Tài liệu Đề tài Sự phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam: MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
LỜI NÓI ĐẦU 6
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 15
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ
TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 15
1.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN 15
1.2. HỆ THỐNG CÁC TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 26
1.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 55
1.4. CHÍNH SÁCH, CÔNG CỤ VÀ NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ,
ĐIỀU TIẾT PHÁT TRIỂN TTCK BỀN VỮNG 63
Chƣơng 2. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG MỞ
CỬA HỘI NHẬP 77
2.1. MỐI QUAN HỆ TÁC ĐỘNG ẢNH HƢỞNG CỦA TĂNG
TRƢỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 77
2.2. VAI TRÕ TÁC ĐỘNG CỦA TTCK PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG VỚI PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH 82
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TTCK TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NH P 92
Chƣơng 3. TỔNG QUAN VỀ ...
355 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Sự phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
LỜI NÓI ĐẦU 6
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 15
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ
TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 15
1.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN 15
1.2. HỆ THỐNG CÁC TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 26
1.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 55
1.4. CHÍNH SÁCH, CÔNG CỤ VÀ NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ,
ĐIỀU TIẾT PHÁT TRIỂN TTCK BỀN VỮNG 63
Chƣơng 2. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG MỞ
CỬA HỘI NHẬP 77
2.1. MỐI QUAN HỆ TÁC ĐỘNG ẢNH HƢỞNG CỦA TĂNG
TRƢỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 77
2.2. VAI TRÕ TÁC ĐỘNG CỦA TTCK PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG VỚI PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH 82
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TTCK TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NH P 92
Chƣơng 3. TỔNG QUAN VỀ CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG
KINH TẾ THẾ GIỚI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TÍNH
BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 102
3.1. ĐẠI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GỚI 1929-1933 102
3.2. KHỦNG HOẢNG TTCK MỸ 1987 104
3.3. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHÂU Á 1997 106
3.4. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008 110
2
3.5. NHỮNG BÀI HỌC RÖT RA TỪ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TÍNH BỀN VỮNG CỦA THỊ
TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 121
Phần 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2001-2010 123
Chƣơng 1. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA các nhân tỐ ẢNH
HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2001-2010 123
1.1. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG ẢNH HƢỞNG CỦA MÔI TRƢỜNG
NGOÀI NƢỚC ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TTCK VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2001-2010 123
1.2. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG ẢNH HƢỞNG CỦA MÔI TRƢỜNG
TRONG NƢỚC ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TTCK VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2001-2010 127
Chƣơng 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2010 139
2.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TẠO HÀNG HÓA
CHO THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 139
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CẦU
CHỨNG KHOÁN TRÊN TTCK VIỆT NAM 162
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁC
TRUNG GIAN TÀI CHÍNH THAM GIA TTCK 180
2.4. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ VÀ
GIÁM SÁT TTCK VIỆT NAM 191
Chƣơng 3. ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA THỊ
TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2001-2010 THÔNG QUA CÁC TIÊU CHÍ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 205
3.1. ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA TTCK VIỆT
NAM THÔNG QUA CÁC TIÊU CHÍ ĐỊNH TÍNH 205
3.2. ĐÁNH GIÁ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA TTCK
VIỆT NAM THÔNG QUA CÁC TIÊU CHÍ ĐỊNH LƢỢNG 216
3
Phần 3. HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 227
Chƣơng 1. BỐI CẢNH, QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 227
1.1. BỐI CẢNH KINH TẾ TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC TÁC
ĐỘNG ẢNH HƢỞNG ĐẾN TÍNH BỀN VỮNG CỦA TTCK
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2020 227
1.2. CÁC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG CỦA TTCK VIỆT NAM GIAI ĐOẠN ĐẾN 2020 235
1.3. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN TTCK BỀN
VỮNG GIAI ĐOẠN ĐẾN 2020 Ở VIỆT NAM 243
Chƣơng 2. HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 249
2.1. CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG
LU T PHÁP VÀ TÁI CẤU TRÖC THỊ TRƢỜNG CHỨNG
KHOÁN 249
2.2. CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CUNG
CHỨNG KHOÁN 262
2.3. CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CẦU
CHỨNG KHOÁN 273
2.4. CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC
TỔ CHỨC THAM GIA TTCK 281
2.5. CÁC GIẢI PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ,
GIÁM SÁT TTCK VIỆT NAM 286
KẾT LUẬN 293
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 297
PHỤ LỤC 300
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN Hiệp hội các nƣớc Đông Nam Á
BIDV Ngân hàng đầu tƣ và phát triển Việt Nam
CCQĐT Chứng chỉ quỹ đầu tƣ
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
CNY Đồng Nhân dân tệ
CNTT Công nghệ thông tin
CPH Cổ phần hóa
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK Chính sách tài khóa
CSTT Chính sách tiền tệ
CTCK Công ty chứng khoán
CTCP Công ty cổ phần
CTNY Công ty niêm yết
CTQLQ Công ty quản lý quỹ
DNĐTNN Doanh nghịêp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài
DNNN Doanh nghiệp nhà nƣớc
DNV&N Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DNTN Doanh nghiệp tƣ nhân
ĐTPT Đầu tƣ phát triển
ECB Ngân hàng trung ƣơng Châu Âu
EU Liên minh Châu Âu
FED Cục dự trữ liên bang Mỹ
FDI Vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
FPI Vốn đầu tƣ gián tiếp nƣớc ngoài
GDCK Giao dịch chứng khoán
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GTGT Gía trị gia tăng
HĐH Hiện đại hóa
HĐND Hội đồng nhân dân
HĐQT Hội đồng quản trị
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
IPO Hoạt động phát hành chào bán chứng khoán
M2 Tổng phƣơng tiện thanh toán
MB Tiền cơ bản
MT Mục tiêu
NDA Tài sản có trong nƣớc ròng
NĐTNN Nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
NĐTTN Nhà đầu tƣ trong nƣớc
NER Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
5
NFA Tài sản có ngoại tệ ròng
NHCT Ngân hàng Công thƣơng
NHNo Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHNN Ngân hàng nhà nƣớc
NHTM Ngân hàng thƣơng mại
NHTMNN Ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc
NHTMCP Ngân hàng thƣơng mại cổ phần
NHTW Ngân hàng trung ƣơng
NSĐP Ngân sách địa phƣơng
NSNN Ngân sách nhà nƣớc
NSTW Ngân sách Trung ƣơng
QĐTCK Quỹ Đầu tƣ chứng khoán
REPO Giao dịch mua có kỳ hạn
SGDCK Sở Giao dịch chứng khoán
SWAP Hoán đổi
TBCN Tƣ bản chủ nghĩa
TCT Tổng công ty
TCTD Tổ chức tín dụng
TĐCN Tập đoàn công nghiệp
TNCN Thu nhập cá nhân
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TPCP Trái phiếu Chính phủ
TPCQĐP Trái phiếu chính quyền địa phƣơng
TTCK Thị trƣờng chứng khoán
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTLKCK Trung tâm lƣu ký chứng khoán
TTTC Thị trƣờng tài chính
TTTD Thị trƣờng tín dụng
TTTT Thị trƣờng tiền tệ
UBCK Ủy ban Chứng khoán
UBCKNN Ủy ban Chứng khoán nhà nƣớc
UBGSTCQG Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia
USD Đô la Mỹ
VND Đồng Việt Nam
VPĐD Văn phòng đại diện
WTO Tổ chức Thƣơng mại thế giới
XDCB Xây dựng cơ bản
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XNK Xuất nhập khẩu
6
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Giữa TTCK và tăng trƣởng, phát triển nền kinh tế xã hội có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sự phát triển bền
vững của TTCK tạo cơ sở để thúc đẩy tăng trƣởng, phát triển nền kinh tế
xã hội thông qua việc thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tƣ
trong nền kinh tế; ngƣợc lại sự phát triển và tăng trƣởng hiệu quả của nền
kinh tế cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của TTCK.
Thực tiễn thế giới đã chỉ ra rằng, sự phát triển không bền vững của
TTCK là nhân tố chủ yếu gây nên những bất ổn của kinh tế khu vực và
toàn cầu. Cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933), khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á (1997) và khủng hoảng tài chính toàn cầu
(2008) là những minh chứng rõ rệt về sự cần thiết phải phát triển bền vững
TTCK.
Ở nƣớc ta, sau 10 năm hình thành và phát triển TTCK tập trung, vai
trò và sự đóng góp của TTCK trong việc phát triển kinh tế - xã hội ngày
càng tăng lên. Đặc biệt, trong năm 2006 sự phát triển của TTCK đã có tác
động rất tích cực đến tiến trình CPH DNNN, thu hút FPI và kích thích đầu
tƣ trong nƣớc để tăng trƣởng kinh tế. Sự phát triển của TTCK ở nƣớc ta đã
làm thay đổi cơ bản về nhận thức và cả trong hoạt động thực tiễn đối với
việc huy động vốn cho đầu tƣ phát triển kinh tế-xã hội. Song từ sau năm
2008 đến nay, TTCK Việt Nam diễn biến khá phức tạp với những biến
động không bình thƣờng và đã có nhiều tác động ảnh hƣởng bất lợi đối với
đời sống kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Một trong những yêu cầu đặt ra đối
với TTCK Việt Nam hiện nay là đảm bảo cho thị trƣờng phát triển một
cách an toàn, bền vững, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các bất ổn và
những hiện tƣợng tiêu cực trên thị trƣờng, có các biện pháp phòng ngừa
hữu hiệu đối với nguy cơ khủng hoảng của TTCK. Đặc biệt, trong bối cảnh
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và thị
trƣờng tài chính quốc tế, thì vấn đề phát triển an toàn, bền vững TTCK
Việt Nam, hạn chế tối đa các tác động tiêu cực từ bên ngoài càng trở thành
vấn đề đáng đƣợc quan tâm.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, việc nghiên cứu tổng kết lý luận và thực
tiễn về sự phát triển bền vững TTCK Việt Nam là một đòi hỏi cấp thiết của
hoạt động khoa học và hoạch định chính sách kinh tế. Mục đích của công
trình này là tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
phát triển an toàn và bền vững TTCK, xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá
mức độ bền vững của TTCK nói chung, đồng thời tiến hành tổng kết, đánh
giá chính sách phát triển bền vững TTCK ở nƣớc ta trong hoạt động thực
7
tiễn, chỉ rõ những bất cập và những hạn chế về các điều kiện để TTCK
phát triển bền vững, trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và phƣơng hƣớng
hoàn thiện chính sách và giải pháp đảm bảo cho sự phát triển an toàn, bền
vững của TTCK Việt Nam đến năm 2020.
Hoàn thành mục tiêu đó, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ có
ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận: đề tài góp phần tổng kết lý luận, phân tích để hình
thành những tiêu chí đánh giá mức độ bền vững của TTCK trong nền kinh
tế thị trƣờng hiện đại.
- Về thực tiễn: Dựa trên cơ sở lý luận về phát triển bền vững đối với
TTCK nói chung, đề tài đánh giá mức độ bền vững của TTCK Việt Nam
thời gian qua; đề xuất hệ thống chính sách và giải pháp có hiệu quả đảm sự
phát triển an toàn và bền vững của TTCK Việt Nam, góp phần tăng trƣởng
kinh tế bền vững trong giai đoạn đến năm 2020.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
Nước ngoài
Các nghiên cứu lý thuyết về TTCK nói riêng, thị trƣờng vốn nói
chung đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học kinh tế nƣớc
ngoài. TTCK đƣợc coi là một thể chế bậc cao và không thể thiếu của kinh
tế thị trƣờng hiện đại. TTCK là một kênh huy động vốn chủ đạo để phát
triển nền kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển không bền vững của thị TTCK
lại là nhân tố chủ yếu gây nên những bất ổn của kinh tế khu vực và toàn
cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á (1997) là một minh chứng
rất rõ ràng cho sự cần thiết phải phát triển bền vững TTCK. Gần đây đã
xuất hiện khá nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về TTCK, trong đó
có một số nghiên cứu tiêu biểu nhƣ:
- Nghiên cứu của Peter S. Rose về ―Tiền tệ và thị trường vốn: Hệ
thống tài chính trong nền kinh tế toàn cầu‖ (1992, tái bản lần thứ tƣ) và
công trình nghiên cứu về ―Tài liệu dùng cho khoá đào tạo ở Việt Nam:
TTCK‖ của SGDCK Hàn Quốc (1995)…Các công trình này tập trung phân
tích những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển TTCK trong nền kinh tế
quốc dân, trong đó chú ý nhiều đến khía cạnh cơ cấu tổ chức, quản lý và
giám sát thị trƣờng. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết các công trình này chƣa đề
cập đến vấn đề phát triển bền vững TTCK.
- Các nghiên cứu gần đây của các tác giả Hamid Mohtadi và Sumit
Agarwal trong tác phẩm ―Sự phát triển TTCK và tăng trưởng kinh tế: Bằng
chứng từ các nước đang phát triển‖ và của tác giả Salvatore Capasso với
công trình ―Sự phát triển TTCK và tăng trưởng kinh tế‖ (2006) đã sử dụng
phƣơng pháp mô hình kinh tế lƣợng để chứng minh về mối quan hệ giữa
8
sự phát triển của TTCK và tăng trƣởng kinh tế với những ví dụ cụ thể của
các quốc gia đang phát triển. Kết luận đƣợc rút ra là giữa sự phát triển của
TTCK và tăng trƣởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết. Tuy vậy, công
trình cũng chƣa chỉ rõ các nhân tố phát triển bền vững TTCK.
Về các nghiên cứu thực tiễn sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ
Châu Á, nhiều quốc gia ở Châu Á đã tiến hành nghiên cứu, phân tích và
đánh giá sự phát triển của thị trƣờng vốn, TTCK của mỗi quốc gia để đƣa
ra các định hƣớng chính sách, trong đó tiêu biểu là:
- Uỷ ban Chứng khoán Thái Lan với công trình nghiên cứu có tiêu
đề ―Thập kỷ đầu tiên của Uỷ ban Chứng khoán Thái Lan và thị trường vốn
ở Thái Lan (1992 – 2000)‖, trong đó đã phân tích một cách toàn diện, đầy
đủ sự phát triển của thị trƣờng vốn, TTCK ở Thái Lan trong vòng một thập
kỷ (1992 – 2002), đánh giá những tác động của hệ thống tổ chức bộ máy
quản lý, giám sát đối với sự phát triển của thị trƣờng, hệ thống luật pháp
điều chỉnh hoạt động của thị trƣờng…, trên cơ sở đó chỉ rõ những thách
thức và mục tiêu cần giải quyết trong tƣơng lai nhằm thúc đẩy thị trƣờng
vốn, TTCK Thái Lan phát triển hiệu quả và minh bạch.
- Uỷ ban Chứng khoán Malaysia với nghiên cứu khá công phu về
―Kế hoạch cấp cao thị trường vốn Malaysia‖, trong đó phân tích xu hƣớng
phát triển của thị trƣờng vốn, TTCK Malaysia trong giai đoạn từ những
năm 1970 đến năm 2000, làm rõ những thách thức trong quá trình phát
triển của của thị trƣờng vốn, TTCK Malaysia, từ đó đề xuất tầm nhìn chiến
lƣợc với việc xây dựng hệ thống mục tiêu và các giải pháp thực thi để đạt
đƣợc các mục tiêu tăng trƣởng kinh tế cao.
Sự hình thành và phát triển của TTCK ở Trung Quốc cũng thu hút
sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới:
- Tác giả Stephen Paul Green với nghiên cứu ―Sự phát triển TTCK
Trung Quốc giai đoạn 1984 – 2002: Vấn đề chính trị trong công tác cổ
phần hoá và thể chế thị trường‖ đã làm rõ những chủ trƣơng, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc Trung Quốc đối với công tác cổ phần hoá, tạo
nguồn hàng cho sự phát triển TTCK của Trung Quốc; phân tích những vấn
đề về thể chế trong quá phát triển TTCK ở Trung Quốc.
- Tháng 9/2002, Trung tâm nghiên cứu Đông Á và Thái Bình
Dƣơng thuộc Trƣờng Đại học Trier đã công bố một công trình nghiên cứu
của Sebastian Heilmann về TTCK Trung Quốc. Mặc dù các công trình này
nghiên cứu khá toàn diện về sự phát triển TTCK Trung Quốc trên tất cả
các khía cạnh, đặc biệt là vấn đề thể chế và tổ chức thị trƣờng, song những
vấn đề phát triển bền vững TTCK còn chƣa đƣợc nghiên cứu đậm nét. Tuy
vậy, việc tổng hợp, phân tích và đúc rút những kinh nghiệm và bài học của
từng quốc gia là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoạch định
9
chính sách phát triển TTCK Việt Nam.
Ở trong nước
Lĩnh vực chứng khoán và phát triển TTCK ở Việt Nam đã thu hút
sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong thời gian từ những
năm 1990 trở lại đây. Trong số đó có thể liệt kê một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu nhƣ: SGDCK và vai trò kiểm soát của tài chính Việt Nam
(1992) của GS. Võ Đình Hảo (Viện Khoa học Tài chính); Quỹ đầu tư - tổ
chức hoạt động và khả năng thành lập ở Việt Nam (1995) của PGS.TS
Nguyễn Công Nghiệp (Viện Khoa học Tài chính); Thị trường và SGDCK
(1995) của TS. Lê Xuân Nghĩa; Phát triển thị trường vốn và hình thành
TTCK ở Việt Nam (1996) của Trần Hồng Hạnh… Bên cạnh đó, các cơ sở
giáo dục – đào tạo cũng xuất bản giáo trình để cho giảng dạy cho sinh viên
nhƣ Trƣờng đại học Tài chính – Kế toán Hà Nội (hiện nay là Học viện Tài
chính) đã xuất bản cuốn ―Giáo trình TTCK‖ (2000); ―Giáo trình Thị
trường Vốn‖ của Trƣờng Đào tạo và Bồi dƣỡng nghiệp vụ ngân hàng
(1995)...
Gần đây xuất hiện một số nghiên cứu nổi bật nhƣ:
- Các công trình ―Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK‖
(2002) của TS. Đào Lê Minh; ―TTCK trong nền kinh tế chuyển đổi‖ (2006)
của TSKH. Nguyễn Minh Đức đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về
chứng khoán và TTCK nhƣ: khái niệm, chức năng, vai trò, tổ chức và cơ
chế hoạt động, quản lý và giám sát, sự cần thiết và điều kiện hình thành,
phát triển TTCK ở Việt Nam…Tuy nhiên, các công trình này chƣa chú
trọng nhiều đến vấn đề phát triển an toàn và bền vững TTCK, nhất là trong
điều kiện Việt Nam tham gia hội nhập toàn cầu.
Sau khi TTCK tập trung – TTSGDCK TP. Hồ Chí Minh (nay là
SGDCK TP. Hồ Chí Minh) chính thức khai trƣơng hoạt động vào năm
2000, nhiều công trình nghiên cứu thực tiễn về lĩnh vực chứng khoán và
TTCK đã đƣợc thực hiện. Một số công trình tiêu biểu nhƣ:
- Nghiên cứu của TS. Đinh Văn Nhã (Viện Khoa học Tài chính) về
―Hệ thống giải pháp thúc đẩy phát triển thị trƣờng vốn và thị trƣờng dịch
vụ tài chính Việt Nam‖ (Đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tài chính – 2003) đã
đánh giá khá toàn diện sự phát triển của TTCK Việt Nam trong những
2000-2002 và đƣa ra giải pháp tiếp tục phát triển thị trƣờng tài chính, thị
trƣờng vốn Việt Nam.
- Công trình ―Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động TTCK ở Việt Nam
hiện nay: Nguyên nhân và giải pháp khắc phục‖ (Đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ
Tài chính, 2003) của Ths. Phạm Phan Dũng đã phân tích đƣợc một số nhân
tố cơ bản tác động đến sự phát triển của TTCK Việt Nam nhƣ: hàng hoá
vừa thiếu lại kém chất lƣợng, nhà đầu nhỏ và thiếu hiểu biết, hệ thống luật
10
pháp chƣa hoàn thiện… Trên cơ sở đó, công trình đã đề xuất hệ thống giải
pháp để giải quyết những vấn đề đang đặt ra tại thời điểm đó.
- Nghiên cứu về ―Hàng hoá cho TTCK Việt Nam – Thực trạng và
một số giải pháp phát triển‖ của tác giả Vũ Thị Kim Liên (Đề tài NCKH
cấp ngành, UBCKNN, 2006) đã đánh giá về thực trạng công tác CPH
DNNN và tạo hàng hoá chất lƣợng cho sự phát triển TTCK. Công trình
nghiên cứu tập trung chủ yếu vào nội dung thúc đẩy và nâng cao hiệu quả
công tác CPH DNNN và khuyến nghị giải pháp tiếp tục gắn kết giữa CPH
DNNN với công tác tạo hàng cho TTCK.
Tuy nhiên, những vấn đề mà các công trình nghiên cứu nói trên
thƣờng mang tính ngắn hạn, chƣa giải quyết thỏa đáng vấn đề phát triển
bền vững TTCK trong dài hạn.
Bên cạnh đó, cũng xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về từng
khía cạnh nhất định trong tổng thể TTCK nhƣ:
- ―Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu chính phủ ở Việt Nam‖
(Viện Khoa học Tài chính, 2004) của Ths. Lê Tiến Phúc;
- ―Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu chính phủ để bù đắp
thiếu hụt NSNN và góp phần kiềm chế lạm phát” (Đề tài NCKH cấp Bộ,
Bộ Tài chính, 2006) của TS. Lê Văn Hƣng.
- ―Điều tra, đánh giá các điều kiện tổ chức và vận hành TTCK ở
Việt Nam‖ (2002) của TS. Đào Lê Minh;
- ―Mô hình tổ chức và hoạt động của Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN‖ (2001) của Nguyễn
Tƣ Nguyên;
- ―Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
TTCK Việt Nam‖ (2001) của Hoàng Đức Long;
- ―Sự hình thành và phát triển TTSGDCK Hà Nội‖ (2001) của
Hoàng Trung Trực;
- ―Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống luật pháp đảm bảo
tính đồng bộ cho sự phát triển của thị trường tài chính và dịch vụ tài
chính‖ (Đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tài chính, 2002) của TS. Nguyễn Trọng
Nghĩa;
- ―Mô hình chính sách thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng
khoán và tín dụng thương mại ở Việt Nam‖ (Đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tài
chính, 2004) của TS. Đỗ Thị Thìn;
- ―Phát triển thị trường vốn, thị trường dịch vụ tài chính đến năm
2010‖ của Th.S Phạm Phan Dũng (Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính 2006);
11
- ―Xây dựng lộ trình tổng thể về phát triển và hoàn thiện TTCK đến
2010‖ của TS. Vũ Bằng (Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính 2006);
- ―Xây dựng Luật chứng khoán ở Việt Nam‖ (Đề tài NCKH cấp Bộ,
Bộ Tài chính, 2006) của TS. Nguyễn Thế Thọ…
Nhìn chung các công trình này đã phân tích, đánh giá thực trạng
công tác tổ chức, quản lý, hệ thống khung luật pháp đối với hoạt động của
TTCK. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nƣớc đối với TTCK, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực hệ thống
luật pháp điều chỉnh hoạt động của TTCK, đồng thời tăng cƣờng hiệu quả
quản lý và giám sát TTCK ở nƣớc ta trong bối cảnh hội nhập..
Tuy nhiên, các công trình trên mới chủ yếu kiến nghị các giải pháp
giải quyết các tồn tại đang đặt ra đối với sự phát triển của TTCK Việt Nam.
Mặt khác, những vấn đề liên quan đến tính ổn định, an toàn và bền vững
của TTCK chƣa đƣợc chú ý thích đáng.
Bên cạnh đó, các tổ chức tài chính quốc tế cũng đã có một số công
trình nghiên cứu đƣa ra những kiến nghị giải pháp đối với sự phát triển của
TTCK Việt Nam trong ngắn hạn và trung hạn, tiêu biểu là:
- Nghiên cứu về ―Cổ phần hóa và sự phát triển của TTCK – Kinh
nghiệm của Việt Nam‖ của Rijksuniversiteit Groningen (6/2006) đã phân
tích những kết quả đạt đƣợc của tiến trình CPH các DNNN gắn với niêm
yết trên TTCK và coi đó là một yếu tố quan trọng tăng trƣởng nhanh
TTCK Việt Nam trong những năm 2005-2006.
- Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới ―Tổng quan về thị trƣờng vốn
của Việt Nam và các định hƣớng phát triển‖ (5/2006) phân tích sự phát
triển của TTCK Việt Nam trong mối liên hệ với thị trƣờng vốn, để đề xuất
hệ thống các khuyến nghị tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt
Nam trong tƣơng lai gần.
Qua phân tích tổng quan về các công trình nghiên cứu trong và
ngoài nƣớc trong lĩnh vực TTCK cho thấy: đến nay vẫn chƣa có công trình
nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện các vấn lý luận về sự phát
triển bền vững của TTCK để trả lời các câu hỏi: Thế nào là phát triển bền
vững TTCK? Các tiêu chí phát triển bền vững TTCK là gì? Các nguyên tắc
và điều kiện nào được đặt ra để đảm bảo phát triển bền vững TTCK? Nhà
nước cần sử dụng những chính sách và công cụ nào để đảm bảo phát triển
bền vững TTCK?
Bên cạnh đó, những nghiên cứu thực tiễn lại chƣa chỉ rõ một cách
có hệ thống các tiêu chí phát triển bền vững TTCK ở nƣớc ta trong những
năm qua.
12
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu đó, cho phép kết luận rằng: việc
nghiên cứu đề tài ―Chính sách và giải pháp phát triển bền vững TTCK Việt
Nam đến năm 2020” ở phạm vi cấp Nhà nƣớc nằm trong Chƣơng trình
nghiên cứu ―Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Việt Nam đến
năm 2020‖ là rất cần thiết.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Đề xuất hệ thống chính sách và giải pháp nhằm đảm bảo sự phát
triển bền vững của TTCK Việt Nam đến năm 2020.
Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển an
toàn và bền vững TTCK, hệ thống hoá và xác định các tiêu chí đánh giá
mức độ bền vững của TTCK nói chung và xây dựng hệ thống tiêu chí đánh
giá mức độ bền vững của TTCK Việt Nam, đồng thời nghiên cứu làm rõ
hệ thống điều kiện đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững của TTCK
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
- Trên cơ sở khảo sát và nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về việc
phát triển bền vững TTCK của một số quốc gia trên thế giới (chú trọng
nghiên cứu một số trƣờng hợp điển hình và các nƣớc có điều kiện tƣơng
đồng nhƣ Việt Nam), rút ra những bài học về phát triển bền vững TTCK ở
nƣớc ta trong giai đoạn đến năm 2020;
- Thông qua khảo sát thực tiễn quản lý và vận hành TTCK Việt
Nam, tổng kết, đánh giá chính sách phát triển TTCK ở nƣớc ta trong thời
gian qua, đề tài đi sâu phân tích và đánh giá mức độ bền vững của TTCK
Việt Nam, nhận dạng những dấu hiệu phát triển không bền vững và
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khuyếm khuyết trong cơ chế, chính
sách và quản lý vận hành thị trƣờng, chỉ rõ những bất cập về các điều kiện
để TTCK phát triển bền vững ở nƣớc ta.
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm và xu hƣớng phát triển kinh tế,
chính trị, xã hội trong và ngoài nƣớc ảnh hƣởng đến sự phát triển của
TTCK Việt Nam, dự báo xu hƣớng phát triển của TTCK Việt Nam đến
2020, đề tài đề xuất các quan điểm và phƣơng hƣớng hoàn thiện cơ chế,
chính sách, giải pháp đảm bảo cho sự phát triển an toàn, bền vững của
TTCK Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 đồng thời xây dựng lộ trình và
các điều kiện thực hiện các giải pháp đề xuất.
4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cách tiếp cận nghiên cứu
Nội dung quan trọng nhất của đề tài là làm rõ những vấn đề cơ sở lý
13
luận và thực tiễn của hệ thống cơ chế chính sách gắn với sự phát triển bền
vững của TTCK Việt Nam. Vì vậy cách tiếp cận của đề tài bao gồm:
Một là, tính bền vững của TTCK sẽ đƣợc xem xét trong mối quan
hệ biện chứng giữa TTCK với hoạt động của nền kinh tế.
TTCK có chức năng và vai trò quan trọng trong việc huy động các
nguồn lực của xã hội để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã
hội. Do đó, sự phát triển an toàn và bền vững của TTCK có mối quan hệ
chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau với tăng trƣởng, phát triển nền kinh
tế-xã hội. Sự phát triển an toàn và bền vững của TTCK tạo điều kiện thúc
đẩy tăng trƣởng, phát triển nền kinh tế xã hội thông qua việc thúc đẩy và
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tƣ trong nền kinh tế; Ngƣợc lại sự phát
triển và tăng trƣởng của nền kinh tế là điều kiện quan trọng để phát triển an
toàn và bền vững TTCK.
Do đó, xem xét tính bền vững của TTCK phải gắn với sự tăng
trƣởng bền vững của nền kinh tế.
Hai là, TTCK là một bộ phận quan trọng của TTTC, có mối quan
hệ biện chứng với các bộ phận của TTTC và có mối quan hệ qua lại tác
động lẫn nhau với các thị trƣờng khác trong hệ thống KTTT, trong đó
TTCK là một sản phẩm phát triển bậc cao của KTTT, mọi biến động và đổ
vỡ của TTCK có thể ảnh hƣởng đến các bộ phận thị trƣờng khác. Đồng
thời sự phát triển an toàn và bền vững của các thị trƣờng khác sẽ tạo điều
kiện để TTCK phát triển bền vững.
Ba là, trong bản thân nội tại TTCK, sự phát triển bền vững của nó
lại phụ thuộc vào các cơ cấu, các thiết chế và các bộ phận hợp thành. Vì
vậy, để TTCK phát triển bền vững, đòi hỏi các cơ cấu bộ phận cũng phải
có tính bền vững. Vì thế cơ chế và chính sách phát triển TTCK cũng phải
có tính hệ thống.
Bốn là, trong điều kiện hội nhập về tài chính tiền tệ, TTTC Việt
Nam nói chung và TTCK Việt Nam nói riêng trở thành một bộ phận của
TTTC toàn cầu, sự giao thoa và xâm nhập của TTTC thế giới và thị trƣờng
tài chính Việt Nam là điều khó tránh khỏi.
Trong bối cảnh đó, mọi biến động và đổ vỡ của TTTC thế giới có
thể ảnh hƣởng nhanh chóng đến TTTC Việt Nam và ngƣợc lại. Vì vậy,
tính bền vững của TTCK Việt Nam phải đƣợc xem xét trong mối quan hệ
qua lại đó, để tranh thủ những nhân tố thuận lợi, gạt bỏ những mâu thuẫn
bất cập để TTCK trong nƣớc phát triển an toàn và hiệu quả.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đi từ việc hệ thống hoá cơ sở lý luận về phát triển bền vững
TTCK để làm rõ bản chất, đặc trƣng và các tiêu chí phát triển bền vững
14
làm cơ sở so sánh đánh giá sự bền vững của TTCK Việt Nam.
Đề tài sử dụng các phƣơng pháp truyền thống nhƣ tổng hợp, phân
tích, so sánh trên nền tảng của phép duy vật biện chứng, đồng thời tiến
hành điều tra khảo sát thực tiễn và phỏng vấn chuyên gia. Phƣơng pháp
phân tích bằng mô hình cũng đƣợc sử dụng để đánh giá tính hiệu quả của
sự phát triển bền vững TTCK với tăng trƣởng và phát triển nền kinh tế-xã
hội.
Bố cục của đề tài
Đề tài đƣợc bố cục thành 3 phần:
Phần 1: Những vấn đề lý luận về phát triển bền vững TTCK.
Phần 2: Đánh giá thực trạng chính sách phát triển bền vững TTCK
Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
Phần 3: Hệ thống chính sách và giải pháp phát triển bền vững
TTCK Việt Nam đến năm 2020.
15
Phần 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm TTCK phát triển bền vững
1.1.1.1 Phát triển bền vững
Nói đến khái niệm phát triển bền vững, chúng ta thƣờng liên tƣởng
đến sự phát triển ổn định, sự phát triển không có đổ vỡ. Tuy nhiên, phát
triển bền vững không chỉ là phát triển ổn định, không có đổ vỡ mà là một
khái niệm rộng hơn, trong đó thể hiện các mối quan hệ đã đƣợc bàn nhiều
trong kinh tế học - đó là quan hệ giữa nhu cầu (demand) của con ngƣời và
các nguồn lực (resources) tự nhiên và xã hội. Nhu cầu của con ngƣời thì
dƣờng nhƣ vô hạn song các nguồn lực lại hữu hạn. Vì thế, sự tồn tại của
loài ngƣời và sự phát triển của bất kỳ một nền kinh tế nào đều phải tính đến
sự cân bằng giữa nhu cầu ngày càng tăng và nguồn lực ngày càng khan
hiếm.
Theo định nghĩa của Ủy ban Brudlant, ―Phát triển bền vững là sự
phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại khả
năng đáp ứng những nhu cầu đó của những thế hệ tương lai”. Khái niệm
này bao gồm trong nó hai cấu thành cơ bản khác nhau:
- Nhu cầu, đặc biệt là nhu cầu thiết yếu của những người nghèo
trên thế giới và phải được đặt lên ưu tiên hàng đầu; và
- Sự hữu hạn của năng lực môi trường, bị áp đặt bởi điều kiện công
nghệ và tổ chức xã hội, để đáp ứng những nhu cầu hiện tại và tương lai.
Nhƣ vậy, phát triển bền vững đƣợc hiểu là sự phát triển về mọi mặt
trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tƣơng lai xa.
Hay nói cách khác, sự phát triển bền vững luôn đƣợc xem xét trong cả quá
trình theo không gian và thời gian, tức là một nền kinh tế, một thị trƣờng,
một tổ chức đều là một hệ thống với những mối quan hệ tƣơng tác nội tại:
- Tương tác không gian giữa các khu vực trên thế giới, các khu vực
của nền kinh tế, của thị trƣờng, các bộ phận của một tổ chức;
16
- Tương tác thời gian giữa hiện tại và tƣơng lai của thế giới, nền
kinh tế, thị trƣờng hay tổ chức đó.
Khi ta nhìn nhận một doanh nghiệp nhƣ một hệ thống theo trục
không gian, ta sẽ nhận thấy rằng sự thiếu hiệu quả của bộ phận kinh doanh
sẽ khiến cho một số nhân viên văn phòng mất việc đầu tiên. Yếu kém của
bộ phận kinh doanh chắc chắn sẽ dẫn đến sự suy giảm trầm trọng trong
doanh thu, khiến công ty phải thu hẹp sản xuất và những nhân viên ở
những bộ phận kém quan trọng hơn là những đối tƣợng bị sa thải trƣớc hết.
Trên thị trƣờng tài chính, cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997
cho thấy trào lƣu vay ngắn hạn để đầu tƣ dài hạn trên thị trƣờng bất động
sản của các nƣớc Châu Á đã dẫn đến hiện tƣợng đào thoát vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài trên TTCK và sự suy giảm trầm trọng giá trị các đồng tiền Châu Á
trên thị trƣờng ngoại hối. Đây chính là một ví dụ sinh động về tƣơng tác
không gian trong hệ thống tài chính. Gần gũi hơn nữa là một ví dụ về
TTCK phái sinh: Lịch sử thị trƣờng hợp đồng tƣơng lai của thế giới đã
chứng kiến vụ nổ nhà máy điện nguyên tử Trernobun xảy ra tại Liên bang
Xô viết cũ là nguyên nhân khiến các nhà kinh doanh hợp đồng tƣơng lai
lúa mỳ nhạy bén tại Mỹ thu lời lớn. Ngay sau khi vụ nổ xảy ra, nhiều
ngƣời nghĩ đến việc đầu cơ dầu mỏ và các loại năng lƣợng thay thế khác.
Tuy nhiên, một số nhà kinh doanh hợp đồng tƣơng lai Mỹ lại chọn lúa mỳ.
Lý do rất đơn giản, Liên bang Xô viết trƣớc đây là nhà xuất khẩu lúa mỳ
chủ yếu trên thế giới, khi sự cố nguyên tử xảy ra, những nƣớc nhập khẩu
lúa mỳ đã chuyển hƣớng thị trƣờng nhập khẩu của họ sang các nƣớc khác
do lo ngại về những hậu quả của vụ nổ nguyên tử. Nhu cầu lúa mỳ của các
nƣớc này dĩ nhiên lớn hơn rất nhiều nhu cầu năng lƣợng để bù vào sản
lƣợng điện thiếu hụt của Liên Xô và vì thế giá hợp đồng tƣơng lai lúa mỳ
tăng vọt. Đó là những trƣờng hợp điển hình về tƣơng tác không gian, hay
chính xác là mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận cấu thành của một tổ
chức, một thị trƣờng hay nền kinh tế.
Tương tác thời gian là tƣơng tác dễ nhận thấy hơn mặc dù cần có
thời gian để có thể nhận ra chúng. Khi xem xét thế giới nhƣ là một hệ
thống theo trục thời gian, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng những thông lệ
của cha ông chúng ta ngày xƣa trong việc canh tác quyết định diện mạo bề
mặt trái đất của chúng ta ngày hôm nay. Những chính sách kinh tế ngày
hôm nay của chúng ta đang để lại gánh nặng nợ nần cho con cháu chúng ta
mai sau. Bám theo trục thời gian này, ta sẽ nhận thấy sai lầm ngày hôm
nay của một thị trƣờng hay nền kinh tế thƣờng mất nhiều ngày, nhiều
tháng hoặc nhiều năm sau để ngƣời ta trả giá, khi những rủi ro và hậu quả
của sai lầm đó hoàn toàn bộc lộ dƣới dạng khủng hoảng. Nếu chỉ đuổi theo
những lợi ích ngắn hạn mà quên đi những lợi ích dài hạn thì một tổ chức,
một thị trƣờng hay một nền kinh tế sẽ không đảm bảo đƣợc sự phát triển và
tăng trƣởng dài lâu. Ở đây, ý nghĩa ―dài hạn‖ thể hiện rõ nhất thuộc tính
17
của phát triển bền vững. Lấy cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 2008 ở Mỹ
làm ví dụ, ta có thể thấy: Những sai lầm về mặt quan điểm chính sách (nới
lỏng quản lý, thiếu giám sát rủi ro, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nƣớc và
khuyến khích tự nguyện trong công bố thông tin) trong quản lý TTTC đã
khiến cho những công cụ phái sinh tín dụng mà hơn một thập kỷ trƣớc đây
đƣợc ca ngợi nhƣ là những phát minh trong đa dạng hóa rủi ro trên TTTC
nay lại đƣợc Warrant Buffett gọi là ―financial weapon of mass destruction‖
(vũ khí tài chính hủy diệt hàng loạt).
Khái niệm phát triển bền vững ngày nay đƣợc hiểu nhƣ là một hệ
thống với hai chiều không gian và thời gian đƣợc đặt trong khuôn khổ
những vấn đề chung của cả thế giới và mỗi quốc gia trong môi trƣờng kinh
tế, chính trị và xã hội với mục tiêu bền vững.
1.1.1.2 Phát triển bền vững TTCK
Thị trƣờng tài chính, TTCK cũng nhƣ mọi bộ phận khác của một
nền kinh tế đều chịu tác động của quy luật phản ánh mối quan hệ cân bằng
giữa nhu cầu ngày càng tăng và nguồn lực ngày càng khan hiếm. Do đó, sự
phát triển bền vững của TTCK là sự đòi hỏi cần thiết mang tính quy luật.
Cũng giống nhƣ khái niệm phát triển bền vững nói chung, sự phát
triển bền vững của TTCK đƣợc hiểu là sự phát triển ổn định, sự phát triển
không có đổ vỡ. Tuy nhiên, sự phát triển bền vững TTCK cũng có tính đặc
thù riêng.
Thứ nhất, sự phát triển bền vững TTCK phải đạt bằng sự có mặt đầy
đủ của ba nhân tố cấu thành chủ yếu. Ba nhân tố đó là:
- Thị trƣờng đầu tƣ phải bền vững: tức là phải xây dựng cơ cấu
TTCK hoàn chỉnh đồng bộ, các mối liên hệ giữa các bộ phận thị
trƣờng phải có sự tác động hỗ trợ bổ sung lẫn nhau để tạo ra cơ
cấu bền vững, không đổ vỡ.
- Hàng hóa bền vững: tức là phải cung cấp lƣợng hàng hóa cân đối
có chất lƣợng và phong phú để đáp ứng đủ nhu cầu đa dạng của
các nhà đầu tƣ.
- Cơ sở nhà đầu tƣ bền vững: tức là các nhà đầu tƣ có chất lƣợng,
lợi ích phải đƣợc bảo vệ, kết hợp đƣợc các mối quan hệ lợi ích
để phát huy các tiềm năng của thị trƣờng.
Thứ hai, các mối quan hệ bền vững giữa các yếu tố cấu thành bên
trong và các mối quan hệ bên ngoài.
Thứ ba, các yếu tố về thời gian, tức là sự bền vững giữa ngắn hạn và
dài hạn trong hoạt động của thị trƣờng.
18
Từ phƣơng diện đó có thể nhìn nhận TTCK phát triển bền vững nhƣ
sau:
Phát triển bền vững trên TTCK là sự phát triển đảm các mối quan
hệ hài hòa, lành mạnh và không loại trừ lẫn nhau giữa các mặt lợi ích của
bản thân TTCK và giữa TTCK với các khu vực khác của thị trường tài
chính, giữa nhu cầu hiện tại và khả năng phát triển trong tương lai.
Nhƣ vậy, sự phát triển bền vững TTCK là quá trình đảm bảo các
mối quan hệ tƣơng tác lành mạnh trong hệ thống TTCK nói chung và đảm
bảo tƣơng tác giữa không gian và thời gian.
Hình 1.1 Cơ cấu TTCK phát triển bền vững
Môi trường đầu
tư bền vững
Cơ sở nhà
đầu tư bền
vững
Hàng hóa
bền vững
TTCK phát triển bền vững
Sự đảm bảo tương tác không gian lành mạnh, nghĩa là đảm bảo mối
quan hệ và sự không loại trừ lẫn nhau về mặt lợi ích giữa các khu vực của
bản thân TTCK và giữa TTCK với các khu vực khác của thị trƣờng tài
chính; không thể vì lợi ích của một bộ phận thị trƣờng mà hy sinh lợi ích
của toàn bộ thị trƣờng. Sự đảm bảo tương tác thời gian lành mạnh, nghĩa là
đảm bảo mối quan hệ bền vững và lành mạnh giữa hiện tại và tƣơng lai.
Ngƣời ta không đƣợc phép hy sinh những lợi ích dài hạn của TTCK, của
tổng thể thị trƣờng tài chính để thực hiện những chính sách phát triển chỉ
mang lại những lợi ích trƣớc mắt cho một bộ phận thị trƣờng.
Do đó, khi nói đến sự phát triển bền vững của TTCK, về bản chất
không phải chỉ đề cập đến việc duy trì một tốc độ phát triển chậm và chắc
của thị trƣờng nhƣ nhiều ngƣời lầm tƣởng (đây chỉ là một cách hiểu phiến
diện về phát triển bền vững) mà là nói đến sự phát triển đảm bảo sự lành
19
mạnh, hƣớng đến việc giảm thiểu rủi ro theo hai trục thời gian và không
gian nhƣ đã đề cập ở trên. Phần dƣới đây phân tích phát triển bền vững
TTCK từ góc độ ba phạm trù bền vững để làm rõ hơn khái niệm này.
1.1.1.3 Phát triển TTCK và ba phạm trù bền vững
Sự phát triển bền vững của TTCK cũng cần đƣợc xem xét với ba
phạm trù: bền vững về môi trường (environmental sustainability), bền vững
về kinh tế (economic sustainability) và bền vững về chính trị xã hội (socio-
political sustainability). Có thể thấy, xuất phát từ các đặc điểm của TTCK
khiến việc phát triển bền vững TTCK đều có mối liên hệ gắn bó với cả ba
phạm trù bền vững, trong đó các phạm trù đều có mối liên hệ tác động qua
lại lẫn nhau.
Dƣới góc độ bền vững về kinh tế, sự phát triển của TTCK phải đảm
bảo rằng mọi hoạt động kinh tế đều phải đƣợc thiết lập và duy trì trên cơ sở
đảm bảo sự lành mạnh của các tƣơng tác thời gian và không gian. Trên
TTCK, các hoạt động nhƣ huy động vốn, chào bán chứng khoán, niêm yết,
công bố thông tin, ban hành quy định, cấp phép thành lập và hoạt động của
các định chế thị trƣờng đều đƣợc xem xét dƣới góc độ có đảm bảo sự phát
triển cân bằng giữa ngắn hạn và dài hạn, giữa một bộ phận của thị trƣờng
với các bộ phận khác hay không, có đảm bảo sự phát triển cân bằng và
lành mạnh của TTCK với các khu vực khác của thị trƣờng tài chính hay
không. Hiện tƣợng phát hành ồ ạt thêm cổ phiếu và chào bán ra công
chúng thời điểm 2006-2007 ở nƣớc ta không thể coi là một hoạt động kinh
tế đóng góp vào sự bền vững trong phát triển TTCK, bởi lúc đó các doanh
nghiệp chỉ chạy theo lợi nhuận trƣớc mắt, thực hiện IPO vào thời điểm thị
trƣờng bùng nổ để thu lời từ chênh lệch giá phát hành trên mệnh giá mà
không có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp để sử dụng số vốn huy
động đƣợc. Lợi nhuận của doanh nghiệp bị đánh đổi bằng thiệt hại của các
nhà đầu tƣ và làm xói mòn lòng tin của công chúng. Tính không bền vững
của hoạt động chào bán này thể hiện qua sự thiếu tôn trọng mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau và nguyên tắc đôi bên cùng có lợi giữa hai khu vực cơ
bản kiến tạo nên TTCK là doanh nghiệp và công chúng đầu tƣ. Hoạt động
này cũng không tính đến lợi ích dài hạn của bản thân doanh nghiệp và
TTCK, bởi nhà đầu tƣ kiệt sức và thiếu lòng tin đến nay đã không còn mặn
mà với các đợt IPO nhƣ trƣớc. Nguyên tắc tôn trọng mối quan hệ bền vững
giữa hiện tại và tƣơng lai đã bị vi phạm.
Năm 2008, con số hơn 90 công ty môi giới chứng khoán thƣờng
đƣợc nhắc đến nhƣ một thành tựu phát triển của TTCK Việt Nam. Tuy
nhiên, trên một TTCK mà tổng giá trị thị trƣờng tại thời điểm huy hoàng
nhất tính từ khi khai sinh cho đến nay cũng chỉ chiếm cao nhất là trên 50%
GDP lại chƣa phải là bằng chứng của sự phát triển bền vững. Thiếu bền
vững vì nhiều CTCK thành lập sau này chỉ nhìn thấy lợi ích ngắn hạn của
20
một thị trƣờng bùng nổ và nguồn lợi trƣớc mắt của việc tham gia thị trƣờng
mà không nhìn thấy rủi ro tiềm tàng của hoạt động thâu tóm, sáp nhập và
phá sản tất yếu sẽ xảy ra khi TTCK quy mô nhỏ không có đủ thị phần cho
số lƣợng lớn các CTCK. Tại một nền kinh tế tƣơng đối phát triển với
TTCK hiện đại và cơ sở nhà đầu tƣ chứng khoán rộng lớn nhƣ thị trƣờng
Hàn Quốc, năm 2007 đứng thứ 16 trên thế giới về tổng giá trị thị trƣờng và
đứng thứ 12 về giá trị giao dịch cổ phiếu1 chỉ có 53 CTCK. Đài loan là một
ví dụ điển hình về sự phát triển không bền vững trên TTCK với sự bùng nổ
số lƣợng các CTCK ở nền kinh tế này đã từng lên tới 297 vào thời điểm
tháng 3/1990 (lúc này chỉ số TSE là 12.495 điểm). Sau thời kỳ khủng
hoảng xảy ra vào tháng 7/1990, chỉ số TSE chỉ còn 2.560 điểm và số
CTCK giảm xuống chỉ còn 93 công ty2. Đây là bài học mà cả cơ quan
quản lý và các thành viên thị trƣờng cần quan tâm từ góc độ phát triển bền
vững.
Tính bền vững về kinh tế (economic sustainability) còn đƣợc nhìn từ
một góc hẹp về hoạt động của một thực thể kinh tế cụ thể trong TTCK.
Trong nghiên cứu ―Lý thuyết về tính bền vững kinh tế trong sản xuất‖ do
Cardiff Busisness School, thuộc Cardiff University (Vƣơng Quốc Anh)
thực hiện đã nhấn mạnh: ―Tính bền vững về kinh tế là khả năng mà một
công ty, tại một thời điểm nhất định có thể khai thác được một số lượng
doanh thu vượt quá chi phí hoạt động kinh doanh và đồng thời đảm bảo
được tương lai của mình. Khái niệm bền vững về kinh tế liên quan đến tâm
điểm của “lý thuyết về các hệ thống” (Rich, 2001) và do vậy trực tiếp dựa
trên quy trình “đầu vào-đầu ra” (input-process-output), luồng doanh thu
và khả năng hấp thụ chi phí trong một doanh nghiệp (pasmore, 1988). Vấn
đề các luồng doanh thu-chi phí, đầu vào-đầu ra cần gặp nhau ở đâu mang
tính sống còn đối với doanh nghiệp và là thước đo cơ bản xác định tính
bền vững về kinh tế của doanh nghiệp (Emery, 1969). Khái niệm bền vững
về kinh tế liên quan đến khái niệm về tính hiệu quả và hiệu lực của quản lý
kinh doanh trong việc khai thác lợi nhuận và đầu tư một cách sáng suốt
nhằm duy trì được những nỗ lực cải thiện kinh tế bên trong và bên ngoài
công ty‖3.
Có thể thấy rằng, xét từ góc độ vi mô, khái niệm bền vững về kinh
tế trong phạm vi hoạt động của tổ chức kinh doanh vẫn dựa trên nền tảng
cơ bản của nguyên tắc bền vững: sự phát triển của hôm nay phải đảm bảo
sự phát triển của tƣơng lai, đồng thời phải dựa trên sự hài hòa trong các
1
nges_by_Domestic_Market_Capitalization_in_2007
2
Statistic of Taiwan Securities Exchange
3
21
mối quan hệ nội tại và các mối quan hệ vƣợt ra ngoài phạm vi của thực thể
kinh tế đó.
Ở góc nhìn vĩ mô, Liên Hợp Quốc với Chƣơng trình Nghị sự về
Phát triển Bền vững Thế kỷ 21 (Agenda 21) đã xem xét tính bền vững về
kinh tế nhƣ là ―sự chuyển đổi của những hoạt động kinh tế từ phương thức
chỉ giới hạn trong phạm vi một khu vực sang những phương thức có sự
tham gia phối hợp của nhiều khu vực, dẫn đến sự hội nhập các vấn đề môi
trường và xã hội vào mọi quá trình phát triển kinh tế”4. Nhƣ vậy, theo
định nghĩa này, sự hài hòa về tổng thể giữa các khu vực trong phát triển
chính là một mục tiêu của phát triển bền vững. Hay nói cách khác, mọi
hoạt động kinh tế đều phải đảm bảo sự lành mạnh trong các ―tƣơng tác
không gian‖ của nó. Chính vì thế, Agenda 21 cũng nhấn mạnh rằng sự
tham gia rộng rãi của công chúng trong quá trình hoạch định chính sách
chính là một trong những tiền đề cơ bản để có đƣợc phát triển bền vững
trên mọi lĩnh vực, trong đó có TTCK.
Xét trên phƣơng diện bền vững về chính trị, xã hội, sự phát triển
của TTCK phải gắn bó chặt chẽ với việc gây dựng lòng tin lâu dài của
công chúng đầu tƣ và phòng chống rủi ro khủng hoảng. Lịch sử phát triển
của các TTCK cho thấy, khủng hoảng tài chính luôn gắn với mất ổn định
chính trị, xã hội, thất nghiệp và suy thoái kinh tế. Bản thân TTCK nhƣ là
một bộ phận của nền kinh tế, nếu ốm yếu sẽ hủy hoại sự lành mạnh của các
bộ phận khác và làm suy yếu toàn bộ nền kinh tế, đồng thời dẫn đến những
rối loạn chính trị. Duy trì tính bền vững về chính trị, xã hội trong phát triển
TTCK chính là việc phòng ngừa rủi ro, mất lòng tin vào thị trƣờng và
những biến động khác có khả năng gây khủng hoảng. Thị trƣờng phát triển
quá nóng hay quá ảm đạm đều là những trạng thái không bền vững. Sự
thiếu minh bạch trong chế độ kiểm toán, kế toán, công bố thông tin; thiếu
cơ chế cảnh báo sớm và phòng ngừa rủi ro dẫn đến đào thoát vốn và khủng
hoảng là những nhân tố cơ bản xói mòn tính bền vững về chính trị, xã hội
trong phát triển TTCK.
4
22
Hình 1.2 Các phạm trù phát triển bền vững TTCK
Bền vững về
kinh tế
Bền vững về
môi trường
đầu tư
Bền vững về
chính trị xã
hội
TTCK phát triển bền vững
Cuối cùng, xét từ góc độ bền vững về môi trường đầu tư, một
TTCK đƣợc coi là phát triển bền vững khi nhận thức của nhà đầu tƣ về tầm
quan trọng của việc bảo vệ môi trƣờng đầu tƣ để đảm bảo tạo lập một thị
trƣờng với những cơ cấu bộ phận cân đối, có mối quan hệ tác động qua lại
hữu cơ với nhau một cách biện chứng, đảm bảo cho các lợi ích đƣợc xử lý
một cách hài hòa trong một tƣơng tác thời gian cả trong ngắn hạn và dài
hạn, cả trong phạm vi quốc gia lẫn toàn cầu.
1.1.2. Các đặc trƣng cơ bản của TTCK phát triển an toàn và bền
vững
Một TTCK đƣợc coi là phát triển bền vững khi có những đặc trƣng
cơ bản sau đây:
Hình 1.3 Đặc trưng của TTCK phát triển bền vững
Đặc trưng
TTCK phát
triển bền
vững
Cấu trúc thị trường
bền vững
Giá trị thị
trường tạo
ra bền vững
Niềm tin thị
trường được đảm
bảo
Các bất ổn bị loại
trừ
Lợi ích của
các chủ thể
bền vững
23
1. Mối quan hệ về lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường
phải gắn kết hài hòa bền vững
Đặc trƣng nổi bật đầu tiên của TTCK bền vững là sự phát triển hài
hòa và gắn kết lợi ích dài hạn của mọi thành viên tham gia thị trƣờng, bao
gồm: các doanh nghiệp, nhà đầu tƣ, cơ quan quản lý chứng khoán, tổ chức
vận hành thị trƣờng (SGDCK), các quỹ đầu tƣ, CTQLQ, công ty môi giới,
tự doanh và các tổ chức cung cấp dịch vụ phụ trợ trên thị trƣờng nhƣ Trung
tâm Lƣu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán và những ngƣời hƣởng lợi khác
(stakeholder) từ TTCK.
TTCK cần có đƣợc sự hài hòa về mặt lợi ích của các thành viên
tham gia thị trƣờng. Mục tiêu của TTCK phát triển bền vững là nhằm đảm
bảo cho mọi thành viên và bản thân xã hội đạt đƣợc mức chi phí thấp nhất
có thể khi tham gia thị trƣờng. Trong việc phát triển thị trƣờng, lợi ích cá
biệt của từng chủ thể không làm tổn hại với lợi ích chung của thị trƣờng.
Bên cạnh đó, TTCK là một hệ thống tồn tại trên cơ sở sự cộng sinh
của tất cả những thành viên thị trƣờng với mục đích nguyên thủy nhất là
sinh lời và tạo ra giá trị. Giữa những thành viên này có sự ràng buộc lẫn
nhau, một trong số đó không thể tạo ra giá trị bền vững, lâu dài nếu thiếu đi
một hoặc nhiều thành viên khác. Trong số tất cả những thành viên đó, nếu
nhƣ một thành viên phản bội lại nguyên tắc cộng sinh này thì cả hệ thống
sẽ bị tổn thƣơng. Đơn cử một ví dụ: một CTCK nếu chạy theo lợi nhuận
ngắn hạn của mình, thực hiện những hành vi thao túng giá đối với một cổ
phiếu mà công ty nắm giữ ngay từ khi thực hiện dịch vụ nhà tƣ vấn phát
hành cho CTNY. Về ngắn hạn, nếu không bị cơ quan quản lý chứng khoán
phát hiện, xử phạt và tịch thu số thu nhập bất chính, CTCK có thể có đƣợc
lợi nhuận trƣớc mắt. Nhƣng về bản chất, đây là hành vi không công bằng
đối với thị trƣờng, phản bội lại chính các khách hàng (nhà đầu tƣ) của
CTCK, làm xói mòn lòng tin của thị trƣờng. Hành vi này làm toàn bộ thị
trƣờng tổn thƣơng trong dài hạn và khiến chính những công ty đó chịu thiệt
hại do mất đi lòng tin của nhà đầu tƣ.
Sự gắn kết lợi ích còn thể hiện ở chỗ thống nhất về mục tiêu phát
triển thị trƣờng. TTCK đƣợc xây dựng và phát triển không chỉ nhằm đáp
ứng các mục tiêu về bền vững kinh tế và cũng không chỉ nhằm mục tiêu
bền vững về chính trị xã hội, mà có sự thống nhất và gắn kết ngay từ giai
đoạn đầu phát triển thị trƣờng.
2. Cấu trúc thị trường phải cân đối và bền vững
Sự phát triển hài hòa và gắn kết lợi ích dài hạn của các chủ thể tham
gia TTCK trong một hệ thống thị trƣờng với cấu trúc hoàn chỉnh là một
đặc trƣng quan trọng của TTCK phát triển bền vững. Trong bối cảnh phát
triển thị trƣờng tài chính ngày nay, khó có thể hình dung một thị trƣờng tài
24
chính thiếu đi những bộ phận hoặc những cấu trúc nội tại. Bản thân mỗi bộ
phận hình thành cấu trúc thị trƣờng đều có vai trò riêng và giữa chúng có
mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Sự bền vững của bộ phận này là cơ
sở tạo ra sự bền vững của bộ phận khác và tạo ra sự bền vững tổng thể
trong toàn bộ cấu trúc thị trƣờng.
3. Các giá trị mà thị trường tạo ra phải bền vững
Những nghiên cứu về tính bền vững thị trƣờng chứng khóan gần
đây thƣờng gắn giữa phát triển bền vững của doanh nghiệp và TTCK. Tiêu
biểu là hai nghiên cứu ―Phát triển bền vững, tạo ra giá trị và thị trường
vốn‖ của Blair W. Feltmate, Brian A. Schofield và Ron W.Yachnin
(Canada-2001) và ―Hiệu quả phát triển bền vững – Chuyển đổi giá trị phát
triển bền vững thành những tiêu chí đánh giá tài chính‖ của Yachnin và
các cộng sự (2006). Ở những nghiên cứu này, các tác giả đã nhấn mạnh
phƣơng thức mà các mục tiêu phát triển bền vững đã chuyển đổi các giá trị
về kinh tế và chính trị xã hội vào việc định giá cổ phiếu, trong đó sử dụng
các tiêu chí định lƣợng qua: (i) phân tích hệ số tài chính; (ii) chiết khấu
luồng tiền; (iii) nguyên tắc định giá ―ngón tay cái‖; (iv) giá trị kinh tế gia
tăng và (v) định giá quyền chọn. Các tác giả này cũng đã đề cập đến những
tiêu chí định tính mà một doanh nghiệp niêm yết cần thể hiện trong báo
cáo về sự phát triển bền vững của công ty, đó là (i) tính trách nhiệm và tính
minh bạch; (ii) ủng hộ quan điểm phát triển bền vững; (iii) tính tƣơng
thích, thể hiện trong nỗ lực đạt và vƣợt các chuẩn mực của ngành; (iv) tính
toàn diện trong việc lồng ghép mục tiêu phát triển bền vững vào mọi giá trị
công ty; (v) tính liên tục cải thiện; (vi) tính phù hợp trong ghi nhận các giá
trị gia tăng của phát triển bền vững và (vii) tính kịp thời, thể hiện ở sự ghi
nhận mọi sự kiện có ý nghĩa về phát triển bền vững một cách kịp thời.
Những nghiên cứu này cho thấy: tại những TTCK hƣớng đến mục
tiêu phát triển bền vững thì các mục tiêu này cần đƣợc thị trƣờng chính
thức công nhận nhƣ là một trong những giá trị tạo ra của bản thân thị
trƣờng.
4. Các nguy cơ bất ổn được dự báo và loại trừ
Một TTCK không thể đƣợc coi là phát triển bền vững nếu xảy ra
nguy cơ khủng hoảng. Vậy phải chăng cho đến nay trên thế giới chƣa có
TTCK nào đạt đƣợc mục tiêu bền vững bởi hầu hết TTCK ở các quốc gia
đều đang chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát từ Mỹ, với
chính những công cụ phái sinh trên TTCK một thời đƣợc coi là sự sáng tạo
trong đầu tƣ và quản lý rủi ro? Câu trả lời là: phát triển bền vững là một
khái niệm tƣơng đối và là một mục tiêu khó theo đuổi nhất trên TTCK.
Ngay cả những TTCK hùng mạnh nhất nhƣ Mỹ, chỉ cần hai nhiệm kỳ của
Chính phủ tổng thống Bush với những chính sách tôn vinh ―tự do thị
25
trƣờng‖ (free market) và ―bàn tay vô hình của thị trƣờng‖ (market invisible
hand) quá mức, chạy theo lợi ích nhóm (group interest) của những tập đoàn
tài chính khổng lồ, quá kỳ thị những ―thất bại của chính phủ‖
(―government failures‖ – chỉ những lĩnh vực mà can thiệp của chính phủ
không hiệu quả cho sự phát triển của thị trƣờng) và lãng quên vai trò của
quản lý nhà nƣớc đã khiến cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra.
Vì vậy, dự báo, cảnh báo và ngăn chặn khủng hoảng một cách hiệu
quả, kịp thời không chỉ là đặc trƣng mà còn là yêu cầu của phát triển bền
vững trên TTCK. Để làm đƣợc điều này, bản thân chính phủ, cơ quan quản
lý thị trƣờng, các định chế thị trƣờng, các tổ chức nghiên cứu (think tanks)
đều cần có những chiến lƣợc và hoạt động cụ thể. Một hệ thống giám sát,
dự báo, cảnh báo sớm và những kế hoạch ngăn chặn khủng hoảng là không
thể thiếu cho một TTCK phát triển bền vững.
5. Niềm tin của công chúng đầu tư phải được đảm bảo bền vững
Các đặc trƣng nói trên của TTCK phát triển bền vững là nhân tố để
hình thành một dấu hiệu đặc biệt mang ý nghĩa đặc trƣng của sự bền vững.
TTCK chỉ có thể đạt đƣợc trạng thái cân bằng, hài hòa trong kết cấu thị
trƣờng cho mục tiêu phát triển bền vững khi cộng đồng các nhà đầu tƣ và
thị trƣờng có nhận thức phù hợp về vai trò quyết định của mình trong phát
triển bền vững. Điều này có nghĩa là nếu thiếu đi nhận thức về lợi ích dài
hạn và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên tham gia thị trƣờng, hay
chính xác là nhận thức về TTCK với những tƣơng tác thời gian và không
gian nhƣ đã đề cập ở trên, cộng đồng các nhà đầu tƣ và thị trƣờng sẽ ứng
xử theo những lợi ích ngắn hạn mà làm tổn thƣơng sự phát triển dài hạn
của thị trƣờng.
Bên cạnh đó, nếu niềm tin của nhà đầu tƣ đƣợc đảm bảo sẽ gạt bỏ
đƣợc yếu tố tâm lý trên TTCK. Do TTCK thƣờng gắn liền với yếu tố rủi
ro, các nhà đầu tƣ thƣờng có xu hƣớng đẩy mức giá chứng khoán ra xa
theo thời hạn dài hạn. Kỳ vọng của nhà đầu tƣ lại đƣợc quyết định phần
lớn bởi yếu tố tâm lý kéo theo những phản ứng quá mức trên TTCK — do
đó tinh thần lạc quan quá mức có thể đẩy giá lên quá cao hoặc tinh thần bi
quan có thể đẩy giá xuống quá thấp. Những hậu quả của tâm lý nhà đầu tƣ
bị dẫn dắt bởi tin đồn hay kiểu ―rỉ tai nhau‖ hoặc kiểu tư duy theo bầy đàn.
Các yếu tố tâm lý cũng thƣờng tham gia làm tăng thêm những biến động
giá chứng khoán. Hơn nữa, TTCK trong ngắn hạn, giá chứng khoán có thể
bị bóp méo hay thả nổi bởi bất kỳ sự kiện làm thay đổi nhanh thị trƣờng,
đƣa TTCK đến chỗ nhìn chung là nguy hiểm và khó dự đoán trƣớc môi
trƣờng cho những ngƣời thiếu những kỹ năng đầu tƣ tài chính và thời gian
không cho phép hiểu rõ đƣợc những tín hiệu kỹ thuật của thị trƣờng. Trong
những trƣờng hợp TTCK sụp đổ do yếu tố tâm lý hoảng loạn của các nhà
đầu tƣ, những hậu quả kinh tế và xã hội là rất khó lƣờng.
26
Trên một TTCK bền vững, nhà đầu tƣ sẽ nhận thức đƣợc rằng quyết
định mua bán chứng khoán mà thiếu cơ sở thông tin hợp lý, dựa trên
những lợi thế không công bằng hoặc bằng những hành vi bất hợp pháp sẽ
gây tổn hại cho chính bản thân họ và thị trƣờng. Nhà đầu tƣ cũng sẽ nhận
thức đƣợc rằng bằng quyết định mua, bán chứng khoán của mình, họ sẽ
góp phần quyết định vào sự phát triển những CTNY nào tôn trọng các giá
trị của phát triển bền vững và hạn chế sự phát triển của những công ty nào
không làm nhƣ vậy. Trên một TTCK phát triển bền vững, thị trƣờng sẽ coi
các tiêu chí phát triển bền vững là một trong những tiêu chí để xác định giá
trị doanh nghiệp.
Mục tiêu chủ yếu trong quản lý TTCK là làm thế nào để TTCK trở
nên dễ dàng và an toàn hơn đối với những nhà đầu tƣ không chuyên
nghiệp. Nhƣng trên thực tế điều này là rất khó. Tuy nhiên, để giảm thiểu
rủi ro của những bất cân bằng thị trƣờng tài chính, điều quan trọng là phải
có đƣợc cơ sở hạ tầng luật pháp, giám sát và điều tiết hoàn chỉnh hoạt động
suôn sẻ, trung thực khách quan, đặc biệt là bảo đảm việc công bố thông tin
liên quan một cách kịp thời, minh bạch và chính xác.
1.2. HỆ THỐNG CÁC TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG CỦA THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Các tiêu chí định tính
Sự phát triển của TTCK không chỉ đƣợc thể hiện và quyết định duy
nhất bởi những tiêu chí mang tính định lƣợng. Các số liệu là yếu tố đầu vào
hữu ích và không thể thiếu đƣợc sử dụng trong quá trình phân tích thị
trƣờng, mô tả tình hình thực tế và xác định mức độ phát triển của một
TTCK bền vững. Bên cạnh đó, một phần quan trọng khác không thể không
đề cập đến là hệ thống các nhân tố định tính, tuy không đo lƣờng đƣợc cụ
thể song lại có ảnh hƣởng rất lớn đến sự phát triển bền vững của thị trƣờng.
Những con số ấn tƣợng về sự phát triển của thị trƣờng, nếu đạt đƣợc, có
thể cũng không còn ý nghĩa hoặc khó duy trì lâu dài một khi các yếu tố nền
tảng không đƣợc đảm bảo hoặc không đƣợc hƣớng tới thông qua những
chiến lƣợc hoặc chính sách thích hợp.
Theo quan điểm phát triển, một trong những cách tiếp cận hiệu quả
đối với việc xây dựng hệ thống tiêu chí định tính đảm bảo sự phát triển bền
vững của TTCK là nghiên cứu các kinh nghiệm trong quá khứ. Trên thế
giới, TTCK đã hiện diện và thể hiện vai trò cũng nhƣ tầm ảnh hƣởng của
nó trong nền kinh tế toàn cầu qua một thời gian khá dài. Đan xen trong đó
là những giai đoạn bùng nổ mạnh mẽ và cả những đổ vỡ, khủng hoảng.
Nếu coi mỗi thất bại là một cơ hội để nhìn nhận lại và rút ra những bài học
kinh nghiệm quý giá, trong một chừng mực nào đó các nhà quản lý thị
trƣờng sẽ có cơ sở để xây dựng và đƣa ra những chính sách ngày càng hợp
27
lý và toàn diện hơn. Mục tiêu cuối cùng và cao nhất của việc làm này
không gì khác hơn là nhằm thúc đẩy thị trƣờng phát triển, tránh lặp lại
những sai lầm trong quá khứ và đảm bảo sự phát triển đó là bền vững.
Với cách nhìn nhận nhƣ vậy, có thể lựa chọn một số nhân tố chủ yếu
có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững của TTCK, bao gồm:
Hình 1.4 Các tiêu chí định tính phát triển bền vững TTCK
Cấu trúc đồng bộ
Quản trị
công ty tốt
Quản lý rủi ro
hiệu quả
TTCK minh bạch
Chất lượng nhà
đầu tư cao
Giám sát thị
trường hiệu
quả
Khả năng
giảm thiểu
các cú sốc
1. Tính động bộ và hoàn chỉnh của thị trường
TTCK gồm hai bộ phận cấu thành chủ yếu là thị trƣờng cổ phiếu và
thị trƣờng trái phiếu. Cả hai bộ phận đều đóng vai trò quan trọng trong việc
huy động, phân bổ các nguồn vốn và giám sát dòng chảy của vốn trong nền
kinh tế. Trên lý thuyết, thông qua hai thị trƣờng này, vốn sẽ đƣợc đƣa đến
những nơi hoạt động hiệu quả nhất và có khả năng đem lại lợi nhuận cao.
Với tính chất hoàn toàn khác nhau của những công cụ tài chính giao dịch
trên các thị trƣờng này, chúng không phải là những lựa chọn có tính loại
trừ lẫn nhau mà là những phƣơng án thay thế, thậm chí bổ sung cho nhau
nhằm đem lại lợi ích và sự thuận tiện cao nhất cho ngƣời sử dụng. Trên
thực tế, các tổ chức và cá nhân thƣờng căn cứ vào nhu cầu cụ thể về vốn
trong hoạt động kinh tế để đƣa ra quyết định và lựa chọn các phƣơng thức
huy động phù hợp bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu.
Tuy nhiên, không phải ở đâu và lúc nào hai mảng thị trƣờng này
cũng phát triển đồng bộ với nhau. Có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể
đến cả lý do từ phía cơ quan quản lý thị trƣờng (chẳng hạn nhƣ phải lựa
chọn sự phát triển có trọng tâm trong một thời kỳ nhất định), đối tƣợng có
nhu cầu huy động vốn (ví dụ: đi vay ngân hàng thay vì phát hành trái phiếu
do muốn tránh phải công bố thông tin), hay nhà đầu tƣ. Dẫu vậy, hệ quả
28
của sự phát triển không đầy đủ và thiếu cân đối của TTCK nói chung thì
dƣờng nhƣ chỉ có một – đó là làm giảm tính hiệu quả của quá trình phân bổ
vốn, không tối ƣu hóa đƣợc chi phí vốn đối với doanh nghiệp, thu hẹp cơ
hội đa dạng hóa hoạt động đầu tƣ. Trong bối cảnh đó, sự quan tâm và niềm
tin của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài có thể bị ảnh hƣởng đáng kể, dẫn đến sự
chuyển hƣớng sang các thị trƣờng ở những quốc gia khác.
Trong một số trƣờng hợp, hậu quả xảy ra có khi còn nặng nề hơn
thế. Thực tế cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) cho thấy sự thiếu
vắng các thị trƣờng trái phiếu công ty hoạt động hiệu quả làm ảnh hƣởng
đến sự liên tục và đầy đủ của hệ thống thông tin tín dụng và góp phần làm
suy yếu các hệ thống tài chính5. Đến lƣợt nó, sự phát triển của thị trƣờng
trái phiếu công ty lại phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố khách quan
khác nhƣ TTCK nợ công (là cơ sở cho việc xây dựng đƣờng cong lợi suất
trái phiếu chuẩn) hay các tổ chức trung gian và các nhà tạo lập thị trƣờng.
Bên cạnh thị trƣờng trái phiếu và thị trƣờng cổ phiếu, từ những năm
bảy mƣơi của thế kỷ hai mƣơi, TTCK toàn cầu đã chứng kiến sự phát triển
mạnh mẽ của các chứng khoán phái sinh và thị trƣờng giao dịch loại công
cụ tài chính này. Tuy không tham gia vào việc huy động và phân bổ vốn
song TTCK phái sinh lại đóng vai trò quan trọng trong quá trình quản lý
rủi ro. Nó đem lại cho các thành viên thị trƣờng một cơ hội chuyển rủi ro
từ những đối tƣợng không mong muốn hoặc có nhu cầu giảm thiểu rủi ro
sang những đối tƣợng sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tối đa hóa lợi nhuận.
Rõ ràng, quản lý rủi ro là một trong những vấn đề quan trọng nhất
đối với mọi thành phần tham gia TTTC nói chung và TTCK nói riêng.
Điều này càng làm tăng thêm vai trò quan trọng của một TTCK phái sinh
hoạt động hiệu quả. Ngoài ra, TTCK phái sinh còn mang một ý nghĩa kinh
tế khác, đó là tham gia vào quá trình hình thành giá - quá trình thiết lập mặt
bằng giá cho các hàng hóa giao dịch trên thị trƣờng, từ thị trƣờng chứng
khoán đến thị trƣờng tiền tệ và các công cụ nợ (lãi suất)6.
Mặc dầu vậy, bên cạnh những mặt lợi ích không thể phủ nhận,
chứng khoán phái sinh cũng là công cụ tài chính tiềm ẩn không ít rủi ro.
Đặc biệt, hoạt động giao dịch chứng khoán phái sinh nếu không đƣợc dựa
trên nền tảng kiến thức và thông tin đầy đủ, cũng nhƣ không đƣợc kiểm
soát một cách thích đáng, có thể là nguyên nhân gây ra sự bất ổn định cho
thị trƣờng tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Xét trên quy mô
quốc gia và quốc tế, cuộc khủng hoảng tài chính ở Mê-hi-cô năm 1994 và
cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 xảy ra với sự đóng góp
5
IOSCO, ―Causes, effects and regulatory implications of financial and economic turbulence in
emerging markets‖,
6
Randall Dodd, ―Derivatives markets: Sourrces of vulnerability in US financial markets‖, Financial
Policy Forum, 2004,
29
không nhỏ từ việc sử dụng chứng khoán phái sinh tiền tệ (xây dựng dựa
trên tỷ giá hối đoái). Chứng khoán phái sinh cũng đƣợc coi là một trong
những tác nhân làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ
hồi cuối năm 2008. Vì vậy, việc phát triển một TTCK phái sinh hoạt động
hiệu quả, có tính thanh khoản cao là yếu tố cần thiết cho sự phát triển bền
vững của TTCK song phải đƣợc tiến hành một cách thận trọng.
Cuối cùng, để góp phần vào sự đồng bộ và hoàn chỉnh của TTCK,
không thể không nói đến sự hiện diện của các tổ chức trung gian. Sự phát
triển đầy đủ và cạnh tranh lành mạnh của đối tƣợng tham gia thị trƣờng sẽ
tạo điều kiện cho các nhà đầu tƣ đƣợc đáp ứng nhu cầu một cách tốt hơn,
giảm chi phí giao dịch và tăng tính hấp dẫn của thị trƣờng. Đây là những
yếu tố không kém phần quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tƣ cả
trong nƣớc và ngoài nƣớc.
Nhìn chung, trong một chừng mực nào đó, có thể nói sự phát triển
đồng bộ và hoàn chỉnh của TTCK phần nào phản ánh tính tƣơng tác về
không gian của một thị trƣờng phát triển bền vững. Vì vậy, đây là yếu tố
định tính quan trọng có tính nền tảng cho sự phát triển bền vững của
TTCK.
2. Các nguyên tắc quản trị công ty tốt được các thành viên thị
trường tuân thủ và thực hiện đầy đủ
“Quản trị công ty đề cập đến tập hợp các mối quan hệ giữa ban
quản lý, hội đồng quản trị, các cổ đông và những người có quyền lợi liên
quan khác của một công ty. Quản trị công ty quy định cơ cấu mà thông
qua đó công ty thiết lập các mục tiêu, đồng thời xác định cách thức để đạt
được những mục tiêu đó và giám sát kết quả thực hiện”7.
Về bản chất, quản trị công ty liên quan đến những khuôn khổ, quy
tắc và biện pháp nhằm đảm bảo tài sản của công ty đƣợc sử dụng một cách
hiệu quả và vì lợi ích cao nhất của những ngƣời có quyền lợi liên quan bởi
các nhà quản lý đƣợc ủy quyền (hay là ban giám đốc công ty). Nhƣ vậy,
một trong những nội dung cơ bản của quản trị công ty là giải quyết mối
quan hệ giữa hội đồng quản trị, ban quản lý và các cổ đông, chủ nợ, nhân
viên trong công ty và những đối tƣợng khác (nhƣ nhà cung cấp, khách
hàng).
Xét trên giác độ vi mô, việc áp dụng các nguyên tắc quản trị công ty
tốt có thể giúp công ty giảm đƣợc chi phí vốn, khuyến khích họ sử dụng
các nguồn lực một cách hiệu quả nhằm tạo cơ sở cho sự tăng trƣởng lâu
dài. Ở tầm vĩ mô, một hệ thống quản trị công ty áp dụng nhất quán ở từng
7
OECD, ―OECD Principles of corporate governance‖, 2004,
30
công ty và rộng khắp trong nền kinh tế là nhân tố quan trọng để nâng cao
lòng tin của nhà đầu tƣ và phát huy tối đa các chức năng của nền kinh tế thị
trƣờng8. Vì thế, có thể nói, quản trị công ty là yếu tố không thể tách rời của
một TTCK phát triển bền vững.
Về bản chất, việc thực thi các chuẩn mực quốc tế về kế toán và báo
cáo là một khía cạnh của quản trị công ty tốt. Nó sẽ góp phần cung cấp cho
các bên có liên quan (đã nêu rõ ở trên) những dữ liệu chính xác, kịp thời và
cần thiết; đem lại cho họ cơ hội sử dụng những dữ liệu đó vào việc quản lý
các hành động của công ty. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã một
lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của các chuẩn mực kế toán và công bố
thông tin. Thực tế cho thấy các thông tin có liên quan đến rủi ro đã không
đƣợc công bố đầy đủ, đặc biệt là những rủi ro xuất phát từ việc lạm dụng
hoạt động ngoại bảng của các tổ chức tài chính. Bên cạnh đó là yêu cầu đặt
ra đối với việc hoàn thiện các chuẩn mực kế toán về việc định giá và
phƣơng pháp luận định giá cho những tài sản không có thị trƣờng giao dịch
hoặc thị trƣờng giao dịch rất kém tính thanh khoản9.
Ngoài ra, một phần quan trọng không kém là tăng cƣờng trách
nhiệm giải trình của ban quản lý công ty về những quyết định có ảnh
hƣởng đến giá trị và danh tiếng của công ty đó. Đồng thời, những biện
pháp khuyến khích và đào tạo thích hợp nhằm nâng cao nhận thức của các
cổ đông nói chung và hội đồng quản trị nói riêng về vai trò và sự tham gia
tích cực, chủ động của họ vào việc kiểm soát hoạt động của ban quản lý
cũng là điều phải quan tâm.
Cuối cùng, cũng liên quan đến quan hệ giữa ngƣời đại diện - ban
quản lý và ngƣời ủy thác – cổ đông, là vấn đề về chế độ lƣơng, thƣởng. Về
nguyên tắc, chế độ lƣơng thƣởng dành cho ban quản lý công ty cần đảm
bảo tính khuyến khích, khen thƣởng xứng đáng song phải đi liền với những
lợi ích về lâu dài của bản thân công ty và các cổ đông, và đạt đƣợc sự cân
đối giữa các lợi ích khác nhau. Thực tế cho thấy, việc áp dụng cơ chế
lƣơng, thƣởng không phù hợp có thể là động cơ để ban quản lý sẵn sàng
chấp nhận rủi ro ở mức độ cao hơn. Đặc biệt, trong trƣờng hợp của các
định chế tài chính, nó có thể góp phần làm tăng tính nhạy cảm của các tổ
chức này trƣớc các cú sốc kinh tế vĩ mô và tính không bền vững của các
bảng tổng kết tài sản10.
8
OECD, ―OECD Principles of corporate governance‖, 2004,
9
Grant Kirkpatric, ―The corporate governance lessons from the financial crisis‖, Financial Market
Trends, OECD, 2009,
10
Grant Kirkpatric, ―The corporate governance lessons from the financial crisis‖, Financial Market
Trends, OECD, 2009,
31
3. Hệ thống quản lý rủi ro thực sự hiệu quả
Thực ra, quản lý rủi ro là một trong những nội dung bao hàm trong
lĩnh vực quản trị công ty. Tuy nhiên, do tính chất quan trọng và phức tạp
của nó, ngƣời ta coi nó nhƣ là một tiêu chí độc lập.
Theo định nghĩa của COSO (Committee of Sponsoring
Organizations), quản lý rủi ro trong doanh nghiệp là ―một quá trình, được
thực hiện bởi hội đồng quản trị, ban quản lý và đội ngũ nhân viên của tổ
chức đó, được xây dựng thành chiến lược và áp dụng rộng khắp trong
doanh nghiệp. Nó được thiết kế với mục đích nhận diện những sự kiện có
khả năng gây ảnh hưởng đến tổ chức, và quản lý rủi ro trong mức độ mà
nó chấp nhận được, nhằm đem lại sự đảm bảo hợp lý đối với việc đạt được
các mục tiêu của tổ chức đó”.11 Quá trình này bao gồm 8 cấu phần khác
nhau, cụ thể là:
(i) Môi trƣờng nội bộ: bao trùm toàn bộ tinh thần chung của tổ
chức, nó quyết định thái độ, cách đánh giá và phƣơng pháp
tiếp cận của các cá nhân trong tổ chức đó đối với rủi ro (nhƣ
triết lý quản lý rủi ro, mức độ chấp nhận rủi ro, tính toàn vẹn
và các giá trị đạo đức).
(ii) Xác định mục tiêu: mục tiêu cần phải đƣợc đặt ra một cách rõ
ràng trƣớc khi ban quản lý tìm hiểu những sự kiện nào có khả
năng ảnh hƣởng đến việc đạt đƣợc các mục tiêu đó. Những
mục tiêu này phải hỗ trợ đƣợc và đi liền với sứ mệnh của tổ
chức cũng nhƣ nhất quán với mức độ chấp nhận rủi ro của tổ
chức đó.
(iii) Nhận diện các sự kiện: đây là những sự kiện xảy ra cả bên
trong lẫn bên ngoài (chủ quan và khách quan) doanh nghiệp,
có thể ảnh hƣởng tới việc theo đuổi các mục tiêu đã đặt ra.
Động tác này cũng hàm ý nhận biết và phân biệt giữa rủi ro
và cơ hội.
(iv) Đánh giá rủi ro: phân tích các yếu tố rủi ro, có xem xét cả khả
năng xảy ra và mức độ tác động nếu chúng xảy ra, trên cơ sở
đó mới có thể quyết định cách thức quản lý những rủi ro tiềm
ẩn.
(v) Phản ứng với rủi ro: ban quản lý có thể lựa chọn những thái
độ thích hợp để ứng phó với rủi ro – né tránh, chấp nhận,
11
COSO, ―Enterprise Risk Management – Integrated framework‖, Executive Summary, 2004,
32
giảm bớt hoặc chia sẻ rủi ro; từ đó hành động để đƣa rủi ro về
mức độ chấp nhận đƣợc theo quan điểm của tổ chức.
(vi) Kiểm soát các hoạt động: thông qua các chính sách và quy
trình nhằm đảm bảo các biện pháp phản ứng với rủi ro đƣợc
thực hiện hiệu quả.
(vii) Thông tin và truyền đạt thông tin: các thông tin cần thiết đƣợc
xác định, nắm bắt và truyền đạt theo thể thức và thời gian
thích hợp, cả chiều ngang (từ trên xuống dƣới và từ dƣới lên
trên) và chiều dọc (giữa các bộ phận trong công ty), cho phép
mọi cá nhân có liên quan thực hiện đúng và đủ trách nhiệm
của mình.
(viii) Giám sát: toàn bộ quá trình quản lý rủi ro trong doanh nghiệp
phải đƣợc giám sát, đánh giá lại và điều chỉnh nếu cần thiết.
Để TTCK phát triển bền vững, nhất thiết tất cả mọi thành viên tham
gia thị trƣờng, từ các doanh nghiệp cho đến các tổ chức tài chính trung gian
và các nhà đầu tƣ (nhất là các nhà đầu tƣ có tổ chức), đều phải hiểu đƣợc
tầm quan trọng của việc quản lý rủi ro và triển khai nó một cách hiệu quả.
Muốn vậy, bƣớc đi đầu tiên ở các thị trƣờng mới nổi là phải nâng cao ý
thức và xây dựng một văn hóa quản lý rủi ro cho các đối tƣợng này. Với
mỗi tổ chức, văn hóa quản lý rủi ro phải đƣợc thấm nhuần từ đội ngũ quản
lý cấp cao xuống đến nhân viên cấp dƣới. Hội đồng quản trị và ban giám
đốc công ty phải nhận thức đƣợc rằng họ không chỉ có nhiệm vụ điều hành
các hoạt động kinh doanh chủ đạo để tạo ra lợi nhuận. Hơn thế, họ còn
chịu trách nhiệm mang lại những lợi ích khác cho những ngƣời có quyền
lợi liên quan nhờ việc biết nhận diện, định lƣợng và quản lý các rủi ro hiện
hữu trong môi trƣờng hoạt động của tổ chức mình.
Hoạt động quản lý rủi ro nhƣ đã mô tả ở trên sẽ đƣợc triển khai một
cách tốt nhất trong thực tế nếu mỗi tổ chức thiết lập đƣợc một cơ chế kiểm
soát nội bộ vững mạnh, khuyến khích sự tham gia chủ động của ban quản
lý cấp cao, nâng cao trách nhiệm giải trình của các bên liên quan, và áp
dụng chế độ báo cáo rõ ràng, minh bạch. Nói một cách cụ thể hơn, những
nguyên tắc cơ bản sau đây cần đƣợc nắm vững và thực thi12:
Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm cuối cùng và cao nhất trong vấn
đề quản lý rủi ro của tổ chức. Trách nhiệm này đƣợc chuyển dần xuống
dƣới đến nhóm điều hành doanh nghiệp và sau đó là những ngƣời thực thi
trực tiếp.
12
IOSCO, ―Causes, effects and regulatory implications of financial and economic turbulence in
emerging markets‖,
33
Hội đồng quản trị và ban quản lý phải nhận biết đƣợc các dạng rủi
ro khác nhau và đảm bảo chúng đƣợc xem xét đầy đủ, toàn diện trong
khuôn khổ kiểm soát rủi ro. Các rủi ro nói đến ở đây không chỉ giới hạn
trong phạm vi rủi ro thị trƣờng mà phải bao trùm cả rủi ro tín dụng và rủi
ro hoạt động.
Các bộ phận chức năng với nhiệm vụ hỗ trợ và kiểm soát không
đứng ngoài mà cùng tham gia trong khuôn khổ kiểm soát rủi ro.
Các mục tiêu và chính sách quản lý rủi ro phải là yếu tố then chốt,
và là những yếu tố đƣợc đƣa vào xem xét trong quá trình định hƣớng chiến
lƣợc kinh doanh. Các mục tiêu và chính sách đó sẽ đƣợc thực hiện thông
qua những quy trình hoạt động và kiểm soát mang tính hỗ trợ.
Bộ phận quản lý rủi ro phải độc lập với đơn vị kinh doanh để tránh
những xung đột lợi ích trong quá trình triển khai các chính sách liên quan
đến rủi ro.
Liên quan đến các phƣơng pháp áp dụng để quản lý rủi ro, cần chú ý
rằng chúng không chỉ hạn chế trong phạm vi sử dụng chứng khoán phái
sinh. Không những thế, việc sử dụng chứng khoán phái sinh vào quản lý
rủi ro cũng cần tuân thủ những nguyên tắc thận trọng nhất định. Một điểu
rất rõ ràng là ngay bản thân các công cụ phái sinh cũng tiềm ẩn không ít rủi
ro và việc sử dụng chúng có thể trở thành thảm họa nếu ngƣời dùng không
hiểu biết một cách thấu đáo bản chất, đặc điểm cũng nhƣ những rủi ro kèm
theo. Những nghiên cứu thực hiện sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008
cho thấy một số công ty đã đƣa ra những quyết định mang tính chiến lƣợc
liên quan đến loại công cụ phái sinh phức tạp nhƣ chứng khoán nợ dựa trên
tài sản cầm cố (CDO) trong khi chƣa có hiểu biết đầy đủ về những rủi ro
liên quan và lại không có cơ chế kiểm soát rủi ro thích hợp13.
Cuối cùng, cho dù trách nhiệm quản lý rủi ro, nhìn chung thuộc về
chính các thành viên thị trƣờng, ta cũng không thể bỏ qua vai trò của các
cơ quan quản lý trong vấn đề này. Sự tham gia của cơ quan quản lý thể
hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, cụ thể nhƣ: xây dựng các cơ chế khuyến
khích triển khai rộng rãi hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả, phát triển thái độ
tích cực đối với hoạt động quản lý rủi ro trong ngành, tạo điều kiện cho các
thành viên thị trƣờng triển khai những chính sách và biện pháp quản lý rủi
ro một cách thuận tiện và tối ƣu hóa chi phí (thông qua sự phát triển đồng
bộ TTCK phái sinh)…
4. Hoạt động thị trường đảm bảo tính minh bạch
13
Grant Kirkpatric, ―The corporate governance lessons from the financial crisis‖, Financial Market
Trends, OECD, 2009,
34
Xét từ góc độ các thành viên tham gia TTCK, sự minh bạch của thị
trƣờng là thuật ngữ mô tả khả năng tiếp cận rộng rãi với những thông tin
liên quan đến các cơ hội giao dịch hiện tại và các giao dịch mới hoàn
thành. Nó có thể đƣợc xem là chìa khóa để nâng cao tính thanh khoản,
công bằng, hiệu quả của thị trƣờng cũng nhƣ chất lƣợng của quá trình xác
lập giá.
Trên quan điểm của cơ quan quản lý, nói đến tính minh bạch là nói
đến ―độ mở và sự công bằng của việc ra quyết định trong quá trình soạn
thảo, ban hành, giám sát và thực thi các quy định mới cũng nhƣ những quy
định sửa đổi‖. Nói một cách cụ thể, tính minh bạch đƣợc thể hiện qua
những quy định và quy tắc đơn giản và dễ hiểu, có tính đến vai trò và
quyền lợi của các đối tƣợng tham gia thị trƣờng.
Từ hai cách tiếp cận trên, có thể thấy rằng đối với TTCK, tính minh
bạch đƣợc nhìn nhận nhƣ một nhân tố vô cùng quan trọng, thậm chí có ý
nghĩa quyết định đối với sự tồn tại lâu dài và phát triển bền vững của thị
trƣờng. Nó đảm bảo cho tất cả các bên tham gia thị trƣờng đều đƣợc tiếp
cận với những nguồn thông tin cần thiết để từ đó xây dựng những dự báo
kinh doanh xác thực hơn và đƣa ra những quyết định có căn cứ. Nhờ đó,
tính hiệu quả của hoạt động đầu tƣ nói riêng và của toàn bộ thị trƣờng nói
chung đƣợc tăng lên. Đồng thời, một thị trƣờng minh bạch cũng góp phần
làm tăng lòng tin của công chúng đầu tƣ, thúc đẩy họ tham gia thị trƣờng
một cách tích cực. Xét trên bình diện rộng hơn, một thị trƣờng có tính
minh bạch cao sẽ cho phép thu hút đƣợc nhiều nhà đầu tƣ hơn (trong đó
bao gồm cả nhà đầu tƣ nƣớc ngoài), hạ thấp chi phí vốn, ngăn chặn những
phản ứng dễ gây bất ổn của nhà đầu tƣ và làm giảm tính biến động của các
luồng vốn quốc tế14.
Thực tế cho thấy, sự thiếu thông tin liên quan đến hoạt động của các
đối tƣợng tham gia thị trƣờng có thể đe dọa tính toàn vẹn của thị trƣờng và
gây khó khăn cho các cơ quan quản lý trong việc xây dựng và thực thi các
chính sách nhằm mục tiêu vận hành hiệu quả thị trƣờng. Một minh chứng
rõ ràng cho điều này có thể đƣợc rút ra khi nhìn lại cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu vừa qua. Sự thiếu tính minh bạch trên một số TTCK phái
sinh phi tập trung đã gây nhiều khó khăn và bất ổn cho những đối tƣợng
tham gia thị trƣờng này cũng nhƣ làm tăng rủi ro đối tác15. Vì vậy, không
có gì đáng ngạc nhiên khi trong số những đề xuất cải cách khuôn khổ quản
lý đƣợc nhiều nhà nghiên cứu chính sách đƣa ra lại có nội dung tăng cƣờng
14
R. Gaston Gelos & Shang-Jin Wei, ―Transparency and international investor behavior‖, IMF,
2002,
15
IMF, ―Lessons of the financial crisis for future regulation of financial institutions and markets
and for liquidity management‖, 2009,
35
tính minh bạch thị trƣờng và công bố thông tin, trong đó tập trung vào các
công cụ tài chính đƣợc sáng tạo và sử dụng, các thị trƣờng phi tập trung,
các phƣơng pháp định giá và kế toán, và phƣơng pháp luận của các tổ chức
định mức tín nhiệm. Tất cả đều nhằm mục tiêu ngăn chặn một cuộc khủng
hoảng tài chính mới trong tƣơng lai.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và xu hƣớng luân
chuyển luồng vốn linh hoạt giữa các quốc gia, yêu cầu về tính minh bạch
trên thị trƣờng không bị giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà còn bao
trùm cả các hoạt động xuyên biên giới. Liên quan đến vấn đề này có hoạt
động của các định chế sử dụng mức độ đòn bẩy cao (điển hình là các quỹ
đầu tƣ rủi ro - ―hedge fund‖), các công cụ giao dịch trên thị trƣờng phi tập
trung, hoạt động đầu tƣ ra nƣớc ngoài và đầu tƣ của ngƣời nƣớc ngoài vào
thị trƣờng nội địa. Trong trƣờng hợp này, yêu cầu đặt ra đối với các cơ
quan quản lý là xây dựng những nguyên tắc, quy định về công bố thông tin
và giám sát hoạt động đảm bảo sự tƣơng đồng và nhất quán với các chuẩn
mực quốc tế, và hợp tác chặt chẽ với các cơ quan quản lý nƣớc ngoài cũng
nhƣ những tổ chức quốc tế có liên quan.
5. Nhà đầu tư có trình độ và được bảo vệ đầy đủ
Nhà đầu tƣ là một đối tƣợng tham gia quan trọng và không thể thiếu
trên TTCK. Với tƣ cách là ngƣời cung cấp vốn cho các công ty (ở vị trí chủ
nợ hay cổ đông), họ có những quyền lợi nhất định và những quyền lợi đó
cần phải đƣợc bảo vệ. Có nhƣ vậy, các nhà đầu tƣ mới có động lực để sẵn
sàng tham gia thị trƣờng, tạo điều kiện cho luồng vốn luân chuyển trong
nền kinh tế. Những nghiên cứu trong quá khứ đã chỉ ra rằng những quốc
gia nào bảo vệ cổ đông tốt hơn sẽ có thị trƣờng cổ phiếu phát triển mạnh
mẽ hơn, số lƣợng CTNY (tính trên đầu ngƣời) cao hơn và tỷ lệ chào bán cổ
phiếu lần đầu ra công chúng lớn hơn16.
Một trong những biện pháp bảo vệ nhà đầu tƣ cơ bản nhất và đƣợc
áp dụng phổ biến nhất là dựa vào các quy định mang tính pháp lý và cƣỡng
chế thực thi các quy định đó. Trong số này, chiếm một số lƣợng lớn là các
quy định có liên quan đến công bố thông tin và các nguyên tắc kế toán do
thông tin là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện quyền của nhà đầu tƣ.
Trách nhiệm cƣỡng chế thực thi các quy định này thuộc về cơ quan quản
lý, và trong một số trƣờng hợp là cả bản thân các thành viên thị trƣờng.
Bên cạnh cách làm trực tiếp và truyền thống đề cập ở trên, giáo dục
nhà đầu tƣ là một biện pháp khác hứa hẹn đem lại nhiều tác dụng về lâu
dài. Về cơ bản, giáo dục nhà đầu tƣ sẽ góp phần hỗ trợ các cơ quan quản lý
16
Rafael La Porta, Florencio Lopez-de-Silanes, Andrei Shleifer & Robert Vishny, ―Investor
protection: origins, consequences, reforms‖, Financial Sector Discussion Paper No.1, The World
Bank, 1999,
36
đạt đƣợc mục tiêu bảo vệ nhà đầu tƣ của mình. Lợi ích này có thể đƣợc
hiện thực hóa thông qua những tác động tích cực khác nhau. Cụ thể, nhà
đầu tƣ đƣợc trang bị những kiến thức để hiểu rõ hơn vai trò của cơ quan
quản lý và của mỗi đối tƣợng tham gia thị trƣờng, hiểu đƣợc những quyền
và lợi ích của mình khi tham gia thị trƣờng. Họ sẽ đƣợc biết cần những
thông tin gì và tìm những thông tin đó ở đâu để làm cơ sở cho việc đƣa ra
các quyết định đầu tƣ hợp lý. Ngoài ra, các nhà đầu tƣ cũng có thể phát huy
vai trò ―giám sát‖ đối với thị trƣờng, giúp cơ quan quản lý phát hiện ra
những trƣờng hợp sai phạm trƣớc khi những hậu quả xấu thực sự xảy ra.17
Khi nhà đầu tƣ có trình độ cao hơn, hiểu biết rõ hơn về những lợi
ích và rủi ro tiềm ẩn của việc tham gia TTCK, biết cách và đƣợc tạo điều
kiện để đƣa ra những quyết định đầu tƣ có căn cứ, niềm tin của họ vào thị
trƣờng sẽ đƣợc nâng cao. Tác động từ những yếu tố mang tính tâm lý, bầy
đàn cũng có khả năng giảm đi. Kết quả là hiệu quả và tính ổn định của thị
trƣờng sẽ đƣợc cải thiện.
6. Các tiêu chuẩn quản lý và giám sát được nâng lên một mức
cao
Các quy định quản lý là một yếu tố không thể thiếu để có một
TTCK vận hành an toàn, đúng chức năng, tạo ra những tác động tích cực
đối với nền kinh tế. Mục đích của việc đặt ra những quy định này là giải
quyết vấn đề bất cân xứng về thông tin giữa các đối tƣợng tham gia thị
trƣờng (nhƣ giữa tổ chức phát hành chứng khoán và nhà đầu tƣ, giữa các tổ
chức tài chính trung gian và khách hàng), đảm bảo các hoạt động giao
dịch, thanh toán bù trừ diễn ra trôi chảy. Xa hơn thế, chúng đƣợc thiết kế
để ngăn chặn những đổ vỡ có khả năng xảy ra trên thị trƣờng và nâng cao
lòng tin của công chúng đầu tƣ.18
Sự tồn tại của một hệ thống quy định đầy đủ, chặt chẽ, có hiệu quả
thực thi thực sự và một cơ chế giám sát toàn diện là điều kiện cần thiết,
song cũng có thể coi là thuộc tính gắn liền với TTCK phát triển bền vững.
Nó sẽ tạo ra một môi trƣờng công bằng, minh bạch, có quy tắc và trật tự
cho các thành viên thị trƣờng cùng tham gia và nắm bắt cơ hội một cách
bình đẳng. Tính bền vững của thị trƣờng sẽ khó có thể đƣợc đảm bảo nếu
thiếu vắng yếu tố quan trọng này.
Trong bối cảnh các hệ thống tài chính quốc gia ngày càng phụ thuộc
lẫn nhau và mối liên kết giữa các khu vực thị trƣờng ngày càng trở nên
17
IOSCO, ―Investor education‖, 2002,
18
Ana Carvajal & Jennifer Elliott, ―Strengths and weaknesses in securities market regulation: A
global analysis‖, IMF, 2007,
37
chặt chẽ, vấn đề đặt ra trƣớc mắt các nhà quản lý là phải thiết lập một cấu
trúc quản lý đủ linh hoạt để kịp thời ứng phó với tính chất năng động và
những thay đổi nhanh chóng của thị trƣờng. Đây không chỉ là thách thức
đối với các nhà quản lý ở riêng những thị trƣờng mới nổi mà nó cũng đƣợc
đặt ra trên cả những thị trƣờng đã đạt đến mức độ phát triển nhất định.
Thực tế cho thấy việc xây dựng một khuôn khổ quản lý chất lƣợng
cao và hoạt động hữu hiệu không phải là nhiệm vụ dễ dàng. Về chi tiết, nó
phải bao trùm mọi khía cạnh trong hoạt động thị trƣờng, từ các tổ chức
trung gian đến các hoạt động giao dịch, công bố thông tin… Đó là chƣa nói
đến việc tổ chức thực thi nhƣ thế nào để đảm bảo những quy định ―có chất
lƣợng‖ đã đƣa ra thực sự phát huy hiệu quả trong thực tế.
Để dẫn chứng cho tính chất phức tạp của vấn đề này, có thể phân
tích một lĩnh vực quan trọng đƣợc quản lý trên trên thị trƣờng là các tổ
chức trung gian. Đối tƣợng này vốn chịu sự kiểm soát tƣơng đối chặt chẽ
của cơ quan quản lý do những đặc thù trong hoạt động và những dịch vụ
mà họ cung cấp cho thị trƣờng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn có những
vấn đề mà các nhà quản lý cần xem xét hay đánh giá lại.
Trƣớc hết là những quy định về sự cẩn trọng và bảo toàn vốn do
nhiều hoạt động của các tổ chức trung gian, nhƣ tài trợ mua vay chứng
khoán hay giao dịch tự doanh, tiềm ẩn những rủi ro rất lớn (không chỉ đối
với bản thân các tổ chức này mà với cả thị trƣờng nói chung) nếu không có
những quy định ràng buộc về vốn bảo đảm. Bên cạnh đó, việc cung cấp
thông tin đầy đủ của tổ chức này cho nhà đầu tƣ cũng có ý nghĩa rất quan
trọng. Thực tế cho thấy, nhiều tổ chức trung gian tham gia hết sức tích cực,
thậm chí đầu tƣ khá nhiều công sức và tiền vốn, vào việc nghiên cứu và
thiết kế những sản phẩm tài chính mới với những đặc tính tƣơng đối phức
tạp nhằm đáp ứng mọi nhu cầu và sở thích của công chúng đầu tƣ. Vấn đề
nảy sinh là nếu những thông tin về lợi nhuận và rủi ro của các công cụ tài
chính đó không đƣợc truyền đạt đầy đủ và rõ ràng tới những nhà đầu tƣ, sự
hiểu nhầm có thể xảy ra và các chứng khoán đó có thể bị lạm dụng thái quá
hoặc sử dụng sai mục đích. Điều này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, và những gì
xảy ra với các công cụ phái sinh trong cuộc khủng hoảng tài chính cuối
năm 2008 đƣợc xem là một minh chứng cho mối nguy hiểm đó.
Một yêu cầu quan trọng đối với các nhà quản lý trong việc thiết lập
các quy định nói chung là phải dự báo đƣợc những vấn đề có khả năng xảy
ra trong tƣơng lai. Khuôn khổ quản lý cần đƣợc xây dựng để bao quát đƣợc
những thay đổi trong tƣơng lai, cho phép đánh giá lại và điều chỉnh khi cần
thiết nhằm đảm bảo tính tƣơng thích, phù hợp của nó với thị trƣờng trong
những điều kiện, bối cảnh mới.
38
Một khuôn khổ quản lý dù đƣợc thiết kể đảm bảo những yêu cầu nói
trên sẽ không phát huy đầy đủ ý nghĩa nếu các quy định không đƣợc tuân
thủ và thực hiện nghiêm túc trong thực tế - yếu tố có vai trò nâng cao lòng
tin và tính toàn vẹn của thị trƣờng. Trong nhiều trƣờng hợp, có những rắc
rối nảy sinh không phải do tiêu chuẩn quản lý chƣa đạt yêu cầu mà vì việc
thực thi không nghiêm túc. Đến đây, vấn đề đặt ra là phải tạo dựng một
văn hóa tuân thủ luật pháp của các đối tƣợng chịu sự quản lý (các định chế
tài chính và trung gian thị trƣờng), một cơ chế giám sát chặt chẽ, cƣỡng
chế hiệu quả cũng nhƣ nâng cao năng lực cho bản thân các nhà quản lý.
7. Khả năng hấp thu và đối phó với các cú sốc
Trong một môi trƣờng tài chính đầy biến động nhƣ hiện nay, đây là
một tiêu chí rất quan trọng quyết định một TTCK có bền vững hay không.
Khả năng phản ứng tốt trƣớc những diễn biến bất ngờ giúp ngăn chặn sự
sụt giảm quá mức, thậm chí là đổ vỡ của thị trƣờng khi thị trƣờng bị tác
động bởi những biến cố bất lợi nảy sinh từ nội bộ nền kinh tế hay đến từ
các thị trƣờng nƣớc ngoài. Tiêu chí này phụ thuộc nhiều vào mức độ hội
nhập với thị trƣờng vốn thế giới và năng lực dự báo cũng nhƣ khả năng
điều hành của các cơ quan quản lý.
Có thể nói rằng, TTCK khó có thể phát triển một cách bền vững nếu
không đáp ứng đƣợc những tiêu chí định tính đề cập ở trên. Một điều dễ
nhận thấy là hầu hết các yếu tố này đều có mối liên hệ qua lại, thậm chí
khá chặt chẽ, với nhau. Tính minh bạch, quản lý rủi ro và quản trị công ty
tốt là là điều kiện để tạo dựng và duy trì lòng tin của thị trƣờng. Vai trò của
các cơ quan quản lý cũng đƣợc nhìn nhận là không thể thiếu trong việc
đảm bảo cho thị trƣờng hoạt động thực sự công bằng, hiệu quả, đúng chức
năng và quyền lợi của nhà đầu tƣ đƣợc bảo vệ. Cuối cùng, một TTCK
đƣợc phát triển đồng bộ trên các mặt, đƣợc dự phòng và chuẩn bị để chống
chọi với những diễn biến xấu và bất ngờ là thuộc tính gắn liền với sự phát
triển mang tính bền vững.
1.2.2. Các tiêu chí định lƣợng
Để đánh giá mức độ phát triển của TTCK, cách làm thông thƣờng
nhất là dựa vào các yếu tố có thể đo lƣờng đƣợc. Những yếu tố định lƣợng
này chính là sự thể hiện rõ ràng và dễ hình dung nhất về thực trạng thị
trƣờng. Các số liệu thống kê về thị trƣờng có thể đƣợc phân tích một cách
riêng rẽ, độc lập, so sánh qua các thời kỳ hoặc kết hợp lại với nhau nhằm
đem lại một cái nhìn khái quát về thị trƣờng.
Nhằm giúp cho việc đánh giá mức độ phát triển của thị trƣờng đƣợc
dễ dàng hơn, chúng tôi chia các yếu tố định lƣợng thành hai nhóm: nhóm
liên quan đến hoạt động thị trƣờng, và nhóm liên quan tới khía cạnh tổ
39
chức của thị trƣờng. Trong một chừng mực nào đó, việc phân tích theo
cách này hoàn toàn nhất quán với quan điểm về sự phát triển bền vững của
TTCK đã đƣợc đề cập đến ở những phần trƣớc – sự phát triển lành mạnh
và không rủi ro đƣợc đảm bảo theo cả hai trục không gian và thời gian.
Với nhóm yếu tố thứ nhất có trọng tâm là hoạt động thị trƣờng,
phƣơng pháp đƣợc WB xây dựng và đƣợc áp dụng từ năm 2006 có thể
xem là một cách tiếp cận hữu ích và toàn diện để đánh giá mức độ phát
triển của hệ thống tài chính nói chung, trong đó có bao gồm cả TTCK.
Theo đó, mức độ phát triển của TTCK sẽ đƣợc nhìn nhận trên cơ sở phân
tích bốn khía cạnh chính: quy mô, khả năng tiếp cận, tính hiệu quả và sự ổn
định. Mỗi nội dung lớn này lại đƣợc xây dựng dựa trên một nhóm các chỉ
báo khác nhau.
Hình 1.5 Các tiêu chí định lượng phát triển bền vững TTCK
Tiêu chí
định lượng
Quy mô thị
trường
Khả năng
tiếp cận
Tính ổn định
Tính iệu
quả
Ngoài ra, do tính chất đặc thù khác nhau giữa thị trƣờng cổ phiếu và
thị trƣờng trái phiếu, các yếu tố chỉ báo cụ thể sử dụng trong quá trình đánh
giá có thể cũng hoàn toàn không giống nhau.
1. Nhóm tiêu chí về quy mô của thị trường
Thị trường cổ phiếu
Quy mô thị trƣờng là yếu tố có thể tính toán và so sánh theo thời
gian, qua đó giúp ta thấy đƣợc phần nào sự phát triển của thị trƣờng. Theo
phƣơng pháp truyền thống, quy mô thị trƣờng cổ phiếu thƣờng đƣợc xác
định dựa trên ba tiêu chí, đó là:
(1) Mức độ vốn hóa thị trường
40
Giá trị vốn hóa thị trƣờng – tức là tổng giá trị thị trƣờng của tất cả
các cổ phiếu đang lƣu hành trên thị trƣờng, đƣợc tính bằng cách nhân giá
trị thị trƣờng của mỗi cổ phiếu niêm yết trên một sàn giao dịch với số
lƣợng cổ phiếu đang lƣu hành tại một thời điểm cụ thể, rồi xác định tổng
của các tích này. Khi so sánh giá trị vốn hóa thị trƣờng qua các năm, ta có
thể thấy đƣợc tình hình biến động và tốc độ gia tăng (giá trị vốn hóa thị
trƣờng) theo thời gian.
V =
n
i 1
Gi x Qi
Trong đó: V: Mức độ vốn hóa thị trƣờng
Qi: Số lƣợng cổ phiếu i giao dịch trên thị trƣờng
Gi: Giá cổ phiếu i giao dịch trên thị trƣờng tại thời điểm tính
(2) Tỷ lệ giá trị vốn hóa thị trường trên GDP
Giá trị vốn hóa thị trƣờng, ở trạng thái tuyệt đối nhƣ mô tả ở trên, tự
thân nó chƣa phải là một thƣớc đo hoàn chỉnh cho hiệu quả hoạt động của
thị trƣờng cổ phiếu. Một thị trƣờng có thể có quy mô lớn song không đƣợc
coi là hoạt động hiệu quả nếu tính thanh khoản của nó không tốt. Hoặc con
số giá trị vốn hóa lớn đó hoàn toàn phụ thuộc vào một số ít các công ty lớn,
và do đó sẽ bị tác động mạnh nếu giá cổ phiếu của những công ty này đột
ngột thay đổi. Vì vậy, một thƣớc đo quy mô khác, mang tính tƣơng đối, đã
đƣợc sử dụng, và sử dụng ngày một rộng rãi hơn – tỷ lệ giá trị vốn hóa thị
trƣờng trên GDP (tổng sản phẩm quốc nội). Trong một chừng mực nào đó,
thƣớc đo này phản ánh đƣợc tƣơng quan (về mặt giá trị) của thị trƣờng cổ
phiếu trong mối quan hệ với nền kinh tế nói chung, cũng có nghĩa là mức
độ hiện diện và khả năng đóng góp của thị trƣờng này trong nền kinh tế
của một quốc gia. Bên cạnh đó có thể so sánh đánh giá về quy mô tỷ lệ vốn
hóa giữa các quốc gia với nhau.
GDP
VTv
Trong đó: Tv : Tỷ lệ giá trị vốn hóa
V: Giá trị vốn hóa trong năm
GDP: Thu nhập quốc nội trong năm
(3) Khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch so với GDP
Đây là những yếu tố đo lƣờng năng lực thị trƣờng trong mối tƣơng
quan với hoạt động giao dịch, sự đa dạng hóa và tính thanh khoản trên thị
trƣờng.
Mặc dù vậy, về lý thuyết chƣa có công trình nào chứng minh đƣợc
các chỉ tiêu đo lƣờng này phải đạt đƣợc mức độ là bao nhiêu để đƣợc coi là
đảm bảo sự bền vững. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm thực tế trên cơ sở thống
41
kê số liệu phát triển TTCK, ngƣời ta có thể xác định đƣợc giá trị trung bình
của từng chỉ tiêu theo từng nhóm nƣớc19 để biết đƣợc mức độ bền vững
của TTCK. Căn cứ vào giá trị trung vị theo nhóm thu nhập (số liệu năm
2007) dễ nhận thấy rằng, TTCK có mức độ phát triển vƣợt bậc ở các quốc
gia thuộc nhóm có mức thu nhập cao. Điều này đƣợc thể hiện rõ rệt thông
qua một số tiêu chí mang tính điển hình.
Trƣớc hết, hơn một nửa các nƣớc thuộc nhóm này có tỷ lệ giá trị
vốn hóa thị trƣờng cổ phiếu so với GDP lớn hơn 100% và tỷ lệ giá trị giao
dịch cổ phiếu trên GDP hơn 120%. Số lƣợng công ty niêm yết tính trên 10
nghìn dân đối với những nƣớc có thu nhập cao này cũng đạt giá trị giao
dịch thị trƣờng cao hơn đáng kể so với các nhóm thu nhập thấp và trung
bình nhƣ sau:
Đồ thị 1.1 Giá trị giao dịch thị trƣờng ở những nhóm nƣớc có các mức thu
nhập khác nhau
19
Tham khảo: ―Financial institutions and markets across countries and over
time – Data and Analysis‖, Thorsten Back & Asli Demirgüç-Kunt, World Bank, 2009.
42
Đồ thị 1.2 - Giá trị giao dịch thị trƣờng của các nhóm nƣớc có thu nhập khác
nhau từ năm 1983 đến năm 2007
Ở những quốc gia thuộc nhóm thu nhập cao, giá trị giao dịch cổ
phiếu so với GDP không những cao hơn mà còn đạt đƣợc sự tăng trƣởng
mạnh mẽ hơn so với các quốc gia thuộc nhóm có thu nhập thấp và trung
bình, đặc biệt trong giai đoạn những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Đồ thị 1.3 - Giá trị giao dịch thị trƣờng theo khu vực từ năm 1983 đến năm
2007
Thị trường trái phiếu
43
Không đơn giản nhƣ thị trƣờng cổ phiếu, thị trƣờng trái phiếu có thể
phân chia thành những mảng riêng biệt căn cứ vào chủ thể hay phạm vi
phát hành. Theo đó, ta có thị trƣờng trái phiếu công (giao dịch những trái
phiếu do chính phủ và các cơ quan của chính phủ phát hành), thị trƣờng
trái phiếu khu vực tƣ nhân (với đối tƣợng phát hành là các công ty), thị
trƣờng trái phiếu trong nƣớc và thị trƣờng trái phiếu quốc tế.
Mỗi mảng thị trƣờng lại có những vai trò riêng, chẳng hạn nhƣ sự
phát triển của thị trƣờng trái phiếu công là điều kiện để xây dựng các
đƣờng cong lợi suất chuẩn – vốn đƣợc coi là cơ sở giúp định giá các chứng
khoán nợ khác trên thị trƣờng và là công cụ dự báo cho nền kinh tế. Với thị
trƣờng trái phiếu công ty, tuy không mang tầm vĩ mô nhƣ vậy song sự phát
triển của nó cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Nó góp phần hoàn thiện cấu
trúc TTCK, đa dạng hóa phƣơng thức và nguồn huy động vốn cho các
doanh nghiệp và góp phần làm giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào hệ
thống ngân hàng. Cuối cùng, thị trƣờng trái phiếu quốc tế đem lại cho
chính phủ và các doanh nghiệp của một nƣớc cơ hội tìm kiếm nguồn tài trợ
bằng nợ vay vƣợt ra ngoài phạm vi quốc gia. Sự phát triển của mảng thị
trƣờng này phản ánh mức độ hấp dẫn của nền kinh tế hay là các cơ hội đầu
tƣ trong nƣớc đối với nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Đồng thời, sự tham gia của
các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài vào thị trƣờng cũng làm tăng sức ép đối với
những vấn đề hứa hẹn gây tác động tốt đến TTCK nói chung nhƣ tăng
cƣờng minh bạch hóa thông tin, thực hiện quản trị công ty tốt…
Do tính chất, vai trò khác nhau nhƣ vậy của mỗi mảng thị trƣờng
trái phiếu, việc đo lƣờng quy mô thƣờng đƣợc tiến hành riêng cho từng
khu vực, giúp đem lại một cái nhìn đầy đủ hơn về từng mảng thị trƣờng.
Thƣớc đo cơ bản nhất sử dụng chung cho cả ba thị trƣờng này là tỷ lệ giá
trị trái phiếu trên GDP.
GDP
T
Tt
Trong đó: Tt : Tỷ lệ giá trị trái phiếu
T: Giá trị trái phiếu phát hành trong năm
GDP: Thu nhập quốc nội trong năm
Dựa vào các số liệu thực tế, một thị trƣờng trái phiếu công hay thị
trƣờng trái phiếu tƣ nhân phát triển phải có tỷ lệ trái phiếu (khu vực công
hay khu vực tƣ nhân) trên GDP khoảng trên 40%.
Nhìn chung, thực tiễn cho thấy mức độ phát triển của thị trƣờng trái
phiếu phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của đất nƣớc. Ở những nƣớc
đang phát triển, hay có thị trƣờng tài chính nhỏ, thị trƣờng trái phiếu cũng
44
thƣờng kém phát triển. Thị trƣờng trái phiếu quốc tế có thể là một minh
họa rõ ràng cho nhận xét này.
Dựa vào các chỉ báo thị trƣờng trái phiếu, giá trị giao dịch thị trƣờng
theo nhóm thu nhập căn cứ số liệu năm 2007 có thể quan sát thấy sự khác
biệt rõ rệt giữa hai mảng thị trƣờng trái phiếu khu vực công và thị trƣờng
trái phiếu khu vực tƣ nhân. Sự phát triển ở thị trƣờng trái phiếu công
dƣờng nhƣ đồng đều hơn tại các quốc gia thuộc mọi nhóm thu nhập (với
hơn một nửa số quốc gia ở mỗi nhóm đạt đƣợc tỷ lệ giá trị vốn hóa thị
trƣờng trái phiếu công trên GDP khoảng trên dƣới 30%), mặc dù nhóm
nƣớc thu nhập cao vẫn thể hiện sự vƣợt trội hơn (với giá trị trung vị
khoảng 35%). Sự chênh lệch thể hiện rõ ở mảng thị trƣờng trái phiếu công
ty, nơi mà sự phát triển của thị trƣờng đòi hỏi những điều kiện phức tạp
hơn xét trên nhiều khía cạnh (thông tin, hệ thống xếp hạng tín nhiệm, chất
lƣợng công ty…). Có thể thấy, thị trƣờng trái phiếu công ty gần nhƣ chƣa
hiện diện ở nhóm các quốc gia có thu nhập thấp và mới phát triển ở mức
độ khá khiêm tốn tại các nƣớc có thu nhập trung bình. Nếu lấy chuẩn
hƣớng tới là thị trƣờng trái phiếu ở các quốc gia phát triển (nhóm thu nhập
cao), khối lƣợng công việc mà các quốc gia này phải làm còn rất nặng nề.
Đồ thị 1.4 – Giá trị giao dịch thị trƣờng trái phiếu
2. Nhóm tiêu chí về khả năng tiếp cận thị trường
Thị trường cổ phiếu
45
TTCK có một chức năng quan trọng là cho phép các công ty, đặc
biệt là các công ty mới, tiếp cận dễ dàng hơn (và với chi phí thấp hơn) các
nguồn vốn nhàn rỗi thông qua phát hành chứng khoán trên thị trƣờng.
Đối với thị trƣờng cổ phiếu, việc tiếp cận thị trƣờng đƣợc nhìn nhận
từ cả hai góc độ: ngƣời cần vốn – hay là các công ty, và ngƣời có vốn –
chính là các nhà đầu tƣ. Một thị trƣờng càng phát triển hiệu quả, khả năng
tiếp cận của các đối tƣợng nói trên vào thị trƣờng sẽ càng lớn, cũng có
nghĩa là cơ hội của họ trong việc hƣởng những lợi ích mà thị trƣờng mang
lại càng rộng mở hơn. Để đánh giá khía cạnh này của một thị trƣờng cổ
phiếu, ngƣời ta dựa vào những chỉ báo sau đây.
(1) Sự tập trung của thị trường xét về mức độ vốn hóa.
Chỉ số này còn gọi là chỉ số Herfindahl, phản ánh sự tham gia của
các công ty vào thị trƣờng theo quy mô và đƣợc tính theo tỷ trọng của từng
cổ phiếu niêm yết trong tổng giá trị vốn hóa toàn thị trƣờng. Hệ số
Herfindahl càng cao thể hiện mức độ tập trung trên thị trƣờng càng cao
chứng tỏ thị trƣờng càng bị chi phối bởi một số ít những công ty quy mô
lớn.
Để dễ nhìn nhận, ngƣời ta thƣờng xác định khả năng tiếp cận của
các công ty đối với thị trƣờng, dựa vào tỷ trọng của 10 CTNY lớn nhất
trong tổng giá trị vốn hóa thị trƣờng.
V
V
T
10
10
Trong đó: T10 : Tỷ lệ giá trị vốn hóa của 10 công ty lớn so với mức vốn hóa
thị trƣờng
V10: Giá trị vốn hóa của 10 công ty lớn nhất
V: Giá trị vốn hóa toàn thị trƣờng
Tỷ trọng này càng cao cho thấy các công ty lớn chiếm ƣu thế càng
lớn trên TTCK, cũng có nghĩa là sự tham gia của những công ty có quy mô
nhỏ vào thị trƣờng có khả năng bị hạn chế hơn. Mặt khác, xét trên lý
thuyết, chúng ta đều biết rõ rằng thị trƣờng cổ phiếu mở ra cho các công ty
một cơ hội tiếp cận nguồn vốn nhàn rỗi với chi phí tƣơng đối thấp (so sánh
với các hình thức huy động vốn khác). Nhƣ vậy, sự tham gia ít ỏi của các
công ty thuộc nhóm dƣới (xét về quy mô) không phải là một điều tốt xét về
lâu dài.
(2) Tỷ lệ cổ phiếu được nắm giữ riêng
Tỷ lệ này đƣợc đo bằng tỷ lệ phần trăm số cổ phiếu thuộc sở hữu
của nhóm cổ đông đa số giành quyền kiểm soát.
CPbn
CPnb
Tr
46
Trong đó: Tr : Tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ riêng
CPnb: Số cổ phiếu đƣợc nắm giữ trong nội bộ
CPbn: Số cổ phiếu do bên ngoài nắm giữ
Tỷ lệ này thể hiện tỷ trọng cổ phiếu đƣợc nắm giữ bởi những ngƣời
nội bộ trong một công ty, chẳng hạn nhƣ các quan chức trong ban quản lý,
hội đồng quản trị hay ngƣời nhà của họ và những cổ đông lớn. Chỉ số này
phản ánh khả năng tiếp cận thị trƣờng khi nhìn nhận từ cấp độ công ty
(thay vì cấp độ thị trƣờng nhƣ trong trƣờng hợp chỉ báo mức độ tập trung
về quy mô vốn hóa). Nhìn vào tỷ lệ cổ phiếu đƣợc nắm giữ riêng, ta có thể
thấy đƣợc mức độ sở hữu công ty thuộc về đối tƣợng là ngƣời nội bộ. Khi
lƣợng cổ phiếu nằm trong tay đối tƣợng này càng lớn, khả năng các nhà
đầu tƣ bên ngoài có thể mua cổ phiếu (hay tham gia góp vốn) trong những
công ty này càng hạn chế. Bên cạnh đó, sự tập trung quyền sở hữu cũng có
thể tạo ra những rào cản đối với các nhà đầu tƣ bên ngoài trong việc tham
gia giám sát công ty, hay nói cách khác là gây ra những tác động tiêu cực
đối với sự minh bạch thông tin.
Thị trường trái phiếu
Sự tiếp cận một thị trƣờng trái phiếu, đặc biệt là thị trƣờng nội địa,
chỉ hiệu quả khi chi phí vốn ở mức thấp và quá trình huy động vốn cho khu
vực tƣ nhân trong nƣớc tƣơng đối dễ dàng. Để đo lƣờng khả năng tiếp cận
thị trƣờng, có thể sử dụng hai chỉ báo sau:
(1) Tỷ lệ trái phiếu nội địa trên tổng giá trị trái phiếu đang lưu
hành.
Tỷ lệ này đƣợc tính theo công thức sau đây:
TP
TPnd
Tnd
Trong đó: Tnd : Tỷ lệ trái phiếu nội địa
TPnd: Số trái phiếu phát hành trong nƣớc
TP: Tổng trái phiếu đƣợc phát hành
Nói chung, thị trƣờng trong nƣớc vẫn là lựa chọn hàng đầu đối với
các tổ chức phát hành do đây là môi trƣờng huy động vốn quen thuộc hơn,
có thể đòi hỏi chi phí thấp hơn và cũng hạn chế đƣợc rủi ro hơn (nhƣ
không có rủi ro tỷ giá nhƣ khi phát hành trái phiếu ở thị trƣờng nƣớc
ngoài). Chỉ báo này cũng phản ánh năng lực của thị trƣờng địa phƣơng
trong việc cung cấp vốn cho các đối tƣợng phát hành.
(2) Tỷ lệ trái phiếu khu vực tư nhân trên tổng giá trị trái phiếu nội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- De tai KX01.17-06.10 - PTBV TTCK 2020.pdf