Đề tài Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại thu nhập lớn nhất song cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số NHTMCP đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Nhưng không thể đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, tìm cách lách rào kiểm soát, thông tin sai lệch… mà vẫn phải thực hiện đúng quy trình tín dụng để giảm tỷ lệ nợ xấu, tránh tổn thất cho ngân hàng. Nhất là trong bối cảnh khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu, mà khởi nguồn là cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ, thì những tác động của nó lên nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập càng sâu và rộng với nền kinh tế thế giới nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng là không hề nhỏ. Những khoản cho vay không thu hồi được cả gốc và lãi đúng thời hạn càng lớn, t...

doc73 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 932 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại thu nhập lớn nhất song cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số NHTMCP đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Nhưng không thể đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, tìm cách lách rào kiểm soát, thông tin sai lệch… mà vẫn phải thực hiện đúng quy trình tín dụng để giảm tỷ lệ nợ xấu, tránh tổn thất cho ngân hàng. Nhất là trong bối cảnh khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu, mà khởi nguồn là cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ, thì những tác động của nó lên nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập càng sâu và rộng với nền kinh tế thế giới nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng là không hề nhỏ. Những khoản cho vay không thu hồi được cả gốc và lãi đúng thời hạn càng lớn, tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, đã có lúc đe dọa tới tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Do vậy, quản lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu phát sinh và xử lý nợ xấu đã phát sinh là một yêu cầu cấp thiết, có vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động quản lý của ngân hàng. Trong một thời gian thực tập ngắn tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, một khu vực trọng điểm của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, được tìm hiểu về hoạt động của Sở, nhất là hoạt động tín dụng, em đã chọn đề tài: “Tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV Em xin cảm ơn TS. Lê Thanh Tâm và các anh chị phòng Quan hệ khách hàng 2 – Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NHTM: Ngân hàng thương mại SGD: Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam DPRR: Dự phòng rủi ro TCTD: Tổ chức tín dụng NHNN: Ngân hàng nhà nước CBTD: Cán bộ tín dụng H.O: Hội sở chính CAR: Hệ số an toàn vốn tối thiểu AMC: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản 11. BAMC: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam DANH MỤC BẢNG BIỂU Biểu Biểu 2.1. Biểu đồ tổng tài sản của Sở giao dịch qua các năm Biểu 2.2. Biểu đồ nguồn vốn huy động của Sở giao dịch qua các năm Biểu 2.3. Biểu đồ dư nợ tín dụng của Sở giao dịch qua các năm Bảng Bảng 2.1. Kết quả kinh doanh của SGD Bảng 2.2. Kết quả huy động vốn 2006 – 2008 Bảng 2.3. Tình hình hoạt động tín dụng của SGD Bảng 2.4. Tình hình hoạt động dịch vụ của SGD Bảng 2.5. Tình hình nợ xấu 2007 – 2008 Bảng 2.6. Các doanh nghiệp thuộc nhóm nợ 3,4,5 trong năm 2008 Bảng 2.7. Tỷ trọng nợ xấu 2008 – 2009 Bảng 2.8. Kết quả xử lý nợ xấu của SGD Bảng 2.9. Số dư quỹ DPRR 2008 -2009 Sơ đồ Sơ đồ 1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của SGD Chương I. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại 1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Tùy thuộc vào tính chất và mục tiêu hoạt động cũng như sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Ở Việt nam, theo khoản 2 điều 20 Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa 10 thông qua vào ngày 12/12/1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/6/2004, định nghĩa: NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Theo khoản 1 điều 20 Luật sửa đổi, bổ sung cũng quy định: Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng, và khoản 7 điều 20 luật này định nghĩa: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. NHTM thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định nền kinh tế. Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, NHTM thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của nền kinh tế thị trường còn non kém. 1.1.2. Phân loại NHTM 1.1.2.1. Theo hình thức sở hữu - NHTM quốc doanh: Là NHTM được hình thành bằng 100% vốn của ngân sách nhà nước. - NHTM cổ phần: Là NHTM hình thành dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó một cá nhân hoặc một tổ chức không được sở hữu cổ phần của ngân hàng quá tỷ lệ do NHNN quy định. - NHTM nước ngoài: Đúng ra là chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Là ngân hàng được thành lập theo pháp luật nước ngoài, là cơ sở của ngân hàng nước ngoài tại Việt nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam. - NHTM liên doanh: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên ngân hàng Việt nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam. 1.1.2.2. Theo tính chất hoạt động Theo hoạt động chuyên doanh và đa năng: - NHTM chuyên doanh: Là loại hình NHTM chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng, ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối với nông nghiệp… - NHTM đa năng: Là loại hình NHTM cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng, đây là xu hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các NHTM. Theo hoạt động bán buôn và bán lẻ: - NHTM bán buôn: Là loại hình NHTM cung cấp các dịch vụ cho các ngân hàng, các công ty tài chính, cho Nhà nước, cho các doanh nghiệp lớn. Thường là những ngân hàng lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn. - NHTM bán lẻ: Là loại hình NHTM cung cấp dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân với các khoản tín dụng nhỏ. 1.1.2.3. Theo cơ cấu tổ chức - NHTM sở hữu công ty: Là ngân hàng nắm giữ phần vốn chi phối của công ty, cho phép ngân hàng tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của công ty. - NHTM thuộc sở hữu công ty: Các tập đoàn kinh tế thường tổ chức thành lập ngân hàng nhằm cung ứng dịch vụ tài chính cho các đơn vị thành viên của tập đoàn và ngoài tập đoàn. 1.1.3. Chức năng của NHTM - Trung gian tài chính Các tổ chức như NHTM, công ty tiết kiệm và cho vay, ngân hàng tiết kiệm tương trợ, liên hiệp tín dụng, công ty bảo hiểm, quỹ tương trợ, quỹ trợ cấp và những công ty tài chính là những trung gian vay vốn của những người đã tiết kiệm được tiền rồi ngược lại cho những người khác vay. Ngân hàng, nhất là NHTM là trung gian tài chính mà một người bình thường thường xuyên giao dịch nhất. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Thứ nhất là cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn. Thứ hai là cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian… tạo điều kiện nảy sinh và phát triển của trung gian tài chính. Ngân hàng có thể làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm đồng thời giảm phí tổn cho người đi vay so với quan hệ trực tiếp. Trung gian tài chính đã tập hợp người tiết kiệm và người đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng thông tin không cân xứng làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lời cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro, lợi nhuận hấp dẫn nhất. - Tạo phương tiện thanh toán Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Mặt khác, khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay( hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo M1). - Trung gian thanh toán Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa, dịch vụ. Để việc thanh toán diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khác hàng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong nước mà còn giữa các ngân hàng trên thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. 1.2. Những vấn đề cơ bản về nợ xấu của NHTM 1.2.1. Khái niệm 1.2.1.1. Theo ngân hàng Trung ương Liên minh châu Âu Nợ xấu trong các NHTM bao gồm: * Những khoản nợ không thể thu hồi được: - Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ nợ - Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ. - Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ. - Những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ. * Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng. Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có thời hạn thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy đủ như: - Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng phần còn lại không thể được đền bù, hoặc những khoản nợ trong đó tài sản được chuyển để thanh toán nhưng giá trị còn lại không đủ trang trải toàn bộ khoản nợ. - Những khoản nợ mà người mắc nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu gia hạn nợ nhưng không đền bù được trong thời gian thỏa thuận. - Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế chấp ở ngân hàng không được chấp nhận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ không thể trả nợ ngân hàng đầy đủ. - Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi hoàn ít hơn dư nợ. 1.2.1.2. Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/ hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc cac khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Về cơ bản, nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) hiện đang được áp dụng phổ biến trên thế giới. 1.2.1.3. Theo định nghĩa của Việt Nam Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng; và quyết định số 18/2007 QĐ – NHNN ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định 493 thì Nợ xấu được định nghĩa như sau: Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ), nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Nợ xấu theo định nghĩa của Việt Nam cũng được xác định dựa theo 2 yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ đáng lo ngại. Qua định nghĩa về nợ xấu của các tổ chức trên ta có thể hiểu khái quát nợ xấu là các khoản nợ mà khách hàng không trả gốc và lãi đúng hạn hoặc không trả nợ như đã cam kết dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng. 1.2.2. Phân loại Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng; và quyết định số18/2007 QĐ – NHNN ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung quyết định 493 thì Nợ xấu được xác định dựa trên cả yếu tố thời hạn nợ và khả năng thu hồi. a. Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: - Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày. - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b khoản này. - Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng. - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 điều này. Nợ xấu thuộc nhóm này được coi là các khoản nợ có khả năng thu hồi cao nhất. Ngân hàng sẽ trích lập một tỷ lệ DPRR cho nợ xấu nhóm này là 20% dư nợ của nhóm. b. Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: - Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày. - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu. - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu. - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai. - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 điều này. Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi thấp hơn so với các khoản nợ của nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào những khoản nợ mà ngân hàng có sự nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỷ lệ trích lập DPRR cho nợ xấu thuộc nhóm này là 50% tổng dư nợ của nhóm. c. Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: - Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày. - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời gian trả nợ được cơ cấu lại lần đầu. - Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần hai. - Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý. - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 điều này. Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi như bằng 0, do vậy tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tương ứng là 100% tổng dư nợ của nhóm. Còn riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của TCTD. 1.2.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM - Tổng số nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó, nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu. Và như vậy, nó chưa phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả năng thu hồi của ngân hàng - Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ 100 đơn vị tiền tệ khi ngân hàng cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng rủi ro càng cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì ngân hàng bị coi là có chất lượng tín dụng yếu kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng tín dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng. - Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các chỉ số này phản ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao. - Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh koanh của ngân hàng và ngược lại. Ngoài ra tùy theo tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng hoặc quốc gia trong từng thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ xấu nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý. 1.2.4. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu 1.2.4.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng Nợ xấu làm giảm doanh thu của ngân hàng, làm giảm hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng, tác động rất tiêu cực đối với hoạt động của cả hệ thống. Do vậy, dự báo nợ xấu phát sinh từ các dấu hiệu định tính và định lượng là một công việc có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Đó là: - Sự đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hàng. - Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra trong tương lai, ví dụ như sáp nhập. - Cho vay do khách hàng hứa duy trì một khoản tiền lớn trong ngân hàng. - Không xác định rõ kế hoạch hoàn trả đối với từng khoản cho vay. - Hồ sơ tín dụng không đầy đủ. - Do cạnh tranh có thể cấp tín dụng cho khách hàng để họ khởi chạy sang ngân hàng khác dù biết khoản vay có thể dẫn đến rủi ro. - Cơ cấu tín dụng không hợp lý, cho vay tập trung vào một số lĩnh vực nóng trong nền kinh tế như đầu tư vào bất động sản… 1.2.4.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng hóa, thu hồi công nợ chậm hơn dự tính. Việc thanh toán tiền không đúng kế hoạch. Người vay tiền liên tục trả nợ không đúng hạn. Kì hạn của khoản vay liên tục bị thay đổi, khách hàng luôn yêu cầu được gia hạn nợ. Các số liệu và tài liệu cần thiết cung cấp cho ngân hàng không được kê khai chính xác và nộp không theo kế hoạch. Các tài liệu quan trọng phải nộp cho ngân hàng như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính… liên tục bị trì hoãn một cách bất thường. Số liệu kê khai, hay số liệu về doanh thu và dòng tiền thực tế bị nghi ngờ là có sự chênh lệch khá lớn so với mức dự kiến khi khách hàng xin vay. Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản đảm bảo thấp hơn so với khi định giá cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, hay bán, trao đổi hoặc bị mất. Những thay đổi bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn. Những thay đổi trong cơ cấu vốn của người vay (tỷ lệ nợ/ vốn chủ sở hữu), khả năng thanh toán. Hoạt động kinh doanh của khách hàng thua lỗ trong một hay nhiều năm liên tục, đặc biệt thể hiện qua các chỉ số ROA, ROE hay thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT). Những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong số dư tiền gửi của khách hàng. 1.2.5. Tác động của nợ xấu 1.2.5.1. Đối với ngân hàng thương mại Nợ xấu ảnh hưởng hầu hết tới các hoạt động của NHTM, thậm chí số dư nợ xấu lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng. Trước hết, nợ xấu làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Nợ xấu hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của NHTM. Khi nợ xấu tăng cao, thu nhập của ngân hàng giảm, thậm chí không còn lợi nhuậ do không thu hồi được nợ, lại phát sinh thêm chi phí trích lập dự phòng, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và các chi phí khác liên quan. Thứ hai, nợ xấu sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao, vượt quá giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế thì uy tín của NHTM trong nước và quốc tế giảm sút nghiêm trọng. Thứ ba, nợ xấu làm ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động chủ yếu của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay. Nếu các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn, không thu hồi được hoặc thu hồi không đầy đủ nợ gốc và lãi đã cho vay. Trong khi đó, ngân hàng vẫn phải thanh toán đầy đủ, đúng hạn đối với các khoản tiền gửi. Sự mất cân đối trên ảnh hưởng rất lớn tới tính thanh khoản của ngân hàng và ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của ngân hàng. Thứ tư, nợ xấu làm cản trở quá trình hội nhập của các NHTM. Nợ xấu tác động trực tiếp tới khả năng tài chính của NHTM khi phân tích đánh giá tình hình tài chính hoạt động ngân hàng, là yếu tố bất lợi trong cạnh tranh, trong quá trình hội nhập và phát triển. 1.2.5.2. Đối với nền kinh tế NHTM là doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế. Vì thế nợ xấu của NHTM ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế tác động gián tiếp thông qua mối quan hệ hữu cơ: Ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế. Theo đó, nợ xấu làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Khả năng khai thác và đáp ứng vốn, khả năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế sẽ bị hạn chế khi nợ xấu phát sinh. Mặt khác, nợ xấu phát sinh do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế do vốn ứ đọng, sản xuất kinh doanh bị đình trệ. 1.3. Quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại 1.3.1. Sự cần thiết quản lý nợ xấu tại các NHTM Quản lý nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh từ đó làm tăng doanh thu, giảm chi phí nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Tổn thất nếu xảy ra sẽ làm giảm thu nhập, có thể thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng. Do vậy, an toàn tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi NHTM. Có hai mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lời trong hoạt động tín dụng. Trước khi tài trợ, mối quan hệ có thể là rủi ro càng cao, sinh lợi kỳ vọng càng lớn. Nhưng sau khi tài trợ mối quan hệ đó lại là tổn thất càng cao thì sinh lợi càng thấp. Ngân hàng có thể theo đuổi chiến lược tài trợ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn song đểu phải xác lập mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lợi nhằm đảm bảo gia tăng thu nhập cho ngân hàng trong dài hạn. Nghiên cứu và tìm các giải pháp để hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết và bù đắp tổn thất đã xảy ra là một trong những nội dung chính của quản lý tín dụng, nhằm mục tiêu gia tăng thu nhập cho ngân hàng trên cơ sở an toàn của từng khoản vay, của cả danh mục khoản vay. 1.3.2. Nội dung quản lý nợ xấu của NHTM 1.3.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh Theo Quyết định (QĐ) 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 493, nợ xấu chiếm tỷ lệ khoảng từ 2 - 5% là một tỷ lệ chấp nhận được. Để có được một tỷ lệ nợ xấu thấp, NHTM cần tập trung vào các biện pháp ngăn chặn nợ xấu xuất hiện. - Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng Ngân hàng phải tiến hành hoạt động thẩm định đối với dự án vay, khách hàng vay trước khi cho vay, trong cho vay và sau khi cho vay. Ngân hàng dùng các biện pháp để kiểm tra tính khả thi và sinh lợi của dự án, kiểm tra khả năng tài chính của khách hàng đi vay, theo dõi thường xuyên tình hình hoạt động của dự án sau khi giải ngân để từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về khả năng thu hồi vốn, cả gốc và lãi từ dự án. Khi đến kì hạn trả nợ, nếu nhận thấy khách hàng cố tình chây ỳ, lừa đảo, không có thiện ý hoàn trả nợ… thì ngân hàng phải tiến hành thu nợ. Còn nếu khách hàng có thiện ý trả nợ nhưng gặp khó khăn tạm thời thì ngân hàng có thể tiến hàng các biện pháp hỗ trợ khách hàng như giảm lãi suất, gia hạn nợ, tiếp tục cho vay để khách hàng thu lợi nhuận trả ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro phải phù hợp với khả năng huy động vốn và kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống. Yêu cầu các tổ chức tín dụng phân tích, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong từng quy trình nghiệp vụ để triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro, đồng thời rà soát, lựa chọn cán bộ có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ; có cơ chế uỷ quyền, quy định trách nhiệm đối với cán bộ phụ trách và tác nghiệp. Theo chức năng nhiệm vụ của mình, các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo, kiểm soát, xây dựng hệ thống cảnh báo rui ro để nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát thị trường ngoại hối, phát hiện kịp thời những rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp xử lý thích hợp. Hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo, kiểm soát, xây dựng hệ thống cảnh báo để nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát thị trường; đẩy nhanh việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật Đôn đốc các TCTD ban hành quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu áp dụng trong hệ thống của mình. Đánh giá toàn diện về mức độ rủi ro trong thanh toán và áp dụng công nghệ thông tin để đề xuất và triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa rủi ro; Tiếp tục ban hành sửa đổi, hoàn chỉnh chế độ kế toán cho phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế… - Xây dựng chiến lược hoạt động hợp lý Chiến lược hoạt động của ngân hàng một mặt phải đảm bảo khả năng sinh lời, mang lại thu nhập cho ngân hàng, mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngân hàng xây dựng và triển khai các sản phẩm, dịch vụ truyền thống và hiện đại phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Trong hệ thống các hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng, hoạt động mang lại hơn 70% thu nhập cho ngân hàng, ngân hàng phải xác định mức độ rủi ro tối đa, giới hạn tỷ lệ nợ xấu. Rủi ro luôn đi kèm với hoạt động của bất kì một ngân hàng nào, chúng ta có thể làm hạn chế tổn thất của chúng, chứ không thể ngăn ngừa chúng xuất hiện. Hoạt động ngân hàng nằm trong giới hạn rủi ro, đó là một thành công lớn của ngân hàng. Bất kể ngân hàng nào, phải xây dựng cho mình danh mục tài sản với các rủi ro có thể chấp nhận được và danh mục nguồn vốn với chi phí hợp lý, phù hợp với khả năng thanh khoản của ngân hàng và thực tế ngành kinh tế,vùng kinh tế và cả nền kinh tế. Ngân hàng đưa ra những sản phẩm, dịch vụ thu hút khách hàng với các chính sách về lãi suất, phí, khách hàng… hợp lý trên cơ sở nghiên cứu kỹ khách hàng và thị trường. Ngân hàng phải xác định và tận dụng lợi thế của mình trong việc xác định chiến lược hoạt động ngắn hạn và cả trung dài hạn đồng thời hạn chế những mặt còn hạn chế trong nội tại ngân hàng. Tập trung hoạt động vào những điểm mạnh, khai thác thị trường dựa trên những ưu điểm của mình để không ngừng mở rộng mạng lưới phân phối, chiếm lĩnh thị phần, nâng cao sức cạnh tranh với các đối thủ. Chỉ có thể thì chiến lược mới phát huy hiệu quả, đem lại nguồn thu cho ngân hàng, hình ảnh ngân hàng được nhiều cá nhân, tổ chức biết đến. Ngân hàng cũng có thể triển khai các hoạt động bằng cách kết hợp với các ngân hàng, các định chế tài chính khác để cùng nhau khai thác khách hàng, khai thác ngành và vùng kinh tế, khai thác thị trường dựa trên những lợi thế sẵn có của mỗi bên. Chiến lược hoạt động có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Nó xuyên suốt trong toàn hệ thống, là cương lĩnh hoạt động của tất cả cán bộ, công nhân viên, là kim chỉ nan dẫn đường cho từng bước đi của ngân hàng. Chính vì vậy, chiến lược hoạt động phải xây dựng một cách hợp lý, khoa học và thực tế. - Triển khai công cụ kiểm soát rủi ro mới. Ngân hàng phải tiến hành phân loại khách hàng, chấm điểm tín dụng với từng đối tượng khách hàng dựa trên các tiêu chí định tính cũng như định lượng. Đa phần các ngân hàng đều có tiêu chí xếp loại và phân loại nợ theo nhóm khách hàng để phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng. Nợ của khách hàng nhóm A được coi có rủi ro thấp nhất, còn nợ khách hàng nhóm C được coi là có khả năng mất vốn cao nhất. Ngân hàng cũng có thể kiểm soát tín dụng bằng giới hạn tín dụng, giải ngân kèm chứng từ hàng hóa… để hạn chế tổn thất trong cho vay. Triển khai các công cụ kiểm soát mới đồng thời làm chi phí hoạt động của ngân hàng tăng lên, nhưng sẽ làm giảm tổn thất mà các rủi ro mang lại. Các tổn thất này lớn hơn chi phí hoạt động của các công cụ này thì sẽ mang lại lợi nhuận, hiệu quả cho chính ngân hàng. 1.3.2.2. Xử lý nợ xấu - Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và tái cơ cấu lại nợ Đối với các khoản nợ xấu của khách hàng là doanh nghiệp, sau khi phân tích thực trạng tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá khách hàng có khả năng phát triển để thanh toán nợ xấu cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp cấu trúc lại hay tái cơ cấu doanh nghiệp. Tái cơ cấu doanh nghiệp là quá trình thực hiện tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh, tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp có hiện trạng kinh doanh, tài chính kém nhưng có khả năng phục hồi. Việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp được thực hiện giữa các bên có liên quan: nhà đầu tư, nhà kinh doanh, ngân hàng cho vay nợ với mục đích cao nhất là hồi sinh, tăng giá trị cho doanh nghiệp. Nói chung, đề xuất xử lý nợ xấu theo giải pháp cấu trúc lại chỉ được áp dụng cho các khoản nợ thuộc nhóm 3 và nhóm 4 và đối với các khách hàng được quyết định tiếp tục duy trì quan hệ. Khi đã có quyết định tiếp tục duy trì quan hệ với đối tượng khách hàng này, khoản nợ có thể được quản lý thông qua việc giám sát chặt chẽ, nhằm đảm bảo rằng bên vay thực thi các hành động cần thiết để cải thiện tình hình của họ và sửa chữa sai sót. Đặc biệt, trong trường hợp không trả được nợ lần đầu, ngân hàng cần có hành động kiên quyết để thuyết phục khách hàng trong việc thực thi các biện pháp cứng rắn để củng cố vị thế của khách hàng. Ngân hàng duy trì mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng để giám sát quá trình xử lý nợ. Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp: Thứ nhất, điều chỉnh kỳ hạn nợ: Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ thông thường được thực hiện thông qua việc hoãn hoặc/ và giảm khối lượng nợ gốc phải thanh toán của kỳ hạn trả nợ, nhưng không được giảm tổng số dư nợ phải trả. Nếu được sử dụng một cách cẩn thận, việc điều chỉnh kỳ hạn nọ là một hình thức được chấp nhận khi thực hiện tái cơ cấu lại nợ. Thứ hai, gia hạn nợ: Đây là phương án tránh áp lực trả nợ cho khách hàng để hỗ trợ khách hàng tiếp tục kinh doanh. Ngân hàng cũng có thể xem xét cấp thêm tín dụng giúp khách hàng vượt qua khó khăn đồng thời tạo khả năng thu hồi các khoản nợ trước. Đây không phải là biện pháp tốt vì nó mang tính mạo hiểm cao. Thứ ba, giảm, miễn một phần nợ lãi vay phải trả: Giải pháp này có thể được xem xét áp dụng tùy thuộc vào thiện chí trả nợ vay của khách hàng và tuân thủ theo các quy định hiện hành của Nhà nước và của từng ngân hàng. Việc giảm, miễn lãi đối với khách hàng coi như sự hy sinh một phần doanh thu của ngân hàng để có thể tận thu hồi được nguồn vốn đã cho vay. - Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu – Biến nợ thành chứng khoán Hiện nay, một kỹ thuật mới trong công tác xử lý nợ xấu đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới là chứng khoán hóa các khoản nợ. Một cách đơn giản, chứng khoán hóa là quá trình tập hợp và tái cấu trúc các tài sản thiếu tính thanh khoản nhưng lại có thu nhập bằng tiền cao trong tương lai như các khoản phải thu, các khoản nợ rồi chuyển đổi chúng thành trái phiếu và đưa ra giao dịch trên thị trường tài chính. Chứng khoán hóa các khoản nợ là chuyển đổi một tập hợp có chọn lọc các khoản vay có thế chấp của ngân hàng mà trước đó không có thị trường thứ cấp để giao dịch thành các chứng khoán khả mại, có thể bán trên thị trường thứ cấp. Ngân hàng có thể dùng kỹ thuật này để xử lý các khoản nợ xấu của mình nhưng cần có sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán cùng giao dịch mua bán nợ. Đối mặt với áp lực rủi ro tín dụng và yêu cầu tăng vốn chủ sở hữu, công cụ quản lý rủi ro chứng khoán hóa các khoản cho vay đã giúp ngân hàng hạn chế một cách có hiệu quả rủi ro tín dụng. Công nghệ chứng khoán hóa hấp dẫn nhiều ngân hàng, bởi vì thông qua đó mà ngân hàng có thể rút ngắn được thời gian xử lý nợ xấu, tăng khả năng thanh khoản của tài sản, cung cấp một phương tiện tài trợ mới, giảm được các chi phí có tính chất thuế cũng như tăng thu nhập từ thuế. Trước hết, nó giúp bổ sung, làm đa dạng hóa hàng hóa giao dịch trên sàn, giúp mở rộng quy mô thị trường. Chứng khoán hóa mở ra thêm một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp, mở cơ hội tiếp cận thị trường vốn và làm giảm chi phí tài trợ lẫn tối ưu hóa việc sử dụng vốn. Chứng khoán hóa tạo ra một nguồn tài trợ vốn dài hạn và có hiệu quả thông qua việc có thể được phát hành với kỳ hạn dài hơn các loại tài sản liên kết so với các khoản nợ của ngân hàng hoặc các loại tín phiếu. Ngoài ra, chứng khoán hóa còn là phương thức giúp làm tăng thu nhập của các tổ chức phát hành và là công cụ đa dạng hóa rủi ro tốt nhất Bên cạnh những tích cực mà chứng khoán hóa mang lại, còn có những rủi ro đi kèm, đó là: Công bố thông tin không bảo vệ được, những hạn chế của định mức tín nhiệm, các tài sản không giống như mong đợi, dữ liệu giao dịch không sẵn có, nhược điểm của chế độ báo cáo sản phẩm phái sinh và sản phẩm thu nhập cố định, tính thanh khoản yếu của công cụ nợ... - Xử lý tài sản đảm bảo, đòi nợ bên bảo lãnh Đối với những khoản nợ xấu không thể cơ cấu lại nợ, khách hàng không có khả năng phát triển, chây ỳ trong việc trả nợ… NHTM chủ động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay kể cả là bất động sản bao gồm đất đai, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng theo các hình thức sau: Bên bảo đảm trực tiếp bán tài sản cho người mua. NHTM trực tiếp bán tài sản cho người mua. Bán thông qua tổ chức đấu giá. NHTM nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Trong trường hợp này, việc quyết định nhận tài sản để sử dụng thay thế thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện theo thủ tục mua tài sản của NHTM. NHTM nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ: người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, Công ty bảo hiểm trong trường hợp thế chấp quyền thụ hưởng tiền bảo hiểm nhân thọ, hoặc từ bên thứ ba có nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo đảm. Trong trường hợp này, vẫn phải thoả thuận và có cam kết bằng văn bản của bên bảo đảm về quyền truy đòi lại bên bảo đảm nếu không thu hoặc thu không đủ từ bên thứ ba vì bất kỳ lý do nào. Mặc dù biện pháp này là không mong muốn do việc phát mại tài sản đảm bảo hoặc đòi nợ bên bảo lãnh thường rất phức tạp với nhiều thủ tục, tốn nhiều thời gian, khả năng thu hồi đầy đủ nợ thường không cao, song ngân hàng vẫn buộc phải thực hiện để thu hồi vốn. Cho đến nay, đây là một trong số các biện pháp thu hồi vốn có hiệu quả nhất cho các ngân hàng, đặc biệt các khoản nợ do cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, khách hàng lừa đảo ngân hàng… - Bán các khoản nợ Biện pháp này được ngân hàng sử dụng đối với khoản nợ không có tài sản đảm bảo hoặc không muốn mất thời gian đòi nợ. Ngân hàng sẽ chuyển quyền đòi nợ cho một tổ chức tín dụng hoặc tổ chức, cá nhân khác có chức năng theo quy định để sớm thu hồi vốn của mình. Khi bán các khoản nợ xấu, ngân hàng thường chấp nhận bán với giá thấp hơn giá trị khoản nợ để thu hồi vốn nhanh và tránh ảnh hưởng tới những khoản nợ còn lại. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, bên cạnh việc nhanh chóng đưa ra các khoản nợ xấu ra khỏi bảng tổng kết tài sản, các ngân hàng thường thành lập một tổ chức có tính chuyên môn cao gọi là Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC). Công ty này sẽ tiếp nhận các khoản nợ và thực hiện mua bán tiếp theo. AMC ra đời trước tiên nhằm phục vụ nhu cầu quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng, làm lành mạnh và minh bạch hóa tình hình tài chính, đảm bảo kinh doanh an toàn và bền vững của ngân hàng. Công ty có đầy đủ chức năng của một công ty xử lý nợ, bao gồm: tiếp nhận, quản lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản bảo đảm nợ vay liên quan đến các khoản nợ để xử lý, thu hồi vốn nhanh nhất; Hoàn thiện hồ sơ có liên quan đến các khoản nợ theo quy định của pháp luật trình các cơ quan có thẩm quyền cho phép Ngân hàng xóa nợ cho khách hàng; Chủ động bán các tài sản bảo đảm nợ vay thuộc quyền định đoạt của ngân hàng thương mại theo giá thị trường; Cơ cấu lại nợ tồn đọng; Xử lý các tài sản bảo đảm nợ vay; Mua bán, xử lý nợ tồn đọng của các đơn vị khác theo quy định của pháp luật,… Bên cạnh đáp ứng nhu cầu về xử lý nợ xấu của chính ngân hàng, AMC sẽ sử dụng các kỹ năng chuyên sâu của mình để phục vụ nhu cầu xử lý nợ và tài sản tồn đọng của các doanh nghiệp khác, giúp nguồn vốn trong nền kinh tế lưu chuyển thông thoáng hơn, thay đổi diện mạo mới về cách thức giải quyết nợ thuộc toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam và đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. - Bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro Quỹ dự phòng rủi ro được trích lập từ nguồn lợi nhuận của các NHTM nhằm để bù đắp những tổn thất trong hoạt động kinh doanh. NHTM phải phân loại các khoản nợ xấu xem loại nào thì được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của TCTD. Những trường hợp được xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro là khi khách hàng vay vốn, bên được bảo lãnh vay vốn, bên được hưởng dịch vụ thanh toán là những tổ chức bị phá sản, giải thể hoặc cá nhân bị chết, mất tích hoặc không thực hiện được các nghĩa vụ nợ thuộc nhóm 5 – nợ có khả năng mất vốn. Do tính chủ động cao nên biện pháp này được các ngân hàng vận dụng tối đa nhằm xử lý nợ xấu nhanh chóng. Thực chất của biện pháp này là ngân hàng sử dụng nội lực của mình để khắc phục gánh nặng nợ xấu nên ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Việc sử dụng quá nhiều biện pháp này làm giảm thu nhập của ngân hàng trong khi vốn cho vay vẫn không thu hồi được. Vì vậy, ngân hàng nên chú trọng vào các biện pháp thu hồi nợ có tính triệt để hơn. - Sự trợ giúp của Chính phủ Đối với những khoản nợ xấu phát sinh do các khoản vay theo chính sách của Chính phủ, các ngân hàng phải trông chờ vào nguồn bù đắp từ ngân sách nhà nước. Thực chất các khoản vay theo chính sách có thể coi như khoản vay có bảo lãnh của bên thứ 3 là Chính phủ. Do vậy, khi ngân hàng không thể thu hồi được nợ từ khách hàng thuộc đối tượng này thì Chính phủ phải đứng ra giải quyết cho ngân hàng. Chính phủ có thể sử dụng ngân sách mua toàn bộ nợ xấu của NHTM để xử lý dần trong một số năm nhằm giải thoát cho các NHTM không bị sa lầy vào khủng hoảng nợ xấu, giúp ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh. Biện pháp này có hạn chế là thủ tục, trình tự xử lý phức tạp, kéo dài, có sự tham gia của nhiều cơ quan chức năng, không thể áp dụng thường xuyên vì ngân sách có hạn, việc xử lý một khối lượng lớn nợ xấu rất tốn kém làm giảm ngân sách đầu tư cho các lĩnh vực khác, gây ảnh hưởng toàn bộ nền kinh tế. 1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý nợ xấu 1.3.3.1. Nhân tố chủ quan 1.3.3.1.1. Nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng - Cơ chế quản lý tín dụng Đó là tập hợp những biện pháp, cách thức mà ngân hàng tiến hành nhằm mục đích thẩm định, theo dõi, kiểm tra, giám sát với từng khoản tín dụng được cấp, với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nếu công tác quản lý được đánh giá đúng vai trò quan trọng của nó, được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đắn thì sẽ mang lại hiệu quả cho ngân hàng. Ngược lại, công tác quản lý không được phổ biến đúng mực tới các bộ phận, phòng ban của ngân hàng, không tạo được sự thống nhất trong toàn hệ thống sẽ làm giảm thu nhập cho ngân hàng, nợ xấu vì thế mà tăng lên. Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn đi kèm với rủi ro có thể xảy ra. Nếu các ngân hàng đặt mục tiêu lợi nhuận lên quá cao, gia tăng dư nợ tín dụng trong khi chưa hoàn thiện được các chính sách tín dụng hoặc chính sách tín dụng không phù hợp, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ thì sẽ làm nợ xấu gia tăng. Cơ chế quản lý tín dụng của ngân hàng có thể được hiểu qua một số biểu hiện sau đây: Thứ nhất là quy trình nghiệp vụ ngân hàng. Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả công việc của ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng. Việc xác lập một quy trình tín dụng và không ngừng hoàn thiện nó đặc biệt quan trọng đối với một ngân hàng thương mại. Về mặt hiệu quả, một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Quy trình tín dụng bao gồm các bước sau: Lập hồ sơ vay vốn, phân tích tín dụng, ra quyết định tín dụng, giải ngân, giám sát tín dụng và thanh lý hợp đồng tín dụng. Một quy trình tín dụng chặt chẽ, đảo bảo tính chính xác và đầy đủ là một nhân tố làm giảm đáng kể nợ xấu trong tổng dư nợ. Ngược lại, một quy trình tín dụng lỏng lẻo, không khoa học sẽ làm gia tăng nợ xấu. Thứ hai là cơ cấu cho vay. Đó là tỷ trọng cho vay trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng loại doanh nghiệp và cả theo thời gian. Tỷ trọng các khoản cho vay giữa ngắn hạn và trung, dài hạn; giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn; giữa tổ chức và cá nhân; giữa ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; giữa ngành hoạt động mang tính chất thời vụ và lâu dài… nếu hợp lý, phù hợp với thực tế nền kinh tế, với chủ trương của Chính phủ, của NHNN thì sẽ mang lại hiệu quả kinh tế và cả hiệu quả xã hội cho đất nước. Ngược lại, cơ cấu cho vay bất hợp lý sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, của ngành kinh tế, của vùng kinh tế và của cả nền kinh tế, không đáp ứng được nhu cầu phát triển năng động của đất nước. Thứ ba là đạo đức và trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Đội ngũ cán bộ tín dụng vừa có đạo đức, phẩm chất vừa có trình độ chuyên môn trong đánh giá, thẩm định các khoản vay thì khả năng xảy ra nợ xấu là rất thấp. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Thứ tư là công tác kiểm tra nội bộ ngân hàng. Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức, làm gia tăng thêm rủi ro cho ngân hàng. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.  - Công nghệ ngân hàng Hệ thống công nghệ rất quan trọng trong công tác điều hành phát triển ngân hàng và đem lại lợi ích cho khách hàng, ngân hàng. Với khách hàng, công nghệ sẽ đem đến cho khách hàng sự hài lòng nhờ vào những dịch vụ ngân hàng có chất lượng tốt, thời gian giao dịch được rút ngắn, an toàn, bảo mật. Cho dù khách hàng đến bất cứ địa điểm giao dịch nào của ngân hàng đều cảm nhận được chất lượng và “tính trong suốt” của dịch vụ. Với ngân hàng, công nghệ hiện đại sẽ tạo ra đột phá trong khai thác sản phẩm, dịch vụ cả về số lượng và chất lượng, gián tiếp khẳng định được đẳng cấp tên tuổi hình ảnh của ngân hàng. Dưới góc độ quản lý, nhờ có công nghệ mà việc quản lý nội bộ trong ngân hàng sẽ chặt chẽ hiệu quả hơn, quản trị rủi ro tốt hơn, làm giảm nợ xấu. Nhưng nếu công nghệ ngân hàng mà lạc hậu, không theo kịp ngân hàng trong nước và quốc tế thì sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, cũng là nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu. - Cơ cấu tổ chức Nếu ngân hàng được cơ cấu và phân định các phòng ban theo đối tượng khách hàng, kết hợp theo sản phẩm, dịch vụ: phân cấp quản lý theo mô hình nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cường kỹ năng quản trị rủi ro, tăng cường chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng mạng lưới và phát triển sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ; Các phòng ban tại Trụ sở chính cũng như tại chi nhánh được củng cố và chuyển đổi theo hướng sản phẩm và đối tượng khách hàng; Chức năng chuyên sâu theo nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp và gián tiếp, hỗ trợ và quản lý tăng cường các bộ phận quản lý rủi ro theo mô hình ngân hàng hiện đại và nếu cơ cấu tổ chức ngân hàng từ trung ương đến các chi nhánh, phòng ban chặt chẽ, thống nhất thì sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Sự thống nhất, chặt chẽ giữa các cấp sẽ làm giảm nợ xấu trong quy trình tín dụng, giảm thiệt hại cho ngân hàng. Ngược lại, tổ chức lỏng lẻo sẽ tạo điều kiện cho nhân viên tín dụng cùng cấp trên hợp thức hóa hồ sơ, làm giả mạo giấy tờ tín dụng, làm phát sinh nợ xấu. 1.3.3.1.2. Nhân tố chủ quan từ phía khách hàng vay Khi doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để triển khai, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, với một dự án đầy khả thi và với tư duy quản lý, kinh doanh tiên tiến thì sẽ mang lại hiệu quả cho dự án, đảm bảo trả đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Còn với tư duy kinh doanh hạn chế thì dù với một dự án đầy triển vọng thì cũng sẽ thất bại làm gia tăng nợ xấu cho ngân hàng. Việc thu hồi được nợ vay còn phụ thuộc lớn vào thiện chí trả nợ của khách hàng. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.  1.3.3.2. Nhân tố khách quan - Môi trường kinh tế - xã hội Với những nền kinh tế nhỏ bé, sản xuất công nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu là thành phẩm đơn giản như dầu thô, may gia công, chế biến thực phẩm và nguyên liệu… thì rất dễ bị tổn thương khi nền kinh tế thế giới biến động mạnh. Nếu thế giới ít biến động thì hoạt động của các doanh nghiệp cũng được đảm bảo, khả năng trả nợ cho ngân hàng càng cao. Còn thế giới biến động mạnh mẽ: giá cả, tỷ giá, hạn ngạch, thuế… thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là có nguy cơ phá sản, mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ như ở Việt Nam: Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua.  Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. Mối quan hệ song phương và đa phương giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới cũng tác động rất lớn tới hoạt động kinh doanh nói chung và của ngân hàng nói riêng. Một đất nước ổn định về chính trị, có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và xuất nhập khẩu. Ngược lại, một đất nước bất ổn, biểu tình, đình công, khủng hoảng, bị cấm vận… thì nền kinh tế chắc chắn sẽ kiệt quệ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới các thành phần kinh tế và làm nợ xấu của ngân hàng cũng gia tăng lên rất nhiều. - Môi trường tự nhiên Đối với những nền kinh tế lệ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi… thì rất nhạy cảm với sự thay đổi của thời tiết, của môi trường tự nhiên mà điển hình là Việt Nam. Nếu như thời tiết thuận lợi, cây trồng đạt năng suất, vật nuôi không bị dịch bệnh, khỏe mạnh… thì khả năng thu hồi vốn từ người đi vay là rất lớn. Còn ngược lại, môi trường tự nhiên, khí hậu, thời tiết, đất đai, nguồn nước không thuận lợi, lại chịu ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt, hạn hán thì dự án sẽ thất bại, không thu hồi được vốn, nợ xấu phát sinh. - Môi trường pháp lý Thứ nhất là hành lang pháp lý. Hành lang pháp lý rõ ràng, thuận lợi và đủ mạnh thì sẽ góp phần làm minh bạch quy trình tín dụng, lành mạnh hoạt động của doanh nghiệp và ngân hàng, hạn chế rủi ro tín dụng phát sinh. Còn ngược lại, hành lang pháp lý chưa phù hợp, còn nhiều bất cập sẽ tạo điều kiện cho những khuất tất trong hoạt động tín dụng. Thứ hai là hiệu quả hoạt động của cơ quan pháp luật địa phương trong việc triển khai áp dụng các văn bản pháp luật của Quốc hội, chính phủ và NHNN vào thực tế hoạt động. Luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Điều đó làm gia tăng dư nợ xấu, làm giảm doanh thu của ngân hàng. Nếu việc áp dụng các luật, văn bản dưới luật sẵn có vào hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng nhanh chóng, đúng thời điểm, nghiêm túc, không còn vướng mắc thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và ngân hàng sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi. Thứ ba là sự thanh tra, giám sát của NHNN. Nếu NHNN tiến hành thanh tra, giám sát hoạt động của NHTM thường xuyên, chủ động, đáp ứng được yêu cầu, đúng nội dung và phương pháp thì sẽ ngăn ngừa được các khoản nợ xấu phát sinh. Ngược lại, năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn.  Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2.1. Tổng quan về Sở giao dịch I – BIDV 2.1.1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch I – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 2.1.1.1. Lịch sử hình thành Sở giao dịch I được thành lập ngày 28/3/1991 theo quyết định số 76 QĐ/TCCB của Tổng giám đốc Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Thực nghiệm thành công mô hình mới là đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược của BIDV. Từ ngày đầu thành lập, Sở giao dịch có 2 phòng và 1 tổ nghiệp vụ; chủ yếu làm nhiệm vụ cấp phát ngân sách đầu tư từ các dự án. Giai đoạn tiếp theo 1996 – 2000: Với 167 cán bộ nhân viên, Sở giao dịch đã có 12 phòng nghiệp vụ, 1 chi nhánh khu vực, 2 phòng giao dịch và 7 quỹ tiết kiệm. Thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, phục vụ đông đảo khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế và dân cư. Từ 2001 – nay: Sở giao dịch đã thực hiện tách nâng cấp mở 4 chi nhánh cấp 1 trên địa bàn Hà Nội, đó là: Chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2002 Chi nhánh Hà Thành năm 2003 Chi nhánh Đông Đô năm 2004 Chi nhánh Quang Trung năm 2005 Cơ cấu lại Sở giao dịch theo mô hình phục vụ giao dịch một cửa thuận lợi cho khách hàng và quản lý thông tin, thanh toán trực tuyến. Đến nay Sở giao dịch đã có 17 phòng nghiệp vụ; 15 điểm giao dịch với gần 300 cán bộ nhân viên. Hệ thống máy rút tiền tự động ATM hoạt động kết nồi với các điểm giao dịch của BIDV trên phạm vi toàn quốc hợp thành mạng lưới rộng khắp phục vụ khách hàng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Mô hình tổ chức của Sở giao dịch đang được tiếp tục hoàn thiện theo hướng các ngân hàng hiện đại trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin để hình thành các kênh phân phối sản phẩm tín dụng, huy động vốn, dịch vụ… Quá trình phát triển quy mô hoạt động của Sở giao dịch được thể hiện: tăng trưởng khách hàng, tổng tài sản. Đến nay đã có hàng vạn khách hàng mở tài khoản hoạt động, trong đó có tới 1400 khách hàng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế: Tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh, cổ phần, trách nhiệm hữu hạn lớn… Tổng tài sản năm 1991 là 137 tỷ đồng, sau 15 năm đến năm 2005 là 13976 tỷ đồng, đến năm 2008 là 30,125.642 tỷ đồng. Biểu 2.1. Biểu đồ tổng tài sản của Sở giao dịch qua các năm Nguồn: Kỷ yếu 15 năm thành lập SGD (1991 – 2006) và Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD giai đoạn 2006 - 2008 Công nghệ là nền tảng để phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng với tiện ích và chất lượng cao. Năm 1992 với hệ thống chuyển tiền điện tử trong nước và hạch toán kế toán IBS đã đánh dấu bước khởi đầu trong việc hiện đại hóa của Sở giao dịch. Trong năm 1996 – 2000, với việc trang bị 70% máy PC liên kết trên mạng cục bộ (mạng LAN) và liên kết trên mạng rộng (mạng WAN), cùng với hệ thống phần mềm kế toán IBS, thanh toán điện tử nội bộ, thanh toán quốc tế (SWIFT), thanh toán bù trừ liên ngân hàng (In terbank) và liên kết tới hệ thống thông tin CIC đã giúp cho Sở giao dịch triển khai mạnh mẽ hoạt động kinh doanh, ngày càng đáp ứng yêu cầu của khách hàng về thanh toán, tiện ích sản phẩm dịch vụ. Từ năm 2003, Sở giao dịch là đơn vị thành viên đầu tiên đã triển khai thành công dự án hiện đại hóa ngân hàng do Word Bank tài trợ với tính năng là quản lý dữ liệu tập trung, xử lý giao dịch tức thời và hạch toán tự động. Hệ thống quản lý chất lượng ISO 1991 – 2000: Sở giao dịch được tổ chức BVQI và QUACERT cấp chứng chỉ đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 1991 – 2000 cho hầu hết các sản phẩm dịch vụ. Các nghiệp vụ đã được thực hiện theo quy trình thống nhất đảm bảo tính minh bạch, công khai, rõ trách nhiệm đối với từng chủ thể tham gia, tránh phiền hà cho khách hàng và là cơ sở để xây dựng, nâng cấp chương trình phần mềm xử lý nghiệp vụ. Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng tập thể vững mạnh là một trong những thế mạnh tạo nên thành công trong hoạt động của Sở giao dịch cũng như toàn hệ thống BIDV. Thứ nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ thành thạo kỹ năng. Từ 16 cán bộ từ ngày đầu thành lập, đến nay Sở giao dịch đã có gần 300 cán bộ độ tuổi trung bình là 27.5 được đào tạo cơ bản và thường xuyên được đào tạo nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Với sức trẻ và lòng nhiệt huyết, gắn bó trung thành với sự nghiệp đã tăng thêm niềm tin của khách hàng với ngân hàng. Thứ hai là bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt. Phù hợp với sự phát triển mô hình tổ chức và nhiệm vụ kinh doanh, trong 15 năm đã có 6 đồng chí Giám đốc trong đó có 3 đồng chí đã trở thành phó tổng giám đốc BIDV, 20 đồng chí phó giám đốc và hàng trăm đồng chí trưởng, phó phòng hiện đang được giữ cương vị công tác tại Sở giao dịch và các đơn vị thành viên trong hệ thống BIDV. Ngoài ra hoạt động Đảng bộ vững mạnh, hoạt động công đoàn, hoạt động đoàn Thanh niên, phong trào thể thao văn hóa cũng góp phần xây dựng một tập thể vững mạnh trong Sở giao dịch. 2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam P. Quan hệ khách hàng 1 & 2 P. Quan hệ khách hàng 3 P. Tài trợ dự án P. Quản lý rủi ro 1 P. Quản lý rủi ro 2 P. Quản trị tín dụng Khối tín dụng P. Dịch vụ khách hàng cá nhân P. Dịch vụ khách hàng doanh nghiệp 1 P. Dịch vụ khách hàng doanh nghiệp 2 P. Quản lý và dịch vụ kho quỹ P. Thanh toán quốc tế Khối dịch vụ Ban giám đốc P. Kế hoạch tổng hợp P. Điện toán P. Tài chính kế toán P. Tổ chức nhân sự Văn phòng Khối quản lý nội bộ Khối đơn vị trực thuộc Phòng giao dịch Sơ đồ 1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của SGD Nguồn: Kỷ yếu 15 năm thành lập SGD (1991- 2006) và Quy định về chức năng, nhiệm vụ của các phòng năm 2008 2.1.2. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh 2.1.2.1. Phân tích tài chính Là một đơn vị trọng điểm trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, cùng với chiến lược hoạt động hợp lý và sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên, Sở giao dịch đã gặt hái được những con số ấn tượng trong báo cáo kết quả kinh doanh trong 3 năm gần đây. Bảng 2.1. Kết quả kinh doanh của SGD Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tuyệt đối Tuyệt đối % TT Tuyệt đối % TT 1. Lợi nhuận trước thuế 184,858 321,000 74 428,000 33 2. Tổng tài sản 14,141,538 17,999,521 27 30,125,642 67 3. Lợi nhuận sau thuế 138,643.5 240,750 74 321,000 33 4. ROA (%) 0.0098 0.0134 0.0107 5. VCSH 4,030,612 2,695,509 (67) 1,206,182 (45) 6. ROE (%) 0.0344 0.0893 0.2661 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD giai đoạn 2006 – 2008 Lợi nhuận trước thuế năm 2007 đạt 321,000 triệu đồng, tăng 74% so với năm 2006. Đây là năm có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao nhất trong vòng 5 năm. Lợi nhuận sau thuế phụ thuộc vào thuế suất và đối tượng chịu thuế (giả sử thuế suất cho mọi đối tượng tính toán là 25%). Do vậy, lợi nhuận sau thuế trong năm 2007 có tốc độ tăng lớn nhất là 74%. Nguyên nhân là trong năm 2007, Sở giao dịch đã xây dựng và triển khai chiến lược kinh doanh một cách hợp lý, có hiệu quả phù hợp và theo sát với những diễn biến của nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung, nhất là diễn biến của ngành tài chính ngân hàng. Mặt khác môi trường kinh tế vĩ mô, môi trờng kinh tế quốc tế cũng có những thuận lợi đối hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng tài chính nói chung cũng như BIDV nói riêng, nhất là so với năm 2008, đó là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế được củng cố ở mức cao, dòng vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp đổ vào Việt Nam lớn, cùng với đó là sự ra đời của hàng loạt công ty chứng khoán – hàn thử biểu của nền kinh tế, các ngân hàng mới được thành lập, thị trường tài chính được mở rộng và không ngừng phát triển… Tỷ lệ ROA năm 2007 lại đạt tỷ lệ cao nhất, 0.0134, tương đương 1.34%. Do trong năm 2007, lợi nhuận sau thuế có tốc độ tăng lớn hơn so với năm 2008 và tổng tài sản lại có tốc độ tăng chậm hơn so với năm 2008 dẫn đến tỷ lệ sinh lời của tổng tài sản trong năm 2007 cao hơn trong năm 2008 và cao nhất trong 3 năm. Nhưng tỷ lệ ROE cao nhất vào năm 2008 đạt 0.2661, tương đương 26,61%. Do năm 2008, lợi nhuận sau thuế lớn hơn và VCSH lại thấp hơn so với năm 2006, 2007 nên dẫn đến ROE cao hơn. VCSH giảm 45% là do trong năm 2008 Sở giao dịch đã triển khai các biện pháp, các sản phẩm, dịch vụ huy động vốn từ cá nhân, tổ chức một cách đa dạng, phù hợp làm cho tỷ trọng VCSH trong tổng nguồn vốn giảm đáng kể và con số tuyệt đối của VCSH giảm so với năm trước. 2.1.2.2. Phân tích hoạt động 2.1.2.2.1. Hoạt động huy động vốn Nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn và là tài nguyên quan trọng bậc nhất của bất kể một ngân hàng nào. Sự tăng trưởng của nó có ý nghĩa quan trọng trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Bảng 2.2. Kết quả huy động vốn 2006 – 2008 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tuyệt đối Tuyệt đối % TT Tuyệt đối % TT Huy động vốn 10,110,926 15,304,462 51 28,919,460 89 1. Tiền gửi TCKT 7,284,959 12,760,106 75 26,485,352 108 - TG không KH 1,645,390 3,768,506 129 7,953,210 111 - TG có KH 5,639,569 8,991,600 59 18,532,142 106 2. Tiền gửi dân cư 2,791,400 2,491,021 (11) 2,355,873 (5) - Tiền gửi tiết kiệm 2,290,055 2,130,000 (7) 1,865,230 (12) - Kỳ phiếu 122,200 125,350 3 95,023 (24) - CCTG, Trái phiếu 379,145 235,671 (38) 395,620 68 3. Huy động khác 34,567 53,335 54 78,235 47 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD giai đoạn 2006 – 2008 Sự tăng trưởng nhanh chóng từ nguồn vốn huy động trong 3 năm qua của SGD cho thấy chiến lược huy động vốn nói riêng và chiến lược hoạt động của SGD đã phát huy hiệu quả, ngày càng nâng cao vị thế, uy tín của SGD trong hệ thống BIDV và trong ngành ngân hàng. Biểu 2.2. Biểu đồ nguồn vốn huy động của Sở giao dịch qua các năm Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD giai đoạn 2006 – 2008 Năm 2008, quy mô huy động vốn đạt 28,919,460 triệu đồng, tăng 89%. Đây là năm có tốc độ huy động vốn lớn nhất trong 3 năm. Năm 2008, Sở giao dịch đã triển khai nhiều hình thức huy động vốn đa dạng, linh hoạt, hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu của khách hàng gửi tiền. Hiện nay với hệ thống công nghệ hiện đai Sở giao dịch đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn mới đó là: TK lãi suất bậc thang, TK dự thưởng, TK ổ trứng vàng… Nguồn vốn huy động liên tục tăng trưởng, là kết quả tổng hợp của việc nâng cao ứng dụng công nghệ, không ngừng phát triển sản phẩm, tiện ích, phong cách giao dịch văn minh của người cán bộ ngân hàng. Trong hoạt động huy động vốn, tiền gửi TCKT chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng, tăng mạnh nhất vào năm 2008, tăng tới 108%; còn tiền gửi dân cư lại có xu hướng giảm, giảm mạnh nhất vào năm 2007, giảm tới 11%. Đó cũng phù hợp với nhu cầu khách quan của sự phát triển của nền kinh tế. Các doanh nghiệp không ngừng được mở rộng về số lượng và nâng cao về chất lượng hoạt động, họ sử dụng các dịch vụ của ngân hàng để quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra thuận lợi, nhanh chóng hơn đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Trong tiền gửi TCKT, tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng lại có tốc độ tăng mạnh mẽ, tăng mạnh nhất vào năm 2007, tăng 129%. Còn trong năm 2008, do những biến động của nền kinh tế thế giới và nền kinh tế vĩ mô, tiền gửi không kì hạn tăng 111%, nhưng trong tương lai nó sẽ tăng mạnh hơn nữa. Tiền gửi không kỳ hạn hưởng mức lãi suất thấp nhưng đó là tiền của TCKT gửi vào ngân hàng nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ, khách hàng có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp, đem lại các tiện ích đáng kể cho chính các TCKT. 2.1.2.2.2. Trong hoạt động tín dụng Những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có nhu cầu vay vốn để triển khai, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh đã tìm đến với SGD. Những dự án khả thi, cùng với sự cung cấp vốn kịp thời của Sở đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp tăng doanh thu, phát triển hoạt động và thậm chí tránh nguy cơ phá sản. Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tuyệt đối Tuyệt đối % TT Tuyệt đối % TT Tín dụng 5,000,752 5,099,321 2 5,807,045 14 1. Cho vay ngắn hạn 1,959,934 2,059,282 5 2,915,632 42 2. Cho vay TDH TM 623,713 1,095,379 76 1,035,021 (6) 3. Cho vay ĐTT 1,894,594 1,512,000 (20) 1,584,230 5 4. Cho vay KHNN 256,478 161,000 (37) 18,520 (88) 5. Cho vay ủy thác, ODA 266,034 271,660 2 253,642 (7) Đơn vị: Triệu đồng Bảng 2.3. Tình hình hoạt động tín dụng của SGD Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD giai đoạn 2006 – 2008 Tăng trưởng dư nợ tín dụng không những mang lại nguồn thu lớn cho Sở mà còn khẳng định vị thế của SGD, của BIDV, của thương hiệu ngân hàng hàng đầu Việt Nam. Biểu 2.3. Biểu đồ dư nợ tín dụng của Sở giao dịch qua các năm Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD giai đoạn 2006 - 2008 Tổng tài sản của Sở giao dịch đều tăng trong cả 3 năm, tăng mạnh nhất vào năm 2008, tăng 67%, đạt 30,125,642 triệu đồng. Tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong danh mục tài sản của Sở giao dịch cũng như bất kể ngân hàng thương mại nào. Quy mô và tốc độ tăng trưởng hoạt động tín dụng đều tăng, tăng mạnh nhất vào năm 2008, tăng 14%, đạt 5,807,045 triệu đồng. Hoạt động tín dụng tăng trưởng liên tục, thực sự phát triển lớn mạnh cả chiều rộng, chiều sâu góp phần thúc đẩy phát triển mọi thành phần kinh tế. Đi đôi với việc phục vụ tốt khách hàng truyền thống, sản xuất kinh doanh có hiệu quả Sở giao dịch còn chú trọng tới công tác mở rộng quan hệ khách hàng với nguyên tắc “Hợp tác – Phát triển – Bền vững”. Năm 2008, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế càng có nhu cầu lớn về nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, mà ngân hàng thương mại nói chung, và Sở giao dịch nói riêng là nơi đáp ứng được nhu cầu đó. Đa dạng hóa sản phẩm tín dụng: với phương châm “Hiệu quả của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng”, các sản phẩm dịch vụ của Sở giao dịch càng được đa dạng hóa nhằm không ngừng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nâng cao chất lượng phục vụ: Cải tiến quy trình giao dịch, thẩm định xét duyệt cho vay theo quy trình ISO và luôn lắng nghe ý kiến phản hồi của khách hàng. Thực hiện việc bán chéo sản phẩm để khách hàng có được hiệu quả cao bằng việc kết hợp giữa gửi tiền, cho vay vốn đầu tư, cho vay vốn lưu động, bảo lãnh thanh toán, chuyển tiền, chuyển đổi ngoại tệ, tư vấn, bảo hiểm và cho thuê. Tham gia ý kiến với khách hàng từ khâu lựa chọn sản phẩm, lựa chọn công nghệ, phương án đầu tư và xây dựng phương án tài chính hợp lý. Trong hoạt động tín dụng, cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất và có xu hướng tăng dần trong suốt cả 3 năm, tăng mạnh nhất vào năm 2008, tăng tới 42%, đạt 2,915,632 triệu đồng; Cho vay TDH TM (cho vay trung dài hạn thương mại) giảm 6% vào năm 2008. Đó cũng phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, cũng như chủ trương hoạt động kinh doanh của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, chức năng nhiệm vụ của Sở giao dịch. Cho vay TDH TM giảm dần, cho vay ngắn hạn có xu hướng tăng cũng là một biện pháp hạn chế rủi ro trong cho vay bởi các dự án TDH TM có thời gian hoạt động lâu, thời gian thu hồi vốn dài, trong khi Ngân hàng thương mại càng cần có nhu cầu về vốn để thực hiện các nghiệp vụ khác để giảm thiểu rủi ro, tăng lợi nhuận cho ngân hàng. 2.1.2.2.3. Hoạt động dịch vụ Ngoài hai nghiệp vụ quan trọng là huy động và tín dụng, thì hoạt động dịch vụ cũng góp phần đáng kể vào nguồn thu của Sở. Bảng 2.4. Tình hình hoạt động dịch vụ cúa SGD Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tuyệt đối Tuyệt đối % TT Tuyệt đối % TT Thu dịch vụ ròng 49,512 76,850 55 115,000 50 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD giai đoạn 2006 – 2008 Hướng tới ngân hàng thương mại hiện đại, Sở giao dịch luôn chú trọng công tác phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Doanh số thu dịch vụ ròng qua 3 năm đều tăng trên 50%, tăng mạnh nhất vào năm 2007 là 55%, đạt 76,850 triệu đồng. Với chính sách kết hợp phí dịch vụ hợp lý và các dịch vụ hỗ trợ tư vấn kết quả hoạt động dịch vụ trong năm 2005 thể hiện: Doanh số thanh toán trong nước là 262.047 tỷ đồng, doanh số thanh toán quốc tế là 1659 triệu USD, số dư bảo lãnh đạt 4200 tỷ đồng và trong năm đã xuất nhập khẩu 200 triệu USD an toàn. 2.2. Thực trạng công tác quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV BIDV nói chung và Sở giao dịch nói riêng là ngân hàng đi đầu trong việc minh bạch nợ xấu, nhất là trong bối nền kinh tế phải trải qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, mà khởi đầu là từ Mỹ. Những khoản nợ xấu của cả hệ thống ngân hàng phát sinh ngày càng nhiều trên tất cả các lĩnh vực đe dọa đến hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và của BIDV nói riêng. Theo yêu cầu của Ngân hàng nhà nước, đến tháng 6 năm 2008, các ngân hàng thương mại phải hoàn thành xây dựng và chính thức áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo điều 7 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên đến thời điểm này, chỉ có Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chính thức phân loại nợ theo sát chuẩn mực quốc tế này. Sự chậm trễ của các ngân hàng khác, không hoàn toàn nằm ở vấn đề kỹ thuật mà có liên quan tới một chủ đề tế nhị khác, đó là nợ xấu. Nếu thực hiện phân loại khách hàng và nợ theo điều 7, nợ xấu của ngân hàng lên tới 2 – 3 lần, dẫn đến các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn, lợi nhuận giảm. Với BIDV, khi chính thức phân loại nợ theo điều 7, nợ xấu của ngân hàng lên tới 31%, phải mất 2 năm quyết liệt nhằm lành mạnh tài chính với con số trích lập dự phòng 3.500 tỷ đồng thì nợ xấu của BIDV mới còn 2.77%, tức là nằm trong mức an toàn 5% theo thông lệ quốc tế. BIDV là ngân hàng đi đầu trong việc minh bạch nợ xấu. Trước hết đó là quyết tâm đổi mới của BIDV. Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, BIDV sớm nhận thấy việc Việt Nam trước sau cũng vào một sân chơi WTO và phải tuân theo luật chơi chung. Do đó, nhân tố công khai, minh bạch trở thành yếu tố bắt buộc. Mặt khác, là một tổ chức tín dụng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, BIDV tuyệt đối tuân thủ các quy định của Ngân hàng nhà nước. 2.2.1. Tình hình nợ xấu Trong thời gian qua, dư nợ tín dụng của SGD đều tăng trưởng nhanh chóng và Sở cũng áp dụng một loạt biện pháp nhằm đảm bảo an toàn cho từng khoản vay, được thể hiện qua bảng 2.5. Bảng 2.5. Tình hình nợ xấu 2007 - 2008 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Giá trị Giá trị % TT Giá trị % TT 1. Tổng dư nợ 5,000,752 5,099,321 2 5,807,045 14 2. Nợ xấu 185,027.8 178,476 96.5 145,756.83 95 - Nợ dưới tiêu chuẩn 156,209.8 154,004.49 141,596.83 - Nợ nghi ngờ 1,743 502.51 0 - Nợ không thu hồi được 27,075 23,969 4,160 3. Nợ không thu hồi được/ Tổng dư nợ 0.0054 0.0047 0.0007 4. Nợ xấu/ Tổng dư nợ 3.7% 3.5% 95% 2.51% 71.7% 5. Trích lập DPRR 41092 30,000 71,270 6. DPRR/ Nợ xấu 0.222 0.168 0.489 7. DPRR/ Tổng dư nợ 0.0082 0.0059 0.0123 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu tín dụng của Sở giao dịch năm 2007 - 2008 Là một đơn vị có dư nợ lớn trong hệ thống BIDV, trong hoạt động tín dụng Sở giao dịch thực hiện phương châm tăng trưởng ổn định, bền vững, tăng trưởng đi kèm với kiểm soát và bảo đảm chất lượng tín dụng. Dư nợ tín dụng năm 2008 đạt 5,807,045 triệu đồng, tăng 14% so với dư nợ năm 2007. Qua việc lập kế hoạch giải ngân, thu nợ hàng tháng, hàng quý đối với từng khách hàng, từng dự án, SGD đã thực hiện tốt việc kiểm soát chặt chẽ giới hạn tín dụng theo đúng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (H.O). Dư nợ tín dụng tại Sở Giao dịch năm 2008 tập trung chủ yếu ở một số khách hàng lớn, thường xuyên phát sinh dư nợ trong năm như Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, BQLDA Nhiệt điện 1, Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, CN Công ty TNHH SX KD Bình Minh, Công ty CP Vận tải Xăng dầu Vitaco…Những khách hàng nói trên đều là những khách hàng thuộc Nhóm nợ 1, có uy tín trong quan hệ với SGD, mang lại hiệu quả cao cho Ngân hàng. Bảng 2.6. Các doanh nghiệp thuộc nhóm nợ 3,4,5 trong năm 2008 Đơn vị: Triệu đồng Nhóm nợ Tên doanh nghiệp Năm 2008 Nhóm 3 Cty TNHH NN một thành viên Dệt 8/3 10,888 Cty CP Lilama Hà Nội 112,456 Cty Cp XD và lắp máy điện nước số 3 15,426.83 Cty CP dệt may Hoàng Lâm 2396 Trần Hữu Nam 430 141,596.83 Nhóm 5 Cty CP XD công trình giao thông 810 3,460 Ông Lê Ngọc Tuấn - Cty CP XD công trình giao thông 246 700 4.160 Tổng nợ xấu 145,756.83 Nợ xấu/ Tổng dư nợ 2.51 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu tín dụng của Sở giao dịch năm 2008 Tổng nợ xấu nhìn chung đều có xu hướng giảm qua các năm nhưng tốc độ giảm không lớn. Tổng nợ xấu năm 2008 đạt 145,756.83 triệu đồng, bằng 95% dư nợ xấu năm 2007. Dư nợ xấu giảm ít là do Sở Giao dịch tiếp tục cho vay hỗ trợ vốn ngắn hạn đối với Công ty TNHH NN MTV Dệt 8/3 và Công ty CP XD Công trình Giao thông 810. Dư nợ nhóm 5 phát sinh 700 triệu đồng của Công ty CP XD Công trình Giao thông 246 do Sở Giao dịch thực hiện phát vay bắt buộc để thực hiện cam kết bảo lãnh đối với doanh nghiệp. Tổng dư nợ xấu theo của SGD năm 2008 chiếm 145,756.83 triệu đồng; tương ứng với 2,51% tổng dư nợ và hoàn thành KHKD năm 2008 do Hội sở chính giao. So với năm 2007, nợ xấu của SGD giảm tới 33 tỷ đồng (giảm khoảng 5%) và tỷ lệ nợ xấu giảm đáng kể từ 3.5% năm 2007 xuống còn 2.51% năm 2008. Điều này cho thấy SGD luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng theo tinh thần chỉ đạo của Hội sở chính, đồng thời SGD đã có những chính sách kiểm soát hợp lý, chặt chẽ trong hoạt động tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và đảm bảo tỷ lệ dư nợ xấu/ tổng dư nợ nằm trong mức giới hạn cho phép và an toàn. Bảng 2.7. Tỷ trọng nợ xấu 2008 – 2009 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Nợ xấu 185,027.8 100 178,476 100 145,756.83 100 - Nợ dưới tiêu chuẩn 156,209.8 84.4 154,004.49 86 141,596.83 97 - Nợ nghi ngờ 1,743 1 502.51 0.6 0 0 - Nợ không thu hồi được 27,075 14.6 23,969 13.4 4,160 3 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu tín dụng của Sở giao dịch năm 2007 – 2008 Trong các khoản nợ xấu, thì nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm 97% trong năm 2008, chiếm 86% trong năm 2007. Nợ không thu hồi được chiếm một tỷ lệ nhỏ, chiếm 3% trong năm.2008. Còn nợ nghi ngờ thì chiếm tỷ lệ rất nhỏ và không có trong năm 2008 Nợ không thu hồi được giảm qua các năm và giảm mạnh nhất vào năm 2008, chỉ còn 3%, đó là một thành công rất lớn của Sở giao dịch. Tỷ lệ nợ không thu hồi được/ Tổng dư nợ giảm dần qua các năm và giảm mạnh vào năm 2008, xuống còn 0.07%. Tổng dư nợ tăng trưởng nhanh nhưng nợ không thu hồi được giảm mạnh, điều này chứng tỏ Sở giao dịch đã quán triệt đầy đủ, chính xác và kịp thời chính sách tín dụng tới các phòng, ban, tới các cán bộ nhân viên. Tỷ lệ nợ không thu hồi giảm rõ rệt, doanh thu từ tín dụng được nâng cao, các khoản vay đã được thẩm định một cách kỹ càng, đúng đắn, quá trình theo dõi các khoản vay đã được triển khai hiệu quả. 2.2.2. Tình hình quản lý nợ xấu tại SGD I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 2.2.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh - Hoàn thiện quy trình phân tích tín dụng. Để chuẩn hóa quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, Sở giao dịch ngày càng hoàn thiện quy trình phân tích tín dụng, góp phần hạn chế nợ xấu phát sinh. Đó là các bước mà cán bộ tín dụng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng, bao gồm: Bước 1: phân tích trước khi cấp tín dụng, nội dung là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng. Hồ sơ mà khách hàng cần lập bao gồm: + Hồ sơ pháp lý: Các tài liệu chứng minh năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự của khách hàng, bao gồm bản sao có công chứng các giấy tờ sau: ( Bản sao công chứng nhà nước) Quyết định thành lập (nếu có); Giấy đăng ký kinh doanh; Giấy phép hành nghề (nếu có); Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp (nếu có); Điều lệ hoạt động (nếu có); Quyết định bổ nhiệm người điều hành, kế toán trưởng; Giấy chứng nhận phần góp vốn của từng thành viên (đối với khách hàng hoạt động theo luật DN). Giấy phép đầu tư và Hợp đồng liên doanh (đối với doanh nghiệp liên doanh) hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Biên bản họp của Hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần, công ty liên doanh…) hoặc văn bản uỷ quyền của các thành viên góp vốn (đối với Công ty TNHH, Công ty hợp danh …) về việc uỷ quyền người đại diện hợp pháp thực hiện các quan hệ giao dịch với BIDV: vay nợ, cầm cố, thế chấp… (nội dung uỷ quyền phải ghi rõ ràng, cụ thể). Có vốn điều lệ theo qui định. CMND của người đại diện vay vốn. Đăng ký mã số thuế Các văn bản khác theo quy định của pháp luật (nếu có) +  Hồ sơ khoản vay: Hồ sơ, Phương án, dự án vay vốn, trong đó nêu rõ: Đơn đề nghị vay vốn. Mục đích sử dụng vốn vay; Giải trình hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án; Kế hoạch trả nợ gốc, lãi (nêu rõ nguồn trả nợ, thời gian hoặc kỳ hạn trả nợ); Các tài liệu phản ánh tình hình kinh doanh và khả năng tài chính đến trước thời điểm xin vay vốn của khách hàng và của người bảo lãnh (nếu có), cụ thể: Các báo cáo về hoạt động sản xuất kinh doanh; Báo cáo tài chính (03 năm gần nhất và báo cáo nhanh trong thời gian từ đầu năm tài chính đến thời điểm vay vốn); Các thuyết minh báo cáo tài chính về tình hình vay nợ, tồn kho, phải thu, phải trả, tăng giảm tài sản cố định; Các tài liệu khác (nếu có) liên quan đến tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh. Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng. Nếu như ngân hàng đồng ý cung cấp một khoản tín dụng cho khách hàng sau khi đã tiến hành phân tích khách hàng thì hai bên cùng kí kết hợp đồng. Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng. Sau khi hợp đồng tín dụng đã được kí kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng theo dõi, kiểm tra khách hàng. Bước 4: Thu nợ và đưa ra các phán quyết tín dụng mới. Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Việc xem xét, đánh giá khách hàng có ý nghĩa quan trọng giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các phán quyết mới liên quan tới tính an toàn của khoản tín dụng. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng, Sở giao dịch đã thực hiện quy trình tín dụng nhanh gọn, tiết kiệm chí phí nhưng vẫn đảm bảo chất lượng của các khoản vay, hạn chế rủi ro phát sinh. Sở giao dịch cũng phân tích về các rủi ro có thể đến từ phía khách hàng. Bên cạnh chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng nhằm làm hạn chế rủi ro, hạn chế nợ xấu, Sở giao dịch còn xây dựng quy chế kiểm tra, phân định trách nhiệm và quyền hạn, khen thưởng và kỷ luật đối với các nhân viên tín dụng. - Để mở rộng tín dụng một cách hiệu quả, Sở giao dịch bên cạnh xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng đúng đắn, quy trình tín dụng ngày càng hoàn thiện, phải không ngừng đa dạng hóa các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Trong những năm qua, với vai trò là ngân hàng chủ lực phục vụ đầu tư phát triển và đội ngũ cán bộ tín dụng, thẩm định có uy tín, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam luôn được đánh giá là Ngân hàng có thế mạnh trong hoạt động tín dụng trong số các ngân hàng thương mại Việt Nam. Với mục tiêu phục vụ tốt nhất mọi đối tượng khách hàng, hiện nay BIDV đã và đang triển khai nhiều loại sản phẩm tín dụng, áp dụng rộng rãi cho cả khách hàng là cá nhân, các tổ chức KTXH cũng như các định chế tài chính. Nhằm đáp ứng các nhu cầu cụ thể về vốn của khách hàng, BIDV luôn nghiên cứu, không ngừng đổi mới và đa dạng hoá các phương thức cho vay. Với khách hàng doanh nghiệp: Cho vay ngắn hạn theo món, Vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, Cho vay ngắn hạn theo hạn mức, Cho vay theo dự án đầu tư, Cho vay hợp vốn, Cho vay theo hạn mức thấu chi, Các phương thức cho vay khác. Với khách hàng cá nhân: Cho vay từng lần, Cho vay trả góp, Cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, Cho vay theo hạn mức, Các loại hình cho vay bán lẻ khác . Mở rộng tín dụng không đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn tín dụng, kiểm soát lỏng lẻo… làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch. - Tiến hành phân loại khách hàng, chấm điểm khách hàng. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV gồm 3 phần: Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng là tổ chức kinh tế (doanh nghiệp); Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng là cá nhân và hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng là tổ chức tín dụng. Trong đó, cấu phần hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng là tổ chức kinh tế là cốt lõi bởi đây là đối tượng khách hàng có tổng dư nợ chiếm tỷ trọng lớn nhất. BIDV thực hiện xếp hạng với mỗi khách hàng doanh nghiệp thông qua việc chấm điểm 14 chỉ tiêu tài chính và phi tài chính có tính đến các yếu tố ảnh hưởng như: quy mô hoạt động; ngành nghề hoạt động; loại hình sở hữu của khách hàng… Tuỳ theo tổng số điểm đạt được mà mỗi khách hàng sẽ được phân vào một trong 10 nhóm hạng tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau. 2.2.2.2. Xử lý nợ xấu phát sinh - Tiến hành cơ cấu lại nợ Căn cứ vào thực trạng và khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp khó khăn tạm thời về tài chính nhưng vẫn kiên quyết tìm giải pháp vượt qua, vẫn có thiện ý trả nợ ngân hàng, SGD được cơ cấu lại nợ bằng nhiều hình thức thích hợp như giãn nợ, miễn giảm lãi suất hoặc cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư thêm. Cụ thể, trong tháng 12/2008, SGD đã miễn toàn bộ nợ lãi đối với Ông Lê Ngọc Tuấn. - Thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (BAMC) BAMC được thành lập theo quyết định số 57/QĐ-HĐQT ngày 05/12/2001, là một đơn vị hạch toán độc lập với nhiệm vụ bao gồm tiếp nhận, quản lý các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng và các tài sản đảm bảo nợ vay khác có liên quan đến khoản nợ tồn đọng của Sở giao dịch để xử lý; bán trực tiếp các tài sản được giao xử lý để thu hồi nợ theo giá trị thị trường. BAMC là công ty độc lập trực thuộc BIDV, thành lập theo Luật các TCTD và các quy định của Chính phủ. BAMC hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà để xử lý nợ và tài sản tồn đọng. Công ty được hưởng các ưu đãi về thuế, các điều kiện đặc biệt trong việc khai thác, chuyển nhượng tài sản. BAMC được chủ động xử lý tài sản đảm bảo nợ vay bằng biện pháp thích hợp theo quy định của pháp luật như: cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác kinh doanh, góp vốn… để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật và theo sự ủy thác, thỏa thuận của BIDV. Với việc chuyển giao các khoản nợ tồn đọng sang AMC để tiếp tục xử lý thu hồi nợ, Sở giao dịch có thể tập trung cho các hoạt động kinh doanh của mình mà vẫn yên tâm rằng khoản nợ xấu đã chuyển giao vẫn được tiếp tục xử lý, thu hồi tối đa dư nợ. Đồng thời, với chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động đặc thù của mình theo quy định của pháp luật cũng như với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong lĩnh vực xử lý nợ, AMC có thể chủ động áp dụng các giải pháp xử lý nợ xấu một cách linh hoạt, thời gian xử lý nợ được rút ngắn. - Thành lập phòng quản trị tín dụng Hoàn thiện hồ sơ cấp tín dụng, bảo lãnh, thế chấp từ các phòng liên quan. Kiểm tra, rà soát tính đúng đắn, chính xác của hồ sơ tín dụng theo quy định; Tiếp nhận từ phòng quan hệ khách hàng hồ sơ giải ngân tín dụng, cấp bảo lãnh và kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp các điều kiện giải ngân, cấp bảo lãnh so với nội dung hợp đồng đã kí; Lập tờ trình giải ngân, cấp bảo lãnh lên cấp trên có thẩm quyền phê duyệt; Quản lý kế hoạch giải ngân, thông báo các khoản nợ đến hạn cho phòng Quan hệ khách hàng; lập đề nghị thu nợ; giám sát việc thực hiện hợp đồng; Theo dõi diễn biễn của các khoản tín dụng, phát hiện và xử lý rủi ro. Một khi nợ xấu xuất hiện, phòng quản trị tín dụng triển khai các biện pháp nhằm mục đích thu hồi vốn từ khách hàng vay. Nhờ có hoạt động của phòng quản trị tín dụng mà dư nợ xấu giảm đi đáng kể. - Thành lập phòng quản lý rủi ro 1 và 2 Nhiệm vụ của Phòng quản lý rủi ro 1 là tham mưu, đề xuất chính sách, biện pháp phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Phân tích, đánh giá rủi ro đối với danh mục tín dụng; Đề xuất trình lãnh đạo phê duyệt và kiểm tra, giám sát về cơ cấu, giới hạn tín dụng cho từng ngành, từng nhóm, từng khách hàng. Giảm nợ xấu, cơ cấu lại khoản vay cho khách hàng; Phân loại rủi ro, trích lập dự phòng và các biện pháp hạn chế rủi ro. Đánh giá tài sản đảm bảo theo định kỳ và theo quy định của BIDV. Nhiệm vụ của Phòng quản lý rủi ro 2 là đề xuất, triển khai các biện pháp hạn chế rủi ro tác nghiệp trong các khâu nghiệp vụ; Hỗ trợ các phòng nghiệp vụ độc lập và phối hợp phát hiện, đánh giá rủi ro tác nghiệp của các phòng, các sản phẩm đã có hoặc sắp có; Áp dụng hệ thống quản lý, đo lường rủi ro tác nghiệp và đề xuất các biện pháp hạn chế rủi ro phát hiện được; Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về rủi ro tác nghiệp tại Sở giao dịch.Xây dựng và tổ chức thực hiện tự kiểm tra, kiểm soát nội bộ về việc thực hiện các nghiệp vu. Hoạt động của phòng quản lý rủi ro 1 và 2 nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng. Các khoản vay, khách hàng vay, dự án vay được thẩm định kỹ càng, đảm bảo khả năng thu hồi gốc và lãi của ngân hàng, xử lý nợ xấu phát sinh làm giảm dư nợ xấu trong tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu vẫn trong tỷ lệ chấp nhận được, từ 2% – 5%, làm lành mạnh tình hình tài chính của SGD. - Xây dựng quy trình xử lý tài sản đảm bảo Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của các bên; nếu không có thoả thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Riêng đối với tài sản bảo đảm có thế xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường (trừ quyền sử dụng đất) thì tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác (nếu có). Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm; nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận được thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Các phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thoả thuận, bao gồm: Bán tài sản (Bên bảo đảm trực tiếp bán tài sản cho người mua, BIDV trực tiếp bán tài sản cho người mua, Bán thông qua tổ chức đấu giá); BIDV nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Trong trường hợp này, việc quyết định nhận tài sản để sử dụng thay thế thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện theo thủ tục mua tài sản của BIDV; BIDV nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ: người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, Công ty bảo hiểm trong trường hợp thế chấp quyền thụ hưởng tiền bảo hiểm nhân thọ, hoặc từ bên thứ ba có nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo đảm. Trong trường hợp này, vẫn phải thoả thuận và có cam kết bằng văn bản của bên bảo đảm về quyền truy đòi lại bên bảo đảm nếu không thu hoặc thu không đủ từ bên thứ ba vì bất kỳ lý do nào. Việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện một cách khách quan, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định của pháp luật. - Xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro BIDV là ngân hàng đầu tiên thực hiện chính sách trích lập dự phòng rủi ro theo Điều 7 từ quý IV năm 2006. Theo đó, đối với nợ nhóm 1 là 0%; nợ nhóm 2 là 5%; Nợ nhóm 3 là 20%; Nợ nhóm 4 là 50%; Nợ nhóm 5 là 100%. Ngân hàng được sử dụng quỹ DPRR để xử lý rủi ro trong các trường hợp sau: Khi khách hàng là các tổ chức bị phá sản, giải thể và đã hoàn thành việc thanh toán tài sản. Mức xử lý rủi ro bằng mức tổn thất sau khi thanh lý tài sản của tổ chức bị phá sản, giải thể. Tổn thất do nguyên nhân khách quan trong khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán; trong quản lý về dự trữ  ngoại hối, dự trữ vàng, tiền gửi ngoại tề tại các Ngân hàng nước ngoài do những nguyên nhân bất khả kháng như: Đất nước nơi Ngân hàng Nhà nước gửi tiền bị chiến tranh, khủng bố, phá sản, thiên tai; Trong công tác kiểm ngân và kho quỹ. Các khoản tổn thất không có khả năng thu hồi khác như: Các khoản cá nhân, tổ chức phải bồi hoàn theo kết luận của các cơ quan pháp luật, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước nhưng sau khi đương sự đã thực hiện việc bồi hoàn vẫn không có khả năng bồi hoàn đủ theo kết luận. Những khoản nợ vay của khách hàng được Chính phủ cho phép xóa nợ nhưng không được Chính phủ cấp nguồn để bù đắp và chưa được sử dụng dự phòng để xử lý. 2.3. Đánh giá công tác quản lý nợ xấu tại Sở giao dịch I – BIDV 2.3.1. Thành tựu Tổng số nợ xấu đã được xử lý là 64,546 triệu đồng, bao gồm cả gốc lẫn lãi, được H.O đánh giá cao. Bảng 2.8. Kết quả xử lý nợ xấu của SGD Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Thu nợ lũy kế từ đầu năm 2008 Gốc Lãi Tổng cộng 10,546 54 1 Nợ thương mại 8,766 54 Trước năm 2007 2,891 0 Trong năm 2007 5,876 0 Trong năm 2008 0 0 2 Nợ KHNN 1,780 0 Trước năm 2007 0 0 Trong năm 2007 1,780 0 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu tín dụng của Sở giao dịch năm 2007 – 2008 - SGD đã thành công trong việc xử lý và thu hồi nợ xấu do tình hình kinh doanh của năm 2007 và trước đó để lại. Đặc biệt, SGD đã thu hồi được 5,876 triệu đồng dư nợ thương mại còn tồn tại trong năm 2007 và 1,780 dư nợ KHNN còn tồn đọng trong năm 2007. SGD đã triển khai các biện pháp thu nợ dựa vào những chủ trương sáng suốt và linh hoạt, cùng với sự giúp đỡ của NHNN và các cơ quan có thẩm quyền nên công tác thu hồi nợ đạt được những kết quả nhất định. - Trích và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro Bảng 2.9. Số dư quỹ DPRR 2008 -2009 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 31.12.2008 DPRR 240,336.468,483 -DPRR chung 140,886.761,921 - DPRR cụ thể 99,449.706,562 Nguồn: Báo cáo một số chỉ tiêu tín dụng của Sở giao dịch năm 2007 – 2008 Với mục tiêu nâng cao tính an toàn trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, trong thời gian qua, SGD đã tích cực trích lập DPRR từ nguồn lợi nhuận hàng năm. SGD đã xây dựng cơ chế trích lập và sử dụng quỹ DPRR theo hướng chủ động, linh hoạt và phù hợp với thông lệ chuẩn mực quốc tế. Tỷ lệ DPRR/ Tổng dư nợ qua 3 năm gần đây giảm vào năm 2007 còn 0.59% nhưng lại tăng vào năm 2008 lên 1.23% do trong năm 2008 dư nợ tín dụng tăng tới 14% và số DPRR lên tới 71,270 triệu đồng, cao nhất trong 3 năm qua, tăng tính an toàn của hệ thống ngân hàng. Chỉ tính riêng trong tháng 12 năm 2008, SGD thực hiện trích thêm 3.238 triệu đồng DPRR, sử dụng quỹ DPRR 56 triệu đồng để xử lý nợ Ông Lê Ngọc Tuấn. - Công tác quản trị rủi ro tín dụng được nâng cao. Là một đơn vị có dư nợ lớn trong hệ thống NHĐT&PTVN, trong hoạt động tín dụng Sở giao dịch thực hiện phương châm tăng trưởng ổn định, bền vững, tăng trưởng đi kèm với kiểm soát và bảo đảm chất lượng tín dụng. Qua việc lập kế hoạch giải ngân, thu nợ hàng tháng, hàng quý đối với từng khách hàng, từng dự án, SGD đã thực hiện tốt việc kiểm soát chặt chẽ giới hạn tín dụng theo đúng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (H.O). Công tác quản trị rủi ro tín dụng đã làm giảm đáng kể dư nợ xấu trong tổng dư nợ của SGD, góp phần tăng lợi nhuận, tăng uy tín cho Sở trong hệ thống cũng như trên thị trường ngân hàng Việt Nam. Với kết quả xử lý nợ xấu như trên đã góp phần làm trong sạch bảng cân đối kế toán, nâng cao năng lực tài chính và lành mạnh hóa tài chính. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác quản lý nợ xấu còn chưa được đáp ứng tốt so với khả năng của SGD, cụ thể: - Chất lượng hoạt động tín dụng chưa cao. Mặc dù các khoản tín dụng đã được chuẩn hóa theo quy trình phân tích và chính sách tín dụng, nhưng vẫn còn những khoản tín dụng chưa đạt hiệu quả cao. Tín dụng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng quá trình thẩm định, phân tích khách hàng vay, dự án vay dựa trên những hồ sơ mà khách hàng cung cấp thiếu sự xác nhận từ nguồn thông tin khác, nội dung thẩm định còn chưa toàn diện, chưa chính xác làm giảm hiệu quả thẩm định, khả năng phân tích ngành nghề kinh tế, tác động xã hội còn hạn chế. - Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn chưa hiệu quả. Hệ thống còn chưa được thống nhất trong các phòng ban của Sở giao dịch, chưa tạo được sự nhất trí cao trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.  - Hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (BAMC) còn nhiều hạn chế. Các nghiệp vụ xử lý nợ của BMAC cũng còn rất hạn chế, chưa thực sự được chủ động trong công tác thu hồi nợ, chưa có đầy đủ các chức năng nghiệp vụ của một công ty chuyên về xử lý nợ như ở các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Như vậy đến năm 2008, tổng dư nợ xấu thu được của Sở Giao dịch là 10.546 triệu đồng, chỉ hoàn thành 67,17% kế hoạch HO giao. Thu nợ xấu chưa đạt được kế hoạch giao ngoài hiệu quả hoạt động của BAMC còn do những diễn biến xấu của nền kinh tế đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vốn đã có tình hình tài chính yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của Sở Giao dịch. Kết quả xử lý nợ như vậy thực sự còn rất hạn chế, không đáp ứng kế hoạch được giao. Mặt khác, sự phối hợp giữa các phòng ban với BAMC còn một số hạn chế nhất định. Đây là nguyên nhân dẫn đến các phòng ban chức năng tại SGD bị hạn chế trong quản lý, điều hành, nắm bắt tình hình xử lý nợ của BAMC. Và BAMC cũng gặp khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin cũng như sự tư vấn từ các phòng ban có liên quan tại SGD về các khoản nợ mà công ty nhận xử lý. - Việc áp dụng các biện pháp xử lý nợ xấu chưa thực sự đa dạng. Biện pháp chủ yếu để xử lý nợ xấu được BIDV sử dụng hiện nay là đẩy mạnh thu hồi nợ trực tiếp, cơ cấu lại con nợ, xử lý tài sản đảm bảo, dùng quỹ dự phòng rủi ro, dùng các biện pháp pháp lý và nguồn chính phủ xử lý. Sở giao dịch chưa triển khai được nhiều biện pháp thu hồi nợ xấu, làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận hoạt động kinh doanh. Ngoài các biện pháp truyền thống, cần phải có các biện pháp xử lý, tái cơ cấu các khoản nợ, tái cơ cấu các doanh nghiệp để họ có thể hoạt động hiệu quả hơn, từ đó ngân hàng có thể đẩy mạnh công tác thu hồi nợ xấu. - Về việc xử lý tài sản đảm bảo nợ vay để thu hồi nợ. Các văn bản liên quan tới nợ xấu còn chưa cụ thể, chồng chéo do đó ngân hàng chưa chủ động được trong xử lý tài sản đảm bảo. Xử lý tài sản cũng là một trở ngại với ngân hàng khi họ chưa được tự phát mại tài sản, nhất là khi khách hàng không hợp tác và nhiều khi cơ quan chức năng không hỗ trợ hiệu quả. Hay khi bán tài sản trên đất của doanh nghiệp nhà nước, giá trị quyền sử dụng đất thường bị chính quyền địa phương thu vào ngân sách nhà nước, không dùng để trả ngân hàng. 2.3.2.2. Nguyên nhân 2.3.2.2.1. Nguyên nhân chủ quan - Công tác quản lý tín dụng yếu kém của ngân hàng: Sự quản lý điều hành yếu kém của ngân hàng thể hiện trong một số nội dung như: chậm điều chỉnh, ban hành mới các cơ chế, chính sách phù hợp; chỉ đạo nghiệp vụ không sâu sát, kịp thời; không có các chính sách phòng ngừa rủi ro hoặc có nhưng không hoàn thiện. Nợ xấu có thể phát sinh từ tất cả các khâu trong quá trình cấp tín dụng của NHTM bao gồm: giai đoạn trước khi cho vay, giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý vay của khách hàng. Ở giai đoạn trước khi cho vay, việc không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng, điều kiện cho vay, xem xét, đánh giá khách hàng, khoản vay không kỹ, không tốt sẽ dẫn đến phát sinh nợ xấu trong tương lai. Ở giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vay: Giải ngân không tuân thủ theo quy định tín dụng; yếu kém trong khâu kiểm soát, theo dõi (không kiểm soát hoặc kiểm soát không chặt chẽ mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, việc kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng bị buông lỏng, việc kiểm soát, theo dõi danh mục khoản vay không được thực thi một cách có hiệu quả) sẽ dẫn đến khả năng phát sinh nợ xấu trong tương lai. - Quy trình nghiệp vụ ngân hàng còn thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ Do quy trình nghiệp vụ thiếu chặt chẽ dẫn đến việc khách hàng lợi dụng, lừa đảo, chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Chính sách cho vay không phù hợp với đặc điểm thực trạng nền kinh tế có thể dẫn đến hậu quả tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Ngoài ra sự chậm trễ trong việc sửa đổi các quy trình tín dụng chưa hoặc không còn phù hợp với điều kiện thực tế cũng làm cho ngân hàng gặp phải khó khăn khi phải xử lý tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Quy trình tín dụng lỏng lẻo, không chặt chẽ, không thống nhất sẽ tạo điều kiện được cấp tín dụng cho những khách hàng không có khả năng trả nợ, cho những dự án không có khả năng thu hồi vốn hoặc thu hồi vốn lâu, quá hạn trả nợ ngân hàng. Quy trình lỏng lẻo cũng tạo điều kiện cho chính những nhân viên tín dụng có thể mưu lợi riêng, gây thiệt hại cho ngân hàng. Với chính sách mở rộng tín dụng để chiếm lĩnh thị phần, các NHTM có thể đơn giản hóa các thủ tục cho vay, hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, tìm cách lách rào kiểm soát, thông tin sai lệch… nên dễ gặp phải rủi ro. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số NHTMCP đã coi đây là một giải pháp để thu hút khách hàng. Quy trình tín dụng phải được xây dựng và thống nhất trong toàn NHTM, tránh tiện, duy ý chí. Quy trình này phải được Ban lãnh đạo ngân hàng thông qua phổ biến đến các phòng có liên quan cũng như các cán bộ tín dụng. Và được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung. Mỗi phòng chức năng trong ngân hàng cũng như cán bộ ngân hàng cần biết mình phải làm gì, đến mức nào. - Trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng ngân hàng còn nhiều hạn chế. Nhân viên tín dụng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, am hiểu lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan tới người vay, quan tâm thích đáng tới chu kì kinh doanh của người vay … Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng, rủi ro luôn rình rập họ. Đạo đức nghề nghiệp của nhân viên tín dụng cũng là một trong những yếu tố làm tăng các khoản nợ xấu. Nhân viên tín dụng cố tình làm sai quy định, tham ô để mưu lợi riêng làm tổn hại đến lợi ích của ngân hàng. Nhân viên tín dụng là người xem xét, đánh giá trực tiếp các phương án, dự án của doanh nghiệp. Nếu quy trình nghiệp vụ cho vay lỏng lẻo, dễ dàng thì nguy cơ lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi cá nhân là cao. Điều đó làm cho nợ xấu tăng cao, làm tổn thất cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do khối lượng công việc công việc nhiều, số lượng khách hàng lớn nên cán bộ tín dụng ít có thời gian đi thực tế khách hàng, do đó không thể nắm bắt kịp thời tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng, dẫn đến chậm phản ứng khi khách hàng gặp phải những tình huống bất ngờ, xảy ra rủi ro thì đã muộn. - Cơ cấu cho vay không hợp lý Một thực tế là nguồn lợi nhuận của các NHTM Việt nam chủ yếu vẫn là thu nhập từ mảng tín dụng. Dư nợ cho vay chiếm 60% - 80% tổng tài sản có của NHTM. Trong đó, tín dụng ngắn hạn chiếm trên 70% tổng dư nợ nên rủi ro rất cao. Nguồn lợi nhuận từ dịch vụ ngân hàng chỉ chiếm 20% - 30%. Việc quản lý tín dụng vẫn theo kiểu tryền thống quá chú trọng vào tài sản đảm bảo là bất động sản nhà đất trong khi thị trường bất động sản Việt Nam mới chỉ trong giai đoạn hình thành, diễn biễn thất thường chứa nhiều bất ổn. Việc định giá bất động sản không chính xác, quá cao so với giá trị thực tế trên thị trường sẽ rất khó chuyển nhượng. Thêm vào đó, trường hợp hồ sơ pháp lý liên quan không rõ ràng hay thị trường bất động sản đóng băng sẽ gặp rủi ro lớn trong quá trình xử lý nợ. 2.3.3.2. Nhân tố khách quan - Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu Từ tình trạng phát triển bong bóng trong thị trường nhà đất Mỹ, cuộc khủng hoảng tín dụng địa ốc đã nổ ra, rồi sau đó lan rộng thành khủng hoảng tài chính. Sự kiện ngân hàng Lehman Brothers của Mỹ sụp đổ hồi trung tuần tháng 9.2008 như cú vỡ của một khối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6015.DOC