Tài liệu Đề tài Tác động của sự minh bạch thông tin trong thị trường bất động sản Việt Nam đến công tác thẩm định giá bất động sản: 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2010”
TÊN CÔNG TRÌNH:
TÁC ĐỘNG CỦA SỰ MINH BẠCH THÔNG TIN
TRONG THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẾN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH GIÁ BẤT ĐỘNG SẢN
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
2
MỤC LỤC
TRANG
MỤC LỤC i
DANH MỤC BẢNG BIỂU iii
DANH MUC SƠ ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT v
TÓM TẮT ĐỀ TÀI 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1.1 Thị trường bất động sản (TTBĐS) 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Đặc điểm của TTBĐS 3
1.2 Thông tin về BĐS 5
1.2.1 Nguyên tắc và yêu cầu về thông tin BĐS 5
1.2.2 Vai trò của thông tin BĐS trên thị trường 6
1.3 Sự minh bạch thông tin 7
1.3.1 Sự minh bạch thông tin của nền kinh tế nói chung 7
1.3.1.1 Khái niệm 7
1.3.1.2 Tiêu chí đánh giá 8
1.3.2 Sự minh bạch thông tin trong TTBĐS 8
1.3.2.1 Khái niệm 8
1.3.2.2 Tiêu chí đánh giá 8
Kết luận chương 1 9
Chương 2...
69 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tác động của sự minh bạch thông tin trong thị trường bất động sản Việt Nam đến công tác thẩm định giá bất động sản, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2010”
TÊN CÔNG TRÌNH:
TÁC ĐỘNG CỦA SỰ MINH BẠCH THÔNG TIN
TRONG THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẾN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH GIÁ BẤT ĐỘNG SẢN
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
2
MỤC LỤC
TRANG
MỤC LỤC i
DANH MỤC BẢNG BIỂU iii
DANH MUC SƠ ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT v
TÓM TẮT ĐỀ TÀI 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1.1 Thị trường bất động sản (TTBĐS) 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Đặc điểm của TTBĐS 3
1.2 Thông tin về BĐS 5
1.2.1 Nguyên tắc và yêu cầu về thông tin BĐS 5
1.2.2 Vai trò của thông tin BĐS trên thị trường 6
1.3 Sự minh bạch thông tin 7
1.3.1 Sự minh bạch thông tin của nền kinh tế nói chung 7
1.3.1.1 Khái niệm 7
1.3.1.2 Tiêu chí đánh giá 8
1.3.2 Sự minh bạch thông tin trong TTBĐS 8
1.3.2.1 Khái niệm 8
1.3.2.2 Tiêu chí đánh giá 8
Kết luận chương 1 9
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA SỰ MINH BẠCH THÔNG TIN TRONG TTBĐS
VIỆT NAM 10
2.1 Đánh giá sự minh bạch thông tin trong TTBĐS Việt Nam 24
2.1.1 Chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tư 14
2.1.2 Thông tin về các quy luật cơ bản của thị trường 14
2.1.3 Các công cụ niêm yết 15
2.1.4 Hệ thống quản lý - pháp lý 16
2.1.5 Quá trình giao dịch 21
Kết luận chương 2 23
Chương 3: TÁC ĐỘNG CỦA SỰ MINH BẠCH THÔNG TIN ĐẾN CÔNG TÁC THẨM
ĐỊNH GIÁ BĐS 24
3.1 Tác động đến giá BĐS trên thị trường 24
3.2 Tác động đến công tác thẩm định giá BĐS 25
3
3.2.1 Các bước phải thực hiện trong quá trình thẩm định giá liên quan
đến thông tin trên TTBĐS 25
3.2.2 Thông tin thị trường và các phương pháp thẩm định giá 27
3.2.3 Thực trạng công tác thẩm định giá BĐS ở Việt Nam 29
3.2.4 Khảo sát thực tế sự minh bạch thông tin BĐS và công tác thẩm định giá BĐS 32
3.2.4.1 Đặc điểm TTBĐS TP. HCM – nơi lấy mẫu khảo sát 32
3.2.4.2 Phương pháp tiến hành khảo sát 32
3.2.4.3 Kết quả khảo sát 32
Kết luận chương 3 42
Chương 4: CẢI THIỆN TÍNH MINH BẠCH CHO TTBĐS VIỆT NAM 43
4.1 Xây dựng hệ thống thông tin BĐS - Kinh nghiệm từ các nước trên thế giới 43
4.2 Kiến nghị giải pháp nhằm cải thiện tính minh bạch cho TTBĐS Việt Nam 44
4.2.1 Kinh nghiệm từ Singapore và Trung Quốc 44
4.2.2 Kiến nghị giải pháp cải thiện tính minh bạch cho TTBĐS Việt Nam 45
4.2.3 Kiến nghị giải pháp của tác giả từ góc nhìn của một sinh viên kinh tế 46
Kết luận chương 4 49
KẾT LUẬN CHUNG 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1-Phiếu khảo sát
Phụ lục 2: Tên các công ty lấy mẫu khảo sát
Phụ lục 3: Danh sách các chuyên gia lấy thông tin
Phụ lục 4: Chuẩn mực lập BCTC hiện tại (IAS và IFRS)
Phụ lục 5: Những điểm khác nhau giữa VAS và IFRS có thể ảnh hưởng lớn đến các quyết
định của nhà đầu tư
Phụ lục 6: Một số văn bản Nhà nước về tiêu chuẩn xây dựng
Phụ lục 7: Phân loại TTBĐS
Phụ lục 8: Tiêu chí đánh giá sự minh bạch của nền kinh tế
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT NỘI DUNG TRANG
Bảng 1.1:
Các mức độ minh bạch thông tin và số điểm tương ứng
năm 2006 và 2008
9
Bảng 1.2: Các chỉ tiêu phụ của RETI năm 2008 9
Bảng 2.1:
Mức độ minh bạch thông tin BĐS Việt Nam qua các năm
2004-2008
10
Bảng 3.1: Các phương pháp thẩm định giá và thông tin yêu cầu 28
Bảng 3.2: Mô tả giới tính của các đối tượng được khảo sát 35
Bảng 3.3: Mô tả số năm công tác của các đối tượng được khảo sát 35
Bảng 3.4: Mô tả các loại tài sản thẩm định của đối tượng được khảo sát 36
Bảng 3.5:
Mô tả các phương pháp sử dụng thẩm định giá các tài sản
của đối tượng được khảo sát
36
Bảng 3.6:
Mô tả mức độ xác định được các thông tin sử dụng trong phương
pháp so sánh của đối tượng được khảo sát
38
Bảng 3.7:
Mô tả nguồn thông tin sử dụng và mức độ tiếp cận được nguồn thông
tin sử dụng của đối tượng được khảo sát
38
Bảng 3.8:
Mức độ xác định được các thông tin sử dụng trong
phương pháp chi phí
39
Bảng 3.9:
Mức độ xác định được các thông tin sử dụng trong
phương pháp thu nhập
39
Bảng 3.10: Mô tả mức độ cần thiết và mức độ tiếp cận được nguồn thông tin 40
Bảng 3.11:
Mô tả mức độ xác định được các thông tin sử dụng trong
phương pháp thặng dư của đối tượng được khảo sát
40
Bảng 3.12:
Mô tả nhận định của đối tượng được khảo sát về mức độ đáp ứng các
yêu cầu của thông tin minh bạch
41
Bảng 3.13:
Mô tả mức độ đồng ý của đối tượng được khảo sát về chính sách thuế,
chính sách quy hoạch sử dụng đất và các văn bản hướng dẫn thẩm
định giá BĐS
42
5
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ HÌNH ẢNH
STT NỘI DUNG TRANG
Sơ đồ 4.1: Mô hình hoạt động của công ty Thông tin BĐS 48
Sơ đồ 4.2:
Mô hình tổ chức của Hệ thống thông tin thực tế phục vụ cho công
tác nghiên cứu-học tập của hai ngành
Thẩm định giá và Kinh tế Bất động sản
49
Hình 2.1:
Mức độ minh bạch thông tin BĐS của các nước châu Á Thái Bình
Dương năm 2008
11
Hình 2.2:
Biểu đồ thể hiện mức độ minh bạch thông tin BĐS của các nước
châu Á Thái Bình Dương năm 2008
12
Hình 2.3:
Lĩnh vực có mức độ minh bạch được cải thiện nhiều nhất
ở Việt Nam
12
Hình 2.4:
Những lĩnh vực có mức độ minh bạch cần cải thiện gấp
ở Việt Nam
13
6
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCTC Báo cáo tài chính
BĐS Bất động sản
DI Chỉ số công khai thông tin
GTGT Giá trị gia tăng
IAS Chuẩn mực kế toán quốc tế
IFRS Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
IPI Mức độ bảo hộ đối với các nhà đầu tư
JLL Công ty Jones Lang LaSalle
RETI Chỉ số minh bạch bất động sản
ROE Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu
TI Tổ chức minh bạch quốc tế
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TTBĐS Thị trường bất động sản
VAS Chuẩn mực kế toán Việt Nam
WB Ngân hàng thế giới
7
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Lý do chọn đề tài
Tính minh bạch thấp trong thị trường bất động sản (BĐS) Việt Nam đã làm sai lệch giá trị thực
của BĐS, dẫn đến tính bất ổn của thị trường và gây nhiều rủi ro cho nhà đầu tư,
Thẩm định viên cũng như các tổ chức thẩm định giá BĐS đóng vai trò quan trọng trong việc xác
định giá trị thực của BĐS bị ảnh hưởng rất lớn bởi sự thiếu minh bạch thông tin của thị trường.
Sự ảnh hưởng trên thể hiện ở quá trình chọn lọc thông tin đầu vào cho việc phân tích để đưa ra
kết quả thẩm định cuối cùng,
Việc nghiên cứu tác động của sự minh bạch thông tin đến hoạt động thẩm định giá trên thực tế
vẫn chưa được tiến hành một cách chính quy và đầy đủ, đó là lý do tác giả chọn đề tài “Tác động
của sự minh bạch thông tin trong thị trường bất động sản Việt Nam đối với công tác thẩm định
giá bất động sản”.
Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với ba mục tiêu chính sau đây:
- Nhận diện và đánh giá về sự minh bạch thông tin của TTBĐS Việt Nam
- Khảo sát thực tế về ảnh hưởng của sự minh bạch thông tin BĐS đối với công tác thẩm định giá
tại địa bàn TP. HCM
- Tổng hợp và đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng thông tin BĐS và hạn
chế những tác động tiêu cực đến mức giá thẩm định xuất phát từ thông tin kém minh bạch.
Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê mô tả nhằm phân tích và xử lý số liệu khảo sát
- Phương pháp phỏng vấn ý kiến chuyên gia nhằm tìm ra những ý kiến được nhiều người quan
tâm nhất.
Nội dung nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với những nội dung chính sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng của sự minh bạch thông tin trong TTBĐS Việt Nam
Chương 3: Tác động của sự minh bạch thông tin đến công tác thẩm định giá BĐS
Chương 4: Cải thiện tính minh bạch cho TTBĐS Việt Nam
8
Đóng góp của đề tài
Với việc thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, tác giả thực hiện đề tài “Tác động của sự
minh bạch thông tin trong thị trường bất động sản Việt Nam đối với công tác thẩm định giá bất
động sản” mong muốn sẽ giúp các cơ quan quản lý Nhà nước có cái nhìn sâu sát hơn về tình
hình thực tế của hoạt động thẩm định giá khi mà chất lượng thẩm định đang bị hạn chế bởi thông
tin kém minh bạch. Thực trạng này sẽ thúc đẩy các cơ quan quản lý Nhà nước có những giải
pháp cấp thiết hơn nhằm cải thiện sự minh bạch thông tin. Thông qua ý kiến chia sẻ của các
chuyên gia, các đối tượng trong ngành thẩm định giá cũng có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau
trong việc hạn chế rủi ro của thông tin kém minh bạch đến kết quả thẩm định.
Hướng phát triển của đề tài
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kinh nghiệm làm nghiên cứu nên đề tài này mới chỉ dừng
lại ở mặt định tính, chưa lượng hóa được sự tác động của sự minh bạch thông tin đến công tác
thẩm định giá BĐS như thế nào. Các đề tài nghiên cứu sau có thể đào sâu vấn đề lượng hóa trên
hoặc mở rộng phạm vi nghiên cứu và phạm vi lấy mẫu khảo sát ra toàn quốc gia hoặc quốc tế
nếu có khả năng để kết quả thu được có tính đại diện cao hơn và mức độ chính xác tốt hơn.
9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.2 Thị trường bất động sản (TTBĐS)
1.1.1 Khái niệm
TTBĐS là quá trình giao dịch hàng hóa BĐS giữa các bên có liên quan, là nơi diễn ra các hoạt
động mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và các dịch vụ khác có liên quan như trung
gian, môi giới, tư vấn, …giữa các chủ thể trên thị trường mà ở đó vai trò quản lý Nhà nước có
tác động quyết định đến sự thúc đẩy phát triển hay kìm hãm hoạt động kinh doanh trên TTBĐS.
1.1.2 Đặc điểm của TTBĐS
Thứ nhất, TTBĐS không phải là thị trường giao dịch bản thân BĐS mà còn là thị trường
giao dịch các quyền và lợi ích chứa đựng trong BĐS. Thị trường giao dịch đất đai không phải là
thị trường giao dịch bản thân đất đai – tài sản đất đai – hàng hóa đất đai, mà đó chính là thị
trường giao dịch các quyền và lợi ích có được từ việc sở hữu đất đai, quyền sử dụng đất đai. Vì
đất đai không bao giờ hao mòn và mất đi (trừ trường hợp do thiên nhiên tác động, con người có
quyền sở hữu đất, quyền sử dụng đất không chỉ sử dụng đất đai như các tài sản khác mà cái có
thể sử dụng là các quyền sở hữu đất, quyền sử dụng của đất đai mang lại. Tính chất này của đất
đai là yếu tố cơ bản quyết định tính đặc thù giao dịch trên thị trường của BĐS. Mặt khác, giá đất
– một bộ phận của giá BĐS (trường hợp BĐS là đất đai thì giá đất là giá BĐS) – không phản ánh
giá trị của hàng hóa đất đai, mà gía đất chỉ là chỉ số phản ánh khả năng thu lợi từ đất hoặc hiệu
quả vốn đầu tư.
Thứ hai, TTBĐS mang tính vùng, tính khu vực sâu sắc: BĐS là một hàng hóa cố định và
không thể di dời về mặt vị trí và nó chịu tác động của yếu tố tập quán, thị hiếu, tâm lý. Trong khi
đó, tâm lý, tập quán, thị hiếu của mỗi vùng, mỗi địa phương lại khác nhau. Chính vì vậy, hoạt
động của TTBĐS mang tính địa phương sâu sắc. Mặt khác, TTBĐS mang tính không tập trung,
trải rộng ở mọi vùng trên cả nước. Sản phẩm hàng hóa BĐS có dư thừa ở vùng này cũng không
thể đem bán ở vùng khác được. Bên cạnh đó, mỗi thị trường mang tính chất địa phương với quy
mô và trình độ khác nhau do có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, các miền, do điều
kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội khác nhau; dẫn đến quy mô và trình
độ phát triển của TTBĐS khác nhau. TTBĐS ở các đô thị có quy mô và trình độ phát triển kinh
tế cao thì hoạt động sôi nổi hơn TTBĐS ở nông thôn, miền núi…
Thứ ba, TTBĐS chịu sự chi phối của pháp luật: BĐS là tài sản của mỗi quốc gia, là hàng
hóa đặc biệt, các giao dịch về BĐS tác động mạnh mẽ đến hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội.
Do đó, các vấn đề về BĐS đều có sự chi phối và điều chỉnh chặt chẽ của hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật riêng về BĐS, đặc biệt là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đất
đai và nhà ở. Đặc điểm này đặc biệt đúng ở các trường đất đai cấp 1 (thị trường sơ cấp – giao đất
10
và cho thuê đất) chịu sự tác động nhất bởi các quyết định của Nhà nước. Chính phủ các nước
trên thế giới đều quan tâm đến BĐS và TTBĐS, luôn điều chỉnh chính sách về BĐS và TTBĐS
nhằm huy động các nguồn lực về BĐS phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, TTBĐS có nội dung phong phú nhưng mang tính chất của một thị trường không
hoàn hảo: TTBĐS có nội dung phong phú bao gồm các giao dịch dân sự chuyển dịch quyền sở
hữu (quyền sử dụng) BĐS, các giao dịch chuyển đổi BĐS, các giao dịch cho thuê, thế chấp BĐS
dùng BĐS góp vốn liên doanh v.v… Các giao dịch này được thực hiện thông qua các hợp đồng
do pháp luật quy định hoặc theo tập quán được cộng đồng và giữa hai bên giao dịch chấp nhận.
Vì thế trong thực tiễn, TTBĐS phụ thuộc vào điều kiện đặc trưng của từng vùng, từng địa
phương; nó chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội, truyền thống và tập quán của
mỗi vùng; mỗi địa phương mỗi cộng đồng; cá biệt ở mỗi địa phương khác nhau, sự hiểu biết về
giao dịch và thực hiện các giao dịch cũng có sự khác nhau. Có giao dịch của địa phương này đã
xuất hiện nhưng địa phương khác chưa xuất hiện, cá biệt hơn có giao dịch cùng loại nhưng ở địa
phương khác nhau có cách tiến hành khác nhau; mặt khác, do bản thân hiện vật của từng BĐS
chỉ phản ánh tình trạng vật chất của BĐS đó. Bản thân vật chất của BĐS không phản ánh được
tính pháp lý về quyền sở hữu, quyền sử dụng BĐS của người đang có BĐS, thường các thông tin
về quyền sở hữu, quyền sử dụng BĐS và những tranh chấp, kiện tụng được giữ kín, người mua,
người cho thuê, người nhận thế chấp đang rất cần am hiểu các thông tin về pháp lý của BĐS. Các
thông tin này rất phong phú nhưng lại không công khai gây nên tính chất của một thị trường
không hoàn hảo.
Thứ năm, nguồn cung trong thị trừơng BĐS thường thay đổi chậm hơn so với cầu biến
động BĐS: Việc tăng cung về BĐS thường phải có thời gian cần thiết tương đối dài để sản xuất
cho thị trường một loại BĐS nào đó hoặc những BĐS có mẫu mã, có tiêu chuẩn nhất định. Đó là
thời gian phải có dành cho việc tạo ra BĐS cung cấp cho thị trường như: thời gian tìm hiểu mua
đất đai, làm thủ tục sử dụng đất, thời gian xin cấp phép xây dựng, triển khai thực hiện việc đầu tư
xây dựng v.v…, nhất là trong điều kiện nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, mọi thủ tục cần
thực hiện để giao đất hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là rất chậm trễ, thì việc đưa
ra thị trường các BĐS trong một thời gian ngắn phù hợp với yêu cầu mà xã hội đang đòi hỏi là
rất khó khăn.
Thứ sáu, giao dịch trên TTBĐS cần đến các loại tư vấn, chuyên gia định giá chuyên
nghiệp có trình độ cao và các tổ chức trung gian: BĐS là hàng hóa có giá trị lớn; mặt khác, giá
cả của hàng hóa BĐS chịu sự tác động của nhiều yếu tố; đồng thời, thông tin trên TTBĐS khá
phức tạp và thường không hoàn hảo. Chính vì vậy, khi mua bán, giao dịch BĐS đòi hỏi phải có
đầy đủ thông tin chính xác, có sự tính toán kỹ lưỡng, đòi hỏi phải có tư vấn của các chuyên gia
môi giới, định giá BĐS có chuyên môn… thuộc các tổ chức môi giới hoặc các tổ chức trung gian
11
hoạt động trên thị trường, các tổ chức trung gian hoặc các chuyên gia tư vấn môi giới đã qua đào
tạo có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn, nắm được thông tin thị trường, am hiểu pháp luật
và BĐS… nên giúp các đối tượng có nhu cầu giao dịch BĐS có thể thỏa mãn nhu cầu đặt ra.
Kinh nghiệm cho thấy ở các nước có TTBĐS phát triển, thì đều cần có đội ngũ chuyên gia định
giá, chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản và có trình độ cao; đồng thời có tổ
chức trung gian để thực hiện các giao dịch trong TTBĐS. Hoạt động của tổ chức môi giới, tổ
chức trung gian, các chuyên gia có vai trò quan trọng, góp phần kích thích thị trường phát triển.
Thứ bảy, TTBĐS có mối liên hệ mật thiết với thị trường vốn và tài chính: Động thái phát
triển của thị trường này tác động đến nhiều loại thị trường trong nền kinh tế. BĐS là tài sản đầu
tư trên đất bao gồm cả giá trị đất đai sau khi đã được đầu tư. Mà đầu tư tạo lập BĐS thường sử
dụng một lượng vốn lớn với thời gian hình thành BĐS cũng như thu hồi vốn dài. Khi BĐS tham
gia lưu thông trên TTBĐS, các giá trị cũng như các quyền về BĐS được đem ra trao đổi, mua
bán, kinh doanh… giải quyết vấn đề lưu thông tiền tệ, thu hồi vốn đầu tư và mang lại lợi nhuận
cho các bên giao dịch. Điều này chứng tỏ TTBĐS là đầu ra quan trọng của thị trường vốn.
TTBĐS hoạt động tốt là cơ sở để huy động được nguồn tài chính lớn cho phát triển kinh tế thông
qua thế chấp và giải ngân (theo thống kê, ở các nước phát triển lượng tiền ngân hàng cho vay qua
thế chấp bằng BĐS chiếm 80% trong tổng lượng vốn cho vay). Ngoài ra TTBĐS còn có quan hệ
trực tiếp với thị trường xây dựng và qua đó mà bắc cầu tới các thị trường vật liệu xây dựng và đồ
nội thất, thị trường lao động… Dao động của thị trường này có ảnh hưởng lan tỏa tới sự phát
triển ổn định của nền kinh tế quốc dân.
1.2 Thông tin về BĐS
Theo quy định tại Luật kinh doanh BĐS phải công khai thông tin về BĐS đưa vào kinh doanh.
Tổ chức cá nhân kinh doanh BĐS có trách nhiệm công khai thông tin về BĐS đưa vào kinh
doanh. Thông tin về BĐS được công khai tại sàn giao dịch BĐS và trên các phương tiện thông
tin đại chúng
1.2.1 Nguyên tắc và yêu cầu về thông tin BĐS
Nguyên tắc
Để đảm bảo cho các chủ thể kinh tế tham gia giao dịch trên thị trường có được những thông tin
đáng tin cậy về BĐS, cần phải cung cấp những thông tin sau:
- Thông tin về quyền sở hữu, quyền sử dụng của BĐS đăng ký giao dịch
- Quy hoạch của chính phủ, của địa phương về sử dụng đất có liên quan đến BĐS đăng ký
giao dịch
12
- Quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến các quyền lợi từ BĐS như quyền sở hữu,
quyền sử dụng, quyền cho thuê của BĐS đăng ký giao dịch
- Các thông tin cụ thể về giá cả, vị trí, đặc điểm cụ thể của từng BĐS đăng ký giao dịch
- Các thông tin về BĐS có thể thay thế hoặc tương đương (giá cả, đặc điểm vị trí) đã đăng
ký giao dịch trên thị trường
Yêu cầu
Các thông tin cung cấp cho các chủ thể trên TTBĐS phải đảm bảo yêu cầu chính xác, kịp thời và
đầy đủ.
- Một trong những yêu cầu quan trọng đầu tiên của thông tin là tính chính xác trong
TTBĐS, yêu cầu này càng trở nên cực kỳ quan trọng vì giá trị của BĐS lớn. Quyết định đưa ra
dựa trên một nguồn thông tin chính xác có thể giúp cho việc kinh doanh phát triển. Ngược lại,
một quyết định sai do dựa vào nguồn thông tin không đúng sẽ gây thiệt hại không thể lường
được cho một chủ đầu tư nào đó trên thị trường
- Thông tin phải kịp thời, thông tin chỉ có giá trị khi nó được cung cấp một cách kịp thời.
Tính kịp thời của thông tin có liên quan chặt chẽ đến thời gian. Thời gian càng dài, thông tin
càng để lâu thì giá trị của thông tin càng bị giảm.
- Thông tin phải đáp ứng được yêu cầu đầy đủ. Nếu thông tin không đầy đủ sẽ dẫn đến
việc ra quyết định không chính xác.
- Ngoài ra các thông tin về pháp luật, cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch có liên quan
đến quản lý và phát triển TTBĐS phải được công khai và minh bạch. Trong điều kiện hiện nay,
có thể đưa những thông tin này lên mạng điện tử và các thông tin đại chúng như báo, tạp chí,
phát thanh, truyền hình.
1.2.2 Vai trò của thông tin BĐS trên thị trường
Hệ thống thông tin trên TTBĐS là toàn bộ thông tin liên quan đến BĐS, bao gồm thông tin về:
pháp luật, chính sách đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Chính phủ, vị trí của BĐS,
môi trường, nhu cầu, mức cung, tâm lý, tập quán của người mua ở từng không gian và thời gian
nhất định. Do tính đặc thù của hàng hóa BĐS so với các hàng hóa thông thường khác, nên hệ
thống thông tin đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự vận hành của TTBĐS.
Hàng hóa BĐS có tính cá biệt và mang yếu tố không gian, thời gian, chịu tác động của các yếu tố
tâm lý, tập quán, thị hiếu. Các hàng hóa BĐS còn có tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Mặt
khác, BĐS là loại hàng hóa khan hiếm và là bộ phận tài sản quan trọng của mỗi quốc gia, nên hệ
thống pháp luật liên quan đến BĐS thường được quy định chặt chẽ, và chịu sự tác động mạnh
của các chính sách của Chính phủ.
13
Do hàng hóa BĐS chịu tác động của rất nhiều yếu tố, nên để có thể định giá hàng hóa BĐS đòi
hỏi phải có một hệ thống thông tin đồng bộ và đầy đủ.
Thực tế cho thấy, điều kiện quan trọng để TTBĐS vận hành một cách trôi chảy là phải có một hệ
thống thông tin hoàn hảo, công khai, minh bạch và dễ tiếp cận. Gía cả BĐS trên thị trường có
phản ánh đúng đắn quan hệ cung cầu hay không phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống thông tin. Hệ
thống thông tin khó tiếp cận, không đầy đủ, mập mờ, thiếu minh bạch về quy hoạch hoặc sự thay
đổi chính sách của Nhà nước, là một trong những nguyên nhân quan trọng làm xuất hiện một số
cơn sốt về giá cả BĐS.
Việc hình thành một hệ thống thông tin thường xuyên về TTBĐS cho phép thị trường hoạt động
trôi chảy, giảm chi phí giao dịch, tăng hiệu quả hoạt động của thị trường và giảm nguy cơ nền
kinh tế bong bóng do đầu cơ quá mức vào BĐS.
1.3 Sự minh bạch thông tin
1.3.1 Sự minh bạch thông tin của nền kinh tế nói chung
1.3.1.1 Khái niệm
Theo cách tiếp cận của tổ chức minh bạch quốc tế (TI), minh bạch được định nghĩa là những
nguyên tắc tạo nên sự ảnh hưởng đến các quyết định về hành chính, các hoạt động kinh doanh
hay các giao dịch để được tiếp cận không chỉ thông tin cơ bản như các con số và sự kiện mà còn
là cơ chế và quy trình thực hiện chúng. Vì vậy, nhiệm vụ của bộ phận hành chính, các nhà quản
lý cũng như các người tham gia trong quá trình này là làm sao cho các đối tượng có thể tiếp cận
thông tin cần thiết một cách dễ hiểu và dễ dự đóan.
Tính minh bạch ở đây không chỉ đề cập tới khối lượng thông tin mà còn cả phạm vi, tính chính
xác và kịp thời của thông tin.
Minh bạch còn được định nghĩa là “gia tăng việc tiếp cận luồng thông tin kinh tế, xã hội, chính
trị kịp thời và đáng tin cậy cho tất cả các bên liên quan”. (Hoàng Thị Thu Hà, 2007).
Nếu tiếp cận khái niệm minh bạch từ phía đối tượng nhận tin thì tính minh bạch thể hiện ở tính
đại chúng, dễ hiểu và phổ biến của thông tin, đảm bảo cho mọi đối tượng nhận tin có thể dễ dàng
xử lý thông tin mà họ nhận được.
Như vậy có rất nhiều quan điểm khác nhau về tính minh bạch trong môi trường kinh doanh nói
chung và đầu tư nói riêng, nhưng vấn đề công khai, minh bạch hóa thông tin là một trong những
yếu tố bắt buộc. Thuật ngữ “minh bạch” thể hiện sự sẵn có và sự đảm bảo về chất lượng của
thông tin. Minh bạch gắn liền với việc công bố thông tin một cách công khai, rộng rãi, chính xác,
kịp thời cho các đối tượng liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động của một chủ thể. Chủ
thể này có thể là một nền kinh tế, một tổ chức, một doanh nghiệp hoặc một các nhân.
14
1.3.1.2 Tiêu chí đánh giá
Để đánh giá một nền kinh tế có minh bạch hay không minh bạch và mức độ đến đâu là một công
việc khó khăn, chủ yếu chỉ có thể định tính mà khó có thể định lượng được. Tuy nhiên, chúng ta
có thể sử dụng một số tiêu chí cơ bản sau đây để đánh giá mức độ minh bạch trong hoạt động
minh bạch trong hoạt động kinh tế của một quốc gia như sau:
Chỉ số nhận thức về tham nhũng (Corruption Perceptions Index - CPI)
Mức độ tiếp cận với nguồn thông tin của các đối tượng có liên quan trong nền kinh tế
Mức độ tham gia của các đối tượng trong nền kinh tế trong việc xây dựng hệ thống luật
pháp, các chính sách kinh tế, các quy định, thủ tục hành chính.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
1.3.2 Sự minh bạch thông tin trong TTBĐS
1.3.2.1 Khái niệm
Từ khái niệm về sự minh bạch của nền kinh tế nói chung, ta có thể hiểu sự minh bạch trong
TTBĐS là sự công bố thông tin một cách công khai, rộng rãi, chính xác, kịp thời cho các đối
tượng liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các hoạt động trong TTBĐS và phải đảm bảo cho mọi
đối tượng nhận tin có thể dễ dàng xử lý thông tin mà họ nhận được.
1.3.2.2 Tiêu chí đánh giá
Qua tìm hiểu của tác giả, để đánh giá về tính minh bạch trong TTBĐS thì chỉ số Minh bạch BĐS
(RETI) của tập đoàn dịch vụ địa ốc và tài chính quốc tế Jones Lang LaSalle (JLL) là một chỉ số
đánh giá khá toàn diện và được chấp nhận ở nhiều quốc gia. Chỉ số này được công bố từ năm
1999 và báo cáo mới nhất là vào năm 2008
JLL là một trong những tập đoàn quản lý tiền tệ và dịch vụ BĐS hàng đầu thế giới. JLL có hơn
100 văn phòng trên khắp thế giới và hoạt động tại 430 thành phố ở 50 quốc gia. Lợi nhuận của
JLL năm 2005 đạt 1,4 tỉ USD và là tập đoàn duy nhất trong lĩnh vực nói trên nằm trong bảng
bạch kim vinh danh 400 công ty trên thế giới của tạp chí Forbes. Như vậy, kết quả đánh giá, xếp
loại của JLL có giá trị toàn cầu, là cơ sở phân tích ra quyết định của các nhà đầu tư.
Để có được RETI, JLL đã tiến hành khảo sát bằng bảng câu hỏi với sự trợ giúp của các cộng tác
viên trên toàn thế giới. Mỗi câu hỏi có 5 sự lựa chọn với thang điểm từ 1 đến 5. Trong đó, “1”
thể hiện mức độ minh bạch cao nhất và “5” thể hiện mức độ minh bạch thấp nhất. Các quốc gia
được xếp loại theo năm nhóm theo số điểm tương ứng:
15
Bảng 1.1: Các mức độ minh bạch thông tin và số điểm tương ứng năm 2006 và 2008
Xếp loại Số điểm 2008 Số điểm 2006
Minh bạch cao 1.00 – 1.49 1.00 – 1.49
Minh bạch 1.50 – 2.49 1.50 – 2.49
Bán minh bạch 2.50 – 3.49 2.50 – 3.49
Minh bạch thấp 3.50 – 4.49 3.50 – 4.24
Không minh bạch 4.50 – 5.00 4.25 – 5.00
Nguồn: Tổng hợp từ Jones Lang LaSalle
Qua mỗi kỳ báo cáo (2 năm 1 lần) thì số câu hỏi khảo sát cũng như nội dung câu hỏi được phát
triển thêm cho phù hợp và theo đánh giá của tổ chức này thì cũng bớt hà khắc hơn so với chỉ tiêu
của các kỳ báo cáo trước.
Bảng câu hỏi năm 2008 bao gồm 20 câu hỏi chia thành 5 lĩnh vực sau:
Bảng 1.2: Các chỉ tiêu phụ của RETI năm 2008
Lĩnh vực Diễn giải
1. Performance Measurement
(Chỉ số đánh giá hiệu quả
đầu tư)
Sẵn có các chỉ số đầu tư Nhà nước, tư nhân và các chứng
khoán BĐS theo chuỗi thời gian
2. Market Fundamentals
(Thông tin về các quy luật cơ
bản của thị trường)
Cung cấp dữ liệu theo chuỗi thời gian chính xác về cung,
cầu, suất tiền thuê và lợi nhuận của tất cả các loại BĐS tại
những thị trường lớn
3. Listed Vehicles
(Các công cụ niêm yết)
- Công khai tài chính theo các tiêu chuẩn quốc tế
- Quản trị doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế
4. Legal and Regulatory
Environment
(Hệ thống quản lý - pháp lý)
- Hợp đồng có thể thi hành được
- Bảo đảm quyền sở hữu
- Chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản
- Quản lý thuế và phí công bằng và hiệu quả
- Các tiêu chuẩn xây dựng và phân vùng được quản lý
hiệu quả và công bằng
5. Transaction Process
(Quá trình giao dịch)
- Luôn có thông tin về BĐS rao bán hoặc cho thuê
- Tiêu chuẩn nghề nghiệp của người môi giới và nhà cung
cấp dịch vụ
- Phí dịch vụ, phí quản lý, chi phí nợ (lãi suất vay nợ)
minh bạch rõ ràng
Nguồn: Jones Lang LaSalle và CapitaLand
Kết luận chương 1: Từ việc phân tích các đặc điểm của TTBĐS, ta nhận thấy tính chất không
hoàn hảo của thị trường này. Một trong những thất bại của thị trường là thông tin không hoàn
hảo. Người mua và người bán không có thông tin đầy đủ và như nhau về BĐS tiến hành giao
dịch. Giá BĐS bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, việc yêu cầu minh bạch, công khai
thông tin về BĐS đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa giá BĐS về mức giá cân bằng cung
– cầu, hạn chế nạn đầu cơ, giúp ổn định và phát triển bền vững TTBĐS. Nói cách khác, sự minh
bạch thông tin có ảnh hưởng đến giá BĐS.
16
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA SỰ MINH BẠCH THÔNG TIN
TRONG TTBĐS VIỆT NAM
2.1 Đánh giá sự minh bạch thông tin trong TTBĐS Việt Nam
Theo đánh giá của JLL, mức độ minh bạch thông tin BĐS của Việt Nam năm 2004 và năm 2006
không có sự thay đổi, vẫn ở mức không minh bạch. Năm 2008, Việt Nam có sự tiến bộ lớn tăng
thêm một bậc từ không minh bạch đến minh bạch thấp
Bảng 2.1: Mức độ minh bạch thông tin BĐS Việt Nam qua các năm 2004-2008
2004 2006 2008
RETI 4.60 4.69 4.29
XẾP HẠNG 47/51 56/56 77/82
MỨC ĐỘ Không minh bạch Không minh bạch Minh bạch thấp
Nguồn: Tổng hợp từ Jones Lang LaSalle
Bản đồ dưới đây thể hiện mức độ minh bạch thông tin BĐS năm 2008 của các nước châu Á Thái
Bình Dương. Ngoài nước Campuchia ở mức độ Không minh bạch, Việt Nam cùng với Indonesia
và Macau là những khu vực có mức độ minh bạch thấp nhất châu Á Thái Bình Dương.
17
Minh bạch cao
Minh bạch
Bán minh bạch
Minh bạch thấp
Không minh bạch
Không khảo sát
Australia (AU),
Cambodia (KH),
China (CN),
Hong Kong (HK),
India (IN),
Indonesia (ID),
Japan (JP),
Macau (MC),
Malaysia (MY),
New Zealand (NZ),
Philippines (PH),
Singapore (SG),
South Korea (KR),
Taiwan (TW),
Thailand (TH),
Vietnam (VN).
Hình 2.1: Mức độ minh bạch thông tin BĐS của các nước châu Á Thái Bình Dương năm 2008
Nguồn: Jones Lang LaSalle
18
Hình 2.2: Biểu đồ thể hiện mức độ minh bạch thông tin BĐS của các nước châu Á Thái Bình
Dương năm 2008
Dưới đây là biểu đồ thể hiện mức độ minh bạch của 5 lĩnh vực so sánh giữa 3 nước Singapore,
Trung Quốc và Việt Nam
Hình 2.3: Lĩnh vực có mức độ minh bạch được cải thiện nhiều nhất ở Việt Nam
Theo kết quả khảo sát năm 2008 của JLL, Hệ thống quản lý - pháp lý được cải thiện nhiều nhất.
Nguyên nhân là do các chính sách mới được ban hành:
19
Các quy định về quyền sở hữu tài sản đã được cải thiện:
Từ tháng 1/2009, cá nhân và tổ chức nước ngoài được phép mua căn hộ tại Việt Nam.
Từ ngày 1/9/2009, Việt Kiều được phép mua và sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại Việt
Nam.
Quá trình phê duyệt được chấn chỉnh:
Có thể xin phê duyệt Quy hoạch tổng thể đồng thời với việc xin cấp giấy phép đầu tư và
quyền sử dụng đất. Trước đây, chỉ có thể xin phê duyệt Quy hoạch tổng thể sau khi được cấp
Giấy phép đầu tư và quyền sử dụng đất;
Rút ngắn khoảng thời gian giữa quá trình xét duyệt cấp Giấy phép đầu tư (lần rót vốn đầu
tiên) và trước khi bắt đầu kinh doanh từ 18-24 tháng xuống còn 9-12 tháng.
Minh bạch về chi phí và quá trình tái định cư (Nghị định 69, tháng 8/2009):
Các Tổ chức Phát triển quỹ đất do ủy ban nhân dân địa phương thành lập và quản lý sẽ được
phép tiến hành công việc giải tỏa đất đai và đền bù. Trước đây chưa có tổ chức cụ thể nào
được cấp phép thực hiện những công việc như vậy;
Chi phí tái định cư theo chương trình đền bù đã duyệt có thể được khấu trừ vào tiền thuê đất
phải trả cho Chính phủ
Hình 2.4: Những lĩnh vực có mức độ minh bạch cần cải thiện gấp ở Việt Nam
Bên cạnh sự cải thiện về Hệ thống quản lý – pháp lý thì các lĩnh vực khác là Chỉ số đánh giá
hiệu quả đầu tư, Thông tin về các quy luật cơ bản của thị trường, Quá trình giao dịch có mức độ
minh bạch thấp, cần được cải thiện gấp.
20
2.1.1 Chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tư
Ở một số nước trên thê giới, các quỹ đầu tư BĐS được thành lập nhằm huy động vốn của người
dân vào lĩnh vực BĐS. Để đảm bảo tính minh bạch của thị trường, Chính phủ các nước trên yêu
cầu các quỹ này phải công khai tài chính, do đó có các chỉ số để đánh giá hiệu quả đầu tư BĐS.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tư BĐS. Các chứng khoán BĐS cũng
chỉ mới xuất hiện trên các sàn giao dịch nên không đủ dữ liệu phân tích tìm ra quy luật thị
trường. Theo danh sách các công ty niêm yết trên website của Sở giao dịch chứng khóan TP.
HCM và Hà Nội, đến nay mới chỉ có khoảng 20 công ty có kinh doanh BĐS niêm yết. Thời gian
niêm yết cũng chỉ bắt đầu vào khoảng cuối năm 2008, 2009. Trong khi đó, theo số liệu của Cục
Thống kê TP. HCM, đến 31/12/2007, tổng số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh BĐS là 1460
doanh nghiệp với số lao động là 19.827 người.
2.1.2 Thông tin về các quy luật cơ bản của thị trường
Ở các quốc gia phát triển, nơi có TTBĐS phát triển ổn định, chỉ số giá BĐS phản ánh được xu
hướng, sức mua, biến động... của thị trường một cách tương đối chính xác.
Ở nước ta hiện nay Bộ Xây dựng mới chỉ đang trong quá trình thí điểm tính các chỉ số mô tả
TTBĐS. Theo nghiên cứu, để mô tả đánh giá TTBĐS cần có hai chỉ số quan trọng là chỉ số
TTBĐS (Real Estate Market Index - REMI) và chỉ số giá BĐS (Real estate Price Index - RPI).
Một số công ty kinh doanh, môi giới mua bán BĐS đã bắt đầu tiến hành xây dựng bảng chỉ số
giá BĐS, cập nhật đến từng tuần. Tuy nhiên, việc xây dựng chỉ số giá BĐS được thực hiện tự
phát nên tính xác thực, độ tin cậy của chỉ số giá BĐS do các công ty đưa ra cũng là một việc
đáng để lưu tâm.
Ông Trần Minh Hoàng - GĐ công ty Vina Land Invest Corp - đơn vị đầu tiên xây dựng chỉ số
giá BĐS cho từng tuần trên địa bàn TP. HCM cho biết, việc xây dựng chỉ số giá BĐS được thực
hiện trên cơ sở thu thập thông tin giao dịch trong hệ thống các trung tâm môi giới của Vina
Land. Trong đó, chủ yếu là giao dịch BĐS trong các khu vực đô thị mới như khu vực Nam Sài
Gòn và khu vực phía đông gồm các quận 2, 9... Sau đó, chọn các dự án tiêu biểu, tính giá bình
quân từ đó xây dựng chỉ số.
Trong chỉ số giá BĐS được chia thành chỉ số giá căn hộ chung cư gồm 3 cấp: Từ 1.200USD/m2
trở xuống; từ 1.200 đến 2.000USD/m2 và trên 2 ngàn USD/m2. Đối với chỉ số giá đất được chia
thành 4 cấp: Dưới 1.200USD/m2; từ 1.200 đến 2.000USD/m2; từ 2.000 đến 3.000USD/m2 và trên
3.000USD/m2.
Việc Vina Land tiên phong xây dựng chỉ số giá BĐS đã được các chuyên gia đánh giá cao. Vì dù
sao đây cũng là lần đầu tiên có một chỉ số giá BĐS để tham chiếu. Chính bản thân ông Trần
Minh Hoàng cũng cho rằng chỉ số giá BĐS của công ty Vina Land cũng chỉ là một căn cứ để
21
tham khảo và được cập nhật hàng tuần trên tạp chí Thị trường giá cả BĐS và Tài sản (của Bộ Tài
chính).
Tuy nhiên, vấn đề xác thực, độ tin cậy của chỉ số này đến đâu là một vấn đề đáng bàn. CTCP địa
ốc Sài Gòn Thương Tín (Sacomreal) không xây dựng bảng chỉ số giá như Công ty Vina Land,
nhưng hàng tuần phát hành bảng giá tham khảo BĐS không chỉ trên địa bàn TP. HCM mà các
khu vực trọng điểm về phát triển TTBĐS trên cả nước đều được cập nhật. So sánh giữa bảng giá
tham khảo của Công ty Sacomreal và của Công ty Vina Land thấy có chênh lệch rất nhiều.
Chẳng hạn, đối với dự án Him Lam - Kênh Tẻ (quận 7), chỉ số giá BĐS của Vina Land cho thấy
đã tăng từ 9,7 đến 36%. Trong khi đó, bảng giá tham khảo của Sacomreal thì cho thấy giá đất
trong dự án này hầu như không tăng, hoặc chỉ tăng không đáng kể.
2.1.3 Các công cụ niêm yết
Sự minh bạch của các công cụ niêm yết thể hiện ở việc các công ty BĐS được niêm yết trên sàn
giao dịch chứng khoán phải công khai tài chính theo tiêu chuẩn quốc tế và quản trị doanh nghiệp
theo các tiêu chuẩn quốc tế. Để công khai tài chính theo tiêu chuẩn quốc tế thì các chuẩn mực lập
báo cáo cũng phải được tuân theo hoặc điều chỉnh cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Chuẩn mực lập báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp
và tổ chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong công tác
lập báo cáo tài chính (BCTC). Việc áp dụng IFRS nhằm cải thiện chất lượng thông tin kế toán và
do HĐ chuẩn mực kế toán quốc tế thuận tiện cho các nghiệp vụ tài chính trên thế giới. IFRS
được áp dụng sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Cụ thể, BCTC cung cấp thông
tin toàn diện, đúng đắn, kịp thời và do đó nhà đầu tư có nhiều thông tin về thị trường vốn giảm
được rủi ro trong việc đưa ra quyết định kinh tế. BCTC được định dạng theo biểu mẫu thống
nhất và loại trừ sự khác biệt trong chuẩn mực kế toán, các thông tin trên BCTC có tính so sánh
qua đó sẽ giúp cho các nhà đầu tư giảm chi phí trong việc xử lý thông tin kế toán, giảm sự khác
biệt khác biệt quốc tế trong chuẩn mực kế toán. Ngoài ra, chất lượng thông tin cao hơn, tính
minh bạch rõ ràng sẽ làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư.
Trong những năm gần đây, chế độ kế toán và chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) đã có những
thay đổi rất lớn, thậm chí chúng ta đã dùng một số chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực báo
cáo tài chính quốc tế (IAS/ IFRS) áp dụng cho Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn có những điểm
khác nhau rất đáng kể giữa VAS và IFRS. Những điểm khác nhau đó có thể ảnh hưởng lớn đến
các quyết định của nhà đầu tư.
Đối với việc quản trị doanh nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế thì hiện nay các doanh nghiệp Việt
Nam vẫn chưa thực hiện tốt. Ở các nước trên thế giới, các chức vụ lãnh đạo trong doanh nghiệp
như giám đốc, tổng giám đốc hoặc có thể là chủ tịch hội đồng quản trị đều có thể được thuê
22
ngoài nhằm đảm bảo hoạt động lãnh đạo của các cá nhân này không bị chi phối bởi quyền sở
hữu doanh nghiệp. Vì vậy các cá nhân trên sẽ có thể ra những quyết định mang tính khách quan
và ít bị chi phối vì lợi ích của quyền sở hữu doanh nghiệp. Còn ở Việt Nam, đa phần các chủ sở
hữu chính của doanh nghiệp nắm giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý nên bị chi phối bởi lợi ích
riêng dẫn đến việc ra quyết định không còn độc lập, khách quan.
2.1.4 Hệ thống quản lý - pháp lý
2.1.4.1 Tính hiệu lực của hợp đồng và sự bảo đảm quyền sở hữu BĐS
Ở một số nước trên thế giới, ngay cả khi hợp đồng được thỏa thuận qua lời nói, không có công
chứng, đăng ký với cơ quan Nhà nước nhưng khi xảy ra tranh chấp, nếu hợp đồng miệng trên
được chứng minh đã xảy ra thì tính hiệu lực của hợp đồng vẫn được đảm bảo. Tuy nhiên, do ở
Việt Nam hệ thống luật pháp chưa phát triển tốt, nên để đảm bảo tính hiệu lực của hợp đồng,
pháp luật quy định hợp đồng phải tuân theo một hình thức nhất định nào đó. Đặc biệt là đối với
những loại hợp đồng buộc phải công chứng, hoặc buộc phải công chứng và đăng ký với cơ quan
có thẩm quyền, việc tuân thủ hình thức là một yêu cầu bắt buộc và là một trong những điều kiện
để hợp đồng có hiệu lực (khoản 2 Điều 122, Điều 124 Bộ luật Dân sự).
Theo luật quy định, Hợp đồng mua bán nhà ở (Điều 450 Bộ luật Dân sự, khoản 3 Điều 93 Luật
Nhà ở), Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất (Điều 689 Bộ luật Dân sự) phải được lập thành văn
bản, có công chứng hoặc chứng thực. Hợp đồng cho thuê nhà ở (Điều 492 Bộ luật Dân sự); Hợp
đồng thế chấp Quyền sử dụng đất và hợp đồng tặng cho BĐS mà pháp luật yêu cầu phải đăng ký
quyền sở hữu (Điều 467 Bộ luật Dân sự) phải có hình thức bằng văn bản, các bên phải thực hiện
thủ tục công chứng và đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.
Tuy nhiên trên thực tế, để trốn thuế, giảm thuế, hoặc vì ngại thủ tục hành chính nên các bên ký
kết hợp đồng thường làm sai hình thức, làm hợp đồng viết tay hoặc thỏa thuận mức giá khác với
giá giao dịch. Do đó, khi xảy ra tranh chấp, hợp đồng thường bị vô hiệu gây thiệt hại lớn cho cả
hai bên.
Theo nghiên cứu của công ty cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Việt Nam Report), tỷ lệ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở tại các thành phố lớn đã đạt mức
70-95%. Đến nay đã có 1 tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đạt trên 90% diện tích cần
cấp đối với các loại đất chính, 15 tỉnh đạt từ 70-80%. Tỷ lệ giao dịch “ngầm” đang trong xu
hướng giảm ở hầu hết các địa phương do thủ tục hành chính được đơn giản hóa và mức thuế
chuyển quyền sử dụng đất và BĐS được cắt giảm. Dù vậy, hệ thống cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở còn rất bất cập cần cải tiến. Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2009 Về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày
23
10/12/2009. Các loại giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu các tài sản gắn với
đất đã cấp trước ngày Nghị định có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý.
Do chính sách quản lý của Nhà nước chưa chặt chẽ nên xuất hiện tình trạng nhiều nhà đầu tư
không quy định cụ thể, rõ ràng về phương thức thanh toán, thời gian đóng tiền từng đợt, thời hạn
chót giao nhà, các khoản trách nhiệm đền bù của cả người mua lẫn người bán nếu không làm
đúng hợp đồng. Ngược lại, nhiều người mua-bán trên TTBĐS cũng thiếu kiến thức pháp lý,
không biết khi thực hiện một giao dịch cần những giấy tờ, thủ tục gì. Giá cả BĐS cũng không
nắm được, chỉ dựa trên tin đồn. Từ thực trạng đó, rất nhiều trường hợp thông tin về BĐS được
thông báo không chính xác, làm cho không ít người mua bị lầm, có nhiều trường hợp dẫn đến
mất tiền, thiệt hại nặng; nhiều trường hợp phải thưa kiện kéo dài. Những người mua căn hộ trên
giấy dễ bị thiệt hại nhất, mất tiền mà không có cơ sở khiếu kiện.
Ngoài ra, có nhiều ý kiến từ người dân không đồng tình hoặc hiểu không đầy đủ và chính
xác các quy định về bồi thường thiệt hại, mục đích và lợi ích của việc góp đất giải phóng
mặt bằng hay cơ chế hỗ trợ tái định cư. Điều này khả năng sẽ làm nảy sinh khiếu kiện, so
bì và tranh chấp. Chính quyền cũng nên xác định vai trò chỉ đạo, điều hành trong việc quản
lý và sử dụng quỹ đất, nhưng trên hết phải hành động vì lợi ích của người dân thay vì
quyền lợi của các nhà đầu tư. Bởi nếu không, sẽ khó có thể kiểm soát các hành vi vi phạm
hoặc vô tình đẩy giá nhà đất lên một cách vô lý.
2.1.4.2 Quản lý thuế và phí-lệ phí trước bạ
Các chính sách thuế, phí-lệ phí trong lĩnh vực BĐS:
Thuế sử dụng đất nông nghiệp thực hiện điều tiết thu nhập từ việc sử dụng đất nông nghiệp (đất
trồng trọt, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản), đất trồng rừng. Căn cứ tính thuế sử dụng đất
nông nghiệp là diện tích, hạng đất và định suất thuế tính bằng ki lô gam thóc trên một đơn vị
diện tích của từng hạng đất. Diện tích tính thuế được căn cứ trên sổ địa chính hoặc trên tờ khai
của hộ sử dụng đất
Thuế nhà, đất là thuế thu đối với nhà và đối với đất ở, đất xây dựng công trình. Trong tình hình
hiện nay, chúng ta tạm thời chưa thu thuế nhà và chưa quy định về thuế nhà (nên có thể gọi là
thuế đất). Tất cả các tổ chức, cá nhân sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình phục vụ sản xuất
kinh doanh, dịch vụ là đối tượng nộp thuế (trừ trường hợp sử dụng đất thuê hoặc Nhà nước cho
phép góp vốn bằng quyền sử dụng đất). Căn cứ tính thuế là diện tích, hạng đất và mức thuế. Hiện
tại, Dự kiến, Dự thảo Luật thuế nhà, đất được trình Quốc hội vào kỳ họp cuối năm 2009. Nếu
được thông qua, Luật thuế nhà, đất sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2011, trở thành một trong những
sắc thuế quan trọng, đóng góp nguồn thu lớn vào ngân sách Nhà nước. Theo dự thảo Luật thuế
nhà, đất, nhà ở dưới 600 triệu đồng sẽ không phải nộp thuế. Diện tích khởi điểm phải chịu thuế
24
là 150m2, giá 1m2 nhà xây dựng mới khoảng 4 triệu đồng, do vậy giá khởi điểm tính thuế 600
triệu đồng (150m2 x 4 triệu đồng/m2 = 600 triệu đồng). Với đất ở là nhà nhiều tầng, nhiều hộ ở,
nhà chung cư, đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp sẽ áp dụng một mức thuế suất là
0,03%... Khi Luật thuế nhà, đất ra đời sẽ thay thế Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1992 (sửa đổi năm
1994). Luật thuế nhà, đất được kỳ vọng sẽ khắc phục những mặt hạn chế của chính sách thuế
nhà, đất hiện hành; tăng cường quản lý Nhà nước đối với nhà, đất, khuyến khích tổ chức, cá nhân
sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả. Đối với nhiều người dân, Luật thuế nhà, đất được kỳ vọng sẽ
góp phần hạn chế đầu cơ, đưa giá nhà, đất về đúng với giá trị thực và khuyến khích TTBĐS phát
triển lành mạnh. Nhằm góp ý kiến cho dự thảo luật, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI) vừa phối hợp với Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội tổ chức hội thảo
“Góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật thuế nhà, đất”. Tuy nhiên, trái với kỳ vọng của nhiều người, các
ý kiến tại buổi hội thảo đều cho rằng: Luật thuế nhà, đất mới chỉ góp phần hạn chế nạn đầu cơ
chứ chưa thực sự giải quyết triệt để được vấn nạn này.
Quy định về nộp thuế thu nhập từ thu nhập do chuyển quyền sử dụng đất trong luật thuế thu
nhập doanh nghiệp: đối tượng nộp thuế là tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu
nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất. Thu nhập chịu thuế được xác định
bằng doanh thu để tính thu nhập chịu thuế trừ đi chi phí hợp lệ hợp lý liên quan đến hoạt động
chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất. Thuế suất hiện hành là 25%.
Thuế thu nhập cá nhân đối với một số trường hợp chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận quà tặng
là BĐS: Theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân ngày 01/01/2009 và Nghị định số
100/2008/NĐ-CP của Chỉnh phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân
thì thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với chuyển nhượng BĐS được áp dụng theo một trong hai
thuế suất sau đây:
1. Áp dụng thuế suất là 25% tính trên thu nhập chịu thuế.
2. Trường hợp không xác định được giá vốn và các chi phí liên quan làm cơ sở xác định
thu nhập tính thuế thì áp dụng thuế suất 2% tính trên giá chuyển nhượng.
Việc áp dụng thuế suất 25% trên thu nhập chịu thuế chỉ áp dụng đối với các trường hợp cá nhân
chuyển nhượng BĐS có đầy đủ hồ sơ, chứng từ hợp lệ làm căn cứ xác định được giá chuyển
nhượng, giá vốn và các chi phí có liên quan đến hoạt động chuyển nhượng ; trường hợp không
xác định được giá vốn và các chi phí liên quan thì áp dụng thuế suất 2% tính trên giá chuyển
nhượng. Trường hợp giá chuyển nhượng đất thấp hơn giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy
định tại thời điểm tính thuế cũng áp dụng thuế suất 2% tính trên giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh quy định.
Thuế giá tri gia tăng (GTGT) đối với hoạt động chuyển nhượng BĐS từ ngày 1/1/2009: theo
Công văn số 10383/BTC – TCT ngày 22/7/2009 của Bộ Tài chính, giá tính thuế GTGT là giá
25
chuyển nhượng BĐS trừ (-) giá đất thực tế do người nộp thuế (cơ sở kinh doanh BĐS) tụ khai tại
thời điểm chuyển nhượng. Giá đất thực tế do cơ sở kinh doanh BĐS tự khai tại thời điểm chuyển
nhượng theo Hợp đồng chuyển nhượng BĐS. Cơ sở kinh doanh BĐS tự chịu trách nhiệm về tính
chính xác của việc kê khai giá đất được trừ trong giá tính thuế GTGT.
Đối với lệ phí trước bạ, ngày 29/7/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80 về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 176/1999/NĐ-CP ngày 21/12/1999 và Nghị định số
47/2003/NĐ-CP ngày 12/5/2003. Theo quy định mới, đối với nhà ở, đất ở của hộ nghèo, người
dân tộc thiểu số ở các xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn được miễn lệ phí trước bạ. Tỷ lệ
thu lệ phí trước bạ mới là 0,5%, giảm so với mức cũ là 1%.
Những bất cập của các chính sách thuế
Đối với doanh nghiệp kinh doanh BĐS, cơ quan thuế yêu cầu doanh nghiệp chỉ sang tên cho
khách hàng khi khách hàng chứng minh mình đã thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước.
Tuy nhiên, doanh nghiệp kinh doanh BĐS chỉ là một đơn vị kinh doanh, không chỉ chức năng,
quyền hạn để chế tài khách hàng.
Cùng một hành vi chuyển quyền sử dụng đất, chúng ta vừa áp dụng thuế thu nhập cá nhân vừa
áp dụng lệ phí trước bạ. Điều đó vừa chồng chéo, thiếu tính khoa học mặt khác vừa gây cho
người ta thấy số tiền phải nộp khi chuyển quyền sử dụng đất nhiều nên họ đã trốn thuế.
Hệ thống thuế trong lĩnh vực BĐS còn chưa thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý, kiểm soát
đối với việc nắm giữ và chuyển dịch BĐS. Theo số liệu từ Tổng cục Thuế, trên TTBĐS hiện nay
chỉ khoảng 30% các giao dịch về BĐS được thực hiện thông qua thị trường chính thức, tức là
làm đầy đủ các thủ tục với cơ quan Nhà nước và thực hiện nộp thuế theo luật định.
Xuất phát từ việc chiếm dụng bất hợp pháp nên đất đai không đầy đủ giấy tờ trong nền kinh tế
thời gian qua chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Điều đó dẫn đến có nhiều diện tích đất tuy đang được
sử dụng nhưng không phải chịu bất kỳ một loại thuế gì. Trên thực tế có nhiều trường hợp người
sử dụng cũng rất muốn nộp thuế nhưng chính quyền cơ sở không dám thu vì cũng không nắm
được họ phải chịu thuế gì trên diện tích sử dụng. Trong điều kiện như vậy, khi mà TTBĐS đang
sôi động thì bộ phận “hàng hóa” không có giấy tờ sẽ nhanh chóng được tung vào luân chuyển
liên tục trên TTBĐS không chính thức góp phần làm cho thị trường nhộn nhịp hơn. Khi mà trong
lĩnh vực sử dụng đất Nhà nước không thu được thuế thì cũng có nghĩa là trên TTBĐS Nhà nước
cũng không thể kiểm soát và thu thuế được.
Hệ thống thuế hiện nay chưa thực sự góp phần vào việc sử dụng đất có hiệu quả, hạn chế tình
trạng đầu cơ, nắm giữ đất đai trái pháp luật làm cho TTBĐS hoạt động không bình thường. Nhìn
chung mức thuế sử dụng đất (chủ yếu là thuế đất) thu còn thấp đặc biệt là đối với nhóm người có
mức thu nhập khá trở lên trong xã hội nên chưa khuyến khích được người dân sử dụng đất tiết
kiệm và có hiệu quả. Theo Pháp lệnh thuế nhà đất hiện hành, mặc dù thuế đất không liên quan
26
đến thuế sử dụng đất nông nghiệp nhưng định mức thuế lại căn cứ vào mức thuế sử dụng đất
nông nghiệp, vừa phức tạp vừa không có căn cứ xác định, đặc biệt đối với đất ở các thành phố
lớn. Bản thân quy định mức thuế đất từ 1 đến 32 lần thuế sử dụng đất nông nghiệp là thiếu chính
xác vì thực tế đất ở những khu công nghiệp, khu vực có thể kinh doanh hay đất xây dựng tạo ra
lợi nhuận lớn gấp nhiều lần lợi nhuận thu được từ đất nông nghiệp. Trong quá trình xây dựng đất
nước, với sự phát triển của các phương tiện giao thông và cơ sở hạ tầng, giá đất giữa vùng giáp
ranh giữa thành thị và nông thôn thường có các mức thuế chênh lệch rất lớn, chỉ trên một trục
đường, bên này thuộc về thị trấn thì thuế đất gấp 13 lần thuế sử dụng đất nông nghiệp còn bên
kia đường thuộc về nông thôn, thuế đất chỉ bằng 1 lần thuế sử dụng đất nông nghiệp, mặc dù
điều kiện ăn ở đi lại sinh hoạt và kinh doanh là như nhau. Cách xác định thuế thiếu chính xác này
dẫn đến giảm tỷ lệ động viên của thuế vừa làm cho chính sách thuế của Nhà nước kém sức
thuyết phục.
Giá tính thuế chuyển quyền sử dụng đất được xác định trên cơ sở giá đất do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh ban hành theo quy định của Chính phủ. Trên thực tế giá do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy
định thường thấp hơn rất nhiều so với giá đất thực tế chuyển nhượng, cho đến thời điểm trước
khi có Luật đất đai có hiệu lực ( tháng 7/2004) thông thường giá chỉ bằng 10-50% giá thực tế. Do
vậy, trên thực tế rất nhiều người dân mua bán BĐS không nộp thuế là do không đủ điều kiện
giấy tờ chứ không phải do lý do kinh tế, tài chính. Nhiều trường hợp khác, khi tiến hành chuyển
nhượng, ngoài bộ hồ sơ nộp cho các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng còn phải làm
thêm một bản giao kèo phụ vì trên thực tế số tiền mà họ mua bán với nhau lớn hơn rất nhiều.
Điều đó giúp họ có căn cứ để giải quyết khi việc mua bán vì một lý do gì đó mà nửa chừng
không thực hiện được. Như vậy, một sắc thuế mà không bám sát tình hình xảy ra trong thực tiễn
thì sẽ không có tác dụng nhiều đến việc điều tiết bình ổn giá cả trên TTBĐS.
Tuy nhiên, đối với những người có thu nhập thấp mà trong đó có rất nhiều người có nhu cầu mà
họ mua BĐS xuất phát từ nhu cầu thực sự cần sử dụng thì các khoản thuế và phí phải nộp khi
thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiện nay lại khá cao và trùng lặp. Nhóm người
này họ chỉ cần mua đất làm nhà ở và không có ý đồ kinh doanh nên miễn là không có tranh chấp
là được. Một nhóm khác hoạt động kinh doanh BĐS nhưng không hề có ý đầu cơ, họ lại cho
rằng đất đai chỉ nằm trong tay họ trong chốc lát. Họ “mua” đất ở tình trạng như thế nào thì khi
“bán” cũng trong tình trạng tương tự cùng lắm họ cũng chỉ cần viết giấy tay làm căn cứ để tránh
xảy ra tranh chấp mà thôi. Trong trường hợp đất đai cứ được mua đi bán lại liên tục kiếm lời thì
việc không làm giấy tờ và nộp thuế là một tất yếu. Đó là một trong những nguyên nhân khiến
cho hiện tượng chuyển quyền sử dụng đất, mua bán nhà trao tay, không qua đăng ký với cơ quan
quản lý Nhà nước diễn ra phổ biến, tạo cơ sở cho TTBĐS phi chính thức hoạt động mạnh. Đồng
thời, việc mua bán trao tay cũng gây thất thu cho ngân sách Nhà nước về thuế, phí liên quan đến
27
chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
2.1.4.3 Các tiêu chuẩn xây dựng
Do công tác quy hoạch đất đai ở nước ta vừa chậm vừa kém minh bạch, tạo nên không gian kiến
trúc nhếch nhác và kém đồng bộ trên nhiều dự án vừa mới triển khai. Việc kém minh bạch trong
việc công bố thông tin là mặt tối của thị trường, thường xuyên điều chỉnh quy hoạch nhưng
thông tin chỉ được một số cá nhân cập nhật, phát sinh luồng thông tin không chính thức vì mục
đích tư lợi, gây mất ổn định thị trường.
Trong thời gian qua, do chưa có một tiêu chuẩn rõ ràng để phân loại chung cư cao cấp nên chủ
đầu tư không căn cứ tiêu chuẩn nào vẫn công bố là xây dựng chung cư cao cấp, để rồi bán với
giá chênh lệch 5-15 triệu đồng/m2 (tính ra tổng trị giá chênh lệch một căn hộ 100m2 sẽ từ 500
triệu đến 1,5 tỷ đồng). Bên cạnh đó, xuất hiện một số trường hợp cán bộ giấu, bán cho chủ đầu tư
lấy tiền các thông tin về chỉ giới đường đỏ, các số liệu về hạ tầng kỹ thuật mà theo nguyên tắc là
phải công khai và cung cấp cho doanh nghiệp.
Để điều tiết và góp phần ổn định TTBĐS, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như:
Hướng dẫn phương pháp xác định diện tích sử dụng và phân cấp nhà ở; Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về phân loại, phân cấp công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và hạ
tầng kỹ thuật đô thị; quy định việc áp dụng tiêu chuẩn xây dựng nước ngoài trong hoạt
động xây dựng ở Việt Nam; Tiêu chuẩn quy hoạch xây dựng nông thôn; Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về công trình ngầm đô thị…(Phụ lục 6)
2.1.5 Quá trình giao dịch
Qua hơn hai năm kể từ khi Luật Kinh doanh BĐS có hiệu lực (1/7/2007), quy định các mua bán
BĐS phải giao dịch qua sàn BĐS. Tuy nhiên, hầu hết các tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS
chưa thông qua sàn giao dịch theo quy định của Luật kinh doanh BĐS. Số liệu thống kê mới
nhất của Cục Quản lý nhà và TTBĐS cho thấy trong 8 tháng chỉ có hơn 3.000 giao dịch
thông qua sàn, chiếm 15% - 20% giao dịch toàn thị trường. Điều đó cho thấy hoạt động sàn
giao dịch BĐS chưa dừng lại ở hình thức, chưa thực hiện được mục đích minh bạch giá cả
thị trường.Tình trạng giao dịch ngầm, đầu cơ nhà đất, kích cầu ảo để nâng giá BĐS diễn ra khá
phổ biến, làm cho thông tin về thị trường này không phản ảnh đúng thực tế, từ đó làm tăng độ rủi
ro trong kinh doanh BĐS.
Không ít người dân ngại giao dịch qua sàn. Theo khảo sát, phần đa các sàn giao dịch đều thu một
khoản phí giao dịch từ 1-2% cho mỗi BĐS giao dịch thành công. Khoản phí này so với phí môi
giới của "cò" đất khác thì cao hơn rất nhiều. Mặc dù người dân được khuyến cáo nên mua bán
BĐS qua sàn vì ở đó các chuyên viên BĐS sẽ tư vấn cho khách hàng rất nhiều về giá và thủ tục
28
pháp lý…nhưng nhiều người đến mua BĐS phản ánh họ rất khó tiếp cận nguồn hàng ngay từ
đầu. Theo ông Phan Thành Mai, Trưởng ban điều hành mạng các sàn phía Bắc, lượng giao dịch
qua hơn 50 sàn của mạng này cũng chưa nhiều. Tình trạng giao dịch ngầm “trao tay”, đặc biệt là
các dự án mua đi bán lại diễn ra phổ biến. Một thực tế khác, doanh nghiệp có BĐS cần bán thì
quảng cáo qua báo chí hoặc qua các “cò” BĐS chuyên nghiệp. Người mua thay vì tìm kiếm
thông tin trên các mạng sàn giao dịch thì làm việc luôn với “cò” trung gian, chấp nhận mất một
phần hoa hồng nhưng để tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Số giao dịch BĐS thông qua sàn còn ít
vì mất thời gian và các thủ tục quy định còn rườm rà, các sàn giao dịch hiện nay vẫn chủ yếu là
trung gian và thu tiền dịch vụ. Điều này đã tạo cơ hội cho các giao dịch ngầm và thị trường tự
do phát triển mạnh. Sàn thì vắng khách, Nhà nước thì thất thu ngân sách và người dân thì phải
chịu thiệt thòi với hành động của giới đầu cơ và cò mồi. Mặc dù các sàn BĐS còn gặp rất nhiều
hạn chế nhưng cũng không thể phủ nhận những lợi ích mà sàn BĐS sẽ mang tới khi đã đi vào
quy chuẩn như giảm đi tình trạng “cò mồi” vòng vo, đẩy giá BĐS về gần với giá trị thực hơn.
Có thể thấy rất rõ ở việc giao dịch sản phẩm rất tùy tiện. Rất nhiều sản phẩm của dự án nhà khu
đô thị mới, căn hộ chung cư, tòa nhà văn phòng đã được mua hết từ lúc hình thành dự án. Rất
nhiều dự án đã được sang tên, đổi chủ, chủ giao dịch bán sản phẩm không hoàn toàn là chủ đầu
tư và giá cả cao hay thấp là tùy tâm người bán. Cơ hội tiếp cận với nhà đất giá gốc vẫn còn xa
vời đối với hầu hết người dân.
2.1.5.1 Thông tin về BĐS rao bán hoặc cho thuê
Hiện nay, các trang web chuyên về BĐS được thành lập rất nhiều, cung cấp thông tin rất đa
dạng và phong phú về các loại BĐS sử dụng cho các mục đích khác nhau: mua, bán, cho
thuê, đầu tư… Tuy nhiên, cả người bán lẫn người mua đều khó tiếp cận được thị trường
thực sự; giữa cơ quan quản lý, chủ đầu tư, giới kinh doanh và người tiêu dùng thực sự chưa
có cổng thông tin đáng tin cậy.
Thực tế, thông tin thị trường vẫn thiếu thốn trầm trọng, đặc biệt liên quan tới những vấn đề
như quỹ đất, quy hoạch, cơ chế tài chính và phân chia quyền sử dụng. Các thông tin về quy
hoạch thực chất vẫn có trên một số trang web và các phương tiện truyền thông khác nhưng
chúng chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún và không đáp ứng yêu cầu đầy đủ, kịp thời của
thông tin. Để có được các thông tin quy hoạch theo đúng yêu cầu, người dân phải trực tiếp
liên hệ với các cơ quan chức năng hoặc những người môi giới, nhưng thực hiện điều này lại
rất tốn kém về mặt thời gian và tiền bạc.
2.1.5.2 Tiêu chuẩn nghề nghiệp của những người cung cấp dịch vụ BĐS
29
Công tác đào tạo cho nguồn nhân lực tham gia thị trường vẫn còn nhiều bất cập. Qua gần 2 năm
triển khai đào tạo chứng chỉ BĐS theo luật kinh doanh BĐS, hàng ngàn chứng chỉ đã được cấp
nhưng chất lượng yếu và nặng về tính hình thức. Theo quan điểm của một nhà nghiên cứu,
nguyên nhân cơ bản là đào tạo ngắn hạn nhưng có chứng chỉ hành nghề dài hạn (không kỳ hạn) -
điều này là không phù hợp vì kinh doanh BĐS là kinh doanh đặc thù có điều kiện, thị trường thì
liên tục biến động theo thời gian mà người hành nghề thì chỉ dựa vào yếu tố kinh nghiệm, mối
quan hệ với chỉ một ít kiến thức được cập nhật từ pháp luật, thị trường, đầu tư môi giới và đánh
giá qua việc tham gia các lớp bồi dưỡng ngán hạn trên; chưa kể chất lượng đào tạo của các tổ
chức cấp giấy chứng nhận bồi dưỡng vẫn là ẩn số.
Tuy nhiên, ngay cả những người đã được đào tạo và đủ tiêu chuẩn hành nghề cũng bị sự thiếu
minh bạch thông tin BĐS ảnh hưởng đến các nội dung tư vấn, kế hoạch quản lý hoặc kết quả
thẩm định giá BĐS
2.1.5.3 Phí dịch vụ, phí quản lý, chi phí nợ
Yêu cầu của sự minh bạch là thông tin về các loại phí dịch vụ, phí quản lý, chi phí nợ phải được
công khai, rõ ràng. Tuy nhiên, trên thực tế, tuy các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ BĐS có các
biểu phí nhưng khi tiến hành giao dịch lại chủ yếu theo mức giá thỏa thuận giữa hai bên. Do đó,
những tổ chức, cá nhân chưa có nhu cầu mua bán thực sự nhưng có nhu cầu tham khảo thông tin
phục vụ cho các quyết định về sau sẽ gặp nhiều khó khăn, tốn kém về mặt thời gian và tiền bạc
trong việc tiếp cận những thông tin này. Thiết nghĩ nếu có một tổ chức đứng ra làm nhiệm vụ thu
thập và công bố thông tin thì sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí cho xã hội.
Về phía Nhà nước, để điều tiết thị trường, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 37/2009/TT-
BXD ngày 01 tháng 12 năm 2009 Hướng dẫn phương pháp xác định và quản lý giá dịch vụ nhà
chung cư
Kết luận chương 2: Các lực lượng chủ yếu tham gia TTBĐS là Nhà nước; người mua, người
bán thông thường; các đối tượng tham gia kinh doanh BĐS; các đối tượng tham gia kinh doanh
dịch vụ BĐS và các tổ chức tín dụng. Đối với mỗi lực lượng trên, sự minh bạch thông tin có vai
trò khác nhau nhưng đều góp phần quan trọng trong quá trình ra quyết định và kết quả của các
mục tiêu quản lý, chiến lược đầu tư, mua bán, cho vay BĐS. Khi đánh giá thực trạng của tính
minh bạch thông tin BĐS, Việt Nam tuy đã có sự tiến bộ từ mức không minh bạch lên mức minh
bạch thấp nhưng vẫn thuộc loại thấp nhất khu vực châu Á Thái Bình Dương. Trong đó, lĩnh vực
hệ thống quản lý-pháp lý được cải thiện nhiều nhất so bốn lĩnh vực còn lại là chỉ số đánh giá
hiệu quả đầu tư, thông tin về các quy luật cơ bản của thị trường, các công cụ niêm yết và quá
trình giao dịch. Bốn lĩnh vực này trong quá trình thực hiện còn nhiều bất cập và cần có các biện
pháp để cải thiện gấp.
30
Chương 3: TÁC ĐỘNG CỦA SỰ MINH BẠCH THÔNG TIN ĐẾN
CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH GIÁ BĐS
3.1 Tác động đến giá BĐS trên thị trường
Khi thẩm định giá BĐS, thẩm định viên cần tham khảo giá BĐS trên thị trường. Các mức giá
được tham khảo này cũng chính là mức giá đưa vào điều chỉnh để cho ra mức giá ước tính cuối
cùng của BĐS cần thẩm định. Vì vậy, khi các mức giá được tham khảo càng phản ánh đúng quan
hệ cung-cầu trên thị trường thì mức giá ước tính cuối cùng của BĐS cần thẩm định càng chính
xác và là giá thị trường. Tuy nhiên, ở TTBĐS Việt Nam, mức giá BĐS ngoài quan hệ cung-cầu
còn bị tác động rất lớn bởi nhiều yếu tố liên quan đến hệ thống quản lý của Nhà nước.
Trong TTBĐS sơ cấp, nơi đại diện chủ sở hữu (đa số thuộc Nhà nước) tiến hành giao đất, cho
thuê đất cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư, vẫn chưa thoát khỏi tính “xin-cho”, thiếu minh
bạch và dẫn tới giá cả đất đai không phản ánh đúng cung cầu thị trường. Thị trường quyền sử
dụng đất hiện nay được vận hành theo cơ chế tài chính hai giá đất (giá được quy định trong
khung giá Nhà nước và giá thị trường). Việc điều tiết hai thị trường cơ bản của quyền sử dụng
đất lại theo hai cơ chế khác nhau: thị trường sơ cấp được điều tiết theo giá đất do Nhà nước quy
định còn thị trường thứ cấp phần lớn lại do giá thị trường điều tiết. Sự chênh lệch giữa hai mức
giá đất quá lớn làm nảy sinh hiện tượng tham nhũng trong quản lý, đầu cơ trong sử dụng, cất giữ
tiền tiết kiệm trong dân vào BĐS. “Cung” và “Cầu” đôi khi không gặp nhau vì còn xảy ra hiện
tượng “Cung ảo” và “Cầu ảo”. Giá đất do Nhà nước quy định tương ứng với một mục đích sử
dụng đất nhất định, nhưng trên thực tế việc sử dụng một thửa đất vào nhiều mục đích khác nhau
ở Việt Nam là phổ biến (đất ở kết hợp với sản xuất, kinh doanh và dịch vụ…) điều này sẽ dẫn
đến theo quy định của Nhà nước ở hai vị trí tương tự nhau sẽ có giá đất như nhau nhưng khi xét
về khả năng sinh lời nếu một thửa được sử dụng vào nhiều mục đích sẽ cao hơn. Bên cạnh đó,
các hoạt động điều tra, đánh giá thị trường chưa được thực hiện một cách có hệ thống để
xác định nguyên nhân gây tình trạng mất cân đối cung cầu hoặc chênh lệch giữa các loại
hình nhà ở để từ đó điều tiết thị trường theo đúng hướng.
Giá cung BĐS của các chủ đầu tư bị ảnh hưởng lớn bởi các thủ tục hành chính để thực hiện
dự án đầu tư BĐS. Nếu các thủ tục này được thực hiện nhanh và đúng tiến độ sẽ làm giảm
chi phí đầu tư dự án và các rủi ro có liên quan về mặt thời gian, dẫn đến giá cung BĐS ra
thị trường cũng giảm. Theo đánh giá của một số công ty, để hoàn tất thủ tục cho dự án BĐS ở
TP. HCM có thể mất bình quân từ 2,5 đến 3 năm (báo cáo trong hội thảo của Hiệp hội BĐS TP.
HCM năm 2009) còn thời gian bình quân hoàn tất thủ tục mua bán, sang nhượng khoảng 1
tháng. Nhiều văn bản pháp quy được ban hành từ các cơ quan quản lý khác nhau, phân cấp quản
31
lý không rõ ràng, do đó, để duyệt hồ sơ dự án hay thực hiện giao dịch BĐS, cần có nhiều thời
gian và kiên nhẫn.
Tại hội thảo "Hoàn thiện cơ chế chính sách và cải cách thủ tục hành chính đối với các dự án
kinh doanh BĐS", Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Liên cho biết có những dự án BĐS
phải trải qua 40-50 con dấu, có con dấu phải mất cả năm mới được đóng. Ông Chu Văn Chung,
vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Xây dựng), nói rằng qua khảo sát 9 dự án tại TP. HCM, Hà Nội và
Hà Tây cho thấy trung bình mỗi dự án kinh doanh BĐS phải mất 3 năm làm thủ tục, qua 33
bước. Có dự án kéo dài đến 6-7 năm, đây là một rào cản rất lớn đối với các doanh nghiệp kinh
doanh. Không ít thủ tục do các địa phương quy định bằng văn bản nhưng cũng có những loại thủ
tục do chính cán bộ công chức đặt ra.
Đối với các dự án nhà ở xã hội, theo phân tích của ông Nguyễn Văn Đực, Phó Giám Đốc công ty
địa ốc Đất Lành: “Hiện nay thủ tục hành chính chiếm khoảng 50% chiến lược giá thành căn hộ
giá rẻ. Ví dụ: “Xây một tòa nhà 16 lầu trên thực tế chỉ mất khoảng 2,5 năm, nhưng việc mua đất,
thực hiện đền bù phải đến 3 năm. Như vậy, để hoàn thành tòa nhà phải mất 5-6 năm; trong thời
gian kéo dài này, cũng là thời gian “chết”, không luân chuyển được của tiền vốn vay, chưa kể lãi
suất ngân hàng vẫn phải trả liên tục; trong khi đó thì dân số vẫn tăng liên tục khiến nguồn cung
nhà ở ngày càng lớn. Trong 5-6 năm thử hỏi nhu cầu nhà ở sẽ tăng thêm mấy lần?”. Cầu quá lớn,
cung không đủ, thời gian kéo dài, chi phí xây dựng từ giá cả vật liệu đến nhân công đều tăng
khiến cho giá cả sản phẩm phải đội lên là điều tất yếu. Và như vậy, khi nhà giá thấp hoàn thành
thì chỉ những người thu nhập khá mới mua nổi. Cuối cùng, thiệt thòi vẫn thuộc về những người
thu nhập thấp có nhu cầu thật sự. Nếu thủ tục giấy tờ xây nhà hoàn thành trong 6 tháng thì có thể
tiết kiệm được 20% giá thành, giá bán căn hộ sẽ thấp hơn, người thu nhập không cao sẽ có nhiều
cơ hội mua nhà hơn”.
3.2 Tác động đến công tác thẩm định giá BĐS
3.2.1 Các bước phải thực hiện trong quá trình thẩm định giá liên quan đến thông tin trên
TTBĐS
Theo Quyết định số 77/2005/QĐ-BTC ngày 1/11/2005 Về việc ban hành 03 tiêu chuẩn thẩm
định giá Việt Nam (đợt 2), doanh nghiệp, tổ chức thẩm định giá và thẩm định viên phải tuân theo
đầy đủ trình tự sáu (6) bước sau đây:
Bước 1: Xác định tổng quát về tài sản cần thẩm định giá và xác định giá trị thị trường hoặc phi
thị trường làm cơ sở thẩm định giá.
Bước 2: Lập kế hoạch thẩm định giá.
Bước 3: Khảo sát hiện trường, thu thập thông tin.
32
Bước 4: Phân tích thông tin.
Bước 5: Xác định giá trị tài sản cần thẩm định giá.
Bước 6: Lập báo cáo và chứng thư kết quả thẩm định giá.
Trong trình tự 6 bước trên thì bước 3 và bước 4 yêu cầu thẩm định viên phải khảo sát và phân
tích thông tin thị trường. Giá BĐS được thẩm định bị tác động rất lớn bởi chất lượng thông tin
đầu vào. Muốn có được điều này thì bản thân thông tin trên thị trường phải đáp ứng được yêu
cầu về sự minh bạch là ĐẦY ĐỦ-CHÍNH XÁC-KỊP THỜI. Tuy nhiên, thông tin BĐS trên
TTBĐS Việt Nam lại chưa đáp ứng được yêu cầu này, gây nhiều khó khăn cho các thẩm định
viên khi thực hiện thẩm định giá BĐS. Cũng theo hướng dẫn của Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt
Nam số 05, các thông tin phải thu thập đối với BĐS bao gồm: Vị trí thực tế của BĐS so sánh với
vị trí trên bản đồ địa chính, các mô tả pháp lý liên quan đến BĐS; Chi tiết bên ngoài và bên
trong BĐS; Đối với công trình xây dựng dở dang, thẩm định viên phải kết hợp giữa khảo sát
thực địa với báo cáo của chủ đầu tư, nhà thầu đang xây dựng công trình.
Trên thực tế, nếu người làm công tác lấy thông tin tài sản so sánh không đủ kỹ năng, sự khéo léo
trong vai trò người mua tiềm năng thì rất khó tiếp cận được giấy tờ pháp lý của tài sản. Hơn nữa,
khi tìm kiếm thông tin chi tiết bên ngoài và bên trong BĐS thì việc tiếp cận tình trạng cơ sở hạ
tầng cũng không đơn giản nếu người lấy tin không nắm vững thông tin khu vực. Thông tin về
tình trạng duy tu, sửa chữa sẽ rất khó xác định nếu không tiếp cận được trực tiếp người đứng ra
tiến hành duy tu, sửa chữa cho căn nhà. Bản thân chủ nhà trong nhiều trường hợp cũng không
nắm vững thông tin trên vì có thể họ không trực tiếp cai quản hoặc sinh sống trong căn nhà đó.
Bên cạnh thông tin, số liệu thu thập từ khảo sát hiện trường, thẩm định viên phải thu thập các
thông tin khác có liên quan đến các yếu tố tác động đến giá BĐS như đã phân tích ở chương 1.
Tuy nhiên việc có được các thông tin liên quan đến chi phí, giá bán, lãi suất, thu nhập của tài
sản so sánh và các thông tin về yếu tố cung - cầu, lực lượng tham gia thị trường, động thái người
mua - người bán tiềm năng ở Việt Nam rất khó có được dữ liệu chính quy do các cơ quan quản
lý Nhà nước không công bố mà các đối tượng có nhu cầu phải tự điều tra nghiên cứu độc lập. Để
thực hiện thẩm định giá, thẩm định viên phải dựa trên những thông tin thu thập từ các nguồn:
khảo sát thực địa; những giao dịch mua bán tài sản (giá chào, giá trả, giá thực mua bán, điều kiện
mua bán, khối lượng giao dịch…) thông qua phỏng vấn các công ty kinh doanh tài sản, công ty
xây dựng, nhà thầu, ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng; thông tin trên báo chí (báo viết, nói,
hình) của địa phương, trung ương và của các cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường tài sản;
thông tin trên các văn bản thể hiện tính pháp lý về quyền năng của chủ tài sản, về các đặc tính
kinh tế, kỹ thuật của tài sản, về quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của vùng có liên quan đến tài
33
sản. Thẩm định viên phải nêu rõ nguồn thông tin trong báo cáo thẩm định giá và phải được kiểm
chứng để bảo đảm độ chính xác của thông tin.
Khi đã có được thông tin thì việc phân tích thông tin đóng vai trò rất quan trọng nhằm sàng lọc
những thông tin quan trọng và cần thiết có tác động tới mức giá BĐS. Đặc biệt, trong TTBĐS
Việt Nam khi thông tin có sự minh bạch thấp thì việc phân tích thông tin gặp rất nhiều khó khăn
và đòi hỏi người phân tích phải có được những kiến thức và kinh nghiệm nhất định để có được
những nhận định chuẩn xác về các yếu tố có tác động tới giá BĐS và trọng số của từng yếu tố.
Nội dung phân tích thông tin trong Tiêu chuẩn thẩm định giá số 05 bao gồm: Phân tích những
thông tin từ khảo sát hiện trường tài sản; Phân tích những đặc trưng của thị trường tài sản cần
thẩm định giá như Bản chất và hành vi ứng xử của những người tham gia thị trường, Xu hướng
cung cầu trên thị trường tài sản; Phân tích về khách hàn; Phân tích về việc sử dụng tốt nhất và
tối ưu tài sản.
3.2.2 Thông tin thị trường và các phương pháp thẩm định giá
Khi thẩm định giá BĐS, thẩm định viên có thể sử dụng 1 phương pháp hoặc tốt hơn là nhiều
phương pháp để kiểm tra lẫn nhau các giá trị BĐS ước tính cuối cùng. Đối với mỗi loại BĐS sẽ
có các phương pháp thích hợp khác nhau và yêu cầu thông tin thị trường của từng phương pháp
cũng khác nhau. Theo THÔNG TƯ 17/2006/TT-BTC ngày 13 tháng 3 năm 2006 do Bộ Tài
chính ban hành, các phương pháp thẩm định giá bao gồm:
1. Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh là phương pháp thẩm định giá dựa trên cơ sở phân tích mức giá của các tài
sản tương tự với tài sản cần thẩm định giá đã giao dịch thành công hoặc đang mua, bán trên thị
trường vào thời điểm thẩm định giá hoặc gần với thời điểm thẩm định giá để ước tính giá trị thị
trường của tài sản cần thẩm định giá.
Phương pháp so sánh chủ yếu được áp dụng trong thẩm định giá các tài sản có giao dịch, mua,
bán phổ biến trên thị trường.
2. Phương pháp chi phí:
Phương pháp chi phí là phương pháp thẩm định giá dựa trên cơ sở chi phí tạo ra một tài sản
tương tự tài sản cần thẩm định giá để ước tính giá trị thị trường của tài sản cần thẩm định giá.
Phương pháp chi phí chủ yếu được áp dụng trong thẩm định giá các tài sản chuyên dùng, ít hoặc
không có mua, bán phổ biến trên thị trường; tài sản đã qua sử dụng; tài sản không đủ điều kiện
để áp dụng phương pháp so sánh.
34
3. Phương pháp thu nhập:
Phương pháp thu nhập (hay còn gọi là phương pháp đầu tư) là phương pháp thẩm định giá dựa
trên cơ sở chuyển đổi các dòng thu nhập ròng trong tương lai có thể nhận được từ việc khai thác
tài sản cần thẩm định giá thành giá trị vốn hiện tại của tài sản (quá trình chuyển đổi này còn
được gọi là quá trình vốn hoá thu nhập) để ước tính giá trị thị trường của tài sản cần thẩm định
giá.
Phương pháp thu nhập chủ yếu được áp dụng trong thẩm định giá tài sản đầu tư (BĐS, động sản,
doanh nghiệp, tài chính) mà tài sản đó có khả năng tạo ra thu nhập trong tương lai và đã xác định
tỷ lệ vốn hoá thu nhập.
4. Phương pháp thặng dư:
Phương pháp thặng dư là phương pháp thẩm định giá mà giá trị thị trường của tài sản cần thẩm
định giá được xác định giá trị vốn hiện có trên cơ sở ước tính bằng cách lấy giá trị ước tính của
sự phát triển giả định của tài sản trừ đi tất cả các chi phí phát sinh để tạo ra sự phát triển đó.
Phương pháp thặng dư chủ yếu được áp dụng trong thẩm định giá BĐS có tiềm năng phát triển.
5. Phương pháp lợi nhuận:
Phương pháp lợi nhuận là phương pháp thẩm định giá dựa trên khả năng sinh lợi của việc sử
dụng tài sản để ước tính giá trị thị trường của tài sản cần thẩm định giá.
Phương pháp lợi nhuận chủ yếu được áp dụng trong thẩm định giá các tài sản mà việc so sánh
với những tài sản tương tự gặp khó khăn do giá trị của tài sản chủ yếu phụ thuộc vào khả năng
sinh lời của tài sản như khách sạn, nhà hàng, rạp chiếu bóng,…
Các phương pháp thẩm định giá theo thông lệ quốc tế khác (nếu có) phải được Bộ Tài chính
chấp thuận trước khi áp dụng.
Bảng 3.1: Các phương pháp thẩm định giá và thông tin yêu cầu
PHƯƠNG
PHÁP
SỬ DỤNG
THÔNG TIN YÊU CẦU
So sánh
giá niêm yết / giá chào bán
giá giao dịch thành công
tình trạng pháp lý của tài sản (giầy tờ pháp lý có đầy đủ, hợp lệ không?)
thông tin quy hoạch
đặc điểm, tính chất, công năng sử dụng, chất lượng còn lại của BĐS
hạn chế về quyền sở hữu, quyền sử dụng BĐS
…
Chi phí
chi phí hiện tại để xây dựng mới, tái tạo, thay thế công trình hiện có trên
đất (bao gồm thông tin giá cả nguyên vật liệu, chỉ số xây dựng, suất vốn
35
đầu tư xây dựng…)
lợi nhuận cho nhà thầu
thuế, phí phải nộp theo quy định của pháp luật
tỉ lệ hao mòn của công trình xây dựng
…
Thu nhập
tổng thu nhập tiềm năng, doanh thu từ việc khai thác tài sản
thất thu do tài sản không được thuế hết 100% công suất hoặc do thanh toán
dây dưa
chi phí liên quan đến việc khai thác tài sản, chi phí vận hành, duy tu bảo
dưỡng tài sản
giá trị thu hồi của tài sản vào cuối kỳ
tỷ suất vốn hóa
…
Thặng dư
mục tiêu kinh doanh, cách thức khai thác tốt nhất và hiệu quả nhất dự án
tổng doanh thu phát triển của dự án
chi phí đầu tư: Chi phí tư vấn đầu tư xây dựng, Chi phí quản lý dự án, Chi
phí bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư, Chi phí xây dựng công
trình, Chi phí thiết bị, Chi phí khác gồm: chi phí thẩm tra tổng mức đầu tư,
chi phí bảo hiểm công trình, Chi phí dự phòng, Chi phí kinh doanh (tiếp
thị, bán hàng, lãi vay, lợi nhuận của nhà đầu tư, thuế…).
tỷ suất chiết khấu
…
Lợi nhuận
tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
tổng chi phí: Chi phí nguyên, nhiên vật liệu, vật tư, Chi phí lãi vay ngân
hàng, Chi phí vận hành, quản lý doanh nghiệp
tỷ suất vốn hoá
…
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
3.2.3 Thực trạng công tác thẩm định giá BĐS ở Việt Nam
Hiện nay, cả nước có khoảng 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thẩm định giá và
3 công ty thẩm định giá nước ngoài gồm Công ty CB Richard Ellis Việt Nam (CBRE),
Collier International, Công ty TNHH Savills Việt Nam (số liệu tham khảo từ trang web
Vneconomy). Tuy nhiên, các công ty này gặp rất nhiều khó khăn khi thẩm định giá BĐS.
Trao đổi về việc thẩm định giá nhà đất, thạc sĩ Phạm Văn Bình, Phó trưởng môn định giá
tài sản (Học viện Tài chính), cho biết: Muốn định giá BĐS chính xác, thẩm định viên phải
có đầy đủ thông tin về thị trường cùng hàng loạt yếu tố liên quan như tình trạng pháp lý,
quy hoạch, nghĩa vụ thuế của người sở hữu... Trong khi đó, việc tiếp cận các thông tin liên
quan đến BĐS gần như chỉ là “sân chơi” của một số cơ quan quản lý và những doanh
nghiệp lớn. Hiện nay, nhận định về giá nhà đất do các tổ chức thẩm định giá tự thu thập và đối
36
chiếu từ thị trường, độ chính xác chỉ mang tính khu vực. Dữ liệu chính xác về giao dịch BĐS,
phần nhiều trong số đó là giao dịch "ngầm" với mức giá cụ thể ra sao lại không được tiết lộ.
Hạn chế trong các phương pháp thẩm định giá xuất phát từ thiếu thông tin: ngoài
những hạn chế và sai sót trong các văn bản hướng dẫn các phương pháp thẩm định giá do
Bộ Tài chính ban hành đã được các nghiên cứu trước chứng minh, bản thân nội dung các
phương pháp, các bước thực hiện cũng cần phải có sự minh bạch của thông tin. Dưới đây là
một số hạn chế của kết quả thẩm định giá có nguyên nhân do sự thiếu thông tin.
Phương pháp so sánh: đặc điểm của phương pháp này là cần nhiều thông tin về các tài sản
tương tự tài sản cần thẩm định đã giao dịch trên thị trường. Tuy nhiên, do thiếu thông tin
về các tài sản đã được giao dịch thành công nên các thẩm định viên trong nhiều trường hợp
phải sử dụng các tài sản chưa được giao dịch thành công với mức giá đang rao bán, giá ước
tính của các tài sản lân cận hoặc dùng giá quy định của Nhà nước điều chỉnh lại cho hợp lý.
Khi điều chỉnh sự khác biệt giữa tài sản so sánh với tài sản thẩm định đa phần sử dụng các
hệ số tăng giảm phần trăm theo kinh nghiệm và thống kê riêng lẻ của mỗi tổ chức thẩm
định giá, thiếu sự thống kê một cách hệ thống, có sự liên kết giữa các tổ chức thẩm định và
không cập nhật kịp thời theo sự thay đổi của thị trường. Điều này ít nhiều làm ảnh hưởng
đến kết quả thẩm định và làm tăng sai số so với giá trị thực của BĐS cần thẩm định.
Phương pháp chi phí:
Ở bước 1 – ước tính riêng giá trị của lô đất thuộc BĐS bằng cách coi đó là đất trống
đang được sử dụng trong điều kiện tốt nhất và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, để ước tính được
chính xác giá trị lô đất này thì cần có thông tin quy hoạch đầy đủ, đây cũng chính là vấn đề
bất cập hiện nay ở Việt Nam vì ngoài việc thiếu thông tin quy hoạch thì một số nơi vẫn
chưa có quy hoạch hoặc đang đợi xét duyệt với thời gian không ước tính được làm nản lòng
các thẩm định viên. Hơn nữa, nếu lấy giá trị lô đất theo giá Nhà nước quy định thì giá này
lại quá thấp so với giá thị trường, gây mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các bên, lấy theo giá
thị trường thì lại thiếu thông tin.
Ở bước 2 - ước tính chi phí hiện tại để xây dựng mới, tái tạo, thay thế công trình xây
dựng hiện có trên đất, bao gồm cả lợi nhuận cho nhà thầu về thuế, phí phải nộp theo quy
định của Nhà nước – hiện ở nước ta Bộ Xây dựng có công bố Chỉ số xây dựng hàng quý và
Suất vốn đầu tư xây dựng công trình hàng năm nhưng các chỉ số này thiếu tính kịp thời và
không theo kịp diễn biến thị trường. Lợi nhuận nhà thầu cũng như thuế, phí phải nộp cũng
37
có rất ít thông tin hoặc thiếu rõ ràng. Những tổ chức, cá nhân không trong lĩnh vực BĐS
muốn có thông tin tham khảo cũng rất khó tiếp cận.
Ở bước 3 – xác định hao mòn và ước tính giá trị hao mòn lũy kế - để tiến hành chính
xác giai đoạn này cần có sự tư vấn từ các kỹ sư xây dựng hoặc những người có hiểu biết
sâu về lĩnh vực xây dựng. Tuy nhiên, không phải tổ chức, cá nhân thẩm định viên nào cũng
có kiến thức hoặc tìm sự hỗ trợ chuyên môn.
Nhà nước ta có ban hành Thông tư số 13/LB-TT ngày 18-8-1994 Hướng dẫn phương pháp
xác định giá trị còn lại của nhà ở nhưng văn bản này chỉ giới hạn đối với nhà ở thuộc sở
hữu Nhà nước cho người đang thuê và những quy định về Tỷ lệ giá trị của các kết cấu
chính so với tổng giá trị của ngôi nhà hay Xác định tỷ lệ chất lượng còn lại của các kết cấu
chính sau 16 năm (1994-2010) cũng ít nhiều mang tính lỗi thời so với sự phát triển của
ngành xây dựng, kiến trúc hiện tại. Hơn nữa, do thiếu các văn bản hướng dẫn cụ thế cho
các loại BĐS khác nên hiện nay nhiều thẩm định viên sử dụng luôn hướng dẫn của Thông
tư 13 để áp dụng luôn cho các loại BĐS khác như nhà xưởng, văn phòng,...
Phương pháp thu nhập: đối với phương pháp này, khó khăn lớn nhất là xác định các tỷ suất
chiết khấu, tỷ suất vốn hóa. Do không có một cơ quan chức năng nào ở nước ta đứng ra
công bố các chỉ số này, nên mỗi tổ chức, cá nhân thẩm định giá lại sử dụng một chỉ số khác
nhau. Vẫn còn nhiều tranh cãi chưa thống nhất về cách tính các chỉ số này trên thị trường
Việt Nam nên kết quả thẩm định có sự khác biệt lớn giữa các bên. Thêm vào đó, việc xác
định thu nhập tiềm năng, doanh thu từ việc khai thác tài sản ngoài số liệu do khách hàng
cung cấp thì rất khó tìm được các dữ liệu từ các tài sản tương tự để so sánh. Việc xác định
các loại chi phí thì dễ dàng hơn do đã có các văn bản hướng dẫn của Nhà nước
Phương pháp thặng dư: việc xác định tổng doanh thu phát triển của dự án và tỷ suất chiết
khấu cũng gặp khó khăn như đối với phương pháp thu nhập. Các loại chi phí cũng đã có
hướng dẫn, quy định của Nhà nước, riêng chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư
cũng gặp nhiều khó khăn để xác định chính xác, đầy đủ do quá trình giải phóng mặt bằng kéo dài
và xảy ra nhiều tranh chấp, mâu thuẫn.
Phương pháp lợi nhuận: đây là phương pháp rất ít được sử dụng ở Việt Nam hiện nay. Khi
áp dụng phương pháp này, thẩm định viên phải am hiểu những kiến thức về kế toán và
doanh nghiệp cũng như phân tích báo cáo tài chính mới có ước tính được chính xác giá trị
tài sản.
38
3.2.4 Khảo sát thực tế sự minh bạch thông tin BĐS và công tác thẩm định giá BĐS
3.2.4.1 Đặc điểm TTBĐS TP. HCM – nơi lấy mẫu khảo sát
TTBĐS TP. HCM đang trong quá trình phát triển và là thị trường có các hoạt động kinh doanh
BĐS và dịch vụ BĐS diễn ra sôi nổi hơn so với các tỉnh thành khác. Nơi đây tập trung phần lớn
các công ty thẩm định giá với cường độ làm việc rất cao do nhu cầu về định giá BĐS cũng như
các tài sản khác ngày càng nhiều. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng gây trở ngại
cho quá trình lấy thông tin của tác giả về mặt thời gian cũng như chất lượng thông tin.
3.2.4.2 Phương pháp tiến hành khảo sát
Thời gian thực hiện khảo sát của tác giả là từ ngày 22/04 – 28/04/2010. Việc khảo sát được thực
hiện bằng hai phương pháp sau:
Phương pháp thứ nhất: Phỏng vấn ý kiến chuyên gia. Việc phỏng vấn ý kiến chuyên gia được
thực hiện ở 10 công ty thẩm định giá nước ngoài và Việt Nam có cơ sở tại TP. HCM. Đối tượng
được phỏng vấn là các giám đốc, trợ lý giám đốc, trưởng, phó phòng tại các công ty thẩm định
giá, là những người đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thẩm định giá nói chung và thẩm
định giá BĐS nói riêng. Danh sách các đối tượng được phỏng vấn có trong phần phụ lục.
Phương pháp thứ hai: Thống kê mô tả dựa trên phiếu câu hỏi khảo sát đã được thiết kế sẵn, đối
tượng là các cá nhân làm công tác thẩm định giá BĐS trong các phòng ban ở 11 công ty có chức
năng thẩm định giá trải đều trên địa bàn TP. HCM. Tất cả các công ty thẩm định giá được khảo
sát trừ ngân hàng Sài Gòn công thương và công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn đều là thành viên của Hội Thẩm định giá Việt nam có cơ sở
tại TP. HCM. Danh sách thành viên của Hội Thẩm định giá Việt Nam có trong phần phụ lục.
Phiếu khảo sát bao gồm 15 câu hỏi có trích dẫn trong phần phụ lục. Trước khi tiến hành lấy số
liệu chính thức, tác giả đã phỏng vấn thử 4 đối tượng sau đó chỉnh sửa để có phiếu khảo sát phù
hợp trong khả năng. Số phiếu khảo sát thu được là 36 phiếu, trong đó có 3 phiếu không hợp lệ đã
bị loại khỏi dữ liệu thống kê khi sử dụng phần mềm phân tích. Để phân tích số liệu thu thập
được, tác giả sử dụng phương pháp thống kê mô tả với sự hỗ trợ của phần mềm thống kê SPSS
phiên bản 11.5
3.2.4.3 Kết quả khảo sát
a. Phương pháp phỏng vấn ý kiến chuyên gia
Với mỗi đối tượng được phỏng vấn, tác giả đưa ra 3 câu hỏi chính và tổng hợp được các ý kiến
như sau:
Câu hỏi phỏng vấn 1: Nhận xét/đánh giá của ông/bà về sự minh bạch thông tin trong
TTBĐS Việt Nam hiện nay?
39
Mức độ minh bạch thông tin ở TTBĐS TP. HCM không có hoặc còn thấp, tuy rằng đã có
cải thiện so với thời gian trước. Thông tin có nhiều loại và nhiều cấp độ khác nhau nên chắc chắn
sẽ không minh bạch hết được, kể cả thông tin trong TTBĐS của các nước phát triển trên thế giới.
Mỗi loại thông tin sẽ phục vụ cho một nhóm đối tượng nhất định. So với các tỉnh thành khác thì
TP. HCM được đánh giá là có mức độ minh bạch cao hơn. Đa số các thông tin công bố đều do
các tổ chức cá nhân điều tra một cách độc lập, nhỏ lẻ và không có dữ liệu chính quy, do đó thiếu
sự đồng bộ và thiếu chính xác. Giá ghi trên hợp đồng giao dịch có thể không phải là giá giao
dịch.
Sự kém minh bạch thông tin thể hiện ở việc không có thông tin chính xác về giá giao
dịch thành công của BĐS. Nếu như ở một số nước có hệ thống thông tin thị trường tốt thì thông
tin các giá thị trường sẽ dễ dàng thu thập thông qua các đại lý và nhân viên môi giới, còn ở Việt
Nam thì các thông tin này rất khó có được. Ngay cả các cơ quan quản lý Nhà nước cũng bị qua
mặt bởi các hợp đồng thật nhưng giá giả nhằm né tránh thuế. Nguyên nhân chủ yếu nằm ở tính
“chuyên nghiệp” của các đối tượng tham gia vào TTBĐS.
Việc tiếp cận thông tin quy hoạch ở TP. HCM đã tương đối dễ hơn và đầy đủ hơn so với
những năm trước đây, tuy nhiên ở các tỉnh thành khác thì lại chưa có thông tin quy hoạch đầy đủ.
Các văn bản pháp luật không có sự ràng buộc về việc niêm yết giá giao dịch. Mức giá
này chỉ có hai bên mua bán và người môi giới nắm nhưng các đối tượng này lại không công bố
vì nhiều lý do mà một trong số đó là những thỏa thuận ngầm nhằm mục đích giảm thuế.
Câu hỏi phỏng vấn 2: Theo ông/bà, sự minh bạch thông tin trong TTBĐS Việt Nam hiện
nay tác động đến công tác thẩm định giá như thế nào?
Khi thông tin càng kém minh bạch thì chi phí thời gian và tiền bạc cho việc khảo sát
thông thị trường càng cao. Mức giá thẩm định càng khó xác định và kém chính xác. Do đó, công
tác kiểm tra, sàng lọc thông tin đóng vai trò rất quan trọng.
Do thông tin về giá giao dịch bị hạn chế nên gây khó khăn trong việc ước tính mức giá
cuối cùng của BĐS. Để có được mức giá sát thực, các thẩm định viên phải thật khôn khéo và
nhạy bén trong vai trò người mua tiềm năng nhằm khuyến khích đối tượng muốn bán BĐS cho
biết giá trị thực.
Thực tế vẫn không có đối tượng đứng ra kiểm chứng thông tin BĐS trên thị trường.
Thẩm định viên có thể tự kiểm chứng qua các phòng công chứng, qua ngân hàng (nếu BĐS được
thế chấp để vay vốn) hoặc qua tờ khai lệ phí trước bạ
Một trong những yêu cầu đạo đức nghề nghiệp là phải minh bạch. Yêu cầu này được thể
hiện rõ nét qua việc làm các báo cáo, chứng thư thẩm định giá. Khi thực hiện thẩm định, các cá
nhân thực hiện thẩm định BĐS phải trình hồ sơ lên các cấp trên ký, do đó khi thông tin tài sản
40
hoặc các thông tin khác có liên quan đến quá trình định giá BĐS phải được trình bày thật rõ
ràng, đầy đủ. Việc làm này không những làm gia tăng chất lượng báo cáo thẩm định giá mà còn
giúp khách hàng cũng như các đối tượng có liên quan hiểu rõ, giảm thiểu tối đa những vấn đề
tiêu cực có thể phát sinh về sau.
Câu hỏi phỏng vấn 3: Kiến nghị giải pháp của ông/bà đối với cơ quan quản lý NHà nước để
cải thiện sự minh bạch thông tin trong TTBĐS Việt Nam và kinh nghiệm của cơ quan
ông/bà nhằm hạn chế rủi ro cũng như nâng cao chất lượng công tác thẩm định giá BĐS khi
thông tin kém minh bạch?
Kiến nghị giải pháp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Đa số các ý kiến đều mong muốn các cơ quan quản lý nhanh chóng thiết lập một cơ sở dữ liệu
chính quy về thông tin BĐS nhằm phục vụ cho công tác thẩm định giá và các mục đích khác. Có
ý kiến cho rằng cơ quan quản lý có thể có các biện pháp chế tài nhằm bắt buộc các sàn giao dịch,
các công ty thẩm định giá phải cung cấp thông tin nhằm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung.
Hội Thẩm định giá cũng có thể đứng ra huy động các thành viên đóng góp một khoản phí nào đó
cũng như cung cấp thông tin nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ ngành. Tuy nhiên, theo ý kiến
tác giả thì giải pháp này rất khó thực hiện ở giai đoạn hiện tại, nó thuộc về sự thất bại của hàng
hóa công. Các công ty có thể vì mục đích cạnh tranh không lành mạnh mà không cung cấp thông
tin hoặc cung cấp không đầy đủ và thiếu chính xác.
Kinh nghiệm/giải pháp từ phía các công ty thẩm định giá
Về mặt kỹ thuật, phương pháp thẩm định, thẩm định viên phải sử dụng càng nhiều các tài
sản so sánh càng tốt để hạn chế rủi ro và chọn lọc ra các tài sản so sánh tốt nhất. Các thẩm định
viên cũng phải nắm vững khu vực mình phụ trách để có sự nhạy bén kiểm soát, sàng lọc các tài
sản có giá trị bất thường so với các tài sản khác cùng khu vực.
Trong các báo cáo, chứng thư thẩm định giá phải ghi rõ những hạn chế, giả định về mặt
thông tin như: thông tin do khách hàng cung cấp còn thiếu, thông tin quy hoạch chưa đầy đủ, các
điều kiện thị trường…
Bản thân mỗi tổ chức, cá nhân thẩm định giá phải nâng cao tầm chuyên nghiệp của mình.
Chuyên nghiệp từ khâu quản lý, tổ chức, điều hành và đặc biệt là đào tạo.
Một số công ty đã thực hiện xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu riêng cho mình. Điển hình
là công ty thẩm định giá miền Nam (SIVC), đây là đơn vị duy nhất ở Việt Nam xây dựng được
ngân hàng dữ liệu về giá. Chỉ cần bấm vô bản đồ giá đất của SIVC là khách hàng có thể biết
được mức giá do Nhà nước quy định và giá thị trường từng thời điểm của từng quận, từng con
đường. Hàng năm SIVC đều tiến hành điều tra giá đất trên thị trường để cung cấp bảng giá đất
41
cho các Uỷ ban tỉnh và bổ sung cho ngân hàng dữ liệu của mình. Đây là công trình do một người
Úc gốc Việt nghiên cứu trong gần 20 năm và đã chia sẻ với ông Nguyễn Văn Thọ - Chủ tịch hội
đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc SIVC. Từ mô hình của nước bạn, khi về nước, ông Thọ tiếp
tục nghiên cứu, đến năm 2002 thì hoàn thiện ngân hàng dữ liệu của SIVC. Đây là một dạng phần
mềm có thể hiện cả mức giá rao bán, giá giao dịch và giá thẩm định của SIVC của khu vực TP.
HCM và các tỉnh thành khác được cập nhật theo từng ngày. Một ví dụ khác là công ty thẩm định
giá địa ốc Á Châu (AREV), hiện công ty đang sử dụng nguồn dữ liệu của sàn giao dịch BĐS Á
Châu và từ ngân hàng Á Châu. Đây cũng là một lợi thế của mô hình công ty đa dịch vụ.
b. Phương pháp thống kê mô tả
Kết quả thu được sau khi xử lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS như sau:
Mô tả về các đối tượng được khảo sát
Bảng 3.2: Mô tả giới tính của các đối tượng được khảo sát
Giới tính Số người Phần trăm
Nam 22/33 66.7
Nữ 4/33 12.1
Không trả lời 7/33 21.2
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Bảng 3.3: Mô tả số năm công tác của các đối tượng được khảo sát
Số năm công tác Tần số Phần trăm
1 10 30.3
2 10 30.3
3 5 15.2
4 3 9.1
5 4 12.1
6 1 3.0
Tổng cộng 33 100.0
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Qua các bảng thống kê mô tả trên, ta nhận thấy đa số các cá nhân làm thẩm định giá đều là nam
và có ít năm kinh nghiệm. Số năm công tác trung bình là 2.52 năm.
Mô tả về các loại tài sản và các phương pháp sử dụng thẩm định giá các tài sản của đối
tượng được khảo sát
Với giả định:
TS LOẠI 1: Đất đai (đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất ở)
TS LOẠI 2: Nhà ở (nhà phố, nhà liên kế, biệt thự, nhà vườn…)
42
TS LOẠI 3: BĐS thương mại (trung tâm thương mại, chợ, cửa hàng, siêu thị…)
TS LOẠI 4: BĐS dịch vụ (khách sạn, cao ốc văn phòng, nhà hàng, bến cảng…)
TĐG : Thẩm định giá
Các đối tượng được yêu cầu xếp hạng theo thứ tự giảm dần về mức độ thẩm định thường xuyên
các loại tài sản trên trong quá trình làm việc. Kết quả thu được như sau:
Bảng 3.4: Mô tả các loại tài sản thẩm định của đối tượng được khảo sát
TS LOẠI 1 TS LOẠI 2 TS LOẠI 3 TS LOẠI 4
TĐG nhiều nhất (%) 21.2 66.7 9.1 3.0
TĐG nhiều thứ 2 (%) 39.4 21.2 6.1 9.1
TĐG nhiều thứ 3 (%) 3.0 3.0 36.4 30.3
TĐG ít nhất (%) 15.2 3.0 21.2 33.3
Không trả lời 21.2 6.1 27.3 24.2
Tổng cộng 100 100 100 100
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Về mặt các phương pháp sử dụng, kết quả thống kê thu được dưới đây:
Bảng 3.5: Mô tả các phương pháp sử dụng thẩm định giá các tài sản của đối tượng được khảo
sát
TS LOẠI 1
Phương pháp
(%)
So sánh Chi phí Thu nhập Lợi nhuận Thặng dư
Có sử dụng 69.7 21.2 12.1 6.1 9.1
Không
sử dụng
12.1 60.6 69.7 75.8 72.7
Không
trả lời
18.2 18.2 18.2 18.2 18.2
Tổng cộng 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
TS LOẠI 2
Phương pháp
(%)
So sánh Chi phí Thu nhập Lợi nhuận Thặng dư
Có sử dụng 75.8 51.5 9.1 3.0 3.0
Không
sử dụng
18.2 42.4 84.8 90.9 90.9
Không
trả lời
6.1 6.1 6.1 6.1 6.1
43
Tổng cộng 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
TS LOẠI 3
Phương pháp
(%)
So sánh Chi phí Thu nhập Lợi nhuận Thặng dư
Có sử dụng 33.3 24.2 48.5 27.3 21.2
Không
sử dụng
42.4 51.5 27.3 48.5 54.5
Không
trả lời
24.2 24.2 24.2 24.2 24.2
Tổng cộng 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
TS LOẠI 4
Phương pháp
(%)
So sánh Chi phí Thu nhập Lợi nhuận Thặng dư
Có sử dụng 27.3 12.1 45.5 30.3 33.3
Không
sử dụng
42.4 57.6 24.2 39.4 36.4
Không
trả lời
30.3 30.3 30.3 30.3 30.3
Tổng cộng 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Qua 2 bảng thống kê trên, ta nhận thấy nhà ở là tài sản thông dụng nhất trong số các loại tài sản
các đối tượng được khảo sát thẩm định, kế đến là đất đai. BĐS thương mại và BĐS dịch vụ vẫn
còn rất ít. Đối với đất đai và nhà ở, phương pháp so sánh và chi phí được sử dụng nhiều nhất.
Còn đối với BĐS thương mại và BĐS dịch vụ, tất cả các phương pháp đều được sử dụng kết hợp
với nhau.
Mô tả về thực trạng việc xác định thông tin của các đối tượng được khảo sát
Các đối tượng được yêu cầu cho điểm từ 1 đến 5 tương ứng với mức độ từ dễ đến khó xác định
được hoặc tiếp cận được các thông tin cần thiết khi áp dụng các phương pháp thẩm định giá
Đối với phương pháp so sánh
44
Bảng 3.6: Mô tả mức độ xác định được các thông tin sử dụng trong phương pháp so sánh của
đối tượng được khảo sát
Thông tin về: Điểm trung bình (TB)
Giá niêm yết/giá chào bán 1.94
Giá giao dịch 4.00
Giấy tờ pháp lý 2.76
Thông tin quy hoạch 2.97
Đặc điểm, chất lượng còn lại của BĐS 3.00
Hạn chế về quyền sở hữu, quyền sử dụng 2.91
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Đối với phương pháp so sánh, nguồn tin để lấy thông tin về tài sản so sánh là một căn cứ quan
trọng nhằm xác định mức độ phổ biến của thông tin cũng như sự đa dạng về nguồn tin trong việc
tìm kiếm thông tin. Qua đó chúng ta có thể xác định được nguồn tin nào đang được các thẩm
định viên tin tưởng sử dụng hoặc mức độ dễ tiếp cận, thuận tiện khi sử dụng thông tin để có thể
khai thác phục vụ cho hệ thống thông tin chung cho toàn ngành.
Bảng 3.7: Mô tả nguồn thông tin sử dụng và mức độ tiếp cận được nguồn thông tin sử dụng của
đối tượng được khảo sát
Nguồn tin
Mức độ sử dụng
(Điểm TB)
Mức độ tiếp cận được
(Điểm TB)
Internet 1.48 1.36
Ban quản lý dự án 3.30 3.23
Khảo sát thực tế gần khu vực BĐS tọa lạc 2.21 1.94
Người môi giới 2.52 2.55
Sàn giao dịch BĐS 3.03 2.75
Các công ty kinh doanh BĐS 3.06 3.31
Sách báo, tạp chí 2.97 2.16
Các công ty thẩm định giá khác 4.20 4.23
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Qua số liệu thống kê trên, ta nhận thấy Internet là nguồn tin được sử dụng nhiều nhất cũng như
dễ tiếp cận nhất. Kế đến là nguồn tin từ khảo sát thực tế khu vực xung quanh BĐS cần thẩm định
tọa lạc. Trái với mong đợi, thông tin từ các sàn giao dịch BĐS cũng như các công ty BĐS chưa
được sử dụng nhiều và mức độ tiếp cận được chưa dễ dàng. Nguồn tin ít sử dụng và cũng khó
tiếp cận nhất là từ phía các công ty thẩm định giá khác. Điều này cũng có thể hiểu được là do
tính bảo mật cũng như sự canh tranh – thông tin là sức mạnh - của các công ty thẩm định giá
45
Đối với phương pháp chi phí
Bảng 3.8: Mức độ xác định được các thông tin sử dụng trong phương pháp chi phí
Các thông tin về Điểm TB
Giá cả nguyên vật liệu 2.18
Lợi nhuận cho nhà thầu 3.94
Chỉ số xây dựng 2.53
Thuế, phí phải nộp theo quy định 2.48
Suất vốn đầu tư xây dựng 2.30
Tỷ lệ hao mòn của công trình 3.15
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Kết quả thống kê từ phương pháp chi phí cho thấy các thông tin đều khá dễ xác định do đã có
nhiều quy định hướng dẫn sẵn từ phía các cơ quan quản lý. Lợi nhuận nhà thầu là thông tin khó
xác định nhất. Theo như các ý kiến phỏng vấn được của các chuyên viên thì thông tin này do
khách hàng cung cấp nhưng rất khó để kiểm chứng lại cũng như khó xác định được nếu không
có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng.
Đối với phương pháp thu nhập
Bảng 3.9: Mức độ xác định được các thông tin sử dụng trong phương pháp thu nhập
Các thông tin về Điểm TB
Tổng thu nhập tiềm năng, doanh thu từ việc khai thác tài sản 2.94
Thất thu do không có khách thuê hoặc do thanh toán dây dưa 3.32
Chi phí về thuế BĐS 2.52
Chi phí bảo hiểm nhà cửa 2.63
Chi phí quản lý 2.58
Chi phí mua ngoài: điện, nước, gas, dọn vệ sinh… 2.50
Chi phí duy tu, bảo dưỡng tài sản 2.72
Giá trị thu hồi của tài sản vào cuối kỳ 3.68
Tỷ suất vốn hóa / tỷ lệ chiết khấu 4.17
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Từ kết quả thống kê trên, ta thấy các loại chi phí khá dễ xác định. Theo các đối tượng được khảo
sát thì các chi phí này đã có trong quy định của cơ quan Nhà nước, chi phí quản lý ở mức 3% và
chi phí duy tu bảo dưỡng khoảng 2%. Tổng thu nhập tiềm năng, doanh thu của BĐS cũng khá dễ
xác định do khách hàng cung cấp sẵn. Thất thu do không có khách thuê hoặc do thanh toán dây
dưa cũng như giá trị thu hồi tài sản cuối kỳ hơi khó xác định do biến động của thị trường, đặc
điểm riêng của từng loại tài sản cũng như thông tin so sánh với các BĐS tương tự khác. Tỷ suất
46
vốn hóa/tỷ suất chiết khấu là khó xác định nhất và thực tế các đối tượng đều lấy số liệu dựa trên
ý kiến chủ quan vào khoảng 15-16%.
Đối với phương pháp thặng dư
Bước đầu tiên của phương pháp thặng dư là xác định được cách thức khai thác tốt nhất và hiệu
quả nhất của BĐS. Muốn xác định được điều này người thẩm định phải có kỹ năng phân tích,
tổng hợp được các thông tin không chỉ về đặc điểm riêng của BĐS mà còn dựa trên các yếu tố
cung-cầu, các chính sách Nhà nước có liên quan. BĐS chỉ mang lại lợi ích cao nhất dựa trên sự
tổng hòa giữa đặc điểm riêng có với nhu cầu thực tế cũng như đối thủ cạnh tranh trên thị trường
và phải phù hợp, nắm bắt được các chính sách Nhà nước.
Khi được yêu cầu cho điểm từ 1-5 tương ứng với mức độ cần thiết giảm dần của các thông tin
được nêu trên, đa số các đối tượng được khảo sát đều nhận diện được vai trò quan trọng và cần
thiết của các thông tin về nguồn cung-cầu BĐS và các chính sách nhà nước. Tuy nhiên, mức độ
tiếp cận được đối với nguồn cầu BĐS và thông tin quy hoạch vẫn còn khó.
Bảng 3.10: Mô tả mức độ cần thiết và mức độ tiếp cận được nguồn thông tin
Các thông tin về
Mức độ cần thiết
(điểm TB)
Mức độ tiếp cận được
(điểm TB)
Nguồn CUNG BĐS 2.45 2.59
Nguồn CẦU BĐS 2.48 3.25
Thông tin quy hoạch 2.39 3.34
Chính sách thuế 2.90 2.74
Chính sách tín dụng 2.87 2.94
Chính sách đầu tư 2.87 3.06
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Mức độ xác định được các thông tin về chi phí của phương pháp thặng dư khá dễ do có tham
khảo theo Quyết định 957/QĐ-BXD ngày 29/9/2009 về việc công bố định mức chi phí quản lý
dự án và tư vấn đầu tư xây dựng công trình. Riêng chi phí về bồi thường giải phóng mặt bằng, tái
định cư và Chi phí thẩm tra tổng mức đầu tư vẫn còn khá khó xác định.
Bảng 3.11: Mô tả mức độ xác định được các thông tin sử dụng trong phương pháp thặng dư của
đối tượng được khảo sát
Các thông tin về Điểm TB
Tổng doanh thu phát triển của dự án 2.80
Chi phí khảo sát, lập dự án đầu tư 2.53
Chi phí thiết kế xây dựng 2.44
47
Chi phí lập hồ sơ mời thầu 2.48
Chi phí giám sát thi công xây dựng, lắp đặt thiết bị 2.56
Chi phí quản lý dự án 2.91
Chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư 3.13
Chi phí bảo hiểm công trình 3.00
Chi phí thẩm tra tổng mức đầu tư 3.19
Chi phí thiết bị (mua sắm, đào tạo chuyển giao công nghệ, bảo hiểm,
thuế, phí) 2.94
Chi phí kinh doanh( tiếp thị, bán hàng, lãi vay,
lợi nhuận nhà đầu tư, thuế…) 2.80
Chi phí dự phòng 2.90
Tỷ suất chiết khấu 3.55
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Mô tả về các nhận định của đối tượng được khảo sát về tính minh bạch của các thông tin
Yêu cầu cơ bản của sự minh bạch thông tin là tính đầy đủ, chính xác và kịp thời. Dựa trên yêu
cầu này, tác giả đã đưa vào phiếu khảo sát câu hỏi yêu cầu các đối tượng đánh giá mức độ đáp
ứng yêu cầu của sự minh bạch đối với những thông tin cơ bản nhất về quy luật thị trường là
cung-cầu và các chính sách Nhà nước. Đa số các ý kiến đều cho rằng mức độ đáp ứng yêu cầu
minh bạch của thông tin ở Việt Nam ở mức trung bình thấp. Thang điểm đánh giá là từ 1-5 theo
mức độ đáp ứng giảm dần.
Bảng 3.12: Mô tả nhận định của đối tượng được khảo sát về mức độ đáp ứng các yêu cầu của
thông tin minh bạch Đơn vị tính: Điểm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- toanbonoidung.pdf