Tài liệu Đề tài Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam: Phần một
Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản trong quá trình phát triển kinh tế việt nam
I- Vai trò của ngành thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Chúng ta biết, từ "thuỷ sản" xuất hiện từ lâu, từ khi ông cha ta mới sinh ra chưa biết là cái gì, nhưng nó có thể đánh bắt giúp con người tồn tại, dù dưới hình thức này hay hình thức khác. Ngày nay, nguồn thuỷ sản có vai trò rất quan trọng, không những phục vụ nhu cầu sinh hoạt trong nước, mà chúng ta còn áp dụng công nghệ hiện đại để chế biến xuất khẩu sang thị trường thế giới. Vì vậy, thuỷ sản có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong điều kiện nước ta có điều kiện tự nhiên phát triển thuỷ sản xuất khẩu, thúc đẩy ngành khác phát triển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
1- Vai trò xuất khẩu, sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động xuất khẩu không thể thiếu được đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nó đóng góp mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước đó. Các ...
64 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1107 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần một
Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản trong quá trình phát triển kinh tế việt nam
I- Vai trò của ngành thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Chúng ta biết, từ "thuỷ sản" xuất hiện từ lâu, từ khi ông cha ta mới sinh ra chưa biết là cái gì, nhưng nó có thể đánh bắt giúp con người tồn tại, dù dưới hình thức này hay hình thức khác. Ngày nay, nguồn thuỷ sản có vai trò rất quan trọng, không những phục vụ nhu cầu sinh hoạt trong nước, mà chúng ta còn áp dụng công nghệ hiện đại để chế biến xuất khẩu sang thị trường thế giới. Vì vậy, thuỷ sản có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong điều kiện nước ta có điều kiện tự nhiên phát triển thuỷ sản xuất khẩu, thúc đẩy ngành khác phát triển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
1- Vai trò xuất khẩu, sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động xuất khẩu không thể thiếu được đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nó đóng góp mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước đó. Các hoạt động xuất khẩu phản ánh mối quan hệ xã hội giữa các quốc gia này với các quốc gia khác. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, quan hệ giữa các tổ chức hay những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Ngoài ra thông qua xuất khẩu chúng ta tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách, kích thích và đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.
Đối với nước ta, trình độ phát triển còn thấp, những yếu tố vốn, kỹ thuật, trình độ quản lý còn yếu, vì vậy xuất khẩu là chiến lược rất cần thiết để chúng ta có điều đó vào trong nước,nâng cao trình độ những yếu tố đó. Đẩy mạnh phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn tới.
Cần nâng cao hiệu quả của kinh doanh xuất khẩu, mở rộng ngoại thương trên cơ sở "hợp tác bình đẳng, không phân biệt thể chế chính trị xã hội, đôi bên cùng có lợi" như Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã khẳng định.
Đối với quốc gia xuất khẩu như nước ta, hoạt động xuất khẩu có vai trò sau:
* Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đó là những kết quả của những thành tựu khoa học công nghệ, công nghiệp hiện đại. Chuyển dịch cơ cấu ấy phù hợp với mỗi quốc gia khác nhau, phù hợp với xu hướng tất yếu của thời đại.
Thường chúng ta có cái nhìn khác nhau về xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Một là: Do tiêu dùng trong nội địa những sản phẩm không hết thì mang chúng ra thị trường nước ngoài bán, tạo điều kiện tiêu thụ được sản phẩm trong nước. Nhưng ở nước ta, trong điều kiện ngành kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển. Việc sản xuất để phục vụ bản thân chưa đủ, nên chúng ta không nói gì việc thừa ra để xuất khẩu.
Hai là: Chính phủ mỗi nước có chiến lược hướng ngoại hay hướng xuất khẩu là chủ yếu. Tạo điều kiện thông qua chất lượng hướng ngoại thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đó là quan điểm tích cực nhiều nước NICs đã áp dụng chiến lược này và thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Cụ thể là: Chúng ta thực hiện việc xuất khẩu, nó tạo đà, động lực cho các ngành khác phát triển. Như sự phát triển xuất khẩu thuỷ sản thì công nghệ ngành này phát triển, trên cơ sở đó công nghệ cũng được ưng dụng sang ngành khác như: gạo, ca phê..
Xuất khẩu chúng ta ngày càng xu có xu hướng nâng cao hiệu quả ngành xuất khẩu: như chất lượng, giá cả hay quan hệ kinh tế.
Xuất khẩu nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các ngành trong nước và trên thế giới, vì vậy tạo sự chuyển dịch giữa các ngành nhanh hơn.
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Khi xuất khẩu phát triển thì công nghệ, kỹ thuật từ thế giới bên ngoài chảy vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, đó là làm sự chuyển dịch cơ cấu nhanh nhất giữa các ngành.
Như vậy, thông qua hoạt động xuất khẩu thì hàng hoá của đất nước, phải tham gia cạnh tranh thị trường thế giới về chất lượng và giá cả. Cuộc cạnh tranh ấy đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất.
* Xuất khẩu có vai trò tích cực giải quyết công ăn, việc làm và đời sống nhân dân.
Khi hoạt động xuất khẩu phát triển thì việc sản xuất ra những mặt hàng đó ngày càng tăng, việc mở rộng sản xuất là điều tất yếu. Sẽ giải quyết công ăn, việc làm cho hàng triệu lao động trong nước, nâng cao thu nhập cho người lao động, tăng thu nhập quốc dân, tạo điều kiện ổn định xã hội.
Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu còn làm cho lao động con người chuyên môn hoá hơn, việc làm con người ngày càng đa dạng hơn, khi công nghệ hiện đại.
* Xuất khẩu có vai trò tích cực đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất.
Chúng ta biết, hoạt động xuất khẩu diễn ra toàn thế giới, vì vậy khi hoạt động xuất khẩu diễn ra như vậy thì đòi hãng xuất khẩu chất lượng tốt, mặt hàng xuất khẩu chứa nhiều chất xám, yếu tố công nghệ chứa trong nó nhiều. Với điều kiện như nước ta hiện nay thì công nghệ kém, vì vậy chúng ta nhập khẩu từ bên ngoài vào để tăng phần chất xám trong hàng hoá xuất khẩu. Như vậy, trang thiết bị và công nghệ sản xuất đưa vào trong nước, mặt khác với điều kiện xuất khẩu hàng hoá cạnh tranh, như vậy thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước luôn luôn đổi mới, luôn cải tiến máy móc sáng tạo ra, nâng cao chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi người lao động nâng cao trình độ tay nghề phục vụ hoạt động sản xuất.
* Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng thị trường và thúc đẩy quan hệ đối ngoại của ta.
Chúng ta thấy rõ rằng, xuất khẩu sẽ tạo mối ràng buộc lẫn nhau, về kinh tế, tạo điều kiện chúng ta xích lại gần nhau hơn. Nâng cao địa vị và vai trò của đất nước trên trường quốc tế,... Mở rộng xuất khẩu sẽ mở rộng hoạt động tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế. Nhưng qua các quan hệ đối ngoại ấy sẽ tạo cho chúng ta quan hệ đến việc mở rộng thị trường xuất khẩu, có nhiều ban hàng hơn.
Nói chung, xuất khẩu ngày càng trở lên có vai trò quan trọng trong bất cứ nước nào trên thế giới khi muốn phát triển. Không những tạo vốn, kỹ thuật, công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề, mà chúng ta còn mở rộng quan hệ, nâng cao vị thế của đất nước trên thị trường thế giới. Trong giai đoạn hiện nay thì đất nước ta ngày càng mở rộng cánh cửa, để hoạt động xuất khẩu phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn trước trước mắt và lâu dài để hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2- Vai trò ngành thuỷ sản với phát triển kinh tế.
2.1 Ngành thuỷ sản xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Từ lâu thuỷ sản đã được coi là hàng thiết yếu và nó là hàng tiêu dùng được nhiều nươc ưa chuộng như; Nhật, Mỹ, Trung quốc... Trong khi đó ở nước ta ngành thuỷ sản có rất nhiều khả năng và triển vọng phát triển. Với vị trí và điều kiện tự nhiên ưu đãi thuận lợi nuôi trồng và khai thác. Nước ta có bờ biển kéo dài 3260 km, và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1triệu km2. Ngoài ra nước ta còn có trên một triệu ha mặt nước ngọt, 40vạn ha mặt nước lợ( bãi triêù đầm phá...) và 1.470.000 ha mặt nước sông ngòi. Với điều kiên tự như vậy hàng năm chúng ta đánh bắt hàng triệu tấn thuỷ sản gồm: cá, tôm, mực ...Ngoài ra chúng ta còn nuôi trồng với khối lượng thuỷ sản lớn.
Xuất phát từ tiềm năng thiên nhiên to lớn của đất nước, nhà nước ta xác định ngành thuỷ sản là nghành có vài trò quan trọng, mũi nhọn cho hoạt động xuất khẩu. Trong giai đoạn hiện nay xuất khẩu của ta tăng rất nhanh, quí I năm 2003 tăng trên 40%. Vì vây, ngành kinh tế thuỷ sản ngày càng xác định rõ ràng là ngành kinh tế mũi nhọn và là một trong những ngành sẽ giúp thúc các ngành khác phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Trong những năm gần đây hoạt động xuất khẩu thuỷ sản ngày càng phát triển thì nguồn vốn bổ sung cho nền kinh tế quốc dân ngày càng tăng, tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển, thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Những năm vừa qua sự tiến bộ về kỹ thuật trong nghành thuỷ sản, đặc biệt là công nghệ chế biến với các khâu ngày càng hiện đại. Với sự tiến bộ ấy thì ngành khác về công nghệ cũng được phát triển.
Các kết quả trong quá khứ cho thấy nghề đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản có vài trò quan trong như thế nào trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc dân, giải quyết công an việc làm cho người lao động, thực hiện chính sách xã hội.
Với sự tăng trưởng liên tuc của nghành thuỷ sản trên moi mặt: tư khâu nuôi trông đến khâu tiếp thị nên giá trị ngành thuỷ sản liên tuc tăng đóng góp vào thu nhập cua đất nước. Năm 2002 giá trị nghành thuỷ sản đạt được 2.021 triệu USD với giá trị đạt được như vậy đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế đất nước và đã thu hút khoảng 3-4 triệu lao độngtrong cả nước vào ngành thuỷ sản.
Chúng ta xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu là tôm và một số lượng lớn mực lang, mực đông và lương cá tra, cá baxa. Là ngành xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam (Sau dầu và hàng may mặc) vì vậy với lượng xuất khẩu nó là lượng đóng góp rất lớn tăng trưởng kinh tế. Và theo dự báo kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sẽ còn tăng nữa trong giai đoạn tới năm 2001 là 1,7 tỷ USD thì năm 2005 là 2,5 tỷ USD. Vậy nó sẽ tiếp tục là bộ phận quan trọng xuất khẩu của Việt Nam.
2.2. Ngành thuỷ sản xuất khẩu với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chúng ta hãy nhìn lại quá trình, lịch sử ngành thuỷ sản phát triển ngày càng đa dạng của ngành thủy sản. Nó góp phần vào rất lớn vào quá trình chuyển dịch cơ cấu của đất nước, với sự thay đổi cả về chất và về lượng.
Từ chỗ nghề thuỷ sản từ tự cung tự cấp, phục vụ nhu cầu cuộc sống hàng ngày của mỗi gia đình thì ngày nay nó trở thành ngành nuôi trồng, khai thác tự nhiên với sản lượng lớn như (cá, tôm…) phục vụ xuất khẩu phục vụ thị trường các nước trong khu vực và thế giới và ngành thuỷ sản Việt Nam chiếm cơ cấu ngày càng thay đổi trong GDP đất nước. Với năm 1991 - 1995 tăng với tốc độ 7,5%/năm; giai đoạn 1996 - 2000 tăng với tốc độ 9%/năm. Trong khi đó mức tăng trưởng bình quân hàng năm của sản lượng thuỷ sản xuất khẩu là 17,8%.
Với kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục, năm 1990 mới đạt 205 triệu USD thì đến năm 2000 đạt 1478,6 triệu USD và năm 2002 đạt 2021 triệu USD. Với tốc độ tăng trưởng như vậy góp phần rất lớn vào chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản rất lớn trong tổng sản phẩm nền kinh tế quốc dân.
* Một điều quan trọng nữa, đóng góp rất lớn vào chuyển dịch cơ cấu ngành thuỷ sản trong nền kinh tế. Công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu hiện nay chúng ta đã dần hình thành một ngành doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu trong cả nước. Tính đến năm 2000 đã có hơn 200 nhà máy chế biến đông lạnh có KNSX khoảng 300 nghìn tấn sản phẩm xuất khẩu/năm.
* Ngành thuỷ sản của ta hiện nay do việc mở rộng xuất khẩu, nên mở rộng nuôi trồng chế biến.Việc lao động từ ngành khác chuyển sang để hoạt động lao động sản xuất, nuôi trồng ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng lao động, nên dẫn đến việc có sự chuyển dịch cơ cấu trong lao động giữa các ngành đặc biệt là ngành thuỷ sản.
Tóm lại, khi ngành thuỷ sản, xuất khẩu ngày càng phát triển và mở rộng thì cơ cấu ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn nó góp phần rất lớn vào công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
2.3. Ngành thuỷ sản xuất khẩu với vấn đề xã hội
Cũng như bất kỳ ngành khác, thì khi hoạt động xuất khẩu diễn ra thì có tác động rất lớn các vấn đề xã hội khác nhau. Có thể tác động tích cực, nhưng có thể tác động tiêu cực. Những vấn đề ấy tác động trực tiếp đời sống nhân dân. Khi ngành thuỷ sản xuất khẩu thì liên quan vấn đề xã hội sau:
- Tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và mức sống của các cộng đồng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
- Góp phần nâng cao trình độ tay nghề người lao động trong nước
- Tăng cường xuất khẩu thu ngoại tệ vào trong nước
- Tăng cường việc đóng góp của ngành thuỷ sản vào sự phát triển kinh tế - xã hội trong nước,bao gồm ổn định xã hội và an ninh quốc gia.
- Đẩy mạnh qúa trình hiện đại hoá trong ngành thuỷ sản.
Chúng ta dự định rằng số người sống bằng nghề thuỷ sản tăng từ 6,2 triệu người năm 1995 đến năm 2003 là 8,1triệu người. Điều đó phản ánh sự mở rộng không ngừng ngành thủy ngày càng tăng lên trung bình tăng 16% một năm. Đó là điều đáng mừng cho một ngành xuất khẩu phát triển
Chúng ta không thể quên được rằng ngành thuỷ sản ngoài việc xuất khẩu, nó còn giúp cho mục tiêu dinh dưỡng của quốc gia tăng lồng độ cá, tôm… trong khẩu phần thức ăn. Dự kiến cung cấp cá và các sản phẩm thuỷ sản toàn nước sẽ tư mức hiện nay là khoảng 11,5 kg lên 13,5kg/đầu người vào năm 2005. Đó là điều thiết yếu, ngoài việc xuất khẩu giúp giải quyết vấn đề đời sống xã hội người dân. Bảo đảm phát triển kinh tế xã hội, phát triển bền vững hơn.
Nói tóm lại, chúng ta ngày nay đẩy mạnh việc xuất khẩu thuỷ sản có vai trò rất lớn trong việc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Ngành thuỷ sản - Không những thúc đẩy phát triển kinh tế tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà nó còn góp phần rất lớn vào việc giải quyết vấn đề kinh tế xã hội. Và với sự phát triển như hiện nay của ngành thủy sản thì vai trò của ngành, ngày càng quan trọng hơn bao giờ hết, góp phần công nghiệp hoá đất nước.
II. Khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
1. Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển thuỷ sản Việt Nam
1.1. Thuận lợi về tự nhiên
Việt Nam có tiềm năng tài nguyên biến phong phú, dầu khí, thuỷ sản, dịch vụ hàng hải, du lịch, tài nguyên khoáng sản ven biển,…đặc biệt là thuỷ sản đã, đang và sẽ có vai trò càng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Việt Nam có chiều dài, bờ biển 3.260 km, 112 cửa sông lạch, vùng đặc quyền kinh tế biển khoảng hơn 1triệu km2 với 4000hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo, vùng, vịnh, đầm phá và nhiều ngư trường, trữ lượng hải sản gần 3 triệu tấn.
Theo số liệu điều tra thì hàng năm chúng ta có thể khai thác 1,2 - 1,4 triệu tấn hải sản các loại mà không ảnh hưởng đến tiềm năng nguồn lợi. Ngoài ra có thể khai thác hàng trăm ngàn tấn nhuyễn, thế vỏ cứng có giá trị cao: nghêu, sò, ốc,…
Diện tích vùng biển Việt Nam bao gồm: nội thuỷ, lãnh hải 226.000 vùng đặc quyền kinh tế khoảng hơn 1 triệu km2. Có thể chia Việt Nam thành vùng nhỏ.
- Vịnh Bắc bộ: tính từ vĩ tuyến 170N trở lên phía Bắc là một vịnh nông, đáy hình lòng chảo, độ dốc đáy biển nhỏ, độ sâu trung bình 38,5m, nơi sâu nhất của vịnh không quá 100m
- Vùng biển trung bộ: Giới hạn từ vĩ độ 11030N đến 17+0N đáy biển có độ dốc.
Ngoài ra với sự ưu đãi của tài nguyên thiên nhiên thì đất nước Việt Nam còn có nhiều môi trường nước, nó tạo thêm phong phú thuỷ, hải sản phong phú gồm:
* Môi trường nước lợ:
Bao gồm ùng nước cửa sông, ven biển và rừng ngập mặn đầm phá. Đây là môi trường, cư trú sinh sản, sinh trưởng của nhiều loại tôm, và cá giá trị kinh tế cao và nhiều loại khác cũng tăng trưởng phát triển cao.
Các vùng nước lợ nước ta đặc biệt là những vùng rừng ngập mặn ven biển, đã được khai thác sử dụng có hiệu quả kinh tế đạt được thành tựu, nhưng bên cạnh đó là nó bị lạm dụng nhiều quá mức cho việc nuôi trồng thuỷ sản, cao nhất như việc nuôi tôm ven vùng.
Chúng ta biết Việt Nam tổng diện tích nước lợ khoảng 619 nghìn ha với diện tích này hàng năm nhân dân Việt Nam đã nuôi trồng và đánh bắt nhiều loại thuỷ sản đặc sản có giá trị kinh tế cao như: tôm, rong , cá mặn, lợ…Đặc biệt khu rừng ngập mặn là nơi nuôi dưỡng chính cho ấu trùng giống hải sản,… Tuy nhiên, theo FAO (1978) thì diện tích rừng ngập mặn ven biển Việt Nam giảm từ 400 nghìn ha xuống 250 nghìn ha do ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên Việt Nam
Do vậy, để tăng diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở nuôi trồng nước mặn thì biện pháp hiệu quả nhất là lựa chọn những vùng nuôi thích hợp với kỹ thuật nuôi thâm canh song với việc này cần có quy hoạch và chỉ đạo sản xuất từ phía Nhà nước.
Việt Nam còn nhiều vùng nước lợ, vẫn chưa được khai thác vẫn là con số tiềm ẩn, chúng ta tập chung vào khai thác, hiệu quả vào nuôi trồng thuỷ sản. Bên cạnh ấy ta phải duy trì tốt vùng nước lợ cũ đã được khai thác các hiệu quả cao hơn.
Những vùng nước lợ vừa có ý nghĩa sản xuất lớn, vừa có ý nghĩa trong việc bảo vệ và tái tạo nguồn thuỷ sản cho tương lai, tạo điều kiện ngành thuỷ sản được nhân rộng, mở rộng thị trường xuất khẩu. Đây là môi trường tốt cho việc phát triển, nuôi dưỡng ấu trùng giống hải sản và nhiều loại thuỷ sản có gía trị như tôm, rong, cá nước mặn.
Tuy nhiên, Việt Nam về tiềm năng còn rất nhiều chúng ta chú chú ý hơn việc khác thác và sử dụng hợp lý hơn: như quy hoạch nguồn nước lợ, diện tích nuôi trồng, nâng cao kỹ thuật nuôi trồng, chọn giống tôm phù hợp hơn và áp dụng kỹ thuật phù hợp hơn…
*Môi trường nước mặn xa bờ:
Vùng này chiếm diện tích nhỏ gồm vùng nước ngoài khơi thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tuy vậy hàng năm Việt Nam đang tập trung khai thác ngư dân vùng này khác bằng phương tiện hiện đại xa bờ cho với lượng thuỷ sản tương đối cao. ở cả 4 vùng biển khơi xa bờ như: Vịnh Bắc bộ, Duyên Hải Trung Bộ, Đông Nam bộ, Tây nam bộ và Vịnh Thái lan.
Nhưng nhìn chung, nguồn lợi thuỷ sản mà ta khai thác được vẫn mang tính nhỏ bé, phân tán quần nhỏ, nên, kho cho việc tập trung khai thác chế biến công nghiệp, chế biến đông lạnh xuất khẩu cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Chúng ta khai thác chủ yếu mang tính tự phát của một số ngư dân hoặc một nhóm người tự chế tạo thuyền máy đánh bắt xa bờ. Vì vậy việc khai thác nước mặn xa bờ của Việt Nam là kém. Khí hậu thủy văn của vùng này rất khắc nghiệt, hay sóng, dông, bão nên khai thác là rất khó, rất nguy hiểm trong quá trình khai thác. Vì vậy chúng ta tăng thêm chi phí về vật chất, phương tiện kỹ thuật cho việc khai thác xa bờ vùng nước mặn xa bờ là cần thiết.
*Môi trường nước mặn gần bờ:
Môi trường nước mặn gần bờ ở Việt Nam, rất quan trọng hàng năm cho khai thác lượng rất lớn. Cho khối lượng thuỷ sản nước mặn cao. Như vùng Đông Nam Bộ và vùng Tây Nam Bộ thuộc vùng sinh thái này có sản lượng khai thác cao nhất, có khả năng đạt 67% tổng lượng hải sản khai thác của Việt Nam.
Khi nghiên cứu về bờ biển Việt Nam có nhiều vùng vịnh kín, đặc biệt là vùng Vịnh Bắc bộ, bờ biển, Kiên Giang với 4.000 hòn đảo tạo nên nhiều bãi biển được che chắn và có dòng chảy thích hợp có thể nuôi các giống loài hải sản có giá trị cao như các loại cá, các loại nhuyễn thể, giáp xác, cầu gai, hải sâm,…
Nguồn lợi hải sản Việt Nam có thể ước tính như sau: Cá có trên 2.100 loài, trong đó hơn 100 loài có giá trị kinh tế. Vịnh Bắc bộ có thành phần khu hệ cá nghèo nhưng đến 10,7% số loài mang tính ổn đới thích nước ấm. Tôm có 75loài mực, 650 loài dong biển, 12 loài rắn biển, 4 loài rùa biển. Ngoài ra còn có nhiều loài đặc sản quý hiếm như: Yến sào, sò huyết, ngọc trai, diệp, san hô đỏ,…
Đặc tính nguồn lợi này cũng gây khó khăn cho các nhà khai thác khi phải lựa chọn các thông số kỹ thuật ngư cu sao cho kinh tế vừa có tính chọn lọc cao - Nghĩa là ngư cụ có khả năng đánh bắt một cách lựa chọn loài thuỷ sản cần khai thác.
Với điều kiện kỹ thuật, công cụ đánh bắt của ta thấp kém, nên môi trường nước. Gần bờ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vùng nước gần bờ (Vịnh Bắc bộ và Đông, Tây Nam bộ) từ 30 mét nước sâu trở vào và Trung bộ 50 mét nước, sâu trở vào là vùng khai thác chủ yếu của ngư dân nghề cá có quy mô nhỏ và vừa Việt Nam
Vậy trong ngành thuỷ sản thì môi trường gần bờ có ý nghĩa hết sức quan trọng việc đánh bắt khai thác, đó là sự ưu đãi rất lớn mà tài nguyên thiên nhiên Việt Nam có được góp phần rất lớn tăng thêm nguồn xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
1.2. Thuận lợi về lao động
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, trẻ, khéo tay, thông minh và chăm chỉ vì vậy nguồn lao động của ta có thể tiếp thu nhanh chóng và áp dụng sáng tạo công nghệ tiên tiến. Giá cả sức lao động Việt Nam trong lĩnh vực thuỷ sản tương đối thấp so khu vực và thế giới. Đây là lợi thế cạnh tranh lớn nhất của chúng ta hiện nay trong thị trường thuỷ sản thế giới. Hiện nay lao động của chúng ta có xu hướng còn chuyển lao động từ ngành khác sang ngành thủy sản như lao động nông nghiệp. Tuy nhiên, lao động thuỷ sản chủ yếu lao động giản đơn, trình độ văn hoá thấp và phần lớn chưa được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu phát triển mới. Do đó, để nâng cao cả chất lượng, nuôi trồng thuỷ sản và khai thác thuỷ sản thì việc nâng cao trình độ người nuôi trồng và đánh bắt là thiết yếu. Năm 1995, lao động ngành thuỷ sản là 3,03 triệu người, trong lao động nghề cá chiếm khoảng 420 nghìn người, Đến năm 2000 là 3,4 triệu người. Nhưng những người lao động này đa số không làm chuyên canh trong khai thuỷ sản mà nhiều người lao động sen canh với lao động đồng ruộng. Chúng ta tính toàn ngành hiện nay: hiện có 90 tiến sỹ ,4200 cán bộ đại học, 14000 cán bộ kỹ thuật chuyên ngành, 5000 cán bộ trung cấp. Nhưng giá lao động kỹ thuật cũng rất thấp so với khu vực và thế giới.
Như vậy nguồn lao động thông minh, năng động, giá rẻ với các nước trong khu vực và thế giới. Nó là lợi thế lớn nhất cho Việt Nam cạnh tranh xuất khẩu thuỷ sản với thế giới. Tuy vậy thu nhập ngành thuỷ sản hiện nay tương đối ổn định và tăng cao đó là điều kiện để ngành thuỷ sản thu hút lao động từ ngành khác tạo điều kiện ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.3. Lợi thế các ngư cu và tàu thuyền
Chúng ta biết Việt Nam điều kiện về đánh bắt vãn còn thô sơ lạc hậu. Chủ yếu vẫn là ngư cư và tàu thuyền có khả năng khai thác, nhỏ thô sơ. Vì vậy nó là điều kiện thuận lợi cho việc khai thác gần bờ đó là lợi thế dựa trên sức lao động Việt Nam . Trong giai đoạn 1991 - 2000 số lượng tàu thuyền máy nhỏ tăng nhanh, thuyền thủ công có xu hướng giảm đi. Năm 1991 tàu thuyền máy có 44.347 chiếc, chiếm 59,6%; thuyền thủ công 30.284 chiếc, chiếm 40,4% đến năm 2002, tổng số thuyền máy là 78978 chiếc chiếm đại bộ phận tàu thuyền khai thác hải sản của Việt Nam. Trong giai đoạn 1991 - 2002 bình quân hàng năm tàu thuyền tăng 8% tốc độ tăng về các loại tàu thuyền máy có xu hướng chậm đi nhưng tổng công xuất tăng nhanh. Năm 2002 tổng công suất đã đạt tới 3.722.577 CV lớn gấp trên 4 lần so năm 1991. Ước tính năm 2003 số lượng tàu có xu hướng giảm xuống tổng công suất toàn đối tàu là 3202453 CV. Tốc độ tăng bình quân hàng năm lên tới 33%. Công suất bình quân năm 1991 đạt 18CV/chiếc, đến năm 2001 đạt 42,2CV/ chiếc. Năm 2002 công suất đạt 42,8CV.
Như vậy với xu hướng chuyển từ tàu thuyền đánh bắt thô sơ sang tàu thuyền đánh bắt cá có mã lực lớn hơn tạo điều kiện đánh bắt xa bờ hơn, dó là lợi thế Việt Nam dựa trên cơ sở số lao động thủ công. Nhằm tăng việc đánh bắt cho năng suất cao hơn với Việt Nam cơ cấu chủng loại tàu thuyền đánh bắt cho năng suất cao hơn với Việt Nam cơ cấu chủng loại tàu thuyền máy như sau:
- Năm 1992 cơ cấu chủng loại tàu thuyền máy:
+ Dưới 20 CV: chiếm 58,0%
+ Dưới 45 CV: chiếm 32,0%
+ 46-75 CV: chiếm 9,0%
+ Trên 76: chiếm 0,7%
- Đến năm 2002 cơ cấu tàu thuyền máy như sau
+ Dưới 20CV: chiếm 41%
+ 20-45CV: chiếm 34%
+ Trên 76CV: chiếm 11,83%
+ Trên 90CV; chiếm 0,17%
Như vậy số tàu thuyền hiện đại dần có khả năng khai thác xa bờ ngày một tăng nhanh. Nếu năm 1997 mới chỉ khoảng 5000 tàu đánh cá xa bờ thì đến năm 2002đã có 78978 chiếc, ươc tính nam 2003 sẽ còn tăng.
Đó là điều kiện thuận lợi cho ta khai thác thuỷ sản Việt Nam, với điều kiện tăng về hiệu quả đánh bắt tàu thuyền hàng nămg lượng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam tăng nhanh trong thị trường khu vực và thế giới.
Tóm lại, Việt Nam là một nước không những có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển ngành thuỷ sản xuất khẩu mà còn người Việt Nam và điều kiện đánh bắt nước ta hiện nay cũng là điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển ngành thuỷ sản xuất khẩu.Nhưng với tiềm năng của đất nước ta hiện nay cũng là điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển ngành xuất khẩu. Nhưng với tiềm năng của đất nước hiện nay thì chúng ta còn phải nỗ lực hơn rất nhiều để khai thác nguồn tự nhiên thiên nhiên này.
2. Thị trường thuỷ sản thế giới
2.1. Đặc điểm thị trường thế giới
Đánh giá sơ bộ tình hình thuỷ sản thế giới: Theo thống kê của FAO, hiện nay toàn thế giới có 179 quốc gia ở đó nhân dân sử dụng thuỷ sản làm thực phẩm. Do điều kiện tự nhên, tình hình kinh tế, phong tục tập quán hay tôn giáo mà mức độ sử dụng thủy sản làm thực phẩm của các quốc gia, các dân tốc là khác nhau. Lượng tiêu thụ thuỷ sản được tính trung bình của người dân trên thế giới giai đoạn 1991 - 1997 là 14 - 15 kg thuỷ sản/người/năm. Nhưng nhu cầu này sẽ tăng lên 18 - 19kg/ người/năm 2015 - 2020 trên toàn thế giới.
Trong thập niên 90 tổng sản lượng thuỷ sản thế giới tăng rất chậm trung bình 0,23%/năm thấp hơn so mức bình quân 3% của năm trong thập niên 80%. Nhưng theo đánh giá sang đầu thập niên này lượng thuỷ sản sẽ tăng lên, nhu cầu người dân trên thế giới ngày càng cao.Đó là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển của ngành thủy sản Việt Nam.
Nhưnghiện nay, trên thế giới thuỷ sản vẫn chủ yếu khai thác tự biên. Năm 1993 hải sản chiếm 80,9% còn thủy sản nội địa chỉ chiếm 19,1%, năm1991. Khai thác 85% hải sản biển và 15% thuỷ sản nội địa và đến năm 2002 thì mức này có xu hướng đổi khác là khai thác 75,6% hải sản biển là 24,4% thuỷ sản nội địa. Hiện nay xu hướng đó ngày càng tăng, có sự chuyển từ sản phẩm thuỷ sản nội địa ngày càng tăng lên do nuôi trồng chế biến xuất khẩu.
Trong giai đoạn 1991 - 1997 sản lượng thủy sản thế giới tăng ổn định với mức tăng trung bình là 3,86%/năm. Sự thay đổi về vị trí (ngôi thứ) giữa các quốc gia có tổng sản lượng thủy sản lớn nhất thế giới có sự thay đổi thể hiện quabảng sau:
Bảng: Những nước có sản lượng thuỷ sản lớn nhất thế giơi.
STT
Tên nước
Tổng sản lượng
1
Trung Quốc
17,5
2
Pê ru
8,4
3
Nhật Bản
8,1
4
Chi Lê
6,0
5
Mỹ
5,9
6
Nga
4,4
7
ấn Độ
4,1
8
Indonexia
4,1
9
Thái Lan
3,4
10
Hàn Quốc
2,6
Nguồn :Bộ thuỷ sản
Như vậy Nhật Bản liên tục giữ số 1 thế giới, trong hai thập kỷ qua nay tụt xuống xếp thứ 3 và khó có thể trở lại ngôi đầu bảng vì đã cách quá xa so sản lượng của Trung Quốc, Liên bang Nga. Cũng hai thập niên quan luôn giữ vị trí số hai (có một lần giữ vị trí số một năm 1980) nay đã trượt xuống vị trí thứ sau:
Trong khi Nhật Bản và Nga xuống dốc thì Trung Quốc, Pêru. Chilê lại nhanh chóng vươn lên dành vị trí cao nhất thế giới. Trung Quốc sau hơn 10 năm "cải cách, mở cửa" đã từ vị trí thứ nhất về tổng sản lượng thủy sản thế giới. Hơn nữa, càng ngày họ càng bỏ xa các nước đứng dưới, tới năm 1990, Trung Quốc đạt 12 triệu tấn, trong khi đó họ giám mạnh dạn đưa ra kế hoạch 1991 - 2000 là mục tiêu 20 triệu tấn thủy sản, điều bất ngờ 4 năm sau họ đã đạt 20,7 triệu tấn 1994. Với mức tăng quá nhanh của khai thác thủy sản Trung Quốc, trong khi đó các cường quốc lớn mạnh khác lại giảm xút nhanh
Như vậy tình hình thủy sản thế giới đã có rất nhiều thay đổi kể cả điều kiện đánh bắt và khả năng khai thác. Về ngôi thứ về khai thác thủy sản có nhiều thay đổi đáng kể hiện nay Trung Quốc và Peru đagn là nước đứng đầu thế giới về khai thác thủy sản. Đó là những biến động lớn về tình hình thủy sản hiện nay
2.2. Tình hình nhu cầu thủy sản trên thị trường thế giới.
Theo nghiên cứu khoa học cho thấy đạm từ thủy sản không những đảm bảo lượng calori cao mà còn có lợi cho sức khoẻ, tránh được bệnh tật thường thấy do dùng quá nhiều đạm và mỡ từ động vật cạn như thịt, chứng, sữa... Thêm vào đó công nghệ bảo quản chế biến đã làm cho hương vị thực phẩm thủy sản ngày càng cao thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng chính những lý do đó dẫn đến nhu cầu thủy sản tăng mạnh. Nhu cầu thủy sản thế giới ngày càng tăng trên phạm vi toàn cầu còn do nguyên nhân sau:
- Dân số tăng nhanh. Theo tổ chức dân số thế giới, thì dân sóo thế giới hiện nay tăng trung bình 2%/năm. Đặc biệt dân số tăng nhanh ở các nước chậm và đang phát triển (LDCs). Với dân số thế giới hiện nay khoảng trên 6 tỷ người thì nhu cầu thủy sản của thế giới ngày càng tăng nhanh
- Thu nhập bình quân đầu người tăng: thu nhập bình quân của người dân thế giới tăng dẫn đến tiêu dùng cho thực phẩm thủy sản tăng. Nhưng trong thực tế các nước đang phát triển khi thu nhập tăng thì tiêu thụ thủy sản còn lớn hơn. So với mức tăng thu nhập. ở các nước đang phát triển, thủy sản được xem như loại thức ăn lành mạnh hơn so với thịt lợn, gà, bò. Tại các nước LDCs, đặc biệt châu á, thủy sản là một nguồn cung cấp protein chủ yếu. Nhu cầu thủy sản ở các nước phát triển ngày càng tăng do họ cũng nhận thức được điều đó về thực phẩm thủy sản.
- Tốc độ đô thị hoá trên phạm vi toàn cầu tăng: đô thị hoá sẽ nâng cao đời sống của nhân dân lên một bước, xuhướng tiêu dùng người dân tăng lên, nên thực phẩm lành mạnh ngày càng nhu cầu cao dễ chế biến như thủy sản.
Sự thay đổi thị hiếu người tiêu dùng: Hiện nay do trong các loại thịt bò, thịt lợn có chứa các chất gây hại cho cơ thể người nên có xu hướng thị hiếu chuyển đổi, chuyển từ tiêu thụ các loại thịt sang tiêu thụ thủy sản. Khu vực đông nam á chiếm 50% tổng lượng tiêu thụ của thế giới (trong đó Nhật Bản, Trung Quốc và các nước NICs đều là các thị trường tiềm năng). Khu vực Tây Âu, Nga và các nước Đông Âu với lượng tiêu thụ 1996 lần lượt là 11%, 7% và 9% tổng lượng tiêu thụ thủy sản của thế giới.
Nhu cầu thủy sản phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau như dân số, thu nhập bình quân đầu người, tốc độ đô thị hoá... và trình độ phát triển từng quốc gia, từng khu vực. Do đó cơ cấu tiêu dùng thủy sản còn chưa đồng đều, nếu như vậy vẫn có khoảng cách chênh lệch đáng kể giữa các nước, các châu lục với nhau, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2. Dự tính dân số và tiêu thụ thủy sản ở các châu lục
năm 2002
Châu lục
Dân số
Tiêu thụ hải sản
Triệu người
% so thế giới
kg/đầu người
Triệu tấn
Nam á
2.100
33,8
31,4
30,0
Đông á
4.470
24,0
32,6
21,8
Trung Quốc
1.260
20,6
20
11,5
ấn Độ
962
15,7
7,0
3,1
Nhật Bản
128
2,1
140,0
8,1
Nơi khác ở châu á
82
1,3
50,0
2,2
Châu Phi
877
14,3
31,9
12,7
Châu Âu
513
8,4
42,9
10,0
Nga
315
5,1
60,0
8,6
Bắc Mỹ
298
4,9
47,2
6,4
Châu đại dương
330
<0,1
73,3
1,0
Nguồn: Thông tin ngoại thương thủy sản
Như vậy xét các châu lục thì châu á là nơi có mức tiêu thụ thủy sản lớn nhất thế giới, đặc biệt là thủy sản, với ví dụ điển hình là Nhật Bản và Trung Quốc dẫn đầu thế giới và nhập khẩu thủy sản. Sang thị trường EU tuy có giảm đôi chút so với mấy năm trước, nhưng tiêu thụ thủy sản EU sẽ tăng 7% trong năm tới. Giữa các khu vực với nhau đã sự chênh lệch rất lớn về tiêu thụ thủy sản. Nhưng, mức tiêu thụ ấy lại chủ yếu tập trung ở các nức trong khu vực, các nước đang phát triển. Nhưng xét về kg/đầu người thì các nước châu Âu có bình quân đầu người sử dụng rất cao như 40,2kg/người. Nga lên tới 60 kg/người
Theo PAO (Tổ chức lương nông thế giới) thì nhu cầu tiêu thụ trung bình của mỗi người dân thế giới giai đoạn 1991 - 1997 là 14-15 kg/người/ năm,nhưng nhu cầu này sẽ tăng lên 18-19kg/người/năm vào năm 2015-2020. Do vậy nhu cầu tăng cao, đây sẽ là cơ hội tốt cho Việt Nam trong thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản.
2.3. Hoạt động trao đổi thuỷ sản thế giới
Khác với thị trường nhiều loại hàng thực phẩm trì trệ hay chạm phát triển thời gian qua, thị trường thuỷ sản thế giới khá năng động. Điều này một phần liên quan đến đặc điểm về tính chất quốc tế của hàng thuỷ sản. Nhưng hàng thuỷ sản thế giới vô cùng phong phú và đa dạng với hàng trăm dạng sản phẩm được trao đổi mua bán trên nhiều thị trường các nước và khu vực khác nhau. Tuy nhiên có thể phân ra 7 nhóm sản phẩm buôn bán chính trên thị trường thế giới là: có khoảng 75% dạng sản phẩm cá tươi, ướp đông, đông lạnh, giáp xác, nhuyễn thể tươi, ướp đông và đông lạnh (riêng giáp xác và nhuyễn thể chiếm 33 - 35%). Sản phẩm đồ hộp thuỷ sản chiếm hơn 15%, còn dạng khô, muối hun khói chiếm hơn 5% đầu cá và bột cá cống lại chiếm xấp xỉ 5%. Với sản phẩm này 3 khu vực lớn nhập khẩu là Mỹ, Nhật, Tây âu xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục phát triển vào đầu thập niên này
2.3.1. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản thế giới
xuất khẩu thuỷ sản của thế giới qua các năm từ năm 1980 trở về đây. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi điều kiện khai thác và chế biến ngày càng hiện đại hoá thì thuỷ sản qua các khâu chế biến, ướp lạnh... ngày càng được các nước quan tâm và xu hướng xuất khẩu các nước trong khu vực và thế giới ngày càng tăng lên thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3. Xuất khẩu thuỷ sản thế giới.
Khu vực/năm
1980
1985
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
Thế giới
15098
17249
31820
32031
3571
38917
40215
41501
47418
52034
5880
55300
51200
% hàng năm
-
+12.5
+45.8
+0.7
+10.4
+8.2
+3.2
+3.1
+12.5
+8.9
Các nước PT
9218
9862
17237
17131
2012
21186
21656
21181
23185
% trong tổng số
57,2
57.2
54.2
53.2
56.3
54.4
53.9
51.0
49.4
Các nước đang PT
5879
7566
14583
14899
15599
17730
18558
20320
23782
% trong tổng số
43,9
43.9
45.8
46.5
43.7
456
46.2
49.0
50.6
Mỹ
993
1162
2441
25324
3019
3281
3582
3179
3229
3383
3100
2800
2400
Thái Lan
358
675
1631
1959
2264
2901
3071
3404
4190
4949
4100
4300
4400
Nauy
974
922
1608
1563
2059
2282
2436
2302
2718
3122
Canada
1088
1356
2219
2051
2269
2168
2085
2056
2782
2314
2300
2400
2900
Đài Loan
-
1067
1311
1591
1517
1524
1803
2369
2213
2326
1700
1800
1600
Trung Quốc
308
445
1023
1039
1301
1182
1560
1542
2320
2854
2800
2900
2600
Hàn Quốc
677
797
1784
1538
1363
1500
1365
1335
1411
1564
Anh
56,2
362,3
718,2
794,2
962
1121
1147
868
1180
1195
Pháp
320.3
359
730.8
772.7
931,2
9256
955.4
821
909.7
983.4
Nga
300.7
3839
799.6
718.4
-
-
1014
1560
1491
1628
Đan Mạch
999
953
1854
1745
2165
2302
2319
2050
2359
2459
2600
2600
2900
Nhật
3400
3500
3600
Nguồn: PAO Fisherry yearbook hàng năm
Qua bảng trên ta thấy xuất khẩu thuỷ sản tăng không ngừng. Năm 1980, xuất khẩu thuỷ sản thế giới đạt 15.098 triệu USD thì đến năm 1995 đạt 5.2037 triệu USD, năm 1998 đạt 51200 . Như vậy xuất khẩu đã tăng 201,6% mức tăng trung bình hàng năm là trên 13% phản ánh phát triển năng động của thị trường thuỷ sản thế giới.
Cũng qua bảng trên thì tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản của các nước phát triển bao giờ cũng cao hơn so các nước phát triển. Đó là điều dễ hiểu bởi do điều kiện đánh bắt ở các nước đang phát triển khó khăn hơn rất nhiều so các nước phát triển. Mặt khác do điều kiện công ghệ chế biến ở các nước đang phát triển rất khó khăn. Hiện nay trong nước đang phát triển cố gắng thúc đẩy việc xuất khẩu hàng của họ cao hơn.
Thực tế tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản của các nước đang phát triển ngày càng cao, từ chỗ chỉ khoảng 40-45 những năm đầu thập kỷ 80, đầu năm 90 là 45-55 và xu hướng vẫn tiếp tục tăng trên thế giới. Và sự đột phá về xuất khẩu lần đầu tiên vào năm 1994, đã vượt so với các nước phát triển 50,6/49,4. Vào đầo thế kỷ này xu hướng xuất khẩu vẫn tăng hơn so nước, phát triển.
Nhưng không thể đánh giá thấp các nước, phát triển được. Với 15 nước đứng ở tốp đầu về xuất khẩu thuỷ sản thế giới thì có hơn một nửa là các nước phát triển. Hoa kỳ vẫn là nước xuất khẩu thủy sản đứng hàng đầu thế giới đầu năm 1980 đạt 993 triệu USD và đến năm 1998 là 2400 triệu USD, tuy có giảm với lượng đáng kể so số năm về trước. Sau đó là Thái Lan đứng đầu năm 1980 là 358 nhưng đến nam 1998 đã tăng vọt lên và đứng đầu thế giới là 4400triệu USD. Và hiện nay nhịp độ vẫn tang và Thái Lan vẫn là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu thuỷ sản, các nước xuất khẩu lớn tiếp theo là Na Uy, Đan Mạch, Trung Quốc, Canada, Đài Loan...
Nhìn chung các nước đều tăng trưởng về xuất khẩu thuỷ sản thời gian qua và đóng gó rất lớn vào tăng trưởng nền kinh tế thế giới, tuy vậy mức tăng khu vực khác nhau và mỗi nước khác nhau.
2.3.2. Tình hình nhập khẩu thuỷ sản thế giới.
Bên cạnh đó nhiều nước còn nhập khẩu thuỷ sản khối lượng rất lớn. Chủ yếu là các nước phát triển, nhập khẩu tỷ lệ tương đối cao (85%-86%) nhập khẩu toàn thế giới thời gian qua. Nhập khẩu thuỷ sản của các nước đang phát triển chri chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng có xu hướng tăng trong giai đoạn gần đây, thể hiện bảng sau:
Bảng 4: Nhập khẩu thuỷ sản.
(Đơn vị: Triệu USD)
Khu vực/năm
1980
1985
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
...
Thế giới
15908
18327
35325
35886
39565
43546
45102
44607
51615
56025
57000
56.500
55000
% tăng giảm
15,21
92,75
1,59
10,25
10,06
3,57
-1,10
15,71
DCS
13519
16202
30554
30705
34224
37358
38606
37903
43730
% trong S số
85
88,4
86,5
85,6
86,5
85,8
85,6
85
84,7
NDCs
2389
2152
4708
5068
5341
6188
6496
6704
7786
%trongS số
15,0
11,6
13,3
14,1
13,5
14,2
14,4
15,0
15,1
Nhật Bản
3114
4744
10657
10127
10668
12085
12832
14187
16141
17854
15420
13.00
12.500
% trong S số
19,6
25,9
30,2
28,2
27,0
27,8
28,5
312,8
31,3
31,9
Bắc Mỹ
2934
4407
5982
6416
6193
6674
6710
7111
7956
8175
% trong TG
18,4
24,1
16,9
17,9
15,7
15,3
14,9
15,9
15,4
14,6
Hoa Kỳ
2366
4052
5389
5756
5573
5999
6024
6290
7043
7141
7000
8100
8500
EC
5251
5502
11584
11087
14974
16211
16499
14312
16834
18600
Châu Âu
8786
6418
12811
13044
16375
17693
18068
15658
18382
19646
% TG
42,7
35,0
36,3
36,3
41,4
40,6
40,1
35,1
35,6
35,1
Pháp
1131
1040
2242
2195
2809
2925
2534
2518
2796
3221
3200
3000
3500
Italia
332
985
1899
1986
2458
2690
2643
2131
2257
2281
2500
2600
2800
Hồng Kông
361
1030
988
1111
1232
1398
1377
1642
1827
200
2100
1600
Đan Mạch
23,1
370
852
864
1116
1149
1197
1094
1415
1577
1600
1600
1650
1700
Thai Lan
138,3
537,7
726,8
794,4
1052
942
830
815
824
T.Quốc
95,4
297,7
359,5
207,1
438,1
680,8
576,0
855,7
941,3
Canada
301,6
355,9
593,3
659,2
620,3
675,5
686,9
822
913.4
1034
Nguồn: FAO Fishery yearbook hàng năm
Vậy nhập khẩu thuỷ sản thế giới thời gian qua tăng nhanh từ 15,908 tỷ USD (năm 1980) tăng lên 51,200 tỷ USD (1998) tăng gấp 3,218 lần. Nhưng nhập khẩu ấy chủ yếu tăng ở các nước phát triển (khoảng 85%), từ 13,519 tỷ USD năm 1980 đến năm 1995 là 43,730 tỷ USD. Còn các nước đang phát triển thì nhập khẩu nhỏ, bé.
Các nước trên thế giới thì đất nước Nhật Bản vẫn là nước truyền thống nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới từ trước tới nay. Mức nhập khẩu tăng từ 4,7 tỷ USD, mức tăng trung bình hàng năm là hơn 13%, lớn hơn mức nhập khẩu trung bình thế giới (12%). Nhập khẩu thuỷ sản đứng thứ hai và trên thế giới là Hoa Kỳ. Hoa Kỳ từ 2,366 tỷ USD (1992) đến năm 1995 là 7,41 tỷ USD (1995) và tăng lên 8,500 tỷ USD (1998) chiếm khoảng 14% nhập khẩu của thế giới. Ngoài ra các nước tuyền thống nhập khẩu thuỷ sản, như các nước ở khu vực Châu Ây, EC, Bắc Mỹ. Sau Hoa Kỳ còn có các nước thường xuyên nhập khảu thuỷ sản Pháp, Anh, Hồng Kông, Thái Lan, Đan Mạch...
Các nước nhập khẩu thủy sản trên thế giới chủ yếu nhập các mặt hàng thuỷ sản tươi và đông lạnh chiếm tỷ trọng áp đảo và ngày càng tăng (73,6%) voà năm 1995 sau đó là đồ hộp thuỷ sản (15,9%) thủy sản khô, muối, hun khói chỉ chiếm 5,4% ngoài ra còn laọi khác diễn ra hoạt động nhập khẩu trên toàn thế giới.
2.3.3. Kim ngạch xuất khẩu, thuỷ sản thế giới.
Hoạt động kim ngạch xuất khẩu của thế giới diễn biến tăng khá nhanh, do sản lượng thuỷ sản tăng. Nhưng theo đánh giá hiện nay thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng do sản lượng giai đoạn trước tăng quá châm. Hiên nay thì thực chất do công nghệ chế biến xuất khẩu, do công nghệ được ứng dụng vào chế biến các sản phẩm đó, thể hiện qua bảng.
Bảng 5: Kim ngạch XNK thuỷ sản thế giới.
Đơn vị: tỷ USD
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
KNXNKTSTG
66,0
75,2
82,2
85,4
86
98,4
108,1
109,9
107,6
Ta thấy rõ ràng từ 1995 KNXNK TSTG tăng vọt do áp dụng khoa học kỹ thuật vào chế biến nên giá trị đó đạt rất cao trong hoạt động. Nhưng nhìn chung KNXNKTS tăng khá nhanh ổn định từ 1989 là 66 tỷ USD đến năm 1996 là 1097 tỷ USD nhưng sang năm 1997 giảm do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, nên kim ngạch xuất nhập khẩu giảm. Và qua năm 1997 có ảnh hưởng những năm sau nhưng tình hình hiện nay KNXNK lại tăng nhịp độ cao tạo điều kiện phát triển kinh tế thế giới.
2.4. Tình hình giá cả thuỷ sản thế giới.
Khỏi nói giá cả thì ai cũng hiểu và phức tạp về thuỷ sản giá cả luôn nhạy cảm. Giá kết quả của sự tác động qua lại giữa cung và cầu trên thế giới thuỷ sản thế giới thế giới. Trong yếu tố đó thì có rất nhiều yếu tố tác động gián tiếp tới nó. Có thể nói là vô cùng phức tạp như gồm:
- Giá cả trên thị trường thủy sản thế giới tăng liên tục theo chu kỳ, sở dĩ do cung thuỷ sản phụ thuộc nhiều yếu tố tự nhiên điều kiện thời tiết bão, gió... đánh bắt ở biển cả. Có mùa tăng rất cao có mùa tăng thấp.
- Ngoài ra còn phục thuộc vào nước nhập khẩu thuỷ sản có nền kinh tế ổn định hay không nếu nền kinh tế suy thoái thì tiêu thụ giảm mạnh dẫn đến giá giảm.
- Năng lực côg nghệ chế biến có phát triển không hay chỉ chế ở dạng thô thì giá tất yếu sẽ rất rẻ mạt.
- Ngoài ra giá còn chi phố bởi điều kiện chính trị, văn hoá, hay sự áp đặt kinh tế của nước lớn.
Nhưng diễn biến giá thuỷ sản thể hiện rất rõ qua chỉ số giá tổng hợp của FAO là chỉ số giá xuất khẩu (export price indices of fish). Từ năm 1993 tới nay, giá xuất khẩu thủ sản diễn biến khá hợp lý thuật lợi cho các nước xuất khẩu thuỷ sản. Hàng năm, giá tăng xấp xỉ 6% trong khi nhu cầu thị trường thế giới là không giảm. Nếu coi giá thuỷ sản xuất khẩu 1993 là 100, giá xuất khẩu thuỷ sản của các năm sẽ như sau.
Bảng 6: Chỉ số giá thuỷ sản xuất khẩu.
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Chỉ số P thuỷ sản xuất khẩu
100
106
113
120
131
138
149
167
185
198,7
Nguồn: FAO comodies review and Outlook 93/98
Sơ với chỉ số giá cả của sản phẩm khác như thịt, trứng, sữa... thì chỉ rõ giá thuỷ sản xuất khẩu tăng với tốc độ cao hơn nhiều (năm 1997, chỉ số giá thịt xuất khẩu tăng 1% năm 1998 không tăng, chỉ số giá sản phẩm làm từ sữa giảm 2% năm1999).
Như vậy với biến động giá tăng lên như vậy của ngành thuỷ sản thì tạo cơ hội và điều kiện cho ngành thuỷ sản Việt Nam. Nhưng nó phục thuộc rất lớn vào điều kiện công nghệ ở nước ta về chế biến thuỷ hải sản phục vụ xuất khẩu.
Tóm lại: thị trường thuỷ sản thế giới luôn biến động cả về cung lẫn cầu, kéo theo nó là giá cũng luôn thay đổi theo. Sự biến động luôn diễn ra phức tạp, xu hướng cũng tăng và cầu cung tăng và nó càng ngày càng đòi hỏi chất lượng cao hơn về khâu chế biến, về giá cả rẻ hơn. Với hoạt động như vậy giá thuỷ sản thế giới, thì tạo kẽ hở trên thị trường để đáp ứng những nhu cầu đó. Ngành thuỷ sản Việt Nam đã và đang làm gì.
3. Khả năng tham gia thị trường thuỷ sản Việt Nam vào thị trường thế giới.
Với sơ lược thị trường xuất khẩu thuỷ sản thế giới cho thấy tiềm năng rất lớn đối với ngành chế biến thuỷ sản Việt Nam. Khả năng tham gia xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường thế giới đầy hứa hẹn.
Không phải ngẫu nhiên mà mặt hàng thuỷ sản lại được đánh giá là một trong số những mặt hàng xuất khẩu có nhiều triển vọng của nước ta trong thời gian qua và trong thời gian tới, với hyvọng kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt tới con số 1 tỷ USD trong năm 2000 nvà 2 tỷ USD vào năm 2005.
Trong vòng 10 năm từ 1986-1996 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã tăng lên gấp 5,13 lần, năm 1997 đạt 760 triệu USD năm 1998, 850 triệu USD và năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản đã lên tới 979 triệu USD, đứng sau dầu thô 2017 triệu USD dệtmay 1682 triệu, dày dép 1406 triệu USD gạo 1035 triệu.
Theo thống kê của tổ chức nông nghiệp và lương thực thế giới (FAO) hiện nay Việt Nam là một trong số 20 nước có sản lượng đánh bắt thuỷ sản lớn và đứng trong hàng ngũ 25 nước xuất khẩu thuỷ sản lớn trên thế giới. Trong khu vực, Việt Nam đứng thứ 4 về sản lượng sau Thái Lan, Inđonêxia, Malaixia và cũng đứng thư tư về xuất khẩu sau Thái Lan, Inđônêxia, Singapo.
Ngoài ra công nghệ chế biến của Việt Nam có rất nhiều thay đổi đã dần có công nghệ tiên tiến. Chúng ta đã hình thành một ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu trong cả nước. Tính thời điểm năm 2000 đã có hơn 200 nhà máy chế biến đông lạnh, có khả năng sản xuất khoảng 300 nghìn tấn sản phẩm xuất khẩu/năm.
Tiềm năng và điều kiện khai thác như vậy thì khả năng tham gia của thị trường thuỷ sản Việt Nam sang thị trường thế giới là rất lớn. Trong năm qua. Sự nỗ lực tăng cường và mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản là nguyên nhân làm kim ngạch xuất khẩu tăng theo báo cáo của Bộ thuỷ sản, Việt Nam từ chỗ chỉ xuất khẩu qua hai thị trường trung gian là Hồng Kông và Singapo thì hiện nay có 5 thị trường chính là Nhật, Mỹ, Eu, Trung Quốc và khu vực Đông Nam á. Thị trường Nhật bản trong năm đầu của thập kỷ 90 chiếm 65-75% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, song do sự biến động trong khu vực và đồng tiền yên mất giá nên thị trường này đã giảm xuống, nhưng đến thời điểm này vẫn là thị trường lớn nhất, chiếm 40,70% với kim ngạch xuất khẩu đạt 381,3 triệu USD. Đứng sau nhật là Mỹ, thị trường này đang dần được cải thiện từ 7-8% thị phần này tăng lên, 13,8%. Tuy nhiên sức cạnh tranh thị trường này còn rất thấp, chỉ ít doanh nghiệp bán được hàng sang Mỹ, tiếp đến là thị trường T. Quốc, Hồng Kông với 117 triệu USD chiếm USD chiếm 12,5%. Ngược lại thị trường Đông Âu đang nguy cơ giảm xuống từ 12,05% xuống 9,6% (1999). Ngoài ra thị trường Đông Nam á có nhiều biến chuyển cải thiện dần.
Như vậy trong năm qua thì khả năng tham gia của thị trường thuỷ sản Việt Nam là rất lớn trên thị trường thế giới. Đặc biệt có sự biến chuyển lớn tỏng những năm gần đây, từ thị trường nhỏ bế nay đã vươn lên tầm khu vực và thế giới. Với cơ hội mở của hội nhập khu vực, Việt Nam tham gia vào hiệp hội các nước ASEAN quan hệ thương mại Việt Mỹ, vùng quan hệ khác mở rộng thì khả năng hoạt động buôn bán thuỷ sản ngày càng mở rộng và ngang tầm cao mới.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Bất cứ hoạt động kinh doanh xuất khẩu nào của một nước thì luôn ảnh hưởng chi phối yếu tố khác nhau ở đây gọi các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Những yếu tố này tác động rất rõ dệt và kim ngạch xuất khẩu, cũng như giá cả... ở đây gồm yếu tố ảnh hưởng sau.
XKTS
Yếu tố khủng hoảng
Môi trường quốc tế
Yếu tố chính trị
pháp luật
Yếu tố giá cả
Yếu tố thuế
hạn ngạch
Môi trường
địa lý
Môi trường
xã hội
Yếu tố
công nghệ
3.1. Yếu tố, giá cả.
yếu tố giá cả luôn được quan tâm trong bất cứ hoạt động xuất khẩu nào. Đối ngành thuỷ sản thì giá cả vẫn là, yếu tố hàng đầu để cạnh tranh với chính mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của nước khác trong khu vực và thế giới. Mà nó còn, cạnh tranh những sản phẩm thay thế nó, như thịt lợn, thịt bò... Yếu tố giá luôn tác động trực tiếp tới cầu của mặt hàng trên thị trường thế giới. Khi những mặt hàng thay thế nó mà quá cao dẫn tình trạng người tiêu dùng sẽ chuyển sang tiêu dùng hàng thuỷ sản và ngược lại. Nhưng đối Việt Nam do điều kiện về đầu vào thường rẻ hơn so nước khác (lao động, vốn...) nên việc đầu ra, giá rẻ là điều tất nhiên. Chính những yếu tố giá rẻ là điều kiện để cạnh tranh mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam hiện nay.
Như vậy yếu tố giá là yếu tố mà ảnh hưởng trực tiếp hoạt động xuất khẩu thuỷ sản thế giới. Nhưng hiện nay việc giá cả sản phẩm thuỷ sản phụ thuộc rất lớn vào công nghệ chế biến. Nếu sản phẩm qua chế biến thì giá cả rất cao, hơn so khi xuất khẩu ở dạng thô. Vì vậy hoạt động giá cả luôn yếu tố quan tâm cung cầu của thị trường TSTG.
3.2. Yếu tố thuế, Hạn ngạch.
Hạn ngạch và thuế, cũng là yếu tố cản trở rất lớn việc xuất khẩu thuỷ sản thế giới. Nó tạo ra rào cản để hàng nhập khẩu của các nước khác không vào được. Hoặc trường hợp đánh thuế quá cao làm giảm mặt hàng xuất khẩu của nướ khác, vào trong nước, dẫn tình trạng làm tăng giá cả mặt hàng xuất khẩu. Thì khi đó những mặt hàng xuất khẩu đó do giá qua cao khả năng cạnh tranh mặt hàng trong tương lai là không có, hay đối với hạn ngạch chỉ nhập lượng nhất định sẽ giảm tình trạng xuất khẩu nước khác vào trong nước. Đó là tình trạng của nhiều nước nhập khẩu thuỷ sản trên thế giới hiện nay như: Mỹ, nhiều nước EU. Họ tạo ra hàng rào, thuế quan mức rất cao, làm hàng thuỷ sản nước khác không vào được hoặc vào được thì không có khả năng cạnh tranh được.
Như vậy, yếu tố thuế quan và hạn ngạch ảnh hưởng rất lớ tới xuất khẩu thuỷ sản trên thị trường, thế giới. Nó làm tình trạng hàng thuỷ sản xuất khẩu giảm đi hoặc không khả năng cạnh tranh những mặt hàng thuỷ sản của họ.
3.3. Yếu tố môi trường quốc tế.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và toàn diện đến xu hướn phát triển thị trường thuỷ sản thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng là xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá. Việt Nam đã tham gia các tổ chức: ASEAN, AFTA, APEC... điều này cho thấy Việt Nam đã bước đầu hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với nước ta. Trong thời gian qua ngành thuỷ sản đạt được kim ngạch xuất khẩu là 1,4786 tỷ USD, do một phần có sự đóng góp của việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế và thu hút được nhiều nàh đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp nhiều thách thức như: khi gia nhập AFTA để hưởng được ưu đãi thuế quan CEPT, Việt Nam cần phải tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu chế biến thay vì hàng xuất khẩu thô. Thị trường EU và Mỹ cũng đặt ra các điều kiện cho Việt Nam như HACCP (điều kiện về an toàn vệ sinh thực phẩm).
Thị trường thuỷ sản thế giới trong những năm gần đây có nhiều biến động xu hướng hiệnnay của người tiêu dùng là giảm thiêu thụ thịt tăng tiêu thụ thuỷ sản, và nhu cầu của thế giới về thuỷ sản lại tăng khá ổn định. Năm 1985 xuất khẩu thuỷ sản thế giới đạt 17,2 tỷ USD tới năm 1997 đạt 107,6USD tăng bình quân trên 13%. Giá thuỷ sản cũng tăng khá hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các nước xuất khẩu thuỷ sản, giá tăng xấp xỉ 6% trong khi nhu cầu trên toàn thế giới không giảm. Như vậy, diễn biến nhu cầu và giá thuỷ sản trên thế giới cho thấy tiềm năng phát triển thuận lợi cho Việt Nam trong việc xuất khẩu thuỷ sản.
Khu vực Châu á là thị trường có nhu cầu rất lớn về thuỷ sản, đặc biệt là thị trường Nhật Bản, Trung Quốc và Hồng Kông. Đây là thị trường tiềm năng to lớn về thuủy sản cho những nước xuất khẩu thuỷ sản. Nhật Bản là nước tiêu thụ thuỷ sản lớn trên thế giới, do đó là nước thống soái thị trường nhập khẩu thuỷ sản thế giới. Các nước Châu á, trong đó có Việt Nam là những nước cung cấp thuỷ sản chủ yếu cho thị trường này.
Thị trường Mỹ và EU cũng là các thị trường tiêu thụ lớn thuỷ sản nhưng đây là các thị trường đòi hỏi cao về chất lowngj thuỷ sản và an toàn vệ sinh thực phẩm. Mỹ là thị trường rộng lớn và khá thống nhất về thị hiếu tiêu dùng thuỷ sản so với thị trường EU, nhưng hàng rào thuế quan lại khắt khe hơn. Đối với Việt Nam thị trường này đã có cải thiện đáng kể trong việc nhập khẩu tômg, cá ngừ và nhuyễn thể hai mảnh vỏ... đặc biệt là khi EU công nhận Việt Nam được xuất khẩu thuỷ sản và nhuyễn thể hai mảnh vỏ vào thị trường này.
3.4. Yếu tố môi trường xã hội
Môi trường văn hoá xã hội được coi là một tổ hợp phức tạp gồm nhiều kiến thức, tĩn ngưỡng, luật pháp, nghệ thuật, lý luận và tất cả những thói quen khác mà con người ta đã thu được vì là thành viên của xã hội. Vùng ảnh hưởng của một nền văn hoá có thể trải ra nhiều nước hoặc nhiều vùng.
Thị trường được xây dựng trước hết bởi khách hàng. Khách hàng và và hành vi ứng xử của họ trên thị trường phụ thuộc rất lớn vào môi trường văn hoá xã hội (từ cách sống, cách chi tiêu, lựa chọn sản phẩm...) cũng như các đối thủ cạnh tranh và sử dụng của họ chịu ảnh hưởng của môi trường văn hoá mà họ hoạt động.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xây dựng thuỷ sản, do khách hàng của họ là có quốc tịch khác nhau và do nền văn hoá có đặc trưng riêng, do vậy nhu cầu thị hiếu, thói quen, tập quán tiêu dùng ở các nước là khác nhau. Vì vậy, Việt Nam muốn xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường nảo thì phải nghiên cứu các tham số như: dân số, thu nhập, phân phối thu nhập, tình hình chính trị, chính sách thương mại.
3.5. Yếu tố khủng hoảng, khủng hoảng là yếu tố tác động rất lớn.
3.6. Yếu tố kinh tế công nghệ
Hiện nay, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đảng và Nhà nước chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế và mở cửa ra bên ngoài, tự do buôn bán, kinh doanh xuất nhập khẩu theo khuôn hổ pháp luật cho phép các doanh nghiệp tự giải quyết mọi vấn đề của mình còn Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý, định hướng. Điều này tạo cho doanh nghiệp quyền chủ động sáng tạo nhiều hơn và kinh doanh có hiệu quả hơn.
Yếu tố tỷ giá là yếu tố tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến tới hiệu quả củatm quốc tế nói chungvà hoạt động xuất khẩu nói riêng. Tỷ giá hối đoái tăng sẽ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu. Yếu tố lạm phát và khả năng kiểm soát lạm phát của Chính phủ không chỉ là những nhân tố làm nảy sinh các vấn đề xã hội mà còn tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu.
Thành công của ngành thuỷ sản bắt đầu từ đổi mới cơ chế đầu tư từ bao cấp sang cơ chế tự cân đối, tự trang trải, lấy nguồn thủtong xuất khẩu thuỷ sản để đầu tư lại cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành, gắn việc đầu tư với việc áp dụng công nghệ mới, sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy việc tăng cường đầu tư của ngành sẽ tạo động lực để phát triển ngành, thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản phát triển. Tình hình đầu tư có tác động rất lớn đến ngành thuỷ sản xuất khẩu và chủ yếu tập trung vào một số khâu như: khai thác hải sản, nuôi trồng thuỷ sản, đầu tư cho cơ sở hậu cần dịch vụ nghề cá và cho nghiên cứu các loại giống mới... từ đó tạo nguồn nguyên liệu đầu vào chất lượng tốt cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Bên cạnh đó, tình hình đầu tư còn tác động mạnh mẽ tới việc trang bị các thiết bị, máy móc, công nghệ chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu, nâng dần chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm hàng thuỷ sản xuất khẩu, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đòi hỏi của thế giới và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam.
Khả năng cạnh tranh của thuỷ sản xuất khẩu là nhân tố quan trọng quyết định tới sự phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Nếu sản phẩm có sức cạnh tranh càng cao thì càng dễ được thị trường chấp nhận, cũng có nghĩa là ngành thuỷ sản có triển vọng mở rộng và phát triển. Mà một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu là công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Khoa học công nghệ tiên tiến tác động mạnh đến ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam, chuyển sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản từ sản phẩm chế biến thô, sơ chế là chủ yếu sang những sản phẩm được chế biến sâu, tinh chế.
3.7. Môi trường chính trị và pháp luật
Đây cũng là một trong những nhân tố tác động mạnh mẽ đến việc mở rộng hay kìm hãm sự phát triển, cũng như việc khai thác các cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản.
Nước ta có môi trường chính trị ổn định, tạo điều kiện cho các đối tác của doanh nghiệp tuân theo khuôn khổ pháp luật. Với chính sách đối ngoại, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế, đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 100 nước trong vòng hơn 10 năm đã ký trên 60 hiệp định định thương mại với các nước, tạo cơ sở cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường.
Các luật điều chỉnh các quan hệ trong thương mại quốc tế, tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động. Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vừa phải tuân theo các thông lệ quốc tế, và luật của các nước nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam, vừa phải tuân theo luật pháp trong nước. Tuy nhiên, luật pháp nước ta chưa hoàn chỉnh, cụ thể, chi tiết: đang tiếptục xây dựng và hoàn thiện Luật thuỷ sản. Hơn nữa, các chính sách, quy định đối với các hoạt động xuất nhập khẩu liên tục thay đổi, thêm vào đó đã có những cải cách tích cực nhưng thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, quan liêu, mất nhiều cơ hội kinh doanh củacác doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Tuy nhiên, Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt là từ khi ra đời Nghị định 57/1998 NĐ - CP ngày 31/07/1998 của chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành quyền tự do kinh doanh tất cảu những gì mà pháp luật không cấm, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động. Ngày 25/12/1998, thủ tướng chỉnh phủ đã ra quyết định số 251/1998/CQ-TTg về việc phê duyệt "Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005" đã tạo lực đẩy quan trọng cho việc phát triển của ngành thuỷ sản xuất khẩu.
Như vậy, thể thúc đẩy xuất khẩu thì Nhà nước có vai trò rất lớn trong việc ổn định chính trị, tạo sự ổn định cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu yên tâm sản xuất, thu hút đầu tư của nước ngoài nhằm nâng cao trình độ công nghệ trong nước, ban hành các văn bản pháp luật và dưới luật nhằm giúp các doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật.
Chương II
Thực trạng sản xuất và xuất khẩu
thủy sản Việt Nam thời gian qua.
I. Tổng quan ngành thủy sản Việt Nam
Việt Nam có truyền thống phát triển khá lâu đời về nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Bờ biển Việt Nam có chiều dài hình chữ S với chiều dài 32600 kg, trải dài hơn 13 vĩ độ với khi hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều nên thuận lợi đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Với 112 cửa sông lạch, vùng đặc quyền kinh tế biển khoảng hơn 1 triệu km2, với 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên eo biển, vụng, vịnh, đầm phá và nhiều ngư trường, trữ lượng hải sản gần 3 triệu tấn. Tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản rát lớn với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, 300.000 ha bãi triều, 400.000 ha hồ chứa, sông suối, 600.000 ha ao hồ nhỏ, ruộng trũng có thể đưa vào nuôi trồng thủy sản. Mặt khác chúng ta lại có lượng nước từ các con sông, kênh đào với 2 trong số các hệ thống sông ngòi lớn nhất thế giới, Sông Mê Kông và Sông Hồng là nguồn nước thường xuyên cho vùng biển Việt Nam, những vùng nước này còn là môi trường lý tưởng cho hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.
Với đặc điểm như trên, điều kiện tự nhiên ưu đãi như vậy nghề cá của Việt Nam. Nghề nuôi trồng thủy sản phát triển không ngừng, nó đã, đang và sẽ có vai trò ngày càng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam.
1. Tiềm năng thủy sản
Điều kiện tự nhiên: bờ biển nước ta dài, vùng biển rộng nhưng không phải nơi nào cũng có những loài thủy sản như nhau, khả năng khai thác như nhau và cũng không thể vùng biển nào cũng có thể đánh bắt được. Mỗi vùng có đặc điểm khác nhau và những thế mạnh riêng ví dụ như: Trung bộ có rất nhiều cá, tôm hùm, Bắc bộ có tôm he, cá, Nam bộ có nhiều mực, tôm. Mỗi vùng có nhiều loại hải sản khác nhau làm cho hải sản nước ta ngày càng phong phú hơn, đa dạng hơn.
Nguồn lợi thủy sản Việt Nam có thể ước tính: có 2100 loài cá biển, trogn đó tôm 75 loài tôm biển, 55 loài mực, 653 loài dong biển, 12 loài rắn biển, 4 loài rùa biển và còn nhiều loài đặc sản quý hiếm như: yến sào, sò huyết, ngọc trai, diệp.... Theo tài liệu điều tra nguồn lợi Viện Nghiên cứu hải sản Hải Phòng, tổng trữ lượng thủy sản từ các nguồn ngoài biển trong vùng nước thuộc quyền tài phán của Việt Nam hiện tại ươchính sách tính vào khaỏng 3-3,5 triệu tấn trong đó lượng cá nổi chiếm 62,7% và cá đáy chiếm 37,3% tổng khối lượng có thể đánh bắt từ các nguồn thủy sản này ước tính từ 1,2 - 1,4 triệu tấn hàng năm nghĩa là khoảng 40% tổng trữ lượng thủy sản.
Tài nguyên của chúng ta phong phú như vậy, có thể nói rất đa dạng phong phú. Nhưng không phải là vô tận, nếu chúng ta chỉ biết khai thác mà không tôn tạo thì chắc chắn tài nguyên đó sẽ không còn. Vì vậy, Nhà nước ta phải có chính sách và biện pháp khai thác hợp lý đối với ngành thủy sản. Ví dụ như vào năm 1986 - 1990 hàng nghìn tàu kéo tôm trà sát ở vùng biển tỉnh Minh Hải và Kiên Giang đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên tôm của vùng mà trước đó được mệnh danh là mỏ tôm và còn nhiều vùng khác nữa, tình trạng vẫn còn tiếp diễn. Với vùng nội địa 1,4 triệu ha mặt nước đã hỗ trợ cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, tạo cơ sở cho việc tái tạo nguồn giống thủy sản phát triển cho tương lai
Đó là vài nét sơ lược về tiềm năng thủy sản Việt Nam, từ đó ta có cái nhìn và đánh giá góc độ chính xác hơn về nguồn lợi và từ đó đưa biện pháp khai thác tốt hơn ngành thủy sản Việt Nam.
2. Tình hình đánh bắt thủy sản thời gian qua.
2.1. Tình hình sản xuất thủy sản của Việt Nam
Nguồn nguyên liệu cung cấp cho xuất khẩu thủy sản chủ yếu sản xuất từ hai nguồn chính, từ khai thác nguồn tài nguyên và nguồn nuôi trồng thủy sản. Nhờ lợi thế về tự nhiên như: bờ biển dài, khí hậu, hệ sinh thái thuận lợi, nhiêu loại thủy sản phù hợp điều kiện tự nhiên cho năng súat cao và nhiều laọi có giá trị kinh tế...
+ Khai thác hải sản, vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong phát triển ngành thủy sản. Gần đây, khai thác hải sản có những bước phát triển sản lượng năm sau cao hơn năm trước, góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sản lượng khai thác hải sản Việt Nam không ngừng tăng, góp phần làm tăng lượng sản lượng thủy sản giành cho xuất khẩu.
+ Nuôi trồng thủy sản
Bên cạnh việc đánh bắt thủy sản từ nguồn tài nguyên không ngừng tăng thì nuôi trồng thủy sản ngày càng cho với lượng xuất khẩu lớn. Với việc mở rộng diện tích nuôi trồng, đưa giống mới vào nuôi trồng (tôm càng xanh, tôm chân vàng, nhiều loại cá...) đã cho hiệu quả năng xuất cao và giá cả nâng ao trong xuất khẩu. Việc nuôi trồng người dân chủ yếu quan tâm sản phẩm có gía trị kinh tế cao như: các loại tôm, cá có giá trị và được ưa chuộng hàng năm góp phần rất lớn vào xuất khẩu thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 7. Sản lượng thủy sản nuôi trồng
Năm
Tổng số (tấn)
Chỉ số phát triển (năm trước = 100)%
1990
162.076
98,3
1991
168.104
103,7
1992
172.899
102,9
1993
208.061
120,3
1994
384.084
163,8
1995
439.069
114,3
1996
503.038
114,6
1997
484.593
96,3
1998
525.031
108,3
1999
640.767
122,1
2000
723.000
112,8
2001
879.100
121,59
2002
976.100
111,034
Nguồn: Niên giám thống kê 2001
** Biểu đồ
Chúng ta thấy, sản lượng thủy sản do nuôi trồng tăng đều trong năm. Từ năm 2000 đạt 723.000 tấn nhưng đến năm 2001 là 879.100 tấn và năm 2001 là 976.100 . Phải nói rằng việc tăng sản lượng thủy sản trong năm qua là do chúng ta nỗ lực trong việc mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản. Thực hiện Nghị định 773/QĐ-TTg ngày 21/12/1994 của Thủ tướng Chính phu về việc khai thác, sử dụng đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước ở vùng đồng bằng, diện tích đó đưa vào nuôi trồng thủy sản. Với Nghị định đó nhiều năm nay diện tích nuôi trồng thủy sản tăng nhanh và cho sản lượng thủy sản khá lớn. Từ năm 1995, diện tích nuôi trồng thủy sản chỉ có 585.000 ha thì năm 2000 tăng lên là 652.000 ha (trong đó có 251.000 ha diện tích nuôi tôm sú). Ngoài ra các ngư dân còn tận dụng một lượng rất lớn mặt nước để nuôi cá (đồng bằng sông Cửu Long...) Vì vậy góp phần rất lớn cho sản lượng thủy sản tăng, góp phần cho xuất khẩu.
Mặt khác cùng với việc tăng cường đầu tư khai thác nghề nuôi trồng thủy sản, cũng tiếp tục ứng dụng tiến bộ công nghệ sinh học trong chọn và lai giống, tìm ra giống mới thích hợp môi trường nuôi trồng của nước ta. Đồng thời cũng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào chế tạo thức ăn cung cấp cho nuôi trồng càng ngày phát triển hơn. Cùng nhờ có khoa học kỹ thuật mà chúng ta tìm ra giống cá, tôm ngắn ngày hơn, tốc độ tăng trưởng cao hơn, nuôi trồng trong thời gian ngắn cho thu hoạch yếu tố đó làm sản lượng thủy sản tăng.
Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lồng và cấy ghép các gióng cá giá nhau, cùng nuôi ở một khu vực để tanạ dụng các tầng nước. Việc nuôi thế trước tiên là tận dụng thức ăn cho sinh vật nuô, thứ nữa là tạo ra năng suất cao hơn cho nuôi trồng vì vậy đó là yếu tố tạo cho việc nuôi trồng thủy sản có năng suất cao hơn.
Nhưng nhìn chung nuôi trồng thủy sản Việt Nam tuy đã có khởi sắc phát triển trong mấy năm trở lại đây. Tuy vậy việc nuôi trồng của Việt Nam vẫn chủ yếu là nuôi quảng cách và bán thâm canh (90%), năng suất chăn nuôi nhìn chung thấp hơn nhiều so với khu vực và thế giới. Về ứng dụng khoa học kỹ thuật vào giống và kỹ thuật nuôi đã có bước phát triển, nhưng còn rất chậm chạp, thành tựu chưa được đáng bao nhiêu. Nên năng suất vẫn còn thấp, và con giống sau khi nuôi vẫn sẩy ra sâu bệnh hoặc chết. Đây cũng là thực trạng của nuôi trồng thủy sản Việt Nam hiện nay, tuy sản lượng tăng, nhưng vẫn còn rất nhiều bất cập trong vấn đề nuôi trồng, xuất khẩu những mặt hàng nuôi đó
+ Kết quả đánh bắt phân bố theo cơ cấu
Do điều kiện tự nhiên ở mỗi vùng khác nhau nên việc nuôi trồng và đánh bắt khác nhau giữa các vùng. Mỗi vùng có thế mạnh riêng trong việc nuôi trồng và đánh bắt . Vùng này có thể nuôi loại thủy sản này vùng khác lại mạnh về nuôi loại thủy sản khác.
Tổng sản lượng hải sản khai thác trong 10 năm gần đây tăng liên tục (khoảng 6,6%/năm). Riêng giai đoạn 1991 - 1995 tăng với tốc độ 7,5%/năm; giai đoạn 1996 - 2000 tăng bình quân 9%/năm. Tổng sản lượng khai thác 2000 khai thác đạt 1.200.000 tấn. Sản lượng tăng theo đầu tư và hạn chế bởi mức độ cạn kiệt. Cơ cấu sản phẩm theo các vùng lãnh thổ được trình bày ở bảng dưới đây
Bảng 8. Cơ cấu sản lượng khai thác hải sản theo các vùng lãnh thổ năm 2000
Vùng
Sản lượng (tấn)
%
Bắc Bộ
56.008
4,7
Bắc trung bộ
108.488
9,1
Nam trung bộ
345.558
28,8
Tây nam bộ
566.608
47,1
Đông, nam bộ
123.338
10,3
Cả nước
1.200.000
100
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ngành thủy sản đến năm 2010
Biểu đồ:
Qua biểu đồ ta thấy rất rõ sản lượng khai thác thủy sản nuôi vùng là khác nhau. Nó đánh giá lợi thế nuôi vùng là khác nhau nhưng giường như: chúng ta thấy diện tích nuôi có tác động phần lớn tới sản lượng khai thác hải sản của ngành thủy sản là rất lớn
Vùng Tây Nam bộ (ĐBSCL) có diện tích nuôi lớn nhất so với toàn quốc nên lượng đánh bắt, nuôi trồng rất lớn, cheíem gần một phần hai cả nước là 47,1% nhưng nó đánh giá là vùng đồng bằng Sông Cửu Long có tiềm năng rất lớn cho việc khai thác thủy sản. Với nhiều sông, đầm và bờ biển, môi trường ở đây lại thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Vì vậy, vùng Tây nam bộ là điều kiện cho việc khai thác, nguồn tài nguyên này. Với năm 2000 sản lượng khai thác của ta là 566.608 tấn chiếm 47,1% toàn quốc. Tiếp đó là vùng Nam trung bộ sản lượng 345.558 tấn chiếm 28,8% của cả nước. Sau đó là Đông nam bộ, Bắc trung bộ và Bắc bộ
Tuy nhiên việc khai thác giữa các vùng tăng nên qua các năm là cũng do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chúng ta khai thác tăng là nhờ có sự tăng cường vào đầu tư chương trình khai thác xa bời. Năm 2000 ngành đã đầu tư duy trì 79.017 tàu thuyền máy (tăng 10.517 chiếc so với năm 1996), với tổng công suất 3,1 triệu CV (tăng 5,3 lần so với 1996), số lượng tàu đánh bắt xa bờ đã có 5.896 chiếc với công suất khoản 1 triệu CV, tăng 332 chiếc so với 1999, chứng tỏ xu hướng đầu tư của ngành đã chú trọng đóng tàu có công suất lớn để khai thác thủy sản ở ngư trường xa bờ.
Nhưng sản lượng thủy sản khai thác tăng trong thời gian qua còn do các thành phần kinh tế đã tích cực tham gia vào chương trình đánh bắt xa bờ: đến thời điểm nay có 452 hợp tác xã khai thác thủy sản với 15.650 xã viên và 1875 tàu, có 5542 tập đoàn và tổ hợp tác đánh cá. Ngư dân đã dần nắm bắt được ngư trường, kỹ thuật khai thác nên tỷ lệ sản phẩm đưa vào xuất khẩu tăng 15% so với năm 1999. Ngoài ra công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản còn đã được tăng cường, tầu kiểm ngư đã được đầu tư trang thiết bị cho tất cả các tỉnh ven biển từ TW tới địa phương, cơ sở đã triển khai manh mẽ việc thực hiện pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản và chỉ thị 01/1998/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ
Trên đây là thực trạng cơ cấu đánh bắt thủy sản theo vùng ở nước ta. Với thực trạng từng vùng là cơ sở để chúng ta nghiên cứu để xem vùng nào có thế mạnh để tập trung đầu tư có hiệu quả đó vấn đề đặt ra cho các vùng hiện nay.
2.1.2. Phân bố địa lý đánh bắt thủy sản và nuôi trồng thủy sản
Sự phân bố địa lý mất cân đối giữa miền nam và miền bắc. Mặc dù hầu hết các tỉnh ven biển đều tham gia hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, song tổng đánh bắt của các tỉnh miền bắc Ttừ Quảng Trị trở ra) chỉ là 13% so với đánh bắt hải sản của cả nước năm 2000. Đánh bắt của các tỉnh nam bộ là 54% trong đó riêng 2 tỉnh Kiên Giang và Minh Hải đã khai thác tới 27,5% sản lượng khai thác hải sản của cả nước, gấp 2 lần khai thác của các tỉnh phía bắc
Về tình hình nuôi trồng, việc phân bố khu vực nuôi trồng cũng có những mất cân đối tương tự. Nuôi trồng ở các tỉnh phía bắc chiếm 20% tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng của cả nước. Riêng về, nuôi tôm tập trung ở Nam bộ tới 73% tổng sản lượng tôm cả nước năm 2000, còn lại ở các tỉnh miền trung (7%) trong khi các tỉnh ở miền bắc gồm Quảng Ninh, Thái Bình và Nam Định chỉ chiếm chưa đầy 2,5% sản lượng tôm nuôi toàn quốc. Sự phân bố địa lý không đều trong đánh bắt và nuôi trồng thủy sản có nguyên nhân khác quan trọng là do sự phân bố khoong đều của nguồn tài nguyên biển như đã nêu trên.
ã Về diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản
2.1.3. Những nhận xét chung về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản
Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn tài nguyên đó đã tạo lợi thế so sánh của đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Từ những lợi thế đó là yếu tố khách quan làm tăng sản lượng thủy sản thời gian qua
Tuy nhiên, do những hạn chế về trình độ quản lý cũng như trình độ công nghệ mà việc duy trì nguồn tài nguyên ven bờ cũng bị tàn phá rừng ngập mặn để nuôi tôm, tàn phá môi trường sinh thái và gây ra những hậu quả có thể rất nghiêm trọng đến việc duy trì nguồn tài nguyên thủy sản lâu dài.
2.2. Ngành công nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam
Sau khi chính phủ ban hành Nghị quyết 18/CP về phát triển công nghệ sinh học (CNSH) ở Việt Nam, các cơ sở nghiên cứu và đơn vị sản xuất kinh doanh có liên quan đến CNSH trong ngành thủy sản đã xây dựng chương trình hành động cụ thể để thực hiện nghị quyết đó. Trong quá trình triển khai, đã coi trọng việc quán triệt quan điểm và mục tiêu phát triển CNSH chung của cả nước gắn với thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của các chương trình kinh tế xã hội quan trọng của ngành nhằm đưa nhanh tiến bộ CNSH vào sản xuất nghề cá ở nước ta.
Ngoài những kết quả về tăng cường đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao năng lực nghiên cứu cho các cơ sở nghiên cứu trong ngành từ năm 1994 đến nay, các Viện, Trung tâm nghiên cứu đã triển khai thực hiện rất nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng CNSH trong các lĩnh vực giống, sản xuất thức ăn phòng ngừa dịch bệnh, quản lý môi trường, kiểm tra chất lượng vệ sinh thủy sản trong chế biến thủy sản
Về ứng dụng công nghệ sinh học trong nghiên cứu về giống.
Hơn 20 đề tài nghiên cứu về gióng thủy sản trong thời gian qua đã ứng dụng công nghệ gen; lai tạo và điều khiển giới tính nhằm nâng cao phẩm giống, cong nghệ nuỗi vỗ thuần thục thủy sản bố mẹ; công nghệ ương, ấp và nuôi dưỡng trứng từ giai đoạn sau thụ tinh của trứng đến giai đoạn giống; thức ăn công nghiệp có liên quan đến quá trình nuôi dưỡng động vật thủy sản.
Cho đến nay đã sản xuất thành công nhiều đối tượng thủy sản ở Việt Nam, cung cấp giống cho sản xuất với khối lượng lớn và chất lượng được nâng cao. Có thể kể đến:
+ Giống tôm sú (Penaeus monodon): Công nghệ sản xuất giống tôm sú đã được áp dụng rộng rãi cho nhiều địa phương trong cả nước 11 tháng đầu năm 2002 ước sản xuất 16,5 tỷ giống tôm sú P15
+ Giống tôm rảo (Metapenaeus ensis) đã cho đẻ thành công, xây dựng quy trình sản xuất giống và nuôi tôm rảo. Hiện có 12 tỉnh đang được chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi tôm rảo. Ngoài ra cũng có đã cho đẻ thành công tôm càng xanh (Macrobaranchium rosenbergii), tôm nương (P.orientalis), tôm bạc (P.merguiensis)
+ Cua biển (Scylla spp) và ghẹ xanh: đã nghiên cứu thành công quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm 2 đối tượng này. Đã sản xuất giống và nuôi một số loài động vật thân mềm như ốc hương, điệp, trai biển, trai nước ngọt, bào ngư, hiện đang được áp dụng vào sản xuất tại nhiều nơi.
+ Nhóm cá biển: Đã nghiên cứu quy trình sản xuất giống cá gò, cá vược, cá song. Năm 2002, lần đầu tiên đã cho đẻ và ương đạt tỷ lệ sống cao giống cá song, sản xuất được khoảng 20 vạn cá song chấm giống và hàng vạn cá giò cung cấp cho khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ An, Vũng Tàu
+ Nhóm cá nước ngọt: đã lưu giữ và bảo quản quỹ gen cá nước ngọt gồm 27 loài, dòng và giống gốc. ứng dụng công nghệ điều khiển sinh sản nhân tạo thành công một số loài cá nước ngọt: chép, mè trôi, trắm cỏ, mè vinh, basa, tra, bống, quả, bống tượng, rô đồng, cá chim trắng. Hàng năm sản xuất trên 10 tỷ cá bột một số loài cá nước ngọt chủ yếu, cung cấp đủ giống cho sản xuất.
Kết quả nghiên cứu nổi bật trong những năm gần đây là ứng dụng côngng hệ di truyền điều khiển giới tính tạo đàn cá rô phi siêu đực, cá mè vinh toàn cái, giải phẫu tuyến andrrogenic để điều khiển giới tính tôm càng xanh, thông qua chọng giống cá rô phi dòng GIFT đã nâng cao tốc độ sinh trưởng 18% sau 2 thế hệ giống. Công nghệ sản xuất giống cá rô phi siêu đực dòng GIFT đã sản xuất khaỏng 75 vạn cá giống cung cấp cho 25 tỉnh. Hiện nay giống này rất được ưa chuộng và có nhu cầu cao để phát triển nuôi cá rô phi siêu đực xuất khẩu trong những năm đến. Đã xây dựng quy trình bảo quản tinh một số loài cá nước ngọt, một số loài vi tảo, bước đầu nghiên cứu các marker ADN phục vụ chọn giống, nâng cao tốc độ sinh trưởng cá tra, tôm su và marker ADN liên quan đến màu sắc thịt cá tra
+ Nhóm rong biển: đã nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất giống một số loài rong biển kinh tế như sản xuất giống dinh dưỡng rong câu chỉ vàng (Gracilaria asiatica) rong câu cước (G.heteroclada) rong câu thắt (B.blodgettii), rong câu sợi mảnh (G.tenuistipitata) rong sụn (Kappaphycú alvarezii)
Về ứng dụng CNSH trong nghiên cứu thức ăn cho động vật thủy sản nuôi.
Đã ứng dụng công nghệ điều khiển môi trường nôi sinh khối vi tảo cung cấp thức ăn cho quá trình ương một số loài thủy sản nuôi, công nghệ sản xuất thức ăn công nghiệp trong nuôi trồng thủy sản.
* Về ứng dụng công nghệ sinh học trong phòng ngừa dịch bệnh thủy sản.
Đã nghiên cứu xây dựng được quy trình kỹ thuật phát hiện virus gây bệnh đốm trắng, đầu vàng ở tôm sú bằng phương pháp PCR, hiện được áp dụng mở rộng trong kiểm dịch bệnh tôm sú, giúp sản xuất kiểm tra chất lượng giống tôm
* Về ứng dụng công nghệ sinh học trong quản lý môi trường nuôi thủy sản.
Đã nghiên cứu bước đầu xử lý chất thải bùn ao nuôi tôm, xử lý nước sạch cung cấp cho ao nuôi tôm, nước thải của các ao nuôi tôm bằng công nghệ vi sinh hoặc sử dụng công nghệ nuôi ghép rong câu, nuôi hàu, vẹm xanh trong hệ thống nuôi tuần hoàn nước hoặc áp dụng phương pháp nuôi sinh thái, nuôi sạch bằng chế phẩm sinh học. Vấn đề nuôi sinh thái và nuôi sạch đang được khuyến khích áp dụng trong nuôi trồng thủy sản hiện nay nahừm bảo đảm tạo ra sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
* Về ứng dụng công nghệ sinh học trong kiểm tra dư lượng kháng sinh, thuốc trừ sâu, kim loại nặng và độc tố, tạo độc trong động vật thủy sản.
Đã áp dụng các phương pháp mới nhất về vi sinh vật học của NMKL (Bắc Âu), AOAC và FDA (Hoa Kỳ) để kiểm tra chất lượng hàng thủy sản. Triển khai áp dụng thành công kỹ thuật ELISA (kỹ thuật miễn dịch gắn enzim đặc hiệu) là kỹ thuật tiên tiến trong ngành sinh học phân tử để phát hiện nhanh dư lượng chloramphenicol trong sản xuất thủy sản. Trong thời gian tới sẽ mở rộng các chỉ tiêu kiểm tra dư lương jchất kích thích sinh sản, sinh trưởng, histamin và một số kháng sinh bị cấm khác. Đã nghiên cứu áp dụng kỹ thuật PCR để phát hiện nhanh với độ chính xác cao các vi sinh vật gây bệnh có trong sản phẩm thủy sản như Salmonella, Shigella. Kết quả bước đầu đã giúp ngành sản xuất từng bước kiểm soát môi trường và giảm thiểu dư lượng các chất kể trên trong động vật thủy sản nuôi.
* Về ứng dụng công nghệ sinh học trong chế biến thủy sản
Đã nghiên cứu công nghệ chiết suất một số chất có hoạt tính sinh học: phycoerythrin, phycocyanin, carageenan từ rong đỏ, enzim proteinaza, astaxanthin tư vỏ đầu tôm,. công nghệ sử dụng chitosan nâng cao hiệu suât thu hồi agar trong rong đỏ, một số chất có hoạt tính sinh học cao trong sam biển. Đã áp dụng công nghệ enzim trong sản xuất nước mắm. Đã nghiene cứu và sử dụng quy trình công nghệ làm lạnh nước biển bảo quản sản phẩm hải sản phục vụ cho các tàu đánh cá xa bờ, giảm rõ rệt chi phí mua và vận chuyển đá. Một vấn đề quan trọng trong lĩnhv ực chế biến thủy sản hiện nay là nước thải của nhiều xí nghiệp chế biến thủy sản có mức độ ô nhiễm vượt quá nhiều lần so với quy định cho phép. Để bảo vệ môi trường chung, trong thời gian qua đã có khoảng 50% số nhà máy chế biến thủy sản của Việt Nam đã áp dụng công nghệ xử lý thải. Nhiều cơ sở chế biến thủy sản đã mạnh dạn đầu tư nhập công nghệ và xây dựng hệ thống xử lý thải.
Về mặt quản lý, trong quá trình thực hiện Nghị quyết 18/CP, ngành thủy sản đã nghiên cứu và xây dựng nhiều văn bản pháp quy, quy trình, quy phạm về quản lý môi trường, giống thuốc, chế phẩm sinh học, thức ăn, xây dựng nhiều tài liệu hướng dẫn kỹ thuật về các mô hình nuôi trồng và chế biến thủy sản có liên quan đến công nghệ sinh học
Kết quả ứng dụng công nghệ sinh học trong các hoạt động sản xuất của ngành thủy sản thời gian qua đã góp phần quan trọng tạo ra các kỹ thuật bảo vệ sản xuất giống, quản lý môi trường, kiểm soát bệnh dịch, phát triển nuôi trồng thủy sản, mở rộng chế biến, góp pahảm đảm bảo kinh tế thủy sản tăng trưởng nhanh chóng. Năm 2002, tổng sản lượng thủy sản đạt 2,410 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,014 tỷ USD
Thời gian tới, ngành thủy sản tiếp tục thực hiện Nghị quyết 18/CP của chính phủ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong mọi lĩnh vực nghiên cứu và thực tiễn sản xuất của ngành, thông qua chú trọng các giải pháp về đào tạo bổ sung nguồn nhân lực, ưu tiên triển khai các đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ sinh học... nhằm mục tiêu đưa nhanh các tiến bộ về công nghệ sinh học vào sản xuất nghề cá nước ta, tạo khối lượng lớn sản phẩm thủy sản đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành và của kinh tế đất nước.
II. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
1.Mạng lưới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Bảng 1.1 Các đầu mối xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu ở Việt Nam.
(Đơn vi:TriệuUSD)
STT
Tên
Mặt hàng XK chính
Tỷ trọng
XK2001
Thị trường
-Tổng công ty thuỷ sản Việt Nam(Seaprodex)
Tôm, Mực, Cua, Cá các loạivà các loại hải sản thân mềm
124
Nhật Bản, Trung Quốc, Singapo, Mỹ..
-Công ty XNK Minh Hải
Tôm, Cá đông lạnh, Mực đông
< 14
Nhật, Singapo, Nhật, Đài Loan
-Công ty CBĐông lạnh Nha Trang
Tôm Đông Lạnh, Cua
20
Nhật, Đài Loan
-Công ty XNK Tổng hợp Cà Mau
Tôm đông, Nhuyễn thể đông, thuỷ sản khô
36
Nhật , Các nước ASEAN
-Công ty Cá hộp Hạ Long XK
Cá đông lạnh, Cá hộp
4,8
CHLB Đức, LiBi, Trung Quốc.
Nguồn : Bộ thuỷ sản, Tổng cục thống kê 9/2001.
Các công ty xuất khẩu thuỷ sản lớn của Việt Nam là Tổng công ty thuỷ sản Việt Nam, Công ty xuất nhập khẩu Thuỷ sản Minh Hải, Công ty thuỷ sản xuất nhập khẩu tổng hợp Sóc Trăng, Công ty chế biến thuỷ sản xuất khẩu Nha trang, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp Cà Mau.... dù còn nhiều vấn đề phải giải quyết, nhưng các công ty đã cố gắng để thích ứng dần với môi trường kinh doanh quốc tế và đạt được vị trí nhất định trên thị trường thuỷ sản quốc tế thông qua việc cung cấp dạng sản phẩm xuất khẩu phong phú ( hầu như mọi dạng sản phẩm thuỷ sản) ra hầu như khắp thị trường thuỷ sản lớn của thế giới như Nhật Bản , Hoa Kỳ và liên minh châu Âu ( dù rằng xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn là lớn nhất).
* Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Tổng công ty Thuỷ sản Việt Nam- (SEAPRODEX) : thị trường trọng điểm của công ty là Nhật Bản chiếm 51% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty sau đó là các nước ASEAN( 8%) và EU( 8%). Xuất khẩu sang Mỹ chỉ chiếm 2% trị giá xuất khẩu ra các nước khác. Như vậy, xuất khẩu sang Đông và Đông Nam á chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của SEAPRODEX, một tỷ lệ nhỏ khoảng 10% được xuất khẩu sang EU và Mỹ ....Cơ cấu xuất khẩu của SEAPRODEX có thể đại diện cho cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản chung của cả nước như đã phân tích ở phần trên.
Cơ cấu này cũng phản ánh những mất cân đối về thị trường xuất khẩu ( tập trung lớn vào thị trường khu vực Châu á) và giải thích trình độ kỹ thuật nghiệp vụ chưa cao của doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số công ty xuất nhập thuỷ sản khác của Việt Nam, thì thị trường truyền thống xuất khẩu của họ cũng là Nhật Bản, các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực , trong đó Singapo hoặc Đài Loan hoặc Hồng Kông là bạn hàng lớn thứ hai sau Nhật Bản. Chẳng hạn công ty chế biến thuỷ sản đông lạnh Nha Trang xuất khẩu hàng năm 20 triệu đôla hàng thuỷ sản, thì xuất khẩu sang thị trường Nhật là 13 trỉệu đôla, xuất khẩu sang Đài Loan là 5 triệu đôla, Công ty xuất khẩu tổng hợp Cà mau xuất khẩu hàng năm 36 triệu đôla hàng thuỷ sản thì riêng xuất sang thị trường Nhật đã là gần 30 triệu đôla, các nước ASEAN 1,1 triệu đôla, hay Công ty xuất khẩu Minh Hải xuất khẩu trên 14 triệu đôla thuỷ sản thì có tới 13 triệu là xuất sang thị trường Nhật, công ty cổ phần ngoại thương và phát triển đầu tư thành phố Hồ Chí Minh-FIDECO xuất khẩu 10,9 triệu đôla hàng thuỷ sản năm 1996 thì riêng xuất sangthị trường Nhật đã là 9,4% triệu đôla còn lại là xuất khẩu sang Singapo 0,67 triệu và Hồng Kông 0,53 triệu đôla..
Điều này hoàn toàn có thể giải thích được, ngay cả khi chúng ta so sánh xuất khẩu với các nước trong khu vực như Inđônêxia chẳng hạn, Nhật Bản là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ nhất thế giới, Nhật Bản ở gần Việt Nam hơn, hơn nữa Nhật Bản cũng quan tâm khai thác nguồn hàng từ các nước trong vùng, sự gần gũi về địa lý do kinh tế , kỹ thuật khác.
Công ty cá hộp Hạ Long, xuất khẩu 4,8 triệu đôla cá đông lạnh và cá hộp xuất khẩu chủ yếu đi CHLB Đức và LiBi( những thị trường không truyền thống của Việt Nam ) -3,8 triệu đôla còn lại 1 triệu đôla là xuất khẩu sang Trung Quốc.
Xuất khẩu chủ yếu sang Nhật Bản và các nước ASEAN, ngoài những thuận lợi trên, các công ty xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cũng phải đương đầu với những khó khăn lớn.
+Thứ nhất, đó là việc cảm thấy có thị trường tiêu thụ dễ tính hơn sẽ làm giảm tính năng động và những nỗ lực của các công ty trong việc thực hiện đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
+Thứ hai, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tuy chủ yếu là sang các thị trường nêu trên nhưng các nước khác trong vùng cũng xuất khẩu lớn vào thị trường lớn vào thị trường này và họ thường là những nhà xuất khẩu hàng đầu sang các thị trường đó chẳng hạn như Inđônexi, Thái Lan, ấn độ, Trung quốc là những là xuất khẩu tôm lớn nhất không những sang Nhật Bản mà còn sang mọi thị trường khác của thế giới. Việt Nam hiện nay đang là lực lượng thách thức, tuycác đối thủ phải đè chừng nhưng những nước trên vẫn giữ vai trò quyết định trên thị trường, và nếu họ gặp khó khăn ở trên thị trường khác thì họ cũng dễ dàng hơn nhiều trong việc củng cố thị phần ở thị trường do họ đứng đầu và như vậy Việt Nam sẽ rất khó khăn trong việc tăng thị phần hay thực hiện một ý đồ thương mại nào đó( vấn đề giá cả, tìm bạn hàng mới hay đưa sản phẩm mới vào thâm nhập thị trường...)
Ví dụ: Inđônêxia là nước xuất khẩu tôm lớn nhất sang thị trường Nhật bản những năm qua và có những lợi thế cơ bản của nước đứng đầu như sau:
* quan hệ truyền thống với các nhà đầu tư và nhập khẩu , Nhật Bản đã giúp cho sản phẩm của Inđônêxia có vị trí vững vàng trên thị trường Nhật bản.....
Chính các nhà nhập khẩu Nhật Bản chứ không phải các nhà xuất khẩu Inđônêxia đã làm cho người tiêu dùng Nhật Bản quên thuộc với những loại tôm của Inđônêxia ngay cả tôm sú nuôi của Inđônêxia cũng được chấp nhận rộng rãi ở NhậtBản vì chất lượng tốt thậm chí giá có cao hơn từ các nguồn cung cấp khác.
* Vì có quan hệ truyền thống rất gắn bó với các nhà nhập khẩu Nhật Bản, các nhà chế biến và xuất khẩu Inđônexia coi thị trường Nhật Bản là thị trường lớn nhất và là sự lựa chọn đầu tiên của họ. Vì Nhật Bản là thị trường trả giá cao nhất so với các thị trường khác trong khi cũng đòi hỏi rất cao về chất lượng, các vấn đề trong buôn bán cũng như các vấn đề khác nhiều khi được giải quyết không chính thức để đảm bảo lợi ích của cả hai bên. Liệu Việt Nam có thể được ưu ái như vậy của thị trường Nhật Bản hay không? Dù rằng để đổi lại các nhà sản xuất và chế biến Inđônexia luôn bày tỏ thiện chí đối với thị trường Nhật Bản và đảm bảo giữ vững thị phần ở thị trường này. Khi sản lượng giảm sút, Inđônêxia có thể giảm xuất khẩu sang các thị trường khác cũng vẫn cố gắng duy trì xuất khẩu sang Nhật Bản .... Ngoài ra, khi những thị trường này có khó khăn hay trì trệ, chẳng hạn những khó khăn về kinh tế tài chính ở các nước Đông và Đông Nam á hiện nay, với sự trì trệ nhập khẩu của các thị trưòng NhậtBản , Hàn Quốc... sẽ gây khó khăn lớn hơn cho các nhà xuất khẩu thuỷ sản, Việt Nam khi không có được các thị trường thay thế và họ không đủ mạnh so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Xét về cơ cấu dạng sản phẩm xuất khẩu, hàng thuỷ sản đông lạnh chiếm gần 70% tổng giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu của tổng công ty ( Tôm đông là 39%, Mực đông là 17%, Cá đông là 10%, Cua đông gần 1%, Nhuyễn thể đông là 1%, thuỷ sản khô chiếm 5% còn lại là các loại sản phẩm khác. Cơ cấu này mang tính điển hình của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và có thể đại diệncho cơ cấu xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại về hàng thuỷ sản ở Việt Nam như Công ty xuất nhập tổng hợp Cà Mau, Công ty FIDECO, Công ty thuỷ sản xuất nhập khẩu tổng hợp Sóc Trăng- STAPIMEX...
Tuy nhiên cơ cấu trên không đại diện cho các đơn vị chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩuchuyên môn hoá như Công ty đồ hộp Hạ long sảnphẩm xuất khẩu chủ yếulại là Cá hộp ( 79%) , Cá đông lạnh ( 21%) hay Công ty chế biến thuỷ sản xuất khẩu Nha Trang xuất khẩu chủ yếu hàng thuỷ sản đông lạnh ( trên 95%, riêng tôm đông 93%), Xí nghiệp cầu tre xuất khẩu 100% hàng thuỷ sản đông lạnh gồm các loại cá, cua, mực và các loại nhuyễn thể khác...
Điều cũng cần phải nói thêm là, ngoài sự mất cân đối về tỷ lệ giữa cá và các loại giáp xác, nhuyễn thể đông lạnh ( Việt Nam 10% cá và 60%-70% giáp xác và nhuyễn thể /100% xuất khẩu thuỷ sản, thế giới 40%cá, 33% giáp xác và nhuyễn thể / 100% xuất khẩu thủy sản) thì thống kê về xuất khẩu của thế giới còn bao gồm cả dạng cá và giáp xác, nhuyễn thể tươi sống hay ướp đá nữa còn của Việt Nam tỷ lệ trên hầu hết là đông lạnh sơ chế và chính dạng sản phẩm thuỷ sản sống được xem như một dạng thuỷ sản buôn bán quốc tế có giá trị gia tăng cao, vì vậy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam còn vấn đề lớn phải giải quyết là cơ cấu dạng sản phẩm xuất khẩu.
2.Thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Hơn 10 năm với sự nỗ lực trong việc tăng cường và mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản. Từ chỗ chỉ xuất khẩu qia 2 thị trường trung gian là hồng công và Singapo, thì ngày nay sản phẩm của Việt Nam đã có mặt ở 62 quốc gia trên khắp thế giới và được nhiều quốc gia ưa chuộng. Đặc biệt vào năm2001 Việt Nam đã có 49 doanh nghiệp được EU công nhận vào danh sách xuất khẩu thuỷ sản và nhuyễn thể hai mảnh vỏ, 60 doanh nghiệp được công nhân vào thị trường Bắc Mỹ đã góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Hiện nay chúng ta có 5 thị trường xuất khẩu chính Nhật Bản, Mỹ, EU, Trung Quốc và khu vực Đông Nam á. Mỗi thị trường có đặc tính khác nhauvà cho lượng kim ngạch xuất khẩu khác nhau thể hiện cơ cấu sau.
Bảng: Cơ cấu thị trường thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam.
Đơn vị: Kim Ngạch xuất khẩu thuỷ sản: triệu USD
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
KNXKTS cả nước
670
776
858,6
971
1478,6
1760,1
2021
KNXKTS vào Nhật Bản
319,34
360,413
347,103
353,378
469,022
471,03
540,1
Tỷ trọng
47,6
46,4
40,4
42,46
33
27%
KNXKTS vào Mỹ
28,527
42,652
81,551
125,595
304,359
500,8
600,9
Tỷ trọng
4,25
5,5
9,5
13
20,58
32%
KNXKTS vào Eu
34,799
69,619
91,539
89,113
100,263
Tỷ trọng
5,2
8,97
10,66
9,17
6,78
KNXKTS vào T.Quốc Hồng Kông
91,881
118,013
137,515
117,098
213,156
279
314
Tỷ trọng
13,7
15,2
16,01
12,06
19,8
15,7%
KNXK thị trường khác
195,453
185,303
200,89
226,816
Tỷ trọng
32,1
24,7
23,3
23,25
19,9
Nguồn: Qui hoạch tổng thể PT KT - XH
Để hiểu được rõ khả năng, nhu cầu mỗi thị trường thì ta đi vào từng thị trường riêng biệt sau:
2.1. Thị trường Mỹ.
Đây là một thị trường có sức mua lớn với những đặc sản có giá trị cao ngày càng dễ bán, nhưng phải đạt tiêu chuẩn HACCP và phải bảo đảm điều kiện cam kết. Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này là 28,527 triệu USD và đạt tỷ trọng 4,25% đến năm 1999 đạt là 125,595 triệu tấn, năm 2000 lên 304,359 triệu USD tăng 2,32 lần năm 2001 tăng 500,1 triệu USD tăng so năm 1999 là 3,85 lần và năm 2002 lên 600,9 triệu USD tăng so năm 1999 là 4,62 lần. Thị trường Mỹ từ năm 2001 - 2002 đã chiếm nguôi đầu bảng với tỷ trọng chiếm khoảng 32% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản hàng năm của Việt Nam.
2.2. Thị trường Nhật Bản
Hai mươi năm qua nhật bản vẫn là thị trường nhập khẩu thuỷ sản với khối lượng lớn từ Việt Nam, bởi vậy đã có 150 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản năm 1996 là 319,34 triệu USD và đạt tỷ trọng là 47,6% đến năm 1999 là 319,34 triệu USD và đạt tỷ trọng là 47,6% đến năm 1999 là 353,378 triệu USD; năm 2000 là 469,022 triệu USD năm 2001 đạt 471 triệu USD và đến năm 2002 đã đạt 540 triệu USD, chiếm tỷ trọng 27%. Nhưng ta thấy tỷ trọng của thị trường này có xu hướng giảm dần vào những năm gần đây.
Việc giảm tỷ trọng này được giải thích như sau:
Năm 1997, do ảnh hưởng biến động kinh tế trong khu vực và do sự mất giá của đồng Yên. Mặt khác do một số nước bị đình chỉ hay bị hạn chế xuất hàng sang EU nên đã chuyển sang thị trường khác trong đó có thị trường Nhật Bản, tạo cạnh tranh gay gắt với hàng thuỷ sản Việt Nam. Bên cạnh đó, chính phủ Nhật Bản tăng thuế ban hàng đã khiến hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam tại Nhật Bản giảm về tỷ trọng. Tuy nhiên Nhật Bản vẫn là thị trường chiếm tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất, vào thời điểm 1997 là 47,6% và hiện nay đứng thứ 2 sau Mỹ là 27%
Vào năm 2002 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này 540,1 tỷ USD xuống mức thấp nhất từ trước tới nay 27%. Trong năm2002 nền kinh tế vẫn bị suy thoái đồng Yên bị mất giá so với đồng USD. Tuy nhiên nếu so với tỷ trọng 80% của thị trường Nhật vào đầu thập kỷ 90 thì ta thấy rõ quá trình đa dangj hoá thị trường, giảm sự lệ thuộc vào một thị trường duy nhất xuất khẩu Việt Nam.
Kết luận: Thị trường khổng lồ này thì thị phần Việt Nam vẫn khiêm tốn. Nếu chúng ta tập trung khai thác triệt để hơn thì khả năng lớn xuất khẩu của Việt Nam còn lớn hơn. Vì vậy chúng ta nhanh chóng tiến cải tiến công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu để nâng cao chất lượng sản phẩm đó, bên cạnh đó chúng ta đa dạng hoá hơn nữa những sản phẩm xuất khẩu như đồ hộp, nhuyễn thế hai vỏ...
2.3. Thị trường Trung Quốc - Hồng Kông
Với đất nước 1,3 tỷ dân đang yêu cầu về hàng thuỷ sản rất phong phú và đa dạng, chất lượng từ thấp tới cao. Đây chính là cơ hội tạo cánh cửa "mở rộng" để các hàng thuỷ sản Việt Nam thâm hập dễ dàng hơn. Tầng lớp giàu có đòi hỏi hải sản phải "chất lượng cao" bởi họ "sính" hàng nhập khẩu hơn hàng xuất trong trong nước còn đại đa số người Trung Quốc có mức sống trung bình nên hàng thuỷ sản cũng không đỏi hỏi chất lượng cao họ thích ăn hàn khô, muối, được tiêu thụ rất mạnh ở các tỉnh giáp biên giới.
Nắm bắt nhu cầu đó, chúng ta nhanh chóng sản xuất mặt hàng thích ứng cho từng đối tượng tiêu dùng, thâm nhập sâuvào thị trường Trung Quốc, do vậy giá trị hàng thuỷ sản Việt Nam vào Trung Quốc trong những năm gần đây đạt mức cao: năm 1996 kim ngạch xuất khẩu 91,881 triệu USD, đến năm 1999 là 117,098 triệu USD, năm 2000 là 223,156 triệu USD năm 2001 là 279 triệu USD và năm 2002 là 314 triệu USD chiếm 15,7%.
Số doanh nghiệp đặt chân và thâm nhập được vào thị trường Trung Quốc cũng ngày càng tăng. Nếu năm 1998 mới có 52 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc thì đến năm 2002 ta có 100 doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc.
Thuận lợi lớn nahát khi thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc hiện nay là về chất lượng người tiêu dùng chưa đòi hỏi khắt khe như thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản. Mặt khác khi đã quen hãng thì thị trường này tiêu thụ khối lượng lớn, có những mặt hàng chúng ta không cung cấp đủ. Dự kiến đến năm 2005 nhu cầu thuỷ sản của Trung Quốc có thể vượt trên EU chỉ đứng sau Mỹ và Nhật Bản... Phải thắng đây là cơ hội lớn cho ngành thuỷ sản nước ta.
2.4. Thị trường EU
Với 15 thành viên, 337 triệu dân, GDP hơn 9.000 tỷ USD/năm nên hàng năm thị trường này chủ yếu tiêu thụ những mặt hàng có chất lượng cao. Đây là thị trường nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam lớn thứ ba, với mức tiêu thụ thuỷ sản lớn, trung bình khoảng 17kg/người/năm, tăng dần hàng năm 3%. Giá mặt hàng thuỷ sản ở thị trường EU cũng cao, hơn so thị trường Châu á trung bình khoảng 1,1, - 1,4 lần và có tính ổn định. Trong 15 nước Việt Nam đã có quan hệ thương mại 12 nước, áp dụng thống nhất chính sách và chế độ quản lý xuất khẩu cho 15 nước.
Việt nam bắt đầu quan hệ ngoại giao với EU từ tháng 10/1980 tính đến nay có quan hệ hơn 10 năm. Từ tháng 1/1995, hai bên tham gia hiệp định khung hợp tác thương mại Việt Nam - EU Việt Nam hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP. Theo chế độ này, tuỳ theo mức độ nhạy cảm của hàng hoá (mức độ ảnh hưởng đến sản xuất của EU) mỗi mặt hàng có thể giảm từ 15,3 - 65% mức thuế MFN áp dụng một hàng đó thậm chí còn được miến thuế. . NHờ đó kim ngạch xuất khẩu sang EU chiếm khoảng 20-28% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong số hàng hoá xuất khẩu chủ yếu song EU thuỷ sản là mặt hàng quan trọng, chiếm khoảng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU. Giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào EU năm 1996 là 34,7999 triệu USD chiếm tỷ trọng là 5,2%, đến năm 1999 là 89,113 triệu USD chiếm 9,57% trong tổng kim ngạch cả nước. Vì yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm nên hàng thuỷ sản Việt Nam không được EU đánh giá cao. Năm 2000 Việt Nam chỉ có 18 doanh nghiệp được EU công nhận danh sách I xuất khẩu vào EU và hiện nay kim ngạch cuả Việt Nam vào thị trường EU chỉ ổn định trong khoảng 80-100 triệu USD.
Tóm lại thị trường EU là thị trường rộng lớn nhưng đòi hỏi chất lượng cao yếu tố chế biến vẫn là yếu tố hàng đầu trong thị trường này. Vì vậy, để cải biên thị phần trong thị trường này thì Việt Nam cải biến công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm.
2.5. Thị trường khác.
Ngoaif các thị trường chính ở trên, với chủ trương mở rộng tìm kiếm thị trường xuất khẩu của bộ thuỷ sản, Bộ thương mại với thị trường khác: ASEAN, úc, Đài Loan... Được nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan tâm hơn.
- Thị trường khu vực ASEAN là thị trường dễ tính hàng năm nhập khẩu hàn thuỷ sản Việt Nam với tỷ trọng cao và tăng đều qua các năm. Hàng thuỷ sản xuất khẩu trong khu vực chỉ đứng sau đầu thô, gạo, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường khu vực năm 2000 là 79,889 triệu USD (chiếm 5,4%) tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước.
- Thị trường Hàn Quốc: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào thị trường này năm 2000 là 73,02 triệu USD. Hiện nay chính phủ Hàn Quốc đã triển khai chính sách bảo vệ nguồn lợi biển và ký các hiệp định nghề cá đơn phương và đa phương với Nga và T.Quốc, sẽ cắt giảm và hạn chế sản lượng khai thác trong 5 năm tới. Hiệp định này tăng cường nhập khẩu từ các nước, trong đó có Việt Nam.
- Thị trường Đài Loan: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Đài Loan khá cao 1999 là 55,171 triệu USD đến năm 2000 là 68,233 triệu USD. Năm 1999 khi chính quyền Đài Loan công bố chính sách mới về quản lý hàng nhập khẩu bằng han ngạch, giấy phép và kiểm dịch đối một số mặt hàn trong đó có thuỷ sản nên đã hạn chế doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này. Tuy nhiên thị trường này vẫn phát triển, đây là thị trường tiêu thụ nhiều tôm sú, cá cơm và mực ống, đặc biệt là cá ngư với giá tương đối ổn định và năm 2002 tốc độ tăng trưởng thị trường này là 5%.
Ngoài ra còn nhiều thị trường khác cũng có thị phần xuất khẩu của Việt Nam tương đối như Canada, Nauy....
3.Những mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Để đáp ứng nhu cầu thị trường thị trường của các nước trong khu vực và thế giới những sản phẩm được ưa chuộng, tiêu dùng. Trên cơ sở tiềm năng kinh tế, chúng ta nuôi trồng và khai thác các loại sản phẩm chủ yếu; tôm, mực …vv. Chủ yếu là sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam những sản phẩm này được ưa chuộng chủ yếu ở các nước Nhật Bản,Mỹ,Hồng Kông.Nó đạt được thể hiện qua bảng sau:
Bảng: Tổng hợp tình hình sản phẩm chủ yếu (1995- 2001)
STT
Sản phẩm
1995
1998
1999
2001
2002
1
Cá
209142
2856626
335979
391053
421020
2
Tôm
55316,0
54886,4
57452,0
93503,1
154911.0
3
Mực khô
4012
4100
3585
3212
4010
4
Thuỷ sản
3320
5724
5984
8865
14500
Trong những sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam hiên nay cả đang chiếm vị trí đầu, có giá trị kinh tế cao. Cá là sản phẩm thực sự mang lại giá trị gía trị suất khẩu cho nền kinh tế thuỷ sản Việt Nam. Cá rất phong phú về chủng loại như: Cá tra- Cá ba sa, cá hồng 4,16%, cá mòi 7,17%, cá chim ấn độ 1,16% …Ngoài ra nhiều loại cá khác có giá trị kinh tế cao như cá chuồn, cá ngừ, cá lầm,cá trích…Và nó đựơc mở rộng thị trường xuất khẩu cho nhiều nước hiện nay như: Mỹ Nhật Bản, EU…
Đứng sau cá là tôm xuất khẩu năm 1995 là 55316,0 tấn đến năm 2001 là 154911,0,nó chiếm vị trí cao trong hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế. Tôm là mặt hàng cũng có nhiều chủng loại:Tốm sú,tôm chân trăng tôm càng xanh tôm hùm chúng có thể được khai thác hoăc nuôi trồn.
Ngoài tôm và cá, mực cũng là mặt hàng xuất khẩu có giá trị chiếm khoảng 10-15% giá trị xuất khẩu, mức tập trung chủ yếu vùng Thanh Hoá, Qui Nhơn…Các vụ khai thác mực chủ yếu vào tháng năm đến tháng 12 đó là mực ống, Mực lang từ tháng 1 đến tháng 3.
Ngoài các sản phẩm chính trên thì các sản phẩm khác ngành thuỷ sản cũng góp phầm rất lớn cho xuất khẩu như (ba ba…) và nó góp phần vào kim nghạch thuỷ sản Việt Nam.
4. Giá cả thuỷ sản Việt Nam.
Do những đặc điểm như trên của hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là những nguyên liệu thô, lại xuất khẩu qua khâu trung gian chưa thiết lập thị phần cần thiết ở các thị trường lớn. Nên giá thuỷ sản của Việt Nam thường thấp hơn so các nước trong khu vực và thế giới. Hơn nữa trong quá trình xuất khẩu chung ta còn bị ép gia do nứơc sở tại đưa ra nhiều lý do này hay lý do khác, giá thể hiện qua bảng sau:
Năm
KNTSXK (Triêu: USD)
Giá KNTS bình quân (USD/ kg)
Mức độ tăng trưởng
Tuyệt đối
Tương đối (%)
1995
550
4,3
1996
670
4,45
0,15
3,48
1997
776
4,13
- 0,32
- 7,2
1998
858,6
4,09
- 0,04
0,96
1999
971,1
4,13
0,04
0,97
2000
1478,6
5,06
0,93
22,51
2001
1777,6
6,8
1,74
34,38
Nguồn: Bộ Thương Mai
Quabiểu đồ ta thấy gia thuỷ sản tuy có biến động nhưng rất nhỏ, thể hiện qua đường biểu diễn: vào năm 1995 gia bình quân xo là 4,3 USD/ kg; năm 1996 là 4,45 USD/ kg, cao hơn năm 1995 là 0,15 USD/kg tức là 3,48%. Nhưng đến năm 1997 chỉ còn 4,13 USD/kg, giảm 0,32 USD/kg tương đương với 7,2 %. Nguyên nhân do tình trạng giảm này là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á đã ảnh hưởng tới sức mua nguyên liệu và giá xuất khẩu thuỷ sản. Cuộc khủng hoảng làm ảnh hưởng sang năm 1998 là 4,09 USD/kg giảm 0,04 USD/kg ( tức là 0,96%). Đến năm 1999, 2000 giá xuất khẩu đã dần phục hồi và tăng. Năm 2001 giá trung bình thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam là 6,8 USD/kg, tăng là 1,74 USD/kg( tương ứng là 34,38%).
Giá bình quân của mặt hành xuất khẩu thuỷ sản trong nhưng năm qua tăng do góp phầm của giá những mặt hàng sau:
Mặt hàng tôm đông lạnh, trong năm qua mặt hàng này tăng đáng kể, Năm 1999 là 6,84 USD/kg, năm là 9,8 USD/kg, đến năm 2001 là 10,8 USD/kg, tăng nó phầm vào giá trung bình của Việt Nam trong nhưng năm qua.
Mặt hàng mực đông ổn định hơn so mặt hàng khác từ năm 1997 là 4,26 USD/kg; năm 1999 giá 4,75 USD/kg; năm 2000 giá mặt hàng này đã giảm với một lượng nhỏ hơn so với năm trước và đạt 3,88 USD/kg, sang năm 2001 giá mặt hàng này đã được phục hồi trở lại gia trị đã đạt được 4,97 USD/kg.
Ngoài những mặt hàng trên thì mặt hàng cá có giá trị kinh tế cao, cũng tang trong những nam gần đây như giá cá tra, cá basa, cá hồng..
Nguyên nhân tăng giá trong nhưng năm qua là do trình độ công nghệ của chúng ta trong những năm qua đã nhiều tiến bộ. Nên nó đã đóng góp rất lớn vào chất lượng cũng như giá cả hàng thuỷ sản xuất khẩu. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, giá một số mặt hàng xuất khẩu tăng lên là do tăng giá quốc tế hàng thuỷ sản; ví dụ tăng gia quốc tế hàng tôm trong những năm vừa qua giúp Việt Nam tăng kim nghạch xuất khẩu hàng thuỷ sản. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác dẫn tăng giá xuất khẩu.
Kết luận: Xét trên những đặc thù hàng xuất khẩu Việt Nam về cơ cấu dạng sản phẩm xuất khẩu, về mức giá xuất khẩu so với mức giá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100783.doc