Tài liệu Đề tài Sử dụng vạt sụn kết mạc trong tạo hình mi sau cắt bỏ ung thư mi – Lê Minh Thông: 36
SỬ DỤNG VẠT SỤN KẾT MẠC TRONG TẠO HÌNH MI
SAU CẮT BỎ UNG THƯ MI
LÊ MINH THÔNG
Bệnh viện mắt TP. Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
35 trường hợp ung thư mi được phẫu thuật cắt trọn u kết hợp tạo hình dùng vạt
sụn kết mạc của mi đối diện cùng mắt. Chẩn đoán mô bệnh học chỉ có 3 loại ung thư
gồm có ung thư tế bào đáy (23 trường hợp (TH)), ung thư tế bào vẩy (7 TH) và ung thư
tế bào nhờn (5 TH). Mi trên chiếm 11 TH trong đó có 5 UT-TBĐ, mi dưới chiếm 24 TH
trong đó có 18 UT-TBĐ. Để tạo hình mi, chuyển vạt sụn kết mạc đơn thuần có 22 TH,
chuyển vạt sụn kết mạc phức tạp (kết hợp ghép rời sụn tai và tạo hình góc mi) 13 TH.
Với thời gian theo dõi trung bình là 26 ± 12 tháng, kết quả ghi nhận như sau: tốt (đạt
yêu cầu chức năng mi và thẩm mỹ) 23 TH, hài lòng (chỉ đạt yêu cầu bảo toàn chức năng
mi) 11 TH, không đạt 1 TH. Biến chứng trầm trọng gồm có: 1 TH quặm mi, 1 TH lật mi
dưới, 2 TH tái phát tại chỗ. Hạn chế thẩm mỹ: Độ mở khe mi không cân xứng với mắt
bên kia (6 TH), kh...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sử dụng vạt sụn kết mạc trong tạo hình mi sau cắt bỏ ung thư mi – Lê Minh Thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36
SỬ DỤNG VẠT SỤN KẾT MẠC TRONG TẠO HÌNH MI
SAU CẮT BỎ UNG THƯ MI
LÊ MINH THÔNG
Bệnh viện mắt TP. Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
35 trường hợp ung thư mi được phẫu thuật cắt trọn u kết hợp tạo hình dùng vạt
sụn kết mạc của mi đối diện cùng mắt. Chẩn đoán mô bệnh học chỉ có 3 loại ung thư
gồm có ung thư tế bào đáy (23 trường hợp (TH)), ung thư tế bào vẩy (7 TH) và ung thư
tế bào nhờn (5 TH). Mi trên chiếm 11 TH trong đó có 5 UT-TBĐ, mi dưới chiếm 24 TH
trong đó có 18 UT-TBĐ. Để tạo hình mi, chuyển vạt sụn kết mạc đơn thuần có 22 TH,
chuyển vạt sụn kết mạc phức tạp (kết hợp ghép rời sụn tai và tạo hình góc mi) 13 TH.
Với thời gian theo dõi trung bình là 26 ± 12 tháng, kết quả ghi nhận như sau: tốt (đạt
yêu cầu chức năng mi và thẩm mỹ) 23 TH, hài lòng (chỉ đạt yêu cầu bảo toàn chức năng
mi) 11 TH, không đạt 1 TH. Biến chứng trầm trọng gồm có: 1 TH quặm mi, 1 TH lật mi
dưới, 2 TH tái phát tại chỗ. Hạn chế thẩm mỹ: Độ mở khe mi không cân xứng với mắt
bên kia (6 TH), không có nếp mi đôi (7), biên độ cử động mi bị hạn chế (4 TH). Kết luận
rút ra như sau: Vạt sụn kêt mạc tạo hình mi sau cắt trọn ung thư mi là kỹ thuật thích
hợp đối với các thầy thuốc nhãn khoa quen phẫu thuật vùng mi. Phẫu thụât thực hiện
dưới kính hiển vi giúp hạn chế cắt bỏ mô lành trừ hao và giúp việc tạo hình được thực
hiện chính xác theo từng lớp lang giải phẫu học nên ít biến chứng. Phẫu thuật 2 thì nên
thời gian mỗi lần mổ rút ngắn lại khiến bệnh nhân đa số là ngưới già yếu chịu đựng
cuộc mổ dễ dàng. Phẫu thuật viên an tâm không sợ biến chứng hoại tử thiểu dưỡng mô
ghép.
Trong điều trị ung thư mi,phẫu
thuật viên thường đối đầu với mâu thuẩn
khó giải quyết là làm sao (1) đảm bảo an
toàn tính mệnh người bệnh và (2) bảo vệ
toàn vẹn chức năng nhãn cầu và phục hồi
thẩm mỹ mắt sau khi cắt trọn u [8] . Cắt
trọn u trừ hao về phía mô lành sẽ đảm
bảo yêu cầu 1 nhưng ngay sau đó thầy
thuốc gặp khó khăn trong khâu tạo hình
để đảm bảo yêu cầu 2. Ngược lại cắt u
trọn tiết kiệm mô lành tạo thuận lợi cho
tạo hình mi đáp ứng yêu cầu 2 nhưng
không đảm bảo yêu cầu 1 về lâu dài. Tìm
một phương pháp mổ khả dĩ đáp ứng
37
được 2 yêu cầu trên là vấn đề thách thức
cho các thầy thuốc nhãn khoa tham gia
điều trị trong lĩnh vực này. Nhằm mục
đích trên, báo cáo này lượng giá kết quả
điều trị của 35 trường hợp ung thư mi ăn
lan rộng bằng cách sử dụng vạt sụn kết
mạc (S-KM) bắc cầu để tạo hình sau cắt
bỏ ung thư mi thực hiện dưới kính hiển
vi phẫu thuật trong 3 năm 2001-2003 tại
Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu của chúng
tôi là các ung thư lan rộng phải cắt bỏ
nhiều hơn 1/3 mi đối với mi trên hoặc
nhiều hơn 1/2 mi đối với mi dưới, có
nghĩa khối lượng mô cắt bỏ không cho
phép nối tận tận phần mi còn lại (theo
nguyên tắc của Converse [6]). Mức độ ăn
lan cũng chưa xâm nhập vào cùng đồ
hoặc mô hốc mắt đến mức phải chỉ định
nạo vét toàn bộ hốc mắt.
Sau đây là đặc điểm dịch tễ của 35
trường hợp được mổ: các bệnh nhân
(BN) được mổ trong độ tuổi từ 30 đến 80
tuổi, nhóm tuổi 30-45 có 7 TH, từ 46-60
có 18 TH, và từ 61-80 tuổi có 10 TH. Tỉ
lệ nam/nữ: 24/21. Vị trí tổn thương: mi
trên 11 TH có 5 K tế bào đáy (Ktbđ), mi
dưới 24 TH có 18 Ktbđ. Về đặc điểm đi
kèm, có 1 trường hợp viêm bờ mi kinh
niên, 3 trường hợp được mổ chắp lẹo nơi
có tổn thương từ 1-2 lần, có 3 trường hợp
tái phát sau khi cắt u hạn chế rồi khâu tận
tận ở tuyến dưới. Kích thước u so với
kích thước mi trên đó u phát triển như
sau:nhỏ hơn 1/3 mi có 5 TH,lớn hơn 1/3
mi nhưng nhỏ hơn 2/3 mi có 27 TH, lớn
hơn 2/3 mi có 3 TH. Tất cả các trường
hợp đều chưa sờ thấy hạch.
Tất cả các trường hợp đều không
làm sinh thiết trước mổ, chẩn đoán chủ
yếu dựa trên bệnh cảnh lâm sàng và
quyết định làm phẫu thuật cắt trọn kết
hợp với tạo hình dưới kính hiển vi phẫu
thuật. Toàn bộ mẫu mô sau đó được gửi
chẩn đoán giải phẫu bệnh tại Trung tâm
Chẩn đoán Y khoa do PGS Nguyễn Sào
Trung đọc.
Phẫu thuật gồm 2 thì đều thực
hiện dưới kính hiển vi phẫu thuật và
gây tê tại chỗ:
Thì 1 bao gồm cắt u trọn và tạo vạt
sụn kết mạc từ mi lành đối diện để tạo
hình mi bị khuyết mô. Tạo hình mi bị
khuyết mô có 2 cách: (1) Chuyển vạt sụn
kết mạc đơn thuần dành cho khuyết mô
mi không vượt quá 2/3 chiều dài mi có
22 TH, (2) Chuyển vạt sụn kết mạc phức
tạp có kết hợp ghép rời sụn tai và tạo
hình góc mi cho 13 TH khuyết gần toàn
bộ mô mi.
Thì 2: Tiến hành 1 tháng sau nhằm
tái tạo lại bờ tự do của mi, khâu sắp xếp
lại các cấu trúc của mi theo lớp lang giải
phẫu học.
38
Hình 1. Kỹ thuật tạo hình vạt sụn kết mạc đơn thuần cho mi dưới.(A) Khuyết mô mi
dưới sau cắt bỏ ung thư.(B) Bóc tách vạt S-KM từ mi trên cách bờ tự do 3-4mm.(C) Vạt S-KM
được bóc tách cho tới dây chằng ngang Whitnall.(D) Khâu vạt S-KM vào chổ khuyết mô mi
dưới. Trường hợp mô mi cắt bỏ gần toàn bộ thì ghép thêm sụn rời ở một hoặc 2 bên của vạt S-
KM bắc cầu. (E) Da ghép rời lấy từ vùng sau tai hoặc mi đối diện ghép lên chổ vạt S-KM bắc
cầu. (F) Một tháng sau,mổ thì 2 tạo hình khe mi, cắt vạt S-KM với sự bảo vệ của sonde
crenelleé chịu bên dưới. (G). Khâu chỉnh sửa lại bờ sụn mi trên [2]
Hình 2. Kỹ thuật tạo hình vạt sụn kết mạc đơn
thuần cho mi trên. A. Khuyết mô mi dưới sau cắt
bỏ ung thư và đường rạch toàn bộ bề dầy mi dưới
để bắc cầu lên mi trên. B. Vạt sụn kết mạc sau khi
bắc cầu vào chỗ khuyết mi trên, còn vạt da cơ
được bóc tách khỏi vạt S-KM. C.Dùng sụn rời lấy
từ vành tai, mũi ghép bên trên vạt S-KM. D. Vạt
da cơ được khâu phủ trở lại bên trên sụn ghép.
Trường hợp mô mi cắt bỏ gần toàn bộ thì ghép
39
thêm sụn rời ở một hoặc 2 bên của vạt S-KM bắc cầu. Một tháng sau sẽ tạo hình lại khe mi như
hình 1F.
Đây là công trình tiền cứu mô tả
cắt dọc thực hiện trong 3 năm từ 2001
đến 2003. Để đánh giá kết quả chúng tôi
căn cứ trên 2 tiêu chuẩn chức năng và
thẩm mỹ trong đó tiêu chuẩn đầu là
chính, tiêu chuẩn sau là phụ. Có 3 mức
độ đánh giá: [7]
Tốt: Đạt yêu cầu bảo vệ nhãn cầu
và yêu cầu thẩm mỹ. Yêu cầu che chở có
2 tiêu chuẩn (1) giác mạc không có nguy
cơ bị loét do hở mi (2) sự vận động của
mi không bị hạn chế. Yêu cầu thẩm mỹ
cũng có 2 tiêu chuẩn phụ (1) bề cao và
bề dài khe mi đạt kích thước bình thường
so với mắt bên lành (2) góc trong trong
và ngoài khe mi không bị biến dạng.
Trung bình: đảm bảo yêu cầu che
chở giác kế mạc, sự vận động mi có bị
giới hạn phần nào. Yêu cầu thẩm mỹ chỉ
đạt 1 hoặc không đạt tiêu chuẩn nào.
Không đạt: Không đạt yêu cầu che
chở phải mổ lại
KẾT QUẢ
Độ nhạy chẩn đoán lâm sàng của
các K mi được tóm tắt ở bảng 1
Bảng1. Đối chiếu chẩn đoán trước mổ với kết quả giải phẩu bệnh
Bảng 1 cho thấy có 3 TH chẩn
đoán lâm sàng là Ktbđ nhưng giải phẫu
bệnh là Ktbv, 3 TH chẩn đoán lâm sàng
Ktbv giải phẫu bệnh là Ktbđ. Đối với
Ktbn thì chẩn đoán lâm sàng và giải phẫu
bệnh đều phù hợp. Tương tự không có
trường hợp nào lâm sàng chẩn đoán ung
thư mà giải phẫu bệnh lại là u lành.
Với thời gian theo dõi trung bình
26±12 tháng lâu nhất là 3 năm, gần nhất
là 1 tháng các kết quả và biến chứng ghi
nhận được tóm tắt ở bảng 2 và 3:
Chẩn
đoán
trước mổ
Phù hợp Sai đối chiếu với kết quả
giải phẫu bệnh N0 %
K tế bào đáy 20 17 85 3
K tế bào vẩy
K tế bào vẩy 10 7 70 3
K tế bào đáy
K tế bào nhờn 5 5 100 0
K mi 35 35 100 0
40
Bảng 2. Kết quả ghi nhận được
Tốt Trung bình Thất bại
N0 % N0 % N0 %
Vạt sụn kết mạc đơn thuần 16 72 6 28 0 0
Vạt sụn kết mạc phức tạp 7 54 5 38 1 8
Tổng 24 66 10 31 1 3
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kết quả điều trị của 2 kỹ thuật mổ (p>
0.05).
Bảng 3. Biến chứng sau mổ
Biến chứng
Vạt S-KM đơn thuần
22TH
Vạt S-KM phức tạp
13TH
N0 N0
K tái phát tại chổ 1 1
Quặm mi trên 0 1
Lật mi 0 1
Biến dạng độ cong bờ mi 1 1
Biến dạng bề cao khe mi 0 1
Biên độ cử động mi bị hạn chế 1 3
Không có nếp mi đôi 3 4
Về các biến chứng gặp phải thì
nhóm sử dụng vạt S-KM đơn thuần có
biến chứng ít hơn nhóm vạt S-KM phức
tạp (p< 0.05 với tét chính xác Fisher).
BÀN LUẬN
1. Về vấn đề chẩn đoán:
Chẩn đoán làm sàng các ung thư
mi lan rộng với khối u lành không khó và
khi đó thường hiện diện các dấu hiệu đặc
trưng như khối sùi dễ chảy máu khi chạm
đến, khối cứng nhiều thùy thâm nhiểm
vào da, có nhiều tân mạch. Bảng 1 cho
thấy 35 trường hợp chẩn đoán lâm sàng
trước mổ là ung thư đều chính xác đối
chiếu với xác chẩn mô bệnh học,không
có trường hợp nào chẩn đoán sai u lành
cho là u ác. Điều này cho phép chúng tôi
tin rằng không cần làm sinh thiết để có
xác chẩn trước khi quyết định phẫu thuật
tạo hình, làm vậy có 3 điều lợi (1) BN
không mất thời gian chờ đợi kết quả sinh
41
thiết (đa số BN đều ở xa) và loại trừ
nguy cơ phát tán ung thư do sinh thiết
gây ra (2) hạn chế sự mất mô lành do cắt
u sinh thiết (vị trí cắt ở biên giới giữa mô
lành và tổn thương) giúp công đoạn tạo
hình dễ dàng hơn (3) sinh thiết bằng mẫu
mô nhỏ cho kết quả mô bệnh học đôi khi
không chính xác (trả lời là mô viêm kinh
niên chẳng hạn) làm cho chỉ định điều trị
trở nên lúng túng. Tuy nhiên chẩn đoán
phân loại K mi trên lâm sàng đối chiếu
với xác chẩn mô bệnh học thì có khác
biệt. Trong 20 TH ung thư tế bào đáy
chẩn đoán lâm sàng có 3 TH mô bệnh
học trả lời là ung thư tế bào vẩy, như vậy
độ nhạy đạt 85%. Trong 10 TH chẩn
đoán lâm sàng ung thư tế bào vẩy có 3
TH mô bệnh học trả lời ung thư tế bào
đáy,như vậy độ nhạy trong chẩn đoán
lâm sàng ung thư tế bào vẩy đạt 70%.
Điều này cho thấy chẩn đoán phân loại
ung thư tế bào vẩy trên lâm sàng kém
chính xác hơn ung thư tế bào đáy. Ung
thư tế bào đáy có những đặc trưng dễ
chẩn đoán như thường phát sinh từ nốt
ruồi có sẵn, tiến triển chậm ,thâm nhiểm
da gây co kéo, có sắc tố quanh sang
thương dạng mối đùn [1]. Tuy nhiên có
thể chẩn đoán lầm là Ktbv khi có sự hiện
diện của tăng sản giả biểu mô
(pseudoepitheliomatuos hyperplasia) [6].
Đối với Ktbn chẩn đoán lâm sàng có độ
nhạy 100% đối chiếu với kết quả mô
bệnh học. Ktbn dễ chẩn đoán sai đối vơi
các bác sĩ chưa kinh nghiệm khi đối diện
với Ktbn núp dưới hội chứng giả dạng
như viêm bờ mi kinh niên hay chắp lẹo
[4]. Trong nhóm Ktbn, có 1 TH kèm
viêm bờ mi kinh niên, 3 TH có tiền căn
tái phát sau mổ chắp lẹo.
2. Về kỹ thuật mổ:
Tại sao phải mổ dưới kính hiển vi
phẫu thuật? Hai phương cách có sẳn giúp
cắt u an toàn không sợ sót mô ung thư là
Kỹ thuật vi bản đồ của Mohs (Mohs'
micrographic surgery) [9] và sinh thiết
trọn với kiểm soát sinh thiết lạnh
(excisional biopsy with frozen section
control) [5]. Hiện tại bệnh viện chưa có
thể thực hiện 1 trong 2 kỹ thuật trên nên
việc cắt u dưới kính hiển vi là giải pháp
thay thế hạn chế cắt bỏ nhiều mô lành.
Khi cắt u bằng mắt thường người ta
thường tôn trọng nguyên tắc kinh điển
sau [3]: Ktbđ cách mép sang thương
0,5cm đối với Ktbđ, và cách mép 1cm
đối với Ktbn và Ktbv. Kính hiển vi cho
phép nhận diện rõ đâu là giới hạn của
sang thương và mô lành nên tiết kiệm
được mô, tạo thuận lợi cho việc tạo hình
ở thì tiếp theo. Thực vậy tạo hình mi mất
1 phần không phức tạp khó khăn như mất
toàn bộ mi.
Đối với thầy thuốc nhãn khoa vốn
quen sử dụng kính hiển vi phẫu thuật nên
phát huy tối đa lợi thế của công cụ này.
Kính hiển vi phẫu thuật cho phép việc
bắc cầu vạt sụn kết mạc ở thì 1 và tái tạo
khe mi ở thì 2 được thực hiện đúng lớp
lang giải phẫu học nhờ nhận diện rõ các
cấu trúc của mi. Điều này giúp cho mi
42
tạo hình đạt yêu cầu thẩm mỹ và chức
năng cao hơn đồng thời biến chứng phẫu
thuật cũng ít hơn nhìn bằng mắt thường.
Tại sao dùng vạt sụn kết mạc tạo
hình mi? Trong tạo hình mi có 3 nguyên
tắc cơ bản cần tôn trọng: (1) ba thành
phần cơ bản của mi là sụn,da,kết mạc
trong đó sụn là yếu tố quan trọng coi như
khung chịu lực của mi (2) đảm bảo bản
lề chuyển động của mi (tái tạo dây chằng
mi trong và ngoài) để biên độ cử động
của mi không bị hạn chế (3) tăng cường
dinh dưỡng mô ghép. Qua nhiều năm
phẫu thuật trong lĩnh vực này chúng tôi
nhận thấy dùng vạt sụn kết mạc tạo hình
mi là giải pháp đảm bảo tốt nhất 3 yêu
cầu này. Ghép sụn mảnh rời (lấy từ sụn
mi bên lành cùng bên hay đối diện, sụn
vành tai, sụn vách ngăn mũi...) và vạt da
theo phương pháp Mustardé [2] có
khuyết điểm (1) thiểu dưỡng hoại tử ở bờ
mi tái tạo dù có tăng cường dinh dưỡng
mô ghép bằng cách di thực cơ vòng lên
bề mặt sụn ghép (2) hạn chế cử động mi,
(3) thời gian phẫu thuật kéo dài.
Dùng vạt sụn kết mạc bắc cầu chia
2 thì phẫu thuật cho phép rút ngắn thời
gian cuộc mổ (trung bình 45 phút ± 10),
mổ dưới gây tê tại chổ, ít mất máu nên
rất phù hợp cho người lớn tuổi. Trước
đây chúng tôi cho rằng vạt sụn kết mạc
chỉ thích hợp cho ung thư phần giữa mi
[7]. Giờ đây hạn chế này đã được khắc
phục, nó có thể áp dụng cho mọi vị trí và
mức độ cắt bỏ mô mi từ từng phần đến
toàn phần nhờ kết hợp với ghép sụn rời ở
1 hoặc 2 bên của vạt sụn kết mạc bắc
cầu. Chúng tôi gọi kỹ thuật này là vạt
sụn kết mạc phức tạp và đây là sáng kiến
chưa thấy mô tả trên y văn thế giới.
3. Về kết quả điều trị:
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã
tiến hành 22 TH áp dụng kỹ thuật vạt sụn
kết mạc đơn thuần, 13 TH vạt sụn kết
mạc phức tạp sự khác biệt về kết quả của
2 kỹ thuật mổ không khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p> 0.05). Điều này chứng tỏ
vạt sụn kết mạc phức tạp là một sáng
kiến có ích giúp mở rộng chỉ định cho
mọi mức độ mất mô mi mà kết quả vẫn
ngang nhau. Trong nhóm BN sử dụng vạt
sụn kết mạc phức tạp có 1 trường hợp
thất bại phải mổ lại vì mi bị biến dạng
nhiều, không đạt yêu cầu thẩm mỹ cũng
như chức năng bảo vệ nhãn cầu. Do thiếu
kinh nghiệm bước đầu, trong phẫu thuật
thì 2 chúng tôi chưa bóc tách kỹ mọi sẹo
dính nên khâu chưa đúng lớp lang giải
phẫu. Các trường hợp sau đều khắc phục
sự thiếu kinh nghiệm này.
Về các biến chứng gặp phải thì
nhóm sử sụng vạt S-KM đơn thuần có
biến chứng ít hơn nhóm vạt S-KM phức
tạp (p<0.05). Một trường hợp tái phát tại
chổ thuộc nhóm vạt S-KM đơn thuần là
Ktbđ. Trường hợp này là hậu quả của sự
cố gắng bảo tồn lệ quản khi cắt bỏ khối
u. Một trường hợp tái phát thuộc nhóm
vạt S-KM phức tạp là ung thư tế bào gai
biệt hóa kém, tái phát tại chổ sau 1 năm.
Các biến chứng khác đều không đáng kể
43
có thể chỉnh sửa lại nhưng đa số thuộc
nhóm BN lớn tuổi, họ hài lòng với kết
quả đạt được và đều không có yêu cầu
mổ lại.
KẾT LUẬN
Vạt sụn kết mạc tạo hình mi sau
cắt trọn ung thư mi là kỹ thuật thích hợp
đối với các thầy thuốc nhãn khoa quen
phẫu thuật vùng mi. Phẫu thụât thực hiện
dưới kính hiển vi giúp hạn chế cắt bỏ mô
lành trừ hao và giúp việc tạo hình được
thực hiện chính xác theo từng lớp lang
giải phẫu học nên ít biến chứng. Phẫu
thuật 2 thì nên thời gian mỗi lần mổ rút
ngắn lại khiến BN đa số là ngưới già yếu
chịu đựng cuộc mổ dễ dàng. Phẫu thuật
viên an tâm không sợ biến chứng hoại tử
thiểu dưởng mô ghép. Kỹ thuật này có
thể áp dụng cho mọi mức độ mất mô mi
nhờ sáng kiến ghép sụn rời bổ sung 2 bên
vạt S-KM bắc cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. BONIUK M, ZIMMERMAN LE,: Sebaceous carcinoma of the eyelid,
eyebrow, caruncle, and orbit. Trans Am Acad Ophthalmol Otolaryngol.
1968; 72: 619-41.
2. CIES WA, BARTLETT RE: Modification of the Mustarde and Hughes
methods of reconstruction of the lower lid. Ann Ophthalmol 7: 1497,
1967.
3. DOXANAS MT, GREEN WR, ILIFF CE.: Factors in successful surgical
management of basal cell carcinoma of the eyelids. Am J Ophthalmol.
1981; 91: 726-36.
4. DOXANAS MT, GREEN WR.: Sebaceous gland carcinoma. Arch
Ophthalmol. 1984; 102: 245-9.
5. GLATT HJ, OLSON JJ, PUTTERMAN AM.: Conventional frozen
sections in periocular basal cell carcinoma: A review of 236 cases.
Ophthalmic Surg. 1992; 23: 6-9.
6. KWITKO ML, BONIUK M, ZIMMERMAN LE.: Eyelid tumors with
reference to lesions confused with squamous cell carcinoma. I. Incidence
and errors in diagnosis. Arch Ophthalmol. 1963; 69: 693-7.
7. LE MINH THONG: Điều trị ung thư mi lan rộng bằng phẫu thuật kết hợp
với tạo hình mi. Y học TP. Hồ Chí Minh. Phụ bản chuyên đề ung bướu
học; tập 2 số 3/1998 trang 112-118.
8. MCCORD CD, TANENBAUM M: Oculoplastic Surgery, 2nd ed, Chaps
8, 9, 10. New York, Raven Press, 1987
44
9. MOHS FE.: Micrographic surgery for microscopically controlled
excision of eyelid tumors. Arch Ophthalmol. 1986; 104: 901-9.
10. SMITH B.,CONVERSE J.M.: Plastic and reconstruction surgery of the
eye and adnexa. The C.V. Mosby company 1967; 11: 65-104
11. WESLEY RE, MCCORD CD: Transplantation of eye bank sclera in the
Cutler-Beard method of upper eyelid reconstruction. Ophthalmology 87:
1022, 1980.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_dung_vat_sun_ket_mac_trong_tao_hinh_mi_sau_cat_bo_ung_thu.pdf