Đề tài Quy trình kinh tế kĩ thuật trồng cây đậu tương

Tài liệu Đề tài Quy trình kinh tế kĩ thuật trồng cây đậu tương: TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN KHOA KINH TẾ ˜˜@&?™™ QUY TRÌNH KINH TẾ KĨ THUẬT TRỒNG CÂY ĐẬU TƯƠNG Giáo viên hướng dẫn: Ths. Hoàng Thị Lương SVTH : Lê Đình Nguyên Lớp : Kinh Tế Nông Lâm – K07 Đăk Lăk, Tháng 12 năm 2010 MỤC LỤC PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2 PHẦN 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN 3 2.1. Nguồn gốc cây đậu tương 3 2.2. Đặc tính thực vật học của đậu tương 3 2.2.1. Rễ 3 2.2.2. Thân 3 2.2.3. Lá 4 2.2.4. Hoa 5 2.2. 5. Quả và hạt 5 2.2.6. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây đậu tương 6 2.2.7. Các yêu cầu về sinh lý sinh thái của cây đậu tương 7 PHẦN 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 9 3.1. Kĩ thuật trồng đậu tương 9 3.1.1. Giống 9 3.1.1.1. Một số giống đậu tương 9 3.1.1.2. Tiêu chuẩn hạt giống 10 3.1.2. Chuẩn bị đất trồng 10 3.1.3. Thời vụ gieo hạt 11 3.1.4. Phân bón 12 3.1.5. Cách gieo, mật độ, khoảng cách 12 3.1.6. Chăm sóc 14 3.1.6.1. Dặm, tỉa và định cây: 14 3.1.6.2. Làm cỏ, xới xáo, vun gốc, và bón phân th...

doc26 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quy trình kinh tế kĩ thuật trồng cây đậu tương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN KHOA KINH TẾ ˜˜@&?™™ QUY TRÌNH KINH TẾ KĨ THUẬT TRỒNG CÂY ĐẬU TƯƠNG Giáo viên hướng dẫn: Ths. Hoàng Thị Lương SVTH : Lê Đình Nguyên Lớp : Kinh Tế Nông Lâm – K07 Đăk Lăk, Tháng 12 năm 2010 MỤC LỤC PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 2 PHẦN 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN 3 2.1. Nguồn gốc cây đậu tương 3 2.2. Đặc tính thực vật học của đậu tương 3 2.2.1. Rễ 3 2.2.2. Thân 3 2.2.3. Lá 4 2.2.4. Hoa 5 2.2. 5. Quả và hạt 5 2.2.6. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây đậu tương 6 2.2.7. Các yêu cầu về sinh lý sinh thái của cây đậu tương 7 PHẦN 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 9 3.1. Kĩ thuật trồng đậu tương 9 3.1.1. Giống 9 3.1.1.1. Một số giống đậu tương 9 3.1.1.2. Tiêu chuẩn hạt giống 10 3.1.2. Chuẩn bị đất trồng 10 3.1.3. Thời vụ gieo hạt 11 3.1.4. Phân bón 12 3.1.5. Cách gieo, mật độ, khoảng cách 12 3.1.6. Chăm sóc 14 3.1.6.1. Dặm, tỉa và định cây: 14 3.1.6.2. Làm cỏ, xới xáo, vun gốc, và bón phân thúc 14 3.1.6.3. Bấm ngọn 14 3.1.6.4. Chống rụng hoa 15 3.1.6.4. Giữ ẩm, chống hạn và chống úng 15 3.2. Thu hoạch, bảo quản 15 3.3. Phòng trừ sâu bệnh cho đậu tương 17 3.3.1. Sâu hại 17 3..3.2. Bệnh hại 20 PHẦN 4: KẾT LUẬN 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO 23 PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Đậu tương (Glycine max (L) Merr) còn gọi là đậu nành là một cây trồng cạn ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Khó có thể có tìm thấy một cây trồng nào có tác dụng nhiều mặt như cây đậu tương. Vì thế cây đậu tương được gọi là "Ông Hoàng trong các loại cây họ đậu ", sở dĩ cây đậu tương được đánh giá như vậy bởi lẽ cây đậu tương có giá trị rất toàn diện: thành phần dinh dưỡng cao, hàm lượng prôtein trung bình khoảng từ 35,5 - 40%, lipit từ 15-20%, hyđrát các bon từ 15-16% và nhiều loại sinh tố và muối khoáng quan trọng cho sự sống. Hàm lượng axít amin có chứa lưu huỳnh như methionin và sixtin của đậu tượng cao gần bằng hàm lượng các chất này có trong trứng gà, hàm lượng cazein, đặc biệt lisin cao gần gấp rưỡi lần chất này có trong trứng. Hạt đậu tương có chứa hàm lượng dầu béo cao hơn các loại đậu đỗ khác nên được coi là cây cung cấp dầu thực vật quan trọng, trong hạt đậu tương có khá nhiều loại vitamin, đặc biệt là hàm lượng vitamin B1 và B2, ngoài ra đậu tương còn làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, cải tạo đất, làm thức ăn gia súc.... Ở Việt Nam đậu tương là cây trồng quan trọng vì đậu tương là cây màu ngắn ngày, là một cây thực phẩm vừa dễ trồng lại vừa có hiệu quả kinh tế cao. Sản phẩm của cây đậu tương được sử dụng hết sức đa dạng phong phú như sử dụng trực tiếp bằng hạt thô hoặc qua chế biến ép thành dầu, làm bánh kẹo, sữa, nước giải khát...đáp ứng nhu cầu tăng thêm chất đạm trong bữa ăn hàng ngày của nhân dân và tham gia vào xuất khẩu; không những thế cây đậu tương còn có tác dụng cải tạo đất tăng năng suất của các cây trồng khác. Chính vì vậy phát triển đậu tương đang là một trong 10 chương trình ưu tiên ở nước ta, đặc biệt trong những năm gần đây với việc chuyển đổi cơ chế quản lý đất sản xuất nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, lương thực một vấn đề cơ bản của người dân Việt Nam đã được giải quyết, từ đó người nông dân có thể chủ động trong sản xuất những ngành, những cây có giá trị kinh tế cao, mà trong đố cây đậu tương là một trong những mũi nhọn chiến lược kinh tế trong việc bố trí sản xuất và khai thác lợi thế của vùng khí hậu nhiệt đới. Tuy nhiên, muốn trồng và sản xuất chế biến cây đậu tương có hiệu quả kinh tế cao chúng ta cần nắm được những đặc trưng nông học, sinh lý, sinh thái,... của cây đậu tương để làm cơ sở cho việc xây dựng và áp dụng các biện pháp kĩ thuật gieo trồng, chăm sóc thích hợp. Xuất phát từ vấn đề trên em chọn đề tài: “quy trình kinh tế kĩ thuật trồng cây đậu tương” làm đề tài nghiên cứu của mình 1.2. Mục tiêu nghiên cứu - Tìm hiểu được nguồn gốc và đặc tính thực vật học của cây đậu tương - Tìm hiểu được kĩ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch đậu tương - Tìm hiểu được các loại sâu bệnh hại cây trồng và biện pháp phòng, trị sâu bệnh PHẦN 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN 2.1. Nguồn gốc cây đậu tương Cây đậu tương hay cây đậu tương (đỗ tương) với tên gọi khoa học Glycin max(L) Merrill, là một trong số cây trồng có lịch sử lâu đời nhất của loài người. Dựa vào sự đa dạng về hình thái, Fukuda(1993) và về sau nhiều nhà khoa học khác cũng đã thống nhất rằng, đậu tương có nguồn gốc từ Mãn Châu (Trung Quốc). Từ Trung Quốc, đậu tương đã lan truyền dần khắp thế giới. Theo các nhà nghiên cứu Nhật Bản, vào khoảng 200 năm trước công nguyên, đậu tương đã được đưa vào Triều Tiên và sau đó được chuyển sang Nhật. Đến giữa thế kỷ 17, đậu tương mới được nhà thực vật người Đức Engelbert Caempfer đưa về châu Âu và đến năm 1954 đậu tương mới du nhập vào Mỹ Một số tài liệu cho rằng cây đậu tương được đưa vào trồng nước ta từ thời vua Hùng và xác định rằng nhân dân ta trồng cây đậu tương trước cây đậu xanh và cây đậu đen (Ngô Thế Dân và cs, 1999). Mặc dù được trồng từ rất sớm nhưng chỉ trong vài chục năm gần đây cây mới được quan tâm, phát triển và ngày nay nó được xem là một giống cây trồng có giá trị dinh dưỡng cao, chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nhưng diện tích trồng và sản lượng vẫn còn rất thấp so với các nước trên thế giới, hiện nay nước ta còn phải nhập khẩu đậu tương từ Mỹ và Trung Quốc và một số quốc gia khác 2.2. Đặc tính thực vật học của đậu tương 2.2.1. Rễ Bao gồm: rễ chính và rễ phụ. Rễ chính có thể ăn sâu 30-50cm và có thể trên 1m. Trên rễ chính mọc ra nhiều rễ phụ, rễ phụ cấp 2, cấp 3 tập trung nhiều ở tầng đất 7-8cm rộng 30-40cm2 (Nguyễn Danh Đông, 1982). Trên rễ chính và rễ phụ có nhiều nốt sần. Bộ rễ phân bố nông sâu, rộng hẹp, số lượng nốt sần ít hay nhiều phụ thuộc vào giống, đất đai, khí hậu và kỹ thuật trồng. 2.2.2. Thân * Hình thái và màu sắc của thân Thân cây đậu tương thuộc thân thảo, có hình tròn, trên thân có nhiều lông nhỏ. Thân khi còn non có màu xanh hoặc màu tím khi về già chuyển sang màu nâu nhạt, màu sắc của thân khi còn non có liên quan chặt chẽ với màu sắc của hoa sau này. Nếu thân lúc còn non màu xanh thì hoa màu trắng và nếu khi còn non thân có màu tím thì hoa có màu tím đỏ. * Quá trình phát triển của thân: Từ lúc mọc đến khi cây có 5 lá thật (3 lá kép) khoảng 25-30 ngày sau khi gieo, thân sinh trưởng với tốc độ bình thường. Khi cây đã có 6-7 lá thật (4-5 lá kép) thân bắt đầu phát triển mạnh, tốc độ mạnh nhất vào lúc ra hoa rộ. Sự khác biệt của cây đậu tương với cây trồng khác là khi cây ra hoa rộ lại là lúc thân cành phát triển mạnh nhất. Đây là giai đoạn 2 quá trình sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực cạnh tranh nhau dẫn đến khủng hoảng thiếu dinh dưỡng, cho nên cần phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng trước khi vào thời kỳ này và tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển thuận lợi. Trong kỹ thuật chăm sóc ta phải xới vun kết hợp với bón thúc phân cho đậu tương vào giai đoạn 3-5 lá kép, lúc cây có đầy đủ hoa thì sinh trưởng chậm dần rồi dừng hẳn. 2.2.3. Lá Cây đậu tương có 3 loại lá: Lá mầm (lá tử diệp): Lá mầm mới mọc có màu vàng hay xanh lục, khi tiếp xúc với ánh sáng thì chuyển sang màu xanh. Hạt giống to thì lá mầm chứa nhiều dinh dưỡng nuôi cây mầm, khi hết chất dinh dưỡng lá mầm khô héo đi, cho nên trong kỹ thuật trồng đậu tương nên làm đất tơi nhỏ và chọn hạt to cây sẽ mọc khoẻ, sinh trưởng tốt. Lá nguyên (lá đơn): Lá nguyên xuất hiện sau khi cây mọc từ 2-3 ngày và mọc phía trên lá mầm. Lá đơn mọc đối xứng nhau. Lá đơn to màu xanh bóng là biểu hiện cây sinh trưởng tốt. Lá đơn to xanh đậm biểu hiện của một giống có khả năng chịu rét. Lá đơn nhọn gợn sóng là biểu hiện cây sinh trưởng không bình thường. Lá kép: Mỗi lá kép có 3 lá chét, có khi 4-5 lá chét. Lá kép mọc so le, lá kép thường có màu xanh tươi khi già biến thành màu vàng nâu. Cũng có giống khi quả chín lá vẫn giữ được màu xanh, những giống này thích hợp trồng làm thức ăn gia súc. Phần lớn trên lá có nhiều lông tơ. Lá có nhiều hình dạng khác nhau tuỳ theo giống, những giống lá nhỏ và dài chịu hạn khoẻ nhưng thường cho năng suất thấp. Những giống lá to chống chịu hạn kém nhưng thường cho năng suất cao hơn. Nếu 2 lá kép đầu to và dày thường biểu hiện giống có khả năng chống chịu rét. Số lượng lá kép nhiều hay ít, diện tích lá to hay nhỏ chi phối rất lớn đến năng suất và phụ thuộc vào thời vụ gieo trồng. Các lá nằm cạnh chùm hoa nào giữ vai trò chủ chủ yếu cung cấp dinh dưỡng cho chùm hoa ấy. Nếu vì điều kiện nào đó làm cho lá bị úa vàng thì quả ở vị trí đó thường bị rụng hoặc lép. 2.2.4. Hoa Hoa đậu tương nhỏ, không hương vị, thuộc loại cánh bướm. Màu sắc của hoa thay đổi tuỳ theo giống và thường có màu tím, tím nhạt hoặc trắng. Đa phần các giống có hoa màu tím và tím nhạt. Hoa phát sinh ở nách lá, đầu cành và đầu thân. Hoa mọc thành từng chùm, mỗi chùm có từ 1-10 hoa và th ường có 3-5 hoa. Hoa đậu tương ra nhiều nhưng tỷ lệ rụng rất cao khoảng 30% có khi lên tới 80%. Hoa đậu tương thuộc loại hoa đồng chu lưỡng tính trong hoa có nhị và nhụy, mỗi hoa gồm 5 lá đài, 5 cánh hoa có 10 nhị và 1 nhụy. Đài hoa có màu xanh, nhiều bông. Cánh hoa: Một cánh to gọi là cánh cờ, 2 cánh bướm và 2 cánh thìa Nhị đực: 9 nhị đực cuốn thành ống ôm lấy vòi nhuỵ cái và 1 nhị riêng lẻ. Nhụy cái: Bầu thượng, tử phòng một ngăn có 1-4 tâm bì (noãn) nên thường quả đậu tương có 2-3 hạt. Các cánh hoa vươn ra khỏi lá đài từ ngày hôm trước và việc thụ phấn xảy ra vào sáng ngày hôm sau lúc 8-9 giờ sáng trước khi nụ hoặc hoa chưa nở hoàn toàn. Mùa hè hoa thường nở sớm hơn mùa đông và thời gian nở hoa rất ngắn sáng nở chiều tàn. Hoa đậu tương thường thụ phấn trước khi hoa nở và là cây tự thụ phấn, tỷ lệ giao phấn rất thấp chiếm trung bình 0,5 - 1% (Ngô Thế Dân và cs, 1999). 2.2. 5. Quả và hạt Số quả biến động từ 2 đến 20 quả ở mỗi chùm hoa và có thể đạt tới 400 quả trên một cây. Một quả chứa từ 1 tới 5 hạt, nhưng hầu hết các giống quả thường từ 2 đến 3 hạt. Quả đậu tương thẳng hoặc hơi cong, có chiều dài từ 2 tới 7cm hoặc hơn. Quả có màu sắc biến động từ vàng trắng tới vàng sẫm, nâu hoặc đen. Lúc quả non có màu xanh nhiều lông (có khả năng quang hợp do có diệp lục) khi chín có màu nâu. Hoa đậu tương ra nhiều nhưng tỷ lệ đậu quả thấp 20-30%. Hạt có nhiều hình dạng khác nhau: Hình tròn, hình bầu dục, tròn dẹt vv... Giống có màu vàng giá trị thương phẩm cao. Trong hạt, phôi thường chiếm 2%, 2 lá tử điệp chiếm 90% và vỏ hạt 8% tổng khối lượng hạt. Hạt to nhỏ khác nhau tuỳ theo giống, khối lượng một nghìn hạt (M1000 hạt) thay đổi từ 20-400g trung bình từ l00g-200g. 2.2.6. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây đậu tương Người ta chia chu kì sống của cây đậu tương ra 5 thời kì hoặc giai đọa phát triển khác nhau như sau: * Giai đoạn nảy mầm – cây con: Giai đoạn này được tính từ khi gieo hạt giống xuống đất, hạt hút ẩm trương lên, rễ mọc ra, thân vươn lên đội hai lá mầm lên khỏi mặt đất, lá mầm xòe ra, thân mầm tiếp tục phát triển thành thân chính. Trong giai đoạn này cây con chủ yếu sống dựa vào nguồn chất dinh dưỡng dự trữ ở hai lá mầm, đến khi hết chất dinh dưỡng các lá mầm này chuyển dần sang màu vàng rồi rụng và đồng thời cùng lúc đó mà bộ rễ phát triển đủ khả năng hút nước và chất dinh dưỡng để nuôi cây. Giai đoạn này dài hay ngắn tùy thuộc ở điều kiện ngoại cảnh. Nếu gieo vào vụ hè thì giai đoạn này ngắn hơn giai đoạn ở vụ đông. Thông thường thời gian này khoảng 15 – 20 ngày sau khi gieo. Thời kì này chính là thời kì quyết định mật độ của cây con cũng như sức sinh trưởng của cây đậu tương sau này. * Giai đoạn sinh trưởng thân, lá: Kể từ khi cây con ra được 1 – 2 lá kép bắt đầu của giai đoạn này và khi cây bắt đầu ra hoa thì mới kết thúc. Thời kỳ đầu của giai đoạn này cây con sinh trưởng rất chậm, trong khi đó rễ của nó lại phát triển nhanh cả về chiều sâu lẫn chiều ngang, các nốt sần được hình thành và phát triển, mở đầu cho hoạt động cố định đạm khí trời để cung cấp cho cây. Đến thời kì cây chuẩn bị ra nụ, ra hoa thì tốc độ sinh trưởng của cây tăng lên nhanh. Chính lúc này là mấu chốt để tạo ra thân cây to, mập, các đốt ngắn. Giai đoạn này dài hay ngắn cũng tùy thuộc vào giống, thời vụ, điều kiện ngoại cảnh, nhưng nói chung vào khoảng 20 – 40 ngày. * Giai đoạn ra hoa: Giai đoạn này được bắt đầu kể từ khi hoa đầu tiên ra cho đến khi ra hoa cuối cùng. Khác với một số cây khác là cây đậu tương khi đã ra hoa thì các bộ phận khác như rễ, thân, lá vẫn tiếp tục sinh trưởng và phát triển. Giai đoạn này sinh trưởng dài hay ngắn tùy thuộc vào đặc tính của giống là chín sớm hay muộn. Thời kì này cây đậu tương rất mẫn cảm với điều kiện khí hậu thời tiết bất thuận như mưa to, gió lớn, khô, nóng,... lúc đó mặc dù số hoa của mỗi cây có rất nhiều nhưng kết quả cuối cùng là số hoa được thụ phấn và kết quả sẽ rất ít, vì thông thường 75% số hoa thường bị thui và rụng * Giai đoạn hình thành quả và hạt: Thời kì có quả non được bắt đầu từ giai đoạn ra hoa. Quả đầu tiên được hình thành trong vòng 7 – 8 ngày kể từ lúc hao nở. Trong điều kiện bình thường sau khoảng 3 tuần lễ là quả phát triển đầy đủ. Lúc các chùm quả non đã xuất hiện thì các chất dinh dưỡng trong lá được vận chuyển về nuôi hạt làm cho hạt nảy mầm. Vào thời kì này sự sinh trưởng của cây chậm lại dần. Các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm... trong giai đoạn này sẽ có tác động rất lớn đến tốc độ phát triển của quả và hạt. * Giai đoạn chín: khi hạt đã phát triển đạt đến kích thước tối đa, các khoang hạt đã kín, quả đã đủ mẩy thì cây ngàng sinh trưởng. Khi các hạt đã rắn dần và đạt đến độ chín sinh lý vỏ hạt có màu sắc đặc trưng của giống, còn vỏ quả thì chuyển dần sang màu vàng, vàng tro, xám...Bộ lá của cây cũng chuyển dần sang úa vàng và rụng dần, lúc này là lúc trong hạt đang có sự chuyển hóa diễn ra mạnh mẽ. Hàm lượng dầu trong hạt đựoc ổn định sớm vào thời kì hạt đang phát triển nhưng hàm lượng protêin thì vẫn còn chịu ảnh hưởng của điều kiện dinh dưỡng của cây cho đến cuối thời kì của quá trình chín. Do đó mà các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ ẩm, dinh dưỡng...đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hàm lượng protêin. Thời kì này xảy ra ngắn hơn so với các thời kì trên và chịu tác động nhiều của các yếu tố môi trường. Khi trông bề ngoài thấy vỏ quả đã có màu vàng hoặc vàng nâu là thu hoạch được. 2.2.7. Các yêu cầu về sinh lý sinh thái của cây đậu tương Điều kiện đất đai Đất trồng đậu tương thích hợp nhất là đất thịt nhẹ, tơi xốp, sâu màu, thoáng, thoát nước, pH từ 6,5-7,2. Đậu tương không sống được trên đất quá chua hoặc quá kiềm. Đất ít màu, chua vẫn có thể trồng được đậu tương nhưng cần phải thoát nước, bón nhiều lân và vôi. Nhiệt độ Đậu tương có nguồn gốc ôn đới, nhưng không phải là cây trồng chịu rét. Tuỳ theo giống chín sớm hay muộn mà có tổng tích ôn biến động từ 1.888 - 2.7000C. Từng giai đoạn sinh trưởng phát triển của cây đậu tương có yêu cầu nhiệt độ khác nhau: Thời kỳ mọc nhiệt độ thích hợp nhất là 18-220C, phạm vi nhiệt độ tối thiểu và tối đa cho thời kỳ mọc là 100C và 400C. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sự sinh trưởng cành lá là 20-230C, thấp nhất là 150C, cao nhất là 370C. Nhiệt độ thấp ảnh hưởng đến ra hoa kết quả; nhiệt độ dưới 100C ngăn cản sự phân hoá hoa, dưới 180C đã có khả năng làm cho quả không đậu. Nhiệt độ thích hợp nhất cho thời kỳ ra hoa là 22-250C. Nhiệt độ thích hợp nhất cho thời kỳ hình thành quả và hạt là 21-230C, thấp nhất là 150C cao nhất là 350C. Thời kỳ chín nhiệt độ thích hợp nhất là 19-200C. Nhiệt độ 25-270C hoạt động của vi khuẩn nốt sần tốt nhất. Ẩm độ, lượng mưa Hạt nảy mầm đòi hỏi độ ẩm đất 60-65%. Nhu cầu nước của cây đậu tương thay đổi tuỳ theo điều kiện khí hậu, kỹ thuật trồng trọt và thời gian sinh trưởng. Cần lượng mưa từ 350-600 mm3 cho cả quá trình sinh trưởng. Ánh sáng Đậu tương có phản ứng với độ dài ngày, các giống khác nhau phản ứng với độ dài ngày khác nhau PHẦN 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Kĩ thuật trồng đậu tương 3.1.1. Giống 3.1.1.1. Một số giống đậu tương - Nhật 17A: Thời gian sinh trưởng 80 – 85 ngày chiều cao cây 45 – 50cm, 15 – 17 trái. Trọng lượng 100 hạt, 14 – 16 gram. Năng suất 1,8 - 2,0 tấn/ha. - BC19: Thời gian sinh trưởng 75 – 80 ngày, chiều cao cây 45 – 50cm, 20 – 25trái /cây. Trong lượng 100 hạt 16- 18gram, hạt vàng sáng. Năng suất 2,2 – 2,4tấn/ ha. - KKV- M1: Thời gian sinh trưởng 70- 75 ngày, chiều cao cây 45 – 50cm, 20- 25 trái/cây. Trọng lượng 100 hạt 15- 17gram, hạt vàng. Năng suất: 1,9- 2,0 tấn/ha. - OMĐN 25-20: Thời gian sinh trưởng 80 ngày, chiều cao cây 45 – 50cm, 30 – 35 trái/cây. Trọng lượng 100 hạt 15- 16gram. Năng suất: 2,3- 2,5tấn/ha. - Giống DT84: được công nhận là giống Quốc gia năm 1995. DT84 có thời gian sinh trưởng 85-95 ngày trong vụ Xuân hè và 86-95 ngày trong vụ Đông, cây cao trung bình 50-60 cm, ít phân cành, khối lượng 1.000 hạt 150-160 gam. Tiềm năng năng suất từ 15-30 tạ/ha, năng suất trung bình đạt 13-18 tạ/ha. DT84 là giống chịu trung bình, thích hợp cả 3 vụ (Xuân, Hè, Đông). - Giống AK03: được công nhận giống quốc gia năm 1990. AK03 có thời gian sinh trưởng 80-90 ngày, cây cao trung bình 50-55cm, khối lượng 1.000 hạt 125-135 gam, khả năng cho năng suất từ 14-17 tạ/ha. AK03 phản ứng với nhịêt độ chịu úng và chịu rét yếu, chịu hạn và chịu úng trung bình, nhiễm bệnh đốm vi khuẩn ở giai đoạn cuối. Thích hợp cho vụ Đông, Xuân, có thể nhân giống trong vụ Hè. Thích ứng rộng, có thể trồng trên các chân đất thịt trung bình và cát pha dễ thoát nước ở trung du và đồng bằng. - Giống DT95: được công nhận khu vực hoá năm 1997. Là giống có năng suất cao ở cả 2 vụ Xuân và Đông, có phản ứng yếu với độ dài chiếu sáng, cây cao 55-80 cm. Thời gian sinh trưởng vụ Xuân 93-106 ngày, vụ Đông 90-98 ngày. Khối lượng 1.000 hạt 150-160gam, khả năng chống đổ trung bình, khả năng chịu nhiệt, chịu lạnh khá. Năng suất trung bình 22-27tạ/ha. Chống chịu các bệnh gỉ sắt, đốm vi khuẩn, lở cổ rễ trung bình, chống đổ yếu, trong vụ Xuân sinh trưởng không đồng đều. Khả năng chịu nhiệt, chịu hạn khá. - Giống VX 93: Thời gian sinh trưởng 90-95 ngày, cây cao 50-55 cm, hoa trắng hạt to, vàng, rốn hạt màu nâu. Trọng lượng 1.000 hạt 150-160 gam. Năng suất có thể đạt 15-30tạ/ha. Chịu rét tốt, chống chịu sâu bệnh trung bình. Thích hợp vụ Thu- Đông và vụ Đông trên đất bãi và 2 vụ lúa. Vụ Xuân trên đất chuyên màu, đất mạ có khả năng trồng xen. Năng suất trên diện rộng đạt trung bình 13-14 tạ/ha. Được công nhận giống quốc gia từ năm 1990. - Giống M-103: được công nhận giống quốc gia năm 1994. Là giống thích hợp nhất trong vụ Hè, nhưng cũng có thể gieo trồng trong vụ Xuân muộn và vụ Thu Đông. Thời gian sinh trưởng 85 ngày, chiều cao cây 55-70cm. Chiều cao đóng quả 13-14 cm, quả màu vàng sẫm, hạt vàng đẹp, lá xanh thẫm, nhọn. Trọng lượng 1.000 hạt 160-180 gam, năng suất trên diện tích rộng 17-20 tạ/ha. Trên nền thâm canh đạt 30-35 tạ/ha. Khả năng chịu nóng khá. Tỷ lệ quả 3 hạt cao (20-30%), quả nhiều (³ 100 quả) màu sắc đẹp, ít nứt hạt (20%). - Giống AK 05: được công nhận giống quốc gia năm 1995. Cây sinh trưởng khoẻ, chiều cao cây 50-60cm, thời gian sinh trưởng 98-105 ngày, hạt vàng sáng đẹp, khối lượng 1000 hạt 130-135 gam, năng suất trung bình 13-15 tạ/ha. Khả năng chống chịu sâu bệnh trung bình, chịu hạn, chịu rét khá. Trồng được cả trong vụ Xuân và vụ Đông. - Một số giống đậu tương khác: DT76, DT80, DT83, DT93, DT92, DT94, TL75, HL92, HL2, AK06, DT 2000, D 96-02, VX 92, DT 2001 cũng có tiềm năng năng suất khá. Đặc biệt là giống DT2000 và DT2001 là những giống có tiềm năng cho năng suất rất cao. 3.1.1.2. Tiêu chuẩn hạt giống - Hạt giống phải lấy ở cây khoẻ mạnh, thuần chủng, nhiều quả có 2-3 hạt, khi chín ít bị tách vỏ, không mang mầm bệnh. - Hạt giống phải mẩy, không sâu bệnh, đạt tỷ lệ nảy mầm trê 90%, trọng lượng 1000 hạt phải đạt theo chỉ tiêu giống. - Trước khi gieo trồng phơi lại hạt giống một nắng nhẹ trên nong, nia, cót, không được phơi trên nền xi măng, sân gạch khi nắng gắt. 3.1.2. Chuẩn bị đất trồng * Cách trồng có làm đất Cày đất lúc có ẩm độ vừa phải. Tránh cày đất lúc còn quá ướt. Trường hợp đất quá khô, phải chủ động tưới nước và chờ đến khi đất có đủ độ ẩm thích hợp mới cày. Tránh làm đất quá tơi, khi gặp mưa, dễ bị đóng váng, cản trở việc hút nước, dinh dưỡng của cây, cây sinh trưởng yếu, các nốt sần ít và nhỏ. Ưu điểm: Diệt cỏ dại. Nâng cao độ tơi xốp của tầng đất mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống rễ phát triển. Hạn chế việc bốc phèn. Nhược điểm: Tốn thời gian làm đất, do đó kéo dài thời vụ trồng, ảnh hưởng đến vụ sau. Tốn chi phí làm đất, tưới nước. Do đó việc làm đất chỉ nên áp dụng đối với những trường hợp đất quá khô, nhiều cỏ dại. * Cách trồng không làm đất Trên chân đất ruộng, tiến hành gieo đậu nành sau khi thu hoạch lúa, khi đất còn độ ẩm thích hợp. Có thể kết hợp phủ rơm để giữ ẩm. Trường hợp đất quá khô, có thể tưới tràn, sau đó tháo nước ra, ngày hôm sau tra hạt. Ưu điểm: Tranh thủ thời vụ, vì không phải chờ đợi thời gian làm đất. Giảm được chi phí trong khâu làm đất. Tận dụng được độ ẩm trong đất sau khi thu hoạch lúa, do đó tiết giảm chi phí tưới nước. Nhược điểm: Sâu bệnh phát triển nhiều hơn. Gặp trở ngại trong việc bón phân, nhất là các loại phân đòi hỏi phải trộn hoặc lấp xuống đất như phân lân, phân hữu cơ, vôi,.... 3.1.3. Thời vụ gieo hạt Ở nước ta, cây đậu tương được gieo trồng gần như quanh năm, nhất là điều kiện khí hậu thời tiết của vùng đồng bằng và trung du bắc bộ có thể gieo trồng quanh năm và trên thực tế nó cũng được sắp xếp vào tất cả các vụ trong năm. Ở mỗ vùng khác nhau thường có những vụ chính chiếm một tỉ lệ diện tích lớn hơn các vụ khác. Do nhiều yếu tố khác nhau chi phối nên thời vụ của các giống, các vụ, các vùng khác nhau nên mỗi địa phương, thậm chí mỗi nhà cần xác định cho mình một khung thời vụ cụ thể, làm sao vừa thích hợp với quy luật sinh trưởng và phát triển của giống đậu cụ thể mà mình sử dụng, đồng thời có thể tránh được những khó khăn về hoàn cảnh cũng như các đợt phát sinh của sâu bệnh hại.... Miền Bắc có một số vụ gieo trồng chính sau: Vụ xuân: Chỉ dùng giống lúa chín sớm và trung bình. Thời vụ gieo thích hợp nhất cho vùng miền núi phía bắc là: 15/2-l0/3; Đồng bằng: 1/2-1512, Bắc Trung Bộ:l0/1- 10/2 Bên cạnh xuân chính còn có vụ xuân hè gieo từ tháng 10/3-10/4. Vụ hè: Giống chín sớm: 25/5-30/6 Giống chín trung bình : 15/5- 15/6 Giống chín muộn: 20/4-25/5 Vụ đông: Thời vụ gieo sớm cuối tháng 9 đầu tháng 10 nói chung càng sớm càng tốt. Ở miền Nam, điều kiện khí hậu ấm áp, đậu tương gieo từ 20/12 đến tháng 1, vụ hè thu gieo tháng 4 - 5, vụ thu đông gieo tháng 7 - 8. 3.1.4. Phân bón Đậu nành có khả năng cố định đạm từ khí trời nhờ vi khuẩn Rhizobium jabonicum nên không cần bón nhiều đạm. Chú ý bón thêm lân và kali để cân đối NPK. Nên bón đạm vào thời kỳ đầu của giai đoạn tăng trưởng để kích thích bộ lá phát triển trước khi vi khuẩn nốt sần ở rễ lấy được đạm từ khí quyển để nuôi cây. Tùy theo từng loại đất, giống, mùa vụ mà có lượng phân bón cho thích hợp. Có thể áp dụng theo công thức sau (tính cho 1ha): Công thức 1: 60kg urê, 120kg DAP, 80kg kali. Bón lót: 60kg DAP và toàn bộ phân chuồng. 7 - 10 ngày sau khi gieo: bón 10kg urê, 60kg DAP. 25 - 30 ngày sau khi gieo: bón 30kg urê, 30kg kali. 35 - 40 ngày sau khi gieo: bón 20kg urê, 30kg kali. Công thức 2: 105kg urê, 300kg super lân, 80 kg kali. Bón lót: 300kg super lân. 7 - 10 ngày sau khi gieo: bón 25kg urê, 20kg kali. 25 - 30 ngày sau khi gieo: bón 40kg urê, 30kg kali. 35 - 40 ngày sau khi gieo: bón 40kg urê, 30kg kali. Nếu có điều kiện, bón thêm 5-6 tấn phân chuồng/ha, bón vào giai đoạn trước khi tra hạt (bón lót). Canh tác trên đất phèn, tùy vào độ chua của từng loại đất, có thể bón thêm 30-50kg vôi bột/công (1.000m2) vào giai đoạn bón lót. 3.1.5. Cách gieo, mật độ, khoảng cách Gieo hạt với mật độ thích hợp sẽ là một trong những biện pháp hàng đầu để tăng năng suất và chất lượng thu hoạch. Hiện nay mật độ gieo của đạu tương đang là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất. Tùy theo khả năng nảy mầm cao hay thấp, nói chung số lượng giống cần chuẩn bị cho 1 ha là: Các giống chín sớm: cần khoảng 50-60Kg/Ha Các giống chín trung bình: cần khoảng 40-50Kg/Ha Các giống chín muộn cần khoảng 30-35 Kg/Ha Có điều kiện nên mua các gói chế phẩm Nitrazin về xử lý hạt giống trước khi gieo, nhất là khi gieo trên chân đất mà vụ trước đó không trồng đậu đỗ, chân đất lúa ngập nước quanh năm nay gieo đậu tương đông. Về mật độ, khoảng cách và cách gieo hạt: theo quy trình hướng dẫn sản xuất đậu tương đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành như sau: Vụ xuân: nếu gieo giống chín sớm cần đảm bảo có từ 50-60 cây/m2,với khoảng cách hàng là 30-35 Cm, cây cách cây là 5-6 Cm, nếu gieo cụm hoặc hốc thì cụm cách cụm là 20 Cm và trên mỗi cụm cũng để lại 3-4 cây. Với các giống chín trung bình cần đảm bảo từ 40-50 cây/m2 với khoảng cách hàng là 35-40 Cm , cây cách cây là 5-6 Cm, nếu gieo cụm hoặc hốc thì cụm cách cụm là 20 Cm và trên mỗi cụm cũng để lại 3-4 cây. Vụ hè: Do sự phát triển của thân lá mạnh nên nói chung cần gieo thưa hơn. Cụ thể là: với giống chín sớm cần đảm bảo có từ 40-50 cây/m2,với khoảng cách hàng là 35-40 Cm , cây cách cây là 5-6 Cm, nếu gieo cụm hoặc hốc thì cụm cách cụm là 20 Cm và trên mỗi cụm cũng để lại 3-4 cây. Với các giống chín trung bình cần đảm bảo từ 30-40 cây/m2 với khoảng cách hàng là 30-40 Cm , cây cách cây là 7-8 Cm, nếu gieo cụm hoặc hốc thì cụm cách cụm là 20 Cm và trên mỗi cụm để lại 2-3 cây. Với các giống chín muộn cần gieo thưa hơn nữa với mật độ 15-20 Cây/m2, với khoảng cách hàng là 40-50 Cm và khoảng cáhc giữa các cây rộng từ 12-15Cm, nếu gieo cụm hoặc hốc thì cụm cách cụm là 25 Cm và trên mỗi cụm để lại 2 cây/hốc. Vụ đông: trong vụ này sự sinh trưởng và phát triển của cây đậu tương kém hơn, do đó cần gieo mật độ cao hơn, các khoảng cách cũng sẽ hẹp hơn để đảm bảo năng suất và không lãng phí đất. Trong vụ này chủ yếu là gieo giống chín sớm. Cách gieo: với chân đất đủ ẩm chỉ cần gieo sâu độ 3 – 5 Cm là vừa, nếu thấy đất thiếu ẩm thì gieo sâu hơn một chút. Gieo trên nền đất ướt trong vụ hè chỉ cần 2 – 3 Cm phủ bằng phân hữu cơ mục cùng với lân hoặc tro trấu và đất bột. Trường hợp vào dịp gieo mà hạn, trời hanh hoặc gặp phải hôm nắng to không hoãn lại được thì nên tranh thủ gioe vào những điểm trời mát và cứ rạch hàng đến đâu thì bón phân, gieo hạt và lấp luôn đến đó để tranh thủ ẩm. Nếu đất khô quá thì cần dùng ô doa tưới nước đẩm vào đáy rãnh rồi mới gieo lên. 3.1.6. Chăm sóc 3.1.6.1. Dặm, tỉa và định cây: Sau khi gieo thấy đa số cây mọc lên có 2 lá mầm ra khỏi mặt đất thì cần quan sát xem chỗ nào thiếu cây thì dặm ngay bằng chính hạt của giống đó cho kịp thời vì thiếu cây sẽ ảnh hưởng đến mật độ và có dại sẽ só dịp phát triển. Đến khi đa số cây được 2 lá kép thì cần tỉa và định dần cây theo mật độ đã định. Có thể tỉa làm 2 đợt, đợt đầu chỉ tỉa sơ qua lúc cây bắt đầu ra lá kép, đợt 2 khi cây đã được 2 – 3 lá kép và là lúc định luôn cây. Trong khi tỉa nếu chỗ nào khuyết nếu chưa muộn lắm tranh thủ gieo lại dặm luôn để đảm bảo mật độ, còn nếu muộn thì có thể gieo dặm các cây đậu khác như đậu đên, đậu xanh ... để đõ cỏ dại 3.1.6.2. Làm cỏ, xới xáo, vun gốc, và bón phân thúc Khi cây ra được 1 – 2 lá kép thì làm cỏ đợt 1. Cần kết hợpp cả việc tỉa định cây với xới xáo, làm cỏ, lúc này cây còn nhỏ nên chỉ cần xới nhẹ, xới xa gốc. Sau đó khoảng 10 – 12 ngày làm cỏ đợt 2, lúc này cây có thể có 4 – 6 lá kép, cần xới sạch cỏ, xới sâu hơn lần 1, độ sâu khoảng 5 – 7 Cm. Nếu trời không hanh, đất ẩm nên xới gần gốc, còn trời khô hanh mà đất cũng khô nên xới nông, xa gốc. Lần này sau khi xới xong cỏ cần bón phân thúc và vun gốc cho đậu luôn Sau những trận mưa to, nhất là lúc cây còn bé, cần tháo kịp thời sau đó xới phá váng cho cây. Khi cây bắt đầu ra nụ là có thể vun gốc và kết hợp xới xáo lần 2 hoặc 3 (nếu đã làm lần 2). Việc vun gốc lần này giúp cây chống đổ, khi đậu ra hoa nở rộ mà có nhiều cỏ thì nên nhổ cổ bằng tay mà không xới xáo nữa để khỏi rụng hoa. 3.1.6.3. Bấm ngọn Bấm ngọn là biện pháp buộc cây phải phân cành sớm để ra được nhiều chùm hoa, quả tập trungở khoảng giữa thân thì sau này vừa nhiều quả mà quả lại to và mẩy vì các chùm hoa, quả nào mọc ở vị trí càng cao trên thân hoặc ở phía ngoài cành thì càng ít hoa ít quả, quả thường bé và lép. Đậu tương xuân nên bấm ngọn khi cây đã được 4 – 5 lá kép là vừa, đậu tương hè thì bấm vào thời kì cây đã có 7 – 8 lá kép. Đồng bào miền núi thường dùng que dài đi vụt trên ngọn cây cho cây đứt ngang phần ngọn thay cho việc ngắt từng ngọ lâu công. 3.1.6.4. Chống rụng hoa Rụng hoa là một hiện tượng thường xảy ra ở cây đậu tương, có khi đến 70 – 80% hoa bị rụng. Nguyên nhân có rất nhiều như thiếu dinh dưỡng, thời tiết bất thuận, sâu hại..... cho nên chủ yếu là thâm canh đầy đủ là cách khắc phục có hiệu quả còn việc sử dụng các biện pháp khác như phun hóa chất cũng phải dựa trên cơ sở đảm bảo đầy đủ các biện pháp thâm canh không thay thế hoàn toàn được 3.1.6.4. Giữ ẩm, chống hạn và chống úng Tuy là một cây trồng cạn nhưng đậu tương cần khá nhiều nước trong hầu hết các thời kì sinh trưởng và phát triển của nó, đặc biệt là giai đoạn trước khi ra hoa và làm hạt, nếu không có mưa mà đất lại khô thì cần phải tưới nước, nếu không năng suất sẽ giảm rõ rệt thậm chí là thất thu. 3.2. Thu hoạch, bảo quản Phân biệt 2 giai đoạn chín của đậu tương - Thời kỳ chín sinh lý: Khi đậu có 50% số lá trên cây đã chuyển sang màu vàng - Thời kỳ chín hoàn toàn: Khi hầu hết tất cả các lá trên cây đã vàng, rụng. Khoảng 95% số trái trên cây chuyển sang màu nâu xám. Lúc này là thời điểm thích hợp nhất để thu hoạch. Nếu thu hoạch sớm: Tốn nhiều công phơi. Hạt chưa thật già, không đủ chất lượng khi bảo quản. Nếu thu hoạch trể: Một số trái quá già sẽ bị tách, làm hao hụt, gặp thời tiết nắng gắt, dinh dưỡng hạt đậu bị giảm. Khi thu hoạch, cắt cây về phơi khô đập lấy hạt. Nên thu vào lúc nắng ráo, phơi khô, đập ngay; hoặc đập sau ủ 1-2 ngày. Sàng sẩy, loại bỏ rác, tạp chất, hạt xanh non, hạt nhỏ, phơi hạt tới khi khô giòn (cắn giòn không dính răng), khi độ ẩm còn 12% thì đưa vào bảo quản. Tuyệt đối không được phơi hạt giống trên sân gạch, sân xi - măng. Không được phơi quá nắng, hạt cắn giòn. Những ruộng làm giống thì cần khử lẫn, loại bỏ những cây xấu bị bệnh. Chọn cây đẹp, đúng chủng loại giống, không sâu bệnh, quả chín đều. Đậu tương khi chín vẫn còn rất nhiều lá đeo bám trên cây. Nếu cứ để cả lá mà thu hoạch thì sẽ tốn thêm rất nhiều công lao động cho các khâu cắt cây, bốc vác, phơi khô, ra hạt và sàng sẩy hạt cho sạch. Nếu thu hoạch vào mùa mưa thì còn khó khăn hơn nhiều do lá đậu tương hấp thụ nước làm cho quá trình phơi khô kéo dài, có thể ảnh hưởng đến chất lượng hạt. Làm rụng lá đậu tương trước khi thu hoạch không chỉ đem lại lợi ích giảm chi phí công lao động mà còn có tác dụng để lại cho đất một lượng phân hữu cơ rất lớn. Khi đậu đã chín, tận dụng con nước lớn đưa nước vào ruộng từ 10 - 15cm. Chú ý chỉnh mức nước sao cho nước không ngập quả đậu tương. Phương pháp này chỉ sử dụng được cho những ruộng đậu tương không bị đỗ ngã. Sau 2 ngày ngâm nước thì rút hết nước đi, lá đậu tương sẽ trở nên vàng và rụng xuống đất. Một số bà con nông dân còn sử dụng thuốc trừ cò 2,4 D để phun lên lá làm rụng lá đậu tương trước khi thu hoạch. Theo khuyến cáo, không nên sử dụng phương pháp này vì thời gian cách ly quá ngắn, không kịp để thuốc phân hủy, thuốc còn tồn tại trên nông sản sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. * Kỹ thuật phơi ủ cây - Ngày thứ 1 (thu hoạch): Chọn ngày nắng ráo, cây thu hoạch về cắt bỏ rễ, lá rồi đem phơi thêm 1 nắng, buổi chiều xếp dựng đứng trong nhà, không được xếp đống, gây hấp hơi, bốc nóng, gây mốc hỏng hạt giống. - Ngày thứ 2,3 (ủ): Tiến hành ủ 2-3 ngày đêm để cho quả chín đều, hạt vàng không nứt. Khi gặp nắng cần tranh thủ phơi ngay bỏ qua giai đoạn ủ để tránh cây gặp mưa ẩm làm mốc hạt giống. - Ngày thứ 4: Đem phơi thêm 1 nắng, đập lấy hạt đợt 1, phơi khô,chọn lọc, làm sạch hạt. Sử dụng làm đậu giống. - Ngày thứ 5: Số quả trên cây còn, đem ủ đống thêm 1-2 ngày đêm cho hạt chín tiếp, sau đó phơi thêm 1 nắng và thu hoạch hạt đợt cuối dùng làm đậu thương phẩm. * Tiêu chuẩn đậu giống - Chọn cây tốt, nhiều trái, ít sâu bệnh, có đầy đủ đặc tính giống đang trồng. - Trên ruộng để giống: Loại bỏ những cây khác lạ, chín không cùng lúc, sâu bệnh nhiều. - Điều kiện dinh dưỡng ảnh hưởng đến việc để giống, bón phân cân đối Đạm - Lân - Kali. - Phòng trừ sâu bệnh thời điểm trước thu hoạch: Làm ngăn chặn nguồn bệnh thâm nhập vào hạt, giúp kéo dài thời gian tồn trữ. Phơi khô: Sấy bằng hệ thống làm khô với độ ẩm không khí tự nhiên và nhiệt độ 35- 40oC. Trong quá trình sấy luôn kiểm tra độ ẩm và nhiệt độ hàng giờ. Khi hạt đậu tương đạt tới độ ẩm 10% thì dừng lại và đưa hạt vào làm sạch cơ bản. Hệ thống làm sạch cơ bản gồm 3 bộ phận cơ bản: - Sàng những hạt tốt lọt qua sàng, những vật to ở trên sàng được loại bỏ. - Phân loại hạt, những hạt to đầu, đẹp ở trên sàng, những hạt nhỏ lọt qua lỗ được loại bỏ. Sau khi làm sạch cơ bản, hạt giống được đưa vào đóng gói theo quy định của cấp giống và cho vào kho bảo quản. * Bảo quản Hạt đậu tương dễ bị mất sức nẩy mầm so với lúa, bắp, cao lương,…Hạt bị mất sức nẩy mầm, vỏ hạt và tử diệp chuyển sang màu sậm. Độ bóng của vỏ hạt giảm, hạt dễ bị mốc. Thời hạn cho phép bảo quản phụ thuộc vào đặc tính giống, công nghệ trước thu hoạch, nhiệt độ và ẩm độ không khí lúc bảo quản. Trong đó, nhiệt độ và ẩm độ không khí là yếu tố quan trọng. Giảm càng thấp ẩm độ, càng tăng thêm thời gian bảo quản. Phơi càng khô, bảo quản càng được lâu hơn. Chú ý: Hạt đã được phơi thật khô, nhưng nếu bảo quản trong điều kiện ẩm (ẩm độ trong không khí cao), hạt đậu tương sẽ hút ẩm trở lại. Trong trường hợp này, hạt sẽ bị mất sức nẩy mầm nhanh chóng. Do đó hạt đậu tương, không những phải phơi thật khô, mà còn phải được bảo quản trong điều kiện thật khô ráo, có ẩm độ không khí càng thấp càng tốt. 3.3. Phòng trừ sâu bệnh cho đậu tương Trong quá trình canh tác, một trong những mối lo ngại nhất hiện nay của người trồng đậu, đó là vấn đề dịch hại. sau đây là một số bệnh thường gặp trên cây đậu tương cùng với biện pháp phòng trừ. 3.3.1. Sâu hại * Dòi đục thân: ( Ruồi đậu) Melanagromyza sojae Zheintner) Thành trùng là một loài ruồi rất nhỏ, màu đen bóng, mắt đỏ, thường hoạt động ban ngày, (nhất là lúc trời mát) để ăn và đẻ trứng. Trứng được đẻ ở mặt dưới lá, gần gân chính. Ấu trùng là dòi màu trắng ngà, dòi nở ra đục thẳng vào gân xuyên qua cuống lá và đục vào thân của cây đậu ăn thành đường hầm ngay giữa thân kéo dài từ gốc đến ngọn cây. Khi đã lớn, dòi đục một lỗ xuyên qua thân để làm đường ra sau nầy và hóa nhộng ở gần đó. Sau khi vũ hoá, thành trùng chui qua lỗ để ra ngoài. Nếu tấn công với mật độ cao cây con có thể chết, nếu tấn công trễ thì cây có thể chết từng nhánh hoặc giảm sức tăng trưởng. Biện pháp phòng trị: - Gieo trồng sớm , đồng loạt - Chọn ruộng bằng phẳng, thoát nước tốt, tạo điều kiện cho cây phát triển tốt để giúp cây phục hồi nhanh. - Nếu mật độ thấp thiệt hại không nghiêm trọng. Có thể dùng thuốc Basudin 10H rải liều lượng 15 – 20kg/ha lúc gieo hạt. Cũng có thể rải lúc cây đậu ra lá kép nếu thấy có nhiều ruồi xuất hiện. * Sâu ăn tạp: (sâu keo, Sâu khoang) ( Spodoptera litura ) Thành trùng là loài bướm hoạt động ban đêm (mạnh nhứt từ 6 - 10giờ đêm). Trứng được đẻ từng ổ dưới mặt lá có phủ lớp lông tơ màu vàng, giai đoạn trứng từ 3 – 6 ngày. Ấu trùng trải qua 6 tuổi với thời gian phát triển khoảng 15 – 21 ngày, màu sắc thay đổi tùy theo tuổi từ xanh lợt đến xám đen, dọc 2 bên sườn bụng có 2 hàng vệt đen hình bán nguyệt không đều nhau. Ấu trùng mới nở sống tập trung quanh ổ trứng, ăn chất xanh của lá làm lá xơ trắng, úa vàng. Khi lớn lên sâu phân tán dần, ban ngày chui xuống đất, ban đêm hoặc lúc mát trời chui lên cắn phá ( ăn khuyết lá hoặc cắn nụ hoa hay đục quả), khi đụng đến sâu cuốn tròn lại rơi xuống đất, nằm bất động. Cuối giai đoạn ấu trùng sâu chui xuống đất để hoá nhộng. Sâu ăn tạp là loài đa thực, tấn công trên nhiều loại cây trồng và có thể xuất hiện quanh năm, do đó có thể gây hại cho đậu tương từ giai đoạn cây con cho đến thu hoạch. Biện pháp phòng trị: - Sau khi thu hoạch, cày xới phơi đất diệt sâu và nhộng. - Thăm đồng thường xuyên để phát hiện kịp thời các ổ trứng và sâu non mới nở để thu bắt và diệt trừ. - Dùng bã chua ngọt để bắt bướm. - Dùng thuốc hoá học khi cần thiết. Nên xử lý lúc sâu còn nhỏ và phun vào buổi chiều tối. Một số loại thuốc có thể sử dụng như: Cyperkill 5EC; Sagolex 30EC; Cyperan 25EC; Karate 2.5EC… * Sâu xanh da láng: ( Spodoptera exigua ) Thành trùng là bướm đêm, trứng được đẻ trên lá, mỗi ổ 20 – 40 trứng, trứng nở sau khoảng 3 ngày. Khi mới nở sâu sống tập trung quanh ổ trứng, sau một thời gian ngắn chúng bắt đầu phân tán. Ấu trùng màu xanh, mặt lưng trơn láng, có tập quán nhả tơ rơi xuống đất. Giai đoạn ấu trùng từ 10 – 19 ngày. Sâu hoá nhộng trong đất. Triệu chứng: Sâu nhỏ ăn diệp lục lá chừa lại lớp biểu bì trắng, sâu tuổi 2 ăn lủng lá thành những lổ nhỏ, sâu lớn ăn lủng lá thành những lổ lớn hơn. sâu có khả năng gây hại từ khi cây đậu còn nhỏ cho đến khi cây trổ hoa, tượng trái. Sâu ăn cả lá, hoa, trái non, đọt non (nếu mật độ cao). Biện pháp phòng trị: - Vệ sinh đồng ruộng , luân canh, xuống giống đồng loạt. - Thu và diệt ổ trứng giúp làm giảm đáng kể mật số sâu trên ruộng. - Thiên địch ký sinh giữ giai trò rất quan trọng trong việc giới hạn mật số sâu. - Một số thuốc hoá học có thể sử dụng như: Match 50ND, Ammate 150SC, Arrivo 50EC, Lorsban 30EC… * Sâu cuốn lá (Lamprosema indicata ) Trưởng thành là loài bướm nhỏ, màu vàng nâu. Trứng đẻ rải rác hoặc từng đám ở mặt trên lá, giai đoạn trứng từ 3 – 5 ngày. Sâu non lúc nhỏ màu vàng nhạt, lớn màu xanh trong, đầu màu nâu nhạt. Giai đoạn sâu non từ 15 – 20 ngày, sau dó hoá nhộng trong bao lá. Triệu chứng: Sâu non nhả tơ cuốn lá theo chiều dọc hoặc kéo màng kết các lá lại với nhau, nằm trong đó và ăn chất xanh, làm lá chỉ còn lớp màng mỏng và gân lá. Biện pháp phòng trị: Luân canh lúa, bắp …Nếu mật số sâu cao có thể dùng các loại thuốc trừ sâu như: Karate 2.5EC, Polytrin P 440EC, Malate 73 EC, Netoxin 90,95WP…phun lúc tuổi sâu còn nhỏ và vào buổi chiều mát hiệu quả sẽ cao hơn. * Sâu đục trái ( Etiella zinckenella Treitske) Đây là đối tượng gây thiệt hại nghiêm trọng nhất trên cây đậu tương. Thành trùng là loài bướm đêm, có kích thước nhỏ, màu nâu tối. Trứng được đẻ rải rác trên ngọn, chùm hoa và quả non. Ấu trùng màu hồng, đầu đen, có thời gian phát triển khoảng 13 – 18 ngày. Cuối giai đoạn ấu trùng sâu chui ra khỏi quả và hoá nhộng trong đất. Triệu chứng: Sau khi nở ra 1 ngày sâu có khả năng đục vào trái, lổ đục rất nhỏ nên khó phát hiện. Thường mỗi trái đậu chỉ có một hai con sâu. Sâu ăn một phần hột của trái rồi chuyển sang trái khác, nên mỗi con có thể phá hại nhiều trái. Tách trái bị đục ta thấy có sâu ở bên trong cùng với phân thải ra. Lỗ đục của sâu tạo điều kiện cho nấm mốc tấn công hạt. Sâu gây hại nặng từ giai đoạn trái vào hạt đến trước khi hạt cứng. Biện pháp phòng trị: Vệ sinh đồng ruộng, cày ải, phơi đất để diệt nhộng. Luân canh, trồng đúng thời vụ ( không nên trồng trể vì sâu sẽ nhiều ). Sử dụng thuốc hóa học có tính lưu dẫn như: Basudin 50ND, Regent 800WG, Fenbis 50EC… Cần phun đủ lượng nước từ 600 – 800lít nước/ha và chủ yếu vào các thời điểm: + Lần 1: Khi đậu bắt đầu xuống trái ( khoảng 43 – 50NSKG ) + Lần 2: Cách lần 1 từ 5 – 7ngày. Có thể phun lần 3 và lần 4 nếu mật số bướm hoặc sâu non cao. 3..3.2. Bệnh hại * Bệnh héo cây con (Bệnh lở cổ rễ) ( Rhizoctonia solani ) Nấm gây hại chủ yếu ở giai đoạn cây con từ 1 – 2 tuần tuổi, nhất là trong điều kiện thời tiết nóng ẩm, độ ẩm không khí cao. Bệnh có thể tồn tại đến khi cây ra hoa đậu quả. Cây bệnh ở phần thân giáp mặt đất có màu nâu đỏ, sau đó chỗ vết bệnh teo lại, cây đỗ ngã và khô héo. Trên ruộng bệnh phát sinh đầu tiên từ một vài cây, về sau lan rộng ra làm cây chết từng chòm. Mặt đất chỗ cây bệnh thấy những sợi nấm rải rác màu trắng hoặc vàng. Đất, nước, tàn dư cây trồng là nơi lưu tồn và lây lan bệnh. Biện pháp phòng trị: - Vệ sinh đồng ruộng, không dùng rơm rạ có mầm bệnh để che phủ đậu. - Tạo điều kiện cho ruộng tơi xốp, thoát nước tốt - Tránh gieo sạ quá dầy. - Xử lý hạt giống bằng thuốc trừ nấm. - Dùng thuốc: Bonanza 100 DD; Validacin 3L,5L; Tilt Super 300EC…. * Bệnh Rỉ sắt ( Phakopsora sojae ) Bệnh gây hại chủ yếu trên lá, đôi khi trên thân, cuống trái và trái. Trên lá, vết bệnh đầu tiên là những đốm nhỏ vàng hoặc đỏ nâu, dần dần tâm vết bệnh hơi nhô lên thành các gai rỉ (ở cả 2 mặt lá nhưng rõ nhất là ở mặt dưới). Chung quanh vết bệnh thường có quầng vàng. Bệnh nặng làm lá rụng sớm, trái ít, hạt lững, Bệnh phát triển thích hợp ở nhiệt độ 25 – 28oC và thời gian ẩm ướt kéo dài. Giai đoạn đậu ra hoa tạo trái là thời kỳ dễ nhiễm bệnh. Nấm bệnh tồn tại trên tàn dư cây bệnh và trong đất. Biện pháp phòng trị: - Vệ sinh đồng ruộng, thu dọn tàn dư cây bệnh. - Luân canh, dùng hạt giống không mang mầm bệnh. - Sử dụng giống chống chịu bệnh. - Dùng thuốc:Tilt 250ND; Bumper 250EC; Appencarb super 50FL * Bệnh khảm vàng: Khi cây bị bệnh khảm vàng thường ít hoa, quả chín muộn, số quả trên cây, số hạt trên quả và trọng lượng hạt đều giảm. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự thiệt hại tùy thuộc thời gian nhiễm bệnh. Nếu cây nhiễm bệnh trước 7 tuần tuổi, năng suất giảm từ 20-70%, nhưng sau 8 tuần thì không ảnh hưởng tới năng suất. Phòng trừ bệnh khảm vàng: Biện pháp hữu hiệu là trồng giống kháng. Đối với những giống có khả năng chống chịu tốt cũng phải được chọn lọc lại ít nhất là sau 4 vụ gieo trồng. Khi trên ruộng xuất hiện cây bệnh, cần kịp thời nhổ bỏ, dùng thuốc diệt trừ. * Bệnh đốm lá do nấm Sercostora: Gây hại tất cả các bộ phận trên mặt đất của cây. Bệnh xuất hiện khá muộn. Xuất hiện khi cây ở giai đoạn hình thành nụ cho tới khi thu hoạch. Một số nghiên cứu cũng cho thấy nếu hạn chế được nấm trên lá thì sẽ làm tăng năng suất 50-60%. Biện pháp phòng trừ: Một số loại thuốc đã cho hiệu lực khá cao như Dapronin, Pamistin, Alvin, Tilt... Thời gian phun thuốc phòng bệnh là 20 - 30 đến 40 ngày sau gieo. * Một số bệnh khác Gỉ sắt, sương mai, đốm nâu hại lá : Dùng thuốc Zinheb, Tilsupper Lở cổ rễ đậu: Dùng Validamicin để trị. PHẦN 4: KẾT LUẬN Đậu tương có nguồn gốc ôn đới nhưng không phải là cây chịu rét. Nhiệt độ thích hợp cho cây đậu tương từ 27-300C. Ở Việt nam đậu tương có thể trồng hầu hết ở các tỉnh thành trong cả nước. Đậu tương không yêu cầu nghiêm ngặt về đất đai từ đất sét, sét pha thịt, đất thịt pha cát và đến đất cát nhẹ. Tuy nhiên trên đất cát đậu tương thường không cho năng suất ổn định. Đậu tương có thể trồng 3 vụ trên năm hoặc xen với các loại cây trồng khác trong chu kỳ luân canh. Vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên đậu tương có thể trồng 2 vụ/năm kề nhau trong mùa mưa hoặc gối vụ với các loại cây trồng khác. Thời vụ trồng đậu tương ở miền bắc vào vụ xuân là: 15/2-l0/3 cho vùng miền núi phía bắc; Đồng bằng: 1/2-1512, Bắc Trung Bộ: l0/1- 10/2 Bên cạnh xuân chính còn có vụ xuân hè gieo từ tháng 10/3-10/4. Vụ hè: khoảng 20/4 đến 30/6, Vụ đông: Thời vụ gieo sớm cuối tháng 9 đầu tháng 10. Ở miền Nam, điều kiện khí hậu ấm áp, đậu tương gieo từ 20/12 đến tháng 1, vụ hè thu gieo tháng 4 - 5, vụ thu đông gieo tháng 7 - 8. Mật độ khoảng cách: tùy theo thời vụ và đặc điểm giống mà mật độ khoảng cách có thể khác nhau. Đậu tương là cây trồng cạn nhưng kém chịu hạn. Nhu cầu nước của cây đậu tương lớn nhất vào thời kỳ ra hoa làm quả, đậu tương khi gieo cần độ ẩm 50% mới mọc được, vụ Hè thu làm xong đất cần gieo ngay. Đậu tương cần được tưới khi thời kỳ cây con, ra hoa làm quả, nếu bị hạn ở các thời kỳ trên sẽ giảm năng suất, nếu mưa lớn cần thăm ruộng thường xuyên để tiêu úng. Khi đậu rụng hết lá và trái trái chuyển sang màu vàng hoặc nâu tiến hành thu hoạch bằng cách dùng liềm cắt sát gốc đậu. Dùng máy suốt để tách hạt, phơi khô sàng sảy loại bỏ hạt non, sâu…và bảo quản nơi thoáng mát. Kết quả nghiên cứu tại Viện Di truyền Nông nghiệp và các Viện, Trường khác đã chứng tỏ, Việt Nam đã có nhiều điều kiện thuận lợi về khí hậu, giống, công nghệ, cơ cấu cây trồng để mở rộng diện tích, giảm giá thành, đưa đậu tương Việt Nam cạnh tranh với đậu tương thế giới trong hoàn cảnh hội nhập. Đề nghị Nhà nước sớm có chiến lược, định hướng, giải pháp đồng bộ về áp dụng các công nghệ, tiến bộ kỹ thuật và các giải pháp chính sách cho cây đậu tương phát triển trong cơ cấu luân canh, tăng vụ, tiến tới có thể giảm nhập khẩu, tạo công ăn việc làm trong nước, tăng hiệu quả thu nhập trên 1 đơn vị diện tích, cải tạo đất, cải thiện môi trường TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình cây đậu tương, Trường đại học Nông Lâm – Thái Nguyên, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội - 2007

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvanquytrinhkinhtekithuattrongcaydautuong.doc
Tài liệu liên quan