Tài liệu Đề tài Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển tỉnh Sóc Trăng thời kỳ đến năm 2020: 1
MỞ ĐẦU
Vùng Biển Sóc Trăng (Vùng Biển/Vùng) gồm 3 huyện biển là Long Phú,
Vĩnh Châu và Cù Lao Dung có 72 km bờ biển; với diện tích tự nhiên là
1.188,2 km2, chiếm 35,8% diện tích toàn tỉnh, dân số tính đến 2008 khoảng
405 nghìn người, chiếm 32,5% dân số toàn tỉnh.
Vùng Biển có vị trí, vai trò quan trọng về phát triển các ngành kinh tế
biển, giao lưu thương mại và quốc phòng - an ninh của cả vùng ĐBSCL và các
nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. Tương lai kinh tế-xã hội Vùng Biển
Sóc Trăng nói riêng và cả tỉnh Sóc Trăng nói chung phát triển trong sự giao thoa
của nền kinh tế biển vùng ĐBSCL và nền kinh tế tiểu vùng sông Mê Kông.
Thực hiện Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 9/2/2007 của Bộ Chính trị về
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết 27/2007/NQ-CP ngày
30/5/2007 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết 09/NQ-TW của Bộ Chính trị, Tỉnh Uỷ tỉnh Sóc Trăng đã có
Nghị Quyết về phát triển kinh tế biển, vùng ven...
115 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1128 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển tỉnh Sóc Trăng thời kỳ đến năm 2020, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
Vùng Biển Sóc Trăng (Vùng Biển/Vùng) gồm 3 huyện biển là Long Phú,
Vĩnh Châu và Cù Lao Dung có 72 km bờ biển; với diện tích tự nhiên là
1.188,2 km2, chiếm 35,8% diện tích toàn tỉnh, dân số tính đến 2008 khoảng
405 nghìn người, chiếm 32,5% dân số toàn tỉnh.
Vùng Biển có vị trí, vai trò quan trọng về phát triển các ngành kinh tế
biển, giao lưu thương mại và quốc phòng - an ninh của cả vùng ĐBSCL và các
nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. Tương lai kinh tế-xã hội Vùng Biển
Sóc Trăng nói riêng và cả tỉnh Sóc Trăng nói chung phát triển trong sự giao thoa
của nền kinh tế biển vùng ĐBSCL và nền kinh tế tiểu vùng sông Mê Kông.
Thực hiện Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 9/2/2007 của Bộ Chính trị về
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết 27/2007/NQ-CP ngày
30/5/2007 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết 09/NQ-TW của Bộ Chính trị, Tỉnh Uỷ tỉnh Sóc Trăng đã có
Nghị Quyết về phát triển kinh tế biển, vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng đến năm
2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Đồng thời UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở Kế hoạch
và Đầu tư tỉnh phối hợp với Trung tâm Kinh tế Miền Nam và các ngành trong
tỉnh, các huyện biển có để nghiên cứu đề án: “Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế biển tỉnh Sóc Trăng thời kỳ đến năm 2020”, nhằm xây dựng Vùng Biển
và ven biển thành khu vực phát triển năng động, xứng đáng với vị trí, vai trò to
lớn của Vùng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sóc Trăng và cả
vùng ĐBSCL, đồng thời làm cơ sở cho các ngành, các huyện liên quan tiến hành
xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển phù hợp.
1. Mục đích của dự án:
Dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển tỉnh Sóc Trăng thời kỳ
đến năm 2020” nhằm các mục đích cơ bản và chủ yếu sau:
- Đánh giá đúng các tiềm năng, lợi thế của Vùng Biển và ven biển cần
phát huy trong thời kỳ quy hoạch, đặc biệt phân tích các điều kiện phát triển các
ngành dựa vào lợi thế biển, đồng thời tìm ra những khó khăn, hạn chế thách thức
trong quá trình phát triển Vùng Biển.
- Lựa chọn đúng những ngành, lĩnh vực và lãnh thổ có vai trò động lực và
đột phá trong quá trình phát triển Vùng Biển, để tập trung đầu tư phát triển tạo
đầu tàu lôi kéo, thúc đẩy sự phát triển chung của cả tỉnh. Xác định khả năng nuôi
sống được số dân Vùng Biển và sức chứa hợp lý dân số Vùng Biển để có chính
2
sách phù hợp về phát triển kinh tế và dân số. Tổ chức không gian biển hợp lý
với hạt nhân là các huyện biển, hệ thống đô thị và nông thôn, các tuyến trục nối
kết biển với nội địa và vành đai ven biển. Giải quyết vấn đề khoa học- công
nghệ, văn hóa, giáo dục-đào tạo, y tế thể thao trong Vùng Biển; Vấn đề môi
trường sinh thái biển; Phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trên biển và an
ninh quốc phòng Vùng Biển.
- Đề xuất các cơ chế, chính sách phù hợp và hệ thống các giải pháp đồng
bộ về vốn đầu tư, khoa học-công nghệ, nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế... để
thực hiện quy hoạch.
- Đưa ra cơ chế và định hướng tổ chức thực hiện quy hoạch.
- Kiến nghị với UBND tỉnh và Chính phủ về những công việc cần thiết
cần làm để thực hiện quy hoạch Vùng Biển.
2. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu:
Theo Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 11/09/2007 của Tỉnh ủy Sóc Trăng
về phát triển kinh tế biển, phạm vi nghiên cứu của dự án bao gồm: “Vùng ven
biển có dân số năm 2005 là 400.731 người (chiếm 31,50% dân số toàn tỉnh),
diện tích tự nhiên là 118.688 ha (chiếm 35,86% tổng diện tích toàn tỉnh); trong
đó diện tích bãi bồi hiện có trên 25.000 ha”. Như vậy, không gian nghiên cứu
bao gồm cả trên biển và không gian trên đất liền ven biển, trong đó, không gian
trên biển được xác định là Vùng Biển và thềm lục địa thuộc quyền quản lý của
tỉnh Sóc Trăng. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu quy hoạch, tùy vào từng
trường hợp cụ thể (đối với một số lĩnh vực như vận tải, du lịch...) có liên quan
mật thiết với các khu vực bên ngoài Vùng Biển, sẽ được xem xét, nghiên cứu ở
phạm vi rộng hơn (như Thành phố Sóc Trăng, các tỉnh lân cận trong vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long, Côn Đảo và Phú Quốc…).
3. Các căn cứ chủ yếu để xây dựng quy hoạch:
- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, lần thứ X.
- Nghị Quyết 03-NQ/TW, ngày 6/5/1993 của Bộ Chính Trị về một số
nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt.
- Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 22/9/1997 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh
phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH.
- Nghị quyết số 09/NQ-TW ngày 9/2/2007 của Bộ Chính trị về Chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020.
3
- Nghị quyết số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 của Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 09/NQ-TW của
Bộ Chính trị.
- Dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sóc Trăng thời
kỳ 2006- 2020.
- Dự án điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng
Đồng bằng sông Cửu Long đến 2010.
- Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 11/09/2007 của Tỉnh ủy Sóc Trăng về
phát triển kinh tế biển, Vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng đến 2015 và tầm nhìn đến
năm 2020.
- Quyết định số 50/2006/QĐ-UBND ngày 25/12/2006 của UBND tỉnh Sóc
Trăng về việc ban hành chương trình phát triển bền vững tỉnh Sóc Trăng giai
đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Các báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm kỳ thực hiện NQ Đảng Bộ huyện
nhiệm kỳ 2005-2010 và các báo cáo kế hoạch phát triển KT-XH huyện giai đoạn
2006-2010 của các huyện Long Phú, Vĩnh Châu và Cù Lao Dung.
- Kết quả cuộc họp ngày 19/03/2008 tại sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Sóc
Trăng về định hướng quy hoạch Vùng Biển và ven biển Sóc Trăng.
4-Mô hình nghiên cứu vùng biển.
Mô hình kinh tế biển Sóc Trăng được xây dựng trên cơ sở dựa vào lợi thế
biển và là một mô hình kinh tế mở, nó thể hiện trên hai mặt:
- Mọi định hướng phát triển đều xuất phát từ thế mạnh của biển. Trên cơ
sở nhận thức một cách sâu sắc những lợi thế cơ bản của biển (mà nổi bật là cảng
nước sâu duy nhất của ĐBSCL) và những khó khăn, thách thức có liên quan đến
phát triển biển, đưa ra định hướng phát triển bền vững tại vùng biển một cách
toàn diện và có tính thực tiễn cao cho bước phát triển của thập kỷ tới.
- Kinh tế biển Sóc Trăng luôn được đặt trong mối quan hệ với cả nước, cả
vùng ĐBSCL. Mọi phát triển kinh tế biển của Sóc Trăng đều vì lợi ích chung, vì
sự lớn mạnh của cả nước, cả vùng; đồng thời kinh tế biển Sóc Trăng luôn dựa
vào sức mạnh cả nước (các ngành TW), sức mạnh của vùng ĐBSCL(các tỉnh có
liên quan) để phát triển.
Đặc trưng cơ bản nhất của “mô hình phát triển vùng biển Sóc Trăng”,
khác với một vùng nội địa khác là toàn bộ sự phát triển của vùng luôn gắn bó
với Biển và lấy cảng nước sâu lớn, một cửa ngõ Vào - Ra quan trọng nhất của
4
cả vùng ĐBSCL làm trung tâm, làm mục tiêu, từ đó phát triển Khu kinh tế và
các ngành, lĩnh vực khác có liên quan vừa gắn với biển, vừa phục vụ khai thác
nguồn lợi biển như: Cơ sở hạ tầng biển (mạng giao thông bộ, thuỷ, cảng biển;
cấp điện, bưu chính viễn thông, cấp nước…); một số ngành công nghiệp gắn với
thế mạnh biển; hệ thống dịch vụ cảng biển; du lịch biển; nuôi trồng khai thác hải
sản….; Tổ chức không gian biển (hệ thống đô thị ven biển, các trục kinh tế ven
biển và hướng từ biển vào trung tâm) cho tới việc phòng chống thiên tai, tìm
kiếm cứu nạn trên biển; Phòng chống ô nhiễm môi trường biển; Phát triển khoa
học- công nghệ biển; Quốc phòng an ninh trên biển.v.v.
Như vây, quá trình phát triển mô hình kinh tế biển Sóc Trăng vì một mục
tiêu duy nhất là đem lai lợi ích cao nhất từ nguồn lợi biển, đồng thời bảo vệ và
làm giàu có thêm cho nguồn lợi biển.
5.Tổ chức nghiên cứu quy hoạch:
Trong quá trình nghiên cứu xây dựng quy hoạch, đã tiến hành các hoạt
động cụ thể sau:
+ Tìm hiểu, khai thác các tài liệu nghiên cứu về biển như “Đề án kinh tế
biển quốc gia”, “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển Vùng Vịnh Thái
Lan”, các nghiên cứu quy hoạch ngành của tỉnh Sóc Trăng...
+ Tổ chức đoàn đi nghiên cứu khảo sát thực tế, thu thập những tài liệu, số
liệu cần thiết ở 3 huyện biển: Long Phú, Vĩnh Châu, Cù Lao Dung.
Quá trình xây dựng Báo cáo tổng hợp:“Quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế biển tỉnh Sóc Trăng thời kỳ đến năm 2020” được tiến hành nhiều bước, sau
khi hoàn thành báo cáo sơ bộ, tiến hành tổ chức các hội thảo với các nhà quản lý
và chuyên gia nghiên cứu biển ở Trung ương và địa phương, sau đó chỉnh sửa,
báo cáo xin ý kiến các cấp lãnh đạo trong tỉnh, huyện để bổ sung, hoàn chỉnh
báo cáo cuối cùng.
Báo cáo tổng hợp gồm 4 phần chính:
I. Các yếu tố và điều kiện phát triển của Vùng Biển tỉnh Sóc Trăng.
II. Hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội Vùng Biển tỉnh Sóc Trăng.
III. Phương hướng phát triển và tổ chức không gian kinh tế Vùng Biển tỉnh
Sóc Trăng đến năm 2020.
IV. Các giải pháp chủ yếu thực hiện quy hoạch.
5
PHẦN THỨ NHẤT
CÁC YẾU TỐ VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN CỦA VÙNG BIỂN
TỈNH SÓC TRĂNG
I. NHỮNG YẾU TỐ VÀ ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI
1. Vị trí địa lý của Vùng Biển Sóc Trăng là một trong những lợi thế quan
trọng để phát triển
Vùng Biển Sóc Trăng có 3 cửa sông lớn tiếp giáp biển là Định An, Trần
Đề và Mỹ Thanh, trong đó cửa Định An và Trần Đề là hai cửa ngõ quan trọng ra
biển Đông của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Vùng Biển Sóc Trăng có vị trí hết sức quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế và mở rộng giao thương với trong nước và quốc tế của tỉnh Sóc Trăng và
các tỉnh ĐBSCL, nhất là trong xu thế hội nhập mạnh mẽ hiện nay.
Vùng Biển Sóc Trăng nằm trong khu vực có nền kinh tế phát triển rất
năng động. ĐBSCL là vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm của cả nước, tốc độ
tăng trưởng cao, đạt 10,5%/năm thời kỳ 2001-2005 (gấp 1,3 lần tốc độ tăng
trưởng cùng thời kỳ của cả nước), đóng góp 1/3 giá trị sản xuất nông nghiệp,
2/3 giá trị sản xuất thủy sản và 10,0% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời
gian qua, Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển kinh
tế - xã hội đối với vùng ĐBSCL (trong đó có tỉnh và Vùng Biển Sóc Trăng), đặc
biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực, nhằm chuyển đổi
cơ cấu Vùng từ nông nghiệp - thủy sản thành Vùng Kinh tế trọng điểm nông
nghiệp - thủy sản- công nghiệp của cả nước. Côn Đảo, một đảo nằm gần Vùng
Biển Sóc Trăng đã được Chính Phủ phê duyệt xây dựng thành hòn đảo phát triển
tổng thể các ngành dựa vào lợi thế của biển, đặc biệt là sẽ trở thành khu du lịch
sinh thái, nghỉ dưỡng lớn của cả nước. Với sự phát triển nhanh theo hướng mới
của vùng ĐBSCL và Côn Đảo, sẽ tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế của
Vùng Biển Sóc Trăng nói riêng và tỉnh Sóc Trăng nói chung.
Sau khi sân bay Cần Thơ đi vào hoạt động, cầu Cần Thơ hoàn thành, quốc
lộ 1A được nâng cấp; đặc biệt là tuyến đường Nam sông Hậu dài 151 km, quy
mô 2 làn xe từ thành phố Cần Thơ chạy dọc bờ Nam sông Hậu qua Vùng Biển
của tỉnh Sóc Trăng (huyện Long Phú và huyện Vĩnh Châu) đến giáp quốc lộ 1A
(thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu) hoàn thành vào năm 2010 sẽ là cơ hội thúc đẩy
Vùng Biển và cả tỉnh Sóc Trăng phát triển mạnh mẽ.
6
2. Vùng Biển Sóc Trăng có điều kiện tự nhiên, môi trường rất thuận lợi cho
phát triển kinh tế - xã hội
So với một số vùng khác trong tỉnh, Vùng Biển có điều kiện tự nhiên cả ở
biển và ven biển rất thuận lợi cho phát triển. Đó là:
- Về địa hình: Vùng ven biển Sóc Trăng là vùng đất trẻ hình thành qua
nhiều năm lấn biển, nên có địa hình đồng bằng bãi bồi cửa sông và ven biển xen
lấn cồn cát, độ cao trung bình 0,5-1m so với mặt biển , thấp dần từ Tây Bắc
(thềm bờ sông Hậu thuộc Long Phú, Cù Lao Dung) xuống Đông Nam và có hai
tiểu vùng địa hình chính: vùng ven sông Hậu (huyện Long Phú và Cù Lao
Dung), với độ cao 1-1,2m, bao gồm vùng đất bằng và những giồng cát; vùng
trũng phía nam với độ cao 0 - 0,5m, thường ngập úng dài ngày trong mùa lũ.
- Về khí hậu: Khí hậu nhiệt đới chịu ảnh hưởng của biển, phân hai mùa rõ
rệt mùa mưa và mùa khô (mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11) với lượng mưa
trung bình 1.977mm; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa rất
ít, chỉ khoảng vài trăm milimét. Nhiệt độ trung bình hàng năm 26-270C, biên độ
nhiệt theo mùa khoảng 5-60C. Thấp nhất (tháng 1) là 23-240C, cao nhất (tháng
4) đến 31-320C. Tổng lượng bức xạ 140-150 Kcal/cm2/ngày. Tổng số giờ nắng
2.300-2.400 giờ.
Lượng mưa trung bình cao, từ 1.800-2.200 mm và chênh lệch lớn theo
mùa. Mùa mưa chiếm tới 86-88,0% tổng lượng mưa hàng năm, lượng mưa
trung bình cao nhất > 350mm, tháng thấp nhất hầu như không có mưa. Độ ẩm
trung bình cả năm là 84,4%, cao nhất 96,0% vào mùa mưa và thấp nhất vào
mua khô 62,0%.
Đặc điểm khí hậu thời tiết Vùng Biển đem đặc trưng chung của tỉnh, cùng
với đặc điểm khí hậu giáp biển, với nền nhiệt, ẩm tương đối cao, nên có tác
động rất nhiều đến tăng trưởng sinh khối, tăng năng suất cây trồng, rất thuận lợi
sản xuất nông, lâm nghiệp. Điều kiện thời tiết cho phép Vùng Biển phát triển
nền nông nghiệp đa dạng với nhiều loại cây trồng nhiệt đới.
Thời tiết không có bão cũng là một thuận lợi trong sinh hoạt và phát triển
sản xuất.
- Hải văn và tài nguyên nước: Mạng lưới dòng chảy có mật độ dày, bình
quân > 0,2 km/km2, trong đó quan trọng nhất là sông Hậu chảy từ phía Bắc tỉnh
Sóc Trăng qua Vùng Biển, đến khu vực bắc huyện Long Phú chia làm hai nhánh
qua Long Phú và Cù Lao Dung, tạo ra cho huyện biển Cù Lao Dung có địa hình
như một hòn đảo, bao bọc bởi hai nhánh sông Hậu và biển; sông Mỹ Thanh chảy
7
ở phía Đông Nam tỉnh Sóc Trăng qua các huyện Long Phú và Vĩnh Châu ra
biển. Các sông này là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất và cũng là
tuyến đường sông ra biển quan trọng của Vùng Biển và của cả tỉnh Sóc Trăng.
Lưu lượng nước sông Hậu mùa mưa trung bình khoảng 7.000-8.000m3/s vào
mùa khô và 2.000-3.000 m3/s vào mùa khô.
Nguồn nước ngầm dồi dào, độ sâu của mạch nước ngầm từ 100-180m và
phân bố đều khắp trên địa phân Vùng Biển. Nhìn chung, chất lượng nước tốt để
sử dụng cho sinh hoạt, một số xã ở phía Tây Long Phú và Bắc Cù Lao Dung có
“Độ tổng khoáng hóa” M > 4g/lít, còn lại ở hầu hết các xã Vùng Biển có Độ
tổng khoáng hóa =1,4- 4g/lít.
Tóm lại, điều kiện khí hậu hải văn của Vùng Biển Sóc Trăng có nhiều
thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt. Nền nhiệt độ cao, nhiều nắng, độ ẩm dồi
dào, chế độ khô ẩm xen kẽ trong năm... rất thích hợp đối với sự sinh trưởng của
nhiều loại cây trồng, nhất là các loại cây nhiệt đới, đồng thời làm cho quá trình
phân hủy chất hữu cơ và biến đổi trạng thái vật chất trong đất diễn ra nhanh, làm
tăng độ phì nhiêu của đất. Đặc biệt Vùng Biển rất ít bị ảnh hưởng của thiên tai
và các yếu tố khí hậu cực đoan (như bão, lốc, rét đậm, sương muối, gió nóng...)
nên rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt cho phát triển sản xuất
nông, lâm nghiệp, thủy sản, du lịch...
3. Tài nguyên thủy sản phong phú, tạo điều kiện phát triển nhanh cả khai
thác xa bờ và nuôi trồng hải sản chất lượng cao
Với cấu trúc hệ sinh thái đa dạng, điều kiện tự nhiên môi trường thuận lợi,
Vùng Biển Sóc Trăng có tiềm năng rất lớn về thủy sản và được đánh giá là vùng
trọng điểm về khai thác và nuôi trồng thủy sản của vùng ĐBSCL.
* Về khai thác:
Ngư trường Tây Nam Bộ là nơi trực tiếp đánh bắt của các ngư dân Vùng
Biển Sóc trăng có nguồn lợi hải sản rất phong phú và đa dạng, với khoảng 661
loài cá, với tổng trữ lượng khoảng 50,6 vạn tấn/năm, khả năng khai thác 20,2
vạn tấn/năm.
Biểu 01: Nguồn lợi cá biển Vùng Biển Tây Nam Bộ
Trữ lượng Khả năng khai thác Các loại cá
Trữ lượng (T) Tỷ lệ (%) Sản lượng (T) Tỷ lệ(%)
Tổng số 506.679 100 202.272 100
Cá nổi nhỏ 316.000 62 126.000 62
Cá đáy 190.679 38 76.272 38
Nguồn: Chương trình biển KT 03 năm 1995 và Viên Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng năm 1997
8
Ngoài trữ lượng các loại cá, vùng biển Tây Nam Bộ có 35 loài tôm, trong
đó có các loại tôm hùm, tôm rồng, 23 loài mực gồm các họ mực nang, mực ống
và mực sim, đồng thời có nhiều loại cua ghẹ và các loại nhuyễn thể khác.
Biểu 02: Nguồn lợi các loại hải sản khác ở Biển Tây Nam Bộ
Trữ lượng và khả năng
khai thác (tấn)
Tổng <50m 50-100m 100-
200m
>200m
1. Trữ lượng
- Mực ống 41.577 21319 12.832 2.559 4.867
- Mực nang 48.706 24.933 10.756 7.404 5.613
- Tôm 9.346,5 9.180,5 166 - -
2. Khả năng khai thác
- Mực ống 16.630 8.527 5.132 1.024 1.947
- Mực nang 19.482 9.973 4.302 2.962 2.245
- Tôm 3.412 3.351 61 - -
3. Tỷ lệ (%)
- Mực ống 100,0 51,3 30,9 6,1 11,7
- Mực nang 100,0 51,2 22,1 15,2 11,5
- Tôm 100,0 98,2 7,8 - -
Bãi cá cửa sông Hậu và Côn Đảo là ngư trường truyền thống của các
huyện Vùng Biển Sóc Trăng, có trữ lượng khá lớn. Diện tích bãi cá cửa sông
Hậu có diện tích 3.164 km2 với độ sâu 10-22m, chất đáy là bùn cát, có trữ lượng
8.459-19.687tấn, khả năng khai thác 4.222 tấn và có thể khai thác quanh năm;
Diện tích bãi cá Côn Đảo có diện tích 7.331 km2 có độ sâu 25-40m, chất đáy là
cát mịn và vỏ sò, có trữ lượng 15.248-41.986 tấn, có khả năng khai thác 8.580
tấn, mùa khai thác từ tháng 8 năm trước đến tháng 4 năm sau, đối tượng cá khai
thác gồm cá nục sồ, hồng, mối vạch, chỉ vàng, phèn lượng.
Nhìn chung lại, nguồn lợi đánh bắt hải sản rất phong phú và thuận lợi.
Đây chính là lợi thế của biển để tạo ra khả năng phát triển đánh xa bờ và ven bờ.
* Về nuôi trồng: Với diện tích bãi triều rộng lớn và hệ thống sông ngòi,
kênh rạch ven biển, có thể phát triển nuôi trồng thủy sản ngọt, lợ và mặn với
diện tích 37-38 nghìn ha (khoảng 51% diện tích nuôi thủy sản cả tỉnh), có thể
hình thành các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung theo hình thức công nghiệp và
bán công nghiệp, ứng dụng khoa học-công nghệ nuôi trồng mới để tạo ra giá trị
hàng hóa lớn.
Ngoài ra còn có sông, rạch và mặt nước chuyên dùng có thể tận dụng
muối thủy sản, khoảng 14,2 nghìn ha, chiếm 61% diện tích sông, rạch và mặt
nước chuyên dùng của cả tỉnh.
9
4. Tiềm năng du lịch sinh thái, kết hợp du lịch ra Côn Đảo là đặc điểm nổi
bật của Vùng Biển Sóc Trăng so với các khu vực khác trong tỉnh
Hệ sinh thái vùng ngập mặn với 3 cửa sông lớn ra biển (Định An, Trần Đề
và Mỹ Thanh) vừa có giá trị kinh tế lớn với Vùng Biển Sóc Trăng, cũng là nơi
hấp dẫn du lịch. Với địa thế như một hòn đảo của huyện Cù Lao Dung, có
khoảng 300 km đê bao, bờ bao vòng ngoài, còn đê bao vòng trong lớn hơn nhiều
chưa tính hết được - đây cũng là đường đi nối liền nhau giữa các khu vườn cây
ăn trái, mảnh rẫy, ngang, dọc như “mê cung”. Bờ bao chính là sự đảm bảo sống
còn đối với mỗi gia đình của một vùng sông nước mênh mông, cũng là nơi
truyền thống chống ngoại xâm, đánh tàu Mỹ-Ngụy bằng cách đóng cọc, căng
dây thép bắt “bo-bo”, hay là chuyện bắt kình ngư ngày xưa…Vùng Biển Sóc
Trăng, đặc biệt đất Cù Lao Dung chính là nơi hấp dẫn du khách bằng một vùng
sinh thái khá đặt biệt, kết hợp truyền thống lịch sử.
Trong Vùng Biển cũng có những bãi tắm đẹp, có thể làm nơi nghỉ dưỡng
như Hồ Bể của huyện Vĩnh Châu. Từ Vùng Biển đi Côn Đảo (một trung tâm du
lịch nghỉ dưỡng, kết hợp truyền thống lịch sử nhất cả nước) khá gần, có khả
năng mở tuyến đưa khách du lịch từ ĐBSCL ra Côn Đảo rất thuận lợi.
5. Vùng Biển Sóc Trăng có thảm rừng khá phong phú, đặc biệt là rừng
ngập mặn ven biển. Đây chính là nơi đem lại những lợi ích kinh tế trực
tiếp của cộng đồng dân cư ven biển
Diện tích đất rừng Vùng Biển hiện có là 5.684 ha, chiếm 4,8% diện tích
tự nhiên của Vùng Biển và khả năng có thể đưa lên đến 12.312 ha, chiếm
9,8% diện tích tự nhiên của Vùng Biển và bằng 88,0% đất rừng của cả tỉnh
Sóc Trăng, điều này cho thấy vị trí quan trọng của rừng Vùng Biển đối với cả
tỉnh Sóc Trăng.
Rừng ở Vùng Biển Sóc Trăng chủ yếu là rừng ngập mặn ven biển. Trong
đất rừng ngập mặn, có khoảng 4.900 ha rừng phòng hộ, chủ yếu là rừng tràm
(4.300 ha), tập trung nhiều ở Cù Lao Dung và Long Phú; Rừng đước, rừng mắm
ở huyện Vĩnh Châu. Với sự phân bố cây rừng như vậy, có thể thấy hệ sinh thái
rừng ngập mặn trong Vùng Biển rất phong phú về thực vật và động vật. Đây là
nơi có sản lượng sinh khối động thực vật lớn, nơi sinh đẻ, nuôi dưỡng và cung
cấp thức ăn quan trọng cho các loài cua, cá, tôm biển và nhiều loại khác có giá
trị kinh tế lớn; Giúp bồi đắp đất đai, bảo vệ vùng ven biển; Tạo ra nơi cư trú cho
nhiều loại động vật hoang dã.
10
Theo các chuyên gia Bộ tài nguyên Môi trường, những quần thể động,
thực vật và thủy hải sản tại vùng rừng ngập mặn ven biển Sóc Trăng có: quần
thể khỉ đuôi dài (tên khoa học macaca fasclularis) hơn 300 cá thể; Rái cá Lông
Mượt (Lutra perspicillata) 500 cá thể; Dơi ngựa lớn (Pteropus-vampyrus)
khoảng 1.500 cá thể và các loài chim nước, hệ thống động vật lưỡng cư, bò sát
v.v... Riêng thảm thực vật rừng được khảo sát trong năm 1996 cho thấy: đa dạng
và phong phú không kém, với 20 loài thực vật thuộc 16 họ được ghi nhận. Các
loại phổ biến nhất là bần chua (tên khoa học Sonneratia caseolaris), dừa nước
(Nipa frutican), mắm trắng (Avicennia alba), mắm đen (Avicennia offieinalis),
mắm biển (Avicennia maina), đước (Rhizophora apiculata)…
6. Vùng Biển Sóc Trăng đã phát hiện có điều kiện xây dựng cảng biển nước
sâu, đây là ưu thế rất lớn, tạo động lực cho sự phát triển của Vùng trong
bối cảnh hội nhập
Ngoài khơi cách cồn cát huyện Cù Lao Dung thuộc cửa Trần Đề khoảng
trên 20 km, đã phát hiện Vùng Biển với độ sâu khoảng -14 mét. Có thể xây dựng
một cảng nước sâu khối lượng nạo vét, thông luồng không lớn. Hiện nay
ĐBSCL đóng góp 60% sản lượng gạo, 90% kim ngạch xuất khẩu gạo, 65% kim
ngạch xuất khẩu thủy hải sản của cả nước, song chủ yếu trồng chờ vào 13 cảng
biển nhỏ dọc sông Hậu chỉ giải quyết 20-30% khối lượng hàng hóa thông qua
đường thủy. Đến khoảng 2014 mới có khả năng thông ra biển qua luồng tàu biển
qua cửa Định An, nhưng thực tế nạo vét luồng Định An trong 30 năm qua rất
tốn kém, năm nhiều nhất phải nạo vét 700.000 m3 bùn cát với kinh phí nạo vét là
12 tỷ đồng.
Theo quy hoạch ngành hàng hải, để khắc phục tồn kém do phải nạo vét
quá lớn ở cửa Định An, sẽ tiến hành dự án mở luồng tàu biển qua kênh Quan
Chánh Bố, với tổng kinh phí là 3.200 tỷ đồng và rất có thể lên đến 6.000 tỷ, thời
gian thực hiện khoảng 6-8 năm. Như vậy số tiền dành cho ĐBSCL trong năm tới
là 2.000 tỷ đồng, chủ yếu chi cho dự án luồng tàu Quan Chánh Bố. Đây là dự án
khá tốn kém, còn nhiều tranh cãi vì báo cáo nghiên cứu tiền khả thi chưa rõ
được tính bền vững và tác động đến môi trường. Dự án hoàn thành cũng chỉ có
khả năng cho khoảng 10.000 DWT đầy tải, khoảng 20.000 DWT vơi tải ra vào
luồng đến hệ thống cảng Cần Thơ.
Như vậy, việc xây dựng cảng nước sâu ngoài biển, chỉ cách cửa Trần Đề
khoảng 20km, với khả năng nạo vét không nhiều do ít bị bồi lấp là một dự án
hợp lý, mở ra cho cả tỉnh Sóc Trăng, Vùng Biển Sóc Trăng và cả vùng ĐBSCL
một khả năng mới cho phát triển trong tương lai.
11
II. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ THÁCH THỨC
1. Nguồn cung cấp nước ngọt hạn chế là trở ngại lớn đối với sự phát triển
* Về nước mặt: Một hạn chế lớn là mùa khô lượng mưa ít, gây hạn và
nhiễm mặn đối với sản xuất. Chế độ thủy triều lên xuống ngày 2 lần với mức
nước dao động 0,4-1m nên các kênh rạch bị ảnh hưởng của mặn xâm nhập sâu
vào khu vực bên trong đất liền ở Long Phú vào mùa khô, gây khó khăn về thiếu
nguồn nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt.
* Về nước ngầm: Nước ngầm mạch nông từ 5-30m thường bị nhiễm mặn
vào mùa khô. Hầu hết các huyện ven biển thuộc tỉnh Sóc Trăng là vùng trũng,
chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế độ triều mạnh, thường xuyên bị ngập mặn nên
nguồn nước ngầm rất hạn chế trong mùa khô.
Nhìn chung, nguồn nước mặt trong vùng khá dồi dào nhưng chất lượng
thấp, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất công nghiệp và sinh hoạt. Do
địa hình thấp, lại chịu tác động trực tiếp của chế độ thủy triều phức tạp từ 2 phía,
cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt, ở cuối nguồn hệ thống sông Cửu Long
làm cho nước biển dễ xâm nhập. Về mùa khô hầu hết nguồn nước mặt trong
Vùng bị nhiễm mặn và nhiễm bẩn hữu cơ do tập quán làm chuồng trại chăn
nuôi, cầu tiêu trên kênh rạch và lạm dụng phân bón, thuốc trừ sâu trong sản xuất
nông nghiệp... nên chất lượng thấp. Một số khu vực trong thời kỳ này thiếu nước
ngọt cho sản xuất và sinh hoạt.
2. Quá trình sói lở Vùng Biển diễn ra nhanh, hệ sinh thái rừng ngập mặn
đã và đang bị giảm sút mạnh, đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết
Theo khảo sát mới đây của Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Vùng Biển
Sóc Trăng đang đứng trước khó khăn là quá trình xói lở diễn ra nhanh hơn,
nhiều đoạn ven biển, dấu vết xói lở như mới xảy ra, những vùng xói lở ảnh
hưởng của quá trình tự nhiên như dòng hải lưu, thủy triều, gió chướng, hoạt
động của sóng... song, nguyên nhân chủ yếu là rừng ngập mặn bảo vệ bờ biển
không được trồng chắn mới kịp thời và bị chặt phá nghiêm trọng. Kết quả
nghiên cứu dự án bảo vệ và phát triển các vùng đất ngập mặn ven biển phía Nam
ĐBSCL từ 1996 đến nay, tại ven biển huyện Vĩnh Châu, gồm các xã Vĩnh Tân,
Lai Hoà, Vĩnh Hải đoạn bờ biển Cống Xóm Đáy ấp Mỹ Thanh dài 3,5km, bờ
biển bị xói lở với mức độ bình quân từ 15- 40m/năm. Cụ thể như đoạn ở xã
Vĩnh Hải mỗi năm bị lấn sâu vào bờ 8-15m, một phần ở xã Vĩnh Tân là
40m/năm, xã Lai Hoà là 20m/năm...
12
Do thay đổi khí hậu và ý thực bảo vệ của con người kém, hệ sinh thái
vùng ngập mặn bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều cây, con bị mất dần, chẳng
hạn như cây mắm, cây đước bị thoái hóa, riêng cây chà là nơi trú ngụ của con
đuôn không còn tồn tại. Tại khu vực đuôi cồn Cù Lao Dung, quần thể dơi
ngựa lớn, theo thống kê mới nhất, chỉ còn không tới 1.000 con. Loài rái cá
lông mượt trước đây sinh sống rất nhiều, hiện nay đã biến mất, các loài cá
ngát, nghêu rất hiếm, chim trời trước đây thường về đậu và làm tổ, hiện nay
không còn thấy về nữa.
Từ năm 2007 đến nay, tỉnh Sóc Trăng được sự hỗ trợ của Tổ chức Hợp
tác kỹ thụât công nghệ Công hòa Liên Bang Đức (GTZ) thông qua dự án “Bảo
vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ven biển tỉnh Sóc Trăng”, tỉnh Sóc Trăng đã và
đang xúc tiến khảo sát và tiến hành phòng chống lở cho hệ thống đê biển của
tỉnh. Xói lở biển và suy giảm sinh thái vùng ngập mặn ven biển là một thách
thức không nhỏ ở Vùng Biển, cần thiết phải đầu tư sức lực, tiền của ngay từ bây
giờ để hạn chế mức độ thiệt hại, ổn định sản xuất và đời sống nhân dân.
3. Do trái đất nóng dần lên, nước biển dâng, Vùng Biển tỉnh Sóc Trăng là
một trong nhưng nơi bị ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của một
bộ phận dân cư ven biển
Nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) đã sử dụng các phần
mềm hệ thống thông tin địa lý (GIS), kết hợp với nhiều nguồn dữ liệu cập nhật,
để đánh giá luồng nước biển khi trái đất nóng lên và biển dâng, cho thấy nếu
mức nước biển tăng từ 1m lên 5m thì số dân chịu ảnh hưởng tăng từ 2%-8,6%
tổng dân số thế giới và diện tích đất bị ảnh hưởng tăng từ 1,7% lên gần 9,0%
diện tích đất đai của trái đất. Sự ảnh hưởng này, trong khu vực Đông Nam Á,
với đặc trưng địa lý và địa hình của Việt Nam sẽ là quốc gia chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất, trong đó hai khu vực bị ảnh hưởng nhất là Đồng bằng sông Hồng
và ĐBSCL, là hai khu vực đất thấp, giáp biển, mật độ dân cư lại cao. Chỉ cần
mức nước biển dâng thêm 1m, thì sẽ có 5,3% diện tích đất và 10,8% dân cư,
10,9% đất đô thị, 7,2% diện tích nông nghiệp và 28,9% diện tích đất trũng bị
ảnh hưởng.
Vùng Biển Sóc Trăng nằm trong khu vực bị tác động của biển dâng, như
kịch bản nêu trên, thì Sóc Trăng sẽ đứng đầu về mức diện tích bị ngập có thể tới
1.425 mét, chiếm 43,7% diện tích tự nhiên của tỉnh. Điều này dẫn đến những tốn
kém rất lớn trong việc tăng đầu tư sức người, sức của cho hệ thống đê bao kiên cố.
Đối với các công trình xây dựng sẽ phải tăng thêm vốn đầu tư do phải phòng chống
biển dâng, một bộ phân dân cư ven biển bị thu hẹp đất ở, đất canh tác...Đây là khó
khăn phải tính tới khi phát triển kinh tế - xã hội Vùng Biển Sóc Trăng.
13
4-Trung quốc xây dựng đập thuỷ điện ơ đầu nguồn sông MêKông,
gây ra cạn kiệt nguồn nước và biển lấn, gây nhiễm mặn sâu, tác động lớn
đến các tỉnh ĐBSCL, trong đó có vùng biển Sóc Trăng.
Tai họa mà các con đập của Trung Quốc ở bên trên dòng sông MêKông
gây ra cho các quốc gia phía dưới đã được đề cập đã lâu. Song lần này hiểm hoạ
sẽ còn nghiêm trọng hơn khi Trung Quốc cho vận hành con đập thứ 4, đó là đập
Tiểu Loan, lớn hơn rất nhiều so với 3 con đập đã có (Mai Loan, Cảnh Hồng, Đại
Chiêu Sơn). Cơn khát năng lượng của Trung Quốc đã thúc đẩy họ hoàn thành
nhanh việc xây dựng đập Tiểu Loan sớm. Đập Tiểu Loan (phiên âm tiếng Anh là
Xiao Wan) cao 292 mét, công suất dự kiến 4.200MW, gấp 3 lần của ba đập thuỷ
điện đang vận hành. Điều đáng lo ngại hơn cả là dung lượng hồ chứa của đập
Tiểu Loan cực lớn, tới 15 tỷ m3 nước. Ngoài ra trong kế hoạch, Trung Quốc còn
xây dựng thêm nhiều đập nữa.
Một công trình nghiên cứu hỗn hợp giữa cơ quan bảo vệ Môi trường Liên
hiệp quốc UNEP và Viện Công nghệ Châu Á (AIT) đã công khai cảnh báo rằng
kế hoạch xây dựng các con đập trên thượng nguồn sông Mê Kông có thể trở
thành mối đe doạ đáng kể cho dòng sông và nguồn tài nguyên thiên nhiên từ con
sông cho Việt Nam và Campuchia. Đối với Việt Nam, việc lưu lượng nước sông
MêKông bi giảm sẽ làm tăng hiểm họa cho vùng ĐBSCL do bị nước biển tràn
vào, đất đai bị hoá phèn, không trồng trọt được. Cộng với việc nước biển dâng
lên do biến đổi khí hậu, những diện tích canh tác lớn sẽ bị ngập lụt nặng, buộc
hàng triệu người phải di tản. ĐBSCL, trong đó có Sóc Trăng vốn là vựa thóc và
chăn nuôi thuỷ hải sản lớn của cả nước, thiệt hại sẽ cực kỳ nghiêm trọng.
14
PHẦN THỨ HAI
HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÙNG BIỂN SÓC TRĂNG
I. NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU
Thời gian qua, trong xu thế phát triển chung của cả nước, kinh tế - xã hội
của tỉnh Sóc Trăng và vùng ĐBSCL, Vùng Biển của tỉnh đã có bước chuyển
biến rõ rệt và đạt nhiều kết quả quan trọng.
1. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển nhanh
trong các giai đoạn sau
Tốc độ tăng trưởng “Tổng sản phẩm trên địa bàn Vùng Biển” (GDP) thời
kỳ 2001-2005 là gần 14,0% (cả tỉnh đạt 10,3%). Nhất là trong 3 năm gần đây
2006-2008, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao tới 14,8%, trong đó, giá trị gia tăng
nông nghiệp đạt 10,3%, công nghiệp 24,0% và dịch vụ 25,4%. Thu nhập bình
quân đầu người liên tục tăng, năm 2000 đạt 319 USD, năm 2005 đạt 516 USD
(cả tỉnh 484 USD) và đến 2008 đạt khoảng 853 USD(*). Qua những số liệu cho
thấy, những tiềm năng nổi trội của Vùng Biển đã tạo cho kinh tế các huyện biển
có sức phát triển nhanh, có thể là động lực cho phát triển kinh tế cả tỉnh.
Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng giảm dần nông nghiệp và
tăng nhanh công nghiệp và dịch vụ.
Tuy nhiên, xét trong từng khu vực cho thấy: Tỷ trọng các ngành khu vực I
Vùng Biển còn chiếm rất lớn: 63,0% tổng giá trị tăng thêm, gấp 1,14 tỷ trọng
khu vực I/GDP của toàn tỉnh. Khu vực công nghiệp - xây dựng còn chiếm tỷ
trọng thấp, khoảng 12,0% bằng gần 1 nửa so với tỷ trọng khu vực công
nghiệp/GDP của toàn tỉnh. Tử đó, cần phải có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp và dịch vụ nhanh hơn nữa. Điều này có khả năng lớn,
khi dự án điện 4.400MW và cảng nước sâu được thực hiện và đi vào hoạt động.
(*) Tỷ giá USD tính theo 1994 (11.000 đvn/USD)
15
Biểu 03: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng Biển Sóc Trăng
Đơn vị: %
Vùng Biển Cả tỉnh
2000 2005 2008 2000 2005 2008
Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
- Nông lâm thủy 75,5 73.5 62,9 60.6 57.7 55,2
- Công nghiệp-xây dựng 7.6 9,0 12,0 18.9 19.8 21.2
- Dịch vụ 16.8 17,5 25,1 20.5 22.5 23,6
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê tỉnh và các huyện biển
Năng suất lao động tăng nhanh, bình quân thời kỳ 2002-2005 tăng
10,0%/năm, trong 3 năm gần đây (2006-2008) tăng tới 13,6%/năm. Điều này
chứng tỏ trong các ngành kinh tế, đặc biệt thủy hải sản đã có những đổi mới kỹ
thuật nhất định, năng suất vật nuôi và cây trồng đã được nâng lên.
2. Một số ngành kinh tế biển phát triển nhanh, góp phần quan trọng vào
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng
2.1. Ngành thủy sản là nhân tố cơ bản đóng góp vào tăng trưởng nhanh của
Vùng Biển, chiếm tỷ trọng lớn trong ngành thủy sản của cả tỉnh.
- Về khai thác: Sản lượng khai thác cuả Vùng Biển năm 2008 đạt 30,17
nghìn tấn, sản lượng cả tỉnh đạt 34,3 nghìn tấn, chiếm 87,9% sản lượng của cả
tỉnh. Khai thác biển là ưu thế nổi trội của các huyện Vùng Biển. Sản lượng thủy
sản tăng bình quân khoảng 13,0% bao gồm chủ yếu tăng nuôi trồng thủy hải sản.
Đây là ngành đóng góp lớn thứ nhất trong phát triển nông, lâm, thủy sản của
Vùng Biển và đóng góp hàng đầu trong xuất khẩu ở Vùng Biển.
- Về nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng năm 2008 vùng biển đạt 82,3 nghìn
tấn (cả tỉnh đạt 138,18 nghìn tấn), chiếm 60% sản lượng cả tỉnh. Quy mô diện
tích nuôi trồng thủy sản vùng biển tăng từ 34 nghìn ha năm 2005 lên 37,1 nghìn
ha năm 2007. Giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản tăng khá cao, thời kỳ 2001-
2005 tăng bình quân 28,3%/năm và tiếp tục tăng cao hơn trong những năm sau
Năng suất nuôi trồng bình quân của Vùng Biển đạt khoảng 1,2-1,3 tấn/ha
(huyên Cù Lao Dung đạt 2-3,0 tấn /ha và Long Phú đạt 2,2-2,5 tấn/ha), so với
mức bình quân cả tỉnh là 1,1-1,15 tấn/ha.
16
2.2. Sản xuất nông nghiệp ổn định, chủ yếu dựa vào tăng năng suất cây trồng và
vật nuôi, nên mặc dù diện tích lúa không tăng, diện tích các cây lương thực
khác giảm, song, sản lượng lương thực vẫn đảm bảo an ninh lương thực và
cho xuất khẩu; chăn nuôi, rau màu và dịch vụ nông nghiệp phát triển khá.
Thời gian qua, diện tích đất lúa Vùng Biển giữ ở mức khoảng 29,1-29,5
nghìn ha; diện tích cây lương thực khác giảm nhanh, từ 4,9 nghìn ha năm 2005
xuống 4,3 nghìn ha năm 2008; song, sản lượng lương thực có hạt, đặc biệt là lúa
vẫn tăng. Năm 2005 sản lượng lương thực có hạt đạt 279 nghìn tấn (trong đó lúa
271,6 nghìn tấn) đến năm 2008 đạt 283,4 nghìn tấn (lúa 275,1 nghìn tấn). Sản
lương thực vẫn tăng là do năng suất cây trồng tăng nhanh, ví dụ ở Long Phú
năng suất lúa từ năm 50 tạ/ha năm 2005 lên 55 tạ/ha năm 2008, cũng tương tự
Cù Lao Dung, tăng từ 40 tạ/ha lên 45 tạ/ha. Quá trình phát nông nghiệp vừa qua
ở Vùng Biển, luôn hướng vào nâng cao năng suất cây trồng là đúng đắn của quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp.
Điểm nổi bật của nông nghiệp trong thời gian qua là chăn nuôi phát triển
khá nhanh. Năm 2008 so với 2005, đàn bò tăng 2,2 lần, đàn gia cầm tăng 1,5
lần. Vì vậy, trong 3 năm trở lại đây, tốc độ tăng chăn nuôi bình quân đạt
19,3%/năm. Tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp tăng nhanh,
từ 7,7% năm 2005 lên 12,1% năm 2008.
Cây công nghiệp chính trong vùng là cây mía, đã hình thành vùng chuyên
môn hóa mía ở Cù Lao Dung, với diện tích khoảng 7.585 ha và năng suất đạt
967,7 tạ/ha, gấp 1,4 lần năng suất mía bình quân cả nước. Hiện nay, vùng trồng
mía của Vùng Biển là nơi cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho nhà máy đường của
tỉnh. Rau và các loại hoa màu là ưu thế nổi trội của Vùng Biển. Hiện nay diện tích
trồng hoa màu của Vùng khoảng 26,8 nghìn ha, chiếm 57,0% diện tích hoa màu
của tỉnh. Cây rau màu Vùng Biển vừa qua không chỉ giúp nông dân làm giàu mà
góp phần mở mang ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ.
Chẳng hạn ở Vĩnh Châu có nghề chế biến củ cải muối, sơ chế nấm rơm, ớt muối
xuất khẩu. Cây hành tím là “đặc sản” của Vùng Biển, tập trung ở Vĩnh Châu.
Hành tím cho năng suất bình quân 18-20 tấn/ha. Vào đầu vụ giá hành tím tới 5
triệu đồng/tấn, cuối vụ giá 12 triệu đồng/tấn; Củ cải trắng đạt năng suất 50-60
tấn/ha, giá mua tại rẫy 1.200-1.500 đồng/kg... các loại rau, màu khác đều có giá trị
cao, đây là nguồn thu khá lớn của nông dân Vùng Biển.
Dịch vụ nông nghiệp tăng “phi mã”, hơn 30,0%/năm. Nhờ phát triển
nhanh dịch vụ nông nghiệp, nông dân Vùng Biển có khả năng tiếp thu khoa học-
công nghệ, đặc biết về giống mới, sử dụng vật tư, phân bón hợp lý, phát huy
được năng lực sản xuất trong Vùng.
17
2.3. Ngành công nghiệp tuy còn nhỏ bé nhưng cũng đã tạo ra một số sản
phẩm chủ lực: sản xuất thực phẩm, chế biến gỗ, các sản phẩm từ kim
loại... Đã hình thành một số KCN, đang trong đà phát triển.
Công nghiệp Vùng Biển còn nhỏ bé, tuy nhiên trong thời gian qua đã có
những bước phát triển khá, giá trị gia tăng công nghiệp 3 năm gần đây (2006-2008)
đạt tăng trưởng 14,8%/năm (thời kỳ 2001-2005 đạt 12,4%/năm). Các ngành công
nghiệp trong vùng bao gồm: Công nghiệp thực phẩm và đồ uống, dệt, sản xuất
trang phục, sản phẩm gỗ và lâm sản, sản xuất phi kim loại, các sản phẩm cơ khí và
kim loại, sản xuất các phương tiện vận tải, sản suất giường tủ bàn ghế, sản xuất các
sản phẩm tái chế và sản xuất phân phối điện. Trong số các ngành trên, ngành cơ khí
và kim loại tăng khá nhanh, nguyên nhân tăng trưởng cao là do quy mô ban đầu
còn bé, khi đầu tư vào ngành sẽ tăng nhanh, mặt khác ngành cơ khí phù hợp với
yêu cầu phát triển biển và nhu cầu sản phẩm của Vùng (cơ khí sửa chữa phương
tiện vân tải, nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp...). Công nghiệp chế biến thực
phẩm tăng khá, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các ngành công nghiệp (chỉ tính
huyện Long Phú khoảng 94,0% sản xuất công nghiệp cả huyện), kế đến là sản
phẩm gỗ... các ngành khác quy mô nhỏ và tăng chậm hơn.
Hiện nay, tỉnh Sóc Trăng đã có quy hoạch 2 khu công nghiệp (KCN) là
Trần Đề (120ha) và Đại Ngãi (80 ha) tại huyện Long Phú, đây là hai KCN gắn
với 2 cảng nằm bên Sông Hậu, rất thuận lợi cho việc vận chuyển nguyên liệu và
thành phẩm đi các nơi trong nước và xuất khẩu.
2.4. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Khu vực dịch vụ Vùng Biển là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh và có quy
mô thứ hai sau nông, lâm, thủy sản. Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001-2005
là 12,8%/năm và trong 3 năm từ 2006-2008, tốc độ tăng bình quân 25,4%/năm, giá trị
gia tăng năm 2008 đạt 918,3 tỷ đồng, thu hút 32,7 nghìn lao động. Thời gian qua các
ngành dịch vụ vận tải, dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển khá.
3. Kết cấu hạ tầng phát triển triển nhanh, bước đầu tạo ra điều kiện thuận
lợi cho quá trình phát triển Vùng Biển
3.1. Hệ thống giao thông
Hệ thống giao thông Vùng Biển tỉnh Sóc Trăng hiện tại gồm 2 loại hình
vận tải là đường bộ và đường thủy. Giao thông đường bộ của Vùng Biển
kết nối với hệ thống đường bộ quốc gia, hệ thống liên tỉnh và hệ thống nội bộ
Vùng. Giao thông thủy (cảng biển, đường biển và đường sông) của Vùng
Biển là cửa ra quan trọng của cả tỉnh Sóc Trăng và cả vùng ĐBSCL.
18
3.1.1. Mạng lưới đường bộ:
Tỷ lệ đất dành cho giao thông đường bộ của Vùng Biển so với tổng diện
tích tự nhiên Vùng Biển đạt 1,9%. Tuy vậy, giao thông vận tải trong Vùng Biển
khá thuận lợi cho phát triển; Các tuyến đường bộ chính đi qua Vùng Biển Sóc
Trăng như sau:
+ Đường quốc lộ: Hiện nay có 2 tuyến Quốc lộ đi qua Vùng Biển Sóc
Trăng:
- Quốc lộ 60: Nối Quốc lộ 1A tại ngã ba Trung Lương (tỉnh Tiền Giang),
qua các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng và nối vào Quốc lộ 61 tại Long Mỹ
(tỉnh hậu Giang). Đoạn tuyến qua tỉnh Sóc Trăng dài 55,0 km, riêng đoạn tuyến
đi qua Cù Lao Dung đến giáp Quốc lộ 1A dài 20,6km mới được nâng cấp hoàn
chỉnh, đạt tiêu chuẩn cấp IV đồng bằng nền rộng 9 m, mặt láng nhựa 7 m.
- Quốc lộ Nam sông Hậu: Tuyến nối tiếp Quốc lộ 91 tại Tp. Cần Thơ,
chạy dọc theo phía Nam sông Hậu qua các tỉnh Hậu Giang - Sóc Trăng - Bạc
Liêu, nối vào Quốc lộ 1A tại thị xã Bạc Liêu. Đoạn tuyến đi qua Vùng Biển dài
khoảng 100 km (Long Phú 50 km, Vĩnh Châu 50 km); Hiện nay đang thi công
để đạt tiêu chuẩn cấp III đồng bằng (nền rộng 12 m, mặt đường nhựa 7 m; riêng
®o¹n đi qua thị trấn rộng 12 m); Đoạn từ thị trấn Vĩnh Châu đi Bạc Liêu trùng
với Liên tỉnh lộ 38 cũ.
+ Đường tỉnh: Vùng Biển Sóc Trăng có hệ thống đường tỉnh đi qua, tạo
ra hệ thống giao thông nối trung tâm của tỉnh với biển, gồm:
- Đường tỉnh 933 (tỉnh lộ 6 cũ): Nối Tp. Sóc Trăng với huyện Long Phú
và Cù Lao Dung dài 23,9 km, đạt tiêu chuẩn cấp III đồng bằng (nền 12 m, mặt
láng nhựa 9 m); Đoạn đi qua Vùng Biển (xã Tân Thạnh, Tân Hưng, thị trấn
Long Phú) dài 14 km.
- Đường tỉnh 933B: Tuyến chạy dọc Cù Lao Dung, từ Quốc lộ 60 (xã An
Thạnh I) qua thị trấn Cù Lao Dung, nối vào tuyến đê bao ven biển tại cửa Rạch
Đùi (xã An Thạnh Nam), hiện trạng toàn tuyến dài 30,7 km, được láng nhựa đạt
chuẩn đường cấp IV đồng bằng.
- Đường tỉnh 934 (tỉnh lộ 08 cũ): Nối thành phố Sóc Trăng với huyện
Long Phú qua thị trấn Mỹ Xuyên và giáp với Đường tỉnh 933B của huyện Cù
Lao Dung, với chiều dài 41,615 km, đạt tiêu chuẩn cấp III đồng bằng (nền 12m,
mặt láng nhựa 7 m); riêng đoạn đi qua huyện Cù Loa Dung mặt láng nhựa rộng
3,5 m, nền 6 m.
19
- Đường tỉnh 935 (tỉnh lộ 11 cũ): Nối đường tỉnh 934 tại xã Tài Văn (huyện
Mỹ Xuyên), vượt sông Mỹ Thanh vào Vùng Biển, qua xã Khánh Hòa đến thị trấn
Vĩnh Châu. Toàn tuyến dài 26,6 km, đạt tiêu chuẩn cấp IV (nền 9 m, mặt láng
nhựa 6 m); Đoạn qua Vùng Biển (huyện Vĩnh Châu) dài khoảng 15 km.
- Đường tỉnh 936B (Hương lộ 14 cũ và tuyến đê Mỹ Thanh): Tuyến chạy
dọc theo sông Mỹ Thanh từ giáp với tỉnh Bạc Liêu tại xã Hòa Tú (huyện Mỹ
Xuyên), nối vào tuyến Nam sông Hậu tại xã Lịch Hội Thượng (huyện Long
Phú). Tuyến dài 39,3 km, đã được láng nhựa rộng 3,5m đạt cấp V đồng bằng ở 2
đoạn, từ xã Hòa Tú 2 đến giáp xã Ngọc Tố và đoạn từ Mỏ Ó đến Tổng Cảng dài
22 km; phần còn lại là đường đất.
- Đường tỉnh 940: nối liền 3 tuyến Quốc lộ (Quản lộ Phụng Hiệp, 1A và
Nam Sông Hậu). Hiện nay đang đầu tư nâng cấp láng nhựa. Tuyến dài 48,7km;
trong đó đoạn qua ven biển Vĩnh Châu dài 6,5km.
3.1.2. Đường biển và hệ thống cảng
+ Đường sông:
- Sông Hậu là con sông chính ở ĐBSCL. Đoạn chảy qua địa phận Sóc
Trăng có 2 nhánh: Nhánh Định An và nhánh Trần Đề) là tuyến giao thông thủy
lưu chuyển hàng hóa cho tỉnh Sóc Trăng và một số tỉnh phía Nam sông Hậu.
- Sông Mỹ Thanh chạy qua huyện Vĩnh Châu, Long Phú là tuyến vận tải
nội tỉnh quan trọng qua cửa biển Vĩnh Thanh.
- Hệ thống kênh rạch:
* Kênh Rạch Trà Niên, điểm đầu từ sông Mỹ Thanh đến kênh Vĩnh Châu
dài 20 km, chiều rộng lòng chảy 50m, tình trạng khai thác tốt.
* Kênh Cổ Cò-Vĩnh Châu, điểm đầu từ sông Cổ Cò đến thị trấn Vĩnh
Châu dài 12 km, chiều rộng lòng chảy 40m, tình trạng khai thác bình thường.
* Kênh Vĩnh Châu-Trà Niên, điểm đầu từ thị trấn Vĩnh Châu giao nhau
với kênh Trà Niên, chiều dài 7 km, chiều rộng lòng chảy 3,5 m, tình trạng khai
thác bình thường.
+ Cảng biển: Trên địa bàn Vùng Biển có 1 cảng nhỏ:
- Cảng Trần Đề: nằm ở khu vực cửa biển Trần Đề, độ sâu 1-2,5 m, phải có
thể cho tàu 2.000 DWT cập bến; nếu nạo vét có thể cho tàu 5.000 DWT cập cảng.
20
- Cảng Đại Ngãi, cách Trần Đề 35 km bên sông Hậu. Cảng Đại Ngãi gắn
với tuyến Quốc lộ 60 chạy qua Vùng Biển, rất thuận lợi vận chuyển hàng hóa
xuất, nhập. Hiện đang triển khai lập dự án đầu tư.
3.2. Cấp điện
Nguồn cấp điện cho các huyện trong Vùng Biển lấy từ mạng lưới quốc
gia qua các trạm 110/22KV Sóc Trăng, Đại Ngãi, Trần Đề và Bạc Liêu qua các
tuyến đường dây 22KV:
- Sóc Trăng – Vĩnh Châu;
- Bạc Liêu –Vĩnh Châu;
- Sóc Trăng-Long Phú;
- Sóc Trăng-Đại Ngãi;
- Đại Ngãi –Cù Lao Dung;
-Trần Đề-Vĩnh Châu
Nguồn cấp điện cho Sóc Trăng nói chung và các huyện vùng biển được
cấp từ nhà máy Nhiệt điện Trà Nóc (Cần Thơ), Ô môn, Cà Mau…
Hệ thống các trạm nguồn trong vùng biển chủ yếu là 110/22KV, phân bố
ở Đại Ngãi, Trần Đề (đã vận hành) và Vĩnh Châu (đang xây dựng).
3.3. Cấp nước
Toàn Vùng Biển có 3 nhà máy nước, xử lý nước ngầm, bố trí ở các thị
trấn: Long Phú, Vĩnh Châu, Cù Lao Dung, công suất mỗi nhà máy nước thị trấn
công suất từ 1.000-2.400 m3/ngày. Các trạm cấp nước ở Đại Ngãi và Lịch Hội
Thượng có quy mô công suất 400-1.000 m3/ngày, cung cấp nước sạch cho
khoảng 62% dân số đô thị. Ngoài ra dùng hệ thống nước giếng khoan.
Nước sạch sử dụng ở nông thôn chủ yếu là nước giếng khoan, bơm tay
phục vụ sinh hoạt cho khoảng 70% dân số nông thôn Vùng Biển.
4. Tổ chức không gian Vùng Biển đã phát triển theo hướng tích cực, các
huyện trong Vùng Biển phát triển nhanh, hệ thống đô thị đã hình thành
góp phần thúc đây phát triển Vùng Biển, nông thôn có bước chuyển biến
khá, đời sống được nâng lên.
21
4.1. Các huyện biển là nhân tố phát triển năng động của Vùng Biển.
4.1.1. Huyện Long Phú:
Có diện tích tự nhiên 45,4 nghìn ha (chiếm 38,2% cả vùng), đất nông
nghiệp 37,4 nghìn ha và dân số năm 2008 là 18,6 vạn người (chiếm 45,9% cả
Vùng), trong đó, dân tộc Khmer có 6,5 vạn người (chiếm 33,4% dân số), người
Hoa có 5,9 nghìn người (chiếm 3,1% dân số), còn lại là người Kinh. Long Phú
hiện có 14 xã, 1 thị trấn và 85 ấp. Với vị trí cửa ngõ, có hai cửa sông lớn tiếp giáp
biển (Trần Đề và Mỹ Thanh), rất thuận lợi giao thông thủy.
Thời gian qua, Long Phú là một trong những “động lực” phát triển năng
động, là nhân tố thúc đẩy phát triển cả Vùng Biển theo hướng phát triển nhanh
công nghiệp chế biến và dịch vụ hậu cần ngành thủy sản. Giai đoạn 2001-2005,
tăng trưởng kinh tế huyện đạt bình quân 10,4%/năm, thu nhập bình quân đầu
người 455 USD. Giai đoạn 2006-2008, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo
hướng CNH,HĐH, tăng dần khu vực II và III giảm dần khu vực I (khu vực I:
62,5%, khu vực II: 13,76% và khu vực III: 23,7%). Thu nhập bình quân đầu
người đạt 668 USD.
4.1.2. Huyện Vĩnh Châu:
Có diện tích tự nhiên 47,3 nghìn ha (chiếm 39,8% cả vùng), trong đó đất
sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản hơn 84% diện tích tự nhiên. Dân số
năm 2008 có 15,5 vạn người (chiếm 38,2% cả vùng), trong đó, người Kinh
29,7%, người Khmer 52,4%, người Hoa 17,7%. Vĩnh Châu có 43km bờ biển
(trong 72 km bờ biển của cả Vùng Biển), có sông Mỹ Thanh đổ ra biển và là
Vùng Biển bồi, tạo cho huyện có tiềm năng và lợi thế lớn và là một “động lực”
quan trọng phát triển Vùng Biển Sóc Trăng.
Năm 2007, tăng trưởng kinh tế của huyện đạt 16,0%, giá trị sản xuất bình
quân 1 ha đất canh tác đạt 57 triệu đồng, khá cao so với các huyện của ĐBSCL.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH,HĐH, giảm tỷ trọng khu vực I và
tăng khu vực II và III. Tính đến 2008, cơ cấu kinh tế đạt, lần lượt như sau:
59,7%-6,3%-34%. Tăng trưởng kinh tế thời gian qua cho thấy, thế mạnh của
huyện Vĩnh Châu là kinh tế biển.
4.1.3. Huyện Cù Lao Dung:
Là một huyện mới tách ra từ huyện Long Phú, có diện tích tự nhiên
26,1 nghìn ha (chiếm 22% cả Vùng), trong đó, đất nông nghiệp khoảng 15
nghìn ha (chiếm 57,5% diện tích tự nhiên). Dân số tính đến 2008 có 6,4 vạn
22
người (chiếm 15,8% cả Vùng). Với vị trí như một hòn đảo, hai mặt giáp sông
Hậu và giáp biển, có 2 cửa sông lớn là cửa Định An và Trần Đề, có hệ thống
đê bao quanh các vườn cây ăn trái, tạo một cảnh quan khá đặc biệt, đây là
một thế mạnh để phát triển du lịch sinh thái chất lượng cao.
Thời gian qua nền kinh tế huyện Cù Lao Dung phát triển khá. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế năm 2007 đạt 12,13%/năm và thu nhập bình quân đầu
người khoảng 502 USD. Nông, lâm, thủy sản phát triển mạnh, tổng diện tích
nuôi trồng thủy sản đạt 1.800 ha, trong đó, chủ yếu là nuôi tôm sú; Đã có
vùng chuyên môn hóa mía với diện tích 7.585 ha, năng suất cao, đạt khoảng
967,7 tạ/ha. Các ngành công nghiệp, dịch vụ vận tải, điện, bưu chính viễn
thông, dịch vụ trong nông nghiệp (cung cấp giống, thức ăn, kỹ thuật cải tạo
giống) phát triển nhanh.
Trong tương lai, Cù Lao Dung sẽ là huyện đóng góp lớn trong phát
triển nông nghiệp, đặc biệt cây công nghiệp và ăn quả; nuôi trồng thủy hải
sản đặc sản, trồng và bảo vệ rừng ngập mặn, phát triển du lịch sinh thái, nghỉ
dưỡng… Đây chính là nhân tố quan trọng của huyện Cù Lao Dung tạo tăng
trưởng nhanh cho cả Vùng Biển.
4.2. Hệ thống đô thị bước đầu hình thành
Đến năm 2008 toàn Vùng Biển có 3 đô thị (trong 9 đô thị của tỉnh) là:
Long Phú, Vĩnh Châu và Cù Lao Dung, tổng dân số đô thị 38 ngàn người, diện
tích đất đô thị khoảng 311,1 ha. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 9,6%, tốc độ tăng dân số đô
thị thời kỳ 2001-2005 là 1,9%/năm (cả tỉnh 1,8%). Hiện nay 100,0% các đô thị
Vùng Biển có nước máy. Hệ thống cấp điện và viễn thông đô thị khá tốt, cung
cấp điện ổn định và dịch vụ viễn thông đảm bảo cho nhu cầu sản xuất và đời
sống nhân dân.
4.3. Nông thôn Vùng Biển có những khởi sắc mới
Tính đến năm 2008, dân số nông thôn Vùng Biển có 36.600 ngàn người,
chiếm 93,4% dân số cả vùng. Khu vực nông thôn vùng bao gồm 30 xã (cả tỉnh
95 xã) với 229 ấp (cả tỉnh 704 ấp), 100,0% xã có điện lưới quốc gia, 100,0% xã
có trường tiểu học và trạm y tế. Tỷ lệ số hộ nông thôn dùng nước sạch khoảng
70,0%, được dùng điện khoảng 90,0%.
Đến nay, mức sống dân cư nông thôn Vùng Biển được cải thiện là do
ngoài phát triển nông nghiệp, thủy sản, nông thôn ở các huyện trong Vùng Biển
có nhiều ngành nghề thủ công có giá trị, góp phần nâng cao đời sống nông dân.
23
Biểu 04: Tình hình1 các làng nghề nông thôn Vùng Biển
Danh mục các ngành nghề Vĩnh Châu Long Phú Cù Lao Dung
1. Đan lát (giò bẹ, tre, lục bình, thủ công, mỹ
nghệ, chiếu)
-
2
2. Trồng và sơ chế nấm rơm - 3
3. Mộc dân dụng - - 3
4. Chế biến thủy sản thủ công (mắm khô) 4 4 -
5. Sửa chữa cơ khí 3 - 2
6. Thảm sơ dừa (than hoạt tính và các sản
phẩm phụ từ cây dừa)
-
-
4
7. Dịch vụ vận tải (đường thủy, đường bộ) - - 2
8. Sản xuất muối - chế biến 2 - -
9. Củ cải muối - hành tím 2 - -
Mức thu nhập của nông dân Vùng Biển tăng rõ rệt, theo điều tra mức sống
dân cư năm 2006 của Tổng cục Thống kê, mức thu nhập từ nông, lâm thủy sản
và ngành nghề thủ công của dân cư nông thôn tỉnh Sóc Trăng (trong đó có các
huyện biển) năm 2002 đạt 209,6 nghìn đồng/tháng, đến 2004 đạt 249,9 nghìn
đồng/tháng và năm 2006 đạt 325,4 nghìn đồng/tháng, mức tăng thu nhập bình
quân trên 12,1%/năm. Theo điều tra năm 2005, tỷ lệ hộ thu nhập trung bình khá
trở lên tăng từ khoảng 66-67% năm 2005 lên 70-74% năm 2008. Điểm nổi bật là
thu nhập của nông dân Vùng Biển có khả năng nuôi sống vượt số dân nông
thôn hiện có của Vùng (từ 2005-2008) khoảng 1,18 lần, điều này bước đầu
cho thấy tính ổn định và bền vững trong đời sống nông thôn Vùng Biển.
5. Các lĩnh vực xã hội như giáo dục-đào tạo, y tế, xóa đói giảm nghèo, chính
sách với người có công được thực hiện đạt kết quả tích cực, từng bước
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cuả nhân dân.
5.1. Về giáo dục-đào tạo
Giáo dục đào tạo ở Vùng Biển đã có bước phát triển toàn diện, trong đó
cơ sở vật chất được nâng lên đáng kể, đã xoá được lớp học tre lá và học ca 3,
chất lượng đội ngũ giáo viên được nâng lên.
+ Về giáo dục mầm non: Đến nay, 100% các xã, phường trong Vùng Biển
có trường mầm non, mẫu giáo với 18 trường, khoảng 315 lớp. Số lượng trẻ em
trong tuổi đi nhà trẻ và lớp mẫu giáo tăng nhanh. Tính đến năm 2007 đạt khoảng
48% tổng số trẻ em trong độ tuổi.
1 Ghi chú: ý nghĩa các con số như sau: 1=4 điểm; 2=3 điểm; 3=2 điểm; 4=1 điểm.
24
+ Về giáo dục phổ thông: Theo thống kê năm 2006, hệ thống giáo dục
phổ thông có 101 trường với 1.620 lớp tiểu học; 34 trường trung học cơ sở
(THCS), trong đó, có 3 trường PTCS với 628 lớp; 4 trường trung học phổ thông
(THPT) và 3 trường phổ thông cấp 2&3 (PTC2,3) với 189 lớp. Đội ngũ giáo
viên được tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng.
+ Về giáo dục thường xuyên: Giáo dục thường xuyên trong Vùng Biển
cũng đã được chú ý phát triển với nhiều hình thức như tổ chức các trường bổ túc
văn hóa, trung tâm giáo dục thường xuyên ở các huyện, thị và các trung tâm học
tập cộng đồng ở các xã. Theo số liệu năm 2006 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh
Sóc Trăng, tổng số người được phổ cập giáo dục THCS của Vùng Biển là 3.013
người (chiếm 37% tổng số người được phổ cập giáo dục cả tỉnh), với 160 lớp.
Bên cạnh việc xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và THCS, ngành giáo
dục còn triển khai bổ túc trung học phổ thông… cho các học viên trong Vùng.
5.2. Y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
Hệ thống y tế trong Vùng Biển đã có từ tuyến huyện xuống các xã
phường; đồng thời thường xuyên gắn kết với các trung tâm y tế của tỉnh. Đến
nay, về cơ bản đáp ứng được việc khám, chữa bệnh cũng như thực hiện các
chương trình y tế cộng đồng và chăm sóc sức khoẻ nhân dân các huyện biển.
+ Hệ thống cơ sở khám chữa bệnh:
Hiện nay cả Vùng Biển có một bệnh viện đa khoa khu vực đặt ở Vĩnh
Châu và tất cả các huyện đều có bệnh viện huyện. Bệnh viện đa khoa khu vực và
các bệnh viện huyện gồm các khoa khám bệnh, điều trị, đội y tế dự phòng, đội
bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình, phòng bệnh xã hội và
phòng khám đa khoa.
Các phòng khám đa khoa được bố trí ở nơi có dân cư tập trung, tại huyện
Long Phú bố trí 2 phòng khám đa khoa, một phòng ở Lịch Hội Thượng 30
giường và một phòng ở Đại Ngãi 34 giường. Huyện Vĩnh Châu có một phòng
khám đa khoa ở Vĩnh Phước 25 giường.
Các cơ sở khám chữa bệnh đã được nâng cấp dần về cơ sở vật chất thiết
bị, các phòng khám đa khoa khu vực đã được trang bị máy li tâm hematocrite,
kính hiển vi, máy tạo ô xy; Các trạm y tế xã có đầy đủ dụng cụ y tế cơ bản. Đến
nay toàn Vùng Biển có 21/33 xã đạt 10 chuẩn quốc gia về y tế (Long Phú 10/15
xã; Vĩnh Châu 6/10 xã và Cù Lao Dung 5/8 xã ). Tổng số giường bệnh toàn
vùng tính đến năm 2008 là 452 giường, trong đó bệnh viện huyện 230 giường,
phòng khám đa khoa khu vực 65 giường và trạm y tế xã 157 giường.
25
+ Y tế dự phòng:
Các chương trình y tế dự phòng đã được tỉnh triển khai xuống đến các xã
Vùng Biển nên các bệnh dịch đã giảm, đặc biệt tỷ lệ người dân mắc các bệnh
như sốt rét, bệnh thương hàn giảm. Đến nay về cơ bản loại trừ bệnh phong, bệnh
bại liệt và các loại uốn ván của trẻ sơ sinh. Năm 2006, khoảng 95% trẻ em trong
độ tuổi được tiêm đủ 6 loại vác-xin.
5.3. Các lĩnh vực văn hóa-xã hội khác
Các lĩnh vực xã hội khác như chương trình xoá đói giảm nghèo, thực hiện
chính sách người có công và các đối tượng chính sách xã hội được các cấp chính
quyền quan tâm. Chính sách xoá đói giảm nghèo được lồng ghép vào các
chương trình quốc gia và các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn
Vùng Biển. Các huyện trong Vùng đã thực hiện tốt phát động của tỉnh về phong
trào đền ơn đáp nghĩa người có công.
- Tỷ lệ hộ nghèo vùng giảm nhanh. Theo điều tra năm 2005 có khoảng từ
27-34% (Long Phú: 30,2%; Vĩnh Châu: 34,5%; Cù Lao Dung: 27,31%), đến
2008 đã giảm còn khoảng 14-22,0% (trong đó, Cù Lao Dung còn 14,0%, Vĩnh
Châu còn 22,6%, Long Phú còn 17,0%). Đây là một thành tựu lớn trong
chương trình nâng cao đời sống, đặc biệt đời sống các hộ nghèo trong Vùng.
- Về cơ bản đã giải quyết xong nhà cho các gia đình diện chính sách.
Trong 2 năm 2007-2008 đã xây 258 nhà tình nghĩa và 479 nhà tình thương cho
hộ nghèo.
II. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ YẾU KÉM
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được ở trên, sự phát triển kinh tế-xã hội
của Vùng Biển Sóc Trăng thời gian qua vẫn còn không ít hạn chế và yếu kém.
Điển hình là:
1. Tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng chưa vững chắc; cơ cấu kinh tế còn
lạc hậu và chuyển dịch chậm, quy mô nền kinh tế còn nhỏ.
Nền kinh tế của Vùng Biển thời gian qua tăng trưởng nhanh, song chưa
phải là do đầu tư vốn lớn và phát triển khoa học-công nghệ tạo nên, nguyên
nhân chính là xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp nên khi đầu tư chưa đủ
lớn cũng đã tạo ra tăng trưởng nhanh. Chính vì vậy, tính vững chắc và hiệu quả
nền kinh tế chưa cao. Cơ cấu còn lạc hậu, đến nay khu vực I (nông lâm ngư
nghiệp) vẫn còn chiếm tới 63,0%, công nghiệp mới chỉ chiếm 12,0%, đặc biệt là
26
dịch vụ biển có điều kiện phát triển nhanh, song chưa phát triển, mới chỉ chiếm
khoảng 25,0%. Quy mô vốn đầu tư của cả vùng quá nhỏ, tổng đầu tư kinh tế-xã
hội 3 huyện của Vùng Biển chỉ khoảng 500- 600 tỷ đồng, chỉ tương đương đầu
tư của một doanh nghiệp tư nhân ở Tp. Hồ Chí Minh hoặc Hà Nội.
2. Quy mô sản xuất của các ngành chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
của Vùng
+ Ngành thủy sản phát triển nhanh nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Đến nay
nuôi trồng vẫn chiếm tỷ trọng lớn (chiếm 59,0% sản lượng thủy sản và 58,0%
giá trị sản xuất thủy sản). Trong nuôi trồng, chủ yếu nuôi quảng canh và bán
công nghiệp, nuôi công nghiệp tập trung chưa phát triển. Trong nuôi bán công
nghiệp lại chủ yếu là nuôi tôm sú, các loại thủy sản đặc sản có giá trị cao chưa
phát triển. Khai thác thủy sản chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của Vùng,
cơ sở vật chất dịch vụ hậu cần còn kém. Tuy khai thác hải sản của các huyện
Vùng Biển Sóc Trăng có từ lâu đời, nhưng chủ yếu ở tuyến ven bờ với những
ngư trường quen thuộc ở cửa sông Cửu Long, Côn Đảo và Vịnh Thái Lan, chưa
vươn xa ở các ngư trường mới. Những năm qua, khai thác xa bờ đã được chú ý
nhưng tốc độ phát triển chậm và hiệu quả khai thác chưa cao.
+ Nông nghiệp chưa cân đối giữa chăn nuôi và trồng trọt, đến năm 2008,
tỷ trong chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp mới chỉ chiếm 12,1%. Dịch
vụ nông nghiệp chưa phát triển, mới chỉ 5,3%.
+ Ngành công nghiệp tuy phát triển nhanh, song quy mô nhỏ bé, kỹ thuật-
công nghệ thấp. Chưa huy động được công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
bên ngoài tỉnh vào kinh doanh tại Vùng Biển. Cơ khí đóng, sửa chữa tàu thuyền
và công nghệ chế tạo ngư cụ còn thủ công là chủ yếu.
+Khu cảng cá Trần Đề được xây dựng từ năm 2003 và đã đi vào hoạt
động 2 năm nhưng chỉ có khoảng 10 cơ sở đầu tư đi vào hoạt động các cơ sở
dịch vụ hậu cần nghề cá và thu mua thủy hải sản), các loại hình hoạt động khác
như đóng và sửa chữa tàu, sản xuất nước đá.v.v.mặc dù đã thuê đất song nhiều
doanh nghiệp vẫn chưa đầu tư. Nguyên nhân chính các nhà đầu tư chưa mạnh
dạn đầu tư là do kết cấu hạ tầng (hệ thống thoát nước và xử lý nước thải) chưa
đảm bảo, các chính sách ưu đại đầu tư chưa thật hợp lý.
+ Khối ngành dịch vụ, du lịch chậm phát triển, chưa tương xứng với lợi
thế của Vùng. Đặc biệt là dịch vụ ngân hàng và dịch vụ du lịch phát triển chậm,
chưa phát huy hết khả năng của vùng.
27
- Du lịch là ngành có khả năng phát triển ở Vùng Biển song chậm phát
triển, các điểm vui chơi giải trí và bãi tắm vẫn chỉ ở giai đoạn mới hình thành.
Bảo vệ và khai thác cảnh quan thiên nhiên, sinh thái cho du lịch chưa được chú
trọng, đầu tư đúng mức;
- Năng lực của đa số các doanh nghiệp kinh doanh thương mại dịch vụ
trên địa bàn các huyện trong Vùng Biển còn yếu, chưa đủ điều kiện cạnh tranh
vươn ra thị trường lớn hơn ở ngoài tỉnh và bên ngoài (các tỉnh khác ở ĐBSCL và
nước ngoài).
- Dịch vụ hàng hải là ngành kinh tế biển rất quan trọng nhưng còn chậm
phát triển. Hiện nay dịch vụ vật tư thiết bị tập trung phần lớn ở Long Phú, tuy đã
đáp ứng khá về vật tư thiết bị phục vụ cho khai thác, song các mặt hàng phục vụ
như lưới, máy khai thác, ngư cụ các loại vẫn còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng
nhu cầu thị trường.
3. Kết cấu hạ tầng giao thông còn nhiều bất cập, chưa tạo được tiền đề để
thu hút đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển.
Tuy đã có bước phát triển khá về mạng lưới giao thông, song tỷ lệ đất
giao thông bộ trong tổng diện tích tư nhiên mới đạt 1,9% thấp hơn cả tỉnh (cả
tỉnh 2,0%) và rất thấp so với các vùng giao thông phát triển (ví dụ Bình Dương
năm 2005 đạt 3,1%, Bà Rịa-Vũng Tàu 3,2% …). Mật độ giao thông của Vùng
Biển thấp hơn mật độ giao thông toàn tỉnh Sóc Trăng, mới đạt khoảng
0,80km/1km2 (toàn tỉnh 0,86km2/km). Hệ thống các bến cảng năng lực chưa cao,
chưa đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh. Phát triển chưa đồng bộ giữa đường và
cầu: tuyến đường từ thành phố Sóc Trăng đến huyện Cù Lao Dung vẫn chưa có
cầu nên làm giảm tốc độ lưu thông. Các cảng (trừ cảng Trần Đề xây dựng với
thiết kế quy mô tầm cỡ khu vực ĐBSCL) còn số cảng còn lại và bến đậu có quy
mô nhỏ.
4. Mức độ đô thị hóa thấp và tốc độ tăng dân số đô thị trong vùng chậm, chưa
hình thành các đô thị lớn đảm nhiệm chức năng hạt nhân tăng trưởng
Tỷ lệ đô thị hóa năm 2008 đạt 9,6%, rất thấp so với cả tỉnh (năm 2005 cả
tỉnh đạt 18,4%). Tốc độ tăng dân số đô thị bình quân của vùng đạt 1,9%, chậm
nhiều so với bình quân cùng thời kỳ của cả nước (đạt 4,2%) và của vùng
ĐBSCL (đạt 4,4%). Các đô thị có quy mô nhỏ, chỉ 14-15 nghìn người. Với quy
mô nhỏ và mức tăng chậm nên đến nay các đô thị trong vùng chưa đảm nhận
được hạt nhân tăng trưởng của Vùng.
28
5. Chất lượng dân số và nguồn nhân lực rất thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển nhanh theo hướng CNH, HĐH
Tỷ lệ dân số nông nghiệp và lao động nông nghiệp còn khá lớn. Tính
đến năm 2008, dân số nông nghiệp chiếm 90,4% (cả nước năm 2007 đạt
72,6%) và lao động nông nghiệp vẫn giữa 80,1% (cả tỉnh Sóc Trăng năm
2005: 63,1%, cả nước năm 2007 là 53,9%). Như vậy, Vùng Biển Sóc Trăng
vẫn tồn tại một cơ cấu dân số và lao động kém phát triển so với trình độ
chung cả nước và cả tỉnh.
Nhìn chung, trình độ dân trí của vùng còn thấp, phần lớn là lao động thủ
công, tỷ lệ qua đào tạo rất thấp, chỉ đạt mức 10-11%. Đây là một trở ngại lớn
trong quá trình phát triển kinh tế Vùng Biển thời gian tới.
6. Sự nghiệp văn hóa - xã hội của vùng đã đạt được tiến bộ vượt bậc, song
vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết.
- Về giáo dục-đào tạo: Cơ sở giáo dục mầm non còn nghèo nàn, hầu hết
các trường quy mô nhỏ, đến nay huyện Cù Lao Dung vẫn chưa có hệ thống nhà
trẻ. Cơ sở vật chất các trường phổ thông còn thiếu và lạc hậu, hiệu quả đào tạo
thấp, tỷ lệ học sinh yếu kém, lưu ban và bỏ học còn cao. Đội ngũ giáo viên vẫn
còn tình trạng: thiếu thầy cô có kiến thức tốt, giảng dạy giỏi trong khi đó thừa
đội ngũ giáo viên chất lượng thấp.
- Về y tế: Trang thiết bị y tế ở các cơ sở y tế trong Vùng không đồng bộ,
đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu, thực hiện xã hội hóa công tác y tế chưa cao. Số xã
trong vùng đạt 10 chuẩn quốc gia về y tế còn thấp; Chất lượng sức khỏe nhân
dân trong vùng hạn chế, nguy cơ tái phát một số bệnh dịch vẫn còn. Năm 2008,
toàn Vùng Biển mới chỉ đạt 1,7 bác sĩ /1 vạn dân (cả tỉnh năm 2005 đạt 3 bác
sĩ/1 vạn dân).
III. THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG NUÔI SỐNG DÂN SỐ VÀ SỨC CHỨA
DÂN SỐ VÙNG BIỂN SÓC TRĂNG
Nhìn lại toàn bộ những thành tựu và yếu kém trong quá trình phát triển
kinh tế Vùng Biển thời gian qua, có một vấn đề đặt ra là, nền kinh tế Vùng
Biển thực sự nuôi được bao nhiều người và sức chứa của vùng có đảm bảo
cho dân số tiếp tục phát triển hay không? Đây cũng chính là nội dung quan
trọng của quy hoạch và qua đó có những chính sách phù hợp cho các nhà
quản lý.
29
1. Mức sống dân cư và khả năng nuôi dân số trong Vùng Biển
Sức chứa dân số của một vùng, trong một thời điểm có thể dựa vào Thu
nhập của dân cư và Mức chi bình quân của một người dân.
Thu nhập của dân cư
Sức chứa dân số = ----------------------------------------
Mức chi BQ của một người dân
1.1. Về thu nhập dân cư:
Điều tra mức sống dân cư năm 2006 về mức thu nhập bình quân tỉnh Sóc
Trăng (bao gồm Vùng Biển Sóc Trăng) từ 2002 đến 2006 có mức thu nhập năm
2002: 320,2 nghìn đồng/tháng (3,8 triệu đồng/năm) và đến 2006 đạt 495 nghìn
đồng/người/ tháng (5,9 triệu đồng/người/năm), mức tăng trên 11%/năm. Kết hợp
với bảng tính hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) của Tổng Cục Thống kê, sau khi
khấu trừ thuế sản xuất, khấu hao tài sản cố định và giá trị thặng dư, thì mức thu
nhập của người lao động Vùng Biển Sóc Trăng từ 2000 đến 2008 dao động từ
66-68% tổng giá trị gia tăng trong Vùng Biển (GDP).
1.2. Về mức chi tiêu:
Số liệu điều tra mức chi tiêu bình quân của một người dân trong vùng ĐBCL,
trong đó có Sóc Trăng và Vùng Biển Sóc Trăng năm 2002 là 258 nghìn
đồng/người/tháng (3 triệu đồng/người/năm), năm 2006 là 434,5 nghìn
đồng/người/tháng (5,2 triệu đồng/người/năm) với mức tăng bình quân gần14%/năm.
Từ số liệu điều tra và đối chiếu mức sống thực tế Vùng Biển, mức chi của một người
dân Vùng Biển Sóc Trăng năm 2000 có thể đạt khoảng 3 triệu đồng/năm,năm 2005
khoảng 5,1 triệu đồng/năm và năm 2008 khoảng 6,5 triệu đồng/năm.
Có thể xem xét khả năng nuôi sông số dân Vùng Biển Sóc Trăng trên hai
khía cạnh: Khả năng nuôi sống từ kinh tế Vùng Biển nói chung và Khả năng
nuôi dân số từ các ngành kinh tế dựa vào lợi thế biển.
- Khả năng nuôi sống từ kinh tế Vùng Biển nói chung, bao gồm tất cả các
ngành dựa vào lợi thế biển và các ngành không dựa vào lợi thế biển. Cần phân
biệt, trong Vùng Biển ngoài các ngành từ lợi thế biển còn có các ngành mà ở bất
cứ một vùng kinh tế nào cũng có, chẳng hạn như nông nghiệp trên đất liền(chăn
nuôi, trồng trọt); công nghiệp chế biến không từ nguyên liệu lấy lưới từ biển,
hoặc tận dụng cảng biển để vận chuyển nguyên liệu như dệt, may, chế biến gỗ,
vật liệu xây dựng, phân phối điện lưới, chế biến nước; các dịch vụ thương mại,
du lịch không phải từ biển....
30
- Khả năng nuôi dân số chỉ xét trên giác độ các ngành kinh tế dựa vào lợi
thế biển, đó là các ngành như đánh bắt, nuôi trồng thủy sản mặn, lợ; các ngành
nghề lâm nghiệp gắn với rừng ngập mặn ven biển; cảng biển, dịch vụ vận tải
biển; khai thác chế biến muối, công nghiệp chế biến hải sản; du lịch gắn với
biển...
1.2.1. Khả năng nuôi sống dân số từ kinh tế của Vùng Biển nói chung:
Biểu 05: Hiện trạng khả năng nuôi sống số dân của
toàn bộ kinh tế Vùng Biển
Đơn vị tính 2000 2005 2008
1. Tổng giá trị gia tăng trong vùng
(GDP)
Tỷ đ (giá hh) 1.695,6 3.287,7 4.453,4
2. Tỷ lệ thu nhập của người lao động
trong GDP
%
68
66,8
65,9
3. Mức thu nhập của người lao động Tỷ đồng 1153 2197 2934
4. Mức chi bình quân
- Theo điều tra mức sống
- Mức sống chÊt l−îng cao hơn
Triệu đ/người/năm
Triệu đ/người/năm
3,0
5,0
5,1
9,8
6,5
15,0
5. Số người nuôi được Người
- Theo mức chi điều tra
- Mức sống chÊt l−îng cao hơn
Người
Người
384.336
230.602
430.753
224.167
451.438
195.623
6. Dân số Vùng Biển Người 375.019 401.322 404.984
7. So sánh số dân nuôi được dân số:
- Theo mức chi điều tra
- Mức sống CL cao
Lần
Lần
1,02
0,6
1,07
0,55
1,11
0,48
Qua tính toán trên cho thấy, kinh tế của toàn bộ Vùng Biển Sóc Trăng có
khả năng nuôi số dân vượt dân số hiện có của vùng khoảng 1,07- 1,1 lần. Đây là
một thành tựu đáng kể. Thực tế trên đất nước ta có nhiều Vùng Biển, huyện biển
(nhất là khu vực biển bãi ngang, không có cửa sông), toàn bộ sản xuất và dịch vụ
của nền kinh tế không đủ nuôi sống dân cư của Vùng. Tuy nhiên cũng phải thấy,
khả năng nuôi sống vượt số dân có trong Vùng Biển nêu trên là tính ở mức chi bình
quân không cao. Giả sử, mức chi tiêu bình quân của một người dân đạt trình độ ở
một số vùng kinh tế hoặc các tỉnh, thành phố có kinh tế phát triển như Đồng Nai,
Bình Dương, Vũng Tàu... thì khả năng nuôi sống số dân mới khoảng 50% dân số
(0,48). Tính toán trên có ý nghĩa về mặt xem xét khả năng phát triển bền vững của
Vùng Biển Sóc Trăng, có thể thấy mức nuôi vượt khoảng 1, 1 lần dân số chưa thật
bền vững và thực tế không tránh khỏi có một bộ phận dân số còn nghèo, với mức
chi tiêu thực tế thấp hơn rất nhiều so với mức chi tiêu theo số liệu điều tra nêu trên.
31
1.2.2. Khả năng nuôi sống dân số từ kinh tế dựa trên tiềm năng và lợi thế biển
Mức nuôi sống dân số từ lợi thế biển đạt mức cao là mục tiêu hiện nay
của tất cả các quốc gia biển, trong đó có nước ta. Theo tính toán bước đầu cho
thấy, nếu tính riêng các ngành kinh tế từ biển và từ lợi thế biển thì mức đóng
góp của các ngành này trong giá trị gia tăng (VA) nông , lâm, thủy sản khoảng
90%, công nghiệp khoảng 70% và dịch vụ khoảng 70%) và có xu hướng tăng
dần. Bình quân đóng góp của các ngành dựa trên lợi thế biển và xuất phát từ
tiềm năng biển năm 2000 khoảng 75,2%, năm 2005 là 76,4% và năm 2008
khoảng 76,7%.
Biểu 06: Hiện trạng khả năng nuôi sống dân số Vùng Biển
từ kinh tế dựa vào lợi thế biển
Đơn vị tính 2000 2005 2008
1. Tổng GTGT trong Vùng Biển (GDP) Tỷ đồng (giá hh) 1.695,6 3287,7 4.453,4
2. Tỷ lệ đóng góp các ngành lợi thế trong GDP % 75,2 76,4 76,7
3. GDP từ các ngành lợi thế biển Tỷ đồng 1.276 2.512 3.416
4. Tỷ lệ mức thu nhập của người LĐ % 68,0 66,8 65,9
5. Thu nhập của người LĐ từ lợi thế biển Tỷ đồng 867,1 1.678,4 2.250,6
6. Mức chi bình quân Triệu
đồng/người/năm
3,0 5,1 6,5
7. Số người nuôi được Người 289.021 329.095 346.253
8. Dân số Vùng Biển Người 370.019 401.322 404.984
9. So sánh số dân nuôi được với dân số % 77,0 82,0 85,0
Như vậy, nếu chỉ tính các ngành lợi thế biển thì khả năng nuối sống với số
lượng chỉ khoảng 77-85% dân số trong Vùng Biển. Đây là tình trạng chung của
tất cả các Vùng Biển nước ta, việc tận dụng, khai thác lợi thế biển còn thấp. Tuy
nhiên điều đáng mừng, trong các năm trở lại đây tỉnh Sóc Trăng đã có những
chủ trương, chính sách tập trung phát triển kinh tế biển ở Sóc Trăng nên khả
năng nuôi sống số dân từ lợi thế biển đang tăng dần.
Đề án kinh tế biển của Chính Phủ và Nghị Quyết TW về biển đã chỉ rõ
thời gian tới phải tăng khả năng nuôi sống dân số từ việc khai thác lợi thế
biển. Đây cũng chính là mục tiêu và là nhiệm vụ của quy hoạch Vùng Biển
Sóc Trăng.
2. Khả năng sức chứa dân số Vùng Biển Sóc Trăng
Một mục tiêu của phát triển bền vững của các nước trên Thế giới và của
nước ta hiện nay là tạo ra một nền kinh tế với sức chứa hợp lý. Sự phát triển
kinh tế một vùng phải tính đến khả năng dân số “chứa được” trên lãnh thổ. Sức
32
chứa dân số được xét trên các yếu tố: khả năng đất đai, khả cấp nước, điều kiện
về giáo dục - đào tạo, y tế và hệ thống giao thông. Trong nền “kinh tế mở”, các
yếu tố như: đảm bảo y tế tại chỗ, hệ thống giáo dục cao đẳng, đại học, dạy nghề
tại chỗ là không thật sự bắt buộc, ở nhiều quốc gia, nhờ có giao thông phát triển,
ngày càng mở rộng giao lưu, nên nhiều khi các trung tâm y tế cao cấp, trung tâm
đào tạo chất lượng cao (trừ nhà trẻ, mẫu giao, các cấp phổ thông) tập trung ở
một khu vực thuận lợi, sử dụng cho cả một vùng lớn, không nhất thiết bố trí dàn
trải, đều khắp riêng cho mỗi vùng nhỏ. Tuy nhiên, các yếu tố như: “đất đai”, cấp
nước”, các vấn đề giáo dục-đào tạo (như nhà trẻ, mẫu giáo và các cấp phổ
thông) và nhu cầu y tế cơ bản tại chỗ, giao thông cho đến nay vẫn giữ vai trò
quyết định đến bố trí dân cư mỗi vùng.
2.1. Sức chứa về đất
2.1.1. Đất xây dựng đô thị
Theo thống kê từ các huyện, đất xây dựng đô thị năm 2005 có khoảng
80ha, năm 2008 là 148,7 ha. Tiêu chuẩn đất xây dựng đô thị theo quy định của
Bộ xây dựng năm 2005 và 2008 khoảng 80m2/người. Sức chứa về đất xây dựng
đô thị Vùng Biển hiện nay như sau:
Biểu 07: Hiện trạng về đất xây dựng đô thị và sức chứa dân số đô thị
Vùng Biển Sóc Trăng
Đơn vị tính 2005 2008
1. Đất xây dựng đô thị ha 80 149
2. Tiêu chuẩn đất xây dựng đô thị m2/người 80 80
3. Dân số có thể chứa được Người 9.963 18588
4. Dân số đô thị Người 37.319 38.890
5. Dân số chứa được theo TC so với dân số % 27 47,8
6. Bình quân đất thực ở m2/người 21,4 38,3
7. §Êt x©y dùng §T hiÖn cã/tiêu chuẩn % 27 47,8
Nếu không có sự nhầm lẫn ở Vùng Biển về thống kê đất ở đô thị, thì với
dân số đô thị hiện nay, đất dành cho xây dựng đô thị là rất thấp, bình quân đất
thực ở mỗi người năm 2005 chỉ bằng 27,0% tiêu chuẩn quy định và năm 2008
bằng 47,8% tiêu chuẩn quy định. Với số đất đô thị đã bố trí, năm 2005 chỉ chứa
được gần 10 ngàn người và năm 2008 là 18,5 ngàn người, mới đáp ứng cho gần
48,0% dân đô thị hiện có.
33
Như vậy, có thể có một số lượng lớn dân số đô thị sống trong tình trạng
đất hẹp và không đầy đủ tiêu chuẩn của một đô thị. Bố trí hợp lý quỹ đất cho
xây dựng đô thị là vấn đề cần chú ý nhằm đảm bảo sức chứa hợp lý trong quy
hoạch đất đai thời gian tới. Theo quy hoạch của Viện Quy hoạch Đô thị - Nông
thôn, Bộ Xây Dựng thì năm 2005, nhu cầu bố trí đất đô thị phải là 298,6 ha và
năm 2008 phải là 311,1 ha.
2.1.2. Đất ở nông thôn
Đất ở nông thôn thường là vấn đề nan giải của các vùng trong quá trình
CNH. Đất dùng để ở của vùng nông thôn trong Vùng Biển năm 2005 là 1.152,2
ha và năm 2008 là 1.679, 3ha. Tiêu chuẩn ở quy định năm 2005 là 42m2/người
và năm 2008 là 50m2/người. Khả năng sức chứa dân số nông thôn về đất ở
như sau:
Biểu 08: Hiện trạng về đất ở nông thôn và sức chứa dân số nông thôn
Vùng Biển Sóc Trăng
Đơn vị tính 2005 2008
1. Đất ở nông thôn Ha 1.152,2 1.679.3
2. Tiêu chuẩn đất ở nông thôn m2/người 42 50
3. Dân số nông thôn có thể chứa được Người 274.336 335.860
4. Dân số nông thôn Người 364.003 366.094
5. Dân số nông thôn chứa được theo TC
so với dân số
% 75,4 91,7
6. Bình quân đất thực ở nông thôn m2/người 31,7 46
7. Đất thực ở nông thôn/tiêu chuẩn % 75,5 92,0
Từ kết quả tính trên cho thấy, đất ở nông thôn Vùng Biển từ năm 2005-
2008 chưa đáp ứng nhu cầu ở theo định mức tiêu chuẩn ở cho dân cư nông thôn.
Từ 2005- 2008, đất thực ở bình quân đầu người cho dân cư nông thôn chỉ
khoảng 32-46 m2/người (khoảng 150-230 m2/hộ gia đình), so với mức yêu cầu là
42-50 m2/người (210-250 m2/hộ gia đình). Do tốc độ đô thị hóa thấp, dân số
nông thôn vẫn lớn nên chưa có sự cải thiện về đất ở. Với diện tích đất ở nông
thôn Vùng Biển Sóc Trăng hiện nay còn thấp so với các vùng đông dân ở Đồng
bằng Bắc Bộ và Trung Bộ (200-350 m2/hộ) và các vùng khó khăn như vùng cao
của miền núi phía Bắc (300-500m2/hộ), vùng ven biển và hải đảo khác (200-
350m2/hộ).
34
2.2. Sức chứa về khả năng cấp nước
2.2.1. Cấp nước đô thị
Tổng công suất các nhà máy nước trong Vùng Biển Sóc Trăng năm
2005 là7.548m3/ngày và năm 2008 là 8.200m3/ngày. Khả năng đáp ứng nhu
cầu nước cho dân số đô thị và sức chứa dân số đô thị có thể thấy qua phân
tích sau:
Biểu 09: Hiện trạng về cấp nước đô thị và sức chứ dân số đô thị
Vùng Biển Sóc Trăng
Đơn vị tính 2005 2008
1. Tổng công suất các nhà máy nước m3/ngày 7.548 8.200
2. Hệ số sử dụng % 80 80
3. Lượng nước cấp m3/ngày 6.038 6.560
4. Nước dành cho CN và dịch vụ m3/ngày 3.200 3.500
5. Nước cho dân số đô thị m3/ngày 2.838 3.060
6. Tiêu chuẩn cấp nước đô thị Lít/người/ngày 80 80
7. Dân số đô thị chứa được Người 35.480 38.250
8. Bình quân nước thực cấp Lít/người/ngày 76 78,7
9. Nước thực cấp/tiêu chuẩn % 95 98,4
10. Dân số đô thị Người 37.319 38.890
Khả năng cấp nước đô thị thời gian qua đạt khá, gần đáp ứng nhu cầu
theo định mức cấp nước của dân số đô thi (khoảng 95-98% định mức). Tuy
nhiên qua xem xét khả năng cấp nước đô thị thời gian qua ở Vùng Biển cho
thấy:
- Định mức cấp nước đô thị ở Vùng Biển Sóc Trăng là thấp, nhìn chung
các đô thị trong cả nước hiện nay (khoảng 100-120 lít/người/ ngày). Cho nên
mặc dù đáp ứng nhu cầu nước cho dân cư, mỗi người dân đô thị vẫn dùng nước
ở mức hạn chế.
- Với một Vùng Biển, khó khăn về nguồn nước, thường thiếu nước về
mùa khô, thì việc đáp ứng nước như trên là một thành tựu đáng kể.
- Với khả năng cấp nước như trên chỉ đủ khi lượng khách du lịch đến
Vùng còn ít, nếu lượng khách du lịch tăng sẽ dẫn đến khó khăn về nước.
35
2.2.2. Cấp nước nông thôn
Theo số liệu của Trung tâm Quy hoạch Đô thị-Nông thôn miền Nam,
tổng lượng nước sạch có khả năng cung cấp cho nông thôn Vùng Biển Sóc
Trăng năm 2005 là 16.2007 m3/ngày và năm 2008 là 17.397 m3/ngày. Tiêu
chuẩn cấp nước cho nông thôn năm 2005 là 65lít/người/ngày, năm 2008 là
68lít/người/ngày. Thực trạng cấp nước sạch và khả năng sức chứa dân số nông
thôn (từ khả năng cấp nước sạch) ở nông thôn Vùng Biển như sau:
Biểu 10: Hiện trạng về cấp nước nông thôn và sức chứa dân số nông thôn
Vùng Biển Sóc Trăng
Đơn vị tính 2005 2008
1. Khả năng cấp nước sạch m3/ngày 16.207 17.397
2. Tiêu chuẩn cấp nước nông thôn Lít/người/ngày 65 68
3. Dân số nông thôn chứa được Người 249.332 255.832
4. Dân số nông thôn Người 364.003 366.094
5. Bình quân nước thực cấp Lít/người/ngày 45 48
6. Nước thực cấp/tiêu chuẩn % 69,2% 70,5%
Qua biểu trên cho thấy, nếu lượng nước cấp đúng với tiêu chuẩn định mức
thì chỉ chứa được dân số nông thôn trong năm 2005 khoảng 249 ngàn người
(dân số nông thôn 364 ngàn người) và năm 2008 là 256 ngàn người (dân số
nông thôn 366 ngàn người). Như vậy, dân cư nông thôn chỉ mới dùng lượng
nước sách khoảng 70,0% so nhu cầu, thực chất có một bộ phận dân cư nông
thôn vẫn không được cung cấp nước sạch.
Vấn đề cấp nước sạch nông thôn khó khăn và sẽ là một nhiệm vụ nan giải
trong quá trình phát triển nông thôn Vùng Biển Sóc Trăng thời gian tới.
2.3. Sức chứa xét trên khả năng đáp ứng về y tế
Tổng số giường bệnh ở các bệnh viện và các trạm y tế thuộc Vùng Biển
Sóc Trăng năm 2005 có 425 giường và năm 2008 khoảng 452 giường. Theo
thực trạng về y tế của tỉnh Sóc Trăng, năm 2005 số giường bệnh cho dân cư là
15giường/van dân và 2008 là 17 giường/vạn dân. Có thể thấy mức độ đáp ứng
về y tế trong Vùng Biển như sau:
36
Biểu 11: Hiện trạng sức chứa dân số xét trên khả năng đáp ứng về y tế
Đơn vị tính 2005 2008
1. Tổng số giường bệnh Giường 425 452
2. Mức bố trí giường bệnh BQ của tỉnh Sóc Trăng Giường/vạn dân 15 17
3. Mức bố trí giường bệnh theo chuẩn quốc gia Giường/vạn dân 25 30
4. Dân số chứa được theo mức hiện trạng của tỉnh Người 283.333 265.882
5. Dân số chứa được theo chuẩn quốc gia Người 170.000 150.667
6. Dân số Vùng Người 401.322 404.984
Có thể thấy, mức đáp ứng bệnh viện cho dân Vùng Biển còn quá thấp, chỉ
đáp ứng được khoảng 260-280 ngàn người theo mức chung của toàn tỉnh Sóc
Trăng và nếu theo chuẩn quốc gia chỉ đáp ứng được 150-170 ngàn người.
Như vậy, ngay tiêu chuẩn chung của tỉnh, Vùng Biển cũng chưa đáp ứng
được. Điều này cho thấy rất nhiều người dân Vùng Biển chưa được chăm sóc y
tế. Việc tăng cường thêm bệnh viện là nhân tố quan trọng tạo sức chứa hợp lý
cho dân cư Vùng Biển. Tuy nhiên cũng phải thấy, các trung tâm dân cư của
Vùng Biển như thị trấn Long Phú, Vĩnh Châu, Cù Lao Dung và các khu vực
khác trong vùng chỉ cách thành phố Sóc Trăng khoảng 15-20 km, với khoảng
cách này, bệnh viện ở thành phố có thể đáp ứng nhu cầu chữa bệnh cho 1 bộ
phận dân cư có thu nhập cao và bệnh nặng ở Vùng Biển Sóc Trăng.
2.4. Sức chứa xét trên khả năng đáp ứng nhu cầu giáo dục-đào tạo
Hệ thống giáo dục từ mầm non đến các cấp phổ thông là một trong những
nhu cầu quan trọng nâng cao mức sống dân cư. Ở các nước tiên tiến, việc phát
triển giáo dục- đào tạo là một trong các mục tiêu quan trọng hàng đầu trong việc
bố trí dân cư và tính toán sức chứa của một vùng.
Biểu 12: Hiện trạng sức chứa dân số xét trên mức đáp ứng giáo dục-đào tạo
Đơn vị tính 2005 2008
1. Dân số trong Vùng Người 401.322 404.984
2. Số học sinh cần đến trường Học sinh 66.619 67.418
3. Diện tích bố trí cho giáo dục - đào tạo Ha 57 97,4
4. Tiêu chuẩn đất cho học sinh m2/hs 5 6
5. Số học sinh được học theo tiêu chuẩn Học sinh 11.400 16.233
6. Tỷ lệ học sinh được học so với nhu cầu học
sinh cần tới trường
% 17,1 24,4
7. Dân số chưa tương ứng Người 389.312 279.998
37
Với khả năng bố trí đất cho xây dựng các cơ sở giáo dục-đạo tạo trong
vùng thời gian quan, nếu đảm bảo tiêu chuẩn đất cho học sinh đi học thì chỉ có
thể chứa được số dân trong năm 2005 là 389 ngàn người và 2008 là khoảng
280 ngàn người, bằng khoảng 70-90,0% dân số vùng. Điều này chứng tỏ số
lượng học sinh các cấp phải theo học các trường không đủ tiêu chuẩn định mức
còn rất lớn.
2.5. Vấn đề giao thông trong sức chứa dân số
Theo các nhà quy hoạch thuộc Trung tâm điều tra quy hoạch đất đai, Bộ
Tài nguyên Môi trường thì tỷ lệ diện tích đất dành cho giao thông trên tổng diện
tích tự nhiên là chỉ tiêu so sánh một cách toàn diện mức độ phát triển của tất cả
các hình thức giao thông trên toàn vùng, bao gồm cả các đường giao thông phục
vụ phát triển nông, lâm, ngư nghiệp. Tính đến năm 2005, Vùng Biển có diện
tích dành cho mạng lưới giao thông so với diện tự nhiên vào loại thấp, chỉ đạt
1,7% và năm 2008 tăng lên 1,9%. Điều này sẽ có trở ngại cho đời sống và sản
xuất của dân cư, tuy nhiên với nỗ lực phát triển giao thông vận tải của Vùng
Biển, tỷ lệ này của Vùng Biển các năm tới sẽ tăng lên. Đây chính là bước phát
triển đúng hướng và quan trọng cho sức chứa nói riêng và phát triển kinh tế-xã
hội nói chung của Vùng Biển Sóc Trăng.
2.6. Đánh giá chung hiện trạng sức chứa dân số của Vùng Biển:
1. Khả năng đáp ứng về đất ở, đặc biệt là đất ở nông thôn còn khó
khăn. Nếu trong thời gian tới, quá trình chuyển dịch lao động và dân cư từ
nông thôn ra thành thị theo quy luật quá trình CNH ở Vùng Biển Sóc Trăng
diễn ra chậm, thì khả năng giải quyết đất ở cho nông thôn sẽ là một trở ngại
không nhỏ trong quá trình phát triển.Vấn đề này đặt ra cho vùng trong hướng
quy hoạch tới phải có hướng đô thị hóa nhanh hơn nhiều so với thời gian qua.
2. Các tiểu chuẩn của sức chứa dân cư khác như cấp nước, giáo dục-đào
tạo, y tế, giao thông vận tải đều chưa đáp ứng sức chứa dân số hiện có. Về
cấp nước tuy có đáp ứng khá hơn song vẫn ở mức thấp. Như vậy, trong thời
gian tới sự phát triển kinh tế phải luôn được xem xét trên khía cạnh đảm bảo
bố trí tối đa (trong diều kiện cho phép) về đất đai cho xây dựng cơ sở giáo
dục-đào tạo và y tế và giao thông để có được một sức chứa tốt nhất.
IV. TỔNG HỢP ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM YẾU, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
TRONG PHÁT TRIỂN CỦA VÙNG BIỂN SÓC TRĂNG
Tổng hợp các điều kiện phát triển, những thành tựu và yếu kém trong phát
triển kinh tế-xã hội của vùng kinh tế biển, có thể khái quát một cách ngắn gọn
những đặc trưng về điểm mạnh-yếu-cơ hội-thách thức của Vùng Biển như sau:
38
Về điểm mạnh:
- Địa chính trị và địa kinh tế thuận lợi, tài nguyên phong phú về hải sản,
rừng ngập mặn, du lịch sinh thái, trong đó nổi trội là có vị trí xây dựng được
cảng nước sâu “duy nhất” tại vùng ĐBSCL.
- Lợi thế đi sau, tận dung được những kinh nghiệm của các nền kinh tế
biển đi trước, rút kinh nghiệm những hạn chế cần khắc phục.
Về điểm yếu:
- Quy mô và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế nhỏ;
- Năng lực cạnh tranh các doanh nghiệp thấp;
- Hạ tầng chưa phát triển, nguồn nhân lực có chuyên môn khoa học-kỹ
thuật rất yếu và thiếu.
- Sức chứa dân số về đất, nước, y tế, giáo dục-đào tạo, giao thông… còn ở
mức thấp, phải phấn đấu rất lớn mới bằng mức chung của cả nước.
Về Cơ hội:
- Kinh tế biển đang là vấn quan trong của thế kỷ 21, được Đảng và nhà
nước quan tâm qua những chủ trương chính sách mới cởi mở và thông thóang.
- Cơ hội mới trong việc thu hút đầu tư của các vùng khác trong nước và
của nước ngoài qua cửa ngõ cảng nước sâu vào ĐBSCL.
- Tận dụng được lợi thế khi sân bay Cần Thơ, cầu Cần thơ và quốc lộ nam
sông Hậu hoàn thành.
Về Thách thức:
- Bị các vùng khác trong vùng và trong tỉnh cạnh tranh mạnh, đặc biệt là
canh tranh của 15 Khu kinh tế đi trước đã được Chính phủ phê duyệt (Khu kinh
tế Định An, tỉnh Trà Vinh ở ngay cạnh Vùng Biển Sóc Trăng).
- Mâu thuẫn giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và giành vốn đầu tư để
giải quyết các vấn đề như biển dâng, bảo vệ môi trường biển.
39
PHẦN THỨ BA
PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ TỔ CHỨC KHÔNG GIAN
KINH TẾ VÙNG BIỂN SÓC TRĂNG ĐẾN NĂM 2020
I. DỰ BÁO ĐẦU TƯ, TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ DÂN SỐ, LAO
ĐỘNG VÙNG BIỂN
Trong nhiều bản quy hoạch vùng, tỉnh được dự báo tăng trưởng bằng
phương pháp hồi quy giản đơn, tức là quan sát một số thời kỳ đã qua, sau đó cho
tốc dộ trăng trương thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước với giả định nếu thu hút đươc
ít vốn là phương án thấp, tăng trưởng thấp, nếu thu hút vốn trung bình là phương án
tăng trưởng vừa, nếu thu hút nhiều vốn thì tăng trưởng cao. Đây là phương pháp dự
báo chỉ thích hợp với vùng, tỉnh có tăng trưởng đã ổn định và không xác định được
những khả năng đột biến. Đối với những vùng có những cơ hội đột biến, phương
pháp dự báo nêu trên sẽ dẫn đến sai lầm về xác định khả năng tăng trưởng, qua đó
dẫn đến sai lầm trong xác định cơ cấu và định hướng phát triển.
Để khắc phục nhược điểm này, ở các nước và nước ta đã áp dụng phương
pháp dự báo tăng trưởng dựa vào 3 yếu tố đóng góp vào tăng trưởng, đó là tăng
trưởng vốn, tăng trưởng lao động và tăng trưởng TFP (TFP: Total Factors
Productivity - năng suất các yếu tố tổng hợp, bao gồm việc ứng dụng tiến bộ
khoa học-công nghệ, cải tiến qủan lý, hợp lý hóa sản xuất). Khi đã xác định
được những đột biến thể hiện trong tăng trưởng vốn và tăng trưởng lao động, sẽ
xác định một cách khá chính xác tốc độ tăng trưởng GDP và cơ cấu vùng.
Hộp 1: Phương pháp tính tăng trưởng theo vốn, lao động và TFP
Nếu gọi RGDP là tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong Vùng Biển
(GDP); Rv là tăng trưởng vốn; RL là tăng trưởng Lao động và RTFP là mức đóng
góp khoa học công nghệ, cải tiến quản lý, hợp lý hóa sản xuất trong công nghệ.
Mô hình dự báo tăng trưởng là:
RGDP = αRv + βRL + RTFP
Trong đó: α: Hệ số đóng góp của tăng trưởng vốn; β: Hệ số đóng góp cuả
tăng trưởng lao động với (α + β) = 1. Viện Chiến lược Phát triển Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã nghiên cứu, quan sát mức đóng góp của vốn và lao động vào tăng
trưởng thời kỳ 2006-2010 và dự báo cho thời kỳ 2011-2020 cho cả nước về các
hệ số α và β . Đồng thời xem xét, ứng dụng các kinh nghiệm nước ngoài về mức
đóng góp TFP trong tăng trưởng. Kết quả tính toán và dự báo khả năng đóng
góp cho tăng trưởng cả nước (có thể ứng dụng cho các vùng) như sau: Hệ số
đóng góp của tăng trưởng vốn α = 0,65, hệ số đóng góp của tăng trưởng lao
động β=0,35 và TFP = 1-2,5.
40
1. Dự báo các phương án tăng trưởng kinh tế Vùng Biển:
Đối với Vùng Biển Sóc Trăng, có thể nhìn thấy những phương án đột biến
trong phát triển kinh tế có thể xảy ra:
+ Phương án 1:
Giả định chỉ có đầu tư vào Trung tâm Nhiệt điện lớn, không có đầu tư
phát triển những công trình lớn gì khác. Với việc hình thành Trung Tâm điện lực
ở Long Phú, chỉ tính vốn đầu tư hạ tầng đã là 1.879,5 tỷ đồng và 3 nhà máy điện
với tổng vốn đầu tư khoảng 4,5-5 tỷ USD. Từ đầu tư điện sẽ kéo theo thêm các
ngành công nghiệp khác. Với một vùng có mức vốn đầu tư còn khá nhỏ, thì việc
hình thành một Trung tâm Điện lực “không lồ” sẽ kéo theo mức tăng đầu tư khá
cao và từ đó tạo ra tăng trưởng cao. Đầu tư phát triển Trung tâm Điện lực được
thực hiện từ 2008 đến khoảng năm 2017. Trên cơ sở số vốn đã xác định được,
ước tính khả năng vốn đầu tư tăng trong 2 năm 2009-2010 khoảng 21%, thời kỳ
2011-2015 tăng 26% và 2016-2020 tăng 23% ; tương ứng lao động tăng
1,5%-2%-2,5%/năm. Với mức tăng về vốn và lao động như trên sẽ tạo ra đột
biến về tăng trưởng cho Vùng Biển. Nguồn vốn phát triển điện đã được Tập
đoàn Dầu khí xác định.
+ Phương án 2:
Ngoài đầu tư vào trung tâm điện, sẽ hình thành Khu kinh tế với hạt nhân
là Cảng Nước sâu công suất khá lớn. Đi cùng với Cảng Nước sâu và Khu kinh
tế kéo theo hàng loạt đầu tư vào công nghiệp, dịch vụ, xây dựng hạ tầng v.v...
Tạo ra sự tăng trưởng vốn lớn, kéo theo tăng trưởng lao động nhanh. Toàn bộ
các tăng trưởng vốn và lao động này sẽ đóng góp vào tăng trưởng giá trị tăng
thêm (VA), tạo ra sự đột biến lớn. Trong 2 năm 2009-2010, chưa có gì thay đổi
so phương án 1, song từ sau 2010 sẽ có đầu tư lớn. Vốn đầu tư vào Trung tâm
Điện lực và Cảng Nước sâu có thể xác định được, dự kiến mức tăng vốn 2 năm
2009-2010 vẫn là 21%, thời kỳ 2011-2015 là 30% và thời kỳ 2016 -2020 tới
35,6%; tương ứng số lao động tăng là 1,5%-2,5%-3%. Phương án 2 đòi hỏi
nguồn vốn lớn, ngoài vốn của Tập đoàn Dầu khí, sẽ có sự tập trung đầu tư lớn
của Nhà nước, các ngành Trung ương, các doanh nghiệp ngoài tỉnh và đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
41
+ Phương án 3:
Ngoài phát triển Trung tâm Điện lực và Khu kinh tế (với hạt nhân là
Cảng Nước sâu), sẽ hình thành Khu Đô thị mới ngoài biển khơi, một ngành
biển của tương lai. Hiện nay cũng đã có nhiều nước mà diện tích đất liền hẹp
đang tiến hành xây dựng đô thị trên biển và đây cũng là giải pháp chống nước
biển dâng. Phương án này có mức đầu tư rất lớn và chủ yếu triển khai từ sau
2015. Dự kiến tăng vốn đầu tư các thời kỳ 2009-2010, 2011-2015, 2016-2020 là
21%-32%-40%, tăng lao động tương ứng là: 1,5%-3%-3,5%. Phương án 3 thể
hiện ‘‘hoài bão’’ lớn trong phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, đây cũng là
phương án để phấn đấu, hoàn thành được tốt Phương án 2, có thể phát triển theo
Phương án 3. Phương án 3 sẽ có đầu tư rất lớn của nhà nước, các ngành Trung
ương cũng như thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Biểu 13: Dự báo tăng trưởng GDP từ tăng vốn đầu tư, lao động và TFP
Các phương án TT Vốn
(Rv)
(%)
TT lao
động (RL)
(%)
TFP
(RTFP)
(%)
Tăng trưởng GDP
(0,65Rv+
0,35RL+RTFP)
(%)
PA1: Chỉ có điện
2009-2020 21,0 1,5 1,0 15,2
2011-2015 26,0 2,0 1,5 19,1
2016-2020 23,0 2.5 2,0 17,8
PA2: Điện + Cảng NS
2009-2020 21,0 1,5 1,0 15,2
2011-2015 30,0 2,5 2,0 22,4
2016-2020 35,6 3,0 2,5 26,7
PA3: Điện+Cảng NS+ĐTB
2009-2020 21,0 1,5 1,0 15,2
2011-2015 32,0 3,0 2,0 23,9
2016-2020 40,0 3,5 2,5 29,7
Qua dự báo trên cho thấy, các phương án đều có mức tăng trưởng đột biến
rất cao so với tốc tăng trưởng các giai đoạn đã qua của Vùng Biển. Trong 3
phương án trên, phương án 2 là thích hợp và khả thi, đó là những định hướng
phát triển hoặc đã thực hiện hoặc đã có những nghiên cứu sơ bộ. Vì vậy, phương
án 2 sẽ là phương án chọn và phương án 3 là phương án phấn đấu.
42
Biểu 14: Tăng trưởng GDP và cơ cấu kinh tế phương án chọn
Tăng trưởng (%) 2008 2010 2015 2020
09-10 11-15 16-20
I. GDP (tỷ đồng-giá 94) 3.371,4 4.950 13.585 44.337 15,2 22,4 26,7
- Nông, lâm, thủy sản 2.392 2.842 4.080 5.590 9,0 7,5 6,5
- Công nghiệp-xây dựng 421,1 719 5.093 18.963 30,6 48,0 30,0
- Dịch vụ 918,3 1.389 4.412 19.784 23,0 26,0 35,0
II. GDP (tỷ đồng-giá hh) 5.798,4 8.379 30.262 128.735 - - -
- Nông, lâm, thủy sản 3.647,2 4.490 7.834 13.080 - - -
- Công nghiệp-xây dựng 694,8 1.416 12.324 56.698 - - -
- Dịch vụ 1.456,4 2.473 10.104 58.957 - - -
III. Cơ cấu (%)
Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 - - -
- Nông, lâm, thủy sản 62,9 54,0 26,0 10,0 - - -
- Công nghiệp-xây dựng 12,0 17,0 41,0 44,0 - - -
- Dịch vụ 25,1 30,0 33,0 46,0 - - -
Đồ thị 1: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng Biển đến năm 2020
2. Dự báo dân số và lao động
Kinh nghiệm các vùng có trình độ phát triển khá, đã trải qua các bước
phát triển đột biến và nhất là có đầu tư lớn của Nhà nước, các ngành ở Trung
ương và đầu tư nước ngoài, thì mức tăng dân số không thể chỉ là tăng tự nhiên
mà còn có tăng cơ học. Trung bình mức tăng cả tự nhiên và cơ học của các vùng
loại này khoảng từ 2,5-5%/năm. Đối với Vùng Biển Sóc Trăng thời gian tới, nếu
triển khai theo phương án 2, tất yếu sẽ có một số lượng lớn lao động các nơi
khác (các huyện khác trong tỉnh hoặc tỉnh khác...) đến làm việc, đặc biệt là lao
động có trình độ chuyên môn cao đi liền với các dự án đầu tư lớn của các
ngành Trung ương và của nước ngoài. Với mức tăng trưởng kinh tế cao như đã
dự báo, thì mức tăng trưởng dân số (cả tự nhiên và cơ học) của Vùng Biển Sóc
Trăng có thể ở mức 3-3,5%/năm.
0
10
20
30
40
50
60
70
2008 2010 2015 2020
NLT
CN&XD
DV
43
Biểu 15: Dự báo tăng trưởng dân số và lao động trong Vùng Biển Sóc Trăng
Đơn vị tính: Người
Tăng trưởng (%) 2008 2010 2015 2020
09-10 11-15 16-20
1. Dân số tăng tự nhiên
và cơ học
404.984 414.762 480.823 571.067 1,2 3 3,5
2. Dân số tăng tự nhiên 404.984 414.762 439.166 463.857 1.2 1.15 1.1
3. Dân số trong tuổi LĐ 273.294 284.335 326.434 382.115 2 2,8 3,2
4. lao động làm việc 212.883 219.317 248.137 287.659 1,5 2,5 3
Như vậy, với tốc độ phát triển kinh tế nhanh, lại chủ yếu phát triển từ các
ngành Trung ương (hoặc đầu tư nước ngoài) trên địa bàn, sẽ có sức hút lực
lượng dân số và lao động vào Vùng Biển khá cao. Đến năm 2010 cả vùng có
khoảng 570 ngàn dân, so với năm 2008 tăng khoảng 166 ngàn trong 12 năm,
bình quân mỗi năm tăng 14 ngàn dân (cả tự nhiên và cơ học).
II. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN
1. Quan điểm phát triển
1) Quá trình phát triển Vùng Biển Sóc Trăng phải phù hợp với chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020 và Chiến lược phát triển của cả nước trong bối
cảnh hội nhập, cũng như phù hợp với quy hoạch phát triển vùng ĐBSCL.
2) Phát triển kinh tế Vùng Biển Sóc Trăng với tốc độ cao, làm đầu tàu cho cả
tỉnh, hướng mạnh về xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài, tạo sự chuyển biến cơ
bản và toàn diện nền kinh tế của Vùng Biển theo hướng CNH, HĐH.
3) Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng
cố an ninh quốc phòng, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái, bảo đảm phát
triển bền vững.
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Phát triển vùng Vùng Biển Sóc Trăng thành một khu vực kinh tế năng
động, góp phần thịnh vượng chung của khu vực biển và ven biển Tây Nam Bộ
của Tổ quốc, đồng thời là “đầu tàu” lôi kéo cả tỉnh Sóc Trăng và vùng Đồng
bằng sông Cửu Long phát triển nhanh.
44
2.2. Một số mục tiêu cụ thể
1) Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu:
- Tăng trưởng kinh tế đột biến, trong 2 năm 2009-2010 đạt 15,2% thời kỳ
2011-2015 đạt 22,4% và 2016-2020 đạt 26,7%.
- Chuyển dịch cơ cấu mạnh theo hướng CNH, HĐH khu vực nông, lâm
thủy sản giảm từ 62,9% năm 2008 xuống còn 54,0% năm 2010, 26,0% năm
2015 và 10,0% năm 2020. Như vây, đến 2020 đạt dược một cơ cấu hiện đại, với
mức công nghiệp dịch vụ chiếm tới 90,0% của cả nền kinh tế.
- Tăng mức đóng góp của Vùng Biển vào tổng sản phẩm trong tỉnh(2)
(GDP) từ 32,3% năm 2008 và lên 48,0% năm 2020.
- Tăng tốc độ xuất xuất khẩu gấp 1,2-1,5 lần mức tăng trưởng GDP.
2) Hình thành Khu kinh tế mà hạt và nhân là cảng nước sâu
3) Phát triển và kết nối cảng biển (gồm Cảng Nước sâu, các cảng trung
chuyển), các đô thị, các khu công nghiệp, khu du lịch - dịch vụ… các hành lang và
vành đai dọc ven biển làm động lực lôi kéo sự phát triển của cả tỉnh và cả vùng
ĐBSCL, trở thành khu vực phát triển tốc độ cao, tạo tiền đề giao thương, mở rộng
quan hệ với bên ngoài một cách chủ động và có hiệu quả.
4) Hình thành và phát triển một số ngành mũi nhọn từ lợi thế biển gồm: Khai
thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản, du lịch biển, công nghiệp, đặc biệt công
nghiệp điện và các ngành kéo theo cùng với công nghiệp điện... có trình độ phát
triển tương đối hiện đại ngang tầm với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước.
5) Nâng cao thu nhập bình quân đầu người Vùng Biển, năm 2008 đạt
853 USD, năm 2010 đạt 1.122 USD, năm 2015 đạt 3.147 USD và năm 2020 đạt
10.247 USD.
6) Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 30,0%, năm 2015 đạt
45,0% và 2020 đạt trên 60,0%. Tỷ lệ hộ dùng điện đạt 90,0% vào năm 2010 và
100,0% vào năm 2015. Tỷ lệ hộ dùng nươc sinh hoạt vệ sinh đạt 88,0% vào năm
2010 và 100,0% vào năm 2015.
(2) GDP của cả tỉnh đã sơ bộ tính theo phương án đột phá về điện, cảng và các đầu tư kéo theo. GDP trong quy
hoạch tỉnh chưa tính các yếu tố này nên rất thấp.
45
III. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN
1. Phát triển các ngành đột phá làm động lực cho phát triển của Vùng Biển
Sóc Trăng và cả tỉnh
1.1. Xây dựng Cảng Nước sâu và tổ chức hệ thống cảng trung chuyển, kho
trung chuyển phục vụ Cảng Nước sâu; Hình thành từng bước dịch vụ
gắn với cảng.
1.1.1. Xây dựng Cảng Nước sâu: Tích cực khảo sát thăm dò và sớm tiến
hành xây dựng cảng nước sâu ở vị trí cách bờ biển cửa Trần Đề (và bãi biển Cù
Lao Dung) khoảng 20 km, với công suất dự kiến khoảng 20 triệu tấn/năm phục
vụ cho nhu cầu vận tải lớn của ĐBSCL.
1.1.2. Mở rộng hai Cảng Trần Đề và Đại Ngãi thành hai cảng trung chuyển:
Do Cảng Nước sâu ở ngoài khơi cách bờ 20 km, để tạo điều kiện cho việc tiếp
nhận hàng hóa toàn vùng ĐBSCL, tổ chức 2 cảng tổng hợp làm nhiệm vụ trung
chuyển ở Trần Đề và Đại Ngãi với hệ thống kho bãi đủ để tập kết hàng hóa, tiếp
nhận hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu qua cảng nước sâu.
1.1.3. Tiến hành nghiên cứu và xây dựng vào sau 2010 ở khu vực bờ biển
Long Phú - Vĩnh Châu Cảng Chuyển tải cho loại tàu 30.000-50.000DWT phục
vụ cho cả vùng ĐBSCL (sử dụng tàu LASH). Khi xây dựng xong cảng nước
sâu, đây là một trong những cảng hỗ trợ và chuyển tải cho Cảng Nước sâu.
1.1.4. Nghiên cứu ở khu vực Vĩnh Châu (gần với Quốc lộ Nam sông Hậu
và tỉnh lộ 38), xây dựng một Kho Trung chuyển giống như hình thức ICD (ICD:
Inland Container Depot - loại cảng nằm sâu trong nội địa, không có bến cảng).
Các hàng hóa xuất khẩu (container) được xếp về đây để làm thủ tục xuất đưa ra
Cảng Nước sâu và hàng hóa nhập khẩu (container) từ cảng nước sâu đưa về ICD
tập kết để xuất đi các nơi trong vùng ĐBSCL.
1.1.5. Cùng với hệ thống cảng, tổ chức hệ thống dịch vụ đi theo:
- Dịch vụ kỹ thuật cơ khí: sửa chữa, bảo dưỡng phương tiện vận chuyển,
thiết bị xếp dỡ;
- Dịch vụ logistics(*)
- Dịch vụ xếp dỡ, đóng gói container và các hàng hóa khác;
(*)(Logistics là một hoạt động thương mại để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng,
vận chuyển, lưu kho bãi, làm thủ tục hải quan và các loại giấy tờ, tư vấn khách hàng, đóng gói, giao
hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa);
46
- Dịch vụ cung ứng tàu biển;
- Dịch vụ khai thuê hải quan;
- Dịch vụ khu vực cảng mở, bao gồm mua bán, phân loại, lưu trữ ,bảo
quản, sửa chữa, bao gói, đóng gói hàng hóa.
1.2. Hình thành “Khu kinh tế’’ (có thể gọi là: Khu kinh tế tổng hợp, Khu kinh
tế mở...) trong Vùng Biển- một trung tâm phát triển ra biển của cả vùng
ĐBSCL.
1.2.1. Khả năng hình thành:
Sự xuất hiện cảng nước sâu cùng với hệ thống các cảng trung chuyển,
ICD, đã tạo ra một “hạt nhân’’ quan trọng cho việc hình thành một khu kinh tế.
Đồng thời Vùng Biển có vị trí thuận lợi - một cửa ngõ ra biển của cả vùng
ĐBSCL, có hệ thống giao thông (bộ, biển, sông) phát triển khá, bước đầu đã
hình thành các ngành kinh tế biển...Vùng Biển Sóc Trăng có đầy đủ khả năng
hình thành một Khu kinh tế, tạo ra một trung tâm lớn phát triển ra biển của
Vùng Biển, của tỉnh Sóc Trăng và của cả vùng ĐBSCL.
1.2.2. Đặc điểm và cơ cấu Khu kinh tế:
+ Đặc điểm: Khu kinh tế có nhiều tên gọi khác nhau: Khu kinh tế tổng
hợp, khu kinh tế mở, khu kinh tế tự do v.v…đó là tên gọi chung cho các khu
kinh tế được thành lập trong một vùng của một quốc gia nhằm thu hút đầu tư
trong và ngoài nước bằng các biện pháp khuyến khích đặc biệt.
Để có thể thu hút đầu tư, khi xây dựng một Khu kinh tế phải đảm bảo
những yêu cầu sau:
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi: miễn giảm thuế, giảm thiểu các
quy chế rườm rà, có chính sách linh hoạt về lao động…
- Có cơ sở hạ tầng tiện lợi, điều kiện sống tốt cho những người làm việc
trong khu kinh tế (đầy đủ các dịch vụ: giáo dục, y tế, vui chơi - giải trí đạt trình
độ quốc tế).
- Vị trí địa lý thuận lợi (gắn với cảng biển, hoặc cảng hàng không quốc tế,
gần thị trường tiêu dùng và xuất khẩu lớn).
- Có các hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước và Chính quyền sở tại.
+ Cơ cấu một Khu kinh tế (Khu kinh tế tổng hợp): Theo quy định của Nhà
nước, một Khu kinh tế tối thiểu phải có diện tích 10.000 ha (100 km2).
47
Hộp 2:
Các Khu kinh tế ở Việt Nam
Cho đến nay, trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam có 15 Khu kinh tế (với nhiều
tên gọi khác nhau), đều nằm ở bờ biển và đảo, trong đó có 14 Khu kinh tế đã
được Chính Phủ phê duyệt, còn 1 Khu kinh tế là Cà Mau, UBND tỉnh Cà Mau
đã trình lên Chính Phủ chờ phê duyệt. Khu kinh tế được duyệt sớm nhất là Khu
Chu Lai, diện tích 27.040 ha, phê duyệt vào 5/6/2003; Khu kinh tế mới duyệt
gần đây nhất là Khu Định An (tỉnh Trà Vinh), diện tích 39.000 ha, phê duyệt
này 27/4/2009.
Trong 15 Khu kinh tế, Khu kinh tế Vân Phong có diện tích lớn nhất, tới
150.000 ha, nhỏ nhất là khu Kinh tế Hòn La (Quảng Bình), diện tích 10.000 ha.
Các Khu kinh tế còn lại có diện tích từ 11.000 ha đến 55.000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quy+hoach+kinh+te+bien+tinh+Soc+Trang.pdf