Tài liệu Đề tài Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác - Một cuộc cách mạng trong triết học: Lời mở đầu
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hoàn chỉnh, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Hiện nay, cuộc đấu tranh tư tưởng và thực tiễn mới xây dựng đất nước đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và nhận thức lại những giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có việc nghiên cứu và quán triệt những nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng, để phát triển và vận dụng học thuyết cách mạng vào khoa học đó một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, việc khôi phục và bảo vệ những giá trị của triết học mácxít cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định vị trí và vai trò của triết học mácxít trong lịch sử triết học cũng như trong cuộc sống, trở thành một nhiệm vụ bức thiết. Trong bài tiểu luận ngắn này em xin trình bày một cách ngắn gọn và sơ lược quá trình hình thành và ra đời của triết học duy vật biện chứng mácxít. Vì thời gian và trình độ c...
10 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác - Một cuộc cách mạng trong triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hoàn chỉnh, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Hiện nay, cuộc đấu tranh tư tưởng và thực tiễn mới xây dựng đất nước đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và nhận thức lại những giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có việc nghiên cứu và quán triệt những nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng, để phát triển và vận dụng học thuyết cách mạng vào khoa học đó một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, việc khôi phục và bảo vệ những giá trị của triết học mácxít cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định vị trí và vai trò của triết học mácxít trong lịch sử triết học cũng như trong cuộc sống, trở thành một nhiệm vụ bức thiết. Trong bài tiểu luận ngắn này em xin trình bày một cách ngắn gọn và sơ lược quá trình hình thành và ra đời của triết học duy vật biện chứng mácxít. Vì thời gian và trình độ có hạn, bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự chỉ bảo của các thầy và những ai quan tâm đến vấn đề này.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác - một cuộc cách mạng trong triết học
Triết học Mác ( chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) là bộ phận cấu thành và đồng thoừi là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác, là chìa khoá để giải thích trên cơ sở khoa học quá trình phát triển của tư tưởng nhân loại.
Quê hương của chủ nghĩa Mác là nước Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất ở Anh, Pháp, Đức và của các nước tư bản chủ nghĩa khác đã chứng tỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt hơn hẳn phương thức sản xuất phong kiến. Song cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn giai cấp - xã hội vốn có của bản thân nó cũng nẩy sinh và ngày càng bộc lộ gay gắt, trước hết là mâu thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và tư sản. Mâu thuẫn này là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, phong trào của giai cấp vô sản đã phát triển mạnh mẽ. Cuộc đầu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đã trở thành các cuộc khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng. Cuộc khởi nghĩa của công nhân Liông (Pháp) năm 1831 và năm 1834, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức) năm 1834 và phong trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 đầu những năm 40 của thế kỷ XIX đã thu hút được sự chú ý của các đại biểu tiên tiến của các tầng lớp tri thức tư sản tiến bộ, trước hết là C. Mác và Ph.Ăngghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp - xã hội và những triển vọng của các cuộc đấu tranh giai cấp ấy. Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến ở châu Âu những năm 30 - 40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã có những tiền đề xã hội - giai cấp và những điều kiện để xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, là chứng cứ để nói rằng nhu cầu xã hội đã chín muồi để xuất hiện một thế giới quan triết học mới - triết học mácxít.
Những tư tưởng xã hội trực tiếp xuất hiện trước chủ nghĩa Mác và biểu hiện rõ ràng nhất là Kinh tế chính trị cổ điển Anh; Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp ; Triết học cổ điển Đức. Trong những học thuyết ấy chứa đựng những giá trị về mặt lịch sử. Đó là lý luận giá trị lao động của Smít và Ricácđô, là những dự đoán thiên tài của Xanh Ximông và Phuriê về một số đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai và sự phê phán của các ông đối với xã hội tư bản. Đó là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và kiến giải duy vật về vấn đề cơ bản của triết học trong các tác phẩm của Phoiơbắc. Những học thuyết đó là những đỉnh cao của sự phát triển tư tưởng lý luận xã hội của loài người trong thời kỳ trước Mác. Sự phát triển hơn nữa về kinh tế chính trị học, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và triết học chỉ có thể có được với sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Song rõ ràng, những thành tựu đã đạt tới của nhân loại lại là những tiền đề lý luận tất yếu về mặt lịch sử; và là nguồn góc của chủ nghĩa Mác nói chung và của triết học mácxít nói riêng.
Chẳng những thế, vào giữa thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt tới những đỉnh cảo trong khoa học tự nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên như R. Maye (Đức), P.P. Giulơ (Anh), E. Kh. Lenxơ (Nga), L.A. Cônđinh ( Đan Mạch) đã xác định sự thật về chuyển hoá năng lượng. R.Meye và P.P. Giulơ đã nêu lên thành định luậtu bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, đã chứng minh sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển biến những hình thức vận động của chúng. Các nhà sinh vật học người Đức như Svan và Slâyđen đã đề ra lý luận tế bào, đã chứng minh rằng các tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của tất cả các cơ thể động vật và thực vật, và do vậy tìm ra bản chất sự phát triển của cơ thể động vật, thực vật đều là sự phát triển bằng sự hình thành tế bào.
Nhà khoa học người Anh Đác Uyn cũng đã phát hiện ra lý luận duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Chính định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, lý luận tế bào, học thuyết về sự xuất hiện và phát triển các loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy luật của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó được hình thành như là kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy luật chung nhất của sự phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do Mác và Ăngghen sáng lập là một học thuyết thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng thời là quá trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dưới ảnh hưởng trực tiếp của phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
Các Mác sinh ngày 5 - 5 - 1818 tại Tơria, vùng Ranh của nước Đức. Ngay từ lúc còn học trung học, Mác đã thể hiện là một thanh niên tài năng, biết gắn hạnh phúc của mình với hạnh phúc của mọi người.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu ở Đại học Bon và Béclin, Mác rất khao khát học tập, nghiên cứu triết học, vì theo ông, không có triết học thì không thể xâm nhập được vào sự vật. Mác say sưa đọc các tác phẩm của Căng, Vônte, Rútxô... và đặc biệt là của Hêghen. Càng nghiên cứu triết học, Mác càng khao khát tìm câu trả lời về các vấn đề có ý nghĩa của con đường lịch sử loài người. Và ở Hêghen. Nét nổi bật nhất của Mác nhận thấy ở Hêghen là phương pháp tư duy của ông, là phép biện chứng và tư tưởng phát triển. Phép biện chứng Hêghen vạch rõ rằng các trạng thái của lịch sử chỉ là những bước phát triển nhất thời, chỉ là những giai đoạn trong tiến trình phát triển vô tận từ thấp đến cao của xã hội loài người. Cái mà hôm qua vẫn còn tồn tại một cách hợp lý, thì hôm nay lại đang tiêu vong, thay vào đó là một hiện thực mới, cao hơn, đi vào lịch sử xã hội loài người. Nhưng Hêghen là nhà duy tâm. Ông đã coi cơ sở của mọi cái hiện tồn là sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” của cái “tinh thần thế giới”. ý niệm tuyệt đối của Hêghen như ông đã khẳng định - đã đạt tới điểm cuối cùng của nó, và sẽ đạt tới đỉnh hoàn thiện trong một nhà nước Phổ cải cách và trong một nền quân chủ lập hiến. Như vậy quan điểm đó lại là một quan điểm bảo thủ, trái với phép biện chứng của ông, trái với phương pháp không hề biết đến trạng thái tĩnh và chân lý tuyệt đối.
Mâu thuẫn đó phản ánh sự bất đồng trong giai cấp tư sản, là giai cấp muốn thoát khỏi những xiềng xích của chế độ phong kiến, nhưng do sợ hãi nhân dân nên đã tìm cách thoả hiệp với chế độ quân chủ Phổ và giới quý tộc phong kiến. Mặc dù có những mâu thuẫn đó và còn mang tính chất nửa vời; nhưng triết học Hêghen vẫn là một bước tiến lớn trong lịch sử tư duy của con người. Chính vì thế nên Mác chuyển sang nghiên cứu Hêghen, tiếp thu phép biện chứng của Hêghen. Tháng 11 - 1837, trong thư viết cho cha, Mác nói: “con ngày càng gắn chặt với triết học hiện thời”. Mác tham gia các cuộc tranh luận về các vấn đề chính trị của thời đại, rèn vũ khí tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản đang tới gần. Ông học được rất nhiều điều ở những người bạn lớn tuổi của ông, và ngày càng khát khao gắn triết học với cuộc sống hiện thực của nước Đức lúc bấy giờ. Luận án tiến sĩ ra trường năm 1841 của Mác đã chứng minh điều đó. Luận án tuy viết về một đề tài triết học cổ Hy lạp nhưng nội dung lại cho thấy tác giả của nó là một nhà dân chủ cách mạng. Trong lời mở đầu luận án, Mác kiêu hãnh đứng về phía Prômêtê, vị thần hi sinh vì tự do, là bạn của loài người là kẻ thủ của các thần. Đối với Mác, Prômêtê đã trở thành biểu tượng lý tưởng của bản thân mình. Theo tinh thần của Prômêtê, Mác muốn đến với nhân dân để cùng họ lật đổ những ảnh hưởng của các thế lực phản động, đen tối, của sự áp bức, bạo lực.
Khoảng giữa tháng 4 - 1841 Mác từ Béclin trở về Tơria, dự định xin làm một giảng viên trường Đại học, nhưng không thực hiện được. Giữa lúc đang tìm kiếm một môi trường hoạt động thích hợp thì Mác đọc được một cuốn sách mà suốt thời gian sau đó khiến ông bận tâm rất nhiều - đó là cuốn Bản chất đạo Cơ đốc của Lút vích Phoiơbắc. Mác say sưa với cuốn sách vì ông nhận thấy ở đây xuất hiện một nhà triết học không chỉ phê phán gay gắt hệ tư tưởng tôn giáo của các tầng lớp phong kiến mà còn tiếp tục phát triển một cách có phê phán một số mặt riêng biệt của triết học Hêghen. Trong tác phẩn này, tác giả đã vứt bỏ mọi thứ tôn giáo cũng như toàn bộ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, coi chúng là trái ngược với bản chất thực sự của thế giới và với phẩm giá con người và thay vào đó bằng chủ nghĩa duy vật triết học. Phoiơbắc tuyên bố rằng, để tồn tại thì thế giới cũng như con người chẳng cần một vị thần hay một “ý niệm tuyệt đối” nào của Hêghen cả. Con người tồn tại được chỉ là nhờ tự nhiên và là một sản phẩm của sự phát triển tự nhiên. Tự nhiên, tồn tại là cái có trước và chúng tồn tại độc lập đối với con người và đối với ý thức của con người. Ngoài con người và tự nhiên ra không còn có cái gì khác, không có thần. Tôn giáo là một sản phẩm của con người.
Những nhận thức đó của Phoiơbắc đã đánh tan sự hấp dẫn của chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Những tư tưởng duy vật, vô thần và nhân đạo chủ nghĩa của Ông đã gây ấn tượng mạnh mẽ trong giới tri thức tiến bộ ở Đức. Song chẳng bao lâu, với cách nhìn phê phán, Mác đã bắt đầu nhận thấy những điểm yếu trong học thuyết của Phoiơbắc, trước hết là cái khuyết điểm không coi con người là một thực thể có tính lịch sử và do xã hội quy định. Điều đó đã cản trở Phoiơbắc vận dụng chủ nghĩa duy vật để xem xét xã hội loài người và lịch sử của xã hội loài người. Nhưng ngay cả Mác cũng phải dân dần mới có được những nhận thức ấy.
Cuộc đấu tranh chính trị hàng ngày, ngày càng đưa ông vào lĩnh vực mà hồi đó đã trở thành chiến trường quan trọng nhất giữa các thế lực tiến bộ và phản động: lĩnh vực chính luận.
Lúc bấy giờ, vào đầu năm 1842, các nhà công nghiệp và ngân hàng đứng đầu vùng Ranh thành lập ở vùng Khuên (Côlơnhơ) tờ Nhật báo tỉnh Ranh, lấy đó làm cơ quan phát ngôn của phái đối lập tư sản và họ yêu cầu Mác cộng tác. Mác đã làm biên tập chơ tờ Nhật báo tỉnh Ranh. Trong quá trình làm biên tập cho Nhật báo tỉnh Ranh, Mác buộc phải bày tỏ ý kiến của mình trên báo chí về vai trò ý nghĩa của các lợi ích vật chất trong đời sống xã hội, những vấn đề kinh tế xã hội đặt ra ở tỉnh Ranh, như địa vị kinh tế của người nông dân vùng Môden, về vấn đề sở hữu đất, vấn đề đốn rừng, về thương nghiệp và về thuế quan bảo hộ... Phép biện chứng duy tâm và học thuyết về nhà nước và pháp quyền của Hêghen được Mác sử dụng đã đưa ông đến thất bại, rơi vào tình trạng khó xử, không giải quyết được các vấn đề của thực tiễn chính trị đặt ra. Lúc này chính Mác đã cảm thấy rằng những quá trình kinh tế và những lợi ích vật chất của con người trong đời sống xã hội đã đóng vai trò quan trọng đặc biệt, khiến Mác đi tới kết luận rằng phải nghiên cứu sâu sắc hơn những vấn đề kinh tế chính trị và phải xem xét lại một cách có phê phán những quan điểm triết học và pháp quyền của Hêghen.
Trong thời gian làm việc ở tờ Nhật báo tỉnh Ranh, trong quan điểm của Mác có cả quan điểm của chủ nghĩa xã hội không tưởng, song vì chưa đủ những tri thức sâu sắc về những vấn đề đó nên ông đã không bày tỏ quan điểm của mình về các học thuyết xã hội chủ nghĩa của những người tiền bối.
Sau khi rời ban biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh vì bị kiểm duyệt gắt gao. Mác hoàn toàn dành thời gian vào giải quyết các vấn đề mà ông quan tâm trong thời kỳ công tác tại tờ báo. Tháng 10 năm 1843 Mác sang Pari, tập trung công sức để nghiên cứu các vấn đề kinh tế chính trị học và lịch sử các phong trào cách mạng. Tại đây ông đã tham gia các cuộc hội họp của công nhân, đặt mối quan hệ với các nhà lãnh đạo, các tổ chức công nhân bí mật ở Pháp và Đức. Những năm 1843 đến 1844 là thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của Mác từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa, từ duy tâm sang duy vật biện chứng. Điều đó được thể hiện trong các bài viết của ông đăng trên tờ báo Niên giám Pháp - Đức, đặc biệt là trong lời nói đầu của tác phẩm góp phần phê phán của triết học pháp quyền của Hêghen đăng trong tờ Niên giám trên, số tháng 2 năm 1844 tại Pari. Trong lời nói đầu của tác phẩm này, Mác đã khẳng định: những quan hệ pháp quyền cũng như các hình thức của Nhà nước, không thể hiểu từ bản thân chúng, từ cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần con người, mà ngược lại, chúng có nguồn gốc từ những quan hệ vật chất của đời sống.
Cũng trong lời nói đầu này, Mác đã giải thích trên cơ sở duy vật vấn đề Nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo. Khác với những nhà triết học trước Mác, ông đã hiểu những nhiệm vụ của triết học mà ông tự xác định một cách hoàn toàn mới. Mác đã coi triết học là một thứ vũ khí để cải tạo thế giới, nó có nhiệm vụ phục vụ cho thực tiễn đấu tranh chính trị - xã hội. Cùng với việc phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Mác đã phên phán trên quan điểm chính trị thực tiễn cái nhà nước đương thời, cái hiện thực “tồn tại là hợp lý”, đồng thời cũng kiên quyết phủ định cả cái hình thức đang tồn tại của ý thức pháp quyền và nền chính trị Đức đang tồn tại lúc đó. Đứng trên lập trường duy vật, Mác còn nhấn mạnh đến ý nghĩa to lớn của tư tưởng tiên tiến trong cải tạo xã hội và Nhà nước. Ông chỉ ra sự tất yếu phải phát triển những tư tưởng tiên tiến trong quần chúng nhân dân để nó trở thành một động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Luận chứng một cách duy vật vai trò của lý luận tiên tiến trong mối quan hệ của nó với thực tiễn cách mạng, Mác viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”. Cũng trong lời nói đầu tác phẩm này Mác đã công khai tính Đảng trong triết học của mình. Lần đầu tiên Mác đã phát biểu với tư cách là nhà cách mạng, trực tiếp hướng tới giai cấp vô sản, với tính cách là lãnh tụ quần chúng của nhân dân, và coi triết học của ông là triết học của giai cấp vô sản, là vũ khí tư tưởng của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để cải biến cách mạng đối với xã hội. Mác nói: “ giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.
Khi phê phán triết học của Hêghen về mặt Nhà nước và pháp quyền, Mác cũng đồng thời đã thực hiện một thể nghiệm bước đầu đặc biệt có kết quả là mở rộng chủ nghĩa duy vật sang lĩnh vực các hiện tượng xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, ông chỉ ra sức mạnh và hiệu lực của phép biện chứng duy vật là phương pháp tạo ra khả năng phát hiện các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, cho pháp giải quyết một cách triệt để những nhiệm vụ nhận thức và cải tạo cách mạng đối với thế giới. Rõ ràng ở đây Mác đã đặt cơ sở cho một thế giới quan mới để nhìn nhận sự vật, khác về chất so với phép biện chứng của Hêghen. Phép biện chứng của Hêghen chỉ là phép biện chứng của ý niệm và ông mới chỉ phỏng đoán phép biện chứng của khái niệm. Ngược lại, đối với Mác, phép biện chứng của khái niệm chỉ là sự phản ánh trong ý thức của con người đối với phép biện chứng của thế giới khách quan.
Trong thời gian Mác ở Pari thì Ăngghen sống và làm việc tại Anh, hoạt động thực tiễn trong phong trào công nhân và nghiên cứu lý luận độc lập với Mác, nhưng cũng đã rút ra những kết luận cơ bản phù hợp với quan điểm của Mác trên các vấn đề về triết học và về chính trị - xã hội.
Ph. Ăngghen sinh ngày 28 - 11- 1820 tại Bácmen, thuộc tỉnh Anh. Vốn là con người yêu thích tự do, có tinh thần dân chủ cách mạng, Ăngghen đã kiên trì tự học, hăng hái tham gia hoạt động khoa học và chính trị. Năm 1841 Ăngghen đi Béclin làm nghĩa vụ quân sự. Tại đây ông đã làm quen với những người thuộc phái Hêghen trẻ và trở thành một thành viên của phái này. Tháng 3 - 1842 Ăngghen cho xuất bản cuốn sách Sêlinh và việc Chúa truyền, trong đó mặc dù còn chịu ảnh hưởng bởi lập trường duy tâm của Hêghen, nhưng ông đã chỉ trích gay gắt nghiêm khắc những quan điểm thần bí phản động của Sêlinh. Năm 1842, sau khi hết hạn nghĩa vụ quân sự Ăngghen sang Mansetxtơ (Anh) và làm việc trong một xưởng sợi của cha ông. Tại Anh ông đã có điều kiện nghiên cứu tình cảnh của giai cấp công nhân, giao thiệp với phái Hiến Chương và bắt đầu nghiên cứu kinh tế chính trị học cổ điển Anh. Những kết quả nghiên cứu về bộ môn này được ông thể hiện trong tác phẩm lược thảo phê phán khoa Kinh tế chính trị đăng trong tờ Niên giám Pháp - Đức số tháng 2 - 1844. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Ăngghen với Mác diễn ra vào tháng 11 - 1842 khi Mác còn làm biên tập viên cho tờ Nhật báo tỉnh Ranh. Tháng 8 - 1844, trên đường từ Anh về Đức tại Pari đã diễn ra cuộc gặp gỡ thứ hai giữa Mác và Ăngghen. Và từ đó hai ông đã có mối quan hệ bền chặt, gắn bó trong suốt cộc đời, cùng làm việc để sáng tạo lên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị học mácxít và lý luận của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Như vậy, đến đây Mác và Ăngghen đã chuyển biến hoàn toàn từ những người đứng trên lập trường dân chủ cách mạng và duy tâm biện chứng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa và duy vật biện chứng. Quá trình hình thành và phát triển trong thế giới quan của hai ông không phải là quá trình giản đơn mà là một quá trình phức tạp, gắn với sự phát triển của Khoa học và thực tiễn chính trị xã hội. Đó là một quá trình thống nhất hai mặt, vừa cải biến theo chủ nghĩa duy vật cái nội dung hợp lý trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen, vừa giải thích theo phép biện chứng cách giải quyết duy vật vấn đề cơ bản của triết học, khắc phục quan điểm siêu hình. Mác và Ăngghen thực sự làm một cuộc cách mạng trong triết học: đồng thời khắc phục phép biện chứng duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình, đặt nền móng cho một thế giới quan triết học hoàn toàn mới, khác về chất so với triết học cũ - đó là triết học duy vật biện chứng mácxít. Trong triết học Mác chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó chặt chẽ thống nhất với nhau, quy định lẫn nhau, trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. Bắt đầu từ đây Mác và Ăngghen bắt tay vào khởi thảo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng xây dựng và hoàn thiện các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác.
Tài liệu tham khảo
1. PGS. TS. Lê Doãn Tá.
Triết học Mácxít quá trình hình thành và phát triển (giai đoạn Mác Ăngghen và Lênin)
2. Giáo trình triết học Mác - Lênin (Giáo trình dùng trong các trường Đại học, Cao đẳng - NXB chính trị quốc gia 2002)
3. Đề cương bài giảng triết học Mác - Lênin (Khoa triết học Trường ĐHKHXH & NV - 1998)
4. Triết học (Dùng cho nghiên cứu sinh và cao học thuộc ngành không chuyên triết học tập I, II, III - NXB chính trị Quốc gia).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60291.DOC