Đề tài Tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng kinh tế

Tài liệu Đề tài Tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng kinh tế: MỤC LỤC…………………………………………………………………………1 LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..5 PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ…………………………….6 I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ……………..6 1. Khái niệm và phân loại đầu tư………………………………………………...6 2. Phân loại đầu tư phát triển…………………………………………………….7 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư……………………………………………8 II. LÍ LUẬN CHUNG VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ……………………....10 1. Khái niệm……………………………………………………………………...10 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế…………………………...10 III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG............................13 Đầu tư tác động đến tăng trưởng………………………………………….13 Đầu tư tác động đến quy mô của tăng trưởng……………………………..13 Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu………………………………13 Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế………………………..13 Đầu tư tác động đến tổng cầu của nền kinh tế…………………………14 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế…………………………15 Đầu ...

doc73 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1195 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC…………………………………………………………………………1 LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..5 PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ…………………………….6 I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ……………..6 1. Khái niệm và phân loại đầu tư………………………………………………...6 2. Phân loại đầu tư phát triển…………………………………………………….7 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư……………………………………………8 II. LÍ LUẬN CHUNG VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ……………………....10 1. Khái niệm……………………………………………………………………...10 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế…………………………...10 III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG............................13 Đầu tư tác động đến tăng trưởng………………………………………….13 Đầu tư tác động đến quy mô của tăng trưởng……………………………..13 Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu………………………………13 Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế………………………..13 Đầu tư tác động đến tổng cầu của nền kinh tế…………………………14 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế…………………………15 Đầu tư tác động đến chất lượng tăng trưởng……………………………17 1.2.1. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa………………………………………………………………….17 1.2.2. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ……………..20 1.2.3. Đầu tư phát triển chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp…………………………………………………………….21 1.2.4. Đầu tư tác động đến đời sống kinh tế xã hội, xây dựng định hướng chính sách của đất nước ………………………………………………………………..22 2. Tăng trưởng tác động đến đầu tư……………………………………………23 2.1. Tăng trưởng góp phần cải thiện môi trường đầu tư …………………….....23 2.1.1. Tăng trưởng kinh tế góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, năng lực công nghệ………………………………………………………………23 2.1.2. Tăng trưởng kinh tế góp phần cải thiện nguồn nhân lực ………………24 2.1.3. Tăng trưởng kinh tế góp phần ổn định chính trị-xã hội…………………25 2.2. Tăng trưởng kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư……..25 PHẦN II: THỰC TRẠNG VỀ SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ…………………………………………………….26 I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2010………………26 1. Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư…………………………….26 2. Tình hình tăng trưởng kinh tế từ năm 1986 đến năm 2010………………...29 II. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM…………………………………………………………………………..30 1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế……………………………….30 1.1. Đầu tư tác động đến quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế………………..30 1.1.1. Đầu tư tác động đến tổng cung tổng cầu………………………………….30 1.1.2. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế…………………………32 1.2. Đầu tư tác động đến chất lượng tăng trưởng……………………………....40 1.2.1. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế………………………....40 1.2.2. Đầu tư tác động đến trình độ khoa học kỹ thuật………………………….45 1.2.3. Đầu tư tác động đến năng suất lao động………………………………….48 1.2.4. Đầu tư tác động đến đời sống kinh tế xã hội, xây dựng định hướng chính sách của đất nước………………………………………………………………...54 Tác động ngược trở lại của tăng trưởng kinh tế với đầu tư……………….55 Tăng trưởng là điều kiện để cải thiện môi trường đầu tư………………..55 Tăng trưởng tạo tích lũy và tăng cường vốn cho đầu tư…………………59 III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ…………………………………………...61 Ưu điểm……………………………………………………………………….61 Nhược điểm…………………………………………………………………...62 PHẦN III: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ……………………………64 I. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẾN 2020………………………………………………...64 1. Mục tiêu tổng quát……………………………………………………………64 2. Các chỉ tiêu…………………………………………………………………….64 3. Phương hướng đầu tư………………………………………………………...65 II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ…………………………………………………….67 1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư………67 2. Phân bổ và sử dụng vốn hiệu quả……………………………………………68 2.1. Nguồn vốn trong nước……………………………………………………...68 2.1.1. Vốn ngân sách nhà nước………………………………………………….68 2.1.2. Vốn Nguồn vốn từ dân cư và tư nhân…………………………………….70 2.2. Nguồn vốn từ nước ngoài (gồm ODA và FDI)……………………………70 2.2.1. Vốn ODA…………………………………………………………………...70 2.2.2. Vốn FDI……………………………………………………………………71 3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực……………………………………………71 4. Đổi mới công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực đầu tư………72 III. GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠO ĐIỀU KIỆN THU HÚT VỐN PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ...............................................73 1. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhằm tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong nước..............................................................................................................74 2. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhằm tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài..............................................................................................................75 2.1. Giải pháp thu hút FDI...................................................................................75 2.2. Giải pháp thu hút ODA.................................................................................77 LỜI KẾT................................................................................................................79 TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................80 TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Lời mở đầu Đất nước ta đang đứng trong kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của hợp tác kinh tế, hội nhập cùng thế giới. Sau hơn 20 năm đổi mới và phát triển chúng ta đã có những có thêm những cơ hội mới và có không ít những khó khăn đòi hỏi nền kinh tế nước ta phải luôn luôn vận động, thay đổi để phát triển cho phù hợp với nền kinh tế chung của thế giới. Đối với một đất nước đang trên đà phát triển như nước ta để trở thành một con rồng của Đông Nam Á cũng như của châu Á đòi hỏi chúng ta cả một sự nỗ lực lớn và sự nỗ lực đó trước hết được đánh giá bằng mục tiêu tăng trưởng và mức tăng trưởng hàng năm. Để đạt được mức tăng trưởng cao điều đặc biệt cần mchú trọng đó là tăng cường đầu tư, thu hút đầu tư, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư. Chính vì vậy việc nguyên cứu mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng giúp ta qua đó hiểu rõ tác động qua lại giữa tăng trưởng phát triển kinh tế với đầu tư, đề ra những chính sách, đường lối đúng đắn tăng cường đầu tư vì mục tiêu phát triển kinh tế chung từ đó đưa ra những giải pháp tích cực cụ thể định hướng đúng đắn sự đi lên của nền kinh tế trong nước và hoạch định những chính sách cụ thể cho phù hợp với nền kinh tế thế giới và khu vực. Chính vì những lí do trên chúng em viết đề tài “Tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng kinh tế ”. PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN 1. Khái niệm và phân loại về đầu tư Khái niệm đầu tư Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt các kết quả đó. Phân loại đầu tư : Có nhiều cách để phân loại đầu tư theo các tiêu chí khác nhau: theo đối tượng đầu tư, theo chủ thể đầu tư, theo nguồn vốn đầu tư … Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển. Đầu tư tài chính: Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả  hoạt động sản xuất  kinh doanh của cơ quan phát hành, không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế(nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Đầu tư thương mại: Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi mua và khi bán, không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư. Đầu tư phát triển : Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị,…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng,…) gia tăng năng lực sản xuất tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. 2. Phân loại đầu tư phát triển Có rất nhiều cách phân loại đầu tư phát triển, mỗi cách phân loại đều đáp ứng được những nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Các cách phân loại đầu tư phát triển: Theo bản chất của các đối tượng đầu tư: Đầu tư cho đối tượng vật chất Đầu tư cho các đối phi vật chất. Theo phân cấp quản lý: Đầu tư theo các dự án quan trọng quốc gia Đầu tư theo các dự án nhóm A Đầu tư theo các dự án nhóm B Đầu tư theo các dự án nhóm C Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng … Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản Đầu tư vận hành Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội Đầu tư thương mại Đầu tư sản xuất. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư: Đầu tư ngắn hạn Đầu tư dài hạn Phân loại theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư Đầu tư gián tiếp Đầu tư trực tiếp Theo nguồn vốn Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài Theo vùng, lãnh thổ Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư Đầu tư chịu tác động của nhiều nhân tố như: Môi trường đầu tư, lãi suất, sản lượng nền kinh tế. Môi trường đầu tư: Đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, như thực trạng cơ sở hạ tầng, những quy định của pháp luật đầu tư, nhất là những quy định có liên quan đến lợi ích tài chính (chế độ thuế, giá nhân công….); chế độ đất đai (quy chế thuê mướn chuyển nhượng, thế chấp, giá cả…), các loại thủ tục hành chính, tình hình chính trị - xã hội…. Nếu những yếu tố trên thuận lợi sẽ khuyến khích được các nhà đầu tư. Trong việc tạo lập môi trường đầu tư chính phủ giữ một vai trò quan trọng, chính phủ thường quan tâm đến những chính sách nhằm tăng được lòng tin trong đầu tư và kinh doanh. Các quy định về thuế của chính phủ (đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp) cũng ảnh hưởng lớn đến nhu cầu đầu tư, quyết định quy mô vốn đầu tư. Nếu chính phủ đánh thuế cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư, làm cho thu nhập của các nhà đầu tư giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư. Mặt khác chính phủ cũng có thể khuyến khích đầu tư bằng hình thức miễm giảm thuế với những khoản lợi nhuận dùng để tái đầu tư, do đó đầu tư sẽ tăng. Lãi suất có ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn đầu tư, quyết định quy mô vốn đầu tư thông qua việc ổn định kinh tế vĩ mô. Đối với lãi suất, về mặt lý thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn nvà dẫn tới đầu tư tăng. Bên cạnh đó, nếu mức lãi suất thị trường nội địa mà cao hơn tương đối so với mức lãi suất quốc tế thì còn đồng nghĩa với tiềm năng quy mô vốn nước ngoài tăng và là công cụ hữu hình để chính phủ bảo vệ được nguồn vốn nước mình, ngăn chặn được nạn đào thoát vốn ra nước ngoài. Tuy nhiên, bản thân yếu tố lãi suất cũng có hai mặt, đó là khi tăng lãi suất cũng có nghĩa là chi phí sử dụng vốn trong đầu tư sẽ cao hơn. Điều này sẽ làm giảm phần lợi nhuận thực của nhà đầu tư. Dẫn đến quy mô vốn có xu hướng giảm xuống. Sản lượng nền kinh tế: Khi sản lượng nền kinh tế gia tăng sẽ là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư. Khi sản lượng tăng thì giá cả giảm khi đó tiêu dùng tăng sẽ kích thích đầu tư phát triển.Tuy nhiên tốc độ tăng của sản lượng và tốc độ tăng của vốn đầu tư không giống nhau. Mỗi sự thay đổi sản lượng nền kinh tế đều dẫn tới sự thay đổi của quy mô vốn đầu tư cùng chiều. Nhưng sự biến động của vốn lớn hơn nhiều lần sự biến động của sản lượng. II. LÍ LUẬN CHUNG VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Khái niệm về tăng trưởng Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định thường là một năm. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của hai nhóm nhân tố: Nhân tố kinh tế và nhân tố phi kinh tế. Nhân tố kinh tế: Đây là những nhân tố có tác động trực tiếp đến các biến đầu vào và đầu ra của nền kinh tế hay chính là tổng cung và tổng cầu. Các nhân tố tác động đến tổng cung: Vốn: là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, trang thiết bị … được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Vốn sản xuất ở các nước đang phát triển đóng góp một tỷ trọng lớn vào tăng trưởng kinh tế. Và nó thể hiện tính chất tăng trưởng theo chiều rộng. Lao động: là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Lao động được xem xét cả khía cạnh vật chất (số lượng lao động) và khía cạnh phi vật chất gọi là vốn nhân lực (lao động có kỹ năng sản xuất, có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, có sáng kiến phương pháp mới trong sản xuất). Ở các nước đang phát triển thì tăng trưởng kinh tế được đóng góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao động còn vai trò của vốn nhân lực vẫn ở mức thấp. Năng suất yếu tố tổng hợp (TFP – total factor productivity): là yếu tố đầu vào được thể hiện ở hiệu quả của trình độ cộng nghệ, trình độ quản lý, hiệu quả sử dụng vốn, năng suất lao động. Như vậy cũng có thể nói rằng, TFP phán ánh hiệu quả của các nguồn lực được sử dụng vào sản xuất. Do đó TFP được coi là yếu tố chất lượng của tăng trưởng hay tăng trưởng theo chiều sâu. Các nhân tố tác động đến tổng cầu: Chi tiêu dùng cá nhân: gồm các khoản chi cố định, chi thường xuyên, chi khác ngoài dự kiến phát sinh. Chi tiêu dung cá nhân phụ thuộc vào tổng thu nhập khả dụng và xu hướng tiêu dùng cận biên tùy theo từng giai đoạn phát triển nhất định của nền kinh tế. Chi tiêu của Chính phủ: gồm các khoản chi mua hàng hóa, dịch vụ của Chính phủ. Nguồn chi tiêu này phụ thuộc vào khả năng thu ngân sách Nhà nước (gồm chủ yếu từ thu thuế và phí, lệ phí). Chi đầu tư: là khoản chi tiêu cho nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế bao gồm đầu tư vốn lưu động và đầu tư vốn cố định. Nguồn chi cho đầu tư phụ thuộc vào khả năng tiết kiệm của các khu vực của nền kinh tế. Chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khẩu: giá trị hàng hóa xuất khẩu là các khoản chi cho các yếu tố nguồn lực trong nước, giá trị hàng hóa nhập khẩu là giá trị của các hàng hóa sử dụng trong nước nhưng không phải bỏ ra chi phí cho các yếu tố nguồn lực trong nước. Vì vậy chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu chính là khoản chi phí ròng phải bỏ ra cho quan hệ thương mại quốc tế. Nhân tố phi kinh tế: là các nhân tố có ảnh hưởng gián tiếp và không thể lượng hóa cụ thể được mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế. Văn hóa xã hội: là nhân tố quan trọng có tác động nhiều tới quá trình phát triển của đất nước. Trình độ văn hóa là một nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố về chất lượng lao động, kỹ thuật, trình độ quản lý kinh tế - xã hội. Do đó xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến quá trình phát triển và đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa là đầu tư cần thiết nhất cần đi trước một bước so với đầu tư sản xuất. Thể chế chính trị - kinh tế - xã hội: Tác động đến tăng trưởng kinh tế theo khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý, môi trường xã hội cho các nhà đầu tư. Một thể chế chính trị xã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh chóng III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG 1. Đầu tư tác động đến tăng trưởng Đầu tư tác động đến quy mô của tăng trưởng Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế Khái niệm: Tổng cung là lượng hàng hóa và dịch vụ được cung ứng trên thị trường. Nó thể hiện mối quan hệ giữa mức giá chung và khối lượng hàng hóa được cung ứng. Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm các yếu tố sản xuất: Vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ … thể hiện qua phương trình: Q=F(K,L,T,R….) K:Vốn đầu tư L:Lao động T:Công nghệ R:Nguồn tài nguyên Như vậy, tăng qui mô của vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác, tác động của vốn đầu tư còn được thể hiện thông qua hoạt động đầu từ nhằm nâng cao chất lượng các nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ … Do đó, đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế. Sự gia tăng sản lượng được phản ánh qua lí thuyết về số nhân đầu tư và lí thuyết gia tốc đầu tư: Theo công thức số nhân đầu tư: ∆Y = k * ∆I Trong đó ∆Y là mức gia tăng sản lượng ∆I là mức gia tăng đầu tư K là số nhân đầu tư Như vậy việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyêch đại sản lượng tăng lên số nhân lần. Theo lí thuyết gia tốc đầu tư ta có Y=K ∕ x Trong đó K : Vốn đầu tư tại thời kì nghiên cứu Y : Sản lượng tại thời kì nghiên cứu X : Hệ số gia tốc đầu tư Nếu x không thay đổi thì nhu cầu vốn đầu tư tăng dẫn đến qui mô sản lượng sản xuất tăng. Đầu tư tác động đến tổng cầu của nền kinh tế Khái niệm: Tổng cầu (AD aggregate demand) là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các tác nhân kinh tế có khả năng và sẵn sàng mua trong một thời kỳ nhất định. Trong một nền kinh tế mở, tổng cầu bao gồm bốn nguồn yêu cầu về hàng hoá và dịch vụ: tiêu dùng của hộ gia đình C, đầu tư của các doanh nghiệp I, mua hàng hoá chính phủ G, và xuất khẩu ròng NX. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ lệ lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Đầu tư thường chiếm 24%-28% trong cơ cấu tổng cầu (theo số liệu của ngân hàng thế giới). Đầu tư tác động tới tổng cầu rõ nét trong ngắn hạn: AD = C + I + G + NX Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự thay đổi của đầu tư ( I ) làm cho tổng cầu thay đổi cùng chiều ( điệu kiện các yếu tố khác không đổi). P P1 E0 E1 E2 AS2 P0 P2 AD1 AD2 AS1 AS2 Q Q0 Q1 Q2 Q Hình: Tác động của đầu tư đến tổng cung tổng cầu Xét theo trình tự thời gian, sau giai đoạn thực hiện đầu tư là giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động làm cho tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng. Đường cung AS1 dịch chuyển sang phải AS2 kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1 đến Q2 và do đó giá sản phẩm giảm từ P1 xuống P2. Sản lượng tăng giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng, là nhân tố kéo làm kích thích sản xuất phát triển, tăng quy mô đầu tư. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR  (Incermental Capital Output Ratio- tỉ số gia tăng của vốn so với sản lượng) là tỉ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm. ICOR = (tỉ lệ vốn đầu tư/GDP) / (tốc độ tăng trưởng kinh tế) Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: Thứ nhất do thay đổi cơ cấu đầu tư ngành: Thứ hai sự phát triển của khoa học công nghệ Thứ ba do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp quản lí. Mô hình Harrod – Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư. Giả định : Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế đối với cung lao động. Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc Trong đó: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Tỷ lệ tiết kiệm/ GDP ICOR Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng. Theo Harrod – Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích lũy để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn gốc của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (∆K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp làm gia tăng ∆Y. 1.2. Đầu tư tác động đến chất lượng tăng trưởng Đầu tư là chìa khoá của tăng trưởng kinh tế, đặc biệt đối với tạo việc làm, khi tăng đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của “cầu tiêu dùng” từ đó tăng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả biên của vốn đầu tư, và kích thích tái sản xuất mở rộng. Trong nông nghiệp, nông thôn, quan hệ đầu tư và tăng trưởng vận động theo chu kỳ: tăng đầu tư => tăng thu nhập=> tăng cầu=> tăng đầu ra; và sang chu kỳ sau với quy mô lớn hơn. Đầu tư có ảnh hưởng quan trọng không chỉ đến tốc độ tăng trưởng cao hay thấp mà còn ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Trên góc độ phân tích đa nhân tố, vai trò của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế thường được phân tích theo biểu thức sau: g= Di + Dl + TFP Di là phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng GDP, Dl là phần đóng góp của lao động vào tăng trưởng GDP. TFP là phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng GDP (gồm đóng góp của công nghệ, cơ chế chính sách …) Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng hợp lí là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.. do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. 1.2.1. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy theo mục tiêu của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô tốc độ giữa các ngành, vùng. Những cơ cấu kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân bao gồm: kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế. Đối với cơ cấu ngành: Vốn đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả thấp hay cao… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển các ngành mới… do đó, làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành. Đầu tư làm thay đổi tỉ trọng đóng góp vào GDP của các ngành. Đầu tư vào ngành nào càng nhiều thì ngành đó càng có khả năng đóng góp lớn hơn vào GDP, dẫn đến sự tăng trưởng của ngành đó và thúc đẩy sự phát triển của các ngành có liên quan, từ đó dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế chung cua cả nước. Đầu tư thay đổi cơ cấu sản xuất trong từng ngành. Trong từng ngành đầu tư lại hướng vào phát triển các ngành có tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát huy tiềm năng của ngành đó và làm điểm tựu cho các ngành khác cùng phát triển. Nhờ có đầu tư mà quy mô, năng lực sản xuất của các ngành cũng được tăng cường thông qua đổi mới sản phẩm, mở rộng sản xất, mua sắm máy móc,..nhờ vậy mà nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Đối với cơ cấu lãnh thổ: Đầu tư có tác dụng giải quyết những mất mát cân đối về phát triển giữa các vũng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng Đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế của một số vùng- lãnh thổ Một vùng – lãnh thổ khi có nguồn vốn đầu tư vào sẽ có nhiều cơ hội để sản xuất kinh doanh, tạo đà cho sự tăng trưởng của mình. Tác động này của đầu tư có thể xem xét trên hai khía cạnh sau: Đầu tư giúp các vùng – lãnh thổ phát huy được tiềm năng, thế mạnh kinh tế của vùng. Với những vị trí địa lý, đặc thù tự nhiên khác nhau mỗi vùng – lãnh thổ sẽ có thế mạnh riêng khác nhau, nhưng để phát triển kính tế thì không chỉ dựa vào những tài nguyên vị trí địa lý sẵn có đó, mà phải có điều kiện để khai thác và sử dụng có hiệu quả. Đầu tư góp phần nâng cao tỷ trọng đóng góp vào GDP của các vùng, lãnh thổ được đầu tư. Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu vùng, vùng nào có đầu tư nhiều hơn sẽ có cơ hội phát triển kinh tế nhiều hơn, khả năng đóng góp vào GDP của vùng tăng cao hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng đó. Đầu tư tác động nâng cao đời sống của dân cư. Nguồn vốn đầu tư được sử dụng vào các hoạt động sản xuất và dịch vụ góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhờ có nguồn vốn đầu tư mà các vùng mới có điều kiện để xấy dựng các nhà máy, cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ của vùng. Đầu tư giúp nâng cao thu nhập cho dân cư, giúp xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, người dân có thu nhập cao hơn, ổn định hơn. Đầu tư góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng Nguồn vốn đầu tư thường được tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế giức các khu vực đó, và những khu vực này lại làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Qua những phân tích trên cho thấy, đầu tư có tác động quan trọng đến sự chuyển dịch cơ cấu vùng – lãnh thổ, từng vùng có khả năng phát triển cao hơn, phát huy được thế mạnh của vùng, đời sống nhân dân trong khu vực có nhiều thay đổi. Tuy nhiên trên thực tế, mức độ đầu tư vào từng vùng là khác nhau, điều đó cho thấy sự nền kinh tế giữa các vùng vẫn có sự khác nhau. Vai trò của đầu tư đối với chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế Đầu tư có tác động tạo ra những chuyển biến về tỷ trọng đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế. Cơ cấu của các thành phần đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các thành phần kinh tế ngoài nhà nước và giảm tỷ trọng của kinh tế nhà nước phù hợp với chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tạo ra sự phong phú đa dạng về nguồn vốn đầu tư. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ Đầu tư là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia. Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng (máy móc thiết bị), phần mềm (các văn bản, tài liệu. các bí quyết…), các yếu tố con người (các kỹ năng quản lý, kinh nghiệm), yếu tố tổ chức… Muốn có công nghệ cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước. Chúng ta biết rằng có hai con đường để có công nghệ là: Tự nghiên cứu phát minh và mua của nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập khẩu thì đều cần vốn, mọi phương án công nghệ nếu không gắn với nguồn vốn . Trong mỗi thời kỳ, các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đoạn đầu, các nước đang phát triển, do có nhiều lao động và nguyên liệu, thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, sau đó, giảm dần hàm lượng lao động nguyên liệu trong sản xuất và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, quá trình chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đâu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và sự phát triển của khoa học và công nghệ. Tác động của đầu tư đến trình độ phát triển khoa học và công nghệ được phản ánh qua các chỉ tiêu sau: Tỉ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ/ Tổng vốn đầu tư Tỉ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị /Tổng vốn đầu tư thực hiện. Tỉ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn,trọng điểm. Tỉ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu /Tổng vốn đầu tư thực hiện. Đầu tư phát triển chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trên các khía cạnh: sức khỏe, trình độ học vấn, kiến thức, trình độ kỹ thuật và kinh nghiệm tích lũy được, ý thức tác phong của người lao động. Cùng với khoa học – công nghệ, vốn đầu tư, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế – xã hội. Kinh tế nước ta có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới, thu hút được mạnh mẽ các nguồn đầu tư, đều phụ thuộc phần lớn vào chất lượng nguồn nhân lực. Và giáo dục – Đào tạo có vai trò quyết định đối với việc hình thành quy mô và chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì vậy, đầu tư nguồn nhân lực cũng là đầu tư vào giáo dục-đào tạo của đất nước. Về cơ bản, đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung sau: - Đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo ( chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ…) - Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ. - Đầu tư cho tiền lương: Có thể khẳng định tiền lương là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng tới quyết định làm việc của người lao động. Tăng lương cũng chính là tăng đầu tư nguồn nhân lực, một trong các biện pháp tăng đầu tư cho nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, là việc đầu tư cho con người. Đầu tư cho con người chính là một trong những hình thức đầu tư phát triển mang lại hiệu quả cao nhất, vì đây là việc đầu tư để nâng cao nguồn nhân lực. - Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của người lao động Đầu tư tác động đến đời sống kinh tế xã hội, xây dựng định hướng chính sách của đất nước Đầu tư tác động đến đời sống kinh tế xã hội Thể hiện của sự tác động nay ở chỗ: Đầu tư làm tăng thu nhập quốc dân từ đó chính phủ có thêm nguồn thu để xây dựng các công trình công cộng phục vụ người dân( trường học, bệnh viện, khu vui chơi giải trí…) Đầu tư làm tăng thu nhập cá nhân, điều này làm mức sống tăng lên từ đó góp phần cải thiện đời sống. Mặt trái của viêc này đó là làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, nảy sinh nhiều vấn đề xã hội khi hội nhập. Đầu tư tác động đến việc xây dựng định hướng chính sách Để tạo thêm sự thuận lợi cho hoạt động đầu tư trong nước cũng như nước ngoài thì chính sách cần có sự hoàn chỉnh cao, sự phù hợp với luật phát quốc tế, tạo sự thông thoáng bình đẳn của môi trường đầu tư. Từ những lí do đó đầu tư đang ngày càng góp phần vào sự thay đổi và hoàn thiện của các chính sách kinh tế nói chung và chính sách về đầu tư nói riêng. 2. Tăng trưởng tác động đến đầu tư 2.1. Tăng trưởng góp phần cải thiện môi trường đầu tư  Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp tác động dến hiệu quả của các dụ án đầu tư. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố như: cơ sở hạ tầng, những quy định của pháp luật, chế độ đất đai, các loại thủ tục hành chính, tình hình kinh tế xã hội… 2.1.1. Tăng trưởng kinh tế góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nâng cao năng lực công nghệ Cơ sở hạ tầng đã được cải thiện đáng kể : giao thông đường xá cầu cống thuận lơi hơn hiện đại hơn, hệ thống thông tin liên lạc nhanh chóng, xã hội được điện khí hóa. Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển: ngày càng nhiều nghiên cứa cơ bản và nghiên cứa ứng dụng ra đời khắc phục đắc lực cho kinh tế xã hội. Chính vì lý do đó mà năng suất xã hội tăng nhanh do cơ khí hóa tự động hóa, cách thành tựu khoa học tiên tiến và các phương pháp quản lý hiện đại. Trong mô hình tiến bộ công nghệ cua SoLow, tiến bộ công nghệ được hiểu là bất kỳ biện pháp nào cho phép tạo ra nhiều sản lượng hơn. Nên có thể thấy ở đây phát triển sẽ làm cho khoa học phát triển. Khi nền kinh tế phát triển làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư phát triển công nghệ cho hoạt động nghiên cứu và triển khai các công nghệ mới. 2.1.2. Tăng trưởng kinh tế góp phần cải thiện nguồn nhân lực Lao động là nguồn nhân lực sản xuất chính và là không thể thiếu được trong các hoạt động kinh tế. Chất lượng của lao động được đánh giá qua trình độ học vấn chuyên môn và kỹ năng của lao động cũng như sức khỏe của họ. Điều này phụ thuộc vào hoạt động giáo dục đào tạo và các dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe. Khi kinh tế tăng trưởng thì tỷ lệ tích lũy cũng tăng, sẽ tạo nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo nâng cáo chất lượng nguồn nhân lực tạo ra một lực. Tăng trưởng kinh tế góp phần cải thiện dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Sức khỏe người lao động có tác động trực tiếp đến chất lượng lao động trong hiện tại và cả tương lai. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao khi làm việc. Một nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo một điều kiện tốt cho việc đầu tư mạnh vào y tế nhằm chăm sóc sức khỏe con người được tốt hơn. Ngoài ra một nền kinh tế tăng trưởng còn đòi hỏi thêm nhiều lao động vừa có trình độ và kỹ thuật thế nên vừa giải quyết được tình trạng thất nghiệp đồng thời lại phải có trình độ chuyên môn nên tăng sự cạnh tranh giữa các cá nhân trong xã hội buộc mọi người phải tăng cường học hỏi tích lũy kiến thức… 2.1.3. Tăng trưởng kinh tế góp phần ổn định chính trị-xã hội Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá... phát triển. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy,sẽ giảm các tệ nạn xã hội và sẽ dẫn tới đời sống nhân dân được ổn định khi đó người dân sẽ tin tưởng vào chế độ chính tri đang tồn tại. Môi trường đầu tư thuận lợi, được hệ thống pháp luật và chính sách của nhà nước đảm bảo. Hệ thống pháp luật trước hết là luật đầu tư công bằng, hợp lý và được đảm bảo thực thi trong thực tiễn đối với mọi thành phần kinh tế. Tạo dựng một nền kinh tế thị trường, với những quy luật vốn có phát huy tác dụng tích cực của cơ chế thj trường. Nhờ đó các nguồn vốn đầu tư được huy động, phân bổ sử dụng có hiệu quả. Vấn đề này trực tiếp liên quan đến việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường (trong đó có thị trường tài chính), đến quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế, đến việc hoàn thiện hệ thống chính sách và khuôn khổ pháp lý đảm bảo cho hoạt động nền kinh tế. Khi tạo được cho các nhà đầu tư cảm thấy an toàn khi đầu tư thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư thì sẽ góp phần thúc đẩy các nhà đầu tư trong nước đầu tư tích cực, việc thu hút vốn đầu tư trong nước sẽ gia tăng. 2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư: Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sự hấp dẫn ngày càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Vấn đề này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu hút vốn đầu tư: Vốn được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút vốn càng lớn. Với năng lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích lũy của nền kinh tế có khả năng gia tăng. Khi đó quy mô nguồn vốn trong nước có thể huy động sẽ được cải thiện. Với nền kinh tế tăng trưởng thì triển vọng tăng trưởng càng cao cũng là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. PHẦN II: THỰC TRẠNG VỀ SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG & PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM ( giai đoạn 1986- 2010) 1. Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư + Trước mở cửa: Đầu tư/GDP đạt 6- 8% 1986: đổi mới thì năm 1987 thông qua khuyến khích đầu tư trong nước + Từ 1991- 1995 tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội là 493.537 tỷ đồng (tính theo giá hiện hành) trong đó vốn đầu tư trong nước là 137.305 tỷ đồng chiếm 29% Trong vốn đầu tư trong nước thì vốn đầu tư thuộc khu vực nhà nước là 70.011 tỷ đồng vốn đầu tư ngoài nước là 67.294 tỷ đồng + Từ năm 1996- 2000 tổng vốn đầu tư chiếm tỷ trọng so với GDP bình quân 27.8% trên năm Trong đó năm 1995 chiếm 29.7% GDP, năm 1996 chiếm 29.2% GDP, năm 1997 chiếm 30.7%, năm 1998 chiếm 27%, năm 1999 chiếm 25.9%, năm 2000 chiếm 27.2%. + Năm 2007 tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 521.000 tỷ vnđ tương ứng với 45.6% GDP + năm 2009 Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tính theo giá trị thực tế đạt 704.2 nghìn tỷ vnđ tăng 15.3% so với năm 2008 và bằng 42.8% GDP. Trong đó khu vực nhà nước là 278 nghìn tỷ vnđ chiếm 39.5% tổng vốn đầu tư và tăng 13.9% so với năm trước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 181.2 nghìn tỷ vnđ chiếm 25.7% giảm 5.3% so với năm trước do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. +  Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010 ước tính đạt 830,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2009 và bằng 41,9% GDP. Trong đó có 1980 tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương và 4487,5 tỷ đồng từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện: vốn khu vực Nhà nước là 316,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,1% tổng vốn và tăng 10%; khu vực ngoài Nhà nước 299,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 36,1% và tăng 24,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 214,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,8% và tăng 18,4%. Bảng 1: Minh họa vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế của một số năm gần đây: Năm Tống số Chia ra Tổng vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước(%) Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2009 2010 170,5 200,1 239,,3 290,8 343,1 404,7 521,7 704,2 830,3 102,0 114,7 126,6 139,8 161,6 185,1 208,1 278,0 316,3 38,5 50,6 74,4 109,8 130,4 154,0 184,3 245,0 299,5 30,0 34,8 38,3 41,2 51,1 65,6 129,3 181,2 214,5 35,4 37,4 39,0 40,7 40,9 41,5 45,6 42,8 41,9 Đầu tư trong nước Là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế nhưng tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần năm 2001 là 59.8% xuống còn 39.5% năm 2009. Đây là tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế thị trường đang hình thành, phần nào phản ánh môi trường đầu tư đã và đang được cải thiện. Trong năm 2010 vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước đạt 141,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 17,1% tổng vốn đầu tư cả nước, bằng 110,4% kế hoạch năm. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do Trung ương quản lý đạt 42,7 nghìn tỉ đồng, bằng 104,7% kế hoạch, trong đó Bộ Giáo dục và Đào tạo đạt 1336,5 tỉ đồng, bằng 131,2%; Bộ Giao thông Vận tải 8168 tỉ đồng, bằng 122,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 569 tỉ đồng, bằng 96,9%; Bộ Công thương 3602 tỉ đồng, bằng 89%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 5080 tỉ đồng, bằng 87,2%; Bộ Y tế 1050 tỉ đồng, bằng 83,6%; Bộ Xây dựng 689,5 tỉ đồng, bằng 69,7% kế hoạch năm 2010. Đầu tư nước ngoài. Tình hình thu hút vốn ODA có chuyển biến tích cực ODA năm 2009 ước tính giải ngân 3 tỷ USD trong tổng vốn đăng ký gần 5.9 tỷ USD với các nhà đầu tư lớn như: ngân hàng thế giới, Nhật Bản,... Khu vực FDI khẳng định vai trò của mình trong tiến trình phát triển của Việt Nam và thực sự trở thành bộ phận cấu thành khăng khít của nền kinh tế Việt Nam Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2009 đạt thấp do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày 15-12-2009 đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 21.5 tỷ USD giảm 70% so với năm 2008 bao gồm vốn đăng ký của 839 dự án được cấp phép mới đạt 16.3 tỷ USD (giảm 41.6% về số dự án và 75.4% về vốn) vốn đăng ký bổ sung của 215 dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 5.1 tỷ USD giảm 1.7% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2009 ước tính đạt 10 tỷ USD giảm 13% so với năm 2008. Tính đến 21/12/2010 đạt 18,6 tỉ USD, bằng 82,2% cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 969 dự án được cấp phép mới đạt 17,2 tỉ USD (Giảm 16,1% về số dự án; tăng 2,5% về số vốn so với năm trước); vốn đăng ký bổ sung của 269 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 1,4 tỉ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2010 ước tính đạt 11 tỉ USD, tăng 10% so với năm 2009, trong đó giá trị giải ngân của các nhà đầu tư nước ngoài đạt 8 tỉ USD. Tình hình tăng trưởng kinh tế từ năm 1986 đến năm 2010 Sau hơn 20 năm đổi mới tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng liên tục với tốc độ khá. Thời kì 1986 đến 1990 GDP tăng trưởng bình quân 4.4%/năm. Thời kì 1991 đến 1995 GDP tăng trưởng bình quân 8.2%/năm cao hơn kế hoạch đề ra là 5.5% đến 5.6% và thuộc vào loại cao so với các nước đang phát triển. Thời kì những năm 1995 đến năm 2000 tốc độ GDP bình quân là 6.9% tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn được xếp cao trong khu vực. Năm 2009 tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam là 5.23% tuy có thấp hơn tốc độ tăng 6.18% của năm 2008 nhưng đã vượt lên mục tiêu tăng trưởng 5% của kế hoạch. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà nước ta đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế dương và tương đối cao đó là một thành công lớn. Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước của quý I và quý II năm 2009 thấp hơn tốc độ tăng trưởng của quý I và quý II năm 2008 nhưng quý III năm 2009 tăng trưởng 6.04% cao hơn tốc độ tăng trưởng 5.98% của quý III năm 2008. Quý IV năm 2009 tăng 6.9% cao hơn tốc độ tăng trưởng 5.89% của quý IV năm 2008. - Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tăng 6,78% so với năm 2009, trong đó quý I tăng 5,84%; quý II tăng 6,44%; quý III tăng 7,18% và quý IV tăng 7,34%. Đây là mức tăng khá cao so với mức tăng 6,31% của năm 2008 và cao hơn hẳn mức 5,32% của năm 2009, vượt mục tiêu đề ra 6,5%. Trong 6,78% tăng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,78%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng tăng 7,7%, đóng góp 3,20 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ tăng 7,52%, đóng góp 3,11 điểm phần trăm. Kết quả trên khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, phù hợp và hiệu quả của các biện pháp và giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô được Chính phủ ban hành và chỉ đạo quyết liệt các các cấp, các ngành, các địa phương cùng thực hiện. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh 1994 (%) 2009 2010        Tổng số 5,32 6,78 Phân theo khu vực kinh tế Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 1,82 2,78 Công nghiệp và xây dựng 5,52 7,70 Dịch vụ 6,63 7,52 Phân theo quý trong năm Quý I 3,14 5,84 Quý II 4,41 6,44 Quý III 5,98 7,18 Quý IV 6,99 7,34 II. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1986-2010 Đầu tư tác động đến tăng trưởng kinh tế 1.1. Đầu tư tác động đến quy mô và tốc độ tăng trưởng 1.1.1. Đầu tư tác động đến tổng cung tổng cầu Vốn là một trong những yếu tố sản xuất và cũng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Khi tăng quy mô vốn đầu tư thì trong ngắn hạn đã làm tăng tổng cầu của nền kinh tế. Sau đó nó tác động làm tăng tổng cung trong dài hạn. Theo số liệu của WB thì đầu tư thường chiếm từ 24% đến 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước. Vốn đầu tư ở nước ta ngày càng tăng, tác động đến GDP tăng theo (bảng 2). Bảng 2: GDP giai đoạn 2000 - 2010 Năm Vốn đầu tư (Ngàn tỷ đồng) GDP giá thực tế (Ngàn tỷ đồng) 2000 151,18 441,64 2001 163,54 481,29 2002 193,10 535,72 2003 219,68 613,44 2004 290,92 715,30 2005 343,13 839,21 2006 398,90 973,79 2007 532,1 1143,7 2008 616,7 1485,03 2009 714,8 1658,3 2010 830,3 1951,2 Nguồn: Tổng cục Thống kê Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, năm 2007 đạt 40,4%) năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua. Nhận thấy tầm quan trọng đó, để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, thì năm 2009 Việt Nam đã áp dụng chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng để hỗ trợ 4% lãi suất vay cho các doanh nghiệp tiếp tục sản xuất kinh doanh chia làm hai gói. Gói thứ nhất trị giá 17.000 tỷ đồng áp dụng cho khoản vay dưới 1 năm và gói thứ hai có trị giá lớn hơn được áp dụng cho khoản vay tới 2 năm. Như vậy thông qua chính sách này đã tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hạ giá thành sản phẩm, tăng tiêu dùng giải quyết việc làm, ổn định xã hội giảm bớt tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế. Do đó tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam năm 2008 và 2009 vẫn đạt mức tăng trưởng dương. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 ước đạt 830,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so năm 2009. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ước thực hiện cả năm 2010 đạt 141,6 nghìn tỷ đồng, bằng 110,4% kế hoạch năm. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2010 thực hiện đạt 11 tỷ USD, tăng 10% so năm 2009. Như vậy ta thấy rằng,vốn đầu tư chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng cầu và có tác động trực tiếp đến việc trực tiếp làm gia tăng tổng cung, tổng cầu hay sản lượng của nền kinh tế. Tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế kinh tế. Tăng trưởng GDP trung bình trong giai đoạn 2000 - 2007 đạt 7.6% [1]. Năm 2007, tăng trưởng 8.48%, đây cũng là mức tăng cao nhất từ sau khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm gần đây khá ấn tượng. Dù đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhưng đây không phải là một hiện tượng thần kỳ vì theo tính toán của các nhà kinh tế thì tăng trưởng của Việt Nam đang ở dưới mức tiềm năng. Từ năm 2003 tăng trưởng phục hồi tốc độ tăng trưởng trung bình 2003 – 2007 đạt 8,04%. Nếu so sánh với các nước trong khu vực tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đứng thứ hai sau Trung Quốc, cao hơn các nước ASEAN khác như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippin. Cuối năm 2008 khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra đã tác động vào nền kinh tế nước ta, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm xuống còn 5,3% nhưng vẫn được các tổ chức kinh tế thế giới đánh giá cao. Năm 2008, chịu ảnh hưởng từ bất ổn kinh tế vĩ mô và khủng hoảng tài chính thế giới, tăng trưởng GDP chỉ đạt 6.19% [2]. Tốc độ tăng trưởng này thấp hơn nhiều so với năm 2007 và mục tiêu đã đề ra của chính phủ. Nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng giảm nhiều nhất là công nghiệp và xây dựng. Năm 2008, tăng trưởng của công nghiệp và xây dựng chỉ khoảng 6.33%, trong khi đó năm 2007 là 10.6%. Ngành xây dựng có mức suy giảm mạnh nhất từ mức 12.01% năm 2007 xuống 0.02% năm 2008. Nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2008 tăng trưởng 3.79%, không biến động nhiều so với tỷ lệ 3.4% của năm 2007 Năm 2009 nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, thách thức, thiên tai xảy ra liên tiếp nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế 5.32 %,đã vượt mục tiêu so với kế hoạch đề ra. Tính chung cả năm, tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 5%, trong đó khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng gần 2%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng hơn 5%, khu vực dịch vụ tăng gần 7%.. Trong năm 2010, trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu, dù nội lực nền kinh tế còn chưa mạnh, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra (6,5%). Mặc dù đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ấn tượng trong giai đoạn qua, nhưng tăng trưởng của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào những nhân tố theo chiều rộng. . Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện thể hiện qua sự tăng lên của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP hàng năm, từ 17.08% năm 2001 đến cao nhất là 31.67% năm 2005 tuy nhiên giảm mạnh vào năm 2008 còn 7.23%, và năm 2009 là -6.71%. Có thể thấy tăng trưởng do yếu tố vốn chiếm tới 56,17% và do yếu tố lao động chiếm 23,88%; tức cả hai yếu tố này còn chiếm gần 3/4 tổng cả ba yếu tố tác động đến tăng trưởng (Xem bảng 3 ). So sánh với các nước trong khu vực thì tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng hàng năm của Việt Nam còn thấp hơn nhiều, tỷ lệ này của Thái Lan là 35%, của Philippin là 41%, của Indonesia là 43%. Tỷ lệ đóng góp của các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cho thấy vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến tăng trưởng, do đó tăng trưởng vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu. Bảng 3: Đóng góp của các yếu tố đầu vào trong tăng trưởng GDP Việt Nam (%) Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR: ICOR = (Tỷ lệ vốn đầu tư /GDP) / tốc độ tăng trưởng kinh tế Qua công thức này ta có thể rút ra công thức dự đoán tốc độ tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế = (Tỷ lệ vốn đầu tư / GDP)/ ICOR Theo một số nhà nghiên cứu kinh tế, muốn giữ tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định thì tỷ lệ đầu tư phải chiếm khoảng trên 25% so với GDP, tùy thuộc vào hệ số ICOR của các nước. Qua công thức trên thì ta sẽ có 2 cách để tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế là: tăng tỷ lệ đầu tư so với GDP hoặc giảm hệ số ICOR tức là phải đạt hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn đầu tư. Xem xét tốc độ tăng GDP và sự biến động của tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư trong GDP cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào tỷ lệ tiết kiệm trong nước .Đặc biệt trong giai đoạn 2001 – 2007 tỷ lệ tiết kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng mạnh lên đến 32,1% và 38,8% thì tốc độ tăng GDP là 7,62%. Do nhận thấy vai trò quy mô vốn đầu tư tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế như trên, nên trong giai đoạn hiện nay nước ta thực hiện huy động vốn đầu tư và chi cho đầu tư ngày càng tăng. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đã tăng cả về quy mô tuyệt đối, cả về tỷ lệ so với GDP. Về quy mô tuyệt đối, năm 2009 tổng vốn đầu tư phát triển đạt gần 710.000 tỉ đồng, tăng 16% so với năm trước. Đây là tốc độ tăng khá cao, cao hơn tốc độ tăng GDP tính theo giá thực tế (16% so với 13,6%). Nhờ vậy, tỷ lệ tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP đã đạt 42,2%. Đây là tỷ lệ cao hơn năm trước (41,3%) và cũng là tỷ lệ thuộc loại cao nhất trên thế giới, có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ tương ứng của Trung Quốc. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Việt Nam dự kiến nâng mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm giai đoạn 2006-2010 từ 7,5% đến 8%, nhằm đảm bảo tổng GDP năm 2010 gấp 21 lần so với 3 năm trước đây. "Để làm được điều đó, đầu tư xã hội trong 5 năm tới phải cần khoảng 114 tỷ USD, trong đó vốn FDI phải chiếm ít nhất 20% (tức khoảng 22,8 tỷ USD) . Tăng vốn đầu tư không thể không nói đến sự đóng góp của vốn đầu tư nước ngoài mà chủ yếu là FDI và ODA. Hai nguồn vốn này đóng vai trò to lớn đến sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. . Trong giai đoạn 2001 – 2005 FDI đóng góp 15,5% vào GDP, giá trị xuất khẩu của khu vực FDI ( không kể dầu thô) tăng nhanh đạt trên 34 tỷ USD, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nếu tính cả dầu thô là 56%. FDI là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, trong giai đoạn 2001 – 2005 khoảng 3,67 tỷ USD, mức tăng năm sau lớn hơn năm trước , năm 2006 là 1,4 tỷ USD tăng 36% so với năm 2005. Ngoài ra FDI thường đầu tư vào các ngành nghề mới, có công nghệ hiện đại, sản lượng lớn đã tạo ra mức sản lượng ngày càng tăng đóng góp lớn vào giá trị sản xuất toàn xã hội; thị trường ngày càng được mở rộng tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt năm 2008 nước ta đạt mức thu hút FDI cao nhất trong vòng 20 năm với tổng lượng vốn đăng ký trên 64 tỷUSD, mức vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD. FDI tác động mạnh mẽ đến sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, các ngành có công nghệ mới do đó làm tăng gía trị sản xuất, đóng góp vào tổng giá trị xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán.Tính đến hết năm 2009, nước ta có 1208 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với vốn đăng ký lên đến 23107.3 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện năm 2010 đạt 11 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2009. Diến biến FDI giai đoạn 2007-2010 Ngoài nguồn vốn FDI thì ODA cũng là một trong những nguồn vốn bổ sung cho vốn đầu tư phát triển của nước ta. Đây là nguồn vốn ưu đãi và thường được sử dụng vào xây dựng nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật tạo nền tảng cho việc thu hút FDI. Nguồn vốn ODA thực hiện trong thời kỳ 2006-2010 đạt khoảng 11-12 tỷ USD, đóng góp gần 9% cho nhu cầu tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA là: Phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại; xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục, đào tạo); bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên; tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu, triển khai...Thu hút vốn ODA, trong 9 tháng đầu năm 2010, tổng giá trị vốn ODA được ký thông qua các Hiệp định với các nhà tài trợ đạt 2.209 triệu USD; trong đó vốn vay đạt 2.108 triệu USD và vốn viện trợ không hoàn lại đạt 101 triệu USD. (Trong khi đó con số thu hút vốn ODA 9 tháng đầu năm 2009 tổng giá trị vốn ODA được ký thông qua các Hiệp định với các nhà tài trợ đạt 3.236 triệu USD). Giải gân ODA 9 tháng đầu năm 2010 ước đạt khoảng 1.920 triệu USD, bằng 79% kế hoạch cả năm và tăng 11% so với cùng kỳ năm 2009. Trong khi vốn FDI thường đầu tư vào các ngành mới có lợi nhuận cao thì ODA lại được ưu tiên dành cho việc đầu tư vào các ngành, vùng kém phát triển hơn do đó đã tạo thuận lợi cho tăng trưởng hợp lý, đồng đều và bền vững. Cách thứ hai để tăng tốc độ tăng trưởng là giảm hệ số ICOR tức là tăng hiệu quả sử dụng vốn. Vấn đề này đang là vấn đề bức xúc của các nhà quản lý Việt Nam. Nhưng năm gần đây hệ số ICOR của Việt Nam ngày càng tăng cao và nhanh ( xem bảng 4). Bảng 4: Hệ số ICOR trong các giai đoạn Giai đoạn ICOR 1991 – 1995 3,5 1996 – 2000 4,8 2001 – 2003 5,24 2004 – 2006 5,04 2007 – 2008 6,15 2009 2010 8 6,27 Nguồn: Số liệu của Tổng cục thống kê Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Tính trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm 2008, tỷ lệ đầu tư/GDP lên đến 43.1%, còn theo ước tính sơ bộ đến hết tháng 8 năm 2009 tỷ lệ này là 43,9%. Dù đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ từ 6 - 8.5%, và dự kiến, năm 2009, mức tăng trưởng cao của Việt Nam cũng chỉ dừng ở 5,2%, do đó, hệ số ICOR luôn ở mức cao. So với các nước trong khu vực hệ số ICOR của việt nam ở mức tương đối cao: Tăng trưởng GDP và ICOR một số nước Đông Á Quốc gia Giai đoạn GDP (%) Đầu tư/GDP ICOR Hàn quốc 1961 –  1980 7,9% 23,3 3,0 Đài Loan 1961 – 1980 9,7% 26,2 2,7 Indonesia 1981 – 1995 6,9% 25,7 3,7 Thái Lan 1981 – 1995 8,1% 33,3 4,1 Trung Quốc 2001 – 2006 9,7% 38,8 4,0 Việt Nam 2001 – 2006 7,6% 39,1 5,1 Nguồn World Bank Hệ số ICOR cao chứng tỏ nền kinh tế sử dụng vốn kém. Với nền kinh tế đang phát triển như nước ta, theo khuyến cáo của các định chế tài chính có uy tín, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả, tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa sẽ diễn ra nhanh hơn và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. Tuy nhiên theo con số thống kê qua từng giai đoạn, hệ số ICOR luôn tăng cho đến 2009,năm 2008, hệ số ICOR của nền kinh tế là 6,6 đã gấp hơn 2 lần mức khuyến nghị và đến 2009, ICOR bằng 8, ở mức rất cao, tức là phải bỏ ra 8 đồng vốn đầu tư mới được một đồng tăng trưởng. Đặc biệt, ở khu vực đầu tư công, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, thành phần chủ đạo của nền kinh tế, thì hệ số ICOR lại cao vọt. Nếu hệ số ICOR chung của nền kinh tế là 8, ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước lên tới 12. Có thể thấy mức độ hiệu quả sử dụng vốn giữa các khu vực cũng khác nhau ( xem bảng 5). Bảng 5: Hệ số ICOR tính theo vốn đầu tư thực hiện 2000 - 2007 Tổng số 5,2 Kinh tế nhà nước 7,8 Kinh tế ngoài nhà nước 3,2 Kinh tế có vốn nước ngoài 5,2 Nguồn: Tính toán từ nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/Vốn đầu tư (có nghĩa là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam năm 2007 là 2,149 lần thì đến năm 2008 là 2,79 lần, 2009 là 2,31 lần, 2010 là 2,35 lần. Như vậy đối với nền kinh tế Việt Nam thì đầu tư là yếu tố có vai trò quyết định đối với tăng trưởng kinh tế thời kỳ hiện nay. 1.2. Đầu tư tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế 1.2.1. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ tăng trưởng giữa các ngành, vùng, khu vực. Như trên ta đã thấy được tác động to lớn của của đầu tư đối với nền kinh tế. Cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế do đó góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý. Đầu tư ở Việt Nam trong ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm một tỷ trọng lớn trong đó công nghiệp khoảng trên 40%, dịch vụ khoảng 50%, tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp giảm dần( xem bảng 6). Bảng 6: Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế 2000 – 2008 (%) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Nông nghiệp 14 9 9 8 8 8 7 6 6 Công nghiệp 40 44 43 41 43 43 43 42 41 Dịch vụ 46 47 49 50 49 49 50 51 52 Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt 2008 Việc tiến hành đầu tư như vậy đã tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 còn 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 tăng đến 41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008là 38,7%. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế như trên cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của đầu tư nước ngoài. Hiện nay, ở nước ta FDI áp đảo ở một số lĩnh vực đầu tư cụ thể lĩnh vực xây dựng trong ngành dịch vụ chiếm 22,7 tỷ USD tổng số vốn dăng ký mới với tỷ trọng 38,4% ; ngành công nghiệp nặng chiếm 32,9% , và như vậy là 2 lĩnh vực này đã chiếm trên 70% vốn đăng ký mới vốn thực hiện cũng xấp xỉ 70%. Do việc đầu tư như vậy nên FDI chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô,…, 60% sản lượng thép tấm, 28% sản lượng xi măng, 33% sản phẩm điện tử, 76% thiết bị y tế. Mặc dù cơ cấu đầu tư đã có tác động tích cực đến cơ cấu ngành kinh tế nhưng ta thấy rằng cơ cấu đầu tư ngành và tỷ trọng của các ngành trong GDP chưa tương xứng với nhau. Đầu tư cho nông nghiệp trung bình khoảng 8% nhưng ngành này trung bình vẫn chiếm khoảng 24%GDP, điều này nghĩa là việc gia tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ chủ yếu là do quy mô đầu tư đem lại chứ không phải do hiệu quả đầu tư. Ngoài ra cơ cấu đầu tư còn tác động đến chuyển dịch cơ cấu vùng và khu vực. Nếu vùng địa phương nào thu hút được vốn đầu tư nhiều thì sẽ hình thành vùng kinh tế trọng điểm, có điều kiện thuận lợi tăng trưởng kinh tế. Hiện nay ở nước ta do cơ cấu đầu tư đã hình thành 2 vùng trọng điểm là vùng trọng điểm đồng bằng sông Hồng và vùng trọng điểm Đông Nam Bộ( xem bảng 7). Bảng 7: Cơ cấu đầu tư cho các vùng kinh tế 2001 – 2004 (%) Trung du miền núi phía Bắc 7,1 Đồng bằng Bắc Bộ 27,7 Bắc trung bộ và duyên hải miền trung 17,4 Tây nguyên 4 Đông nam bộ 30,6 Đồng bằn sông Cửu Long 13,2 Nguồn: Số liệu của Tổng cục thống kê Với vốn FDI thường đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế phát triển do đó 2 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước đã chiếm tới 80% vốn FDI. Ngược lại vốn ODA lại thường được ưu tiên hỗ trợ các vùng kinh tế kém phát triển hơn do đó làm giảm sự chênh lệch vốn đầu tư cho các vùng miền. Cơ cấu đầu tư của các khu vực kinh tế cũng tác động đến sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế các khu vực. Hiện nay đầu tư của khu vực tư nhân ngày càng gia tăng và hiệu quả sử dụng vốn cao nên trở thành khu vực phát triển và quan trọng trong cơ cấu GDP (xem bảng 8). Bảng 8: Cơ cấu thành phần kinh tế Cơ cấu GDP (%) Cơ cấu vốn đầu tư (%) 1995 2000 2005 2008 1995 2000 2005 2008 Kinh tế Nhà nước 40,2 38,3 38,4 34,4 42 59,1 47,1 28,6 KT ngoài Nhà nước 53,5 48,2 45,6 47 27,6 22,9 38 40 Khu vực vốn nước ngoài 6,3 13,3 16 18,7 30,4 18 14,9 31,5 Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt 2008 Như vậy ta nhận thấy rằng, đầu tư đã tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trên cả ba phương diện: ngành kinh tế, vùng kinh tế, thành phần kinh tế. Cơ cấu đầu tư đã có tác dụng tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu tạo nên một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý, phù hợp với xu hướng chung của kinh tế khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập. 1.2.2. Đầu tư tác động đến trình độ khoa học kỹ thuật Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định đầu tư cho khoa học công nghệ của doanh nghiệp hay quốc gia. Trình độ KHCN tác động trực tiếp đến chất lượng tăng trưởng kinh tế nhưng mức đầu tư cho KHCN ở nước ta còn thấp.Từ năm 2001 đến nay, Nhà nước đã đảm bảo mức đầu tư 0,5% GDP vào khoảng 2% chi Ngân sách Nhà nước cho KHCN (xem bảng 9) nhưng đầu tư của khu vực ngoài Nhà nước lại chưa đạt khoảng 0,2%GDP. Đầu tư cho KHCN chỉ chiếm 0,7% tổng vốn đầu tư . Năm 2007 đầu tư cho KHCN trên đầu người ở nước ta là khoảng 5USD, trong khi đó ở Hàn Quốc là 1000USD, Trung Quốc là 20USD. Tỷ lệ đầu tư của Trung Quốc cho KHCN từ Ngân sách Nhà nước so với khu vực ngoài Nhà nước là khoảng 1:3, còn Việt Nam thì ngược lại khoảng 5:1. Bảng 9: Kinh phí đầu tư cho KH&CN từ NSNN Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng chi KH&CN (tỷ đồng)(*) 2.322 2.814,7 3.180 3.727 4.341 6.983 7.438 7.224 9.872 15.820 Tỷ lệ chi cho KH&CN so với tổng chi NSNN (%) 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 Tỷ lệ chi KH&CN/GDP(%) 0,48 0,52 0,52 0,52 0,54 0.57 0,58 0.55 0,6 0.9 Nguồn:Số liệu của Tổng cục Thống kê Nhận thức về đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế, cơ chế chính sách cho đầu tư đổi mới công nghệ chưa hoàn thiện và đồng bộ. 80% doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng công nghệ lạc hậu từ 3 - 4 thế hệ so với thế giới. Đa số doanh nghiệp sử dụng công nghệ của những năm 1980 và năng lực nghiên cứu đổi mới công nghệ rất hạn chế.  Theo kết quả khảo sát tại 1.200 doanh nghiệp Việt Nam của Tổ chức Hợp tác kỹ thuật CHLB Đức (GTZ), chỉ có khoảng 0,1% doanh thu hằng năm của doanh nghiệp được dành cho đổi mới công nghệ. Việc nhập khẩu công nghệ hằng năm của doanh nghiệp Việt Nam cũng chỉ đạt dưới 10% tổng kim ngạch nhập khẩu và chỉ bằng 1/4 của các nước phát triển. Việc đổi mới công nghệ chậm (như ngành cơ khí chế tạo, ngành luyện kim, hoá chất, chế biến lâm sản). Theo số liệu của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, các doanh nghiệp cơ khí - điện tử chỉ dành chưa đến 1% doanh thu cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cao nhất là các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành chế biến thực phẩm với 2,9% doanh thu (số liệu năm 2003). Thực tế cho thấy, mức đầu tư bình quân cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của một tập đoàn lớn của Nhà nước chỉ đạt từ 5,8 tỷ đồng (năm 2005) đến 15,7 tỷ đồng (năm 2010), trong khi mức lợi nhuận trước thuế là hàng nghìn tỷ đồng. Như vậy, tỷ suất đầu tư cho KH&CN trên lợi nhuận trước thuế là không đáng kể. Sự đóng góp to lớn của khoa học- công nghệ đã tạo ra năng suất lao động cao hơn, chất lượng hàng hóa tốt hơn, giá thành hàng hóa rẻ hơn, góp phần cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường thế giới. Điều này thể hiện trong thời gian qua, nhà nước đã có nhiều cố gắng đầu tư cho khoa học- công nghệ. Tuy nhiên, vốn đầu tư cho khoa học- công nghệ của chúng ta còn thấp, chưa tương xứng với nền kinh tế. Theo tính toán của các nhà khoa học, nếu nước nào chi cho khoa học- công nghệ khoảng 1 – 2% GDP thì khoa học- công nghệ của nước đó đóng góp cho nền kinh tế- xã hội khoảng 30 – 40% GDP. Nếu nước nào chi cho khoa học- công nghệ trên 3% GDP thì khoa học- công nghệ đóng góp cho nền kinh tế- xã hội trên 80% GDP, tức là hầu hết các sản phẩm của xã hội đều mang hàm lượng chất xám cao, đều do khoa học- công nghệ mang lại. Nước đạt đến trình độ như vậy là nước có nền kinh tế tri thức “Khi doanh nghiệp Việt Nam đi được 10 mét thì công nghệ thế giới đã vượt chặng đường 20 mét rồi”. Điều đó giải thích vì sao chỉ số tăng trưởng của ta so với thời gian trước vượt bậc mạnh mẽ, nhưng so với các nước lại tụt hậu trên bảng xếp hạng thế giới. Trong tổng số vốn đầu tư đầu tư cho hoạt động KHCN của các doanh nghiệp chỉ có 8% cho  nghiên cứu khoa học, phần dành cho đổi mới công nghệ chiếm tỉ lệ rất cao (92%) chủ yếu là đổi mới trang bị kỹ thuật với phần không nhỏ là nhập máy móc-thiết bị từ nước ngoài. Còn việc nghiên cứu khoa học để đổi mới công nghệ và sản phẩm chưa được coi trọng. Nếu so với doanh thu thì tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu khoa học/doanh thu của 444 doanh nghiệp trên chỉ đạt 0,26%. Thêm vào đó, phương thức tiến hành chủ yếu là bắt chước, thiết kế lại của nước ngoài (52%), nhập khẩu công nghệ (46%), còn mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu khoa học là rất yếu (31% do hợp tác với trong nước và 8% hợp tác với nước ngoài), và thuê tư vấn trong nước rất ít (5%). Rõ ràng đang tồn tại một khoảng cách rất xa giữa việc ứng dụng và chuyển giao, phổ biến công nghệ tại Việt Nam . Thực trạng này kéo dài sẽ là cản trở lớn cho sự phát triển và tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Hiện cả nước, tính đến hết năm 2010, có 254 khu công nghiệp, trong đó có 181 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động. Năm 2010, chỉ riêng các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp đã tạo ra 12,8 tỷ USD và 3,1 ngàn tỷ đồng, nộp ngân sách 689 triệu USD và 4 ngàn tỷ đồng. Riêng Tập đoàn dầu khí quốc gia đã sản xuất chiếm trung bình 18 – 20% GDP cả nước, đóng góp đến 30% ngân sách nhà nước. Về nông nghiệp, thắng lợi rõ rệt nhất là chúng ta đã tạo ra và duy trì quá trình tăng trưởng sản xuất với tốc độ nhanh trong thời gian dài, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, xuất khẩu gạo, tiêu, điều thuộc hàng đầu thế giới, tạo được nhiều việc làm, góp phần nâng cao mức sống của nhân dân Ở Việt Nam ta, nhà nước đầu tư cho khoa học- công nghệ còn thấp, khoảng 2% tổng chi ngân sách, nghiã là khoảng 0,5 – 0,6% GDP, chưa đạt đến 1% GDP !. Còn các doanh nghiệp Việt Nam, đa số đều là doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực tài chính yếu, khả năng đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp chỉ sản xuất kinh doanh một vài loại sản phẩm theo chu trình khép kín từ khâu đầu (thiết kế) đến sản phẩm cuối cùng, do đó hạn chế khả năng áp dụng các giải pháp khoa học- công nghệ để tạo ra hàng hóa có năng suất và chất lượng cao, giá thành thấp, tạo sức cạnh tranh cao Do đầu tư thấp nên trang thiết bị, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp của chúng ta còn lạc hậu. Theo số liệu thống kê, trên 75% thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp thuộc thế hệ những năm 60 của thế kỷ trước, trong đó 70% đã hết khấu hao và gần 50% máy cũ đã được tân trang lại; Trình độ công nghệ của ta còn lạc hậu so với các nước phát triển gần nửa thế kỷ … khiến các doanh nghiệp chưa đủ năng lực tạo ra những hàng hóa có chất lượng cao, giá thành thấp để có khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường thế giới. Điều này được minh chứng qua số liệu đầu tư cho khoa học- công nghệ. Ví dụ, năm 2007 Việt Nam đầu tư cho khoa học- công nghệ bình quân đầu người mới đạt 5USD, trong khi đó ở Hàn quốc đạt đến khoảng 1.000USD, còn ở Trung Quốc năm 2004 đã là 20USD. Ở Việt Nam, tỷ lệ đầu tư cho khoa học – công nghệ từ ngân sách nhà nước so với các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 5:1, còn ở Trung quốc là 1:3. Do đầu tư cho khoa học- công nghệ thấp nên năng suất lao động của chúng ta còn thấp, thấp hơn từ 2 – 15 lần so với các nước Đông Nam Á, chất lượng hàng hóa kém tính cạnh tranh và giá thành hàng hóa còn cao. Từ thực tế trên thấy rằng cơ chế chính sách sử dụng vốn có ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư đổi mới công nghệ và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời gian qua. Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp và khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực có xu hướng tăng. Việt Nam hiện đang ở trong tình trạng năng lực cạnh tranh thấp và có xu hướng tụt hạng so với thời kỳ trước năm 1996. Vào năm 2003, Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới về năng lực cạnh tranh, tăng 5 bậc so với năm 2002, nhưng giảm 7 bậc so với thứ hạng 53 của năm 2000 và giảm 21 bậc so với thứ hạng năm 1998. Năm 2006, Việt Nam xếp thứ 77/125 quốc gia, tụt 3 hạng so với năm 2005. Năm 2008, Việt Nam đứng thứ 70 trong số 134 quốc gia được xếp hạng.. . Nếu so sánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam Trong số các quốc gia Đông Nam Á, Singapore chiếm vị trí đầu bảng. Việt Nam đứng trên Philippines và Campuchia. Tóm lại, đầu tư cho KHCN ở nước ta mạc dù có tăng nhưng vẫn ở mức thấp, chưa chú trọng đầu tư nghiên cứu và chậm trong việc tiếp cận công nghệ mới. Do đó chỉ số tăng trưởng về KHCN ở nước ta tăng theo thòi gian, nhưng lại ngày bị tụt hậu so với các nước trên thế giới. Trước tình hình trên, Việt Nam cần ngày càng coi trọng vấn đề đầu tư hơn, ứng dụng khoa học- công nghệ vào sản xuất, kinh doanh; xem khoa học- công nghệ đóng vai trò then chốt trong quá trình tăng trưởng và phát triển. Các doanh nghiệp không những chỉ chú trọng đến số lượng, mà đặc biệt rất quan tâm đến chất lượng hàng hóa, luôn dựa và khoa học- công nghệ để cải tiến, nâng cao chất lượng và hạ giá thành hàng hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường và khách hàng. Chỉ có như vậy các doanh nghiệp mới có thể tồn tại trong cuộc cạnh tranh khốc liệt không chỉ với hàng hóa trong nước, mà còn với hàng hóa của các nước khác. Và chỉ có như vậy, hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam mới có thể vươn xa ra thị trường thế giới, nâng cao uy tín của thương hiệu Việt Nam. 1.2.3. Đầu tư tác động đến năng suất lao động Việc đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục đào tạo, dạy nghề và khoa học công nghệ đã tác động đến chất lượng lao động ở nước ta mà chỉ số phản ánh chất lượng này chính là năng suất lao động. Trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, mặc dù chi cho đầu tư phát triển giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngày càng tăng, những năm qua luôn duy trì một tỷ lệ 20% chi ngân sách Nhà nước và được Thủ tướng quyết định tỷ lệ này có thể tăng lên đến 22% do đó năng suất lao động tăng ( xem bảng 10). Bảng 10: Năng suất lao động của Việt Nam 2000 – 2008 Năm NSLĐ ( triệu đồng) Tốc độ tăng NSLĐ(%) 2000 11,74291 4,68 2001 12,43136 4,25 2002 13,56095 4,51 2003 15,11919 4,52 2004 17,20054 5,17 2005 19,73365 6,04 2006 22,48017 6,2 2007 25,89216 6,43 Bình quân 2000-2007 17,27637 5,47 Nguồn: Niên giám Thống kê 2007 Năm 2007 mới đạt 25.886 đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607 nghìn đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159 nghìn đồng/người. Nếu quy ra USD theo tỷ giá hối đoái, năng suất lao động của toàn nền kinh tế cũng mới đạt khoảng 1,6 nghìn USD, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản chỉ đạt 0,6 nghìn USD, của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng đạt khoảng 3.438 USD, của nhóm ngành dịch vụ đạt khoảng 2.385 USD. Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (khoảng trên 14,6 nghìn USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6,5 nghìn USD/người), kém 50 lần so với Nhật Bản (81100 USD), kém 49 lần so với Mỹ ( 78737 USD) và ngay với cả Malaysia cũng thấp hơn 7,8 lần. Với năng suất còn thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi. Năng suất lao động thấp như vậy là do cơ cấu lao động tập trung ở khu vực nông thôn chiếm 73% số người trong độ tuổi của cả nước trong khi đó trình độ khoa học kỹ thuật trong ngành nông lâm ngư nghiệp thấp. Ngoài ra tỷ lệ lao động có trình độ học vấn trung học cơ sở trở lên là 56,7% so với tổng số lao động trong độ tưổi, trong đó tỷ lệ lao động có trình độ trung học phổ thông trở lên là 27,8%. Lực lượng lao động trong độ tuổi có trình độ đại học trở lên chiếm 5,3% tổng lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó thành thị 14,4%; nông thôn 1,8%; nam 5,6%; nữ 5%. Mặc dù chi cho đầu tư phát triển giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngày càng tăng, những năm qua luôn duy trì một tỷ lệ 20% chi ngân sách Nhà nước và được Thủ tướng quyết định tỷ lệ này có thể tăng lên đến 22%. Ngoài ra nước ta còn tăng chi lương tăng thu nhập cho người lao động tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực. Theo Nghị định số 33/2009/NĐ-CP ngày 06/4/2009 của Chính phủ, mức lương tối thiểu đã tăng 20%, từ 540 nghìn đồng/tháng lên 650 nghìn đồng/tháng; trợ cấp hàng tháng của những đối tượng hưởng lương hưu tăng thêm 5%. Ngoài ra, trong 4 tháng đầu năm, cán bộ, công chức, viên chức có hệ số lương dưới 3,0 được phụ thêm 90 nghìn đồng mỗi tháng. Thu nhập bình quân tháng của lao động khu vực Nhà nước năm 2009 bình quân đạt 3084,8 nghìn đồng, tăng 14,2% so với năm 2008, trong đó thu nhập của lao động trung ương đạt 3979,1 nghìn đồng, tăng 16,1%; địa phương đạt 2532,9 nghìn đồng, tăng 13%. Việc đảm bảo, nâng cấp và phát triển hệ thống y tế cũng góp phần đáng kể nâng cao năng suất lao động. Nhưng năm qua nước ta xảy ra nhiều đợt dịch bệnh vì vậy đầu tư cho các chương trình tuyên truyền phòng bệnh, phát hiện và điều trị cho người dân rất lớn. Điều này ảnh hưởng tích cực tới việc bảo vệ sức khỏe người dân góp phần nâng cao thể lực nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực cùng với trình độ khoa học công nghệ kỹ thuật là yếu tố quan trọng góp phần tăng tỷ trọng của yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) trong GDP, một trong ba nhân tố tác động trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhưng năm gần đây yếu tố TFP ngày càng được chú trọng và có đóng góp tăng trong GDP( xem bảng 11). Bảng 11: Tốc độ tăng của các yếu tố sản xuất đến tăng GDP(%) Năm GDP Tài sản cố định Lao động TFP 2000 6,79 11,3 2,02 1,34 2001 6,89 11,13 2,53 1,18 2002 7,08 11,3 2,45 1,36 2003 7,34 9,84 2,7 2,02 2004 7,79 10,75 2,49 2,25 2005 8,43 11,72 2,26 2,67 2006 8,23 12,71 1,91 2,54 2007 8,46 14,31 1,93 2,23 2008 6,18 12.98 1,68 0,46 Theo như trên, ta thấy tốc độ tăng GDP ở nước ta tương đối cao và ổn định nhưng chủ yếu vẫn là do sự tăng lên của vốn. Tốc độ tăng của lao động chậm lại, nhưng trình độ khoa học công nghệ và chất lượng lao động được cải thiện nên TFP ngày càng tăng và tăng một cách ổn định trong GDP. Tốc độ tăng của TFP của nước ta là tương đối cao so với các nước phát triển là do nước ta là nước đang phát triển nên có nhiều cơ hội học hỏi những khoa học công nghệ mới để cải thiện kinh tế. Tốc độ tăng TFP là phản ánh tập trung nhất về chất lượng tăng trưởng, phản ánh về sự tiến bộ khoa học và công nghệ (KH&CN) của mỗi ngành, mỗi địa phương và cả quốc gia. Thời gian qua, đầu tư phát triển công nghệ của nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng. Song tiến bộ còn chậm, tác động của sự phát triển KH&CN đối với tăng trưởng kinh tế còn chưa cao. Sự tăng lên của kết quả sản xuất (tăng trưởng kinh tế) do tăng TFP ở Việt Nam còn ở mức thấp, xét ở một góc độ nào đó điều này thể hiện sự tăng trưởng kinh tế chưa thật vững chắc (xem bảng 12). Bảng 12: Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố tới tăng trưởng GDP(%) Năm Vốn Lao động TFP 2000 61,51 18,75 19,74 2001 59,79 23,13 17,08 2002 58,97 21,85 19,21 2003 49,27 23,27 27,47 2004 51,00 29,15 28,85 2005 51,38 16,84 31,67 2006 53,94 15,19 30,87 2007 58,75 14,89 26,36 Bq 2001-2005 54,08 21,04 24,81 Bq:2000-2007 55,58 19,25 25,16 Bq 2006-2007 56,35 15,04 28,61 Nguồn: Niên giám Thống kê 2007 So với các nước, tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thuộc vào nhóm nước có tỷ lệ thấp nhất đạt trên 25%, trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển đạt xấp xỉ 50%, các nước đang phát triển có tỷ lệ trung bình khoảng 30%. Như vậy, những năm qua đầu tư phát triển công nghệ, khoa học, giáo dục đào tạo của nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển quan trọng. Nhưng tiến độ còn chậm, tác động của việc phát triển đó đối với tăng trưởng còn chưa cao. Sự tăng trưởng kinh tế do yếu tố TFP còn khiếm tốn thì ở một góc độ nào đó có thể nói rằng sự tăng trưởng kinh tế còn chưa bền vững. 1.2.4. Đầu tư tác động đến đời sống kinh tế xã hội, xây dựng định hướng chính sách của đất nước. Đầu tư làm tăng sản xuất do đó góp phần giải quyết vấn đề việc làm. Đến nay, riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Vì vậy mà làm giảm tỷ lệ thất nghiệp hạn chế hệ quả về tệ nạn xã hội góp phần xây dựng đời sống kinh tế xã hội tốt đẹp hơn. Ngoài ra đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nâng cao hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Các hình thức đầu tư nước ngoài đặc biệt là ODA và FDI còn tạo điều kiện phát triển thị trường tăng cường mối quan hệ kinh tế xã hội với các nước và quốc tế trong quá trình hội nhập. Cơ cấu đầu tư nước ngoài giúp định hướng phát triển kinh tế đất nước, xây dựng và hoàn thiện các chính sách, bộ luật liên quan đến đầu tư, hợp tác quốc tế…, tăng cường mối quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới thúc đẩy giao thương kinh tế tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế. 2. Tác động ngược trở lại của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. 2.1. Tăng trưởng là điều kiện để cải thiện môi trường đầu tư Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từ năm 1992 đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Nền kinh tế càng phát triển thì vấn đề cải thiện môi trường đầu tư càng trở nên cấp thiết hơn. Do đó, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều cải cách hành chính cũng như những biện pháp khuyến khích nhằm tạo ra hành lang pháp lý và môi trường đầu tư thuận lợi, mở cửa cho các hoạt động đầu tư mới ở Việt Nam. Sự hoàn thiện pháp luật về đầu tư góp phần thúc đẩy tăng vốn đầu tư cả về trong nước cũng như nước ngoài ở Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ ràng trong việc tạo thành và hoàn thiện bộ luật đầu tư ở nước ta. Sau khi ban hành Luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005, Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ các khó khăn nhằm giúp các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài kinh doanh có hiệu quả. Cụ thể: Các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư trong hầu hết các lĩnh vưc của nền kinh tế, được quyền chủ động lựa chọn các hình thức đầu tư, địa điểm, đối tác đầu tư, quy mô dự án; được trực tiếp tuyển dụng lao động; được khuyến khích ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Đề cao tinh thần tự do kinh doanh. Nhà đầu tư được quyết định về đầu tư trong các lĩnh vực pháp luật không cấm hạn chế, tự quyết định về hình thức, quy mô đầu tư, vốn hoạt động đầu tư kinh doanh, chuyển nhượng và điều chỉnh dự án. Được trực tiếp xuất khẩu uỷ thác phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Nhà đầu tư được bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực đầu tư như tín dụng, đất đai, tài nguyên, các tiện ích công cộng, áp dụng giá và phí thống nhất. Được tiếp cận các dữ liệu của nền kinh tế quốc dân và thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư. Tham gia vào quá trình xây dựng văn bản pháp luật. Được khiếu nại, kiện ra toà những tổ chức cá nhân gây cản trở kinh doanh. Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng được hưởng sự bảo đảm của Nhà nước cụ thể như: vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Nếu trong trường hợp buộc phải trưng mua và trưng dụng phải được bồi thường trên cơ sở đảm bảo lợi ích nhà đầu tư. Việc giải quyết tranh chấp, nhà đầu tư được tiếp cận toà án, trọng tài quốc tế khi giải quyết tranh chấp. Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được quyền mua bán ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai. Chính phủ bảo đảm cân đối ngoại tệ cho các dự án quan trọng, bỏ khống chế lãi suất trần đối với các khoản vay về ngoại tệ và các khoản vay nước ngoài... Việc tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá cũng tạo điều kiện mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam, đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với trên 150 nước và cùng lãnh thổ, tham gia tích cực vào cơ cấu hợp tác khu vực và thế giới như ASEAN, ASEM, APEC và WTO. Việc ký kết các Hiệp định CEPT/AFTA, Hiệp định thương mại  Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản (2003), sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản (12/2003)... đã làm tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của Việt Nam. Việt Nam có môi trường chính trị - xã hội ổn định, đáp ứng được nhu cầu làm ăn lâu dài của các nhà đầu tư. Việc Nhà nước đầu tư đáng kể cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như hệ thống đường sá, cầu cảng, hệ thống thông tin liên lạc, điện nước....đẩy mạnh cải cách hành chính để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong những năm qua đã cải thiện rõ rệt điều kiện và môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp, góp phần tiết kiệm các chi phí trung gian, hạ giá thành sản phẩm cho các doanh nghiệp. Trong thời gian qua tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước được thể hiện trong bảng  sau 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Chi đầu tư phát triển 31,0 30,51 32,91 31,87 30,15 28,68 27,05 26,38 24,84 26.87 Trong đó chi XDCB 27,85 27,49 30,04 28,83 27,73 26,32 24,53 22,34 23,94 Cụ thể là, tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, cao hơn nhiều với tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ sự đầu tư này mà mạng lưới đường bộ Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng, chất lượng các con đường được cải thiện rõ rệt.  Điện lưới được phủ toàn quốc, chất lượng điện được đầu tư đúng mức. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số lên 49% dân số năm 2002. Tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển chung trong giai đoạn 2001- 2010 khoảng 60 tỷ USD, chiếm khoảng 8,4% so với GDP; trong đó chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như: giao thông thủy lợi, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản khoảng 50%. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu phát triển kinh tế, trao đổi hàng hóa giữa các ngành nghề, cũng như các vùng miền khác nhau. Bên cạnh đó, khoa học và công nghệ cũng đã góp phần tạo ra những chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Những đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp, đặc biệt là sản xuất cơ khí chế tạo kết cấu thép chuyên dụng, đóng tàu, viễn thông, điện lực, dầu khí, khai thác tài nguyên khoáng sản... đã góp phần làm cho sản xuất công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng cao liên tục những năm qua. Trong nông nghiệp, khoa học và công nghệ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Chúng ta đã tuyển chọn, lai tạo được hàng chục giông lúa mới, phù hợp các vùng sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trưởng quan trọng. Từ một nước thiếu lương thực, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Ngoài ra, Việt Nam còn là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu nhiều nông sản có giá trị khác. Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình nghiên cứu khoa học công nghệ đã tập trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng, xây dựng các nhà máy thủy điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phương pháp làm giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện. Trong giao thông vận tải, khoa học công nghệ đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp và phát triển mạng lưới đường bộ, đường sắt, đường thủy…Đã xây dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các công nghẹ mới: Đóng tàu biển trọng tải 3000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình ở Lào Campuchia… Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang...đủ mạnh để hòa nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Thị trường tin học nước ta những năm qua có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng 50-55%. Việc sử dụng máy vi tính ở nước ta đã chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ sang hình thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng.  Mặc dù đã có những bước phát triển mạnh mẽ song về cơ bản Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, các cơ sở công nghiệp và trình độ kỹ thuật - công nghệ còn thấp, hệ thống luật pháp về kinh tế của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn thiện, tính ổn định và minh bạch chưa cao, mức độ rủi ro pháp luật còn lớn và khó dự báo, quá trình cải cách hành chính còn chuyển biến chậm, hệ thống thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường đất đai... còn chưa đồng bộ và kém phát triển. Khoa học và công nghệ nước ta chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, đội ngũ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của quá trình CNH, HÐH, chưa trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và khắc phục được tình trạng tụt hậu so với một số nước trong khu vực. Chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ nhìn chung còn thấp, thiếu những cán bộ, chuyên gia giỏi đầu đàn trong nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ, đủ sức đảm nhiệm các nhiệm vụ nghiên cứu có tầm cỡ quốc tế, có đóng góp đột phá đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách đãi ngộ, sử dụng chưa thu hút được nhiều và sử dụng tốt cán bộ trẻ đã được đào tạo có trình độ cao về làm việc tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực. Theo số liệu của bộ Khoa học-công nghệ và môi trường thì đầu tư tài chính cho khoa học công nghệ chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hàng năm. Chi phí trung bình hằng năm cho 1 cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước khoảng 1000 USD, rất thấp so với mức bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng mức độ cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn chậm hơn so với các nước khác trong khu vực. 2.2. Tăng trưởng tạo tích lũy và tăng cường vốn cho đầu tư Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta cần đến một lượng vốn lớn.. Nguồn vốn ở đây bao gồm cả vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Trước hết, chúng ta sẽ xem xét trên khía cạnh nguồn vốn đầu tư trong nước. Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước...). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước (NSNN) cũng gia tăng đáng kể. Trong giai đoạn 2001 – 2007, tổng chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%. Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước bình quân bằng 29% GDP. Trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi NSNN. Giai đoạn 2007 – 2010, tỷ trọng chi đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực kinh tế so với tổng chi đầu tư phát triển có xu thế giảm dần, Chính phủ nhận định tại báo cáo mới nhất về tình hình phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách Nhà nước. Cụ thể, từ mức 51,7% năm 2007, mức chi đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực kinh tế so với tổng chi đầu tư phát triển trong năm 2010 đã giảm xuống 46,3%. Tuy nhiên, riêng các ngành giao thông, nông, lâm ngư nghiệp vẫn được ưu tiên đầu tư từ ngân sách để hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém. Từ mức 18% năm 2007, đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi đã tăng lên, chiếm 20,5% trong tổng chi đầu tư phát triển năm 2010. Tỷ trọng đầu tư cho giao thông vận tải cũng tăng từ 21% lên 22,6%. Trái với kinh tế, tỷ trọng chi đầu tư phát triển cho lĩnh vực xã hội đã tăng từ 43,4% năm 2007 lên 49,1% năm 2010. Trong đó, giáo dục và đào tạo tăng từ 12,2% lên 17,4%. Cũng trong giai đoạn 2007 - 2010, theo phân cấp, tỷ trọng đầu tư do địa phương quản lý đã tăng từ 60,8% lên 69,8%. Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý được hình thành từ nguồn đầu tư trong cân đối của các địa phương và các khoản hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương. Theo đánh giá của Chính phủ, mặc dù nguồn vốn đầu tư trong cân đối của các địa phương đã tăng trên 14% trong cả thời kỳ, song tốc độ tăng vốn đầu tư không đồng đều. Nếu tính cả số đầu tư từ nguồn thu sử dụng đất, tỷ trọng đầu tư theo cân đối của các tỉnh có nguồn thu thấp theo xu hướng giảm dần. Các tỉnh miền núi phía Bắc có tỷ trọng đầu tư trong cân đối so với tổng đầu tư trong cân đối cả nước giảm từ 7,5% năm 2007 xuống 6,2% năm 2010; Tây Nguyên từ 3,7% xuống 3,2%... Đối với các bộ ngành, cơ quan trung ương, vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách Nhà nước đã giảm dần, lần lượt các năm từ 2007 - 2010 là 34.919,4 tỷ đồng, 29.830,6 tỷ đồng, xuống 25.530,2 tỷ đồng và 29.277,7 tỷ đồng. Nguồn vốn đầu tư này, tính trung bình cả giai đoạn chiếm 18,5% tổng chi đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước. Mặc dù đánh giá việc phân bổ vốn giữa các ngành, địa phương đã “bảo đảm sự công khai, minh bạch, công bằng”, song Chính phủ cũng nhìn nhận không ít hạn chế. Đó là việc phân bổ nguồn vốn bổ sung có mục tiêu chưa được lượng hóa và còn mang tính chủ quan, mức tăng vốn đầu tư trong cân đối giữa các tỉnh, thành trong vùng không đồng đều... Theo báo cáo của Bộ KH-ĐT, trong năm 2009, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 704.200 tỷ đồng, bằng 42,8% GDP (kế hoạch đề ra là 39,5%), tăng 15,3% so với năm 2008. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước (NSNN) ước thực hiện cả năm đạt 161.000 tỷ đồng, tăng gần 63% so với năm 2008, chiếm 22,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2009, tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải đã dần được khắc phục; tiến độ thực hiện các nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn NSNN, trái phiếu Chính phủ đạt kế hoạch cao hơn so với các năm trước. Năm 2010, khả năng huy động nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2010 là 791.000 tỷ đồng, bằng 41% GDP, tăng 12,3% so với ước thực hiện năm 2009. Tuy vậy, việc giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm qua vẫn thấp so với yêu cầu đặt ra (một số bộ, ngành giải ngân chưa đạt 50% kế hoạch, cá biệt có đơn vị đạt chưa đầy 3% kế hoạch); tình trạng vi phạm các quy định về quản lý đầu tư vẫn ở mức khá cao (trong 6 tháng đầu năm 2009 có 4.182 dự án vi phạm các quy định về quản lý đầu tư, trong đó có tới 4.076 dự án chậm tiến độ đều ra)... Đáng chú ý là vẫn còn tình trạng phân bổ vốn cho các dự án không trong quy hoạch được duyệt, chưa đủ thủ tục đầu tư.Cụ thể là trong năm 2009, tổng chi NSNN ước đạt 533.000 tỷ đồng, tăng 8,5% (41.705 tỷ đồng) so với dự toán. Trong đó, chi đầu tư phát triển tăng 20,1% (22.700 tỷ đồng) so với dự toán, chiếm 25,4% tổng chi NSNN và bằng 8,1%GDP. Bên cạnh đó, đi cùng với việc nền kinh tế tăng trưởng, nguồn vốn từ khu vực ngoài nhà nước cũng gia tăng đáng kể. Cụ thể là, tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7%GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư, phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh lên tới 184,3 nghìn tỷ VN. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh đã và đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng và tiềm năng to lớn của khu vực này trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thu hút vốn ODA cũng có chuyển biến tích cực, tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các Hiệp định với các nhà tài trợ năm 2009 ước đạt 6.144,4 triệu USD, cao hơn năm 2008, trong đó: vốn vay là 5.929,4 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 215,0 triệu USD. Tổng số vốn ODA giải ngân năm 2009 ước đạt trên 3.600 triệu USD, bao gồm vốn vay khoảng 3.255 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 345 triệu USD. Bên cạnh đó, nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam vẫn gia tăng mạnh mẽ. Trong 11 tháng đầu năm 2009 cả nước có 776 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 14,6 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 22,4 % so với cùng kỳ 2008 nhưng đây là cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay. Có 213 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,09 tỷ USD, bằng 98,3% so với cùng kỳ năm 2008. Vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam cả năm 2009 ước đạt 21,48 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt 10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008. Cùng với sự phát triển kinh tế, ngày càng có nhiều quốc gia hơn đầu tư vào Việt Nam. Đồng thơi, theo tổng hợp báo cáo của các chủ đầu tư, tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án đầu tư ra nước ngoài trong năm 2010 cũng khá lớn, đạt khoảng 900 triệu USD, trong đó lĩnh vực khai khoáng đạt trên 700 triệu USD; nông,  lâm nghiệp, thuỷ sản đạt 70 triệu USD; phân phối bán buôn bán lẻ đạt 53 triệu USD; bưu chính viễn thông đạt 33 triệu USD; sản xuất điện 25 triệu USD... Các dự án đầu tư nêu trên thuộc những lĩnh Việt Nam đang cần như khái thác khoáng sản; trồng cây công nghiệp; thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam ra bên ngoài; dịch vụ viễn thông; hàng không; ngân hàng... Tuy nhiên, Cục Đầu tư nước ngoài cũng thừa nhận phần lớn các dự án đầu tư quy mô lớn hiện đang trong giai đoạn đầu của quá trình đầu tư nên hiệu quả đầu tư ra nước ngoài là chưa lớn, chưa có đóng góp đáng kể cho việc phát triển kinh tế xã hội trong nước thời gian qua. “Các lĩnh vực này hiện Việt Nam đã và đang chiếm lĩnh được đáng kể và phát triển tích cực tại thị trường một số địa bàn đầu tư trọng điểm, do vậy tương lai gần khi các dự án này đi vào hoạt động hiệu quả sẽ có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, bảo đảm an ninh năng lượng lâu dài cho quốc gia”, Cục Đầu tư nước ngoài cho hay.Trong năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 9,8 tỷ USD chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, Cayman Islands đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ USD chiếm 9,4%, đứng thứ 3 là Samoa với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD chiếm 7,9%; Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1,66 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 7,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. %). Cho đến nay, đã có khoảng hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau. III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Ưu điểm - Thực trạng trên cho ta thấy được hoạt động đầu tư ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng quan tâm, nâng vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam đã sớm ra khỏi suy giảm, từng bước phục hồi và tăng trưởng khá nhanh. Năm 2010 tăng trưởng GDP đạt 6,78%, cao hơn mục tiêu đề ra là 6,5%.Nguyên nhân của những thành tựu đó có nhiều, trong đó đường lối đổi mới của Đảng và các chính sách kinh tế tài chính có tác dụng kích thích sản xuất, mở rộng dịch vụ của Nhà nước và sự điều hành của Chính phủ có vai trò quyết định. - Vốn là yếu tố sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu nền kinh tế, tăng quy mô đầu tư và làm tăng tổng cầu nề kinh tế. Nhà nước đã có những chính sách tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hạ giá thành sản phẩm, tăng tiêu dùng giải quyết việc làm, ổn định xã hội giảm bớt tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế. - Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện, thể hiện sự tăng lên của năng suất, các yếu tố tổng hợp TFP. - Cơ cấu kinh tế chịu ảnh hưởng từ cơ cấu đầu tư này nên có sự dịch chuyển cơ cấu nghành theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp tăng nhanh. - Đầu tư đã giải quyết vấn đề việc làm, giảm tỷ lệ thất nhiệp. 2. Nhược điểm : - Sự tụt giảm tốc độ tăng trưởng, do cơ chế chính sách ngày càng không theo kịp với tình hình mới làm cho hiệu quả của vốn đầu tư giảm sút nhanh, dẫn đến tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng nhanh trong khi tốc độ tăng GDP chậm . - Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng đầu tư với tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội tăng liên tục từ mức 1/3 GDP cuối thế kỷ 20 lên trên 40% GDP mấy năm gần đây. Hiệu quả đầu tư tổng thể giảm mạnh thể hiện qua ICOR tăng cao, thậm chí tới trên 8 vào năm 2009 – gấp đôi so với mức được cho là hiệu quả (ICOR khoảng 3 – 4) đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. - Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu không đồng bộ về quy mô, tốc độ tăng trưởng giữa các nghành, vùng, khu vực...dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động. Bên cạnh đó, đầu tư của khu vực nước ngoài chủ yếu chỉ tập trung vào một số ngành khai thác nguyên liệu, khoáng sản (như dầu thô...), những ngành tập trung vốn lớn, một số ngành được bảo hộ cao như lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất thép... - Chỉ số năng suất tổng hợp (TFP) tăng với tốc độ thấp, ở Việt Nam vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng chưa chuyển mạnh sang phát triển chiều sâu. Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn lực sản xuất và là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng, cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế. - Tình hình dải ngân kém hiệu quả,rất chậm, làm thất thoát lãng phí nguồn ngân sách của nhà nước. - Tình trạng bội chi ngân sách nhiều năm liền của Việt Nam là hệ quả của tình trạng đầu tư kém hiệu quả, phân bổ nguồn lực chưa hợp lý. - Tiến độ xây dựng các dự án quá chậm, năng lực quản lý, năng lực các đơn vị tư vấn còn yếu kém. - Tốc độ giải ngân vốn ODA tuy có tiến bộ, nhưng vẫn chậm so với yêu cầu. Nguyên nhân chính là do thiếu quy trình phù hợp, thủ tục phức tạp, thiếu rõ ràng, thiếu các quy định trách nhiệm của Việt Nam - nhà tài trợ, công tác di dân, giải phóng mặt bằng triển khai dự án, tổ chức đấu thầu lúng túng. - Tỷ trọng vốn FDI trong nông nghiệp chỉ đạt ở mức thấp, gây tình trạng sản xuất kém hiệu quả và chất lượng không cao ảnh hưởng đến việc cung cấp sản phẩm. Với tỷ lệ vốn cho nông nghiệp kém như vậy khó có thể đưa nông nghiệp hóa được. - Trong cơ chế đầu tư vẫn còn tồn tại nhiều bất cập: Cơ chế đầu tư được xem là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng đầu tư kém hiệu quả ở Việt Nam trong thời gian qua. Thể hiện ở chỗ thiếu tinh đồng bộ, minh bạch và khách quan. Bất cập thứ hai trong cơ chế đầu tư là hành lang pháp lý vẫn còn nhiều bất cập, các chính sách hay thay đổi, luật chưa nhất quán( áo luật chung luật riêng) gây cản trở khó khăn cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư thấy ngại khi tham gia vào bất kỳ lĩnh vực nào. - Vấn đề quy hoạch đầu tư: công tác quy hoạch của nước ta trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến nhưng nhìn chung vẫn tồn tại khá nhiều vướng mắc. Tình trạng chung hiện nay là những quy hoạch thiếu tầm chiến lược lâu dài, thiếu sự khảo sát kỹ lưỡng về mặt địa chất, yếu tố kinh tế bị xem nhẹ...Kết quả là rất nhiều dự án hoạt động không hiệu quả, nhiều công trình không được xây dựng, bỏ phí. - Tình trạng phân tán, dàn trải trong đầu tư Đầu tư dàn trải là hiện tượng cùng một lúc thực hiện quá nhiều dự án khiến cho vốn đầu tư bị phân tán, dàn mỏng không phát huy hiệu quả. Đầu tư dàn trải còn thể hiện ngay ở việc mở rộng quá nhiều những diện được hưởng nguồn vốn vay ưu đãi. Điều đó làm cho c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docktdt.nhomIII 50a.doc