Đề tài So sánh một số giống lạc trong điều kiện vụ thu 2002 trên đất Gia Lâm - Hà Nội

Tài liệu Đề tài So sánh một số giống lạc trong điều kiện vụ thu 2002 trên đất Gia Lâm - Hà Nội: CHƯƠNG 1 Mở đầu . Đặt vấn đề Nước ta đang bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với mục tiêu hướng tới phát triển một nền nông nghiệp đa dạng và bền vững góp phần cung cấp nguồn nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất công nghiệp. Do đó, nước ta cần thiết chú trọng tăng cường diện tích, năng suất và sản lượng các cây trồng công nghiệp trong đó có cây lạc. Cây lạc (arachis hypogaea L.) còn có tên địa phương khác là cây đậu phộng, đậu phụng, đậu nụ - là cây thảo hàng năm, thuộc họ Đậu (Fabaceae). Cây lạc có giá trị kinh tế cao, xếp thứ 13 trong số các loại cây thực phẩm trên thế giới (Varrell và Mc Cloud, 1975). Lạc có hàm lượng lipid và protein cao, khả năng đồng hoá của lipid và protein lạc rất cao, vì vậy lạc đã là nguồn thực phẩm giàu protein thực vật quan trọng cho con người và thức ăn gia súc ở nước ta. Ngoài giá trị sử dụng như là một nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và có giá trị kinh tế cao, cây lạc còn là một cây trồng có giá trị bồi dưỡng và cải tạo đất tron...

doc59 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài So sánh một số giống lạc trong điều kiện vụ thu 2002 trên đất Gia Lâm - Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1 Mở đầu . Đặt vấn đề Nước ta đang bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với mục tiêu hướng tới phát triển một nền nông nghiệp đa dạng và bền vững góp phần cung cấp nguồn nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất công nghiệp. Do đó, nước ta cần thiết chú trọng tăng cường diện tích, năng suất và sản lượng các cây trồng công nghiệp trong đó có cây lạc. Cây lạc (arachis hypogaea L.) còn có tên địa phương khác là cây đậu phộng, đậu phụng, đậu nụ - là cây thảo hàng năm, thuộc họ Đậu (Fabaceae). Cây lạc có giá trị kinh tế cao, xếp thứ 13 trong số các loại cây thực phẩm trên thế giới (Varrell và Mc Cloud, 1975). Lạc có hàm lượng lipid và protein cao, khả năng đồng hoá của lipid và protein lạc rất cao, vì vậy lạc đã là nguồn thực phẩm giàu protein thực vật quan trọng cho con người và thức ăn gia súc ở nước ta. Ngoài giá trị sử dụng như là một nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và có giá trị kinh tế cao, cây lạc còn là một cây trồng có giá trị bồi dưỡng và cải tạo đất trong hệ thống luân canh, đặc biệt là trên đất bạc màu nghèo dinh dưỡng. Là cây trồng họ Đậu, lạc có khả năng cải tạo khu hệ vi khuẩn đất, nhất là làm phong phú hơn hệ vi khuẩn hảo khí, tạo cơ sở cho việc tăng năng suất cây trồng. Lạc có khối lượng sinh khối cao, thân lá lạc là nguồn phân xanh quan trọng, có thể cày vùi ngay tại ruộng hoặc ủ làm phân. Điều đặc biệt quan trọng là ở rễ lạc có nốt sần do vi khuẩn cố định đạm Rhizobium vigna tạo nên, có khả năng cố định nitơ khí quyển tổng hợp thành đạm cung cấp cho cây trồng. Ngày nay, lạc được trồng rộng rãi trên 100 nước trên thế giới từ 400 vỹ Bắc đến 400 vỹ Nam, thuộc vùng nhiệt đới và các vùng ấm áp trên thế giới. Hiện nay do áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến cũng như sử dụng bộ giống cho năng suất cao, sản lượng lạc trên thế giới không ngừng tăng lên. Năm 1994, diện tích trồng lạc trên thế giới khoảng 20 triệu ha và sản lượng 24 - 25 triệu tấn. Vùng trồng lạc trên thế giới tập trung chủ yếu ở các nước châu á (13,2 triệu ha) và châu Phi (6,2 triệu ha). ở Việt Nam, cây lạc được trồng rải rác khắp trên phạm vi cả nước từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ đến các tỉnh vùng núi phía Bắc nhưng tập trung ở 4 vùng trồng lạc chính là Trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ chiếm 3/4 diện tích và sản lượng lạc cả nước. Tuy nhiên năng suất và sản lượng ở các vùng chênh lệch nhau một cách đáng kể, các tỉnh phía Bắc với diện tích khoảng 140.000 ha, năng suất đạt 13,0 tạ/ha, các tỉnh phía Nam diện tích khoảng 132.600 ha, năng suất xấp xỉ 16,1 tạ/ha. Hiện nay, lạc là một trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng, đạt kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng 40 - 50 triệu USD. Ngoài ra, lạc còn được sử dụng làm thực phẩm trong nước ở nhiều dạng khác nhau. Vì vậy, sản xuất lạc ở nước ta ngày càng tăng. Từ những năm 80 trở về trước, diện tích và sản lượng lạc của nước ta rất thấp. Sau đó, trong vòng 10 năm từ 1981 - 1990 diện tích trồng tăng bình quân 7% mỗi năm, sản lượng tăng 9% mỗi năm. Từ 1990 - 1995, sản xuất lạc có xu thế tăng về diện tích và sản lượng song năng suất còn thấp, chỉ đạt trên 10 tạ/ha. Trong 3 năm (1996 - 1998), diện tích và sản lượng tăng rõ rệt, năng suất đã đạt 15 tạ/ha. Sở dĩ sản lượng và năng suất lạc tăng nhanh là do Việt Nam đã mở rộng được thị trường tiêu thụ và áp dụng một số tiến bộ kỹ thuật tiên tiến. Việc sản xuất lạc ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn như đất xấu, nghèo dinh dưỡng, diện tích được tưới không nhiều. Người nông dân còn chưa có điều kiện đầu tư nhiều cho sản xuất, hơn nữa giá cả, thị trường thường không ổn định khiến thu nhập bấp bênh. Lạc lại là cây trồng khó dự đoán về năng suất vì bộ phận thu hoạch chính - quả lạc - nằm ở dưới mặt đất (P.S.Reddy, 1989). Do vậy, công tác chọn tạo giống càng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay mục tiêu chọn giống lạc của chúng ta tập trung vào các mục tiêu: năng suất cao, thích hợp với từng vùng sinh thái, thời gian sinh trưởng khác nhau phù hợp với các công thức luân canh trong đó chú trọng tới giống có thời gian sinh trưởng ngắn (100 - 120 ngày), giống có khả năng kháng/chống chịu sâu, bệnh, giống có khả năng chịu/tránh hạn, giống có tính ngủ tươi của hạt, giống có chất lượng hạt phục vụ cho ép dầu và xuất khẩu. Để góp phần vào công tác chọn giống lạc mới phục vụ cho sản xuất, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài : “ So sánh một số giống lạc trong điều kiện vụ thu 2002 trên đất Gia Lâm - Hà Nội ”. 1.2. Mục đích - yêu cầu Mục đích của đề tài Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, tính chống chịu và năng suất của một số giống nhập nội, đề xuất giống có triển vọng để tiếp tục khảo nghiệm đưa vào sản xuất. Yêu cầu của đề tài + Theo dõi và đánh giá một số đặc điểm hình thái, sinh trưởng, phát triển của giống lạc tham gia thí nghiệm + Xác định khả năng chống chịu và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống trong điều kiện vụ thu năm 2002. cHƯƠNG 2 tổNG QUAN TàI LIệU Theo Engen [14], lạc được trồng cách đây khoảng 3800 năm ở Las Haldas, từ thời kỳ tiền đồ gốm. Những bằng chứng cổ nhất đã khẳng định Nam Mỹ (Braxin, Peru, Achentina) là cái nôi của cây lạc và lạc được phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới trước và cùng với thời gian khám phá ra châu Mỹ. Từ vùng nguyên sản lạc được di thực đến châu Âu, tới vùng bờ biển châu Phi, á (Trung Quốc, Indonexia, ấn Độ), tới quần đảo Thái Bình Dương và cuối cùng tới vùng Đông Nam Hoa Kỳ. Sau đó, lại có sự di chuyển chéo tạo nên các trung tâm giống thứ cấp. Hệ thống phân loại lạc tương đối phức tạp, nhưng phần lớn các tác giả thống nhất theo phương pháp phân loại của Gregory (1980) và Krapovikas (1990) dựa vào tập tính sinh trưởng, sự ngủ nghỉ và chín. Theo phương pháp này, phân loại dưới loài của lạc như sau: Phân loại dưới loài của lạc trồng Arachis hypogaea L Loài phụ Thứ Dạng thực vật Kiểu phân cành Dạng cây Số hạt/quả Hypogaea Hypogaea Virginia Xen kẽ Bò - đứng 2 - 3 Hirsuta Peruvian Runner Xen kẽ Bò 2 - 4 Fastigiata Fastigiata Valencia Liên tục Đứng 3 - 5 Vulgaris Spanish Liên tục Đứng 2 Theo nhận định của nhiều tác giả, tiềm năng để nâng cao năng suất và sản lượng lạc ở các nước còn rất lớn do năng suất thu được khi tiến hành trồng trong những diện tích nhỏ cao hơn từ 4 - 5 lần so với năng suất trồng đại trà, vì vậy cần phải khai thác. 2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Trên thế giới, đặc biệt là tại các nước có nền khoa học kỹ thuật phát triển, việc nghiên cứu về cây lạc đã đạt được nhiều thành tựu trong đó riêng về giống lạc đã tạo ra nhiều giống mới có tiềm năng năng suất cao, phẩm chất tốt, khả năng chống chịu khá...nhờ đó mà năng suất và sản lượng lạc tăng không ngừng. Varell và Mc Cloud (1976) đã báo cáo về số giống lạc trồng trọt hiện có ở những nước trồng lạc chính trên thế giới, không kể tập đoàn đặc biệt, các dòng lai biến dị thế hệ đầu, các đột biến tự nhiên và các giống địa phương, nhập nội đã có khoảng 30.000 mẫu giống [14]. Kinh nghiệm của ấn Độ cho thấy, nếu sử dụng giống mới kết hợp với kỹ thuật canh tác tiến bộ đã tăng 50 - 63% năng suất lạc [2]. Nhiều vùng sản xuất lạc hiện nay đều quan tâm tới các giống lạc chín sớm để tận dụng lượng mưa trong vụ, phù hợp với hệ thống luân canh nhất là thời gian ngắn giữa hai vụ lúa. Hiện tại ở AI CORPO (ấn Độ), một số giống có thời gian sinh trưởng ngắn được giới thiệu trong sản xuất, đặc biệt là “ Chico ” có ưu việt về năng suất, tỷ lệ bóc vỏ, hàm lượng dầu. Từ một số tổ hợp lai giữa “Chico, 91176” (Spanish/Valencia) với “Robut 33 - 1 và Tifrun ” đã chọn được những giống lạc chín sớm hơn khoảng 15 - 20 ngày, tăng năng suất quả 18 - 30% [14]. Qua nghiên cứu của TS. Duan Shufen [13], ở Trung Quốc hơn 200 giống lạc có năng suất cao đã được phát triển và phổ biến cho sản xuất từ những năm cuối của thập kỷ 50. Kết quả ghi nhận là các giống lạc được trồng ở tất cả các vùng đất rộng 38,46 triệu ha, trong thời gian này đã bốn lần thay giống. ở miền Nam Trung Quốc cho tới những năm 50 còn trồng các giống thuộc nhóm Virgina. Sau khi mở rộng vụ lạc thu và luân canh với lúa, các giống thuộc loại hình Spanish được sử dụng để thay thế giống cũ. Giống mới chín sớm với những đặc tính nông học tốt như San ưu 27, Yeuyou 116, Yeusuan 58, Yeuyou 92 đã thay thế những giống được phổ biến trong thập kỷ 80. Đáng chú ý là các giống Longhua 3, Hoa 5, Yeuyou 92 chống bệnh chết ẻo và giống San ưu 27 chống gỉ sắt lạc đã được phổ biến cho nông dân sử dụng trong những năm 80 đóng vai trò quan trọng trong việc phòng chống các bệnh này. Theo Perdido (1996) [16], trong những năm 1986 - 1990 các giống lạc như UPLPn6, UPLPn8, BPIPn2 đã được đưa vào sản xuất ở Philippin. Các giống lạc này đều có kích thước hạt lớn, kháng với bệnh gỉ sắt và bệnh đốm lá muộn. Việc chọn tạo giống lạc ở Indonexia cũng tập trung vào các mục tiêu là năng suất cao, phẩm chất tốt, chín sớm và kháng bệnh. Năm 1991, các giống có triển vọng như Mahesa, Badak, Biawar và Komodo đã được khuyến cáo và đưa vào sản xuất [15]. Tại Thái Lan tiến hành đưa vào sản xuất các giống lạc có đặc tính năng suất cao, chín sớm, thời gian sinh trưởng từ 100 - 110 ngày, kháng bệnh đốm lá, gỉ sắt, chịu hạn, kích thước hạt lớn như Khon Kean 60-3, Khon Kean 60-2, Khon Kean 60-1 và Tainan 9 (Joglog và cộng sự, 1992, 1996) [17]. Achentina cũng là một nước thành công trong nghiên cứu và ứng dụng các kỹ thuật tiến bộ trong sản xuất lạc. Trong suốt 50 năm (1932 - 1982), năng suất lạc của Achentina chỉ ở mức khiêm tốn, trên dưới 700 kg lạc hạt (tương đương 1,0 tấn lạc vỏ/ha). Từ năm 1982, nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đã được tăng cường. Đến năm 1991, năng suất lạc bình quân của Achentina đạt 2,0 tấn/ha, gấp 2 lần năm 1980. Các giống mới có chất lượng cao được gieo trồng trên 70% diện tích trồng lạc cả nước [2]. ở Mỹ có ba chương trình nghiên cứu sử dụng một số loài dại trong chi Arachis lai với loài lạc trồng Arachis hypogaea để tăng cường tính chống sâu bệnh ở Bắc Carolina, Oklahoma và Texas [10]. Trong thời gian 10 năm (1980 - 1990), ở Mỹ đã đưa vào sản xuất 16 giống lạc mới bao gồm 9 giống thuộc loại hình Runner (Sunbelt Runner, Sun Runner, GK7, Langley, Okrun, Southern Runner, Tamrun 88, Georgia Runner, Marci), 5 giống thuộc loại hình Virgina (Va 81B, NC 8C, NC 9, NC 10C, NC - V11), 2 giống thuộc loại hình Spanish (Pronto, Spanco)[10]. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Điều kiện thời tiết có ảnh hưởng lớn tới sự sinh trưởng, phát triển của cây lạc nhất là các yếu tố nhiệt độ, ánh sáng và lượng mưa. Lạc cần nhiệt độ trung bình cho suốt quá trình sinh trưởng, phát triển khoảng 25 - 340C thay đổi tuỳ theo yêu cầu của từng giai đoạn. Là cây C3, lạc phản ứng tích cực với cường độ ánh sáng đặc biệt trong thời kỳ ra hoa - làm quả, đồng thời lạc cho sản lượng cao ở những vùng có lượng mưa từ 500 đến 1250 mm phân phối đều. Điều kiện tự nhiên ở nước ta hầu như khá thích hợp cho cây lạc sinh trưởng, phát triển. Đồng thời, lạc là cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn (khoảng 3 - 4 tháng), thuận tiện bố trí vào các công thức luân canh tăng vụ, phù hợp với nền nông nghiệp đa canh ở nước ta, nhằm tăng thu nhập trên đơn vị diện tích cho bà con nông dân. Hơn nữa, lạc lại là cây cải tạo, bồi dưỡng đất góp phần bảo vệ và nâng cao độ phì của đất. Với điều kiện của nước ta hiện nay, các yếu tố kinh tế, kỹ thuật cần cho sản xuất lạc còn hạn chế. Trong đó, sâu bệnh là một yếu tố hạn chế quan trọng. Đồng thời những biến động thất thường của thời tiết và các khó khăn về kỹ thuật, vốn đầu tư sản xuất thấp ... là những nguyên nhân cơ bản hạn chế năng suất lạc ở nước ta. Nhưng như ông cha ta nói “ cố công không bằng giống tốt ” thì nguyên nhân chủ yếu hạn chế năng suất lạc có lẽ là vấn đề một bộ giống tốt, thích ứng với điều kiện của các vùng sản xuất. Các giống địa phương như Cúc, Lỳ, Đỏ Bắc Giang, Lụa Nam Định ... ít giống có tiềm năng năng suất cao, thiếu giống có chất lượng, các giống đang được gieo trồng thoái hoá và lẫn tạp nhiều, dẫn đến năng suất thấp (năm 2001 năng suất trung bình cả nước chỉ đạt 15,0 tạ/ha), phẩm chất hạt và khả năng chống chịu giảm. Trong công tác chọn giống, điều quan trọng là phải có được sự đa dạng về di truyền để có thể có sự lựa chọn mang các đặc tính mong muốn. Việc thu thập nguồn gen trong nước và nhập nội các nguồn giống nước ngoài, đánh giá, bảo quản là hết sức cần thiết cho mục tiêu trước mắt và lâu dài. Từ những năm 80, Trung tâm Nghiên cứu giống cây trồng Việt - Xô (Viện KHKTNN Việt Nam) đã tiến hành thu thập và nhập nội một cách hệ thống. Số lượng mẫu giống trong tập đoàn lạc lên tới 1271 (Trần Đình Long và CTV,1991). 100 giống địa phương và 1171 mẫu giống nhập nội từ 40 nước là kết quả đáng khích lệ trong giai đoạn 1984 - 1990 cho tập đoàn lạc Việt Nam. Từ 1991 - 2000, Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ đã nhập nội trên 1894 mẫu giống từ ICRISAT, ấn Độ để tiến hành đánh giá, chọn lọc. Viện Khoa học Nông nghiệp Miền Nam đã và đang nghiên cứu 250 mẫu giống [2]. Phát triển cây lấy dầu trong đó có cây lạc đã được Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn (NN & PTNT) xác định là một trong những vấn đề trọng điểm trong chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn của nước ta. Từ năm 1990 đến nay, công tác nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trồng lạc ở nước ta đã được quan tâm hơn trước. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển cây lạc được tăng cường thông qua chương trình hợp tác với Viện ICRISAT ấn độ và mạng lưới Đậu đỗ và Cây cốc châu á (CLAN), chúng ta đã chọn tạo được các giống lạc mới có tiềm năng năng suất cao, chất lượng tốt góp phần tăng năng suất lạc cả nước từ 10,0 tạ/ha (1990) lên 14,3 tạ/ha (1998) và 18 tạ/ha (2000) [2]. Vì lạc được trồng ở các hệ thống luân canh cây trồng và điều kiện sinh thái khác nhau do vậy mục tiêu cụ thể của công tác chọn giống cũng luôn thay đổi để phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Từ năm 1974, Bộ môn Cây công nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội bắt đầu nghiên cứu chọn tạo giống bằng phương pháp lai hữu tính và phương pháp phóng xạ. Kết quả bằng phương pháp gây đột biến giống Bạch sa (giống nhập nội từ Trung Quốc) bằng tia g CO 60 với bức xạ chiếu 5000 Rơnghen đã tạo ra được dòng B.5000 có năng suất cao và ổn định, phẩm chất tốt, vỏ mỏng, tỷ lệ bóc vỏ đạt 70 - 72%, hạt to, vỏ lụa màu hồng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo phương pháp lai hữu tính thì trong 24 tổ hợp lai thu được 4 dòng lai có triển vọng là 75/25, 75/20, 75/15, 75/16 xuất phát từ hai tổ hợp lai (Mộc Châu trắng x Trạm xuyên) và (Mộc Châu trắng x Cúc Nghệ An). Giống Sen lai 75/23 có khả năng sinh trưởng khoẻ, nảy mầm cao, tương đối chịu rét, năng suất cao và ổn định, số quả nhiều, tỷ lệ nhân cao, hạt to, vỏ lụa màu hồng, tỷ lệ dầu khá (Lê Song Dự và cộng sự, 1986) [3]. ở miền Bắc trong những năm 1960 - 1970 đã nhập nội một số giống tốt của Trung Quốc và đạt những kết quả đáng kể. Các giống Sư tuyển 64, Trạm xuyên, Bạch sa được giới thiệu rộng rãi ở các vùng trồng lạc miền Bắc là kết quả của công tác nhập nội trong thời gian này. Đây là những giống có năng suất cao, hạt to, sinh trưởng khoẻ đã thay thế một phần giống địa phương như Đỏ Bắc Giang, Nụ Tuyên Quang ... Đề tài chọn tạo giống đậu đỗ cấp nhà nước trong thời gian 1986 - 1990 do Viện sĩ Trần Đình Long chủ trì [5], về cây lạc đã nghiên cứu khảo sát 1216 lượt mẫu giống nhập từ 40 nước trên thế giới trong đó có hơn 100 mẫu giống địa phương, rất đa dạng vể kiểu gen và kiểu hình. Có các mẫu giống cực ngắn như Lỳ và Tainan (83 ngày ở miền Nam), Cúc Nghệ An (90 - 95 ngày ở miền Bắc), các giống có kiểu hình có số quả trên cây cao là V4499, K1501 (27 - 29 quả), tỷ lệ nhân cao ở các giống U4502, U962 (26 g/cây). Từ 79 nguồn gen ngắn ngày nhập nội từ ICRISAT, Nguyễn Thị Chinh (1996) [2] chọn được 9 mẫu giống có thời gian sinh trưởng từ 105 - 110 ngày trong điều kiện vụ xuân ở miền Bắc Việt Nam, như ICGV 86055, ICGV 87883, số còn lại có thời gian sinh trưởng khoảng 120 ngày. Đây thực sự là nguồn gen ngắn ngày cho công tác lai tạo giống. Các giống JL24 và L05 (ICGV 86143) được tác giả chọn tạo có thời gian sinh trưởng ngắn và năng suất cao. Từ 1989 - 1992, Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ tiến hành 19 tổ hợp lai theo hướng ngắn ngày trong đó có sử dụng các nguồn gen nhập nội. Kết quả đã chọn lọc được một số dòng có triển vọng là ICGV 90014, ICGV 90068, ICGV 90016 [2]. Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ đã tiến hành lai tạo, nhập nội bộ giống có thời gian sinh trưởng trung bình cho năng suất cao. Những giống này được chia ra làm hai nhóm: nhóm cho vùng thâm canh và vùng không chủ động nước tưới. Từ đó, chọn ra được 12 giống có nhiều triển vọng cho vùng thâm canh là TQ6, TQ3, QĐ1, QĐ2, QĐ3, QĐ4, QĐ5, QĐ6, QĐ7, QĐ8, QĐ9, ĐL1 đều là những giống có nguồn gốc từ Trung Quốc. Còn các giống cho vùng không tưới là 9208.11 (L12), 9205b, X96, trong đó giống L12 là giống có nhiều triển vọng nhất, khối lượng 100 hạt lớn (52,8g), vỏ mỏng (76,5%), đạt năng suất 38,7 tạ/ha tại Nghệ An. Giống lạc L03 là giống được chọn ra từ tổ hợp lai giữa giống địa phương Sen Nghệ An và giống nhập nội ICGV 87157 cho năng suất và chất lượng cao trong sản xuất, hiện giống L03 được Bộ NN & PTNT cho phép khu vực hoá trên diện rộng tại miền Bắc [2]. Giống V79 do Viện KHKT Nông nghiệp và Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội tạo ra bằng phương pháp đột biến bằng tia Rơngen trên giống Bạch sa - Trung Quốc. Giống V79 thuộc loại hình Spanish, sinh trưởng khoẻ, ra hoa, tạo quả tập trung, thời gian sinh trưởng 120 - 125 ngày, khối lượng 100 quả 130 - 135g, khối lượng 100 hạt 48 - 52g, tỷ lệ nhân 74 - 76%, năng suất 20 - 25 tạ/ha, vỏ quả mỏng nhẵn, vỏ hạt màu hồng nhạt, chịu hạn khá, nhiễm trung bình các bệnh đốm nâu, gỉ sắt, đốm đen, héo xanh vi khuẩn [12]. Hoàng Tuyết Minh và CTV (1995) [2] đã tiến hành gây đột biến giống lạc Sen lai năm 1989 và chọn ra được hai dòng D332 và D329 có năng suất cao (23 - 24 tạ/ha), ổn định, có khả năng chống chịu tốt. Dòng D332 đã được Bộ NN & PTNT cho phép khu vực hoá từ năm 1995. Đánh giá 15 giống ngắn ngày, Viện KHNN Miền Nam cho thấy 3 giống ICGV 87883, ICGV 87391, ICGV 90068 là những giống có triển vọng, thuộc dạng hình Spanish, thời gian sinh trưởng 90 ngày, khối lượng 100 hạt lớn nhưng vỏ dày hơn các giống địa phương. Giống HL25 (ICGS 56) nhập nội từ ICRISAT đã được Viện chọn lọc và đưa vào sản xuất (Hoàng Kim 1987, 1990) [2]. Kết quả cải tiến giống đã đưa ra các giống như L02, LTV, 4329 có khối lượng 100 hạt từ 50 - 60g cao hơn so với các giống cũ như Sen Nghệ An, Lỳ, Mỏ Két (37 - 45g). Những nguồn gen có kích thước hạt lớn cũng được nhập nội (76 dòng) và đánh giá từ năm 1996. Có 4 mẫu có khối lượng 100 hạt trên 100g là ICGV 9564, ICGV 91089, ICGV 95173, ICGV 95152. Tuy nhiên, chúng có thời gian sinh trưởng dài và năng suất thấp nên được sử dụng trong chương trình lai tạo theo hướng cải tiến khối lượng hạt (Trần Nghĩa, 1996) [2]. Khảo nghiệm một số giống lạc vụ xuân trên đất Gia Lâm, Hà Nội, Bùi Xuân Sửu [7] thấy trong 6 dòng lai được khảo sát tất cả đều có khối lượng hạt khá lớn (từ 40 - 50g/100hạt), vỏ hạt màu hồng, phù hợp với mục tiêu xuất khẩu lạc nhân, trong đó có 2 dòng (C x H17) và (B.5000 x B) cho năng suất cao, vỏ quả mỏng, hạt màu sắc đẹp, có triển vọng đưa vào các vùng lạc thâm canh. Từ 1991 - 1995, tại Viện Cây có dầu bằng phương pháp chọn lọc cá thể, dòng lạc VD1 đã được chọn ra từ giống địa phương Lỳ với năng suất bình quân trong điều kiện thí nghiệm là 3493 kg/ha, cao hơn giống đối chứng Lỳ 19%, hàm lượng dầu cao hơn 3%, thời gian sinh trưởng tối đa 90 ngày. Hiện nay, giống này đã được Bộ NN & PTNT cho phép khu vực hoá ở phía Nam. Các giống OPI 9422, OPI 9423 được chọn ra từ phương pháp lai hữu tính có năng suất tương đương với giống Lỳ nhưng khối lượng 100 hạt cao hơn [2]. Tại Viện Cây có dầu, Ngô Thị Lâm Giang và cộng sự [2] đã đánh giá trên 400 mẫu giống nhập nội, lai tạo và chọn lọc ra một số giống có triển vọng, có thời gian sinh trưởng trung bình là VD2, VD3, VD4, VD5 các giống này có năng suất cao, hàm lượng dầu và khối lượng 100 hạt cao. Từ 1996 - 1998, Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ đã đánh giá bộ giống kháng bệnh đốm lá nhập nội từ ICRISAT thấy rằng có 6 giống vừa cho năng suất khá vừa kháng bệnh là ICGV 91227, ICGV 87846, ICGV 91234, ICGV 98256, ICGV 91215, ICGV 91222. Hai giống ICGV 86325 và ICGV 86699 tuy năng suất không cao nhưng kháng bệnh cao đã được thử nghiệm tại Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Bắc Trung Bộ. Kết quả cho thấy giống ICGV 91234 cho năng suất khá (28 tạ/ha) so với đối chứng (21,4 tạ/ha) [2]. ở miền Nam, trong những năm 1996 - 1999, 77 dòng lạc kháng héo xanh được nhập nội từ ICRISAT đã được đánh giá trong đó 2 dòng VD9 (ICG 8666) và VD10 (ICG 8645) được xác định là có triển vọng, cho năng suất vượt trội giống đối chứng từ 22 - 26%, tỷ lệ cây chết tương ứng là 0,1 và 1,6% trên nền tự nhiên ngoài đồng (Ngô Thị Lâm Giang và cộng sự, 1999) [2]. Nguyễn Xuân Hồng, Nguyễn Văn Liễu, Nguyễn Thị Yên (1991 - 1999) [2] đánh giá 684 mẫu giống lạc nhập nội từ ICRISAT và Trung Quốc theo hướng kháng bệnh héo xanh vi khuẩn. Kết quả chỉ ra có 5 mẫu giống phản ứng kháng bệnh là Taishansanlirow, MD7, ICG1703 (KPS 5), ICG 7893 (KPS 6) và ICG 1704. Hiện nay, giống MD7 được Bộ NN & PTNT công nhận giống quốc gia. Giống Gié Nho Quan là một nguồn gen quý về tính kháng bệnh héo xanh vi khuẩn đã được phát hiện khi đánh giá khả năng kháng bệnh của các giống địa phương. Tỷ lệ sống sót sau 70 ngày trồng trong điều kiện tự nhiên là 92,65% và trên nền nhiễm bệnh nhân tạo là 82,5% so với giống đối chứng nhiễm bệnh (Đỏ Bắc Giang) là 37,2% và 28,7% (Nguyễn Văn Liễu, Nguyễn Xuân Hồng, 1996) [2]. Hiện nay, giống Gié Nho Quan đang được Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Đậu đỗ sử dụng làm nguồn gene kháng bệnh trong công tác lai tạo giống theo hướng kháng bệnh héo xanh vi khuẩn. Trong 2 năm 1998 - 1999, Nguyễn Xuân Hồng và cộng sự [2] đã đánh giá 112 mẫu giống thu thập được trên nền nhân tạo về khả năng kháng bệnh mốc vàng thấy rằng chỉ có 5 mẫu không bị nhiễm bệnh là VAG 54-1, VAG 54-3, VAG 29, VAG 43-47. Trong số các giống đang khuyến cáo trồng trong sản xuất thì BG78, BG51, V79 tỏ ra kháng với nấm. Các giống L02, L05, MD7 kháng ở mức trung bình, giống LVT và 4329 bị nhiễm nặng. Đánh giá 35 dòng lạc kháng mốc vàng nhập từ ICRISAT, Trần Nghĩa (1996) [2] cho rằng chỉ có 2 giống cho năng suất cao hơn giống địa phương (Mỡ Cam Ranh) là ICGV 91300 và ICGV 91279 trong điều kiện miền Bắc Việt Nam. Còn ở phía Nam, Ngô Thị Lâm Giang (1999) đánh giá phản ứng của 9 dòng/giống với bệnh thấy hai giống VD2 (OPI 9404) và VD7 có tỷ lệ nhiễm nấm thấp 3,5 và 3,9% tương ứng trong điều kiện nhân tạo. Giống VD2 có năng suất và chất lượng tương đối cao (năng suất quả 34,2 tạ/ha, khối lượng 100 hạt trên 48g), đây là giống có triển vọng đang được nhân nhanh để đưa ra sản xuất. Một số dòng được xác định là chịu hạn qua đánh giá tại ICRISAT đã được thử nghiệm ở nước ta và một số dòng có triển vọng đã được giới thiệu là ICGV 95393, ICGV 93255, ICGV 94149 ở phía Bắc (Trần Nghĩa 1996) và ID2, ID3, ID12, ID13, ID14 ở phía Nam (Ngô Thị Lâm Giang 1999) [2]. Trải qua nhiều năm, công tác nghiên cứu và chọn tạo giống lạc mới ở nước ta đã có những kết quả khả quan, hiện nay có nhiều giống mới phục vụ cho sản xuất lập thành bộ giống khá đầy đủ: Giống ngắn ngày: Chio JL24, L05, VD1. Giống cho vùng nước trời: V79, L12, L03. Giống cho vùng thâm canh: LVT, L02 và một số giống có triển vọng L04, L06, L14. Giống cho phẩm chất hạt cao: L08 (130 hạt/100g). Giống chống bệnh héo xanh vi khuẩn: MD7. Các cơ quan nghiên cứu chọn tạo ra giống mới có tiềm năng năng suất cao nhưng do thiếu vốn, thiếu cơ sở vật chất để tổ chức sản xuất và dịch vụ cung ứng nên tốc độ phát triển giống mới còn rất chậm so với sản xuất yêu cầu. Ước tính đến vụ xuân 1999, diện tích trồng các giống lạc mới còn chiếm tỷ lệ thấp, bình quân cả nước mới đạt khoảng 20%. Vì vậy, bên cạnh việc tiếp tục nghiên cứu và chọn tạo các giống mới thì cần nâng cao hiệu quả thực tế của các thành tựu về giống. CHƯƠNG 3 NộI DUNG Và PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU 3.1. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 3.1.1. Vật liệu nghiên cứu Thí nghiệm gồm có 4 giống tham gia: TQ6: là giống lạc có nguồn gốc Trung Quốc. MD7: Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp tuyển chọn từ tập đoàn lạc kháng bệnh héo xanh vi khuẩn quốc tế, nhập nội từ Trung Quốc. L14: Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp tuyển chọn từ tập đoàn lạc kháng sâu bệnh có nguồn gốc Trung Quốc nhập vào Việt Nam năm 1996. Hiện đang được gieo trồng trên diện rộng ở tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang (đối chứng). MD9: được nhập nội từ Trung Quốc năm 1996, là giống kháng bệnh khô xanh tương đối tốt. 3.1.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm - Công thức thí nghiệm : 1/ Công thức 1: giống TQ6. 2/ Công thức 2: giống MD7. 3/ Công thức 3: giống L14. 4/ Công thức 4: giống MD9. - Diện tích ô thí nghiệm : 3m x 4m = 12m2 . Tổng diện tích tiến hành thí nghiệm (ô thí nghiệm và dải bảo vệ): 155m2. - Phương pháp bố trí thí nghiệm: Phương pháp ngẫu nhiên. - Số lần nhắc: 3 lần. - Đối chứng: Giống L14. Sơ đồ thí nghiệm Dải bảo vệ Dải bảo vệ Dải bảo vệ 4 2 1 3 2 1 2 3 4 1 4 3 Dải bảo vệ 3.1.3. Các biện pháp canh tác (yếu tố phi thí nghiệm) Ngày gieo: 07/08/2002. Mỗi ô chia làm 5 hàng, rạch hàng, bón lót, gieo hạt. Mật độ gieo: 40 cây/m2. Gieo hàng kép: Khoảng cách giữa 2 hàng rộng : 45cm. Khoảng cách giữa 2 hàng hẹp : 15cm. Khoảng cách cây : 8cm. - Bón phân: + Lượng phân: Supe lân: 350kg/ha (420g/ô). Kali clorua: 100 - 150kg/ha (120 - 180g/ô). ure: 40kg/ha (48g/ô). Vôi bột: 400kg/ha (480g/ô). + Cách bón: Bón lót : 100% Supe lân và 50% vôi bột. Bón thúc : 50% ure khi cây có 2 - 3 lá thật. 50% ure và 50% vôi bột khi lạc ra hoa. 100% Kali clorua trước khi vun. Làm cỏ và xới vun: + Lần 1: khi cây có 2 - 3 lá thật, xới nhẹ kết hợp với bón phân ure, không vun. + Lần 2: trước khi cây ra hoa, sau lần 1 khoảng 10 - 15 ngày, xới rộng, sâu, không vun. + Lần 3: khi cây ra hoa rộ, vun cao đến cặp cành cấp 1, tạo điều kiện bóng tối và điều kiện cọ xát cơ giới cho lạc đâm tia, kết hợp bón phân Kali clorua. - Tưới nước: tưới đầu vụ lúc gieo và thời kì ra hoa. Phòng trừ sâu bệnh: + Đối với sâu: khi sâu xuất hiện cần phun thuốc kịp thời. + Đối với bệnh: cần phun phòng và định kì khi cây bắt đầu xuất hiện bệnh, đặc biệt chú ý tới bệnh đốm lá. 3.2. Các chỉ tiêu theo dõi 3.2.1. Theo dõi sinh trưởng - Thời gian sinh trưởng: + Thời gian và tỷ lệ mọc mầm: * Thời gian từ gieo đến 10% số cây mọc. * Thời gian từ gieo đến 50% số cây mọc. * Thời gian từ gieo đến kết thúc mọc. Phương pháp theo dõi: đếm tổng số cây mọc/hàng có đánh dấu trước, mỗi ngày một lần vào các buổi sáng. Tỷ lệ mọc mầm = (Số cây mọc / Tổng số hạt gieo) x 100. + Thời gian phân cành (theo dõi từ mọc đến cành cấp 1 thứ nhất): mỗi lần nhắc lại theo dõi 10 cây, khi cây đầu tiên có cặp cành cấp 1 thứ nhất dài 2 cm thì theo dõi 2 ngày 1 lần đến khi 80% số cây phân cành cấp 1 thứ nhất thì dừng lại. Ghi ngày xuất hiện cặp cành cấp 1 thứ nhất. + Thời gian ra hoa và động thái nở hoa: * Thời gian từ mọc đến 10% số cây ra hoa. * Thời gian từ mọc đến 50% cây ra hoa. * Thời gian từ mọc đến 80% số cây ra hoa. * Thời gian từ mọc đến khi tắt hoa. Phương pháp theo dõi: mỗi lần nhắc lại theo dõi 10 cây, đếm số hoa nở hàng ngày trên cây. + Thời gian đâm tia: * Thời gian từ mọc đến 10% số cây đâm tia. * Thời gian từ mọc đến 80% số cây đâm tia. Phương pháp theo dõi: mỗi lần nhắc lại theo dõi 10 cây, tiến hành 2 ngày/lần. - Theo dõi một số chỉ tiêu sinh trưởng: Chiều cao cây, chiều dài cành cấp 1 và số lá thân chính: mỗi lần nhắc lại theo dõi 10 cây có đánh dấu (đo từ cặp cành cấp 1 đến đỉnh sinh trưởng ngọn và đếm số lá trên thân chính). Đo, đếm sau gieo 20 ngày, sau đó 7 ngày đo một lần đến khi thu hoạch. 3.2.2. Theo dõi một số chỉ tiêu sinh lý - Động thái tích luỹ chất khô các bộ phận và toàn cây: mỗi công thức lấy mẫu 3 cây, cân trọng lượng tươi và trọng lượng khô không đổi của riêng từng bộ phận: rễ (từ tử diệp trở xuống), cơ quan sinh sản (hoa, tia quả, quả non), lá, thân (cùng với cành, cuống lá), tiến hành sau gieo 30 ngày, định kỳ 10 ngày. - Động thái diện tích lá và chỉ số diện tích lá: tiến hành cùng với theo dõi tích luỹ chất khô, sử dụng phương pháp cân nhanh. 3.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi khác Sự hình thành nốt sần: tiến hành đếm và cân trọng lượng các nốt sần cùng với theo dõi khả năng tích luỹ chất khô. Mức nhiễm sâu bệnh hại: theo dõi trên mỗi lần nhắc theo đường chéo 5 điểm. Thang điểm bệnh hại của ICRISAT: Điểm 1: tất cả các cây không bị hại. Điểm 2: 1 - 5% cây bị bệnh. Điểm 3: 6 - 10% cây bị bệnh. Điểm 4: 11 - 20% cây bị bệnh. Điểm 5: 21 - 30% cây bị bệnh. Điểm 6: 31 - 50% cây bị bệnh. - Khả năng chống đổ: đếm số cây bị đổ ở mỗi lần nhắc lại ở các thời kỳ ra hoa rộ - hình thành quả và quả vào chắc - quả chín, tính %. Đặc điểm hình thái: + Màu sắc thân, hình dạng, màu sắc lá. + Hình dạng quả, eo quả, mỏ quả, gân quả. + Hình dạng hạt, màu sắc vỏ hạt. 3.2.4. Các yếu tố tạo thành năng suất và năng suất (Theo dõi 10 cây/ô khi thu hoạch): + Cân khối lượng chất khô các bộ phận lần cuối. + Các chỉ tiêu yếu tố năng suất: tổng số quả trên cây, tổng số quả chắc, số quả một nhân, hai nhân, ba nhân. + Cân khối lượng 100 quả, 100 hạt: mỗi lần nhắc lại lấy 100 quả, 100 hạt đem cân, tính trung bình giữa các lần cân. + Tính tỷ lệ bóc vỏ: mỗi lần nhắc lại cân khối lượng 100 quả, bóc vỏ, cân khối lượng hạt. Tỷ lệ bóc vỏ (%) = P hạt/quả x 100. + Tính hệ số kinh tế: HSKT = Năng suất cá thể / P khô toàn cây. + Năng suất cá thể: cân trọng lượng quả khô chắc của 10 cây theo dõi lấy trung bình. + Năng suất lý thuyết = Năng suất cá thể x mật độ cây (tạ/ha). + Năng suất thực thu: năng suất thực tế thu được trên ô thí nghiệm quy đơn vị tạ/ha. + Năng suất hạt = Năng suất thực thu x Tỷ lệ bóc vỏ (tạ/ha). 3.2.5. Tính toán thống kê các số liệu thu được Sử dụng chương trình xử lý số liệu của IRRISTAT. CHƯƠNG 4 KếT QUả NGHIÊN CứU Và THảO LUậN Một số đặc điểm thực vật của các giống thí nghiệm Mỗi giống đều có đặc điểm hình thái riêng, nó thể hiện qua các bộ phận thân, lá, quả. Nhờ đó mà công tác chọn tạo và phân loại được thuận tiện. Bảng 1: Một số đặc điểm thực vật của các giống Đặc trưng Giống TQ6 Giống MD7 Giống L14 Giống MD9 Dạng cây Kiểu phân cành Màu sắc thân Màu sắc lá Hình dạng lá (tỷ lệ dài/rộng) Eo quả Mỏ quả Gân quả Hình dạng hạt Màu sắc vỏ lụa Đứng Liên tục Xanh Xanh 1,92 Trung bình Trung bình Rõ Bầu dục Hồng nhạt Đứng Liên tục Xanh Xanh đậm 1,87 Nông Trung bình Rõ Bầu dục Hồng nhạt Đứng Liên tục Xanh Xanh đậm 2,12 Trung bình - sâu Trung bình Rõ Bầu dục Hồng nhạt Đứng Liên tục Xanh Xanh đậm 2,01 Nông Trung bình Rõ Bầu dục Hồng nhạt Thế cây Là yếu tố quan trọng của một giống được đưa vào sản xuất, các giống có thế cây đứng thẳng, gọn thì dễ tăng được số cây trên một đơn vị diện tích, mặt khác cây gọn sử dụng ánh sáng tốt hơn, ít sâu bệnh. Đây là đặc điểm có liên quan tới sự phân bố hoa, quả trên cây. Cây lạc có thể đứng hay bò. Thế cây đứng có hình thái cây gọn, do vậy khả năng tăng mật độ trên đơn vị diện tích dễ hơn, đặc biệt hoa tập trung ở phía sát gốc vì vậy tỷ lệ quả chắc cao. Thế cây bò có cành bò lan trên mặt đất, hoa không tập trung, quả chín không đều, tỷ lệ quả lép cao. Qua theo dõi, chúng tôi thấy tất cả các giống thí nghiệm đều có thế cây đứng. Kiểu phân cành Các giống thuộc các loài phụ khác nhau thì có kiểu phân cành khác nhau. Theo Bunting, dựa vào quy luật ra hoa, ông chia làm 2 nhóm: Nhóm phân cành liên tục: đặc điểm nhóm này là hoa xuất hiện nhiều đốt trên cành, thân mọc đứng, ít cành cấp cao, hoa ra tập trung ở phía dưới gốc. Nhóm phân cành xen kẽ: đặc điểm nhóm này là cành dinh dưỡng và sinh sản ra xen kẽ nhau theo một trật tự nhất định, hoa ra rải rác trên cây. Thí nghiệm cho thấy tất cả các giống đều thuộc loại nhóm phân cành liên tục. Thân và lá Thân lạc mọc đứng, có từ 15 - 25 đốt, các đốt gốc ngắn hơn phía ngọn. Chiều cao thân chính tuỳ thuộc vào giống và điều kiện ngoại cảnh. Lá lạc thuộc loại lá kép lông chim lẻ có hai đôi lá chét, hình dạng lá chét thường là hình bầu dục dài, bầu dục và hình trứng. Hình dạng lá đặc trưng cho từng giống, màu sắc lá thay đổi tùy thuộc vào điều kiện ngoại cảnh, giống. Màu sắc thân và lá cũng là một đặc điểm để phân biệt các giống, biểu hiện rõ nhất khi lạc ra hoa. Tất cả các giống đều có thân màu xanh, lá có màu xanh đậm trừ giống TQ6 có màu xanh thường, tỷ lệ giữa chiều dài/rộng các giống dao động từ 1,87 - 2,12. Độ lớn của lá giữa các giống không chênh lệch nhiều. Quả - Vỏ quả: độ dày vỏ quả là chỉ tiêu liên quan chặt chẽ tới tỷ lệ nhân. Nếu vỏ quả dày, tỷ lệ nhân thấp còn ngược lại thì tỷ lệ nhân cao nhưng dễ dập nát, nấm bệnh phát triển vì trong khi thu hoạch và phơi dễ bị va chạm cơ giới. Vì vậy các giống chỉ nên có độ dày vỏ quả vừa phải. - Gân quả: là chỉ tiêu phân loại các giống vì đặc điểm này thay đổi tuỳ theo từng giống. - Eo quả: cũng là chỉ tiêu phân loại giống, nếu eo thắt sâu sẽ ảnh hưởng tới việc bóc vỏ và xuất khẩu. Qua theo dõi, tất cả các giống đều có mỏ quả trung bình, gân quả rõ, eo quả của giống MD7 và MD9 nông, giống TQ6 eo trung bình, còn giống L14 có eo trung bình đến sâu. Hạt - Dạng hạt: để đánh giá chỉ tiêu này chúng ta phải dựa vào tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng hạt. + Dạng hạt tròn có tỷ lệ chiều dài /đường kính hạt <1,7. + Dạng hạt bầu dục có tỷ lệ chiều dài /đường kính hạt >1,7 và < 2,5. - Màu sắc hạt: cùng với khối lượng 100 hạt thì đây là chỉ tiêu quan trọng liên quan tới giá trị thương phẩm. Quan sát thấy tất cả các giống đều có hạt hình bầu dục, vỏ lụa màu hồng nhạt. Thời gian sinh trưởng Thời gian và tỷ lệ mọc Sự nảy mầm của hạt là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ sinh trưởng của lạc. Đây là quá trình hạt chuyển từ trạng thái tiềm sinh sang trạng thái sống. Hạt lạc mà thành phần chủ yếu là lipit và protein ở dạng dự trữ, trong quá trình nảy mầm đã trải qua một loạt các biến đổi sinh hoá sâu sắc dưới ảnh hưởng của các điều kiện môi trường để chuyển hoá các chất dự trữ thành các cấu tạo của cây con. Cây con chỉ nhận được một phần dinh dưỡng nhỏ từ đất còn lại chủ yếu là từ dinh dưỡng của các chất dự trữ, do đó, chất lượng hạt giống là một trong những yếu tố quyết định sức nảy mầm và tỷ lệ nảy mầm. Trong điều kiện chất lượng hạt giống tốt, điều kiện ngoại cảnh thích hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hạt mọc mầm nhanh, cây con sau khi mọc mầm có sức sống cao tạo tiền đề tốt cho các giai đoạn tiếp sau. Đồng thời tỷ lệ mọc mầm và sức nảy mầm cao sẽ đảm bảo được mật độ định trước, tạo tiền đề cho năng suất. Quá trình nảy mầm của hạt được bắt đầu từ khi hạt hút đẫy nước trong đất, sự hoạt động của các men, các chất dự trữ để tạo thành những nguyên liệu cho quá trình hình thành cây mới. Hạt giống muốn nảy mầm tốt ngoài chất lượng tốt thì cũng cần có điều kiện ngoại cảnh phù hợp. Nhiệt độ là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đối với sự nảy mầm của hạt, ngoi lên mặt đất của cây con và sinh trưởng ban đầu của cây. Trong vụ thu, lạc nảy mầm trong điều kiện nhiệt độ từ 28 - 300C nên sự nảy mầm thường được xúc tiến nhanh hơn trong vụ xuân. Vì thế có thể kết luận rằng tỷ lệ mọc mầm và sức mọc mầm phụ thuộc hoàn toàn vào chất lượng hạt giống, đặc điểm di truyền của giống và các yếu tố ngoại cảnh thời kỳ mọc mầm. Ngày gieo là 07/08/2002, giai đoạn này nhiệt độ không khí cao, độ ẩm không khí khá, có lượng mưa nhỏ nên rất thuận lợi cho cho quá trình mọc. Bảng 2: Thời gian (ngày) và tỷ lệ mọc (%) Giống Thời gian (ngày) từ gieo đến Tỷ lệ mọc (%) 10% cây mọc 50% cây mọc Kết thúc mọc TQ6 MD7 L14 MD9 4 6 5 5 6 7 7 7 10 12 11 11 96,8 88,5 91,7 90,9 Qua bảng 1, chúng tôi có một số nhận xét: Sau gieo từ 4 - 6 ngày, tất cả các giống đều đạt tỷ lệ mọc 10%, không chênh lệch nhau nhiều, dài nhất là giống MD7 (6 ngày), ngắn nhất là giống TQ6 (4 ngày) còn giống MD9 ngang bằng với giống đối chứng (5 ngày). Đến giai đoạn 50% cây mọc thì các giống MD9, MD7 bằng với giống đối chứng (7 ngày), còn giống TQ6 thì sớm hơn 1 ngày. Tất cả các giống đều có thời gian kết thúc mọc từ 10 - 12 ngày. Giống có thời gian mọc ngắn nhất là TQ6 (10 ngày), giống có thời gian mọc dài nhất là MD7 (12 ngày). Giống MD9 có thời gian mọc bằng với giống đối chứng (11 ngày). Nói chung, các giống đều có tỷ lệ mọc cao, biến động từ 88,5% - 96,8%. Trong đó, giống đối chứng có tỷ lệ mọc đạt 91,7% cao hơn các giống MD7 và MD9. Giống TQ6 có tỷ lệ mọc cao nhất là 96,8%, giống MD7 có tỷ lệ mọc thấp nhất là 88,5%. Như vậy, tất cả các giống đều có chất lượng hạt giống tốt, sức mọc mầm khá. Thời gian phân cành Khả năng phân cành của lạc rất lớn, nhất là các giống thuộc loài phụ Hypogaea, những giống này có thể có tới 4 - 7 cấp cành với tổng số cành có thể đạt 20 - 30 cành. Các giống thí nghiệm thuộc loài phụ Fastigiata, thứ Spanish, thân đứng, số cành cấp 1 biến động từ 4 - 6 cành, cành cấp 2 thường chỉ xuất hiện ở cặp cành cấp 1 đầu tiên, cành cấp 2 thường xuất hiện khi lạc có 5, 6 lá thật. Số hoa và số quả ở tầng cành thứ nhất (gồm cành 1, 2 và các cành cấp 2 của nó) chiếm khoảng 50 - 70% tổng số hoa, quả của cây. Các cành này thường có hoa xuất hiện sớm nhất và thường là những hoa hữu hiệu, quyết định số quả/cây. Theo dõi tốc độ xuất hiện cặp cành cấp 1 thứ nhất của các giống được trình bày ở bảng 3. Bảng 3: Thời gian hình thành cặp cành cấp 1 đầu tiên (ngày) Giống Thời gian (ngày) từ gieo đến 10% cây có cành cấp 1 50% cây có cành cấp 1 100% cây có cành cấp 1 TQ6 MD7 L14 MD9 7 8 8 7 8 9 9 9 12 13 12 12 Như vậy, sau gieo 7 ngày, giống TQ6 và MD9 đã đạt tỷ lệ phân cành trên 10%, còn các giống MD7 và đối chứng thì đạt tỷ lệ này sau gieo 8 ngày. Giống TQ6 đạt tỷ lệ phân cành trên 50% sau gieo 8 ngày, các giống khác đạt tỷ lệ này sau gieo 9 ngày. Giống đối chứng đạt tỷ lệ phân cành muộn hơn 1 ngày so với các giống khác (12 ngày). Nhìn chung, các giống đều có khả năng phân cành sớm, thuận lợi cho việc sớm ra hoa. Thời gian ra hoa và động thái nở hoa Mầm hoa hình thành vào ngày thứ 14 sau gieo, từ lúc bắt đầu hình thành mầm đến khi hoa nở khoảng 18 - 21 ngày. Khi lạc ra hoa là bước vào thời kỳ sinh trưởng sinh thực. Lạc sinh trưởng vô hạn và bắt đầu ra hoa khoảng 20 - 30 ngày sau khi nảy mầm, tuỳ theo giống, môi trường và đặc biệt chịu ảnh hưởng của nhiệt độ do lạc là cây phản ứng gần trung tính với quang chu kỳ, cho nên thời kỳ trước nở hoa (thời kỳ cây con) phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ trung bình trong ngày. Nếu nhiệt độ trung bình tăng từ 20 - 300C thì số ngày cần thiết cho sự nở hoa đầu tiên giảm. Số hoa nở giảm khi quá trình hình thành tia và quả bắt đầu, tuy nhiên ngay cả khi quả già, trên cây vẫn nở hoa ở những đốt trên cao. Mức độ hữu hiệu hình thành quả phụ thuộc vào kiểu ra hoa (số hoa ở các thời kỳ nở hoa khác nhau), tỷ lệ hoa có ích quan trọng hơn tổng số hoa trên một cây. Các hoa nở sớm thường là hoa có khả năng cho quả hữu hiệu do có đủ thời gian tích luỹ chất dinh dưỡng còn những hoa ra muộn thường là hoa vô hiệu nếu cho quả thì cũng chỉ là quả non không đem lại hiệu quả kinh tế. Do đó, thời gian ra hoa kéo dài không có lợi cho năng suất. Hoa ra tập trung, gọn là một yêu cầu của giống cũng như kỹ thuật. Bảng 4: Thời gian ra hoa của các giống (ngày) Giống Thời gian ra hoa sau gieo (ngày) Tổng thời gian ra hoa (ngày) 10% cây ra hoa 50% cây ra hoa 80% cây ra hoa TQ6 MD7 L14 MD9 22 24 23 23 24 25 25 26 27 27 26 28 24 22 24 24 Trong điều kiện vụ thu, tích ôn tổng số trước khi ra hoa của cây đạt 679,00C, nhiệt độ trung bình ngày 28,30C nên các giống đều ra hoa sớm, khoảng trên 20 ngày. Giống TQ6 đạt tỷ lệ 10% cây nở hoa sau gieo 22 ngày, giống MD9 đạt tỷ lệ 10% cây nở hoa ngang bằng với giống đối chứng (23 ngày) còn giống MD7 là muộn nhất (24 ngày). Khi 50% số cây nở hoa là cây chính thức bước vào thời kỳ hoa rộ. Giống TQ6 đạt tỷ lệ 50% cây nở hoa sớm nhất là 24 ngày, các giống khác đạt tỷ lệ này ngang bằng hay muộn hơn giống đối chứng (25 ngày). Các giống đạt tỷ lệ 80% cây nở hoa trong khoảng từ 26 - 28 ngày sau gieo. Ngoài ra thời gian và tổng số hoa phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh, nếu điều kiện ngoại cảnh thuận lợi thì hoa nở tập trung, thời gian nở hoa ngắn, tổng số hoa nở nhiều, tỷ lệ đậu quả cao. Bảng 5: Động thái nở hoa của các giống (hoa/cây/ngày) Ngày Giống TQ6 Giống MD7 Giống L14 Giống MD9 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 1,0 2,4 3,9 4,0 5,4 4,8 3,7 3,1 1,9 2,3 1,7 1,8 0,4 0,5 0,4 0,2 0,3 0,4 0,1 0,0 0,2 0,1 0,1 0,0 0,0 0,2 1,0 2,3 2,5 4,2 4,1 4,1 3,0 2,5 2,6 1,8 1,3 0,4 0,4 0,6 0,2 0,3 0,6 0,4 0,1 0,1 0,7 0,0 0,0 0,0 0,9 1,4 2,9 3,3 4,2 4,2 3,5 3,3 2,3 2,0 2,2 1,4 0,7 0,4 0,6 0,2 0,4 0,3 0,4 0,2 0,1 0,1 0,1 0,1 0,0 0,5 1,1 1,7 2,3 3,2 3,3 3,0 3,1 2,5 2,2 2,3 1,2 1,1 0,3 0,6 0,2 0,4 0,5 0,2 0,2 0,2 0,1 0,0 0,1 0,0 Tổng số hoa/cây 38,7 33,4 35,2 30,4 Thời gian ra hoa liên tục của các giống lạc thí nghiệm là khoảng 25 ngày trong điều kiện vụ thu. Tổng số hoa nở trên cây của các giống biến động từ 30,4 - 38,7 hoa/cây, trong đó giống nở hoa nhiều nhất là TQ6 (38,7 hoa/cây), các giống khác đều thấp hơn giống đối chứng (35,2 hoa/cây). Thời gian đâm tia Sự thụ tinh thường được tiến hành vào buổi sáng, sau đó hoa rủ xuống, tràng hoa khép lại, hoa héo. Trong quá trình phát triển phôi, noãn được kích thích sinh trưởng bởi 1 mô phân sinh phía dưới noãn được hoạt hoá. Noãn phát triển xuyên qua hoa, lộ tia quả dài. Tia mang tế bào trứng đã được thụ tinh ở đầu, đâm xuống đất theo tính hướng địa. Khi đã đâm sâu 4 - 7 cm thì tia đâm ngang. Điều kiện đầu tiên và chủ yếu để tia hình thành quả là bóng tối và độ ẩm. Ngoài ra, tia muốn thành quả phải có đủ oxy để hô hấp và đủ chất dinh dưỡng. Tia quả có thể hấp thụ trực tiếp một số nguyên tố dinh dưỡng, đặc biệt là canxi. Không phải tất cả các tia quả được hình thành đủ chiều dài đâm vào đất đều phát triển thành quả và quả chín. Khi tia quả đã dài 15 cm mà chưa đâm được vào đất thì sẽ héo ngay, do đó, các tia được hình thành từ những hoa nở muộn ở trên cao khó hình thành quả. Các giống khác nhau thì tỷ lệ hình thành quả khác nhau. Bảng 6: Thời gian đâm tia (ngày) và tỷ lệ hoa có ích (%) Giống Thời gian (ngày) sau gieo đến Tỷ lệ hoa có ích (%) 10% cây đâm tia 80% cây đâm tia TQ6 MD7 L14 MD9 30 32 31 31 35 35 34 34 21,7 24,3 24,4 31,3 Sau khi gieo từ 30 - 32 ngày tất cả các giống đạt 10% cây đâm tia, trong đó sớm nhất là giống TQ6 (30 ngày), các giống khác đều đạt tỷ lệ này ngang bằng hay muộn hơn giống đối chứng (31 ngày). Các giống đã đâm tia hết sau khi gieo từ 34 - 35 ngày, chênh lệch giữa các giống không nhiều. Giống TQ6 và MD7 kết thúc đâm tia muộn hơn giống MD9 và giống đối chứng 1 ngày. Tuy giống TQ6 đâm tia sớm nhất nhưng tỷ lệ hoa có ích lại thấp nhất (21,7%) trong tất cả các giống. Giống MD7 đạt tỷ lệ hoa có ích xấp xỉ với giống đối chứng (24,4%). Giống MD9 có số hoa nở trên cây thấp nhất lại có tỷ lệ hoa có ích cao nhất (31,3%). Như vậy, qua theo dõi một số chỉ tiêu chúng tôi thấy rằng giữa các giống thí nghiệm không có chênh lệch lớn về thời gian qua các giai đoạn của quá trình sinh trưởng, phát triển. 4.3. Chiều cao cây - chiều dài cành cấp 1 - số lá trên thân chính 4.3.1. Chiều cao cây (cm) và tốc độ tăng trưởng (cm/ngày) Chiều cao cây là một chỉ tiêu giữ vai trò quan trọng, quyết định tới khả năng và tốc độ phân cành. Chiều cao cây cũng phản ánh khả năng tích luỹ chất khô, đặc điểm di truyền của giống. Tốc độ vươn cao biểu hiện mối tương quan giữa quá trình sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực trong cây lạc, nó ảnh hưởng tới năng suất. Do đó, tốc độ vươn cao của cây trong từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển sẽ ảnh hưởng lớn tới năng suất sau này. Thân lạc tương đối cao và phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm di truyền giống. Tốc độ tăng trưởng chiều cao thân tăng dần trong thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng (thời kỳ cây con) và đạt cao nhất vào thời kỳ hoa rộ (khoảng 10 - 15 ngày), tốc độ tăng trưởng chiều cao thân trong thời kỳ đầu sinh trưởng (2 - 3 lá) đạt 0,1 - 0,3 cm/ngày. Thời kỳ trước ra hoa (5 - 8 lá) đạt 0,3 - 0,6 cm/ngày. Tốc độ này tăng nhanh trong suốt thời kỳ ra hoa và cuối thời kỳ ra hoa rộ, đạt tốc độ cao nhất, khoảng 0,7 - 1,5 cm/ngày. Ngay sau đó, khi cây chuyển sang giai đoạn đâm tia, hình thành quả rộ, tốc độ tăng chiều cao thân giảm rõ rệt, chỉ còn khoảng 0,2 - 0,5 cm/ngày. Trong thời kỳ chín, nếu gặp điều kiện thuận lợi tốc độ tăng chiều cao thân lại tăng có thể đạt 0,3 - 0,7 cm/ngày trong thời kỳ thu hoạch. ở các tỉnh phía Bắc trong vụ thu cây gần như không tăng chiều cao thân trong thời kỳ chín. Với tốc độ tăng trưởng như vậy, khi lạc ra hoa, chiều cao cây chỉ đạt từ 30 - 40% chiều cao cuối cùng. Khoảng 2/3 chiều cao cây đạt được trong thời kỳ sinh trưởng sinh thực. Vì vậy, việc theo dõi và đánh giá chỉ tiêu tăng trưởng chiều cao cây qua các giai đoạn sinh trưởng, phát triển là rất cần thiết, phục vụ cho công tác chọn giống mới. Bảng 7: Chiều cao thân chính (cm) và tốc độ tăng trưởng (cm/ngày) của các giống Thời kỳ \ Giống TQ6 MD7 L14 MD9 Cây con - ra hoa Ra hoa - hoa rộ Hoa rộ - hình thành quả Hình thành quả - quả vào chắc Quả vào chắc - quả chín 0,34 0,73 1,03 0,17 0,01 0,29 0,55 1,00 0,23 0,05 0,29 0,56 0,97 0,19 0,04 0,32 0,56 1,03 0,29 0,03 Chiều cao thân chính (cm) 44,5 43,2 41,5 45,5 CV% 8,0 Từ khi hình thành cây đến lúc bắt đầu ra hoa, chiều cao thân của các giống tăng chậm khoảng 0,29 - 0,34 cm/ngày. Tăng nhanh nhất là giống MD9 (0,34 cm/ngày). Giống đối chứng đạt tốc độ tăng trưởng khá, khoảng 0,29 cm/ngày. Đến khi bắt đầu ra hoa rộ, chiều cao thân của các giống tăng nhanh rõ rệt, nhanh nhất là giống TQ6 (trung bình tăng khoảng 0,73 cm/ngày), còn các giống khác đều có tốc độ tăng trưởng chiều cao thân bằng hoặc thấp hơn giống đối chứng (0,56 cm/ngày). Tốc độ tăng trưởng chiều cao thân chính tăng nhanh nhất trong thời kỳ ra hoa rộ đến hình thành quả khoảng 0,97 - 1,03 cm/ngày. Giống đối chứng có tốc độ tăng trưởng chậm nhất (0,97 cm/ngày). Tiếp theo, đến thời kỳ quả vào chắc, tốc độ tăng trưởng chiều cao thân chính của các giống giảm rõ rệt, biến động từ 0,17 - 0,29 cm/ngày. Vào thời kỳ quả vào chắc - quả chín do trời mưa nhiều, được cung cấp nhiều đạm nên các giống tiếp tục phát triển chiều cao thân, trong đó giống MD7 có tốc độ tăng chiều cao thân nhanh nhất (0,05 cm/ngày). Qua các thời kỳ sinh trưởng, giống TQ6 có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất vào thời kỳ đầu (từ cây con đến bắt đầu ra hoa rộ), giống MD7 có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất vào thời kỳ cuối, điều này bất lợi đối với quá trình sinh trưởng sinh thực. Chiều cao cuối cùng của các giống biến động từ 41,5 - 45,5 cm/cây, trong đó giống đối chứng đạt chiều cao thân cuối cùng thấp nhất (41,5 cm/cây), còn giống MD9 đạt chiều cao thân cuối cùng cao nhất (45,5 cm). Chiều dài cành cấp 1 (cm) và tốc độ tăng trưởng (cm/ngày) Tốc độ tăng trưởng cành có liên quan chặt chẽ với sinh trưởng của cây. Nếu thân chính sinh trưởng phát triển mạnh sẽ ức chế quá trình phân cành và sự phát triển của cành. Ngược lại, thân chính sinh trưởng chậm, yếu thì cành xuất hiện muộn. Vì thế, ra hoa muộn dẫn đến số hoa hữu hiệu thấp, trực tiếp ảnh hưởng xấu tới năng suất. Mối liên quan này phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của giống và điều kiện ngoại cảnh. Mặt khác, khi cây đâm tia hình thành quả thì chất dinh dưỡng do lá nào tổng hợp được sẽ chuyển tới nuôi quả hình thành ở đốt lá đó mà cành cấp 1 lại là nơi tập trung nhiều quả nhất của cây lạc. Vì thế, cành cấp 1 có tốc độ tăng trưởng nhanh cùng với việc duy trì lâu bộ lá có tác dụng gián tiếp đến việc tăng năng suất. Bảng 8: Chiều dài cành cấp 1 (cm) và tốc độ tăng trưởng (cm/ngày) của các giống Thời kỳ \ Giống TQ6 MD7 L14 MD9 Cây con - ra hoa Ra hoa - hoa rộ Hoa rộ - hình thành quả Hình thành quả - quả vào chắc Quả vào chắc - quả chín 0,32 0,88 1,00 0,21 0,02 0,29 0,68 1,15 0,06 0,05 0,28 0,69 0,98 0,22 0,03 0,32 0,67 0,99 0,35 0,04 Chiều dài cành cấp 1 (cm) 45,4 44,5 43,0 46,6 CV% 7,4 Tốc độ tăng trưởng chiều dài cành cấp 1 của các giống có sự chênh lệch khá rõ qua các thời kỳ. ở thời kỳ từ cây con đến bắt đầu ra hoa, các giống có tốc độ tăng trưởng chậm, khoảng từ 0,28 - 0,32 cm/ngày. Giống đối chứng là giống có tốc độ tăng trưởng chậm nhất (0,28 cm/ngày), giống TQ6 và MD9 có tốc độ tăng trưởng cao nhất khoảng 0,32 cm/ngày. Sang đến thời kỳ ra hoa rộ, giống TQ6 là giống có tốc độ tăng trưởng chiều dài cành cấp 1 nhanh nhất (0,88 cm/ngày), các giống còn lại đều có tốc độ tăng trưởng thấp hơn giống đối chứng (0,69 cm/ngày). Cùng với quá trình tăng nhanh chiều cao thân chính, chiều dài cành cấp 1 của các giống cũng đạt tốc độ tăng trưởng mạnh nhất vào thời kỳ ra hoa rộ đến hình thành quả, trong đó thấp nhất là giống đối chứng (0,98 cm/ngày), giống MD7 đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất (1,15 cm/ngày). Chiều dài cuối cùng của cành cấp 1 các giống đều cao hơn chiều cao thân chính, biến động từ 43,0 - 46,6 cm/cây. Các giống đều có chiều dài cành cấp 1 cuối cùng cao hơn giống đối chứng (43,0 cm/cây), cao nhất là giống MD9 (46,6 cm/cây. Tổng số cành/cây và số cành cấp 1, cấp 2 Đây là chỉ tiêu liên quan đến năng suất. Số cành/cây của mỗi giống khác nhau, phụ thuộc đặc điểm di truyền của giống và điều kiện ngoại cảnh. Bảng 9: Tổng số cành/cây và số cành cấp 1, cấp 2 của các giống Giống Tổng số cành/cây Số cành cấp 1/cây Số cành cấp 2/cây TQ6 MD7 L14 MD9 5,5 5,1 5,6 5,9 4,1 4,0 4,2 4,1 1,4 1,1 1,4 1,8 Qua theo dõi, nhìn chung số cành của các giống dao động từ 5,1 - 5,9 cành/cây. Cao nhất là giống MD9 (5,9 cành/cây), giống đối chứng có số cành cao hơn các giống khác còn lại (5,6 cành/cây). Số cành cấp 1 trên cây có liên quan tương đối chặt chẽ đến năng suất của lạc. Lạc thường ra hoa tập trung ở cặp cành cấp 1 thứ nhất chiếm tới 66% số lượng quả của cây, các cành khác chiếm 30%. Vì thế, cành ra sớm, phát triển nhanh, cân đối làm cơ sở cho việc tích luỹ dinh dưỡng sau này. Trong quá trình phân hoá và hình thành cành cấp 1, số lượng cành phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh và đặc điểm phân cành của từng giống. Các giống có số cành cấp 1 không chênh lệch nhau nhiều, biến động từ 4,0 - 4,2 cành/cây. Cao nhất là giống đối chứng (4,2 cành/cây) và thấp nhất là giống MD7 (4,0 cành/cây). Cùng với cành cấp 1, cành cấp 2 cũng là cành mang hoa, quả, do đó chúng đều là các cành sinh thực. Các giống có số cành cấp 2 biến động từ 1,1 - 1,8 cành/cây trong đó giống MD9 có nhiều cành cấp 2 nhất đạt 1,8 cành/cây, giống đối chứng đạt 1,4 cành/cây cao hơn giống MD7 (1,1 cành/cây) và ngang bằng với giống TQ6. Động thái ra lá trên thân chính Lá là cơ quan thực hiện quang hợp chủ yếu của cây nhất là trong thời kỳ mọc mầm khi cây đang cần nhiều chất dinh dưỡng để tạo ra các bộ phận mới trong khi các chất dự trữ gần hết. Số lá trên thân chính của lạc có thể đạt 20 - 25 lá. Các lá trên thân chính góp phần dự báo các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây. Bảng 10: Động thái ra lá trên thân chính của các giống (lá/cây) Ngày thứ (sau gieo) Giống TQ6 Giống MD7 Giống L14 Giống MD9 20 27 34 41 48 55 63 70 77 84 91 6,1 8,1 9,6 11,6 12,7 13,7 14,6 15,2 15,5 15,6 15,8 6,1 7,9 9,6 11,2 12,7 13,9 15,0 15,7 16,1 16,2 16,6 6,1 7,9 9,7 11,6 12,7 13,8 14,7 15,5 15,9 16,1 16,4 6,2 7,9 9,4 11,1 12,3 13,5 14,4 15,2 15,8 16,0 16,3 Khi ra hoa, số lá trên thân chính của các giống không chênh lệch nhau nhiều lắm (khoảng 6 lá), đây là đặc điểm phát dục chung của lạc. Số lá tăng nhanh cùng với tốc độ tăng trưởng chiều cao thân. Khi cây ra hoa, hình thành hạt là lúc thân, lá phát triển mạnh. Cuối thời kỳ hình thành quả các giống đạt khoảng 13,5 - 13,9 lá. Nhiều lá nhất là giống MD7 (13,9 lá), giống đối chứng có số lá nhiều hơn các giống còn lại. Tổng số lá trên thân chính của các giống khá chênh lệch nhau, biến động khoảng 15,8 - 16,6 lá. Cao nhất là giống MD7 (16,6 lá), giống đối chứng có nhiều lá trên thân chính hơn các giống khác (đạt 16,4 lá). Động thái diện tích lá Năng suất cây trồng là kết quả hoạt động của bộ máy quang hợp, quyết định tới 90 - 95% năng suất. Để sử dụng có hiệu quả nhất năng lượng ánh sáng thì ở thời kỳ diện tích lá tối đa quần thể cây trồng phải đạt được chỉ số diện tích lá (LAI) tối ưu. Hầu hết năng lượng tới phải được bộ lá hấp thụ để tạo ra lượng chất khô cao nhất. Nếu chỉ số diện tích lá thấp hơn chỉ số diện tích lá tối ưu thì ánh sáng không được hấp thụ hết (lãng phí ánh sáng). Trong trường hợp ấy cần nâng cao chỉ số diện tích lá để đạt trị số tối ưu. Nếu chỉ số diện tích lá cao hơn trị số tối ưu thì các lá che khuất nhau làm cho cường độ ánh sáng của các tầng lá dưới sẽ dưới ở điểm bù nên giảm lượng chất khô tích luỹ. Mỗi giống cây trồng có đặc tính di truyền khác nhau (về hình thái lá, góc lá so với thân, chiều cao cây...) nên chỉ số diện tích lá tối ưu là ổn định. Điều cơ bản đối với vấn đề này là tăng trưởng diện tích lá trên cây nhanh và duy trì bộ lá trong thời gian thích hợp. Diện tích lá và lượng chất khô tăng đều đặn từ giai đoạn lá thứ ba đến khi hình thành tia quả . Diễn biến tăng trưởng diện tích lá lạc từ khi mọc đến thời kỳ hình thành quả và hạt tương ứng với sự tăng trưởng chiều cao thân. Thời kỳ sau ra hoa đến hình thành quả và hạt là thời kỳ thân cành phát triển mạnh, đồng thời cũng là thời kỳ diện tích lá phát triển nhanh nhất. Diện tích lá đạt cao nhất thường vào thời kỳ hình thành quả - hạt (30 - 35 ngày khi có hoa), sau đó giảm dần do sự rụng của các lá già. Tốc độ tăng diện tích lá thường đạt 0,1 - 0,2 dm2 lá/ngày ở thời kỳ trước ra hoa. Trong thời kỳ ra hoa - hình thành quả và hạt, diện tích lá tăng nhanh và có thể đạt 0,6 - 0,8 dm2 lá/ngày/cây, sau đó tốc độ này giảm nhanh và có thể đạt trị số âm vào thời kỳ chín (diện tích lá giảm dần). Chỉ số diện tích lá cao nhất đạt được vào thời kỳ hình thành quả và hạt. Trị số tuyệt đối của chỉ số này có thể đạt 6 - 7. Trong thực tiễn sản xuất, trên ruộng lạc thường đạt chỉ số diện tích lá thấp hơn nhiều so với trị số tối ưu. Đó là nguyên nhân quan trọng hạn chế năng suất lạc trên đồng ruộng. Bảng 11a: Động thái diện tích lá của các giống (dm2/cây) Giống Ngày thứ (sau gieo) 29 39 49 59 69 79 89 99 TQ6 MD7 L14 MD9 3,72 3,79 3,43 3,78 6,.58 5,55 7,13 6,32 10,07 12,10 10,51 9,60 11,80 13,60 11,58 14,78 12,93 13,92 12,60 16,02 13,82 14,36 13,02 13,43 12,48 12,53 12,64 11,87 10,54 11,12 9,57 9,82 Bảng 11b: Động thái chỉ số diện tích lá của các giống (m2 lá/m2 đất) Giống Ngày thứ (sau gieo) 29 39 49 59 69 79 89 99 TQ6 MD7 L14 MD9 1,53 1,55 1,41 1,55 2,70 2,28 2,92 2,59 4,13 4,96 4,31 3,94 4,84 5,58 4,75 6,06 5,30 5,71 5,17 6,57 5,67 5,89 5,39 5,51 5,12 5,14 5,18 4,87 4,32 4,56 3,92 4,03 Trong thời kỳ cây bắt đầu ra hoa - hoa rộ, chỉ số diện tích lá các giống biến động từ 1,41 - 1,55 m2 lá/m2 đất trong đó giống đối chứng có chỉ số diện tích lá thấp hơn tất cả các giống khác (1,41 m2 lá/m2 đất). Thời kỳ ra hoa rộ - hình thành quả là cơ sở cho quá trình tạo quả chắc sau này vì vậy thời kỳ này ảnh hưởng lớn tới năng suất. Tại thời kỳ này, chỉ số diện tích lá tăng nhanh, biến động từ 3,94 - 4,96 m2 lá/m2 đất trong đó giống MD7 đạt chỉ số diện tích lá cao nhất (4,96 m2 lá/m2 đất), giống đối chứng đạt chỉ số này cao hơn các giống còn lại. Giai đoạn quả vào chắc chỉ số diện tích lá tăng mạnh và đạt tối đa, giống MD9 sớm đạt chỉ số diện tích lá tối đa là 6,57 m2 lá/m2 đất (sau gieo 69 ngày), còn các giống khác đạt chỉ số diện tích lá tối đa muộn hơn, sau gieo 79 ngày, biến động từ 5,39 - 5,89 m2 lá/m2 đất. Giống đối chứng đạt chỉ số diện tích lá tối đa 5,89 m2 lá/m2 đất, cao hơn các giống MD7 và TQ6. Sang giai đoạn quả chín, chỉ số diện tích lá giảm dần do các lá già, lá bệnh bị rụng, biến động từ 3,92 - 4,56 m2 lá/m2 đất. Giống đối chứng có chỉ số diện tích lá thấp nhất (3,92 m2 lá/m2 đất) so với các giống khác. Giống MD7 có chỉ số này cao nhất (4,56 m2 lá/m2 đất). Để đánh giá khả năng quang hợp của cây, người ta theo dõi chỉ số diện tích lá và phải có thời gian hoạt động quang hợp tức “ thế năng quang hợp đồng ruộng”. Thế năng quang hợp đồng ruộng là tổng diện tích lá tham gia quang hợp qua từng ngày trong suốt thời kỳ sinh trưởng của quần thể. Đối với các cây trồng khác nhau, thế năng quang hợp đồng ruộng thay đổi từ 0,5 - 5 triệu m2 lá/ngày/ha. Thế năng quang hợp đồng ruộng càng cao, năng lượng ánh sáng được hấp thụ càng nhiều, năng suất sinh vật học càng cao. Bảng 11c: Thế năng quang hợp đồng ruộng của các giống qua các thời kỳ (triệu m2 lá/ngày/ha) Giống Thời kỳ hoa rộ - hình thành quả Thời kỳ hình thành quả - quả vào chắc Thời kỳ quả vào chắc - quả chín TQ6 MD7 L14 MD9 0,283 0,326 0,286 0,275 0,490 0,546 0,485 0,473 0,500 0,523 0,466 0,477 Trong thời kỳ hoa rộ - hình thành quả, giống MD7 đạt thế năng quang hợp đồng ruộng cao nhất (0,326 triệu m2 lá/ngày/ha). Giống đối chứng có thế năng quang hợp đồng ruộng đạt 0,286 triệu m2 lá/ngày/ha cao hơn các giống TQ6 và MD9. Đến thời kỳ hình thành quả - quả vào chắc, thế năng quang hợp đồng ruộng của các giống tăng rõ. Giống MD7 vẫn là giống đạt thế năng quang hợp cao nhất (0,543 triệu m2 lá/ngày/ha). Giống đối chứng đạt 0,485 triệu m2 lá/ngày/ha cao hơn giống MD9. Vào giai đoạn cuối của quá trình sinh trưởng, giống đối chứng có chỉ số diện tích lá giảm nhanh nên thế năng quang hợp đồng ruộng đạt 0,465 triệu m2 lá/ngày/ha thấp nhất so với các giống khác. Giống TQ6 và MD9 có thế năng quang hợp tăng lên so với giai đoạn trước nên cây tổng hợp được thêm nhiều chất giúp tăng chất dự trữ trong quả và hạt. Động thái tích luỹ chất khô 4.5.1. Động thái tích luỹ chất khô của các giống Khối lượng chất khô là chỉ tiêu phản ánh tốc độ sinh trưởng, phát triển của cây. Vật chất cây tích luỹ được, một phần được sử dụng cho các hoạt động sống của cây, một phần được sử dụng để làm nguyên liệu cho quá trình hình thành các bộ phận của cây và tích luỹ chất dinh dưỡng, để sau này cây vận chuyển về cơ quan dự trữ của cây như quả, hạt. Năng suất sinh vật học là tổng lượng sinh khối chất khô mà cây trồng tích luỹ được trên một đơn vị diện tích trồng trọt trong một thời gian nhất định (một vụ, một năm, hay một chu kỳ sinh trưởng). Năng suất sinh vật học được tạo ra chủ yếu do quá trình quang hợp. Trong một giới hạn nhất định người ta thấy năng suất kinh tế và năng suất sinh vật học có mối tương quan thuận. Do vậy, khả năng tích luỹ chất khô càng lớn càng tạo tiền đề cho năng suất cao nhất là ở các giai đoạn đầu. Đối với cây lạc cũng như vậy, ở từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển, tốc độ tích luỹ chất khô của cây có ảnh hưởng tới năng suất. ở thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng nếu khối lượng chất khô của cây tăng nhanh sẽ có lợi cho năng suất sau này. Ngược lại, ở thời kỳ sinh trưởng sinh thực, khối lượng thân lá tăng nhanh sẽ ức chế quá trình vận chuyển dinh dưỡng về quả và hạt, gây ra hiện tượng lạc lốp, lép và làm giảm năng suất, chất lượng. Khả năng tích luỹ chất khô phụ thuộc vào sự sinh trưởng của cây lạc cùng với giống và điều kiện ngoại cảnh. Giống tốt, cây sinh trưởng mạnh, khả năng quang hợp cao thì các chất khô tạo ra nhiều. Bảng 12a: Động thái tích luỹ chất khô của các giống (g/cây) Giống Ngày thứ (sau gieo) 29 39 49 59 69 79 89 99 TQ6 MD7 L14 MD9 3,54 2,76 3,05 3,71 5,83 5,66 6,22 5,90 12,59 13,25 12,26 12,04 17,49 17,06 13,28 18,81 22,19 21,86 21,19 24,84 23,37 24,82 27,02 26,86 24,90 26,70 29,10 28,73 28,70 28,81 29,35 29,26 Khả năng tích luỹ chất khô bắt đầu từ thời kỳ cây con, tăng mạnh ở thời kỳ ra hoa rộ và quả vào chắc. Khả năng tích luỹ chất khô đạt trị số tối đa ở thời kỳ thu hoạch. Thời kỳ cây bắt đầu ra hoa rộ, lượng chất khô của các giống biến động từ 2,76 - 3,71 g/cây. Giống MD7 tích luỹ chất khô chậm nhất (2,76 g/cây) và nhanh nhất là giống MD9 (3,71 g/cây). Giống đối chứng có khả năng tích luỹ chất khô thời kỳ ra hoa khá (3,05 g/cây). Đến thời kỳ cây ra hoa rộ - hình thành quả là thời kỳ các cơ quan sinh dưỡng đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất cùng với sự bắt đầu hình thành cơ quan sinh thực nên quá trình tích luỹ chất khô tăng nhanh. Các giống đạt lượng chất khô tích luỹ được biến động từ 12,04 - 13,25 g/cây, trong đó các giống đều cao hơn giống đối chứng (12,26 g/cây) trừ giống MD9 (12,04 g/cây). Bước vào thời kỳ tăng cường vận chuyển các chất dự trữ về các cơ quan sinh thực, khả năng tích luỹ chất khô tăng nhanh nhất trong thời kỳ hình thành quả - quả vào chắc. Lượng chất khô các giống tích luỹ được đều kém hơn so với giống đối chứng (27,02 g/cây). Giống đối chứng đạt lượng tích luỹ chất khô cao nhất (29,35 g/cây) vào thời kỳ quả vào chắc - quả chín, giống TQ6 có lượng chất khô tích luỹ thấp hơn các giống khác nhưng chênh lệch về lượng chất khô tích luỹ cuối cùng giữa các giống không nhiều. Động thái tích luỹ chất khô ở các bộ phận của giống lạc TQ6 Qua quá trình sinh trưởng lượng chất khô do cây trồng tích luỹ được qua các thời kỳ có sự chuyển tỷ lệ đóng góp nhiều từ cơ quan sinh dưỡng sang cơ quan sinh thực. Bảng 12b: Động thái tích luỹ chất khô ở các bộ phận của giống lạc TQ6 Bộ phận Ngày thứ (sau gieo) 29 39 49 59 69 79 89 99 Lá Thân Rễ Sinh sản 1,84 1,41 0,29 0,00 2,74 2,74 0,29 0,06 5,22 5,34 0,57 1,46 5,68 6,52 0,70 4,59 6,24 7,65 0,62 7,68 6,67 7,77 0,61 8,32 6,00 8,61 0,60 9,69 4,54 10,03 0,54 13,59 Toàn cây 3,54 5,83 12,59 17,49 22,19 23,37 24,90 28,70 Thời kỳ bắt đầu bước vào ra hoa rộ, lượng chất khô tích luỹ nhiều nhất ở lá đạt 51,98%, ở thân đạt 39,80%. Cùng với quá trình hình thành quả, thân cành phát triển mạnh đồng thời xuất hiện tia quả và quả nên lượng chất khô ở thân chiếm tỷ lệ nhiều nhất đạt 42,51%, bộ phận sinh sản cũng bắt đầu quá trình tích luỹ chất khô chiếm tỷ lệ 11,60%. Lượng chất khô tích luỹ từ lá giảm dần từ thời kỳ quả vào chắc chỉ còn đạt 28,54% trong khi lượng chất khô tích luỹ từ bộ phận sinh sản tăng nhanh chiếm tỷ lệ 35,60%. Thời kỳ quả chín là thời kỳ lượng chất khô tích luỹ chủ yếu là từ bộ phận sinh sản chiếm tỷ lệ 47,35%, trọng lượng rễ giảm chỉ còn chiếm tỷ lệ 1,88%, trọng lượng thân và lá đều giảm. Sự hình thành nốt sần Nốt sần ở lạc do vi khuẩn cộng sinh cố định Nitơ Rhizobium vigna tạo nên khi xâm nhập vào rễ lạc. Nốt sần chỉ bắt đầu hình thành từ khi cây lạc ở giai đoạn 4 - 5 lá thật. Lượng nốt sần tăng dần trong quá trình sinh trưởng của lạc và đạt cực đại vào thời kỳ hình thành quả và hạt lạc. Trong thời kỳ chín tới khi thu hoạch, phần lớn nốt sần già, bị vỡ và bị rụng. Cùng với sự phát triển về kích thước và số lượng nốt sần, lượng NH3 cố định tăng dần và đạt cực đại vào thời kỳ ra hoa - hình thành quả và hạt. Cũng như trong thời kỳ này, 90% lượng N cố định được cung cấp cho cây. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì sau mỗi vụ trồng, lạc để lại trong đất từ 40 - 60 kgN/ha. Đây là một nguồn đạm khá lớn rất tốt cho cây trồng sau trong hệ thống thâm canh. Những yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng nhiều tới việc hình thành nốt sần. Cố định đạm thay đổi hàng ngày - hoạt động của enzim nitrogenaza cao dần lên từ sáng sớm và hạ thấp dần về đêm. Những yếu tố khác ảnh hưởng tới cố định đạm ở cây lạc là độ pH, chất dinh dưỡng trong đất, độ ẩm đất, nhiệt độ đất và cường độ ánh sáng. Theo dõi khả năng chống đổ của các giống được trình bày ở bảng 13: Bảng 13: Động thái hình thành nốt sần của các giống Ngày sau gieo GiốngTQ6 Giống MD7 Giống L14 Giống MD9 Số lượng (cái) Khối lượng (g) Số lượng (cái) Khối lượng (g) Số lượng (cái) Khối lượng (g) Số lượng (cái) Khối lượng (g) 29 39 49 59 69 79 89 99 35,1 52,3 84,0 97,2 115,3 104,7 94,4 84,2 0,22 0,36 0,49 0,51 0,60 0,55 0,51 0,42 32,0 49,1 77,3 85,0 98,4 109,0 100,5 83,5 0,23 0,32 0,47 0,50 0,52 0,55 0,54 0,44 25,2 45,5 81,1 90,7 95,4 98,0 87,8 77,3 0,20 0,26 0,37 0,40 0,52 0,58 0,32 0,30 28,3 42,4 75,4 89,2 100,0 105,3 82,1 80,7 0,20 0,29 0,35 0,37 0,49 0,53 0,40 0,38 Số lượng và khối lượng nốt sần hình thành tăng dần trong quá trình sinh trưởng, phát triển của các giống. Trong thời kỳ cây con, số lượng nốt sần của các giống biến động từ 25,2 - 35,1 cái/cây, khối lượng khoảng từ 0,20 - 0,23g. ở thời kỳ ra hoa rộ - hình thành quả, số lượng và khối lượng nốt sần tăng nhanh, trong đó giống MD7 có số lượng nốt sần ít nhất (77,3 cái/cây), giống TQ6 có số lượng nốt sần cao nhất là 84,0 cái/cây đồng thời có khối lượng nốt sần cao nhất là 0,49 g/cây. Giống đối chứng có số lượng và khối lượng nốt sần khá cao (81,1 cái/cây nặng 0,37g). Các giống có số lượng và khối lượng nốt sần đạt mức tối đa vào thời kỳ hình thành quả - quả vào chắc, trong đó giống TQ6 sớm đạt số lượng và khối lượng nốt sần tối đa hơn các giống khác (sau gieo 69 ngày) có khoảng 115,3 cái/cây với khối lượng 0,60g. Giống đối chứng có số lượng nốt sần thấp nhất đạt 98,0 cái/cây với khối lượng 0,58g. Các giống khác có số lượng nốt sần cao hơn giống đối chứng nhưng khối lượng nốt sần lại thấp hơn. Vào giai đoạn cuối của quá trình sống của cây, số lượng và khối lượng nốt sần giảm dần do bị vỡ, rụng và dần trở nên vô hiệu, biến động từ 77,3 - 84,2 cái/cây với khối lượng khoảng 0,30 - 0,42g. Giống đối chứng có số lượng và khối lượng nốt sần thấp nhất so với các giống khác, chỉ có 77,3 cái/cây và nặng 0,30g. Mức độ nhiễm sâu bệnh hại Khả năng chống chịu sâu bệnh là một đặc tính quan trọng của cây trồng, đặc tính này có liên quan đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Việc đánh giá tính chống chịu sâu bệnh của các giống là rất cần thiết từ đó ta nhận ra các giống có khả năng chống chịu sâu bệnh để hạn chế sự giảm năng suất, tăng hiệu quả kinh tế. Trong suốt chu kỳ sống của cây lạc có rất nhiều loại sâu bệnh khác nhau như sâu cuốn lá (thời kỳ gây hại giai đoạn cây 7 - 9 lá đến khi thu hoạch, đặc điểm của sâu cuốn lá là cuốn tổ và ăn lá) hay sâu khoang (gây hại thời kỳ từ 7 - 9 lá đến khi thu hoạch, đặc điểm là ăn lá). Bệnh hại là một trong những yếu tố quan trọng làm giảm đáng kể năng suất và chất lượng lạc, nhiều khi làm giảm đến 70% năng suất. ở nước ta đại đa số các loại bệnh hại lạc là do nấm gây ra, chỉ có một bệnh duy nhất do vi khuẩn là bệnh héo xanh. Trong số các bệnh hại lạc chủ yếu ở nước ta thì bệnh đốm lá và bệnh gỉ sắt là quan trọng nhất. Bệnh đốm lá lạc phát sinh, phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao, trời ẩm ướt, vào cuối giai đoạn sinh trưởng của lạc. Vì vậy, cuối vụ lạc xuân và nhất là vụ thu thời tiết mưa ẩm, trời ấm rất thuận lợi cho nấm bệnh xâm nhiễm, lây lan, bệnh phát triển mạnh và nhanh kéo dài tới khi thu hoạch làm giảm năng suất. ở vụ lạc thu bệnh nặng hơn và gây tác hại đến năng suất nhiều hơn. Trong vụ thu bệnh thường phát sinh sớm hơn, từ trước khi ra hoa 5 - 6 ngày, bệnh tăng dần đến lúc ra tia rộ, sau đó phát triển mạnh, tăng rất nhanh từ quả non đến già chắc. Loại đốm đen phát triển nhiều và chiếm ưu thế trong vụ lạc thu. Chúng tôi đánh giá mức độ gây hại của bệnh trong thời kỳ hoa rộ và quả vào chắc theo thang điểm của ICRISAT. Bảng 14: Diễn biến sâu bệnh hại của các giống Giống TK hoa rộ TK quả vào chắc Sâu hại (%) Đốm lá (điểm) Đốm lá (điểm) Gỉ sắt (điểm) TQ6 MD7 L14 MD9 40 60 20 45 3,0 2,5 2,8 2,5 3,7 3,9 3,1 2,9 2,5 2,1 2,0 2,5 Trong thời kỳ cây ra hoa rộ, sâu bệnh khá phát triển, tất cả các giống đều bị sâu hại, biến động từ 20 - 60% số cây, trong đó nặng nhất là giống MD7 (60%) còn các giống khác đều có tỷ lệ bị hại cao hơn giống đối chứng (20%). Bệnh đốm lá của các giống trong khoảng từ 2,5 - 3,0 điểm, giống TQ6 là giống bị bệnh hại nặng nhất ở thời kỳ này (3,0 điểm). Giống đối chứng bị hại nhiều hơn các giống còn lại (2,8 điểm). Chúng tôi tiến hành phun thuốc Padan và Boocđô 1% vào thời kỳ sau ra hoa rộ nhưng chỉ có tác dụng hạn chế sâu bệnh gây hại còn bệnh đốm lá vẫn phát triển. Sang đến thời kỳ quả vào chắc, mức độ gây hại của bệnh đốm lá biến động từ 2,9 - 3,9 điểm. Trong đó giống MD7 bị hại nặng nhất (3,9 điểm), giống TQ6 có mức độ bị hại (3,7 điểm) cao hơn giống đối chứng (3,1 điểm), thấp nhất là giống MD9 (2,9 điểm). Bệnh gỉ sắt tuy xuất hiện muộn nhưng nhanh phát triển, đạt mức độ bị hại từ 2,0 - 2,5 điểm. Giống đối chứng có mức độ bị hại thấp hơn so với các giống (2,0 điểm), giống MD9 và giống TQ6 bị hại nặng nhất (2,5 điểm). Khả năng chống đổ Sự chênh lệch giữa trọng lượng phần bên trên (thân, lá) và độ chắc của phần bên dưới không hợp lý làm cho cây đổ. Để quang hợp đạt tối ưu khi diện tích lá cao, yếu tố quan trọng nhất là sự phân bố ánh sáng đều trên các tầng lá. Vì thế khi cây bị đổ thì cấu trúc không gian của bộ lá bị đảo lộn, các tầng lá sẽ che lấp nhau, ảnh hưởng tới sự quang hợp. Mặt khác, cây bị đổ sẽ khó đi lại, chăm sóc. Bảng 15: Diễn biến cây đổ qua các thời kỳ (%) của các giống Giống TK hoa rộ TK quả vào chắc TQ6 MD7 L14 MD9 0,49 1,23 0,49 0,86 3,70 12,03 5,93 6,11 Tiến hành điều tra tỷ lệ cây đổ ở thời kỳ hoa rộ, chúng tôi thấy tỷ lệ cây bị đổ không đáng kể, biến động từ 0,49 - 1,23%. Trong đó, giống MD7 có tỷ lệ cây bị đổ cao nhất là 1,23%. Giống đối chứng có tỷ lệ cây bị đổ thấp nhất (0,49%) ngang bằng với giống TQ6. Đến thời kỳ quả vào chắc là thời kỳ chiều cao thân cành và tổng số lá gần đạt mức tối đa nên tỷ lệ cây bị đổ tăng lên. Giống MD7 vẫn là giống có tỷ lệ cây bị đổ cao nhất là 12,03% mặc dù chiều cao cây không phải là cao nhất nên đây có thể là giống yếu cây, giống đối chứng là giống có tỷ lệ cây bị đổ khá thấp ở mức 5,93%. Giống TQ6 có tỷ lệ cây đổ thấp nhất so với các giống khác (3,70%). Các yếu tố tạo thành năng suất và năng suất Chỉ tiêu tạo thành năng suất là yếu tố rất quan trọng, nó biểu hiện rõ nét năng suất của cây trồng. Các yếu tố này có mối tương quan thuận và chặt chẽ với năng suất, nó phụ thuộc vào bản chất di truyền của các giống. Chỉ tiêu tạo thành năng suất của từng loại cây trồng là khác nhau, ở cây lạc để xác định được năng suất thì bao gồm các chỉ tiêu: tổng số quả trên cây, tỷ lệ quả chắc, khối lượng 100 quả, khối lượng 100 hạt. Bảng 16: Các yếu tố tạo thành năng suất và năng suất của các giống Giống Tổng số quả/cây Quả chắc Khối lượng 100 quả (g) Khối lượng 100 hạt (g) Tỷ lệ bóc vỏ (%) Số quả chắc/cây Tỷ lệ quả chắc (%) TQ6 MD7 L14 MD9 17,1 13,1 16,6 17,6 8,4 8,1 8,6 9,5 49,1 61,8 51,8 53,9 148,20 142,70 149,46 144,92 62,19 66,79 64,78 67,79 74,50 73,45 73,27 71,03 Giống Hệ số kinh tế Năng suất cá thể (g) Năng suất lý thuyết (tạ/ha) Năng suất thực thu (tạ/ha) Năng suất hạt (tạ/ha) TQ6 MD7 L14 MD9 0,55 0,49 0,53 0,53 13,5 12,7 13,7 13,0 55,35 52,07 56,17 53,30 50,74 35,19 45,26 42,96 37,80 25,85 33,16 30,51 Qua bảng 16, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau: Tổng số quả trên cây Đây là chỉ tiêu quyết định trực tiếp đến năng suất lạc. Tổng số quả trên cây cao hay thấp phụ thuộc vào giống và điều kiện ngoại cảnh, cũng như quá trình ra hoa, đâm tia và phát triển quả lạc. Các giống có tỷ lệ hoa hữu ích không cao nên tổng số quả chỉ biến động từ 13,1 - 17,6 quả trên cây. Trong đó giống đối chứng có tổng số quả cao nhất (17,6 quả/cây) so với các giống khác, giống MD7 có tổng số quả thấp nhất (13,1 quả/cây). Tỷ lệ quả chắc trên tổng số quả Tỷ lệ quả chắc là chỉ tiêu quan trọng, nó có mối tương quan thuận và chặt chẽ với năng suất. Tỷ lệ quả chắc phụ thuộc vào đặc điểm của giống, điều kiện trồng trọt và điều kiện ngoại cảnh (nhiệt độ, ẩm độ) trong thời gian bắt đầu hình thành quả và quả vào chắc. Do thời gian quả vào chắc và chín gặp điều kiện không thuận lợi nên tỷ lệ quả chắc của các giống không cao, biến động trong khoảng từ 49,1 - 61,8%. Cao nhất là giống MD7 có tỷ lệ quả chắc là 61,8%, giống đối chứng có tỷ lệ quả chắc đạt 51,8% cao hơn giống TQ6 (49,1%) và thấp hơn giống MD9 (53,9%). Khối lượng 100 quả Đây cũng là một chỉ tiêu quyết định năng suất sau này. Nếu quả có khối lượng lớn thì dù ít quả năng suất đạt được vẫn có khả năng ở mức khá. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào đặc điểm của giống cũng như điều kiện trồng trọt. Các giống đều có khối lượng 100 quả lớn, biến động từ 145,20 - 149,46g. Giống đối chứng có khối lượng100 quả lớn nhất (149,46g) so với các giống khác. Giống MD7 có khối lượng 100 quả thấp nhất (142,70g). Khối lượng 100 hạt Khối lượng 100 hạt là chỉ tiêu tạo thành lạc nhân, có ý nghĩa lớn trong công tác xuất khẩu cũng như quyết định giá trị xuất khẩu. Hạt to, vỏ lụa trắng hồng có giá trị lớn nhất trên thị trường. Khối lượng hạt càng cao thì năng suất nhân càng lớn. Qua việc tiến hành xác định chỉ tiêu này, chúng tôi thấy các giống đều có khối lượng 100 hạt lớn, biến động từ 62,19 - 67,79g. Giống đối chứng có khối lượng 100 hạt (64,78g) chỉ cao hơn giống TQ6 (62,19g). Giống MD9 có khối lượng 100 hạt lớn nhất đạt 67,79g. Các giống có khối lượng 100 hạt đều đạt tiêu chuẩn xuất khẩu nên rất có lợi cho việc mở rộng diện tích sản xuất. Tỷ lệ bóc vỏ Là chỉ tiêu quyết định trực tiếp đến năng suất lạc nhân. Nếu vỏ quả mỏng, hạt to thì tỷ lệ nhân cao. Do vậy, trong chọn tạo giống người ta chọn theo hướng có tỷ lệ nhân cao, bởi tỷ lệ nhân cao thì sẽ cho năng suất lạc nhân cao, do đó giống sẽ có giá trị trên thị trường. Tất cả các giống đều có tỷ lệ nhân cao trên 70%, trong đó giống đối chứng đạt tỷ lệ nhân 73,27% cao hơn giống MD9 (71,30%). Các giống khác có tỷ lệ nhân cao hơn giống đối chứng trong đó cao nhất là giống TQ6 (74,50%). Hệ số kinh tế Hệ số kinh tế là tỷ số giữa năng suất kinh tế và năng suất sinh vật học. Giống có hệ số kinh tế cao là giống có vật chất khô cất giữ ở hạt cao hay các sản phẩm quang hợp được vận chuyển về cơ quan dự trữ ở mức độ tối đa. Hệ số kinh tế biểu thị khả năng tích luỹ chất khô về các cơ quan có giá trị kinh tế nhất. Giá trị tối đa của hệ số kinh tế phụ thuộc vào đặc tính di truyền của giống. Những giống có hệ số kinh tế cao thì cho năng suất kinh tế cao. Vì vậy để nâng cao năng suất kinh tế của cây trồng cần phải chọn giống có hệ số kinh tế cao và phải có biện pháp hợp lý để cây hình thành các cơ quan có giá trị kinh tế tốt và tăng cường sự vận chuyển, tích luỹ chất đồng hoá vào các cơ quan này. Hầu hết các giống đều có hệ số kinh tế khá cao. Mức chênh lệch về hệ số kinh tế giữa các giống không nhiều, biến động trong khoảng 0,49 - 0,55, cao nhất là giống TQ6 (0,55), giống MD9 ngang bằng với giống đối chứng (0,53) và thấp nhất là giống MD7 (0,49). Năng suất của các giống Năng suất là kết quả cuối cùng của các quá trình sinh trưởng và phát triển của cây. Dựa vào năng suất chúng ta có thể đánh giá phạm vi thích ứng của giống cũng như giá trị của giống đó. Năng suất phụ thuộc lớn vào các chỉ tiêu tạo thành năng suất, vì các chỉ tiêu này có mối tương quan thuận là tạo cơ sở cho giống có năng suất cao. Do vậy, trong công tác chọn giống người ta tập trung nhiều vào vật liệu khởi đầu để từ đó tạo ra giống tốt có đặc điểm thích ứng với điều kiện ngoại cảnh, đồng thời cho năng suất cao, phẩm chất tốt. Năng suất cá thể Năng suất cá thể là năng suất mà thực tế từng cá thể đạt được trong điều kiện quần thể. Năng suất phụ thuộc chủ yếu vào hai yếu tố then chốt là mật độ cây trên một đơn vị diện tích và năng suất quả của một cây (số quả trên cây và trọng lượng quả trên cây). Nếu mật độ cây đảm bảo thì năng suất cá thể có ý nghĩa rất quan trọng. Năng suất cá thể của các giống biến động trong khoảng từ 12,7 - 13,7 g/cây. Giống đối chứng có năng suất cá thể đạt 13,7 g/cây cao hơn tất cả các giống khác, trong đó năng suất cá thể giống MD7 là thấp nhất (12,7 g/cây). 4.9.7.2. Năng suất lý thuyết Năng suất lý thuyết nói lên tiềm năng năng suất của mỗi giống. Biết được các chỉ số của các yếu tố tạo thành năng suất và năng suất lý thuyết cho phép ta có cơ sở để xây dựng các biện pháp kỹ thuật thích hợp nhằm khai thác tối đa tiềm năng năng suất của giống. Mật độ gieo trồng của các giống như nhau nên giống nào có năng suất cá thể cao hơn thì giống đó có năng suất lý thuyết cao hơn. Do vậy, dựa vào năng suất cá thể ta thấy rằng năng suất lý thuyết của các giống biến động từ 52,07 - 56,17 tạ/ha. Tương ứng với năng suất cá thể thì giống đối chứng có năng suất lý thuyết cao nhất đạt 56,17 tạ/ha. Giống MD7 có năng suất lý thuyết đạt 52,07 tạ/ha thấp nhất so với các giống khác. Năng suất thực thu Mục đích cuối cùng của người nông dân là đạt được năng suất thực thu cao. Vì vậy, nếu như giống có tiềm năng năng suất cao mà năng suất thực thu lại thấp thì giống đó chưa đạt được yêu cầu của thực tiễn sản xuất. Năng suất thực thu cao hay thấp là do đặc tính của giống và khả năng thích ứng của giống với cơ cấu mùa vụ và điều kiện ngoại cảnh của từng vùng. Giống đối chứng tuy có năng suất lý thuyết cao nhưng năng suất thực thu không đạt mức cao nhất so với các giống khác (45,26 tạ/ha). Giống MD7 vừa có năng suất lý thuyết thấp vừa có năng suất thực thu thấp nhất chỉ đạt 35,19 tạ/ha. Giống TQ6 có năng suất thực thu cao nhất đạt 50,74 tạ/ha. Năng suất hạt Khi sử dụng lạc, ta chỉ sử dụng hạt nhưng do yêu cầu về bảo quản nên lạc thường được để cả vỏ nên năng suất hạt là khái niệm gần gũi hơn năng suất quả khô (năng suất thực thu). Năng suất hạt dựa vào năng suất thực thu và tỷ lệ bóc vỏ. Do đó, giống TQ6 có năng suất thực thu và tỷ lệ bóc vỏ cao nhất nên đạt năng suất hạt cao nhất (37,80 tạ/ha). Giống MD7 có tỷ lệ bóc vỏ đạt cao hơn giống đối chứng nhưng do năng suất thực thu thấp nhất nên năng suất hạt chỉ đạt 25,85 tạ/ha. Từ năng suất thu được trong điều kiện canh tác cụ thể chúng ta có thể tiến hành xây dựng mô hình giống cho năng suất cao trong vụ thu với các biện pháp kỹ thuật phù hợp nhằm cung cấp giống lạc cho sản xuất lạc vụ xuân. Chương 5 Kết luận và đề nghị 5.1. Kết luận Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 5.1.1. Sinh trưởng, phát triển - Tỷ lệ mọc biến động trong khoảng 88,5 - 96,8%, thời gian mọc của các giống ngắn (10 - 12 ngày). - Tốc độ ra lá, chỉ số diện tích lá, khả năng tích luỹ chất khô đạt giá trị cao ở thời kỳ hoa rộ và quả vào chắc. - Mức độ nhiễm bệnh của các giống là khá cao. 5.1.2. Năng suất - Giống TQ6 là giống có tỷ lệ mọc cao nhất, sinh trưởng khá, phân cành khá, số quả và tỷ lệ quả chắc không cao, khối lượng 100 quả và 100 hạt cao, có năng suất cao nhất (50,74 tạ/ha). - Giống MD7 là giống sinh trưởng khá, phân cành ít, số quả ít, tỷ lệ quả chắc khá nhất, khối lượng 100 hạt cao, năng suất đạt thấp nhất (35,19 tạ/ha). - Giống L14 là giống sinh trưởng khá, phân cành khá, số quả và tỷ lệ quả chắc khá, khối lượng 100 quả cao nhất và khối lượng 100 hạt cao, năng suất đạt 45,26 tạ/ha. Giống MD9 là giống sinh trưởng khỏe, phân cành nhiều, số quả nhiều, tỷ lệ quả chắc khá, khối lượng 100 quả khá và khối lượng 100 hạt cao nhất, năng suất đạt 42,96 tạ/ha, thấp hơn đối chứng. 5.2. Tồn tại - Do điều kiện thực hiện đề tài có hạn nên mọi đánh giá còn ở mức độ nhất định. - Về hạt chúng tôi mới chỉ đánh giá sơ bộ chưa có điều kiện đi sâu phân tích chất lượng như hàm lượng dầu, protein trong hạt. 5.3. Đề nghị Tiếp tục tiến hành thí nghiệm với các giống trong điều kiện vụ thu để có kết luận chính xác về từng giống. Tài liệu tham khảo Đoàn Thị Thanh Nhàn (chủ biên) và các tác giả, 1996 Giáo trình cây công nghiệp - NXB Nông nghiệp - Hà Nội. Ngô Thế Dân , 2000 Kỹ thuật đạt năng suất lạc cao ở Việt Nam - NXB Nông nghiệp - Hà Nội. Lê Song Dự, Đào Văn Khuynh, Ngô Đức Dương, 1991 Giống lạc Sen lai 75/23. Tiến bộ kỹ thuật về trồng lạc và đậu đỗ ở VN NXB Nông nghiệp - Hà Nội. Lê Song Dự, Nguyễn Thế Côn, Vũ Đình Chính, 1996 Kết quả nghiên cứu giống lạc B.5000 - Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học nông nghiệp Trường ĐHNNI Hà Nội. 5. Trần Đình Long, Nguyễn Văn Thắng, Lê Huy Phương, 1991 Nguồn gen cây lạc ở Việt Nam - Tiến bộ kỹ thuật trồng lạc và đậu đỗ ở VN NXB Nông nghiệp. 6. Vũ Triệu Mân, Lê Lương Tề, 2001 Bệnh cây nông nghiệp - NXB Nông nghiệp. 7. Bùi Xuân Sửu, 1991 Khảo sát một số dòng lạc vụ xuân trên đất Gia Lâm - Hà Nội Kết quả nghiên cứu khoa học năm 1986 - 1991 - NXB Nông nghiệp. 8. Hoàng Minh Tấn, Nguyễn Quang Thạch, Trần Văn Phẩm, 2000 Sinh lý thực vật - NXB Nông nghiệp. 9. Phạm Chí Thành, 1988 Phương pháp thí nghiệm đồng ruộng - NXB Nông nghiệp. 10. Bùi Thị Tịnh, 1994 Luận án cao học "Tìm hiểu những yếu tố hạn chế năng suất lạc ở miền Bắc Việt Nam và biện pháp khắc phục" - Trường ĐHNNI Hà Nội. 11. Phạm Văn Thiều, 2001 Kỹ thuật trồng lạc năng suất và hiệu quả - NXB Nông nghiệp. Nguyễn Văn Viết, Tạ Kim Bính, Nguyễn Thị Yến, 2002 Kỹ thuật trồng một số giống lạc và đậu tương mới trên đất cạn miền núi NXB Nông nghiệp. Duan Shufen, 1999 Cây lạc ở Trung Quốc, những bí quyết thành công - Tài liệu dịch của Ngô Thế Dân, Phạm Thị Vượng - NXB Nông nghiệp. P.S.Reddy (Vũ Công Hậu, Ngô Thế Dân, Trần Thị Dung dịch), 1995 Cây lạc - NXB Nông nghiệp. CRIPC (Centre Research institute of Food Crops), 1991 High yielding varieties of food crops - Bogor, Indonexia: CRIPC. Perdido V.C & E.L. Lopez,1996 The status of technologies to achieve high groundnut yields - ICRISAT, Patancheru, Andhra Pradesh 502324, India. Sanun Jogloy and Tugsina Sansayawichai,1996 The status of technologies used to achieve high groundnut yield in Thailan - ICRISAT, Patancheru, Andhra Pradesh 502324, India. Jogloy, S.R.M Abilay, Tran Van Lai, S.Z Ramawas, Khamsao, T.Adisarwanto and A.Kasno,1996 Groundnut production and research in Southeast asian - ICRISAT, Patancheru, Andhra Pradesh 502324, India. Mục lụC Trang Chương I: Mở đầu ......................................................................................... Đặt vấn đề ............................................................................................... Mục đích - yêu cầu .................................................................................. Mục đích của đề tài ........................................................................ Yêu cầu của đề tài .......................................................................... Chương II: Tổng quan tài liệu ..................................................................... 2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ........................................................... 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................. Chương III: Nội dung và phương pháp nghiên cứu.................................... 3.1. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu......................................................... 3.1.1. Vật liệu nghiên cứu ....................................................................... 3.1.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm ...................................................... 3.1.3. Các biện pháp canh tác (yếu tố phi thí nghiệm) ............................ 3.2. Các chỉ tiêu theo dõi ................................................................................ 3.2.1. Theo dõi sinh trưởng ..................................................................... 3.2.2. Theo dõi một số chỉ tiêu sinh lý .................................................... 3.2.3. Các chỉ tiêu theo dõi khác ............................................................. 3.2.4. Các yếu tố tạo thành năng suất và năng suất ................................. 3.2.5. Tính toán thống kê các số liệu thu được ........................................ Chương IV: Kết quả nghiên cứu và thảo luận ........................................... 4.1. Một số đặc điểm thực vật của các giống thí nghiệm ................................ 4.1.1. Thế cây .......................................................................................... 4.1.2. Kiểu phân cành .............................................................................. 4.1.3. Thân và lá ...................................................................................... 4.1.4. Quả ................................................................................................ 4.1.5. Hạt ................................................................................................. 4.2. Thời gian sinh trưởng ............................................................................... 4.2.1. Thời gian và tỷ lệ mọc ................................................................... 4.2.2. Thời gian phân cành ...................................................................... 4.2.3. Thời gian ra hoa và động thái nở hoa ............................................ 4.1.4. Thời gian đâm tia .......................................................................... 4.3. Chiều cao cây - chiều dài cành cấp 1- số lá trên thân chính .................... 4.3.1. Chiều cao cây và tốc độ tăng trưởng ............................................. 4.3.2. Chiều dài cành cấp 1 và tốc độ tăng trưởng .................................. 4.3.3. Tổng số cành/cây, số cành cấp 1, cấp 2 ........................................ 4.3.4. Động thái ra lá trên thân chính ...................................................... 4.4. Động thái diện tích lá và thế năng quang hợp .......................................... 4.5. Động thái tích luỹ chất khô ...................................................................... 4.5.1. Động thái tích luỹ chất khô của các giống .................................... 4.5.2. Động thái tích luỹ chất khô ở các bộ phận của giống lạc TQ6 .. 4.6. Sự hình thành nốt sần ............................................................................... 4.7. Mức độ nhiễm sâu bệnh hại ..................................................................... 4.8. Khả năng chống đổ .................................................................................. 4.9. Các yếu tố tạo thành năng suất và năng suất ............................................ 4.9.1. Tổng số quả/cây ............................................................................ 4.9.2. Tỷ lệ quả chắc ............................................................................... 4.9.3. Khối lượng 100 quả ....................................................................... 4.9.4. Khối lượng 100 hạt ........................................................................ 4.9.5. Tỷ lệ bóc vỏ ................................................................................... 4.9.6. Hệ số kinh tế ................................................................................. 4.9.7. Năng suất của các giống ................................................................ 4.9.7.1. Năng suất cá thể ............................................................... 4.9.7.2. Năng suất lý thuyết .......................................................... 4.9.7.3. Năng suất thực thu ........................................................... 4.9.7.4. Năng suất hạt ................................................................... Phần V: Kết luận và đề nghị ........................................................................ 5.1. Kết luận .................................................................................................... 5.1.1. Sinh trưởng, phát triển ................................................................... 5.1.2. Năng suất ....................................................................................... 5.2. Tồn tại ...................................................................................................... 5.3. Đề nghị ..................................................................................................... Tài liệu tham khảo Phụ lục 1 1 3 3 3 4 5 7 14 14 14 14 15 16 16 17 17 18 18 19 19 19 20 20 20 21 21 21 23 24 27 28 28 30 32 33 34 37 37 39 40 42 44 45 46 46 46 46 47 47 48 48 48 49 49 50 50 50 50 50 51

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc40567.DOC