêu cầu của khách. Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng: Sự phát triển mạnh mẽ của các công cụ phái sinh khiến cho rủi ro thanh khoản đến từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng gia tăng. Khi mà các nghĩa vụ thanh toán xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh toán các hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi hay quyền chọn đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản và ngân hàng có thể đối mặt với rủi ro thanh khoản. 1.1.4. Khe hở thanh khoản Cung thanh khoản: là khả năng cung ứng tiền của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, bao gồm việc bán tài sản thanh khoản, khả năng huy động vốn mới và thu hồi các khoản cho vay đến hạn. Cầu thanh khoản: là nhu cầu thanh toán của khách hàng mà ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng, bao gồm nhu cầu chi trả từ tài khoản tiền gửi và nhu cầu vay của khách hàng. Khe hở thanh khoản: là chêch lệch giữa cung và cầu thanh khoản tại một thời điểm nhất định. Khe hở thanh khoản chính là nguyên nhân gây nên rủi ro thanh khoản, khi cung và cầu thanh khoản tại một thời điểm nào đó không cân bằng: - Khi cung thanh khoản > cầu thanh khoản: ngân hàng ở trạng thái thặng dư vốn khả dụng. Trường hợp lượng vốn khả dụng lớn hơn mức cần thiết, ngân hàng sẽ bị dư thừa, ứ đọng vốn và làm giảm hiệu quả kinh doanh. - Khi cung thanh khoản < cầu thanh khoản: ngân hàng ở trạng thái thâm hụt vốn khả dụng, không đáp ứng được nhu cầu chi trả và phải tìm kiếm nguồn thanh khoản bổ sung. Với sự biến động của lãi suất hị trường trong tương lai, khe hở thanh khoản sẽ ảnh hưởng đến thu nhập ròng từ lãi của ngân hàng, cụ thể: NII = GAPL * ∆I Trong đó: • NII : Thu nhập ròng từ lãi • GAPL : Giá trị khe hở thanh khoản hay chênh lệch giữa cung thanh khoản và cầu thanh khoản tại thời điểm tính • ∆I : Sự thay đổi của lãi suất thị trường Như vậy để nâng cao thu nhập ròng từ lãi khi có sự biến động của lãi suất, khi dự đoán lãi suất tăng thì ngân hàng nên duy trì khe hở thanh khoản dương và ngược lại, khi dự đoán lãi suất thị trường giảm ngân hàng sẽ duy trì khe hở âm. 1.2. Nội dung quản lý thanh khoản 1.2.1. Xác định mục tiêu của quản lý thanh khoản Trước hết mục tiêu quản lý thanh khoản của ngân hàng được xác định là nhằm đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ tài chính đối với khách hàng với mức chi phí thấp nhất. Mặc khác, bài toán giữa chỉ tiêu sinh lời và an toàn luôn luôn được đặt ra cho các nhà quản lý. Thanh khoản và lợi nhuận của ngân hàng là hai tiêu chí trái ngược nhau, có tính chất đánh đổi. Muốn duy trì một tỷ lệ an toàn thanh khoản cao đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ nắm giữ các tài sản thanh khoản nhưng ít sinh lợi hoặc hầu như không sinh lời. Và ngược lại, nếu theo đuổi mục đích lợi nhuận, ngân hàng sẽ muốn nắm giữ những tài sản sinh lợi cao, kỳ hạn dài nhưng thanh khoản kém dẫn tới nguy cơ về rủi ro thanh khoản. Nhà quản lý ngân hàng sẽ cần phải cân đối hợp lý giữa hai mục tiêu này để phù hợp với mục tiêu, chiến lược hoạt động trong từng thời kỳ của ngân hàng. Như vậy, ngân hàng quản lý thanh khoản để: * Đảm báo khả năng chi trả kịp thời của ngân hàng với chi phí thấp nhất, hợp lý nhất. * Dự đoán nguy cơ rủi ro thanh khoản và tổn thất có thể xảy ra. 1.2.2. Xác định cung cầu thanh khoản 1.2.2.1. Xác định cung thanh khoản a. Cung thanh khoản phát sinh từ Tài sản Có Tiền mặt: Tiền mặt của ngân hàng được đánh giá là một trong những khoản mục mang tính lỏng (tính thanh khoản) cao nhất, toàn bộ số dư tiền mặt được coi là nguồn cung thanh khoản nhanh chóng và ít chi phí nhất. Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước: là khoản mục mang tính lỏng không kém gì tiền mặt. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng: Do các tổ chức tín dụng được coi là những đối tác có độ tín nhiệm cao nên khả năng thanh toán gần như là chắc chắn. Đối với một số giao dịch có thỏa thuận được rút trước hạn thì tính thanh khoản cũng gần như tiền gửi thanh toán. Các khoản cho vay các tổ chức tín dụng được hoàn trả: khoản mục này tính thanh khoản cũng tương đương như tiền gửi tại các tổ chức tín dung tuy nhiên trong xếp loại thứ tự ưu tiên trong thanh toán thì tiền vay nằm sau tiền gửi. Các khoản cho vay các tổ chức kinh tế, các nhân được hoàn trả: khoản mục này không được đánh giá cao về tính thanh khoản, trong báo cáo khe hở thanh khoản khoản mục này chỉ được lấy ở mức khoảng 70% số dự kiến phát sinh. Các khoản đầu tư chứng khoán đến hạn: chứng khoán ngân hàng nắm giữ hiện nay thường có độ an toàn cao như Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu Kho Bạc Nhà Nước, trái phiếu công trình…Do vậy tính thanh khoản cũng được đánh giá tương đối cao, ở mức khoảng 90-95% Ngoài ra còn một số Tài sản Có khác đến hạn như các khoản phải thu, các khoản tạm ứng… b. Cung thanh khoản phát sinh từ Tài sản Nợ Huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, cá nhân: khả năng tăng cung thanh khoản từ huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, cá nhân là thanh khoản trong dài hạn và thể hiện ở chính sách, kế hoạch huy động của ngân hàng. Đây cũng là một trong những chỉ số quan trọng đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng và được coi là nguồn thanh khoản mang tính ổn định nhất, là nền tảng lợi nhuận của ngân hàng. Phát hành giấy tờ có giá: tương tự như trên, phát hành giấy tờ có giá cũng là biện pháp tăng cung thanh khoản. Tuy nhiên các đợt phát hành thường phục vụ cho mục tiêu nhất định ntrong thời hạn nhất định, lãi suất có thể cao hơn tiền gửi tiết kiềm nên khoản mục này có thể tăng cung thanh khoản một cách linh động hơn. Vay cầm cố, vay chiết khấu Ngân hàng nhà nước: Nguồn tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước được coi là sự hỗ trợ thanh khoản cuối cùng của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trên thực tế, các ngân hàng thương mại thường xuyên sử dụng nguồn này để bổ sung nguồn vốn kinh doanh cũng như hỗ trợ thanh khoản qua sử dụng hạn mức chiết khấu, vay cầm cố giấy tờ có giá do đây là nguồn vốn có chi phí thấp, quy mô lớn. Nhận tiền gửi Kho bạc Nhà nước, nhận tiền gửi, vay các Tổ chức tín dụng khác: Đây cũng là nguồn cung thanh khoản dồi dào vì có chi phí thấp và quy mô lớn, nhưng với nguồn này ngân hàng không chủ động được mà phụ thuộc vào khả năng của đối tác và khả năng huy động của chính ngân hàng. c. Cung thanh khoản phát sinh từ khoản mục ngoại bảng: Thị trường tài chính ngày nay ngày càng được phát triển và mở rộng, các sản phẩm phái sinh và dịch vụ trở nên đa dạng và linh hoạt hơn. Do đó, sử dụng các sản phẩm này cũng là công cụ giúp ngân hàng gia tăng lợi nhuận và tăng cung thanh khoản khi cần. Các sản phẩm phái sinh thông dụng hiện nay như là : Hợp đồng repo, mua bán kỳ hạn trong giao dịch kinh doanh ngoại tệ, quyền chọn trong giao dịch ngoại tệ, các hối phiếu của bộ chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu đã được ngân hàng nước ngoài chấp nhận... 1.2.2.2. Xác định cầu thanh khoản a. Cầu thanh khoản phát sinh từ Tài sản Nợ Nhu cầu rút tiền gửi của Kho bạc Nhà nước: theo quy định hiện nay, tiền gửi Kho bạc Nhà nước được thực hiện như ở tiền gửi thanh toán, do vậy với nhu cầu rút tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, yêu cầu một lượng thanh khoản cao và khối lượng lớn. Nhu cầu rút tiền gửi của các tổ chức tín dụng: tương tự tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi đến hạn của các tổ chức tín dụng có khối lượng lớn, kỳ hạn ngắn nên yêu cầu thanh khoản thường cao và lớn. Vay Ngân hàng Nhà nước đến hạn: Theo quy định hiện nay các khoản vay tái cấp vốn Ngân hàng Nhà nước cho mục tiêu thanh khoản không được gia hạn, quay vòng do vậy yêu cầu thanh khoản cho khoản mục này cũng thường ở mức cao. Vay tổ chức tín dụng khác đến hạn: đây cũng lã khoản mục có yêu cầu thanh khoản cao, tuy nhiên do phụ thuộc vào khả năng thanh khoản của đối tác nên nên vẫn còn khả năng quay vòng, gia hạn. Nhận vốn cho vay đồng tài trợ đến hạn: vốn cho vay đồng tài trợ là các khoản vốn các ngân hàng đồng thời góp vốn cho ngân hàng đầu mối để cho vay theo một dự án, chương trình nhất định, do vậy yêu cầu thanh khoản đối với khoản mục này cũng tương đối cao. Nhu cầu rút tiền gửi không kỳ hạn của dân cư và tổ chức kinh tế: là khoản mục có tính thay đổi cao tùy thuộc vào từng thời kỳ và khó lường trước hết được. Do đó, ngân hàng cần chú ý để bảo đảm cho nhu cầu thanh khoản này thường xuyên. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tại quyết định 457/QĐ-NHNN thì tỷ lệ dự trữ thanh khoản cho khoản mục này tối thiểu ở mức 15% cho ngày làm việc tiếp theo. Nhu cầu rút tiền gửi có kỳ hạn đến hạn, rút tiền gửi trước hạn của tổ chức kinh tế, dân cư: Theo lý thuyết thì khoản tiền gửi này sẽ bị rút khỏi ngân hàng khi đến hạn. Nhưng thường thì luôn có một tỷ lệ nhất định được quay vòng hoặc chuyển sang kỳ hạn khác. Ngân hàng cũng phải duy trì một tỷ lệ dự trữ nhất định cho khoản mục này, để xác định tỷ lệ dự trữ khá phức tạp nên các ngân hàng thường dựa vào dữ liệu lịch sử của mình. Vốn huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá đến hạn: vốn từ phát hành giấy tờ có giá có yêu cầu thanh khoản tương tự tiền gửi có kỳ hạn.Ngân hàng cũng cần căn cứ số liệu lịch sử để lập kế hoạch thanh khoản cho khoản mục này. Các Tài sản nợ khác: các Tài sản nợ khác bao gồm các khoản phải trả,thanh toán…nên kế hoạch thanh khoản tương đối khó xác định. Ngân hàng thường xác định một tỷ lệ dự trữ nhất định trên tổng giá trị tài sản nợ khác tại mỗi thời điểm. b. Cầu thanh khoản phát sinh từ Tài sản có Dự trữ bắt buộc: nhu cầu về thanh khoản đầu tiên mà một ngân hàng thương mại phải đáp ứng là việc phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Đó là khoản tiền mà các ngân hàng thương mại phải duy trì tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ được thay đổi trong từng thời kỳ phụ thuộc vào mục tiêu và chính sách tiền tệ. Cam kết cho vay: Cho vay được coi là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng thương mại, chiếm một tỷ trọng lớn trong thu nhập cũng như trong tổng tài sản ngân hàng. Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng dư nợ cho vay trên tổng tài sản của các Ngân hàng thương mại thường chiếm đến 60-80%, do vậy nhu cầu thanh khoản đáp ứng được cam kết cho vay thường là rất lớn. Danh mục cho vay tương đối đa dạng như : cho vay tổ chức kinh tế, cho vay các nhân, đầu tư tiền gửi và cho vay liên ngân hàng… Các khoản cho vay được cam kết trong tương lai: đây là những khoản đã ký hợp đồng tín dụng với khách hàng nhưng chưa đến kỳ giải ngân. Ở Việt Nam hiện nay chưa áp dụng phí cam kết (phí áp dụng đối với số tiền cho vay đã ký hợp đồng tín dụng nhưng chưa giải ngân), do vậy việc kế hoạch các khoản này tương đối khó khăn cho công tác quản lý thanh khoản trong khi lượng thanh khoản là rất lớn. c. Cầu thanh khoản phát sinh từ khoản mục ngoại bảng Hợp đồng repo đến hạn: một giao dịch repo luôn kèm theo nó là cam kết mua lại, do đó nhu cầu thanh toán để mua lại khi hợp đồng repo đến hạn cũng làm tăng cầu thanh khoản của ngân hàng. Cam kết mua kỳ hạn trong giao dịch kinh doanh ngoại tệ: khi thực hiện giao dịch tại thời điểm kì hạn cũng là lúc sẽ phát sinh nhu cầu thanh toán. 1.3. Phương pháp quản lý thanh khoản 1.3.1. Quản lý thanh khoản theo phương pháp truyền thống 1.3.1.1. Nội dung của phương pháp Quản lý theo phương pháp truyền thống Quản lý theo phương pháp truyền thống hay còn gọi là Phương pháp phân tích thanh tĩnh, là phương pháp quản lý thanh khoản bằng cách phân tích các chỉ số rút ra từ bảng tổng kết tài sản và cơ sở dữ liệu hiện tại, từ đó đưa giới hạn cho các chỉ số đảm bảo thanh khoản. Một số chỉ tiêu quản lý thanh khoản thông dụng: a. Chỉ số trạng thái tiền mặt: Chỉ số trạng thái tiền mặt = Vốn khả dụng / Tổng Tài sản Có Chỉ tiêu này thể hiện khả năng thanh toán nhanh của ngân hàng tại thời điểm báp cáo. Về lý thuyết, nếu chỉ số thạng thái tiền mặt càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng thanh khoản tức thời để xử lý các nhu cầu tiền mặt tức thời. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này quá cao thì lại làm giảm lợi nhuận của ngân hàng bởi vì đây là các tài sản không sinh lời hoặc hầu như không sinh lời cho ngân hàng. Điều này thể hiện công tác quản lý thanh khoản của ngân hàng chưa có hiệu quả về chi phí cho dù có hạn chế được rủi ro thanh khoản. Theo chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng thương mại nên duy trì chỉ tiêu này dao động từ 2%-3% là hợp lý. b. Chỉ số dự trữ thanh khoản Chỉ số dự trữ thanh khoản = Dự trữ thanh toán/Tổng Tài sản Có Chỉ tiêu này thể hiện khả năng thanh toán của ngân hàng tại thời điểm báo cáo. Thông thường các ngân hàng không đặt ra giới hạn cho chỉ tiêu này, trên thực tế hiện nay các ngân hàng đang có xu hướng tăng đầu tư vào giấy tờ có giá và đầu tư liên ngân hàng nhằm mục tiêu lành mạnh hóa tình hình tài chính do đây là những khoản mục sinh lợi được đánh giá là độ rủi ro thấp hoặc không có rủi ro. c. Chỉ số cho vay/ tiền gửi Chỉ số cho vay / tiền gửi = Dư nợ cho vay khách hàng trước dự phòng rủi ro/Tiền gửi của khách hàng Đây là chỉ tiêu thể hiện khả năng tự huy động để sử dụng cho vay (tự cấp tín dụng) của ngân hàng. Dư nợ cho vay được xem là những tài sản ít thanh khoản nhất và đem lại lợi tức cao nhất, do vậy nếu chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng thanh khoản của ngân hàng sẽ thấp tuy nhiên lại đem lại mức lợi nhuận cao cho ngân hàng. Theo chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng thương mại chỉ nên duy trì chỉ tiêu này tối đa ở mức 75% để đảm bảo khả năng thanh khoản. d. Chỉ số tiền gửi cơ sở Chỉ số tiền gửi cơ sở = Tiền gửi cơ sở/ Tổng tài sản nợ Tiền gửi cơ sở là các khoản tiền gửi có tính ổn định cao, thường là các khoản tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế, các nguồn vốn huy động được từ việc phát hành các chứng chỉ, công cụ nợ. Nếu chỉ tiêu “tiền gửi cơ sở” càng lớn thì ngân hàng càng được coi là có khả năng thanh khoản ổn định do huy động được các nguồn vốn ổn định. e. Chỉ số cơ cấu tiền gửi Chỉ số cơ cấu tiền gửi = Tiền gửi không kỳ hạn/ Tiền gửi có kỳ hạn Nếu chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi càng thấp thì nhu cầu về thanh khoản của ngân hàng càng thấp và ngân hàng được coi là càng có khả năng thanh khoản ( và ngược lại). Tuy nhiên trong thực tiễn, các ngân hàng lại muốn có một chỉ tiêu cơ cấu tiền gửi cao (nghĩa là tiền gửi không kỳ hạn chiếm một tỷ lệ lớn nhất định so với tiền gửi có kỳ hạn) để có thể có mức giá vốn huy động đầu vào bình quân thấp nhằm giảm chi phí về vốn và nâng cao lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh. f. Chỉ số nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn Chỉ tiêu này = (Dư nợ trung, dài hạn – nguồn vốn trung, dài hạn)/ Nguồn vốn ngắn hạn Chỉ tiêu này thể hiện việc ngân hàng đã sử dụng bao nhiêu % các nguốn vốn ngắn hạn để tài trợ cho vay trung, dài hạn. Chỉ tiêu này càng thấp thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng tốt và ngược lại. Theo chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng thương mại nên duy trì chỉ tiêu này tối đa ở mức 20% để đảm bảo thanh khoản trong hoạt động. g. Tỷ lệ khả năng chi trả Tỷ lệ khả năng chi trả = Tổng Tài sản Có có thể thanh toán ngay/Tổng Tài sản Nợ đến hạn thanh toán ngay. Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh khoản của ngân hàng trong tương lai, phản ánh trạng thái thanh khoản ngắn hạn của ngân hàng bằng việc dùng các Tài sản Có có thể thanh toán ngay để đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn thanh toán. Nếu chỉ số này càng cao thì ngân hàng được xem là có khả năng thanh khoản ngắn hạn càng cao và ngược lại. Theo chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng nên duy trì chỉ tiêu này tối thiểu ở mức 25% tại bất kỳ thời điểm nào để đảm bảo khả năng thanh khoản. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước hiện nay (QĐ 457/QĐ-NHNN của NHNN), việc tính toán duy trì khả năng thanh toán được xem xét trong vòng 7 ngày và 1 tháng tiếp theo. h. Chỉ số Chứng khoán thanh khoản Chứng khoán thanh khoản = Số chứng khoán thanh khoản/Tổng tài sản thanh khoản 1.3.1.2. Điều kiện áp dụng Khi áp dụng phương pháp này, ngân hàng cần xây dựng các giới hạn để thực hiện phù hợp với quy mô, tính chất hoạt động của ngân hàng và phù hợp cả với thông lệ quốc tế. Mặt khác cũng phải tuân thủ theo một số các hạn mức mà Ngân hàng Nhà nước đề ra. 1.3.1.3. Đánh giá phương pháp a.Ưu điểm Nhìn chung đây là phương pháp yêu cầu khả năng công nghệ cũng như dữ liệu đầu vào tương đối đơn giản. Ngân hàng chỉ cần xây dựng các chỉ số dựa trên bảng tổng kết tài sản. Ở nước ta hiện nay Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định giới hạn thực hiện đối với tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn và tỷ lệ khả năng chi trả, các chỉ số còn lại ngân hàng chủ động quản lý nên việc thực hiện tương đối dễ dàng. Một ưu điểm nữa là với khả năng và trình độ công nghệ còn hạn chế của ngân hàng thương mại Việt Nam, chưa ngang tầm với khu vực và thế giới, thì sử dụng phương pháp đơn giản này là tương đối phù hợp. Bên cạnh đó phương pháp này cũng không yêu cầu cao về công tác phân tích dự báo trong điều kiện công tác phân tích dự báo cín nhiều hạn chế hiện nay ở nước ta và Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có hệ thống cảnh báo sớm về tình hình thanh khoản. b. Nhược điểm Với phương pháp phân tích thanh khoản tĩnh yêu cầu ngân hàng phải duy trì một lượng cụ thể về tài sản thanh khoản tương quan với những khoản nợ tại mỗi thời điểm nhất định đảm bảo ngân hàng có đủ những tài sản dự trữ có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền để làm tăng vốn khả dụng đáp ứng bất kỳ nhu cầu chi trả nào. Tuy nhiên thực tế hoạt động cho thấy việc tuân thủ các yêu cầu về tỷ lệ tài sản thanh khoản không chỉ ra được tình trạng thanh khoản thực tế của ngân hàng. Danh mục kỳ hạn tài sản Có và tài sản Nợ của ngân hàng phụ thuộc vào loại thị trường cụ thể tài trợ cho chúng và một chính sách thanh khoản hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào “lớp đệm” do tài sản dự trữ mà còn phụ thuộc vào phụ thuộc vào sự quản lý, theo dõi và dự báo trạng thái thanh khoản tương lai cũng như chính sách đa dạng thích hợp về nguồn tài trợ. Việc quản lý bằng cách duy trì các tỷ lệ tài sản thanh khoản có thể dẫn đến việc ngân hàng nắm giữ một lượng quá mức tài sản thanh khoản để bù đắp rủi ro làm giảm hiệu quả kinh doanh hoặc ngược lại nắm giũ 1 lượng tài sản thanh khoản quá ít không đủ cho yêu cầu thanh khoản sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản. Do vậy ta nghiên cứu tiếp phương pháp hiện đại sau: 1.3.2. Quản lý theo phương pháp hiện đại 1.3.2.1 Nội dung phương pháp Phương pháp quản lý thanh khoản hiện đại hay còn gọi là phương pháp phân tích thanh khoản động là phương pháp đánh giá trạng thái thanh khoản của ngân hàng bằng cách dự đoán cung, cầu thanh khoản, dự đoán chênh lệch cung cầu (khe hở) thanh khoản, từ đó đưa ra quyết định quản lý thanh khoản bằng những hạn mức, giới hạn thực hiện. Theo phương pháp này, bộ phận có chức năng quản lý thanh khoản cần thực hiện các công việc sau: a. Lập báo cáo dự tính thanh khoản Để dự tính một cách tương đối cung cầu thanh khoản theo các khoảng thời gian trong tương lai thì theo phương pháp này, khi lập báo cáo, mọi khoản mục thuộc bảng cân đối kế toán đều phải được báo cáo bằng cách phân bổ dữ liệu gốc luồng tiền vào, luồng tiền ra đến hạn vào các dải kỳ hạn: từ 1 ngày → 7 ngày, 8 ngày → 1 tháng, 1 tháng → 3 tháng, 3 tháng → 6 tháng. Đối với những khoản mục không có kỳ hạn hoặc không có ngày đến hạn cần thì sử dụng các giả thiết kết hợp với phân tích dữ liệu lịch sủ để chia vào các thang kỳ hạn thích hợp. Cụ thể như sau: * Cung thanh khoản - Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, tiền gửi thanh toán tại các tổ chức tín dụng : 100% giá trị được phân bổ vào dải kỳ hạn 1 ngày. - Tiền gửi có kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng khác : phân bổ 100% theo kỳ hạn của nó. - Tín phiếu và trái phiếu Chính phủ : phân bổ 5% giá trị vào dài kì hạn 1 ngày, 15% giá trị vào dải kỳ hạn 2 → 7 ngày, 40% giá trị vào dải kỳ hạn 8 ngày → 1 tháng, 40% giá trị vào dải kỳ hạn > 1 → 3 tháng. - Giấy tờ có giá phân bổ 100% theo kỳ hạn. - Dự thu lãi và các khoản phải thu khác : phân bổ 50% giá trị vào dải kỳ hạn > 3 → 6 tháng. 50% giá trị còn lại của khoản mục này được coi như có kỳ hạn > 6 tháng và không đưa vào báo cáo cung cầu thanh khoản. - Góp vốn liên doanh cổ phần, tài sản cố định, dự phòng rủi ro được coi như có kỳ hạn > 6 tháng và không đưa vào báo cáo cung cầu thanh khoản. - Huy động vốn mới kể cả phát hành giấy tờ có giá: dự đoán doanh số huy động vốn mới tương ứng với các dải kỳ hạn (trường hợp không có biến động bất thường có thể sử dụng số liệu lịch sử phát sinh của các năm trước tương ứng với các dải kỳ hạn). - Các khoản mục ngoại bảng : giữ nguyên số dư gốc. * Cầu thanh khoản - Tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức, cá nhân, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác: căn cứ vào phân tích số liệu lịch sử và thông tin cập nhật từ phía khách hàng, bộ phận phân tích thanh khoản xác định lượng tiền ổn định và lượng tiền không ổn định của tiền gửi không kỳ hạn. Lượng tiền ổn định được coi như không bị rút khỏi ngân hàng hoặc có kỳ đến hạn > 6 tháng nên không đưa vào báo cáo cung cầu thanh khoản. Lượng tiền gửi không ổn định được phân bổ 20% vào dải kỳ hạn 1 ngày, 30% vào dải kỳ hạn 2 → 7 ngày, 50% vào dải kỳ hạn 8 ngày đến 1 tháng. - Tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức và cá nhân, giấy tờ có giá đến hạn: căn cứ vào số liệu lịch sử để xác định khả năng tỷ lệ tiền gửi rút trước hạn và được phân bổ vào dải kỳ hạn 1 ngày; số dư tiền gửi còn lại được giữ nguyên dữ liệu gốc. - Tiền gửi kỳ hạn, vay các tổ chức tín dụng khác, vay Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính: giữ nguyên dữ liệu gốc. - Dự chi lãi và các khoản phải trả khác: phân bổ 50% giá trị vào dải kỳ hạn 3 tháng → 6 tháng, 50% giá trị của khoản mục này được coi như có kỳ đến hạn > 6 tháng và không đưa vào báo cáo cung cầu thanh khoản. - Vốn chủ sở hữu được coi như có kỳ đến hạn > 6 tháng và không đưa vào báo cáo cung cầu thanh khoản. - Cho vay mới khách hàng: thu thập dữ liệu về lịch giải ngân các dự án, dự kiến các khoản cho vay mới phát sinh trong tương lai. - Các khoản mục ngoại bảng ; giữ nguyên số liệu gốc. b. Phân tích mô phỏng thanh khoản Thiết lập các kịch bản trong tương lai dựa trên các giả định với xác suất xảy ra tối thiểu 5%. Các giả định nêu ra bao gồm: - Giả định thay đổi lãi suất - Giả định thay đổi môi trường kinh tế vĩ mô (lạm phát, tăng trưởng, chu kỳ kinh tế…) và môi trường vi mô (cạnh tranh của tổ chức tín dụng khác, uy tín ngân hàng…) - Với mỗi kịch bản, cần dự báo các yếu tố sau: • Kế hoạch cho vay mới • Khả năng huy động tiền gửi mới từ các tổ chức, cá nhân • Khả năng từ huy động vốn mới từ phát hành giấy tờ có giá • Khả năng vay cầm cố, chiết khấu của Ngân hàng nhà nước • Khả năng huy động thêm tiền gửi, vay các Tổ chức tín dụng khác • Khả năng thực hiện hợp đồng repo (bán chứng khoán cam kết mua lại) • Khả năng chuyển các tài sản khác thành tiền mặt ( tài sản cố định, vốn liên doanh, cổ phần,…) c. Phân tích khả năng thanh toán Việc phân tích khả năng thanh toán được thực hiện với giả thiết hoạt động kinh doanh của ngân hàng là bình thường. Trên thực tế, khó có thể xảy ra trường hợp tất cả các khách hàng đều đến ngân hàng rút hết tiền trong cùng 01 ngày. Với hoạt động kinh doanh bình thường ngân hàng sẽ ước tính được lượng tiền gửi vào hoặc rút ra. Chúng ta có thể thấy thành phần tiền gửi của khách hàng luôn luôn thay đổi, theo tình hình thị trường khách hàng có thể chuyển từ tiền gửi sang danh mục khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác và trong ngắn hạn, sự thay đổi chỉ ảnh hưởng chủ yếu đến phần vốn không ổn định. Nhà quản lý ngân hàng sẽ cần phải nắm vững và giám sát hành vi của các nhóm đối tượng khách hàng theo từng loại sản phẩm và ngày đáo hạn, xây dựng các kịch bản tác động đến luồng tiền vào, luồn tiền ra để từ đó xác định trạng thái thanh khoản để dự đoán thanh khoản trong thời gian tới dư thừa hay thiếu hụt. d. Đánh giá rủi ro thanh khoản Mục đích của việc phân tích rủi ro thanh khoản là nhằm đánh giá tình trạng ngân hàng sẽ ra sao nêu tình huống xấu nhất có thể xảy ra mà cụ thể tình huống được đề cập ở đây là khủng hoảng thanh khoản xảy ra tại ngân hàng, từ đó đánh giá khả năng chống đỡ của ngân hàng trước những tình huống xấu. Cụ thể ngân hàng sẽ phải tiến hành đánh giá trên các mặt sau: - Khả năng huy động vốn của ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng - Yếu tố thời gian : ngân hàng có thể huy động hoặc cho vay bao nhiêu trong khoảng thời gian nhất định - Thời gian cần phải có để ngân hàng có thể bán một số tài sản nhất định - Ngân hàng có thể bán các tài sản tại mức giá nào - Khủng hoảng xảy ra là có tính hệ thống hay chỉ cục bộ trong ngân hàng - Khả năng ngân hàng có thể tiếp tục cung cấp các dịch vụ cho khách hàng một cách bình thường hay không - Khả năng tạo vốn thanh khoản từ các công cụ phái sinh và các hoạt động ngoại bảng 1.3.2.2. Điều kiện áp dụng Để áp dụng được phương pháp này yêu cầu ngân hàng phải có kho dữ liệu tập trung với cơ sở dữ liệu đủ mạnh phục vụ cho công tác lập báo cáo, phân tích, dự báo. Như vậy yêu cầu ngân hàng phải có một nền tảng cơ sở vật chất cũng như trình độ công nghệ phát triển ở mức tương đối cao. Bên cạnh đó với phương pháp này đối tượng là trạng thái thanh khoản trong tương lai với nhiều yếu tố khách quan tác động nên yêu cầu khả năng phân tích, dự báo tương đối chính xác và phức tạp, do vậy yêu cầu về trình độ cán bộ tác nghiệp cũng là tương đối cao trong khi đây là hạn chế phổ biến ở các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. 1.3.2.3. Đánh giá ưu nhược điểm a. Ưu điểm Ngược lại với phương pháp phân tích thanh khoản tĩnh, phương pháp phân tích thanh khoản động qua phân tích trạng thái thanh khoản là phương pháp mang lại hiệu quả cao và ngày càng phù hợp với xu hướng phát triển của hoạt động ngân hàng cũng như tính hính biến động của thị trường. Với phương pháp này ngân hàng sẽ thực hiện tốt hơn mục tiêu của quản lý thanh khoản là an toàn và hiệu quả trong hoạt động. b. Nhược điểm Như đã đề cập ở trên, yêu cầu của phương pháp thanh khoản động là tương đối cao về cơ sở vật chất, công nghệ cũng như nguồn nhân lực trong khi đây đang là hạn chế của hệ thống ngân hàng thương mại nước ta, do vậy việc áp dụng tương đối khó và yêu cầu phải có sự đầu tư lớn. 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý thanh khoản Các quyết định thanh khoản có thể phát sinh từ phía Tài sản Có hoặc Tài sản Nợ hoặc Tài sản ngoại bảng để đáp ứng cung thanh khoản hoặc cầu thanh khoản phát sinh. Mặt khác, thanh khoản bao gồm hai mục tiêu là an toàn và hiệu quả trong khi hai mục tiêu này lại mâu thuẫn nhau, nghĩa là khi ngân hàng theo đuổi mục tiêu an toàn thì sẽ phải làm giảm hiệu quả và ngược lại. Để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản, ngân hàng sẽ phải lựa chọn rất nhiều loại trong số các nguồn cung thanh khoản từ các Tài sản Có, tài sản Nợ, hay từ những nguồn thanh khoản phái sinh khác nhau để đáp ứng mục tiêu kinh doanh. Và việc ra quyết định này sẽ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau: 1.4.1. Nguyên nhân phát sinh nhu cầu thanh khoản Với một nhu cầu thanh khoản phát sinh nhất định tại thời điểm ngân hàng sẽ phải lựa chọn giữa các khả năng hiện có để có quyết định lựa chọn. Nguyên nhân của nhu cầu thanh khoản nếu phát sinh do tính thời vụ thì ngân hàng sẽ dựa vào số liệu lịch sử trong quá khứ để dự đoán trước được và sau đó lựa chọn nguồn cung thanh khoản hợp lý và mang lại hiểu quả cao nhất cho ngân hàng. Cầu thanh khoản phát sinh từ việc nhiều người liên tục rút tiền và cầu thanh khoản phát sinh từ việc ngân hàng mở rộng cho vay và người đi vay gia tăng được ngân hàng xử lý theo cách khác nhau bằng việc lựa chọn nguồn cung thanh khoản khác nhau. 1.4.2. Kỳ hạn của nhu cầu thanh khoản Kỳ hạn này cũng là yếu tố quan trọng tác động đến quyết định thanh khoản. Khi thiếu hụt thanh khoản ngắn hạn thì ngân hàng có xu hướng sử dụng các nguồn vay trên thị trường tiền tệ hoặc bán một số tài sản thanh khoản. Ngược lại nếu phải đối mặt với thiếu hụt thanh khoản trong dài hạn thì ngân hàng thường có xu hướng tăng cường nguồn vốn huy động hơn là vay nóng. Tương tự khi dư thừa thanh khoản trong ngắn hạn thì ngân hàng sẽ đầu tư vào các tài sản thanh khoản ngắn hạn hoặc cho các định chế tài chính khác vay. Nhưng trong trường hợp dư thừa thanh khoản dài hạn, ngân hàng hoặc đầu tư vào các tài sản có kỳ hạn dài như giấy tờ có giá dài hạn… 1.4.3. Khả năng tham gia các thị trường tiền tệ Thị trường tiền tệ là kênh tạo nguồn thanh khoản nhanh chóng và chi phí phù hợp, đặc biệt là nguồn vay từ hạn mức được Ngân hàng Nhà nước cấp. Khả năng tham gia thị trường này cũng coi như khả năng tăng cung thanh khoản để đáp ứng nhu cầu thanh khoản nhất định, và việc lựa chọn nguồn cung cũng phụ thuộc vào khả năng này. Nếu ngân hàng có uy tín và dễ dàng tiếp cận các nguồn cho vay khối lượng lớn trong thời gian ngắn ở trong nước hoặc quốc tế thì có lợi thế hơn và việc lựa chọn cung thanh khoản để đáp ứng nhu cầu thanh khoản trở nên rộng rãi, thuận lợi hơn. Nhưng đối với những ngân hàng nhỏ, bị hạn chế và ít có điều kiện tiếp cận nguồn vốn trên thị trường này, thì hạn mức đi vay từ các định chế tài chính khác và từ Ngân hàng Nhà nước sẽ được để dành cho những trường hợp phát sinh thanh khoản đột xuất, còn nguồn cung thanh khoản thường được lựa chọn là bán tài sản của mình. 1.4.4. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng Chiến lược kinh doanh ảnh hưởng tất yếu đến công tác quản lý thanh khoản, là nhân tố phát sinh từ nội tại ngân hàng. Tùy vào chiến lược kinh doanh mà ngân hàng sẽ cụ thể hóa các quy định về quản lý thanh khoản cũng như hoạt động khác có liên quan. 1.4.5. Chi phí của nguồn thanh khoản Ngân hàng luôn muốn lựa chọn nguồn có chi phí thấp nhất mà vẫn đáp ứng được đầy đủ nhu cầu thanh khoản. Nếu tính đến việc bán một tài sản nào đó để giải quyết thanh khoản thì chi phí ở đây bao gồm : nguồn thu nhập còn lại từ tài sản mà ngân hàng chấp nhận từ bỏ, các khoản thuế, phí môi giới… Còn nếu muốn huy động nguồn mới thì ngân hàng phải cân nhắc chi phí trả lãi, chi phí cho dự trữ bắt buộc, phí bảo hiểm, các phí liên quan… CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NHCTVN 2.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Việt Nam 2.1.1. Một số chỉ tiêu tài chính giai đoạn 2003 – 2008 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh 3 năm gần nhất của NHCTVN Trong 3 năm qua tình hình kinh tế có nhiều biến động phức tạp, đặc biệt trong hệ thống tài chính. Có thể nói đó là những khó khăn lớn mà các ngân hàng đã phải vượt qua để tồn tại và khẳng định mình. Chỉ tiêu chủ yếu mà chúng ta xem xét để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của hoạt động Ngân hàng là huy động vốn, cho vay, lãi lỗ hạch toán nội bộ. 2.1.2.1. Tình hình huy động vốn NHCT Việt Nam Với mạng lưới chi nhánh rộng khắp toàn quốc, sản phẩm tiền gửi ngày càng đa dạng, đem lại nhiều tiện ích cho người gửi tiền, tổng nguồn vốn huy động của NHCTVN luôn tăng trưởng qua các năm. Bảng 2.1: Tổng vốn huy động của NHCTVN (Đơn vị: tỷ đồng, %) Chỉ tiêu 2006 2007 2008 % % % Tổng NVHĐ 126.625 151.459 190.731 25,9% - VNĐ 101.880 80,45 127.947 84,5 162.693 85,3 % - Ngoại tệ quy VNĐ 24.745 19,55 23.512 15,5 28.038 14,7 % (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007 và 2008 NHCTVN) Tuy nhiên năm 2008 là năm có nhiều biến động lớn nhất trong ngành tài chính ngân hàng. 6 tháng đầu năm chứng kiến sự gia tăng lãi suất huy động chưa từng có, thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm, nhiều ngân hàng đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm. Do đó, lượng tiền gửi vào ngân hàng ồ ạt hơn nên lượng vốn huy động tăng trưởng khá cao ở mức 25,9% so với năm 2007, đặc biệt là khoản mục tiền gửi có kỳ hạn. Trong đó thì nguồn vốn nội tệ chiếm 85,3% và ngoại tệ chiếm 14,7%. Năm 2007, tổng nguồn vốn huy động là 151.459 tỷ đồng, tăng 24.835 tỷ đồng so với năm 2006, tỷ lệ tăng 19,6%, chiếm 10,5% thị phần toàn ngành ngân hàng. Trong đó, nguồn vốn nội tệ đạt 127.947 tỷ đồng, tăng 26.067 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 25,5% và chiếm tỷ trọng 84,5% tổng nguồn vốn huy động. Vốn huy động ngoại tệ qui VNĐ đạt 23.512 tỷ đồng, giảm 1.233 tỷ đồng, tỷ lệ giảm 4%. Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn tiền gửi của NHCT (Đơn vị: tỷ đồng, %) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Thay đổi % Thay đổi % Tiền gửi của khách hàng bao gồm: 99.683 116.365 +16,73% 152.385 +30,9% - Tiền gửi của tổ chức kinh tế 40.643 55.083 +35,53% 68.878 25% - Tiền gửi của dân cư 52.773 55.060 +4,33% 75.358 36,8% - Tiền gửi của các đối tượng khác 6.267 6.222 -7,18% 8.149 30,97% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007 và 2008 NHCTVN) Cơ cấu của nguồn vốn huy động thay đổi theo sự biến động của nền kinh tế qua từng năm. Năm 2008, sự gia tăng chóng mặt của lãi suất huy động kéo theo lượng tiền gửi vào ngân hàng đều tăng ở mức cao đột biến, nhất là tiền gửi của dân cư tăng ở mức 36,8%. Ngược lại, do thiếu hụt thanh khoản và phải đảm bảo yêu cầu thanh khoản do Nhân hàng Nhà nước đặt ra, tiền gửi từ các tổ chức kinh tế mà cụ thể là tiền gửi của các tổ chức tín dụng giảm nhiều, lượng tăng lên chỉ còn 25%. . Năm 2007, tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 55.083 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 36,4% tổng nguồn vốn huy động và tăng 35,5% so với năm 2006. Trong đó, tiền gửi doanh nghiệp đạt 28.836 tỷ đồng, chiếm 52,3% tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tăng 38,5% so với năm trước. Tiền gửi doanh nghiệp tăng, một phần do việc cổ phần hoá, các doanh nghiệp Nhà nước thu được lượng vốn thặng dư khá lớn, phần được giữ lại chưa đầu tư vào sản xuất kinh doanh ngay tạm thời gửi vào các ngân hàng. Trong cơ cấu tiền gửi từ tổ chức kinh tế: Tiền gửi từ doanh nghiệp quốc doanh là 43.802 tỷ đồng, tăng 8.883 tỷ đồng (25,4%) so năm trước, tiền gửi từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 8.486 tỷ đồng, tăng 4.081 tỷ đồng (93%) so với năm trước, tiền gửi từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2.795 tỷ đồng, tăng 1.476 tỷ đồng (gấp 2 lần) so với năm trước. Tiền gửi của doanh nghiệp có thời hạn ổn định chiếm từ 30-35%/ tổng nguồn vốn huy động 2.1.2.2. Tình hình cho vay của NHCTVN Hoạt động cho vay là một trong hai hoạt động cơ bản và truyền thống, mang đặc trưng bản chất của ngân hàng nhất. Tình hình cho vay của NHCTVN 3 năm gần đây tăng trưởng ở mức nhanh. Bảng số liệu về tình hình dư nợ cho vay trong 3 năm qua là những con số biết nói. Bảng 2.3: Dư nợ cho vay của NHCT (Đơn vị: tỷ đồng, %) Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Thay đổi (%) Thay đổi (%) Dư nợ cho vay 80.152 102.191 +27,5% 154.584 51,2% - Cho vay ngắn hạn 47.329 60.529 +27,89% 83.706 38,3% - Cho vay trung dài hạn 31.388 39.707 +26,5% 68.743 73,12% - Cho thuê tài chính 625 613 -1,92% 749 22,18% - Cho vay chương trình tín dụng quốc tế 714 938 +31,37% 1.034 10,2% - Cho vay khác 96 404 320,08% 352 -12,8% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007 và 2008 NHCTVN) Dư nợ cho vay năm 2008 tăng khá cao (đặc biêt là tiền gửi trung và dài hạn tăng đến 73,12%) do tình hình biến động của lãi suất, tăng 51,2% so với 2007. Dư nợ cho vay nền kinh tế năm 2007 là 102.191 tỷ đồng, tăng 22.039 tỷ đồng so với năm 2006, tỷ lệ tăng 27,5% và đến nay thị phần tín dụng của NHCT-VN chiếm 10,5% ngành ngân hàng. Về cơ cấu dư nợ cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp lớn chiếm tỷ trọng 37,9%; dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 41,8%; dư nợ cho vay cá nhân và hộ gia đình chiếm 20,3%. Hình 2.1: Tăng trưởng huy động và dư nợ cho vay NHCTVN Những năm gần đây, do việc đẩy mạnh phát triển thị phần và mở rộng mạng lưới, tốc độ tăng dư nợ cho vay của NHCT nhanh hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn. Tỷ lệ cho vay/huy động ở mức cao, năm 2007 là 67,47% trong khi năm 2006 là 63,3%. Đặc biệt trong năm 2008 là 81% làm gia tăng rủi ro thanh khoản và chất lượng tài sản. 2.1.2.3. Kết quả kinh doanh Bảng 2.4: Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh (trước chi phí dự phòng rủi ro tín dụng) của NHCTVN qua các năm (Đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2007/2006 2008/2007 Tổng thu 4.571.569 6.648.680 9.680.634 45,4% 45,6% Tổng chi 2.141.322 2.766.027 3.875.240 29,17% 40,1% Lãi hạch toán nội bộ 2.430.247 3.882.653 5.805.394 59,7% 49,5% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh tháng 12 và 12 tháng năm 2006, 2007, 2008 – NHCTVN) Như vậy NHCTVN luôn làm ăn có lãi trong 3 năm qua. Với tình hình khó khăn năm 2008 vừa qua thì lãi chỉ tăng với tỷ lệ 49,5% trong khi năm 2007 tăng tỷ lệ cao đến 59,7%. Nguyên nhân chính là do tổng chi phát sinh tăng nhiều hơn năm trước trong khi đó tổng thu chỉ tăng tương đối. 2.2 Thực trạng quản lý thanh khoản 2.2.1. Cơ sở pháp lý về quản lý thanh khoản - Luật các Tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997 và sửa đổi Lật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11. - Quyết định số 37/2000QĐ-NHNN ngày 24/01/2000 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế quản lý vốn khả dụng. - Quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 09/06/2003 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy định về dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng và quyết định số 1141/QĐ-NHNN ngày 28/05/2007 quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc. - Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. 2.2.2. Tổ chức quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam Hội sở chính chịu trách nhiệm quản lý thanh khoản toàn hệ thống, theo nguyên tắc quản lý vốn tập trung. Quản lý thanh khoản tại ngân hàng được diễn ra hàng ngày theo chiến lược của ban quản trị, chính sách và quy định về giới hạn do hội đồng quản lý rủi ro quyết định sau khi được ban Giám đốc thông qua. Hội sở chính quy định riêng đối với từng chi nhánh quản lý thanh khoản. Quản lý thanh khoản tại ngân hàng Công thương được kết hợp giữa 2 phương pháp là phương pháp tĩnh và phương pháp động. Quản lý rủi ro thanh khoản tại NHCT được thực hiện trong một kế hoạch tổng thể về quản lý rủi ro thanh khoản và ứng phó với các sự cố rủi ro thanh khoản. Kể từ khi thành lập và đi vào hoạt động, Ngân hàng luôn đảm bảo duy trì khả năng thanh khoản rất tốt và luôn tuân thủ các quy định về thanh khoản của NHNN. Hội đồng ALCO, Ban điều hành ngân quỹ, Phòng Quản lý rủi ro tùy theo phân cấp có trách nhiệm đưa ra những đánh giá định tính, định lượng thanh khoản, xây dựng khung quản lý rủi ro thanh khoản và giám sát rủi ro thanh khoản. Quản lý rủi ro thanh khoản tại NHCT đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cụ thể sau: - Tuân thủ nghiêm các quy định của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn và thanh khoản trong hoạt động ngân hàng. - Duy trì tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản có có thể thanh toán ngay và các tài sản nợ sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian một tháng tiếp theo. - Duy trì tỷ lệ tối thiểu bằng một (1) giữa tổng tài sản có có thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian bảy (7) ngày làm việc tiếp theo và tổng tài sản nợ phải thanh toán trong khoảng thời gian bảy (7) ngày làm việc tiếp theo. - Tuân thủ các hạn mức thanh khoản quy định trong chính sách quản lý rủi ro thanh khoản do Hội đồng ALCO quy định. - Tổng hợp và phân tích động thái của khách hàng gửi tiền, xây dựng kế hoạch sử dụng vốn cho hoạt động tín dụng và các hoạt động có rủi ro vốn. NHCT cũng thiết lập các định mức thanh khoản như là một công cụ dự phòng tài chính để ứng phó với các đột biến về thanh khoản. Căn cứ khả năng thanh toán ngay và khả năng chuyển đổi thành thanh toán ngay, định mức thanh khoản chia làm bốn (4) cấp độ từ thấp đến cao. Trong mỗi cấp độ sẽ quy định rõ các loại thanh khoản. Kế hoạch thanh khoản dự phòng được thể hiện bằng văn bản và được Hội đồng ALCO xem xét cập nhật hàng tháng. Ngoài ra, Ngân hàng cũng xây dựng kế hoạch ứng phó tình trạng khẩn cấp thanh khoản nhằm cung cấp cho lãnh đạo, trưởng các đơn vị, bộ phận và các nhân viên phương cách quản lý và ứng phó khi xảy ra sự cố thanh khoản. Các bước có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình ứng phó tình trạng khẩn cấp thanh khoản, bao gồm: - Xây dựng kế hoạch: định nghĩa phân loại sự cố, mô phỏng các tình huống của sự cố và các hành động cụ thể để ứng phó. Kế hoạch phải thể hiện bằng văn bản được thiết lập trên công việc hàng ngày kể cả ngoài giờ làm việc. Kế hoạch phải được xem xét cập nhật ít nhất sáu (6) tháng một lần. - Thực hiện hành động ứng phó có hệ thống. - Kiểm soát phương thức quản lý tình trạng khẩn cấp: quản lý mọi hành động trong thời gian xảy ra sự cố, điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với tình hình. Kế hoạch ứng phó cũng bao gồm việc định nghĩa các mức độ khẩn cấp của thanh khoản và các biện pháp ngăn chặn, các định mức thanh khoản có thể sử dụng, các nguồn lực có thể huy động bao gồm cả nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài để ngăn chặn và đối phó với sự cố thanh khoản. Kế hoạch cũng quy định sơ đồ thông tin liên lạc đa chiều từ nhân viên đến lãnh đạo và ra bên ngoài cũng như phương tiện thông tin liên lạc và mức độ duy trì liên lạc. Ngân hàng đã và đang triển khai tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật của cổ đông nước ngoài về quản trị rủi ro, trong đó bao gồm cả nâng cao trình độ quản trị rủi ro về thanh khoản. 2.2.3.Quy trình quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam 2.2.3.1. Quy trình quản lý thanh khoản theo định kì Để dự báo cung cầu thanh khoản cho một khoảng thời gian trong tuơng lai định kỳ (thuờng là tháng hoặc q uý), ngân hàng thống kê số liệu và dự báo theo các bước sau: Bước 1: Bộ phận giao dịch, các phòng nghiệp vụ báo cáo về tình hình huy động vốn, tín dụng, thanh toán, ngân quỹ…để phòng quản trị tính toán được cung cầu thanh khoản. Bộ phận quản lý rủi ro thị trường và tác nghiệp nắm bắt thông tin thị trường, báo cáo để có dự đoán về thay đổi lãi suất, tỷ giá và xu hướng của nền kinh tế. Bước 2 : Lập báo cáo và phân tích rủi ro thanh khoản Bước 3 : Kiến nghị với hội đồng ALCO về thanh khoản Bước 4 : Ra quyết định và thực hiện quyết định thanh khoản 2.2.3.2. Quy trình quản lý thanh khoản hàng ngày Đối với việc quản lý thanh khoản hàng ngày, thì ngay đầu tuần làm việc, bộ phận quản lý thanh khoản sẽ lập báo cáo cung cầu thanh khoản, lập các chỉ số thanh khoản và đánh giá tình hình thanh khoản trong tuần. Sau đó xem xét xác định mức dư thừa hay thiếu hụt thanh khoản. Bộ phận giao dịch kiểm tra tính toán, luôn đảm bảo thực hiện dự trữ bắt buộc đầy đủ và đảm bảo các tỷ lệ về an toàn thanh toán do Ngân hàng nhà nước quy định. Thực hiện thường xuyên kiểm tra số dư của tài khoản NOSTRO của từng đồng tiền, đảm bảo số dư của các đồng tiền không bị âm. 2.2.3.3. Thông báo lượng tiền thanh toán lớn Để thực hiện chiến luợc thanh khoản định kì, khi thực hiện quản lý thanh khoản hàng ngày, trước hết bộ phận giao dịch phải thông báo lệnh thanh toán đối với những khoản tiền lớn của chi nhánh về hội sở chính như sau: * Thanh toán tiền đi: Đối với những khoản thanh toán tiền nhỏ hơn 50 tỷ VNĐ, 500.000 USD, 200.000 EUR, chi nhánh không cần phải thông báo về Hội sở chính. - Còn đối với những khoản tiền lớn hơn 50 tỷ VNĐ, 500.000 USD, 200.000 EUR thì phải báo cho Hội sở chính trước 10h sáng trong ngày hiệu lực. - Những khoản tiền trên 200 tỷ VNĐ đến 300 tỷ VNĐ, trên 1.000.000 USD đến 2.000.000 USD; trên 1.000.000 EUR đến 2.000.000 EUR thì phải thông báo trước ngày thanh toán ít nhất 1 ngày làm việc. - Trên 300 tỷ VNĐ, trên 2.000.000 USD, trên 1.000.000 EUR phải thông báo trước ngày thanh toán ít nhất 2 ngày làm việc. - Đối với ngoại tệ khác : chi nhánh thông báo lệnh thanh toán trước ít nhất 1 ngày làm việc * Với những khoản tiền về: Chi nhánh phải báo về Hội sở chính đối với các khoản tiền về từ 200 tỷ, 1.000.000 USD, 500.000 EUR trở lên hoặc các loại ngoại tệ khác tương đương. 2.2.3.4 Xử lý khi dư thừa thanh khoản * Đối với dư thừa thanh khoản ngắn hạn (ít hơn 6 tháng) - Đầu tư tiền gửi liên ngân hàng - Cho vay ngắn hạn các Tổ chức tín dụng - Mua giấy tờ có giá ngắn hạn - Kinh doanh ngoại tệ * Đối với dư thừa thanh khoản dài hạn (6 tháng trở lên) - Tăng cường các khoản cho vay - Mua giấy tờ có giá dài hạn - Trong trường hợp khi đã áp dụng các biện pháp trên mà vấn còn dư thừa thanh khoản, ngân hàng sẽ có kế hoạch cân nhắc việc giảm nguồn vốn huy động, vốn đi vay. 2.2.3.5. Xử lý khi thiếu hụt thanh khoản Các giới hạn và mức độ về thiếu hụt thanh khoản được ngân hàng lập ra để có những mức xử lý và đối phó phù hợp. Cụ thể giới hạn về khe hở thanh khoản tích lũy/tổng tài sản sẽ được chia ở các mức như sau để phản ánh mức độ thiếu hụt thanh khoản (mức độ thiếu hụt thanh khoản được chia làm 3 mức là : thiếu hụt cao, thiếu hụt thấp và không thiếu hụt). Bảng 2.5. Giới hạn khe hở thanh khoản tích lũy Chỉ tiêu Thanh khoản không thiếu hụt Thiếu hụt ở mức thấp Thiếu hụt ở mức cao Tỷ lệ khe hở thanh khoản lũy kế 1 ngày tới/Tổng tài sản > 0% Từ -1% đến 0% < -1% Tỷ lệ khe hở thanh khoản lũy kế 7 ngày tới/Tổng tài sản > -1% Từ -2% đến -1% < -2% Tỷ lệ khe hở thanh khoản lũy kế 1 tháng tới/Tổng tài sản > -3% Từ -5% đến -3% < -5% Tỷ lệ khe hở thanh khoản lũy kế 3 tháng tới/Tổng tài sản > -5% Từ -7% đến -5% <-7% Tỷ lệ khe hở thanh khoản lũy kế 6 tháng tới/Tổng tài sản > -7% Từ -10% đến -7% <-10% * Khi thanh khoản thiếu hụt ở mức thấp ngân hàng thực hiện sẽ các biện pháp sau: - Thiếu hụt trong vài ngày tới (từ 1-7 ngày) : trong trường hợp này ngân hàng sẽ phải thường xuyên theo dõi và kiểm soát số dư tài khoản NOSTRO, thận trọng khi thực hiện các nghiệp vụ đầu tư vào giấy tờ có giá, mua ngoại tệ hay đầu tư tiền gửi liên ngân hàng. Tiếp tục nhận tiền gửi của các Tổ chức tín dụng. - Thiếu hụt từ 7 ngày – 1 tháng tới : lúc này ngân hàng phải hạn chế các hoạt động đầu tư vào tiền gửi liên ngân hàng kỳ hạn trên 7 ngày, đầu tư giấy tờ có giá dài hạn, mua ngoại tệ kỳ hạn. Thêm vào đó ngân hàng sẽ triển khai tăng huy động vốn ngắn hạn của khách hàng. - Thiếu hụt trong 1 tháng – 6 tháng tới : Hạn chế đầu tư tiền gửi liên ngân hàng kỳ hạn trên 1 tháng, hạn chế đầu tư giấy tờ có giá và mua ngoại tệ kỳ hạn trên 1 tháng. * Khi thiếu hụt ở mức cao: - Thiếu hụt trong khoảng vài ngày tới (từ 1 – 7 ngày) : Ngân hàng sẽ thôi không đầu tư vào tiền gửi liên ngân hàng, đầu tư vào giấy tờ có giá và mua ngoại tệ. Thực hiện vay ngắn hạn Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác, bán bớt các giấy tờ có giá, bán ngoại tệ và tạm thời ngừng giải ngân tín dụng. - Thiếu hụt trong 7 ngày đến 1 tháng tới: Không đầu từ tiền gửi liên ngân hàng, giấy tờ có giá và ngoại tệ. Vay ngắn hạn Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng, bán tài sản thanh khoản (giấy tờ có giá, ngoại tệ…). Ngoài ra phải ngân hàng sẽ tích cực huy động vốn ngắn hạn của khách hàng. - Thiếu hụt cao trong 1 tháng – 6 tháng: Hạn chế đầu tư tiền gửi liên ngân hàng kỳ hạn trên 1 tháng, hạn chế đầu tư giấy tờ có giá và mua ngoại tệ kỳ hạn trên 1 tháng. Bán các giấy tờ có giá và ngoại tệ,. Trong vòng 1 tháng, tiền hành thủ tục vay ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng kỳ hạn từ 3-6 tháng. Đẩy mạnh việc huy động vốn, phát hành giấy tờ có giá và có thể phải chấp nhận lãi suất cao. Hạn chế cam kết cho vay và ngừng giải ngân tín dụng. Bên cạnh đó ngân hàng sẽ tiến hành tích cực thu hồi nợ quá hạn. 2.2.4. Kết quả đạt được 2.2.4.1. Tình hình thực hiện các chỉ số thanh khoản a) Dự trữ thanh toán Đơn vị: tỷ đồng 2006 2007 2008 Dự trữ thanh toán 23.736 28.087 33.227 Tr.đó: Vốn khả dụng 11.788 15.069 18.564 Tổng tài sản 135.442 166.112 209.776 Chỉ số dự trữ sơ cấp 8,7 % 9,07 % 10,06 % Chỉ số dự trữ thanh toán 17,5% 16,9% 15,8% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007 và 2008 NHCTVN) Tỷ lệ dự trữ sơ cấp của ngân hàng được duy trì đều ở mức khá cao, so với chuẩn mực thì chỉ tiêu này ở NHCT là tốt. Nhìn chung, dự trữ thanh khoản của ngân hàng từng năm được duy trì một cách khá hợp lý và không để dư thừa dự trữ quá nhiều, sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh. Chỉ số dự trữ thanh toán ngày càng được ngân hàng điều chỉnh về mức thấp hơn từ 17,5% xuống 15,8% nhằm giảm bớt lượng vốn nhàn rỗi không sinh lời để phù hợp với nhu cầu thanh toán của khách hàng nhưng vẫn đạt hiệu quả cao nhất. b) Chỉ số cho vay/tiền gửi Đơn vị: tỷ đồng 2006 2007 2008 Cho vay 80.152 102.190 149.854 Tiền gửi 99.684 116.364 152.385 Chỉ số cho vay/tiền gửi 80,4 % 87.8 % 94,8% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007 và 2008 NHCTVN) Chỉ số này ở NHCT tăng cao qua các năm. Hầu hết các khoản tiền gửi của khách hàng được chuyển sang cho vay nền kinh tế. Một thực tế dễ thấy là lợi nhuận của ngân hàng chủ yếu đến từ hoạt động tín dụng, nên ngân hàng sẽ thường xuyên phải đối phó với rủi ro thanh khoản nếu lãi suất biến động hoặc sự thay đổi nhu cầu của khách hàng. Do vậy khả năng suy giảm lợi nhuận trong quý 4 và đầu năm 2009 là khá lớn khi thu nhập từ lãi giảm nhanh hơn chi phí vốn. Chỉ số này cho ta thấy sự thiếu năng động trong việc phát triển sản phẩm và nguồn thu nhập khác của NHCT, thiếu đa đạng hóa cũng là nguyên nhân dẫn tới rủi ro thanh khoản. c)Chỉ số tiền gửi cơ sở Đơn vị: tỷ đồng 2006 2007 2008 Tiền gửi 99.684 116.364 152.385 Tổng tài sản Nợ 129.756 155.466 209.776 Tỷ lệ tiền gửi cơ sở 76,82 % 74,84 % 72,64% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007 và 2008 NHCTVN) Tiền gửi cơ sở là những khoản tiền mang tính ổn định cao như tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế, chỉ số tiền gửi cơ sở thể hiện tính ổn định của nguồn vốn ngân hàng và ổn định thanh khoản. Tỷ lệ này ở Ngân hàng Công thương là khá cao, nhưng có xu hướng giảm do tình hình khó khăn những năm qua. Hơn nữa, việc cổ phần hóa và đợt phát hành tăng vốn vào tháng 12/2008 cũng làm tỷ lệ này giảm đi đáng kể. d) Chỉ số cơ cấu tiền gửi Đơn vị: tỷ đồng 2006 2007 2008 Tiền gửi không kỳ hạn 24.342 29.354 33.276 Tiền gửi có kỳ hạn 75.342 87.010 119.109 Tỷ lệ cơ cấu tiền gửi 32,3% 33,7% 27,93% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007 và 2008 NHCTVN) Cơ cấu tiền gửi có xu hướng giảm nhưng vẫn còn ở mức cao, nên nhu cầu thanh khoản luôn luôn thường trực ở mức cao, những khoản tiền gửi không kỳ hạn với giá trị lớn sẽ được rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải chuẩn bị cho tình thế đó. Tuy nhiên, chỉ số này cao lại nói lên chi phí vốn trung bình huy động của ngân hàng thấp. Một lần nữa bài toán giữa chi phí và ổn định thanh khoản lại được nhắc đến. Tỷ lệ cơ cấu tiền gửi của ngân hàng Công thương đang giảm dần, giúp ngân hàng giảm được gánh nặng về thanh khoản nhưng chi phí huy động trung bình lại tăng lên. e) Tỷ lệ chứng khoán thanh khoản Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Chứng khoán thanh khoản 12.212 32.352 46.154 Tổng tài sản 135.442 166.112 209.776 Tỷ lệ Chứng khoán thanh khoản 9% 27,8% 22% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007 và 2008 NHCTVN) Giá trị chứng khoán thanh khoản năm 2008 chiếm 46.154 tỷ đồng, tăng 13.802 tỷ và tỷ lệ tăng là 42,6 % so với 2007. Một lượng vốn lớn đã được tăng dần qua các năm để mua các tài sản tài chính thanh khoản cao, nhàm đảm bảo an toàn và ổn định cho nguồn cung thanh khoản khi cần. Một sự kiện nổi bật trong năm 2008 là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc ngày 17/03 dẫn tới việc lượng chứng khoán thanh khoản của các ngân hàng tăng lên. Tỷ lệ chứng khoản thanh khoản này là khá cao so với chuẩn mực quốc tế (4%), nằm trong chiến lược thanh khoản của ngân hàng, giúp cho khả năng tăng cung thanh khoản của ngân hàng khi cần. f) Chỉ số tài sản có lỏng/tổng tài sản Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Tài sản có “lỏng” 42.122 50.996 73.841 Tổng tài sản 135.442 166.112 209.776 Chỉ số tài sản có “lỏng”/Tổng tài sảm 31,1% 30,7% 35,2% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007 và 2008 NHCTVN) Năm 2008 chỉ số chỉ số tài sản có “lỏng”/tổng tài sản đạt 35,2%. Năm 2007, chỉ số này là 31,1%, cao hơn so với mức 30,7% của năm 2006. Tài sản có “lỏng” chủ yếu là các loại chứng khoán có tính thanh khoản cao, dễ dàng chuyển hoá thành tiền hoặc trở thành vật bảo đảm để vay vốn khi cần thiết, đó là các giấy tờ có giá sẵn sàng để bán như tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tiền gửi ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng, tiền mặt và tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước. 2.2.4.2. Trạng thái thanh khoản Đơn vị: Tỷ đồng 30/06/2008 Chỉ tiêu 1 ngày tới 2 ngày – 7 ngày 8 ngày – 1 tháng 1 tháng – 3 tháng 3 tháng – 6 tháng Cung TK 24.426 24.035 26.647 32.656 3.735 Cầu TK 8.725 15.499 23.773 29.260 3.187 Khe hở TK 15.701 8.536 2.874 3.396 548 Khe hở TK tích lũy 15.701 24.237 27.111 30.507 31.055 Đơn vị: Tỷ đồng 30/09/2008 Chỉ tiêu 1 ngày tới 2 ngày – 7 ngày 8 ngày – 1 tháng 1 tháng – 3 tháng 3 tháng – 6 tháng Cung TK 15.701 15.152 29.913 28.084 36.313 Cầu TK 8.725 14.839 17.085 31.350 36.052 Khe hở TK 6.976 313 12.828 -3.266 216 Khe hở TK tích lũy 6.976 7.289 20.117 16.851 17.076 Đơn vị: Tỷ đồng 31/12/2008 Chỉ tiêu 1 ngày tới 2 ngày – 7 ngày 8 ngày – 1 tháng 1 tháng – 3 tháng 3 tháng – 6 tháng Cung TK 23.120 30.879 76.807 73.071 56.430 Cầu TK 25.027 33.753 66.409 70.119 64.554 Khe hở TK -1.907 -2.874 10.398 2.952 -8.124 Khe hở TK tích lũy -1.907 -4.781 5.617 8.569 445 (Nguồn: Báo ALCO 2008 NHCTVN) Số liệu trên cho ta thấy trong tháng 6 và tháng 9/2008 ngân hàng thường xuyên dư thừa một lượng vốn lớn trong ngắn hạn, điều này chỉ ra sự quản lí thiếu tính hợp lí và hiệu quả trong thanh khoản, gia tăng chi phí và không tối đa hóa được lợi nhuận. Nhưng đến cuối năm thì lượng nhàn rỗi này không đủ bù đắp cho nhu cầu thanh toán và ngân hàng thường phải duy trì khe hở tích lũy âm. Như ta thấy nhu cầu thanh khoản thường cao rõ rệt hơn vào đầu năm và cuối năm, giữa năm có xu hướng giảm. Đó cũng là yếu tố có tính thời vụ vì cuối năm nhu cầu chi tiêu và sử dụng tiền mặt của cá nhân và các tổ chức bao giờ cũng tăng cao. Còn nhu cầu gửi tiền của người dân thường tăng vào thời điểm đầu năm. Yếu tố thời vụ này ảnh hưởng và tác động nhiều tới chiến lược quản lý thanh khoản của ngân hàng. Dự trữ tiền mặt trong kho quỹ vào cuối năm cần được tăng cường để đảm bảo nhu cầu đó. 2.2.5. Đánh giá công tác quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam 2.2.5.1. Những thuận lợi a. Triển khai thanh công Cơ chế quản lý vốn tập trung Có thể nói việc thực hiện cơ chế quản lý vốn tập trung là bước ngoặt, đánh dấu sự thay đổi điều chỉnh cơ bản trong công tác quản trị vốn của ngân hàng, góp phần đưa hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt nam tiến dần theo thông lệ quốc tế mà trong đó hiệu quả kinh doanh đã được chú trọng hơn và trở thành mục tiêu chủ yếu. Việc triển khai thành công cơ chế quản lý vốn tập trung đã góp phần nâng cao năng lực, vị thế của Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng như là tiền đề để ngân hàng quản lý, kiểm soát được các rủi ro trong quản trị vốn trong đó có công tác quản lý thanh khoản. Cơ chế quản lý vốn tập trung đánh dấu sự điều chỉnh cơ bản của cơ chế điều hành vốn, từ phân tán sang bán tập trung (cơ chế điều chuyển vốn nội bộ) và đến nay là quản lý tập trung. Mô hình quản lý phân tán và bán tập trung trước đây cho phép vốn được quản lý tại mỗi chi nhánh, theo đó mỗi chi nhánh hoạt động và điều vốn tại đơn vị mình một cách tương đối độc lập so với hoạt động của Hội sở chính. Chi nhánh chủ động quyết định việc huy động vốn, cho vay trong phạm vi giới hạn được phép, đồng thời chịu trách nhiệm quản lý rủi ro đối với các phát dinh có liên quan. Trường hợp huy động của chi nhánh lớn hơn cho vay (chi nhánh thừa vốn) thì chi nhánh thực hiện gửi phần vốn tạm thời dư thừa tại Hội sở chính và ngược lại trường hợp huy động của chi nhánh nhỏ hơn cho vay (chi nhánh thiếu vốn), chi nhánh sẽ vay phần vốn tạm thời thiếu hụt tại Hội sở chính. Cùng với cơ chế “vay-gửi” này, trong năm kế hoạch mỗi chi nhánh được Hội sở chính xác định một hạn mức “vay” theo mục đích sử dụng như ngắn hạn, trung hạn, dàn hạn, hỗ trợ lãi suất… Việc chuyển đổi cơ chế điều hành vốn sang cơ chế quản lý vốn tập trung đã phần nào đáp ứng được yêu cầu đổi mới, hiện đại hóa ngân hàng và khắc phục hạn chế của cơ chế điều hành trước đây, đó là: - Vốn toàn ngành được quản lý tập trung tại Hối sở chính, tạo tính nhất quán và bình đẳng chung cho các chi nhánh; phân bổ chi phí, thu nhập vốn một cách khách quan giữa các chi nhánh góp phần đánh giá đúng mức độ đóng góp của các chi nhánh phát huy tính năng động sáng tạo cùng thế mạnh trên từng địa bàn. - Vốn được quản lý tập trung nhằm cân đối một cách hiệu quả nhất cho các mục tiêu sử dụng vốn theo định hướng và kế hoạch kinh doanh, đảm bảo các giới hạn an toàn theo quy định, đạt được các chỉ tiêu tài chính tốt nhất của ngân hàng và thuận lợi trong công tác quản lý rủi ro. b. Sự ra đời của Hội đồng quản lý Tài sản Nợ Có (ALCO) Việc ra đời của Hội đồng ALCO cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhằm tăng cường công tác quản lý thanh khoản cũng như đặt ra những yêu cầu mới cho công tác quản lý thanh khoản nhằm hướng hoạt đọng này theo thông lệ quốc tế. Chức năng của Hội đồng ALCO là: - Đưa ra các quyết định đối với công tác quản lý Tài sản Nợ - Tài sản Có trong hoạt động kinh doanh trên cơ sở các mục tiêu, cơ cấu lớn trong kế hoạch dài hạn và kế hoạch năm của ngân hàng. - Chỉ đạo các bộ phận có liên quan để thực hiện các quyết định về quy mô, cơ cấu, danh mục, rủi ro tiền tệ và ngoại hối đối với Tài sản Nợ - Tài sản Có của ngân hàng. - Xây dựng, thực thi chính sách quản lý rủi ro tập trung toàn bộ mọi nguồn vốn của ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh toán và nguồn vốn cho hoạt động ngân hàng. - Xây dựng quy chế hệ thống các giới hạn quản lý Tài sản Nợ - Tài sản Có tại ngân hàng. - Xây dựng, thực thi chính sách quản lý rủi ro Tài sản Nợ - Tài sản Có: rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro chính sách,… - Phân tích và xác định cơ cấu Tài sản Nợ - Tài sản Có tối ưu đồng thời đảm bảo thực thi cơ cấu này. - Kiểm soát việc chấp hành các giới hạn và các chính sách quản lý TSN-TSC của toàn hệ thống. - Thực thi và giám sát thực hiện kế hoạch tìa chính và chỉ tiêu lợi nhuận đối với toàn hệ thống. Về chức năng quản lý thanh khoản, Hội đồng ALCO chịu trách nhiệm thực thi các công tác sau: - Xây dựng chính sách, chiến lược thanh khoản. - Xác định các giới hạn trong quản lý thanh khoản. - Phân tích tình hình thực hiện của các bộ phận chức năng. - Kiểm soát, đo lường các rủi ro về thanh khoản và dự kiến các biện pháp phòng ngừa, xử lý và thực hiện điều chỉnh trong chính sách quản lý cho phù hợp. c. Triển khai thành công Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán trong toàn hệ thống Việc triển khai thành công Dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán chính là điều kiện tiên quyết tiếp cận công nghệ để thực hiện quản lý thanh khoản theo phương pháp hiện đại. Ngân hàng Công thương là một trong những ngân hàng đi đầu trong việc triển khai hiện đại hóa hệ thống ngân hàng. Đến nay, khi triển khai thành công dự án này giúp cho NHCT có một nền tảng công nghệ vững vàng, hoạt động của ngân hàng được nâng lên một tầm cao mới. Dự án hiện đại hóa cung cấp thông tin tập trung, mọi dữ liệu giao dịch được cập nhật trực tuyến về Hội sở chính. Mô hình thông tin cho phép đổi mới cơ chế quản lý vốn phân tán sang cơ chế quản lý vốn tập trung và đổi mới công tác quản lý thanh khoản theo thông lệ quốc tế. 2.2.5.2. Hạn chế Đến nay, công tác quản lý thanh khoản đã tiến dần tới các chuẩn mực quốc tế và theo hướng quản lý hiện đại. Tuy nhiên vẫn chưa hoàn thiện và còn nhiều tồn tại. Mặc dù chuyên đổi sang cơ chế mới song công tác quản lý thanh khoản tại NHCTVN vẫn chưa thoát khỏi cơ chế cũ, phương pháp tĩnh vẫn là phương pháp chủ yếu để ngân hàng theo dõi và đánh giá tình trạng thanh khoản. Do đó, vẫn còn dẫn đến tình trạng tại một số thời điểm dự trữ thanh khoản của ngân hàng lên quá mức cần thiết gây lãng phí ( tháng 6 và tháng 9/2008) nhưng cũng có thời điểm thiếu hụt phải bù đắp (cuối năm và đặc biệt tháng 12/2008). Chất lượng của hoạt động quản lý thanh khoản chưa thực sự vững chắc và hiệu quả chưa được như mong muốn. Sự phối hợp trong triển khai thực hiện quản lý thanh khoản giữa các đơn vị cũng như sự nghiêm ngặt trong tuân thủ chiến lược thanh khoản còn chưa phát huy tốt, chưa tạo ra được sự đồng bộ. Chiến lược quản lý thanh khoản còn rất bao quát. báo cáo phục vụ quản lý thanh khoản chủ yếu là ngắn hạn (thường dưới 2 tuần), thiếu các báo cáo phân tích dài hạn để phục vụ mục tiêu huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Mặc dù cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro thanh khoản đã được xây dựng, nhưng việc vận hành nó chưa hiệu quả, vai trò của ALCO còn mờ nhạt. Các công cụ như phân tích và quản trị độ lệch thời gian, tình huống, rủi ro tập trung, ảnh hưởng của các cam kết cho vay chưa giải ngân… chưa được áp dụng phổ biến và linh hoạt. Các giả định về thanh khoản được xây dựng cũng chưa được luyện tập và cập nhật thường xuyên, liên tục. So với chuẩn mực quốc tế, các chỉ số về thanh khoản của Ngân hàng còn chưa phù hợp. 2.2.5.3. Nguyên nhân của hạn chế a) Nguyên nhân chủ quan - Nhân lực còn chưa đáp ứng kịp đòi hỏi quản lý theo hướng hiện đại: Chuyển sang cơ chế mới trong một thời gian chưa dài, nên quy trình thực hiện còn nhiều khó khăn, phần nhiều cán bộ chưa được tập huấn nên trong tác nghiệp còn nhiều chỗ vướng mắc. Mặt khác với công nghệ mới đòi hỏi nguồn nhân lực phải đáp ứng và thích nghi được để làm chủ công nghệ. Do đó nhân lực tham gia quản lý thanh khoản còn khá bất cập. Các các bộ quản lý thanh khoản hiện nay hầu hết chưa được đào tạo bài bản, khoa học theo thực tiễn và chuẩn mực quốc tế mà vẫn chỉ thực hiện chủ yếu nhờ vào kinh nghiệm. - Hệ thống thông tin, công nghệ quản lý thanh khoản còn lạc hậu: Tuy NHCTVN dẫn đầu về hệ thống công nghệ ngân hàng nước ta nhưng so với khu vực và quốc tế thì còn thua kém về nhiều mặt. Đặc biệt là công nghệ thông tin để hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý thanh khoản chưa đủ, chua đồng bộ, đường truyền có hiện tượng xảy ra tắc nghẽn. b) Nguyên nhân khách quan - Thời gian qua nền kinh tế và thị trường tài chính trong nước và trên thế giới có nhiều biến động lớn, diễn biến phức tạp nên việc lường trước được các diễn biến này là rất khó và ngân hàng không thể làm hết được. Lạm phát tăng quá mức vào đầu năm nhưng lại thiểu phát vào cuối năm, mức lãi suất huy động và cho vay biến động chưa từng có, tỷ giá USD/VND tăng đột biến khiến biên độ tỷ giá được nới rộng liên tục. Thị trường chứng khoán ảm đạm và dường như không có đáy… Những biến động ấy gây rất nhiều khó khăn cho thanh khoản của ngân hàng và công tác quản lý thanh khoản. - Sức ép cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng lớn đặc biệt trong bối cảnh hội nhập đòi hỏi sự năng động và mở rộng của ngân hàng. NHCT tăng trưởng cho vay quá cao khiến cho tỷ lệ cho vay/huy động tại một số thời điểm vượt quá 100% (tháng 9/2008 đạt mức 103%). Điều đó ngoài mục tiêu phát triển của ngân hàng cũng làm cho tình hình thanh khoản trở nên xấu đi nên về lâu dài ngân hàng phải cân đối và ổn định lại cho hợp lí. - Thị trường tài chính của nước ta chưa thực sự phát triển, và phát triển ở mức độ thấp. Cho nên thanh khoản của tài sản tài chính yếu. VD như thị trường chứng khoản chưa kịp đứng vững thì đã rơi vào tình trạng khủng hoảng làm cho các ngân hàng sở hữu nhiều chứng khoán rơi vào tình thế khó khăn và khủng hoảng thanh khoản. Thị trường tiền tệ nhỏ, việc lưu thông vốn yếu cũng là nguyên nhân làm cho quản lý thanh khoản của ngân hàng không được như ý muốn. - Môi trường pháp lý cho hoạt động quản lý thanh khoản chưa đầy đủ, đồng bộ và chưa thực sự hướng theo chuẩn mực quốc tế. Hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại trên thế giới đang áp dụng các tiêu chí hướng dẫn hệ thống quản lý rủi ro của ủy ban Basel. Chính điều này đang gây cản trở trong quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cũng như làm tăng tính rủi ro của nền kinh tế. CHƯƠNG III: TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 3.1. Định hướng phát triển kinh doanh Tiếp tục cơ cấu lại toàn diện hoạt động, thực hiện 4 hoá: Hiện đại hoá; Cổ phần hoá; Chuẩn hoá các nghiệp vụ, quản trị ngân hàng, nhân sự cán bộ; Công khai minh bạch hoá, lành mạnh tài chính. Tăng trưởng mạnh về vốn, đầu tư cho vay, tổng tài sản nợ, tổng tài sản có, thị phần trên nguyên tắc an toàn, hiệu quả, bền vững. Hoàn thiện và phát triển bộ máy, hệ thống mạng lưới kinh doanh, phát triển thị trường, phát triển khách hàng. Đảm bảo an ninh tài chính, an toàn tuyệt đối trong mọi hoạt động của NHCTVN. Thực hiện cải cách hành chính, phong cách giao dịch, xây dựng văn hoá doanh nghiệp, thương hiệu của NHCTVN, tạo ra một môi trường kinh doanh tốt, đem đến lợi ích chung cho toàn hệ thống cũng như lợi ích cho khách hàng của NHCTVN. 3.2 Giải pháp tăng cường công tác quản lý thanh khoản 3.2.1. Xây dựng chiến lược quản lý thanh khoản Muốn quản lý thanh khoản tốt, Ngân hàng Công thương cần có một chiến lược thanh khoản phù hợp và được cụ thể hóa. Chiến lược thanh khoản được dựa trên việc phân tích và dự báo, bởi ngân hàng không thể lường hết trước được diễn biến của thị trường và của khách hàng, điều ngân hàng cần phải làm là dự tính cho cả những trường hợp xấu nhất có thể xảy ra. Nhà quản lý phải nắm rõ nguồn cung cầu tiền gửi tại ngân hàng không chỉ trong thời điểm hiện tại mà phải phân tích cả quá khứ và dự tính cho tương lai. Muốn thế, nhà quản lý cần dựa vào các nhân tố có thể làm thay đổi trạng thái thanh khoản trong tương lai và chuẩn bị cho các tình huống giả định. Một chiến lược tốt đảm bảo cho ngân hàng luôn chủ động, kế hoạch hóa được các hoạt động của mình. Vì rủi ro thanh khoản có thể xảy ra bất ngờ, và ngân hàng có rất ít thời gian để lập kế hoạch khi khủng hoảng bắt đầu khiến cho chi phí để đối phó với khủng hoảng trở nên tốn kém hơn rất nhiều và có thể ngân hàng không được chủ động chọn lựa nguồn hợp lí để bổ sung thanh khoản nữa. Điều này cũng cho ta thấy được khả năng chống đỡ với những biến động bất ngờ và lâu dài của ngân hàng, và nếu được dự báo trước, có chiến lược đảm bảo thanh khoản trong các trường hợp, thì ngân hàng sẽ tăng được khả năng chống đỡ này. Ngân hàng cần vận dụng kết hợp cả 2 phương pháp quản lý thanh khoản tĩnh và động, phương pháp tĩnh để xác định mức thanh khoản dựa trên các số liệu trên bảng cân đối tài sản, phương pháp động để phân tích trạng thái thanh khoản và đưa ra dự báo. Ngoài các khả năng thông thường về chỉ số trên bảng tổng kết tài sản thay đổi dẫn tới sự thay đổi của trạng thái thanh khoản, thì nhà quản lý rủi ro thanh khoản cũng phải chú ý đến những khả năng chung của thị trường. Một ngân hàng nào đó khủng hoảng thanh khoản có thể dẫn tới rủi ro cho cả hệ thống, và lảm ảnh hưởng tới thanh khoản của ngân hàng không khủng hoảng. Tương tự, điều kiện kinh tế vĩ mô, xu hướng phát triển của thị trường tài chính…cũng là những vấn đề mà một chiến lược thanh khoản tốt phải tính đến. 3.2.2 Áp dụng và tuân thủ chặt chẽ mô hình quản lý thanh khoản Thời gian qua NHCTVN đã có nhiều chuyển biến lớn trong công tác quản trị rủi ro nói chung và quản lý thanh khoản nói riêng để ngày càng phù hợp với mô hình quản lý và thông lệ quốc tế. Mô hình quản lý thanh khoản hiện nay mới được triển khai và áp dụng với sự hỗ trợ và tư vấn của các công ty tư vấn tài chính nước ngoài. Tuy nhiên việc áp dụng chưa triệt để, chưa nắm bắt hết các quy trình quản lý do nhiều hạn chế về kinh nghiệm và kiến thức. Các dự báo thanh khoản lập ra không kịp thời với diễn biến thị trường dẫn tới hiệu quả của việc quản lý. Vì vậy, trong thời gian tới NHCTVN cần tiếp tục tăng cường tập huấn và trau dồi kinh nghiệm cho cán bộ quản lý rủi ro, tuân thủ chặt chẽ mô hình quản lý thanh khoản, tăng cường giám sát việc thực hiện để mô hình quản lý thanh khoản đáp ứng được nhiệm vụ của nó và tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng. 3.2.3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý thanh khoản Phát triển nguồn nhân lực là nội dung trọng tâm trong kế hoạch nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. Muốn đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng hiện đại thì con người trong đó cũng phải có khả năng làm việc và sức sáng tạo cao. Đặc biệt là công tác quản trị ngân hàng nói chung và quản lý thanh khoản nói riêng. Việc theo kịp trình độ quản lý và công nghệ của thế giới theo xu hướng hội nhập phụ thuộc trình độ quản lý và khả năng phân tích của cán bộ quản lý rất nhiều. Công việc đó đòi hỏi cán bộ quản lý phát hiện được các xu hướng, biến động của thị trường và đưa ra chiến lược tốt nhất, hiệu quả nhất. Ngân hàng Công thương Việt Nam cần không ngừng nâng cao công tác tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực theo chiều sâu. Tuyển con người phù hợp với từng công việc và được đào tạo cơ bản về công việc đó chứ không đào tạo chung chung. Bên cạnh đó, NHCTVN cần chú trọng học tập kinh nghiệm của nước ngoài bằng việc thường xuyên cử cán bộ đi học, tác nghiệp và thuê chuyên gia nước ngoài tư vấn để nâng cao năng lực thực tiễn về quản lý thanh khoản theo chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra để giữ chân những cán bộ giỏi, thu hút nhân tài, NHCTVN bằng việc khen thưởng, khuyến khích người lao động còn phải xây dựng hệ thống đánh giá công việc một cách khoa học để họ hưởng công tương xứng năng lực, phát huy tính sáng tạo. 3.2.4. Phát triển nền tảng công nghệ và làm chủ hệ thống thông tin Như đã nghiên cứu ở trên, việc quản lý rủi ro muốn chính xác và kịp thời đòi hỏi phải có nền tảng công nghệ, hệ thống công nghệ thông tin phát triển ở mức cao. Việc đầu tư nhằm hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin là vấn đề tất yếu trong thời kỳ hội nhập hiện nay. NHCTVN luôn cố gắng là đơn vị tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại và thương mại điện tử tại Việt Nam, đơn vị hướng tới xây dựng một hệ thống công nghệ thông tin kết nối tiên tiến tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng cho các nghiệp vụ nhằm tăng hiệu quả, hơn nữa đảm bảo thông tin cập nhật và chính xác để hỗ trợ việc quản lý rủi ro. Nền tảng công nghệ thông tin giúp việc quản lý thanh khoản có thể đo lường, giám sát, tính toán được trạng thái thanh khoản từ các dòng tiền vào và ra của ngân hàng. Thời gian tới NHCTVN cần giải quyết một số mặt sau để tăng cường quản lý thanh khoản : - Xác định đầu tư phần mềm là quan trọng và quyết định, vì kết quả do máy tính tạo ra phụ thuộc vào quy chuẩn của báo cáo và phần mềm của hệ thống sử dụng. Phần mềm hiện đại giúp con người giảm bớt gánh nặng về thời gian và chi phí trong các nghiệp vụ, từ đó tăng năng suất, hiệu quả cho hoạt động của ngân hàng. - Hiện đại hóa toàn diện và đồng bộ, không đầu tư dàn trải mà thiếu tính đồng bộ. Mục tiêu là hóa hoạt đồng kinh doanh và tổ chức quản lý ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế, cải cách hoạt động nghiệp vụ trên nền tảng CNTT hiện đại, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ 3.2.5. Tăng cường quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ Rủi ro thanh khoản cũng có thể phát sinh từ hoạt động của chính ngân hàng. Do vậy, kiểm soát nội bộ là giảm rủi ro trong tất cả các khâu hoạt động, giúp toàn bộ hệ thống làm việc theo đúng quy trình. NHCTVN các cấp phải kiểm soát, đôn đốc lẫn nhau và phải duy trì thường xuyên, liên tục nhằm nâng cao ý thức của cán bộ, các phòng nghiệp vụ tuân thủ theo đúng chiến lược mà ngân hàng đề ra và chế độ quản lý của ngành, của Nhà nước. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản trị rủi ro phải được tách ra giữa bộ phận quản lý rủi ro và bộ phận kinh doanh nhưng vẫn phải kết hợp và làm việc theo mục tiêu hoạt động của ngân hàng đề ra.. Muốn đạt được yêu cầu đó ngân hàng Công thương trong thời gian tới cần: - Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ được giao cho phòng chuyên trách và được thực hiên một cách thường xuyên, liên tục nhằm đôn đốc các chi nhánh tuân thủ đúng nguyên tắc và nâng cao ý thức cán bộ. - Xây dựng và ban hành các sổ tay quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ 3.3. Kiến nghị đối với Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước 3.3.1. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô Môi trường kinh tế vĩ mô là yếu tố bao trùm đến toàn bộ hoạt động của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển, tăng trưởng cao. Sự phát triển của khách hàng, của các doanh nghiệp, tăng trưởng về thu nhập của dân cư cũng chính là sự bền vững về thanh khoản của ngân hàng. Do vậy, một cách gián tiếp sự quản lý vĩ mô của Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho quản lý thanh khoản của ngân hàng. Mặt khác, trực tiếp hơn, các yếu tố vĩ mô như tỷ giá, sự thay đổi lãi suất và chính sách tiền tệ cũng tác động ngay đến trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Ví dụ như quyết định … làm các ngân hàng thiếu hụt về thanh khoản dẫn tới sự phát triển nóng về tín dụng trong thời gian qua. Do vậy để nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý thanh khoản trong ngân hàng thương mại, Chính phủ cần tiếp tục đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế, cụ thể: - Kiểm soát và khắc phục nhanh những yếu tố tiềm ẩn có thể dẫn tới mất ổn định kinh tế vĩ mô. - Theo dõi và điều hành chặt chẽ cán cân thanh toán, thu chi ngân sách… 3.3.2. Hoàn thiện hành lang pháp lý Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều dấu hiệu tích cực nhằm cải thiện hành lang pháp lý đối với công tác quản lý thanh khoản của các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây. Đầu tiên là quyết định 297/QĐ-NHNN ngày 25/08/1999 trong đó quy định về việc đảm bảo khả năng chi trả cho ngày làm việc tiếp theo và gần đây nhất là quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 đã có đề cập đến việc đảm bảo duy trì trạng thái thanh khoản mà cụ thể là khe hở thanh khoản trong vòng 6 tháng. Tuy nhiên cùng với sự phát triển ngày càng nhanh, mạnh và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của hệ thống ngân hàng Việt Nam, các quy định này đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế và kém hiệu quả trong việc bảo đảm an toàn hoạt động và quản lý rủi ro.. Theo một khảo sát do Công ty tư vấn Ernst&Young tiến hành năm 2006 để đánh giá mức độ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu của Ủy ban Giám sát ngân hàng quốc tế Basel, thì có tới 19/25 nguyên tắc phần lớn không tuân thủ, 1/25 nguyên tắc tuân thủ, 2/25 nguyên tắc không thực hiện phần lớn và 3/25 nguyên tắc không áp dụng. Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động : cần phải có quy định áp dụng riêng cho hoạt động hợp nhất (ngân hàng và toàn bộ các pháp nhân trực thuộc) và hoạt động của riêng ngân hàng. Xem xét lại tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn vì tỷ lệ này không phát huy tác dụng trong thời gian qua; cách xác định tỷ lệ này cũng chưa phù hợp (việc xác định cho vay trung và dài hạn dựa vào thời gian gốc ban đầu của khoản cho vay, trong khi thời gian vay của nhiều khoản vay trung, dài hạn chỉ còn lại dưới 12 tháng); để duy trì tỷ lệ này, nhiều ngân hàng đã phải cơ cấu lại tài sản và công nợ của mình bằng cách vay dài hạn từ tổ chức tín dụng nước ngoài và gửi lại chính tổ chức tín dụng đó dưới hình thức tiền gửi ngắn hạn. Nên bổ sung thêm tỷ lệ tài sản thanh toán tối thiểu trên tổng tài sản và áp dụng linh hoạt theo điều kiện thị trường; bổ sung vào giới hạn góp vốn mua cổ phần tỷ lệ biểu quyết của ngân hàng thương mại trong tổ chức kinh tế khác và khống chế mức góp vốn tối đa của ngân hàng thương mại vào một tổ chức kinh tế. 3.3.3. Đẩy mạnh hoạt động của thị trường phái sinh Các công cụ tài chính phái sinh ra đời do sự phát triển đa dạng của thị trường tài chính như hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi tiền tệ, quyền chọn… là những công cụ hữu hiệu trong phòng chống rủi ro thanh khoản. Công cụ phái sinh hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra khi ngân hàng đầu tư trên thị trường tài chính và nhờ đó giảm áp lực thanh khoản của ngân hàng khi đầu tư. Mặc dù vậy, thị trừơng các công cụ phái sinh ở Việt Nam chỉ mới được áp dụng và còn nhỏ bé. Do vậy với tư cách là người điều hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước cần thúc đẩy và tạo điều kiện cho thị trường này phát triển nhanh. 3.3.4. Vận dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ là nhạy cảm và tác động rõ lên thanh khoản của ngân hàng. Một ví dụ cho thấy điều này là ngày 13-2, NHNN thông báo sẽ phát hành 20,3 nghìn tỉ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc đối với 41 ngân hàng thương mại để nhằm giảm lạm phát. Đây có lẽ là quyết định gây ra cú sốc cho thanh khoản của hệ thống ngân hàng, vốn đã thiếu thanh khoản từ cuối 2007. Vào tháng 2-2008, khi NHNN áp đặt bán 20.000 tỉ đồng tín phiếu thì các ngân hàng chỉ có mấy tuần để thu khối lượng tiền rất lớn này (hơn 10% tổng tiền mặt đang lưu thông), trong khi lượng tiền mặt đang có trong hệ thống ngân hàng không còn nhiều. (Trước đó, các ngân hàng đã phải huy động thêm 10.000 tỉ đồng để bổ sung dự trữ bắt buộc, vừa tăng thêm 1%). Điều này đã gây ra hàng loạt tác dụng ngược. Một là, hệ quả tức thời của việc này là các ngân hàng do không huy động kịp vốn nên phải vay nóng trên thị trường liên ngân hàng để tránh mất thanh khoản, đẩy lãi suất VNIBOR lên rất cao. Việc NHNN hất chi phí rút tiền về phía các ngân hàng thương mại đã và đang gây thiệt hại cho các ngân hàng, vừa phải vay lãi suất cao để mua tín phiếu lãi suất thấp, vừa không đủ tiền để cho vay theo kế hoạch. Hai là, mặc dù tiền mặt trong dân vẫn nhiều, nhưng khi hệ thống ngân hàng thiếu tiền mặt thì tín dụng cấp cho nền kinh tế cũng bị cạn kiệt nhanh chóng. Nguyên nhân là tiền mặt khi quay vòng trong hệ thống ngân hàng thì nó có thể tạo ra tín dụng lớn hơn nhiều (số nhân tiền tệ cao hơn) so với tiền nằm trong dân hay nằm trong két sắt của NHNN. (Số nhân tiền tệ của VN hiện nay là khoảng 4.1). Hệ quả là một cuộc khủng hoảng thanh khoản ngắn hạn, nhiều ngân hàng phải ngừng cho vay, dẫn đến sự thiếu vốn đột ngột của doanh nghiệp, làm các dự án kinh doanh cần nhiều vốn (như bất động sản) bị đình đốn. Từ đó, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước cần phải được sử dụng một cách linh hoạt và cẩn trọng để không gây áp lực thanh khoản quá lớn lên các ngân hàng. Ngân hàng nhà nước vẫn cần hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, tín dụng nhằm kiềm chế lạm phát. Đối với các NHTM lớn, có nhiều giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn thì việc hỗ trợ thanh khoản sẽ thông qua nghiệp vụ thị trường mở tại Ngân hàng Nhà nước. Đối với các NHTM nhỏ không đủ giấy tờ có giá hoặc không có khả năng cạnh tranh trên thị trường mở thì Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ thông qua công cụ tái cấp vốn. Việc hỗ trợ này của Ngân hàng Nhà nước rất ngắn hạn và các NHTM được yêu cầu phải điều chỉnh lại cơ cấu nguồn và sử dụng nguồn cho phù hợp, hạn chế thấp nhất rủi ro thanh khoản. KẾT LUẬN Bài viết của em đã phân tích tình hình quản lý thanh khoản của Ngân hàng Công thương Việt Nam trong những năm gần đây. Bao gồm những lý luận chung về quản lý thanh khoản tại các ngân hàng thương mại, thực trạng quản lý rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Công thường Việt Nam và qua đó, thấy được kết quả và những mặt còn hạn chế trong công tác quản lý thanh khoản, để từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị mong muốn rằng qua đó ngân hàng sẽ giải quyết được những vấn đề đang gặp phải trong quản lý thanh khoản. Chưa năm nào tình trạng thiếu hụt thanh khoản tại các ngân hàng thương mại lại trở nên gay gắt như năm 2008 vừa qua. Nên với chuyên đề này em hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé để việc quản lý thanh khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam ngày càng an toàn và hiệu quả hơn. Do nhiều hạn chế về mặt kiến thức và kinh nghiệm, nên chuyên đề không thể tránh khỏi các thiếu sót, vì vậy em rất mong được sự góp ý và chỉ bảo của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS Phan Thu Hà-PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo (2007), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Đại học KTQD, Hà Nội. Peter S.Rose (2004), Quản trị ngân hàng thương mại. Frederic S.Míhkin (1995), Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội TS Nguyễn Văn Tiến chủ biên (2002), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doang ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. Trần Việt Dũng (2004), Quản lý thanh khoản của ngân hàng thương mại, Tạp chí ngân hàng 10/2004,. TS Nguyễn Hữu Tài chủ biên (2002), Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Thống kê PGS.TS Nguyễn Duệ (2000), Quản trị ngân hàng, Học viện Ngân hàng, Hà Nội Hiệp ước quốc tế về an toàn vốn (Basel I) và Hiệp ước mới về an toàn vốn (Basel II), Những thông lệ hợp lí về quản lý thanh khoản trong các tổ chức ngân hàng. Ngân hàng Công thương Việt Nam, Báo cáo kết quả kinh doanh (2005,2006,2007), Hà Nội Ngân hàng Công thương Việt Nam, Báo cáo ALCO tháng 6/2008, Hà Nội Ngân hàng Công thương Việt Nam, Báo cáo ALCO tháng 9/2008, Hà Nội Ngân hàng Công thương Việt Nam, Báo cáo ALCO tháng 12/2008, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6006.DOC
Tài liệu liên quan