Tài liệu Đề tài Sự hình thành và phát triển của các bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam: Lời mở đầu
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước ta đã bắt tay vào công cuộc khôi phục nền kinh tế và xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn đầu, chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung của Đảng và Nhà nước tỏ ra rất có hiệu quả với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng càng về sau, nó càng bộc lộ những yếu kém, lạc hậu, không phù hợp với sự phát triển của thời đại, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế Việt nam. Do đó, để bắt kịp với xu thế của thời đại, năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có chính sách mới, chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nhằm hoạt động có hiệu quả hơn.
Sự chuyển đổi này có rất nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết về mặt lí luận và thực tiễn, từ quản lí vĩ mô đến quản lí vi mô của nền kinh tế. Một trong những vấn đề cấp bách đó là: phải đảm bảo các thông tin kinh tế qua lại trong các mối quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân, thể nhân, trong hoạt động quản lí vĩ mô ...
32 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Sự hình thành và phát triển của các bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước ta đã bắt tay vào công cuộc khôi phục nền kinh tế và xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn đầu, chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung của Đảng và Nhà nước tỏ ra rất có hiệu quả với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng càng về sau, nó càng bộc lộ những yếu kém, lạc hậu, không phù hợp với sự phát triển của thời đại, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế Việt nam. Do đó, để bắt kịp với xu thế của thời đại, năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có chính sách mới, chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nhằm hoạt động có hiệu quả hơn.
Sự chuyển đổi này có rất nhiều vấn đề bức xúc cần phải giải quyết về mặt lí luận và thực tiễn, từ quản lí vĩ mô đến quản lí vi mô của nền kinh tế. Một trong những vấn đề cấp bách đó là: phải đảm bảo các thông tin kinh tế qua lại trong các mối quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân, thể nhân, trong hoạt động quản lí vĩ mô và vi mô của Nhà nước về các hoạt động kinh tế xã hội phải đáng tin cậy, phải có sự đảm bảo về mặt pháp lí và kinh tế đối với độ tin cậy các thông tin đó.. Đây chính là vấn đề then chốt nhất để hạn chế các mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Để giải quyết vấn đề này, đồng thời với việc chuyển đổi cơ chế quản lí của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, hệ thống bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam đã ra đời.
Vậy trong hơn một thập kỉ qua, hệ thống bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam đã hoạt động ra sao để góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước? Để trả lời cho câu hỏi này, và cũng để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em đã chọn đề tài: “ Sự hình thành và phát triển của các bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam “
Khái quát về kiểm toán
Bản chất, chức năng, ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán.
Bản chất của kiểm toán
Bản chất của kiểm toán , nếu xét ở góc độ chung nhất, chính là sự kiểm tra độc lập từ bên ngoài được thực hiện bởi một lực lượng có trình độ kĩ năng chuyên môn cao, chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt pháp lí và kinh tế đối với các nhận xét của mình về độ tin cậy của các thông tin được thẩm định. Nhà nước cũng như xã hội sẽ quản lí và giám sát hoạt động kiểm tra này trên ba mặt chủ yếu: - Các thông tin công khai phải tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực chung được xã hội thừa nhận.
- Hoạt động kiểm toán phải dựa vào các chuẩn mực chung.
- Mọi cá nhân, tổ chức có liên quan đến các sai sót hoặc xuyên tạc các thông tin công khai để đánh lừa các pháp nhân hoặc thể nhân trong các mối quan hệ kinh tế xã hội gây ra các thiệt hại thì pháp luật sẽ can thiệp để buộc các cá nhân tổ chức có hành vi trên phải chịu trách nhiệm của mình cả về kinh tế và pháp lí đối với sự sai lệch về thông tin và các thiệt hại đó.
Kiểm toán trong giai đoạn đầu của sự phát triển chủ yếu là kiểm tra, xác nhận độ trung thực của báo cáo tài chính công khai nên có quan điểm cho rằng kiểm toán là kiểm tra kế toán, tài chính độc lập. Nhưng sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm cho hoạt động của kiểm toán không ngừng mở rộng phạm vi của mình. Từ chỗ chỉ kiểm tra các báo cáo tài chính và cho nhận xét, kiểm toán đã tiến hành thẩm định và nêu nhận xét về độ tin cậy các thông tin có liên quan đến cả hiệu quả các hoạt động quản lí cũng như độ tuân thủ các quy tắc, quy định của các nhà kinh tế - tài chính trong hoạt động của mình ở mức độ nào. Do đó, khái niệm về kiểm toán được nhiều nhà khoa học thừa nhận, đó là: “Kiểm toán là quá trình mà theo đó một cá nhân độc lập có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng đó với các chuẩn mực đã xây dựng “
Chức năng của kiểm toán:
Từ bản chất của kiểm toán có thể thấy kiểm toán có chức năng cơ bản là xác minh và bày tỏ ý kiến.
Chức năng xác minh:
Chức năng xác minh nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính pháp lí của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các báo cáo tài chính. Xác minh là chức năng cơ bản nhất gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát triển và được thể hiện khác nhau tuỳ đối tượng cụ thể của kiểm toán. Đối với kiểm toán báo cáo tài chính, việc xác minh được thực hiện theo 2 mặt:
- Tính trung thực của các con số.
- Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính.
Đối với các thông tin đã được lượng hoá: Thông thường, việc xác minh được thực hiện trước hết qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Kết quả cuối cùng khi đã xác minh được điều chỉnh trực tiếp để có hệ thống thông tin tin cậy và lập các bảng khai tài chính. Theo đó, kiểm toán trước hết là xác minh thông tin.
Đối với các nghiệp vụ (hoạt động), chức năng xác minh của kiểm toán có thể được thực hiện bởi hệ thống ngoại kiểm hay nội kiểm. Sản phẩm của hoạt động xác minh này thường là những biên bản. ở lĩnh vực này, kiểm toán hướng vào việc thực hiện chức năng thứ hai là bày tỏ ý kiến.
Chức năng bày tỏ ý kiến
Bày tỏ ý kiến là đưa ra ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về tính trung thực, mức độ hợp lí của các thông tin tài chính kế toán. Chức năng bày tỏ ý kiến có thể được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lí, tư vấn qua xác minh:
- Tư vấn cho quản lí nhà nước trong việc phát hiện sự bất cập của chế độ tài chính kế toán, qua đó kiến nghị với các cơ quan quản lí nhà nước xem xét, nghiên cứu, hoàn thiện cho phù hợp.
- Tư vấn cho việc quản lí của các đơn vị được kiểm toán. Thông qua việc chỉ ra những sai sót, yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ, công tác quản lí tài chính, kiểm toán viên gợi mở, đề xuất các biện pháp khắc phục hoàn thiện đối với đơn vị. Trong nhiều trường hợp, thông qua kiểm toán, các tổ chức đơn vị doanh nghiệp đã kịp thời chấn chỉnh hệ thống kiểm soát nội bộ, chế độ quản lí tài chính ở đơn vị mình. Qua đó khai thác có hiệu quả hơn năng lực tài chính phát triển đơn vị.
1.3. ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán trong quản lí:
Kiểm toán không phải là hoạt động “tự thân” và “vị thân”. Kiểm toán sinh ra từ yêu cầu của quản lí và phục vụ cho yêu cầu của quản lí. Từ đó có thể thấy rõ ý nghĩa, tác dụng của kiểm toán trên nhiều mặt:
Thứ nhất, kiểm toán tạo niềm tin cho “những người quan tâm”. Trong cơ chế thị trường, có nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh của nó trong tài liệu kế toán, bao gồm:
- Các cơ quan nhà nước
- Các nhà đầu tư
- Các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lí khác
- Người lao động
- Khách hàng, nhà cung cấp và những người quan tâm khác.....
Có thể nói việc tạo ra niểm tin cho những người quan tâm là yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển của kiểm toán với tư cách là một hoạt động độc lập.
Thứ hai, kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động tài chính kế toán nói riêng và hoạt động của đơn vị kiểm toán nói chung. Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính, đều bao gồm những mối quan hệ đa dạng, luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Tính phức tạp của hoạt động này càng tăng lên bởi quan hệ chặt chẽ giữa các quan hệ tài chính với lợi ích con người. Trong khi đó, thông tin kế toán là sự phản ánh của hoạt động tài chính. Ngoài việc chứa đựng những phức tạp của các quan hệ tài chính, thông tin kế toán còn là sản phẩm của quá trình xử lí thông tin bằng phương pháp kĩ thuật rất đặc thù. Do đó, nhu cầu hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp trong quản lí tài chính càng có đòi hỏi thường xuyên và ở mức độ cao hơn.
Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lí. Kiểm toán không chỉ xác minh rõ độ tin cậy của thông tin mà còn tư vấn về quản lí. Vai trò tư vấn này được thấy rõ trong kiểm toán hiệu năng và hiệu quả quản lí.
Phân loại kiểm toán theo hệ thống bộ máy tổ chức
Kiểm toán nhà nước ( KTNN )
KTNN là hệ thống bộ máy chuyên môn của nhà nước thực hiện các chức năng kiểm toán tài sản công. Theo đó, chức năng, nhiệm vụ của KTNN là:
- Thực hiện việc kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do ngân sách cấp.
- Tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt và những nhiệm vụ kiểm toán đột xuất do thủ tướng chính phủ giao, báo cáo kết quả kiểm toán cho thủ tướng chính phủ, quốc hội và uỷ ban thường vụ quốc hội, cho các cơ quan nhà nước khác theo quy định của chính phủ.
- Thông qua việc kiểm toán, thực hiện công tác tư vấn, góp ý kiến với các đơn vị được kiểm toán sửa chữa, khắc phục sai sót, vi phạm, chấn chỉnh công tác kế toán của đơn vị để đảm bảo chỉ tiêu tiết kiệm và hiệu quả nhất. Đồng thời đề xuất với thủ tướng chính phủ việc sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lí tài chính kế toán cần thiết.
2.2. Kiểm toán độc lập ( KTĐL )
KTĐL là quá trình kiểm tra các số liệu, tài liệu của các doanh nghiệp (DN) do các kiểm toán viên độc lập thực hiện để xác nhận tính trung thực, hợp lí của các báo cáo tài chính và cung cấp kết quả kiểm toán cho những người trả phí kiểm toán
Các số liệu, tài liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị đã được kiểm tra, xác nhận của KTĐL là căn cứ tin cậy đáp ứng yêu cầu của đơn vị, của các cơ quan quản lí nhà nước và của tất cả các tổ chức, cá nhân có quan hệ và quan tâm tới hoạt động của đơn vị. Ngoài chức năng chính là kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lí của các thông tin trong BCTC, các tổ chức KTĐL còn được thực hiện các chức năng như:
- Giám định tài chính kế toán
- Thực hiện các dịch vụ tư vấn về quản lí tài chính kế toán, thuế
- Xác định giá trị vốn của DN trong các trường hợp góp vốn liên doanh, cổ phần hoá, phá sản......
. Kiểm toán nội bộ (KTNB)
KTNB là một tổ chức kiểm toán do các đơn vị tổ chức (Bộ, ngành, đơn vị, tổ chức, DN......) tự lập ra trong bộ máy quản lí của mình nhằm mục đích phục vụ cho các yêu cầu quản lí, điều hành của các nhà quản lí của đơn vị.
Nhiệm vụ của KTNB:
- Quản lí và bảo vệ tài sản của đơn vị
- Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan và hoàn thiện hệ thống này.
- Kiểm tra, thẩm định tính xác thực của các thông tin tài chính mà các bộ phận hữu quan đã cung cấp cho các nhà quản lí.
- Tuỳ theo yêu cầu của người lãnh đạo, KTNB sẽ thực hiện việc kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động hay kiểm toán tài chính.
quá trình hình thành và phát triển của các bộ máy tổ chức kiểm toán Việt nam
Sự cần thiết phải hình thành các bộ máy tổ chức kiểm toán VN
Đi vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đã khẳng định kinh tế thị trường không phải riêng có của CNTB, mà là sản phẩm, là thành tựu chung của xã hội loài người. Hiện nay chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN. Điều khác cơ bản so với nền kinh tế thị trường nói chung ở chỗ, nền kinh tế nước ta do nhà nước XHCN quản lí và hướng đi lên CNXH. Vai trò quản lí của nhà nước là giữ đúng định hướng phát triển của nền kinh tế theo mục tiêu, quan điểm và đường lối của Đảng, phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực vốn có của nền kinh tế thị trường. Hơn 10 năm qua đã chứng tỏ đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta. Nền kinh tế nước ta đã ra khỏi khủng hoảng và đạt được những thành tựu đáng kể, nhân dân phấn khởi, thế giới đánh giá cao và khích lệ. Tuy nhiên, những mặt trái của cơ chế thị trường cũng ngày càng bộc lộ rõ nét và gây ảnh hưởng không nhỏ, thậm chí có một số biểu hiện đáng lo ngại về kinh tế xã hội. Mặc dù chúng ta có nhiều cố gắng ngăn chặn và xử lí, song tình trạng buôn lậu, tham nhũng, hoạt động kinh doanh trái pháp luật, trốn thuế,...gây thất thoát ngân sách, tài sản nhà nước ngày càng lớn và khá phổ biến ở nhiều nơi. Ví dụ : Vụ Tamexco thất thoát khoảng 400 tỉ đồng, vụ Tân Trường Sanh khoảng vài nghìn tỉ đồng, vụ Epco-Minh Phụng tới nhiều nghìn tỉ đồng...
Một nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên, đó là: Khi đi vào kinh tế thị trường chúng ta đã quá chậm và chưa tập trung đúng mức cần thiết cho việc hình thành và tăng năng lực hệ thống kiểm toán bao gồm: KTNN, KTĐL và KTNB các đơn vị kinh tế cơ sở, trước hết là doanh nghiệp nhà nước. Kinh nghiệm thế giới cho thấy là ở mọi nước kinh tế thị trường phát triển đều cần phải có hệ thống kiểm toán mạnh. Có thể nói đây là một công cụ đắc lực không thể thiếu để quản lí kinh tế của mỗi quốc gia.
Bên cạnh đó, chặng đường gần hai mươi năm chuyển từ nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, tuy ngắn ngủi nhưng đã tạo ra sức sống cho nền kinh tế, mở ra những cơ hội mới, những thách thức mới cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam. Các DN phải hoạt động theo những quy luật của nền kinh tế thị trường để có thể tồn tại và phát triển. Trong quá trình hoạt động, các DN cần phải có trách nhiệm trong việc tổ chức và huy động vốn sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính tín dụng và chấp hành luật pháp. Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho các DN, các cơ quan cấp trên, cơ quan chủ quản, những nhà đầu tư, những công ty liên doanh liên kết....thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, xác định đầy đủ và đúng đắn nguyên nhân mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính của đơn vị. Mà đứng ở những góc độ khác nhau, mỗi cơ quan đơn vị tìm hiểu về khía cạnh tài chính khác nhau nhằm có những quyết định đúng đắn và thiết thực cho đơn vị, cơ quan của mình.
Nhưng đứng trước thực trạng của nền kinh tế Việt Nam, liệu những con số trong báo cáo tài chính có đủ để làm yên lòng những cơ quan chủ quản và những nhà đầu tư không? Như vậy thì việc phân tích các BCTC có cần thiết nữa hay không? Nhiều vấn đề liên quan được đặt ra quanh vấn đề BCTC có trung thực đúng như hoạt động của đơn vị trong một thời kì hoạt động nhất định không? Quả thật, chúng ta biết rằng các BCTC hàng năm do các DN lập ra là đối tượng quan tâm của rất nhiều người: chủ DN, các cổ đông, các hội viên hội đồng quản trị, chủ đầu tu, ngân hàng....Ngoài ra, các BCTC cũng rất cần thiết cho các cơ quan thuế, cơ quan chủ quản của đơn vị....Tuy mỗi đối tượng quan tâm đến BCTC của DN ở mỗi góc độ khác nhau nhưng nhìn chung đều có cùng mong muốn, nguyện vọng là được sử dụng những thông tin đó có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực. Chính nguyên nhân sâu xa này, mới nảy sinh ra nhu cầu là cần có một bên thứ ba, độc lập và khách quan có kĩ năng nghiệp vụ, địa vị và trách nhiệm pháp lí kiểm tra và đưa ra lời kết luận là BCTC của DN lập ra có phản ánh đúng thực trạng tài chính của DN không....Và từ đây hoạt động kiểm toán độc lập thật sự là cần thiết cho các doanh nghiệp trong các hoạt động kinh doanh trên thương trường vốn có nhiều rủi ro.
Từ những điều phân tích trên, ta thấy, việc hình thành và phát triển hệ thống bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết. Do đó, để nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả hơn, hạn chế được tiêu cực, từ năm 1991, hệ thống bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam chính thức hình thành, mà khởi đầu là KTĐL.
2. Quá trình hình thành và phát triển của các bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam
2.1. KTĐL:
Có thể nói rằng, sự mong muốn có các BCTC trung thực đã tồn tại ngay từ khi các cá nhân có quan hệ hợp đồng với người khác. Cũng như các loại kiểm toán khác, KTĐL ra đời xuất phát từ nhu cầu khách quan kiểm tra và xác nhận độ tin cậy của BCTC theo các chuẩn mực và nguyên tắc đã được xây dựng. KTĐL ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. ở nước ta, hoạt động KTĐL đã hình thành và phát triển từ trước ngày giải phóng miền Nam: Các văn phòng hoạt động độc lập với các kế toán viên công chứng hoặc các giám định viên kế toán và cả văn phòng kiểm soát quốc tế như SGV, Arthur Andersen, Price Waterhouse.....Sau thống nhất đất nước, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, KTĐL không tồn tại. Vì vậy, có thể nói KTĐL mới thực sự xuất hiện từ sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước, nhu cầu kiểm toán các đơn vị có vốn đầu tư đầu tư nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài, các chương trình tín dụng, phát triển, viện trợ quốc tế là khách quan và ngày càng tăng. Sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, ngân hàng tư nhân, sự xuất hiện thị trường chứng khoán....và xu hướng cổ phần hoá một số DNNN cũng đòi hỏi phải có dịch vụ KTĐL.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, ngày 13/5/1991, theo giấy phép số 957/PPLT của thủ tướng chính phủ, Bộ Tài chính đã kí quyết định thành lập 2 công ty: Công ty kiểm toán Việt Nam với tên giao dịch là VACO ( quyết định 165-TC/QĐ/TCCB ) và công ty dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch là ASC ( quyết định 164-TC/QĐ/TCCB ), sau này đổi tên là công ty dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán - AASC ( quyết định 639-TC/QĐ/TCCB ngày 14/9/1993 ). Sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của VACO và AASC đánh dấu sự mở đầu tốt đẹp của dịch vụ KTĐL ở Việt Nam. Với cương vị là các công ty đầu ngành, VACO và AASC đã có nhiều đóng góp không chỉ trong việc phát triển công ty, mở rộng địa bàn kiểm toán mà cả trong việc cộng tác với các công ty và tổ chức nước ngoài phát triển sự nghiệp kiểm toán Việt Nam. Cũng trong năm 1991, công ty Ernst and Young là công ty kiểm toán nước ngoài đầu tiên được nhà nước Việt Nam cho chấp nhận lập văn phòng hoạt động tại Việt Nam. Từ năm 1993, trước đòi hỏi của thị trường và dịch vụ tài chính, kế toán và kiểm toán, nhà nước đã khuyến khích phát triển đa dạng các thành phần kinh tế và hợp tác với nước ngoài. Vì thế, nhiều công ty kiểm toán thuộc các thành phần kinh tế, dưới nhiều hình thức pháp lí khác nhau đã lần lượt ra đời. Cho đến nay, chúng ta đã có 34 công ty thuộc mọi thành phần kinh tế, một sự phát triển nhanh chóng mà theo đánh giá của nhiều nghiên cứu tài chính thì bằng 30 năm phát triển KTĐL ở một số nước.
Sự trưởng thành của KTĐL, trước hết là ở đội ngũ kiểm toán viên (KTV) chuyên nghiệp. Ngay từ khi thành lập, các công ty kiểm toán đã rất chú trọng đến việc tuyển chọn KTV và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên. Tháng 10/1994, lần đầu tiên Bộ Tài chính tổ chức thi tuyển và cấp chứng chỉ đặc cách cho 49 người đủ điều kiện , tiêu chuẩn KTV chuyên nghiệp. Đến 30/11/2001, Bộ Tài chính đã tổ chức 8 kì thi tuyển KTV cho người Việt Nam, 3 kì thi sát hạch cho người nước ngoài và đã cấp 531 chứng chỉ KTV cho những người đạt tiêu chuẩn. Cũng đến 30/11/2001, cả nước có 2127 nhân viên làm việc trong 34 công ty kế toán, kiểm toán, trong đó có: 1395 nhân viên chuyên nghiệp, có 487 KTV gồm: 396 KTV người Việt Nam và 38 KTV người nước ngoài. Trong các KTV người Việt Nam,. đã có 16 người đạt trình độ và được cấp chứng chỉ KTV quốc tế. Nhìn chung đội ngũ KTV người Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp đã thành thục hơn nhiều. Đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu thực tế phát sinh, tổ chức quốc tế là Viện kế toán viên công chứng Anh quốc (ACCA) đã thực hiện chương trình đào tạo cơ bản theo tiêu chuẩn quốc tế cho KTV ở Việt Nam. Tháng 5/2001, ACCA đã cấp chứng chỉ CPA của Anh cho 9 người Việt Nam đầu tiên đã tốt nghiệp. Chương trình này sẽ được tiếp tục với sự hợp tác của Bộ Tài chính Việt Nam.
Chính sự phát triển đông đảo của đội ngũ KTV đã mở rộng và làm phong phú thêm các loại hình dịch vụ kiểm toán và kế toán. Cùng với sự phát triển về số lượng công ty và quy mô từng công ty, các dịch vụ do các công ty kiểm toán cung cấp đã không ngừng đa dạng hoá theo hướng mở rộng từng loại dịch vụ chi tiết trong dịch vụ kiểm toán (như kiểm toán BCTC, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán soát xét, kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư XDCB), mở rộng dịch vụ tư vấn (như tư vấn kế toán, tài chính, tư vấn quản lí, thuế, tư vấn đầu tư, luật; tư vấn sáp nhập, giải thể DN....), dịch vụ tin học, dịch vụ thẩm định, định giá tài sản, dịch vụ tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, cung cấp thông tin.....
Trong hơn 10 năm qua, ngành kiểm toán tuy còn rất non trẻ song đã có những tiến bộ đáng kể. Hoạt động kiểm toán đã phát triển nhanh về số lượng và quy mô từng công ty kiểm toán cũng như nâng cao năng lực chuyên môn, chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Hầu hết các dịch vụ cung cấp cho khách hàng ngày càng được tín nhiệm, được xã hội thừa nhận. Thông qua các hoạt động dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài chính, kế toán, các công ty kiểm toán đã góp phần phổ cập cơ chế chính sách kinh tế tài chính, ngăn ngừa lãng phí, tham nhũng, góp phần thực hiện công khai minh bạch BCTC, phục vụ đắc lực cho công tác quản lí, điều hành kinh tế tài chính của nhà nước và hoạt động kinh doanh của các DN.
Thông qua dịch vụ kiểm toán và kế toán, đặc biệt là kiểm toán BCTC, các công ty đã góp phần giúp các DN, các dự án quốc tế, các đơn vị hành chính sự nghiệp nắm bắt được kịp thời, đầy đủ và tuân thủ đường lối , chính sách kinh tế tài chính, loại bỏ được chi phí bất hợp lí, tạo lập được những thông tin tin cậy, từng bước đưa công tác quản lí tài chính, kế toán trong các doanh nghiệp vào nề nếp...., hoạt động KTĐL đã xác định được vị trí trong nền kinh tế thị trường và góp phần quan trọng trong việc làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư và nền tài chính quốc gia.
Thực trạng hoạt động và phát triển của một số công ty KTĐL tiêu biểu ở Việt Nam
a. Công ty kiểm toán Việt Nam VACO:
VACO là công ty kiểm toán đầu tiên của Việt Nam được thành lập. Qua 6 năm hoạt động, phát triển và hợp tác, đến tháng 10/1997, VACO đã trở thành thành viên của hãng Deloitte Touche Tohmatsu quốc tế (DTT) - một trong 5 hãng kiểm toán hàng đầu thế giới. VACO hiện tại là công ty kiểm toán duy nhất tại Việt Nam đạt trình độ quốc tế, là đại diện của DTT tại Việt Nam. Thông qua hình thức hợp tác tối ưu với DTT, đồng thời biết khai thác tốt lợi thế của mình (tập thể đội ngũ KTV tinh nhuệ đạt trình độ quốc tế được đào tạo có hệ thống trong và ngoài nước; bộ máy quản lí là ban giám đốc của VACO am hiểu sâu sắc về tập quán kinh doanh, luật pháp Việt Nam). VACO đã đạt được những thành tựu đáng kể trong 9 năm kể từ ngày thành lập, góp phần vào sự thành công của ngành kiểm toán còn non trẻ tại Việt Nam .
Trong 9 năm qua, VACO đã kí kết và thực hiện hợp đồng cho hơn 3000 khách hàng trong và ngoài nước. Riêng năm 1999, VACO đã kí hơn 450 hợp đồng cung cấp dịch vụ kiểm toán và tư vấn cho nhiều loại hình khách hàng, tăng 134% so với năm 1998 và tăng gấp nhiều lần so với những năm đầu phát triển. Các dịch vụ kiểm toán của công ty chủ yếu tập trung vào các dự án do ngân hàng và các tổ chức quốc tế tài trợ (ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu á); các tổng công ty lớn đầu ngành ở Việt Nam như: Tổng công ty Điện lực Việt Nam, tổng công ty Hàng không Việt Nam, tổng công ty Dầu khí, tổng công ty Than, tổng công ty Ximăng, tổng công ty Thuốc lá, tổng công ty Cao su, tổng công ty Bưu chính viễn thông, tổng công ty Xăng dầu, tổng công ty Dệt may Việt Nam....
Nhằm đa dạng hóa khách hàng và dịch vụ, VACO đã mở rộng dịch vụ kiểm toán cho các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính, các công ty bảo hiểm và mở rộng dịch vụ tư vấn thuế, quản lí, kế toán, tư vấn đầu tư, đặt văn phòng đại diện, chi nhánh công ty nước ngoài, trợ giúp cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước hoạt động có hiệu quả. Với phương châm cung cấp dịch vụ có chất lượng tốt nhất cho khách hàng, tranh thủ sự giúp đỡ về kĩ thuật của các chuyên gia nước ngoài, cán bộ, KTV của VACO đã cố gắng, nỗ lực không ngừng. Dịch vụ của công ty đã được khách hàng đánh giá là ngang tầm với chất lượng dịch vụ của các công ty danh tiếng quốc tế.
Trong quá trình hoạt động của mình, VACO luôn luôn theo sát các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các chỉ tiêu định hướng và sự chỉ đạo trực tiếp của bộ Tài chính. Cùng với sự hợp tác chặt chẽ với công ty DTT, công ty đã phát huy nội lực của mình để không ngừng phát triển trở thành công ty mạnh nhất trong tổng số các công ty kiểm toán ở Việt Nam. Năm 1999, doanh thu công ty tăng 122% so với doanh thu năm 1998, nộp ngân sách nhà nước 135% so với năm 1998. Có thể nói năm 1999, VACO đã gặt hái được những thành công rất đáng khích lệ. Công ty đã góp phần tuyên truyền, hướng dẫn và đưa hai luật thuế mới là thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập DN (TNDN) vào hoạt động kinh doanh của các DN, bằng phương thức:
- Tổ chức nhiều cuộc hội thảo đào tạo và hướng dẫn về thuế cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài và DNNN.
- Phát hành các bản tin hàng tháng bằng tiếng Anh, tiếng Việt về văn bản pháp luật và thuế nhằm thường xuyên cập nhật và cung cấp thông tin cho các DN
Trong quá trình hệ thống hoá, xây dựng và ban hành các chuẩn mực kế toán và kiểm toán Việt Nam, VACO đã đóng góp tích cực vào việc soạn thảo và ban hành các chuẩn mực này. VACO đã cung cấp cho vụ chế độ kế toán những tài liệu, sách mới cập nhật về thực hành chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế do liên đoàn kế toán quốc tế và tổ chức IAFC ban hành.
9 năm qua là những năm VACO hoạt động trong điều kiện kinh tế khó khăn và nhiều biến động do bị ảnh hưởng ít nhiều của khủng hoảng tài chính trong khu vực, là những năm đầu mở cửa nền kinh tế, những năm đầu thực hiện luật thuế GTGT và thuế TNDN, công ty cũng phải cạnh tranh gay gắt với các công ty kiểm toán có hạng trên thế giới của các hãng kiểm toán thế giới tại Việt Nam như công ty Price Water House Coopers; công ty KPMG; công ty E+Y; công ty A+A nhưng VACO vẫn được đánh giá là con chim đầu đàn của ngành kiểm toán Việt Nam .
b. Công ty dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán AASC
Ra đời cùng với VACO năm 1991, lúc mới thành lập, AASC gặp rất nhiều khó khăn. Toàn công ty chỉ có 5 cán bộ nhân viên và vốn liếng kinh doanh chưa đầy 200 triệu đồng, trong khi đó thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán tuy mới hình thành nhưng đã tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Các công ty kiểm toán nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động hàng trăm năm đã mở văn phòng đại diện quảng bá uy tín thương hiệu, còn các công ty kiểm toán trong nước thì nhanh chóng chiếm thị phần, AASC phải chịu một sức ép cạnh tranh rất lớn. Trước những khó khăn đó, bằng nhiều biện pháp tháo gỡ và được sự giúp đỡ công tâm của lãnh đạo bộ Tài chính, AASC đã từng bước ổn định và phát triển đi lên. Nếu doanh thu của công ty năm 1992 là 840 triệu thì năm 1995 là 4 tỉ 378 triệu và năm 2000 tăng lên 17,5 tỉ. Số lợi nhuận tương ứng là: 245 triệu năm 1992, 924 triệu năm 1995 và 4,5 tỉ năm 2000. Có được những kết quả như vậy là nhờ AASC đã biết chú trọng đến việc mở rộng khách hàng. Đến nay, AASC đã trở thành đối tác của các tổng công ty 91 như: tổng công ty Bưu chính viễn thông, tổng công ty Hàng không Việt Nam, tổng công ty Than Việt Nam, tổng công ty Dệt may Việt Nam, tổng công ty Điện lực Việt Nam, tổng công ty Thép Việt Nam, tổng công ty Ximăng.....; các tổng công ty 90 như: tổng công ty Công trình giao thông I, tổng công ty Xăng dầu, tổng công ty Xây dựng Hà Nội.....Ngoài ra còn hàng loạt DN liên doanh, các ngân hàng thương mại và các dự án đầu tư phát triển như: Dự án cải tạo quốc lộ 1 (WB 1 và WB 2); dự án quốc lộ 5, dự án cấp thoát nước thành phố Hồ Chí Minh....
Chỉ tính riêng năm 2000, toàn công ty ước tính thực hiện trên 850 hợp đồng dịch vụ, trong đó có những hợp đồng có giá trị lớn như: Hợp đồng kiểm toán các dự án do ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu á, các tổ chức tín dụng quốc tế tài trợ; hợp đồng kiểm toán BCTC của ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam, hợp đồng kiểm toán báo cáo quyết toán công trình XDCB hoàn thành của ngành Bưu chính viễn thông, nhà máy thuỷ điện Trị An, công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, công ty ximăng Nghi Sơn, đường dây tải điện 500KV Bắc Nam....Cụ thể, các loại dịch vụ đã thực hiện dịch vụ kiểm toán BCTC cho các DN như: công ty liên doanh đèn hình Orion-Hanel, công ty thép VPS-Posco, công ty ximăng Nghi Sơn, công ty liên doanh Mặt trời sông Hồng, công ty liên doanh Vinadesung, công ty liên doanh Vietsovpetro.
Riêng đối với dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư các công trình XDCB hoàn thành được coi là thế mạnh hàng đầu của AASC . Nhằm đáp ứng yêu cầu, chủ trương của Đảng và Nhà nước về thực hành tiết kiệm trong lĩnh vực XDCB, bộ phận chuyên trách kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình XDCB đã hoàn thành, kể cả các công trình lớn, phức tạp. Năm 2000, công ty đã thực hiện kiểm toán hơn 400 hợp đồng, với đủ mọi ngành khác nhau, kể cả các công trình có quy mô lớn.
Đối với dịch vụ tư vấn tài chính kế toán: Đây là loại hình dịch vụ đòi hỏi cán bộ, KTV phải tinh thông nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, phải đầu tư thời gian nghiên cứu để đưa ra được những ý kiến tư vấn có chất lượng cao và đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Năm 2000, công ty đã thực hiện được các hợp đồng tư vấn về xây dựng mô hình kế toán, tư vấn lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư, tư vấn lập BCTC, tư vấn về lập hồ sơ mới thầu, tư vấn về thuế....cho nhiều công ty và ban quản lí dự án. Đặc biệt, thông qua công tác kiểm toán , công ty đã tư vấn cho nhiều DN khắc phục những sai sót trong công tác quản lí kinh tế tài chính, từng bước hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống kế toán. Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước và bộ Tài chính giao cho, bằng vốn tích luỹ của mình, AASC đã xây dựng và mua sắm trụ sở làm việc mới và mở thêm nhiều chi nhánh, văn phòng đại diện tại nhiều tỉnh trong nước. Qua hơn 10 năm hoạt động, sự trưởng thành của công ty đã được ghi dấu. Hiện nay, AASC đã có hơn 200 cán bộ, nhân viên, trong đó có 60 người đã được cấp chứng chỉ CPA Việt Nam. Cán bộ nhân viên của công ty là những chuyên gia có trình độ đại học và trên đại học đã qua đào tạo thực tế, có khả năng đáp ứng tốt các yêu cầu của công việc. Ngoài số cán bộ trên, công ty còn có một đội ngũ các công tác viên là các giáo sư, tiến sĩ, các giảng viên giàu kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực.
KTNN:
Trong bất cứ một chế độ xã hội nào, ngân sách nhà nước (NSNN) bao giờ cũng là nguồn lực quan trọng nhất bảo đảm tài chính cho mọi lĩnh vực hoạt động của bộ máy Nhà nước. Để tăng cường sự kiểm soát của nhà nước trong việc sử dụng NSNN và công quỹ quốc gia, bảo đảm tính trung thực, chính xác, hợp pháp và hợp lệ của việc sử dụng nguồn lực tài chính công, ngăn ngừa sự xâm hại đối với tài sản nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền có hiệu lực và hiệu quả trong việc quản lí kinh tế xã hội, đòi hỏi phải thành lập một cơ quan độc lập với cơ quan trực tiếp quản lí ngân sách và tài sản nhà nước để kiểm tra tính tuân thủ của việc sử dụng tiền của nhân dân theo những quy định của pháp luật hiện hành, bảo đảm sự minh bạch về tài chính và hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính này. Vì vậy, ngày 11/7/1994, KTNN chính thức được thành lập trên cơ sở nghị định 70/CP của chính phủ. Theo đó, KTNN là cơ quan thuộc chính phủ và là cơ quan kiểm tra tài chính công của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện việc kiểm toán đối với các cơ quan nhà nước các cấp, các đơn vị có nhiệm vụ thu chi NSNN và các tổ chức đơn vị có quản lí, sử dụng công quỹ và tài sản nhà nước.
Mới ra đời được hơn 5 năm, với chức năng kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế, đơn vị sự nghiệp, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội có thu nộp NSNN và sử dụng nguồn kinh phí do NSNN cấp, KTNN đã bước đầu khẳng định được vai trò không thể thiếu được của mình trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát của nhà nước ta. Những kết quả kiểm toán trung thực, chính xác, khách quan của cơ quan KTNN không chỉ giúp chính phủ, quốc hội đánh giá đúng tình hình trực trạng tài chính ngân sách mà còn cung cấp các thông tin làm căn cứ cho việc hoạch định các chính sách kinh tế, ra các quyết định có hiệu lực cao, đề ra các biện pháp tăng cường quản lí thu chi ngân sách, đồng thời nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trong việc sử dụng NSNN.
KTNN ra đời là một yêu cầu tất yếu của xu thế đổi mới, là sự đòi hỏi khách quan của cơ chế thị trường trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Là một cơ quan mới, chưa có tiền lệ trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước nên trong buổi ban đầu KTNN gặp không ít khó khăn, từ cơ sở vật chất kĩ thuật, tổ chức con người đến công tác chuyên môn, cơ sở pháp lí cho hoạt động......Được sự quan tâm chỉ đạo của chính phủ, quốc hội và các tổ chức Đảng, sự ủng hộ và giúp đỡ của các bộ, ngành, địa phương và với sự nỗ lực vượt bậc của toàn thể CBCNV trong ngành, qua hơn 5 năm hoạt động, KTNN đã thu được những thành quả bước đầu quan trọng.
Trên cơ sở điều lệ tổ chức và hoạt động của KTNN, đến nay bộ máy tổ chức của ngành đã đi vào thế ổn định và tiếp tục phát triển với 4 đơn vị kiểm toán chuyên ngành, 1 văn phòng, 1 trung tâm KH&BDCB, 1 phòng thanh tra và kiểm tra nội bộ thuộc tổng KTNN và 4 KTNN khu vực (phía Bắc, miền Trung, miền Nam và Tây Nam Bộ). Từ chỗ ban đầu chỉ có hơn ba chục người, đến nay, KTNN có gần 500 CBCNV, trong đó hơn 400 người là KTV. Tuy còn thiếu nhiều so với nhiệm vụ lâu dài của ngành nhưng số cán bộ hiện có đã đáp ứng được nhiệm vụ trong giai đoạn đầu thành lập. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ đều được đào tạo có hệ thống, số tốt nghiệp đại học trở lên chiếm 88%, riêng KTV 100% đều đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành tài chính kế toán và một số chuyên ngành kinh tế kĩ thuật khác.
Nhìn lại những năm qua, KTNN đã có bước phát triển đáng kể trong việc triển khai kế hoạch kiểm toán hàng năm với quy mô và chất lượng năm sau cao hơn năm trước, đa dạng hơn và thuộc các lĩnh vực phức tạp hơn. Tính đến nay, KTNN đã thực hiện trên 2500 cuộc kiểm toán tại các cơ quan đơn vị có sử dụng NSNN trên hầu hết các lĩnh vực, kể cả những nơi từ trước đến nay chưa được thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài. Cụ thể: Đã kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN trên địa bàn 61 tỉnh, thành phố; kiểm toán một số chỉ tiêu lớn trong báo cáo quyết toán tài chính của 6 bộ và cơ quan ngang bộ, 4 cơ quan thuộc chính phủ; kiểm toán báo cáo quyết toán 10 công trình trọng điểm quốc gia và 6 chương trình, mục tiêu của chính phủ; kiểm toán một số nội dung chi tiêu lớn thuộc quyết toán năm 1996 của Đài truyền hình Việt Nam, bộ Y tế; kiểm toán quyết toán NSNN năm 1996 của chi cục II Cần thơ và chi cục dự trữ Hải Phòng; kiểm toán BCTC gần 50 tổng công ty 90 và 91; kiểm toán báo cáo quyết toán của 7 quân khu, quân chủng, tổng cục và nhiều DN thuộc khối an ninh-quốc phòng và kinh tế Đảng, kiểm toán báo cáo quyết toán công trình thuỷ điện Vĩnh Sơn, chương trình giải quyết việc làm số 120 và chương trình DSKHHGĐ; tham gia thẩm định báo cáo tổng quyết toán NSNN ...Ngoài ra còn tham gia kiểm toán Dự án khôi phục hệ thống thuỷ lợi và chống lũ số 1259 VIE (SF).
Thông qua kiểm toán, KTNN đã phát hiện và kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi cho NSNN hơn 2500 tỉ đồng, một con số có ý nghĩa trong hoàn cảnh kinh tế đất nước ta hiện nay, gồm các khoản tiền lậu thuế, các khoản để ngoài sổ sách, chi tiêu sai chế độ tài chính, kế toán, hạch toán tăng khối lượng đơn giá trong XDCB.... Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là qua kiểm toán đã giúp các đơn vị thấy được thực trạng tình hình tài chính, sự sai sót trong quản lí chi NSNN, quản lí vốn và tài sản hạch toán chi phí giá thành và kết quả sản xuất kinh doanh, thấy được những yếu kém sơ hở trong quản lí kinh tế và sản xuất kinh doanh, chấn chỉnh sai sót, ngăn ngừa các hành vi tham ô lãng phí.....từ đó đơn vị chấn chỉnh công tác tài chính kế toán, thiết lập kỉ cương trong việc chấp hành các chính sách chế độ nhà nước; đề xuất các giải pháp với các cơ quan chức năng trong việc hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính, lập và giao kế hoạch ngân sách, tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện NSNN, xử lí các vi phạm trong thu chi điều hành và quyết toán NSNN. Những số liệu kiểm toán còn cung cấp cho cơ quan quản lí nhà nước tình hình quản lí và sử dụng các nguồn lực NSNN trong từng địa phương và đơn vị; cung cấp các thông tin xác thực cho các cơ quan quản lí nhà nước về thực trạng thu chi, điều hành và quyết toán NSNN.....Nó cũng là một trong những căn cứ để quốc hội xem xét quyết định phân bổ và phê chuẩn quyết toán NSNN, đồng thời giúp chính phủ hoạch định chính sách và đề ra các biện pháp tăng cường quản lí vĩ mô nền kinh tế. Nhìn chung, các kiến nghị và giải pháp khắc phục tồn tại do KTNN đưa ra mang tính xây dựng và khả thi, được các cơ quan chức năng nhà nước tôn trọng và thực hiện.
Bên cạnh nhiệm vụ chính là xây dựng tổ chức bộ máy và thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm, KTNN cũng đã tiến hành các công tác chuẩn bị cho hướng phát triển lâu dài của ngành như: Nghiên cứu các đề tài khoa học liên quan đến địa vị pháp lí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế hoạt động của cơ quan KTNN, nghiên cứu soạn thảo chuẩn mực và quy trình kiểm toán....Đến nay, sau một thời gian chuẩn bị nghiêm túc và công phu, pháp lệnh KTNN đang được trình chính phủ và uỷ ban thường vụ quốc hội xem xét thông qua, sẽ tạo hành lang pháp lí cần thiết co hoạt động của KTNN.
Kiểm toán là một nghề mới ở nước ta, do đó KTV nhà nước nhìn chung chưa được đào tạo một cách có hệ thống và bài bản, vì vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ kiểm toán đã được đặc biệt coi trọng. Hàng năm KTNN mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, mở các lớp tập huấn theo từng chuyên đề, về chuyên môn kiểm toán, về kiến thức quản lí nhà nước, về chuẩn mực kiểm toán quốc tế, về đạo đức của một KTV.... Đến nay, gần 90% KTV đã qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Hơn 5 năm qua, KTNN cũng đã thu được một số kết quả nhất định trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Tháng 4/1996, KTNN đã gia nhập Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao ( INTOSAI ) và tháng 11/1997 trở thành thành viên của Tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao châu á ( ASOSAI ). Ngoài ra, KTNN còn mở rộng quan hệ hợp tác song phương và đa phương với các cơ quan kiểm toán tối cao của nhiều nước trên thế giới và bước đầu đã thực hiện có kết quả những dự án do ngân hàng phát triển châu á (ADB) và dự án GTZ do CHLB Đức tài trợ. Những quan hệ đối ngoại trên đây đã góp phần nâng cao vị thế KTNN trên trường quốc tế và trong khu vực, mở ra khả năng hợp tác trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, tranh thủ được sự trợ giúp của các nước và tổ chức quốc tế về cơ sở vật chất kĩ thuật, nghiên cứu, đào tạo...
Ngoài ra, KTNN còn thành lập Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ trực thuộc KTNN. Đây cũng là một cơ sở nòng cốt để tập hợp các nhà khoa học trong và ngoài ngành thực hiện các chương trình nghiên cứu, phát triển lí luận kiểm toán ở Việt Nam, thể hiện ở việc đã triển khai thực hiện tốt các đề tài nghiên cứu khoa học, nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp quy về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của KTNN trong tình hình mới làm chỗ dựa pháp lí cho hoạt động kiểm toán trước mắt và lâu dài.
Có thể nói, thời gian qua, hoạt động của KTNN được củng cố và phát triển cả bề rộng, chiều sâu và ngày càng có hiệu quả, đã khẳng định được vai trò quan trọng của ngành KTNN Việt Nam.
KTNB:
Trên thế giới, KTNB ra đời từ những năm 30, 40 của thế kỉ 20. Mặc dù so với KTĐL và KTNN thì loại hình KTNB ra đời muộn hơn, nhưng nó có sự phát triển rất mạnh mẽ, đặc biệt trong công việc quản trị DN. Các đơn vị kinh tế cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống KTNB là phương tiện quản lí có hiệu quả và là công cụ đắc lực giúp các nhà quản lí giám sát được toàn bộ các hoạt động của đơn vị mình. Không những thế, trong các cơ quan nhà nước, việc hình thành các bộ phận KTNB để kiểm tra thường xuyên các hoạt động trong cơ quan đang tỏ ra có nhiều tác dụng thiết thực ở nước ta, KTNB đã nhiều năm thực hiện gắn liền với hoạt động kế toán và quản lí. Đến tháng 10/1997, trên cơ sở luật ngân sách, chính phủ đã ban hành nghị định 59/CP và bộ Tài chính ra quyết định số 832/TC/QĐ/CĐKT ban hành “quy chế KTNB” đã đánh dấu sự hình thành các văn bản pháp quy trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do các văn bản pháp quy cũng đang trong quá trình xây dựng nên việc đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ KTNB cũng đang ở bước đầu. Mặc dù vậy, trong thời gian qua, KTNB vẫn có những bước phát triển mạnh mẽ, đạt được những kết quả khả quan. Có thể xem xét sự phát triển của KTNB ở một số tổng công ty tiêu biểu sau:
Tổng công ty xây dựng Sông Đà: ( TCTXDSĐ )
TCTXDSĐ là một DN có quy mô tầm trung bình trong số những tổng công ty 90 của nhà nước . Tổng tài sản vào khoảng trên 1000 tỉ đồng, tổng giá trị sản xuất kinh doanh hàng năm đạt trên 2000 tỉ đồng, tổng số kĩ sư, kĩ thuật viên và công nhân khoảng 16000 người với trên ba chục DN, đơn vị thành viên và một số liên doanh nằm trên địa bàn cả nước. Uy tín của tổng công ty đã được khẳng định qua gần 30 năm hình thành và phát triển, với những công trình lớn như: Thủy điện Hoà bình, thuỷ điện Yaly, thuỷ điện Vĩnh sơn, nhà máy ximăng Bút sơn, nhà máy giấy Bãi bằng, đường dây tải điện cao thế 500 KV Bắc Nam...
Với KTNB TCTXDSĐ, thuận lợi trong bước đầu hình thành là được lãnh đạo tổng công ty nhìn nhận đúng mức sự cần thiết và có chủ trương thành lập từ sớm. Do đó, ngày 1/1/1998, phòng KTNB tổng công ty chính thức ra đời, chỉ hai tháng sau khi có quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT của bộ Tài chính ban hành quy chế KTNB tại DNNN; trước cả thời điểm ban hành thông tư 52/TT/BTC ngày 16/4/1998 hướng dẫn thực hiện quy chế. Quá trình hình thành và hoạt động của KTNB TCTXDSĐ có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn trước và giai đoạn sau khi ban hành thông tư 171/TT/BTC ngày 22/12/1998 (thay thế thông tư 52) hướng dẫn thực hiện KTNB tại DNNN.
Giai đoạn đầu, phòng KTNB gồm 5 cán bộ KTV có trình độ chuyên môn đại học và sau đại học chuyên ngành tài chính kế toán, có nhiều năm thực tế công tác trong lĩnh vực kiểm tra kiểm soát nội bộ hoặc trong lĩnh vực tài chính của tổng công ty. Vừa xây dựng, vừa hoạt động, trong năm 1998, KTNB TCTXDSĐ đã hoàn thành một khối lượng lớn công việc đáng kể: kiểm toán tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh và BCTC của toàn bộ 31 đơn vị thành viên và BCTC toàn tổng công ty năm 1997; kiểm toán việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh và việc chấp hành chế độ chính sách quản lí của nhà nước cũng như tổng công ty ở các đơn vị thành viên 6 tháng đầu năm 1998; kiểm toán hoạt động đối với một số công ty liên doanh có vốn góp của tổng công ty. Bên cạnh đó là một số công tác khác như kiện toàn bộ máy, xây dựng văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ của KTNB và tổ chức công tác đào tạo KTV. Tại các DN thành viên, thời điểm này tuy còn đang hoàn thiện về công tác tổ chức, nhưng 100% đơn vị đã bổ nhiệm được KTV hoặc thành lập tổ chức KTNB. Tuy nhiên, chỉ một số đơn vị sớm tuyển chọn bổ nhiệm được KTV đủ năng lực và ổn định tổ chức thì phát huy được tác dụng bước đầu, có đóng góp vào công tác chấn chỉnh quản lí tại DN.
Sau khi bộ tài chính ban hành thông tư 171/TT/BTC, phần lớn KTNB tại các DN thành viên trong hệ thống KTNB TCTXDSĐ vẫn chưa thực sự đi vào hoạt động. Có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là sự khó khăn về tuyển chọn và điều động cán bộ. Trước thực trạng đó, tổng công ty quyết định tạm thời chưa duy trì hệ thống KTNB tại các đơn vị thành viên, đồng thời tăng cường lực lượng cho phòng KTNB tổng công ty. Sau đó, phòng KTNB được tăng cường thêm 2 KTV có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, được tổng giám đốc điều động biệt phái thêm 4 cán bộ các chuyên ngành kĩ thuật phù hợp với yêu cầu kiểm toán.
Từ bước đầu đó, phòng KTNB đã chủ động nghiên cứu và tham khảo các tài liệu liên quan để ngay sau khi vừa thành lập đã tham mưu giúp tổng giám đốc trình hội đồng quản trị phê duyệt quy định tạm thời 10 điểm về nhiệm vụ chức năng của phòng KTNB. Sau một năm hoạt động và rút kinh nghiệm, đầu năm 1999, phòng KTNB đã xây dựng được kế hoạch kiểm toán tổng công ty năm 1999 với những nội dung hợp lí và cụ thể, phù hợp chức năng nhiệm vụ của KTNB, được lãnh đạo tổng công ty phê chuẩn. Ba nội dung chính kế hoạch KTNB 1999 của tổng công ty bao gồm: nội dung kiểm toán hoạt động với 4 vấn đề, trong đó nhấn mạnh kiểm toán tính hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, việc huy động phân phối các nguồn lực, nội dung kiểm toán tính tuân thủ với hàng chục vấn đề về kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài chính kế toán và kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ; nội dung kiểm toán BCTC gồm kiểm toán BCTC, báo cáo quản trị năm 1998 của các DN thành viên và tổng công ty, báo cáo quyết toán của các tổ chức đảng uỷ, công đoàn, đoàn thanh niên và các quỹ xã hội khác.
Để hoạt động KTNB đi vào nền nếp, hiện nay dự thảo quy chế KTNB của tổng công ty đang được hoàn thiện khâu cuối cùng. Về cơ bản, nội dung quy chế được soạn thảo căn cứ vào quy chế KTNB, có tính đến thực tế đa dạng ngành nghề sản xuất, kinh doanh của tổng công ty. Quy chế quy định KTNB có thể huy động lực lượng chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác trong nội bộ hoặc thuê từ bên ngoài để tham gia một số nội dung hoặc toàn bộ cuộc kiểm toán. Cho đến nay, TCTXDSĐ chưa phải thuê KTĐL để kiểm toán BCTC hàng năm cũng như kiểm toán mọi mặt hoạt động khác, nhiệm vụ này hoàn toàn do KTNB đảm nhiệm.
Tổng công ty xăng dầu Việt Nam ( Petrolimex):
Petrolimex là một trong những DN đặc biệt của nhà nước, doanh số và luân chuyển vốn hàng năm rất lớn, mạng lưới kinh doanh rộng khắp. Với 50 công ty thành viên và 80 chi nhánh lớn trên toàn quốc, mỗi năm Petrolimex nộp ngân sách trung bình 6000 tỉ đồng, tổng cộng nợ hàng năm vào khoảng 15000 tỉ đồng. Việc thành lập KTNB ở Petrolimex bước đầu cũng có một số thuận lợi, đó là lãnh đạo tổng công ty coi trọng việc hình thành hệ thống này, đã nhất trí lấy bộ phận kiểm tra kế toán làm nòng cốt xây dựng phòng KTNB tổng công ty, từ đó tiếp tục xây dụng hệ thống KTNB ở các đơn vị thành viên . Tháng 2/1999, phòng KTNB tổng công ty với 6 cán bộ KTV ra đời và đi vào hoạt động. Trước sự mới mẻ và khối lượng công việc rất lớn, căn cứ theo chức năng KTNB, phòng KTNB đề xuất với lãnh đạo cho thực hiện phương án phối, kết hợp chặt chẽ với các lực lượng nội kiểm và ngoại kiểm để hoàn thành nhiệm vụ.
Lực lượng nội kiểm trong tổng công ty bao gồm: ban kiểm soát của hội đồng quản trị; hệ thống kế toán và hệ thống KTNB từ tổng công ty đến các đơn vị thành viên được chỉ đạo hỗ trợ lẫn nhau về lực lượng chuyên môn. Biện pháp này bảo đảm thường xuyên duy trì được tối thiểu hai đoàn kiểm toán hoạt động cùng lúc, đồng thời lực lượng này sử dụng các tài liệu chuyên môn, kết quả kiểm tra kiểm soát của các lực lượng khác trên cơ sở có phân tích, chọn lựa để vừa tránh trùng lặp, vừa bảo đảm tính độc lập khách quan. Lực lượng ngoại kiểm bao gồm thanh tra nhà nước , KTNN , viện kiểm sát, thanh tra ngành thuế, thanh tra tài chính . Với các lực lượng ngoại kiểm, trên cơ sở phân tích đã sử dụng những kết quả kiểm tra, kiểm soát của bộ máy KTNB nên đã giảm bớt được nhiều công đoạn, tránh lãng phí thời gian.
Nhờ những biện pháp như vậy, trong những tháng đầu năm 1999, phòng KTNB Petrolimex đã triển khai kiểm toán toàn diện được 12 công ty thành viên có doanh số lớn, kiểm toán chi tiêu của khối văn phòng tổng công ty, hoàn thành kiểm toán BCTC tổng công ty 1998 với chất lượng báo cáo được đánh giá là bảo đảm độ tin cậy, đồng thời kiểm toán một số mảng hoạt động để thẩm định, đánh giá một số nội dung trọng yếu như tình hình công nợ, tình hình nộp ngân sách của tổng công ty.
Sau gần một năm đi vào hoạt động, phòng KTNB Petrolimex nhận thấy: để có được một kết luận kiểm toán BCTC hàng năm của tổng công ty đạt chất lượng, đòi hỏi phải đảm đương một khối lượng công việc rất lớn, phải có sự chuẩn bị chu đáo , tập trung đông lực lượng có nghiệp vụ vững để dứt điểm trong thời gian ngắn.....Vì thế nội dung này thuê KTĐL là phù hợp hơn, vì KTĐL có nhiều ưu thế do có lực lượng chuyên môn thành thạo kiểm toán BCTC , có điều kiện tập trung đủ lực lượng KTV theo yêu cầu quy mô công việc, đáp ứng được yêu cầu về thời điểm công khai BCTC DN hiện hành. Trước nhận định như vậy, phòng đã đề xuất với lãnh đạo tổng công ty phương án tiến tới thuê KTĐL thực hiện kiểm toán BCTC hàng năm, KTNB chỉ phối hợp hỗ trợ và học hỏi kinh nghiệm. Theo đề xuất, nhiệm vụ chính của KTNB là kiểm toán hoạt động và kiểm toán tính tuân thủ.... Các nội dung này không đòi hỏi phải huy động lực lượng lớn như kiểm toán BCTC mà đòi hỏi phải có sự cập nhật thông tin nội bộ, thường xuyên tổ chức được các cuộc kiểm toán trước, trong và sau các hoạt động quản lí, sản xuất kinh doanh theo chuyên đề, điều đó phù hợp với một lực lượng kiểm toán trong nội bộ, sẽ giảm chi phí đáng kể so với thuê KTĐL.
Từ thực tế trên cho thấy, đã có những xu hướng khác nhau trong phát triển và hoạt động hệ thống KTNB ở các nhóm DN. Nhóm thứ nhất là những tổng công ty có quy mô kinh doanh lớn. Mô hình KTNB Petrolimex mang nhiều điểm tiêu biểu của nhóm này như: phát triển và duy trì KTNB theo hệ thống dọc từ tổng công ty xuống các đơn vị cơ sở, phối hợp chặt chẽ nội kiểm, ngoại kiểm để thực hiện kiểm toán. Đặc biệt là xu hướng thuê KTĐL để kiểm toán BCTC hàng năm ngoại trừ những năm KTNN đã thực hiện kiểm toán, KTNB chỉ tập trung chủ yếu vào hai nội dung kiểm toán hoạt động và kiểm toán tính tuân thủ. Ngược lại, KTNB TCTXDSĐ tiêu biểu cho nhóm thứ hai, nhóm những tổng công ty có quy mô trung bình. Mô hình này cơ bản là không tổ chức bộ máy KTNB theo hệ thống dọc, không thuê, mời kiểm toán tư bên ngoài và KTNB của tổng công ty đảm nhiệm toàn bộ các nội dung về kiểm toán trong đơn vị.
Cả hai mô hình KTNB trên, mô hình nào cũng có những đặc điểm phù hợp với quy mô, tính chất hoạt động trong loại hình DN của mình. Tuy nhiên, mô hình nào cũng có một mục đích chung là làm công cụ trợ giúp lãnh đạo DN tăng cường hiệu lực quản lí, tăng hiệu quả và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro trong sản xuất kinh doanh.
Những Hạn chế của hoạt động kiểm toán Việt Nam và một số giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện các bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam
Những hạn chế của hoạt động kiểm toán Việt Nam :
1.1. KTĐL:
Hơn 10 năm qua, hoạt động KTĐL đã có những phát triển vượt bậc về chất lượng dịch vụ và số lượng DN tham gia trên thị trường, hứa hẹn một sự bùng nổ trong thời gian tới. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn những tồn tại làm hạn chế đến hoạt động KTĐL.
Một là, trong việc phát triển thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán, vai trò của các KTV chuyên nghiệp là nhân tố quan trọng quyết định. Tuy vậy, ở nước ta, nhà nước chưa công nhận một chức danh nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán (tương tự chức danh CPA của các nước) và chưa có chương trình đào tạo chính quy, thi và cấp bằng chuyên gia kế toán, kiểm toán (trong khi Trung Quốc đã có luật về Chuyên viên kế toán hành nghề có đăng kí từ năm 1993). Sự hạn chế về mặt kĩ thuật nghề nghiệp đã làm cho việc hành sự của KTV có những mặt hạn chế và ảnh hưởng nhất định đến chất lượng kiểm toán. Do đó, việc tổ chức thi tuyển KTV hiện nay còn nhiều bất cập. Thêm vào đó, cũng có lúc, vì nhiều lí do khác nhau, có những KTV đã từ chối yêu cầu được phục vụ của khách hàng không phải vì yêu cầu vượt quá khả năng của mình. Đây cũng là một trong những vấn đề cần rút kinh nghiệm đối với các KTV.
Hai là, kiểm soát chất lượng hoạt động KTĐL có ý nghĩa rất quan trọng để đảm bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán, là cơ sở để tăng thêm niềm tin của các đối tượng sử dụng thông tin kết quả kiểm toán. ở Việt Nam, cơ chế kiểm tra chất lượng đối với các công ty kiểm toán và hoạt động kiểm toán chưa được xác lập và thực hiện nên trên thực tế không thể kiểm tra và đánh giá một cách sát thực chất lượng dịch vụ của từng công ty kiểm toán. Mặt khác, dịch vụ kiểm toán cũng chưa được thẩm định từ bên ngoài ( từ phía hội Kế toán và bộ Tài chính ). Đây cũng là nguyên nhân làm cho chất lượng dịch vụ chưa được như mong muốn, vì thế, các tổ chức kiểm toán chưa mạnh dạn thực hiện các dịch vụ tư vấn quản trị là điều mà các nhà quản lí quan tâm nhất.
Ba là, do ở Việt Nam, kiểm toán chỉ mới xuất hiện, nên đối với nhiều DN, kiểm toán là một khái niệm còn quá mới mẻ, có thể nói là xa lạ trong nhận thức của họ. Từ đó dẫn tới tính hiệu lực không cao của KTĐL . Vẫn còn khá nhiều DN không thực hiện kiểm toán theo quy định hiện hành. Còn đối với những đơn vị có thực hiện việc kiểm toán thì hiệu lực pháp lí của báo cáo kiểm toán chưa đuợc tôn trọng. Về phía nhà nước, vẫn chưa có quy định về việc xử lí đối với những đơn vị thuộc diện kiểm toán hàng năm nhưng không thực hiện kiểm toán.
Bốn là, đa số các công ty kiểm toán Việt Nam chưa có chương trình kiểm toán riêng nên phải sử dụng các chương trình kiểm toán của các công ty nước ngoài, lấy kinh nghiệm của đội ngũ KTV của mình là chính trong hoạt động nghiệp vụ. Trong khi đó, chương trình kiểm toán là một cơ sở pháp lí quan trọng đối với công ty kiểm toán, nó thể hiện uy tín, chất lượng của KTV và tạo ra sự tín nhiệm của khách hàng đối với công ty kiểm toán.
KTNN:
Từ khi ra đời, KTNN đã góp phần không nhỏ vào việc kiểm soát NSNN, thể hiện vai trò tích cực của mình trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hoạt động KTNN trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục, đó là:
Thứ nhất, hiệu lực hoạt động kiểm toán còn hạn chế, chưa đủ mạnh để đi sâu làm rõ sai phạm trong quản lí, điều hành, phân phối và sử dụng NSNN. Mặc dù KTNN đã phát hiện, tiết kiệm chi tiêu cho nhà nước hàng nghìn tỉ đồng nhưng đó vẫn là một con số rất nhỏ so với thực tế. Vẫn còn tệ nạn tham nhũng, tham ô NSNN, mà chỉ đến khi nó là một con số quá lớn thì KTNN mới có thể phát hiện được .
Thứ hai, phạm vi hoạt động của KTNN còn hẹp, khối lượng thu chi ngân sách được kiểm toán hàng năm còn chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng thu chi ngân sách, chất lượng kiểm toán chưa cao, mới chỉ dừng lại ở việc xem xét, xử lí những vấn đề riêng lẻ của từng đối tượng kiểm toán mà chưa đi sâu phân tích tổng hợp để đưa ra các giải pháp có tính chất vĩ mô. Yêu cầu đối với KTNN, đó là KTNN phải trở thành một công cụ đắc lực của nhà nước để quản lí nền kinh tế vĩ mô, do đó, KTNN phải phát huy hết vai trò của mình, hoạt động tích cực hơn, có hiệu quả hơn để đạt được chất lượng tốt nhất .
Thứ ba, đội ngũ KTV nhìn chung có phẩm chất tốt, cần cù, chịu khó trong công việc nhưng trình độ chưa tương xứng với đòi hỏi của nhiệm vụ được giao. Đây đó đã xuất hiện một vài hiện tượng cá biệt phản ánh sự thiếu trong sáng trong công việc và trong sinh hoạt làm ảnh hưởng đến thanh danh của KTNN. Đối với công việc kiểm toán, KTV giữ một vai trò hết sức quan trọng, nhưng KTV nhà nước Việt Nam, cũng như KTV độc lập, vẫn chưa có những khoá đào tạo về nghiệp vụ mang tính chất chuyên sâu và có tầm cỡ quốc tế trong nước. Mặc dù nguồn lực về nhân viên kiểm toán của nước ta khá cao, nhưng tỉ lệ những người có trình độ chuyên môn mang tính chất quốc tế lại thấp. Đây là một trong những bất lợi mà kiểm toán Việt Nam phải đương đầu.
KTNB:
KTNB Việt Nam là loại hình ra đời muộn nhất, kinh nghiệm hoạt động còn chưa nhiều, các văn bản pháp quy về KTNB cũng chưa được hoàn thiện, do đó, không thể tránh khỏi những hạn chế sau:
Thứ nhất, đối tượng của các quy định và hướng dẫn về KTNB còn đang bị bó hẹp trong phạm vi các DNNN. Thực tế ở nước ta cho thấy rằng không chỉ các DNNN mới cần có bộ máy KTNB mà rất nhiều các DN thuộc các thành phần kinh tế khác cũng có nhu cầu và thực sự đã thiết lập và duy trì một cách có hiệu quả bộ máy này. Mặt khác, nhu cầu này rất khó có thể định lượng, nên việc áp dụng các nguyên tắc cứng nhắc có thể thừa, không cần thiết hoặc mang tính hình thức đối với một số DN, trong khi một số DN khác có nhu cầu lại không được hướng dẫn hoặc quy định cụ thể.
Thứ hai, trong khi một số DNNN tiếp tục cho ra đời, củng cố hoạt động và phát huy vai trò KTNB thì ở một số DN đã thành lập trước đó lại cho giải tán lực lượng này, một số tổng công ty thì chỉ duy trì phòng KTNB của tổng công ty và giải tán KTNB ở các đơn vị thành viên. Cho đến nay, có thể nói rằng, đại bộ phận các DNNN, đặc biệt là các DN vừa và nhỏ hoặc DN làm ăn thua lỗ thực tế là không thành lập KTNB. Trong bối cảnh đó, ở các DN đang tồn tại bộ máy KTNB lại đang xuất hiện những vướng mắc xuất phát từ các văn bản quy định về loại hình kiểm toán này.
Thứ ba, KTNB vừa mới ra đời nhưng ở mỗi DN, thậm chí các đơn vị thành viên của một tổng công ty đã có xu hướng hoạt động khác nhau, DN có quy mô vừa và nhỏ thì thực hiện tất cả mọi nội dng kiểm toán trong đơn vị mình, DN quy mô lớn thì, hoặc chỉ kiểm toán BCTC , hoặc chỉ kiểm toán hoạt động, tuân thủ, còn lĩnh vực khác thì thuê KTĐL. Như vậy, vẫn chưa có sự thống nhất trong loại hình hoạt động của KTNB.
2. Một số giải pháp nhằm phát triển và hoàn thiện các bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam .
Để khắc phục những hạn chế trên của 3 bộ máy tổ chức kiểm toán Việt Nam, ta thấy cần xúc tiến việc phát triển, tăng cường hệ thống kiểm toán, bao gồm KTNN, KTĐL, KTNB, phải có những giải pháp sau:
Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng của KTV. Các công ty kiểm toán nhà nước cần thay đổi phong cách làm việc, không quan liêu, làm việc năng động và có hiệu quả. Cần đổi mới, có những chương trình đào tạo và huấn luyện nhân viên kiểm toán một cách chuyên môn và mang tầm cỡ quốc tế. Trước mắt nên chú trọng vào việc đào tạo cho các thế hệ trẻ. Nhà nước cần có chính sách tài trợ thiết thực như: giúp đỡ về mặt tài chính, thành lập các chương trình đào tạo KTV ở nước ngoài....nhằm giúp đỡ các công ty kiểm toán nhà nước thực hiện giải pháp này một cách có hiệu quả. Nhà nước cũng cần nhanh chóng công nhận chức danh chuyên gia kế toán và chuyên gia kiểm toán (một chức danh nghề nghiệp thông dụng và được thừa nhận rộng rãi trên thế giới ), tiến hành thực hiện khẩn trương Đề án đào tạo chuyên gia kế toán, kiểm toán đã được hội đồng khoa học ngành tài chính nghiệm thu trong khuôn khổ dự án kế toán-kiểm toán EURO TAPVIET. Để quản lí được đội ngũ KTV, nhà nước cần thực hiện cơ chế sát hạch trình độ và cấp phép hoạt động đối với KTV người nước ngoài, quản lí danh sách và công khai danh sách các KTV được cấp bằng.
Đối với hoạt động kiểm toán của KTNN, yếu tố con người có vai trò đặc biệt quan trọng quyết định chất lượng kiểm toán và sự phát triển của KTNN. Muốn ổn định và phát triển, KTNN cần phải xây dựng và thực hiện một chiến lược về con người. Trước hết, tiến hành xây dựng hệ thống chức danh tiêu chuẩn KTV nhà nước . Thường xuyên kiểm tra sát hạch, đánh giá phân loại KTV để sắp xếp bố trí công việc phù hợp năng lực trình độ. Cần có quy hoạch cán bộ để có kế hoạch đào tao bồi dưỡng dài hạn đáp ứng yêu cầu cán bộ của ngành. Vận hành chặt chẽ cơ chế thi tuyển, sát hạch để nâng cấp, nâng bậc và cấp chứng chỉ hành nghề KTV nhà nước. Kiến nghị chính phủ xây dựng và áp dụng chế độ lương, chế độ đãi ngộ tương xứng với nhiệm vụ và yêu cầu công việc của KTV để vừa thu hút được người có năng lực trình độ, vừa đảm bảo tu thế người thay mặt nhà nước làm công tác kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng ngân quỹ, công sản quốc gia, bảo vệ lợi ích kinh tế của đất nước, đồng thời tránh sự mua chuộc cám dỗ.
Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kế toán và kiểm toán Việt Nam. Cùng với việc ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, nhà nước đã ban hành thêm 4 chuẩn mực về kế toán Việt Nam. Việc luật hoá các chuẩn mực kế toán kiểm toán sẽ giúp cho các cơ quan kiểm toán có cơ sỏ pháp lí vững chắc khi làm việc với khách hàng, hạn chế những rủi ro đáng tiếc do luật định không rõ ràng.
Thứ ba, các công ty kiểm toán cần phải xây dựng cho mình một chương trình kiểm toán riêng, điều đó sẽ tạo điều kiện nâng cao uy tín chuyên môn của công ty, xây dựng và áp dụng một hệ thống kiểm soát chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường và có thế cạnh tranh có hiệu quả tại thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Ngoài việc duy trì khách hàng trong nước, các công ty kiểm toán Việt Nam cần phải mở rộng ra thế giới bên ngoài để mở rộng mạng lưới kiểm toán độc lập, đáp ứng nhu cầu kiểm toán mọi doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, các dự án đầu tư và các công trình XDCB, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, trước mắt đối với các doanh nghiệp vừa và lớn, có doanh thu lớn và nộp nhiều vào ngân sách nhà nước. Mạng lưới kiểm toán này bao gồm các công ty (văn phòng) kiểm toán thuộc mọi thành phần kinh tế, hoạt động theo pháp luật nhà nước và hợp đồng trách nhiệm giữa đơn vị kiểm toán với đơn vị kinh tế, sự nghiệp, các cơ quan, tổ chức chủ dự án, chủ đầu tư.
Thứ tư, tăng cường đổi mới công tác tổ chức hoạt động kiểm toán và nâng cao hiệu lực của hoạt động KTNN. Nhanh chóng áp dụng phương pháp kỹ thuật kiểm toán tiên tiến và hiện đại hoá công tác kiểm toán. Những bài học kinh nghiệm thu được qua kiểm toán và kiến thức học tập tiếp thu của các nước trên thế giới cần khẩn trương áp dụng để đổi mới công tác tổ chức hoạt động kiểm toán, tạo đà cho hoạt động kiểm toán của KTNN có sự biến đổi về chất.
+ Lập kế hoạch định hướng xây dựng và phát triển dài hạn ngày KTNN. Xây dựng định hướng công tác kiểm toán mục tiêu cho công tác kiểm toán cho từng thời kỳ và lâu dài. Cải tiến công tác khảo sát lập kế hoạch kiểm toán hàng năm và lập kế hoạch kiểm toán cho từng cuộc kiểm toán phù hợp điều kiện của KTNN và khả năng trình độ KTV; nhằm đảm bảo đáp ứng tốt nhất cho mục tiêu hoạt động kiểm toán trong từng thời kỳ.
+ Khắc phục những yếu điểm trong công tác kiểm toán, chấn chỉnh công tác tổ chức điều hành của các đoàn kiểm toán; nâng cao kỹ năng kiểm toán và thu thập bằng chứng kiểm toán của KTV. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra sổ sách chứng từ và kiểm tra thực tế. Chuẩn hoá quá trình xử lý kết quả, tổng hợp viết báo cáo kiểm toán. Nâng cao chất lượng kiểm toán, báo cáo kiểm toán và chất lượng báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán hàng năm của KTNN. áp dụng thử nghiệm và từng bước đưa kiểm toán trước, kiểm toán hoạt động vào thực hiện tại KTNN.
+ Khẩn trương xây dựng đề án chiến lược về ứng dụng kỹ thuật tin học làm căn cứ định hướng cho việc thực hiện chương trình trang bị kỹ thuật và ứng dụng tin học, từng bước hiện đại hóa công tác kiểm toán.
Xây dựng chương trình kiểm toán việc ứng dụng tin học ở các cơ quan đơn vị để hạn chế lãng phí thiệt hại và tăng cường tính kinh tế hiệu quả.
+ Mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức và KTNN, tiến tới mở cửa hội nhập khu vực và thế giới về kiểm toán. Tăng cường tuyên truyền để quảng đại quần chúng nhận thức được vai trò vị trí và tác dụng của hoạt động kiểm toán.
+ Thực hiện công khai hoá kết quả kiểm toán và báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán hàng năm trên các phương tiện thông tin đại chúng để tăng cường quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức ép của dư luận xã hội đối với các hành vi làm trái do KTNN phát hiện ra, làm tăng tính hiệu lực của những phát hiện và kiến nghị của KTNN.
Thứ năm, Củng cố và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy KTNN trung ương theo hướng chuyên môn hoá kiểm toán theo chuyên ngành hẹp; tăng cường năng lực cho các bộ phận có chức năng tham mưu chuyên môn nghiệp vụ của khối văieọt nam phòng. Củng cố tổ chức các phòng kiểm toán, kết hợp giữa quản lý hành chính với quản lý chuyên môn nghiệp vụ, xem trọng công tác kiểm tra đạo đức hành nghề.
Thứ sáu, cùng với việc sớm ban hành luật kế toán mới thay cho pháp lệnh hiện hành (vì ban hành từ năm 1988, nay đã có nhiều nội dung không phù hợp), củng cố phòng Tài chính - Kế toán của các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, cần sớm tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp lớn. Trước mắt cần làm ngay đối với các tổng công ty 90, 91 và các doanh nghiệp độc lập có qui mô lớn, quan trọng trong nền kinh tế. Bộ phận kiểm toán nội bộ doanh nghiệp hoạt động độc lập với phòng Tài chính - Kế toán của doanh nghiệp, theo pháp luật, dưới sự đào tạo, hướng dẫn và kiểm tra về nghiệp vụ chuyên môn kiểm toán của kiểm toán nhà nước. Nó phải được giao một quyền hạn rộng rãi để có th kiểm toán toàn bộ hoạt động của đơn vị. Trong mỗi cuộc kiểm toán KTNB được hoàn toàn độc lập về chuyên môn nghiệp vụ, truy nhập thông tin không giới hạn trong phạm vi đơn vị đó.
Kết luận
Có thể nói, trong tình hình hoạt động đa dạng và phức tạp của các tổ chức kinh tế: DNNN, DN tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH, đặc biệt là những công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải hết sức quan tâm đến kết quả kinh doanh, hiệu quả tài chính của các tổ chức kinh tế này. Bởi vậy, kiểm toán trong nền kinh tế thị trường là một yêu cầu tất yếu khách quan, nhất là trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, một khi thị trường chứng khoán ra đời và hoạt động thì kiểm toán sẽ có một vai trò hết sức quan trọng, không những đối với những người có nhu cầu sử dụng BCTC của doanh nghiệp mà cả đối với việc nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế tài chính của các cơ quan chức năng nói riêng và nhà nước nói chung. Quá trình hình thành và phát triển ngành kiểm toán tại Việt Nam trong một thời gian tương đối ngắn, chưa có nhiều kinh nghiệm phong phú như các nước có nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới. Do đó, ngành kiểm toán nước ta phải không ngừng nghiên cứu, điều chỉnh và vận dụng phù hợp các kỹ thuật kiểm toán hiện đại, chất lượng và số lượng dịch vụ kiểm toán phải được phát triển và nâng cao. Đó là một yêu cầu cấp bách và phải coi đây là một trong những công cụ đắc lực có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA294.doc