Đề tài Quản trị trong cơ quan hành chính nhà nước

Tài liệu Đề tài Quản trị trong cơ quan hành chính nhà nước: MỤC LỤC: MỞ ĐẦU A,KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.Khái niệm 2. Đặc điểm 3.Hệ thống các cơ quan hành chính ở nước ta. . B. CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC I. CHỨC NĂNG LẬP KẾ HOẠCH 1. Vai trò của lập kế hoạch trong cơ quan hành chính 2. Kế hoạch và quá trình xây dựng kế hoạch trong cơ quan hành chính. 3. So sánh chức năng lập kế hoạch giữa cơ quan hành chính và các tổ chức khác 4. Thực trạng thực hiện chức năng lập kế hoạch trong cơ quan hành chính 5. Đề xuất hình thức lập kế hoạch theo mục tiêu II. CHỨC NĂNG TỔ CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1) Đặc điểm cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính 2)So sánh chức năng tổ chức trong cơ quan hành chính với các cơ quan, tổ chức khác 3.Cải cách cơ cấu tổ chức các cơ quan hành chính ở Việt Nam . III.CHỨC NĂNG LÃNH ĐẠO CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1. Các đặc điểm về sự lãnh đạo trong cơ quan hành chính. 2.So sánh với các tổ chức khác. 3.Thực trạng hiện nay và giải ...

doc48 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quản trị trong cơ quan hành chính nhà nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC: MỞ ĐẦU A,KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.Khái niệm 2. Đặc điểm 3.Hệ thống các cơ quan hành chính ở nước ta. . B. CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC I. CHỨC NĂNG LẬP KẾ HOẠCH 1. Vai trò của lập kế hoạch trong cơ quan hành chính 2. Kế hoạch và quá trình xây dựng kế hoạch trong cơ quan hành chính. 3. So sánh chức năng lập kế hoạch giữa cơ quan hành chính và các tổ chức khác 4. Thực trạng thực hiện chức năng lập kế hoạch trong cơ quan hành chính 5. Đề xuất hình thức lập kế hoạch theo mục tiêu II. CHỨC NĂNG TỔ CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1) Đặc điểm cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính 2)So sánh chức năng tổ chức trong cơ quan hành chính với các cơ quan, tổ chức khác 3.Cải cách cơ cấu tổ chức các cơ quan hành chính ở Việt Nam . III.CHỨC NĂNG LÃNH ĐẠO CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1. Các đặc điểm về sự lãnh đạo trong cơ quan hành chính. 2.So sánh với các tổ chức khác. 3.Thực trạng hiện nay và giải pháp về vấn đề lãnh đạo trong các cơ quan hành chính IV. CHỨC NĂNG KIỂM TRA 1. Đặc điểm của chức kiểm tra 2. So sánh với các tổ chức có tư cách pháp nhân khác 3.Thực trạng và giải pháp của công tác kiểm tra KẾT LUẬN C.TRẢ LỜI MỘT SỐ CÂU HỎI CỦA THẦY GIÁO Câu 1.phân biệt cơ quan hành chính nhà nước với đơn vị sự nghiệp có thu Câu 2.Cơ cấu trực tuyến chức năng là gì Câu 3.Cơ quan kiểm tra độc lập với các cơ quan khác, đi kiểm tra các cơ quan khác của nhà nước là cơ quan nào.Giải pháp để cơ quan đó hoạt động hiệu quả hơn QUẢN TRỊ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Lời mở đầu. Tầm quan trong của đề tài. Quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước là vấn đề được rất nhiều người quan tâm. Đây là vấn đề của mọi thời đại và mọi đất nước. Nó liên quan tới cuộc sống hàng ngày của mỗi người trong xã hội, quyết định trực tiếp đến sự phát triển của đất nước và ảnh hưởng tới sự tiến lên của thế giới. Hiện nay, Việt Nam là một nước đang phát triển và chúng ta đang hội nhập với thế giới, cho nên chúng ta không chỉ cần một đường lối đúng đắn, một hệ thống pháp lý và quy định đúng đắn mà chúng ta phải tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước một cách có hiệu quả. Vì vậy nghiên cứu quản trị trong cơ quan hành chính nhà nước có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Tình hình nghiên cứu. Có thể thấy rằng vấn đề này không chỉ được nghiên cứu bởi các chuyên gia mà còn luôn được người dân trao đổi, thảo luận hàng ngày trong cuộc sống của họ. Những người quan tâm xem xét trên rất nhiều phương diện và quan tâm tới rất nhiều biểu hiện của nó, mà dễ nhận thấy nhất là sụ quan tâm của họ về vấn đề phòng chống tham nhũng. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu đề tài này nhầm xem xét sự thể hiện của các chức năng quản trị trong công tác quản lý trong cơ quan hành chính. Qua đó có cái nhìn tổng quát và toàn diện về hệ thống tổ chức cơ quan hành chính dưới góc độ chức năng quản trị. Nó có thể là những kiến thức cơ bản cần có đối với bất cứ công dân nào sống trong một đất nước đang phát triển và đang hội nhập. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Bài nghiên cứu chỉ đi sâu vào tìm hiểu khái niệm, đặc điểm và các chức năng cơ bản của công tác quản trị trong cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó có những so sánh nhỏ và đóng góp ý kiến về thực trạng quản lý trong cơ quan hành chính nước ta. Phương pháp nghiên cứu. Để đạt được mục đích, bài nghiên cứu có sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau: tổng hợp, phân tích, so sánh… Kết cấu bài nghiên cứu. Bài nghiên cứu gồm có các phần: A,KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC . B. CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC A.KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM VỀ CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1.Khái niệm: Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan trong bộ máy nhà nước được thành lập theo hiến pháp và pháp luật, để thực hiện quyền lực nhà nước, có chức năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 2. Đặc điểm Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan nhà nước, là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước. Do vậy, cơ quan hành chính nhà nước cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của các cơ quan nhà nước. - Một là, Cơ quan hành chính nhà nước hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chổ: Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước; Cơ quan hành chính nhà nước nhân danh nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý. - Hai là, Mỗi cơ quan hành chính nhà nước đều hoạt động dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền nhất định và có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao. - Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu, tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước do pháp luật quy định, đó là tổng thể những quyền và nghĩa vụ cụ thể mang tính quyền lực, được nhà nước trao cho để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình, cụ thể: Các cơ quan nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật; Trong quá trình hoạt động có quyền ban hành các quyết định hành chính thể hiện dưới hình thức là các văn bản pháp quy và các văn bản cá biệt; được thành lập theo quy định của Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh hoặc theo quyết định của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp và báo cáo hoạt động trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp; Có tính độc lập và sáng tạo trong tác nghiệp điều hành nhưng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc quyền lực phục tùng. -Ba là, Về mặt thẩm quyền thì cơ quan hành chính nhà nước được quyền đơn phương ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính và văn bản đó có hiệu lực bắt buộc đối với các đối tượng có liên quan; cơ quan hành chính nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với các đối tượng chịu sự tác động, quản lý của cơ quan hành chính nhà nước. - Ngoài những đặc điểm chung nói trên, cơ quan hành chính nhà nước còn có những đặc điểm riêng như sau: +Một là, Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong khi đó các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia vào hoạt động quản lý trong phạm vi, lĩnh vực nhất định. Ví dụ: quốc hội có chức năng chủ yếu trong hoạt động lập pháp; Toà án có chức năng xét xử; Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát. Chỉ các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực: quản lý nhà nước về kinh tế, quản lý nhà nước về văn hoá, quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, quản lý xã hội,... Đó là hệ thống các đơn vị cơ sở như công ty, tổng công ty, nhà máy, xí nghiệp thuộc lĩnh vực kinh tế; trong lĩnh vực giáo dục có trường học; trong lĩnh vực y tế có bệnh viện... +Hai là, Cơ quan hành chính nhà nước nói chung là cơ quan chấp hành, điều hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành. Hoạt động chấp hành - điều hành hay còn gọi là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Điều đó có nghĩa là cơ quan hành chính nhà nước chỉ tiến hành các hoạt động để chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước trong phạm vi hoạt động chấp hành, điều hành của nhà nước. Các cơ quan hành chính nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực nhà nước cấp tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó. Các cơ quan hành chính nhà nước có quyền thành lập ra các cơ quan chuyên môn để giúp cho cơ quan hành chính nhà nước hoàn thành nhiệm vụ. +Ba là, Cơ quan hành chính nhà nước là hệ thống cơ quan có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất. Cơ quan hành chính nhà nước là một hệ thống cơ quan được thành lập từ trung ương đến cơ sở, đứng đầu là chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước. Hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước đều có hệ thống các đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị, cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Ví dụ Bộ Công an có các đơn vị, Bộ Giáo dục- đào tạo có các đơn vị, các trường Đại học trực thuộc,... +Bốn là, Hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước mang tính thường xuyên, liên tục và tương đối ổn định, là cầu nối đưa đường lối, chính sách pháp luật vào cuộc sống. Tất cả các cơ quan hành chính nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là mối quan hệ trực thuộc trên-dưới, trực thuộc ngang-dọc, quan hệ chéo...tạo thành một hệ thống thống nhất mà trung tâm chỉ đạo là Chính phủ. +Năm là, Cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý nhà nước dưới hai hình thức là ban hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên cơ sở hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác trực tiếp chỉ đạo, điều hành, kiểm tra...hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước dưới quyền và các đơn vị cơ sở trực thuộc của mình. Cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể cơ bản, quan trọng nhất của Luật hành chính. Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, trong phạm vi thẩm quyền của mình thưc hiện hoạt động chấp hành - điều hành và tham gia chính yếu vào hoạt động quản lý nhà nước, có cơ c ấ u tổ chức và phạm vi theo luật định 3.Hệ thống các cơ quan hành chính ở nước ta. Với chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, các cơ quan hành chính được tổ chức thành một bộ máy thống nhất từ trung ương đến cơ sở, bao gồm nhiều cấp, nhiều ngành, và các đơn vị với chức năng, nhiệm vụ riêng. Nhìn chung, bộ máy hành chính nước ta được chia làm 2 cấp cơ bản là cơ quan hành chính cấp trung ương và cơ quan hành chính cấp địa phương. 3.1. Cơ quan hành chính Trung ương : Cơ quan hành chính Trung ương bao gồm Chính phủ, Bộ và Cơ quan ngang Bộ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên phạm vi toàn quốc, trong đó: ·) Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chũ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất việc quản lý việc thực hiện các nhiệm vị chính trị, kinh tế văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc; đảm bảo hiệu lực của bộ máy nhà nước trung ương trung ương đến cơ sở. Như vậy: - Là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung - Thực hiện chức năng quản lý trên phạm vi toàn quốc ·) Bộ và cơ quan ngang Bộ: *)Bộ: Là cơ quan quản lý nhà nước về ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi toàn quốc.Trong đó: Bộ quản lý lĩnh vực (Bộ có chức năng cơ bản) thực hiện sự quản lý nhà nước theo lĩnh vực lớn, liên quan đến hoạt động của tất cả các bộ, các cấp quản lý của nhà nước, tổ chức xã hội… như: Bộ Kế hoạch và đầu tư; Bộ Tài chính, Bộ khoa học công nghệ, Bộ Lao động…;Bộ quản lý ngành thực hiện sự quản lý nhà nước theo ngành cụ thể, như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận tải… *) Cơ quan ngang Bộ: Bao gồm Thanh tra nhà nước, Ngân hàng nhà nước, Uỷ ban thể dục và thể thao, uỷ ban dân tộc, Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em, Văn phòng Chính phủ. Đây là những cơ quan thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực và thực hiện nhiệm vụ cụ thể về đại diện sỡ hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn của nhà nước. Tuy khác nhau về chức năng nhưng các Bộ và cơ quan ngang Bộ đều có đặc điểm chung: +) Là cơ quan hành chính cấp trung ương, thực hiên hoạt động quản lý nhà nước trên phạm vi toàn quốc +) Là cơ quan có thẩm quyền chuyên môn. Hiện nay, cả nước ta có tất cả 23 Bộ và cơ quan ngang Bộ và 13 cơ quan thuộc Chính phủ. 3.2. Cơ quan hành chính địa phương: Cơ quan hành chính địa phương bao gồm UBND các cấp và các Sở, Phòng, Ban thuộc UBND. Có 3 cấp được phân theo đơn vị hành chính như sau: Cấp tỉnh: Bao gồm tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Cấp huyện: Bao gồm quận,huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh. Cấp xã: Bao gồm xã, phường, thị trấn. Đây là những cơ quan hành chính thực hiện chức năng quản lý trong phạm vi lãnh thổ địa phương. Trong đó: - UBND là cơ quan có thẩm quyền chung quản lý về mọi mặt đời sống xã hội trong phạm vi địa giới hoạt động. - Các Sở, Phòng, Ban thuộc UBND là những cơ quan có thẩm quyền chuyên môn về một lĩnh vực công tác . B. CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC I. CHỨC NĂNG LẬP KẾ HOẠCH 1. Vai trò của lập kế hoạch trong cơ quan hành chính Để thực hiện sứ mệnh của mình,đạt được những thành tích ngắn hạn và dài hạn,tồn tại và phát triển không ngừng thì yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất đối với mọi cơ quan và tổ chức đó là yếu tố quản trị, quản trị cần thiết với mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội. Muốn quản trị tốt thì phải thực hiện tốt bốn chức năng của quản trị trong đó lập kế hoạch là chức năng khởi đầu và trọng yếu đối với nhà quản trị. Chúng ta có thể hình dung lập kế hoạch bắt đầu từ rễ cái của một cái cây đồ sộ rồi từ đó mọc lên các “nhánh” tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra Lập kế hoạch là xác định mục tiêu và lựa chọn các phương thức để đạt được mục tiêu đó . “Mục tiêu mà không có kế hoạch thì chỉ là một mơ uớc” Antoine de Saint - Exupéry đã từng nói. Đặc biệt trong cơ quan hành chính vai trò của lập kế hoạch càng được khẳng định hơn nữa. Như chúng ta đã biết , cơ quan hành chính là một loại cơ quan nhà nước thực hiện quyền hành pháp, bao gồm chức năng lập quy và chức năng hành chính. Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước nhằm duy trì trật tự xã hội, thúc đẩy phát triển và đáp ứng các nhu cầu hợp pháp của mọi tổ chức, công dân. Vì lẽ đó , lập kế hoạch không chỉ là yếu tố sống còn của một chương trình bộ môn hay tổ chức mà nó có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế , chính trị , xã hội Việt Nam . Vai trò của lập kế hoạch được thể hiện thông qua : - Đề ra định hướng công việc cho các bộ ngành , các uỷ ban nhân dân các cấp (UBND) trong công cuộc phát triển kinh tế , ổn định đời sống nhân dân . - Từ quá trình phân tích những ưu, nhược điểm đạt được , những mục tiêu chính của mình cơ quan hành chính xác định phương án thực hiện phù hợp với tình hình đất nước, tình hình thế giới. - Hướng dẫn quá trình triển khai và đánh giá , giúp phân bổ nguồn lực (ngân sách, nguồn lực con người ...) một cách hợp lý . - Theo dõi việc thực hiện các chính sách Nhà nước đề ra để từ đó phân công công việc giữa các bộ, ngành ; giữa Thủ tướng chính phủ và các Phó Thủ tướng : - Bố trí thời hạn thực hiện cuả các mục tiêu trên cơ sở xem xét những mục tiêu trước mắt , mục tiêu lâu dài . Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên , quan trọng của quản trị trong mọi tổ chức nói chung của cơ quan hành chính nói riêng , là chức năng mở đầu cho các chức năng khác của quản trị. 2. Kế hoạch và quá trình xây dựng kế hoạch trong cơ quan hành chính. 2.1. Hệ thống kế hoạch Kế hoạch là cách thức tổ chức thiết lập và xem xét lại các mục đích và định hướng, hoài bão, mục tiêu ngắn hạn , dài hạn và các chiến lược hoạt động cụ thể để đạt được mục tiêu. Mục đich cơ bản của quá trình xây dựng kế hoạch là chuyển dịch được sứ mệnh , tầm nhìn và các định hướng chiến lược ra thành các mục tiêu và chương trình hành động rõ ràng . Một kế hoạch mang tính chiến lược bắt đầu với một sứ mệnh đã được xác định một cách rõ ràng. Mintzberg định nghĩa về sứ mệnh như sau: “Một sứ mệnh cho biết chức năng cơ bản của một tổ chức trong xã hội...”. Sứ mệnh của cơ quan hành chính được xác định trên cơ sở vị trí , hoạt động của nó trong môi trường. Cơ quan hành chính có vị trí như một cơ quan hành pháp. Vì vậy sứ mệnh của cơ quan hành chính là nhân danh nhà nước tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền về nghĩa vụ pháp lý ;quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị , kinh tế , văn hoá , xã hội , quốc phòng , an ninh đối ngoại; quản lý hoạt động của các ngành , lĩnh vực cụ thể ; cung cấp các công cụ hành chính cho người dân ...Sứ mệnh này là cơ sở để xác định các ưu tiên lập kế hoạch trong tương lai, đánh giá các nỗ lực của Chính phủ , các bộ ngành. ·Kế hoạch chiến lược : như là một kế hoạch tổng thể , có thể được phân chia theo ba cấp độ : - Chiến lược cấp tổ chức : do Thủ tướng chính phủ , các Phó thủ tướng, các Bộ trưởng , Thủ trưởng, Chủ tịch UBND vạch ra và phải trả lời cho các câu hỏi : Nên chú trọng phát triển đến lĩnh vực nào ? Mục tiêu và kỳ vọng trong lĩnh vực đó ? Phân bổ các nguồn lực như thế nào để đạt được mục tiêu đó? Để đưa ra các chiến lược này các đơn vị có thể dựa trên mô hình "Năm lực lượng" của M.Porter ; Mô hình Portfolio của Nhóm tư vấn Boston (BCG - ma trận BCG). - Chiến lược cấp ngành : vị trí của các ngành trong toàn bộ nền kinh tế , trên thế giới ; tổ chức hoạt động ra sao . Các chiến lược có thể được xây dựng trên cơ sở mô hình điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe doạ (SWOT). - Chiến lược cấp chức năng : chiến lược nhân sự như nhân viên trong các cơ quan, bộ ngành ; tài chính như phân bổ nguồn tài chính giữa các địa phương... ·Kế hoạch tác nghiệp : bao gồm những chi tiết cụ thể hoá của kế hoạch chiến lược thành những hoạt đọng cụ thể . Chẳng hạn như để đạt được tốc độ tăng trưởng GDP tăng 8,2 - 8,5% từng bộ ngành phải có chiến lược cụ thể trong từng tháng , từng quý như : sử dụng nhân công sao cho hiệu quả ; làm cách nào để tăng nhanh tiến độ ; kế hoạch sử dụng nguồn nguyên nhiên liệu như thế nào... Một số hình thức thể hiện khác của kế hoạch trong cơ quan hành chính: Chính sách : là quan điểm , phương hướng và cách thức chung để cơ quan hành chính ra quyết định . Chính sách của cơ quan hành chính là chính sách chung cho tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế , chính trị Việt Nam bao gồm : chính sách phát triển kinh tế , chính sách ổn định an ninh quốc phòng , chính sách tạo thu nhập , chính sách về quyền sử dụng đất (cấp sổ đỏ, giá đất ...) , chính sách đối nội , đối ngoại ... Chính sách là tài liệu chỉ dẫn cho việc ra quyết định, là công cụ để cơ quan hành chính hướng dẫn các đơn vị trực thuộc thực hiện theo mục tiêu chung. Thủ tục : là một chuỗi các hoạt động cần thiết theo thứ tự thời gian , theo cấp bậc quản trị . Chính phủ các bộ ngành liên quan trực tiếp quy định các thủ tục hành chính trong đầu tư (cấp giấy phép đầu tư trong nước , ngoài nước) , thủ tục thuế (thủ tục cấp mã số thuế , quyết toán thuế) Quy tắc : giải thích rõ những hành động nào không được phép và được phép làm , là những quy định cần tuân thủ không có sự lựa chọn: quy chế pháp lý hành chính đối với cán bộ công nhân viên chức , các tổ chức xá hội , công dân ... Chương trình : là sự cụ thể hoá các chính sách, chiến lược nhiệm vụ , các thủ tục , quy tắc được sử dụng để đạt kết quả. Chẳng hạn như Chương trình 135 của Chính phủ về giao đất giao rừng , chương trình hỗ trợ tài chính , chương trình xóa đói, giảm nghèo,các chương trình của Chính phủ để đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ , chương trình sử dụng tiết kiện nguồn năng lượng ... Ngân quỹ có thể coi là chương trình được "số hoá", là các con số mà kinh tế Việt Nam mong muốn như GDP năm 2007,giá trị đầu tư nước ngoài vào Việt Nam , tốc độ phát triển nền kinh tế , số lượng lao động có trình độ cao , số máy móc thiết bị ... Ngoài ra kế hoạch của các cơ quan hành chính còn bao gồm : Kế hoạch dài hạn Kế hoạch trung hạn Kế hoạch ngắn hạn 2.2 Qúa trình lập kế hoạch trong cơ quan hành chính Qúa trình lập kế hoạch trong cơ quan hành chính nói riêng và các tổ chức nói chung bao gồm các bước cơ bản : Bước 1 : Nghiên cứu và dự báo Nghiên cứu và dự báo là điểm khởi đầu của việc lập kế hoạch. Tuy nhiên khác với các đơn vị khác nghiên cứu, dự báo trong cơ quan hành chính không dừng lại ở những hiểu biết về thị trường, sự cạnh tranh mà phải nghiên cứu những điểm mạnh yếu của toàn bộ nền kinh Việt Nam cũng như dự báo tình hình phát triển của nền kinh tế thế giới . Để có được những kế hoạch đúng đắn đòi hỏi phải có những dự đoán thiết thực gần đúng với thực tế về cơ hội từ đó đưa ra các chiến lược ưu tiên thực hiện trước. Chẳng hạn như, những dự đoán về nền kinh tế Việt Nam trong cuối năm 2007 về tình trạng lạm phát tăng nhanh đã giúp các nhà hoạch đinh chiến lược đưa ra những biện pháp trước mắt để bình ổn giá cả như : giảm một số loại thuế...; hay như đoán trước việc Việt Nam gia nhập tổ chức WTO sẽ giúp cho quá trình đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh, chính phủ , các bộ cơ quan ngang bộ đã đổi mới một số loại thuế phù hợp với luật pháp các nước trên thế giới . Bước 2 : Thiết lập các mục tiêu Các mục tiêu đưa ra cần xác định rõ thời hạn thực hiện và được lượng hoá đến mức cao nhất . Mục tiêu của Chính phủ, Bộ ngành, UBND có ý nghĩa quan trọng . Mục tiêu định tính : mục tiêu không lượng hoá cụ thể được. Ví dụ Mục tiêu định tính của chính phủ là : Thực hiện các nhiệm vụ kinh tế , chính trị , văn hoá , xã hội , quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước : phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ; bảo đảm an ninh quốc phòng , trật tự an toàn xã hội ; phát triển xuất khẩu ; mở cửa nền kinh tế . Mục tiêu định tính của UBND các cấp : thực hiện kế hoạch do Chính phủ đề ra trong một phạm vi lãnh thổ nhất định . Mục tiêu định lượng : mục tiêu có thể lượng hoá được. Yêu cầu của mục tiêu định lường (SMART) là phải cụ thể , có thể đo lường được, tương thích, có khả năng đạt được và thời gian thực hiện mục tiêu phải cụ thể . . Bước 3 : Phát triển các tiền đề Khi có các dự báo , các chính sách cụ thể việc áp dụng trên địa bàn nào , quy mô, các bước triển khai , mức chi phí các ảnh hưởng khác tới kế hoạch cũng cần được các tổ chức - cơ quan hành chính quan tâm xem xét. Lấy ví dụ như khi xây dựng kế hoạch phát triển các ngành công nghiệp chủ chốt chúng ta có thể dựa trên tiền đề là đặc điểm nền kinh tế Việt Nam , trình độ dân trí và yêu cầu đối với đất nước trong thời gian tới Bước 4 : Xây dựng các phương án Để thực hiện kế hoạch có rất nhiều phương án được đưa ra . Điều quan trọng là phải lựa chọn phương án những phương án có triển vọng nhất trên cơ sở phân tích . Bước 5 : Đánh giá các phương án Đánh giá các phương án trên cơ sở tiêu chuẩn phù hợp với mục tiêu và tiền để đặt ra. Điều dó còn phụ thuộc vào mục tiêu trước mắt , mục tiêu lâu dài của Nhà nước ta. Bước 6 : Lựa chọn các phương án và ra quyết định Sau bước đánh giá một vài phương án được lựa chọn . Lúc này , cần phân bổ các nguồn lực : nhân lực , tài chính để thực hiện kế hoạch đặt ra. Công việc cụ thể cho các loại kế hoạch như sau: a. Lập kế hoạch chiến lược Cũng giống như những tổ chức khác, việc lập kế hoạch chiến lược của các cơ quan hành chính là quá trình xác định làm sao đạt được những mục tiêu dài hạn với các nguồn lực có thể huy động được, xây dựng chiến lược và không ngừng hoàn thiện, bổ sung chiến lược khi cần thiết. Việc lập kế hoạch chiến lược của cơ quan hành chính cũng gồm hai bước, đó là xác định mục tiêu và hình thành chiến lược. Xác định mục tiêu : Mục đích của việc xác định mục tiêu là chuyển hoá sứ mệnh và định hướng của tổ chức thành cái cụ thể hơn, để đo lường được kết quả hoạt động của tổ chức trong thời kì ngắn hạn và dài hạn. Khi xác định mục tiêu phải căn cứ vào nguồn lực hiện tại và những nguồn lực có thể huy động được trong tương lai. Với chức năng quản lí hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mục tiêu của các cơ quan hành chính không là những mục tiêu về phúc lợi xã hội trong những phạm vi lĩnh vực nhất định của các tổ chức chính trị hay mục tiêu về lợi nhuận, thị phần, chất lượng sản phẩm dịch vụ… của các doanh nghiệp mà nó hướng tới các mục tiêu tổng thể bao quát toàn xã hội về kinh tế, văn hoá chính trị, làm sao để đất nước ngày càng phát triển sánh vai với bạn bè quốc tế. Trong năm năm tới các cơ quan hành chính mà đứng đầu là chính phủ xác định mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế xã hội là: đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển,sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất,văn hoá và tinh thần của nhân dân. đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, giữ vững ổn định chính trị và trật tự và an toàn xã hội. bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền,toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại,nâng cao vị thế của việt nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Hình thành chiến lược : Nhiệm vụ hình thành chiến lược bắt đầu với việc phân tích thực trạng bên trong và bên ngoài tổ chức để có một bức tranh tổng thế. Căn cứ vào tổc độ tăng tổng sản phẩm trong nước, cơ cấu kinh tế, tổng kim ngạch xuất khẩu, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài… các cơ quan hành chính hình thành chiến lược cho mình. Một số chiến lược cụ thể của Chính phủ : * Chiến lược Phát triển Nông thôn Chương trình lớn của Chính phủ cho phát triển nông nghiệp và nông thôn được quán triệt một cách cô đọng trong năm chiến lược chính đã được Nghiên cứu Chương trình Ngành Nông nghiệp của ADB xác định sau đây: Chiến lược 1:  tăng năng suất và tính cạnh tranh của hệ thống nông nghiệp,. Chiến lược 2: giảm đói nghèo và khả năng bị tổn thương Chiến lược 3: cải cách thể chế và hệ thống pháp luật Chiến lược 4: cải thiện quản lý tài nguyên thiên nhiên. Chiến lược 5: tăng cường sự tham gia của các chủ thể liên quan b. Lập kế hoạch tác nghiệp Kế hoạch tác nghiệp bao gồm những chi tiết của kế hoạch chiến lược thành những hoạt động hàng năm, hàng quý hàng tháng…Nó ảnh hưởng đến việc thiết kế những hệ thống hoạt động của tổ chức, sau khi thiết kế được các hệ thống hoạt động của tổ chức và đưa nó vào vận hành, những nhà quản trị phải đối mặt với những vấn đề mới phát sinh từ quá trình hoạt động vì thế làm nảy sinh cần có công tác lập kế hoạch tác nghiệp. Lập kế hoạch tác nghiệp trong các doanh nghiệp dựa trên các dự đoán về nhu cầu trong tương lai cho những sản phẩm và dịch vụ của hệ thống liên quan đến việc quản trị tất cả các nguồn lực của tổ chức là con người, máy móc thiết bi, và nguyên vật liệu. Nó có thể mang tính chiến lược và dài hạn hoặc chiến thuật và ngắn hạn. Đối với các cơ quan hành chính, kế hoạch tác nghiệp được lập dựa trên nguồn lực của đất nước về tài nguyên thiên nhiên, nhân lực, trí lực. 3. So sánh chức năng lập kế hoạch giữa cơ quan hành chính và các tổ chức khác . 3.1 . Đơn vị sự nghiệp có thu Đơn vị sự nghiệp có thu là đơn vị do nhà nước thành lập, hoạt động có thu trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ và môi trường, văn hóa thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ, việc làm, kể cả các đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc các tổng công ty đang thực hiện chế độ hành chính sự nghiệp. Các cơ quan hành chính và những cơ quan sự nghiệp có thu nói riêng đều là các cơ quan được nhà nước sáng lập ra phục vụ cho những mục tiêu quản lý xã hội của nhà nước, và lĩnh vực hoạt động chủ yếu là các lĩnh vực công như y tế, giáo dục, khoa học công nghệ, văn hóa thông tin…Vì vậy , các mục tiêu chung trong quá trình lập kế hoạch giữa hai đơn vị này là tương đối giống nhau hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận , vì mục tiêu cung cấp các dịch vụ hành chính công cho người dân. Tuy nhiên, vì đơn vị còn có cả những hoạt động sản xuất kinh doanh và cung ứng dịch vụ đem lại doanh thu cho đơn vị, nên mục tiêu đặt ra của những tổ chức này còn gắn liền với cả việc phải phát triển đơn vị và làm tăng số thu cho đơn vị, góp phần tự chủ hóa dần việc thu chi của đơn vị, không phụ thuộc vào ngân sách nhà nước quá nhiều. Nguồn kinh phí hoạt động dựa trên nguồn tự thu và phần cấp phát của ngân sách nếu phần thu của đơn vị vẫn không đủ đảm bảo cho toàn bộ hoạt động của đợn vị. Về nguồn nhân lực thì chủ yếu là các cán bộ công nhân viên chức có trình độ về chuyên môn thuộc lĩnh vực hoạt động của tổ chức, thường gắn bó lâu dài với tổ chức, làm việc cho những phòng ban cụ thể. Các đơn vị hành chính sự nghiệp có thu hoạt động chủ yêu trên các lĩnh vực dịch vụ công luôn nỗ lực để phát triển và tạo vị thế cho mình trong lĩnh vực đơn vị hoạt động, để vừa cung cấp được những dịch vụ tốt nhất cho xã hội, đảm bảo sự phát triển của xã hội, vừa đạt được mức thu ngày càng cao để đảm bảo cho chi hoạt động của đơn vị và giúp giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Với mục tiêu như trên, nhà quản trị của những đơn vị này phải đưa ra kế hoạch hoạt động như thế nào để đảm bảo được những yêu cầu đặt ra. Về kế hoạch chiến lược, nhà quản trị của những đơn vị này sẽ lập ra những kế hoạch dựa trên những chủ trương chính sách của nhà nước về lĩnh vực có liên quan. Nhà quản trị phải nắm được chủ trương chính sách và những yêu cầu cụ thể của những cơ quan cấp trên để từ đó có kế hoạch thích hợp. Ngoài ra, với yêu cầu của một đơn vị sự nghiệp có thu, kế hoạch của đơn vị còn bao gồm cả việc làm tăng nguồn thu cho đơn vị, để đơn vị có mức thu ngày càng cao và tiến tới càng tự đảm bảo được nhiều chi phí hoạt động của mình. Vậy, nhà quản trị trong đơn vị sự nghiệp có thu phải đảm bảo cả 3 yêu cầu: thực hiện đúng theo chủ trương đề ra của nhà nước, vừa đáp ứng được nhu cầu xã hội, lại vừa mở rộng được nguồn thu cho đơn vị. Công việc của nhà quản trị trong trường hợp này là khá nặng nề do phải tập trung cùng lúc cho nhiều mục tiêu. Từ những kế hoạch chiến lược trên, những kế hoạch tác nghiệp cụ thể được đưa ra. Kế hoạch tác nghiệp là những kế hoạch đặt ra nhằm nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể, thỏa mãn nhu cầu chung của tổ chức. Loại kế hoạch này được sử dụng chủ yếu ở các phòng ban và do các quản trị viên cấp trung gian, tức là trưởng các phòng ban cụ thể. Với đơn vị sự nghiệp có thu, các phòng ban thường được phân theo những chuyên môn cụ thể. Trưởng các phòng ban cũng đặt ra kế hoạch dựa trên những lĩnh vực chuyên môn cụ thể, và hướng theo mục tiêu chung của tổ chức. 3.2. Các tổ chức phi chính phủ Các tổ chức phi chính phủ bao gồm : tổ chức chính trị , tổ chức chính trị - xã hội , tổ chức xã hội - nghề nghiệp là những tổ chức tập hợp rộng rãi những thành viên trên cơ sở sự đồng nhất về những phương diện nhất định (giới tính, lứa tuổi , nghề nghiệp ...) Các tổ chức phi chính phủ ra đời với nhiều mục đích khác nhau, thông thường nhằm đẩy mạnh các mục tiêu chính trị hay xã hội như bảo vệ môi trường thiên nhiên , khuyến khích việc tôn trọng các quyền con người , cải thiện mức phúc lợi cho những người bị thiệt thòi, hoặc đại diện cho một nghị trình đoàn thể. Có rất nhiều tổ chức như vậy và mục tiêu của chúng bao trùm nhiều khía cạnh chính trị, xã hội, triết lý và nhân văn. Các tổ chức phi chính phủ giống các cơ quan hành chính đều hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận .Trong khi cơ quan hành chính có các định hướng vì mục tiêu kinh tế - xã hội , chính trị quốc phòng thì các tổ chức này hoạt đọng vì lợi ích của con người , bảo vệ con người trong khuôn khổ pháp luật trước những cơ quan chính phủ, Quốc hội , Toà án , Viện kiểm soát ...Ngoài ra các tổ chức này còn góp phần quan trọng trong việc hoạch định và thực hiện các chính sách của Đảng và Chính phủ Việt Nam. Trên cơ sở những mục tiêu đó, tổ chức phi chính phủ phải có những phương án lập kế hoạch phù hợp với vị trí , chức năng nhiệm vụ của mình. Về kế hoạch chiến lược : nhà quản trị của những đơn vị này sẽ lập ra những kế hoạch dựa trên những chủ trương chính sách của nhà nước, trên cơ sở pháp luật về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân.. Trên cơ sở những kế hoạch chiến lược , các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp có thể xây dựng kế hoạch tác nghiệp cụ thể cho từng mục tiêu : kế hoạch tuyển dụng nhân viên, kế hoạch sử dụng nguồn hỗ trợ của Nhà nước, ... 3.3. Doanh nghiệp Khác hoàn toàn với các tổ chức trên , doanh nghiệp là một đơn vị hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, gia tăng giá trị tài sản của các cổ đông. Vì thế , chức năng lập kế hoạch trong doanh nghiệp có một số điểm khác biệt so với các tổ chức khác. Một kế hoạch chiến lược của doanh nghiệp cần tập trung vào việc xác định và làm rõ : DN dự định hướng tới mục tiêu gì và bao giờ hoàn thành; Định rõ tầm nhìn, nhiệm vụ và các mục tiêu có thể đo lường được của DN; Phân tích những thiếu hụt cần bù đắp. Phân tích này gồm ba phần: Xác định tình hình hiện tại, làm rõ quá trình đem lại những thành quả như hiện tại, từ đó xác định và phân tích nhiệm vu và tầm nhìn để phát triển những mục tiêu mới trong thời gian tới;Xác định triển vọng tương lai theo kỳ vọng và dự kiến đạt được, trong đó nêu rõ lịch trình cụ thể và mang tính thực tế; Xác định làm thế nào để đạt được triển vọng tương lai đó, khi nào đạt được và chi phí như thế nào. Những nguồn lực nào mà DN hiện có hoặc có khả năng huy động; Xác định quan điểm chiến lược để có thể kết hợp tốt nhất các nhân tố kể trên; Xác định quá trình hành động để hướng tới những mục tiêu đã định của DN, trong đó có tính đến cả khả năng thành lập các liên minh chiến lược, thâu tóm DN khác... Đâu là những vấn đề then chốt cần được đề cập đến trước khi thực hiện kế hoạch tăng trưởng như đã định, như những yếu kém trong hoạt động, trong điều hành, quan hệ công cộng, hoạt động tài chính... Trong doanh nghiệp điều quan trọng nhất là thị trường, cạnh tranh và sử dụng hiệu quả các nguồn lực sao cho đem lại nguồn thu cao nhất cho mọi thành viên trong doanh nghiệp . Do đó, lập kế hoach quản trị tài chính là một trong những chiến lược hàng đầu của mọi nhà quản trị. Việc quản lý tài chính bao gồm việc lập các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn hạn, đồng thời quản lý có hiệu quả vốn hoạt động thực của công ty. Đây là công việc rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp bởi vì nó ảnh hưởng đến cách thức và phương thức mà nhà quản lý thu hút vốn đầu tư để thành lập, duy trì và mở rộng công việc kinh doanh. Lập kế hoạch tài chính sẽ cho phép qụyết định lượng nguyên liệu thô doanh nghiệp có thể mua, sản phẩm công ty có thể sản xuất và khả năng công ty có thể tiếp thị, quảng cáo để bán sản phẩm ra thị trường. Khi có kế hoạch tài chính, bạn cũng có thể xác định được nguồn nhân lực doanh nghiệp cần. “Việc quản lý tài chính không có hiệu quả là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự thất bại của các công ty, không kể công ty vừa và nhỏ hay các tập đoàn công ty lớn.” Kế hoạch tài chính ngắn hạn   Các công cụ dùng trong việc lập kế hoạch ngắn hạn thường dùng là: báo cáo thu nhập chiếu lệ, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, phân tích tình hình ngân quỹ và chiến lược giá cả. Kế hoạch tài chính ngắn hạn thường được lập theo từng tháng để có được cái nhìn sát hơn và đưa ra được biện pháp nâng cao tình hình tài chính. Lập kế hoạch tài chính dài hạn hay kế hoạch tài chính chiến lược    Xác lập tốc độ tăng trưởng mong muốn mà công ty có thể đạt được. Tính toán mức vốn cần thiết để trang trải các khoản tồn kho, trang thiết bị, nhà xưởng và nhu cầu nhân sự cần thiết để đạt được tốc độ tăng doanh thu. Nhà quản trị phải dự tính được chính xác và kịp thời nhu cầu vốn để có kế hoạch thu hút vốn bên ngoài trong trường hợp ngân quỹ từ lợi nhuận không chia không đủ đáp ứng.Nhà quản trị phải tích cực lập kế hoạch tài chính để kiểm soát được tốc độ tăng trưởng, phải xác định được chính xác các nhu cầu của doanh nghiệp trong tương lai 4. Thực trạng thực hiện chức năng lập kế hoạch trong cơ quan hành chính Công tác kế hoạch giữ một vị trí, vai trò mở đường cho tất cả các chức năng quản trị khác nên nó được coi là chức năng quản trị chính yếu trong một cơ quan. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng diễn ra quyết liệt. Chính vì vậy, công tác lập kế hoạch đã trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết trong các tổ chức nói chung và trong cơ quan hành chính nói riêng. Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về lập kế hoạch trong cơ quan hành chính nhà nước. 4.1. Thực trạng trong việc lập kế hoạch và sử dụng ngân sách Lập kế hoach quan trọng nhất là phải nâng cao khả năng cung cấp dịch vụ, sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực, sử dụng nguồn vốn tập trung có mục tiêu hơn và tăng cường trách nhiệm trong việc thực thi chính sách. Tuy nhiên, cơ quan hành chính cụ thể là Chính phủ phải đối mặt với những khó khăn lớn trong quá trình cố gắng cải thiện quy trình lên kế hoạch và lập ngân sách cũng như trong việc tạo ra tính liên kết giữa hai quy trình này. Cơ bản các khó khăn thách thức bắt nguồn từ yêu cầu phải thiết lập được những chính sách rõ ràng, đảm bảo việc lập ngân sách phản ánh được các chính sách đó và chi tiêu phải theo đúng phân bổ đã đặt ra. Thách thức cũng bắt nguồn từ yêu cầu phải đo lường kết quả và đưa kết quả đó phản ánh vào trong quy trình hoạch định chính sách . Tuy nhiên ở nước ta và một số nước đang phát triển trên thế giới mối liên kết giữa lên kế hoạch, lập ngân sách và kết quả vẫn còn yếu. Ở nhiều nước chính sách xóa đói giảm nghèo (PRSs) mang lại khung phát triển chung. Nhưng cũng do tính tổng quan này mà phát sinh ra những thách thức, vừa ở góc độ phối hợp với các kế hoạch toàn diện và khu vực ngành nghề của chính phủ cũng như ở góc độ ưu tiên các mục tiêu có tính liên kết như mục tiêu tốc độ tăng trưởng, bảo vệ môi trường và xã hội, giải quyết các vấn đề về bình đẳng giới, và giảm nghèo. Các quy trình ngân sách là hết sức quan trọng trong việc thực thi chính sách. Ngân sách là công cụ chính để biến chính sách quốc gia thành hành động và là công cụ chính để đảm bảo trách nhiệm của quốc gia vì việc thực thi ngân sách chịu sự giám sát của luật pháp và kiểm toán độc lập. • Quy trình lên kế hoạch cần phải rõ ràng, tránh chồng chéo và đảm bảo các kế hoạch được tính toán chi phí thực tế, có hạ định về thời gian và khả thi. • Phân bổ ngân sách vốn và ngân sách hoạt động cần phải thực hiện thống nhất nhằm đảm bảo phân bổ hợp lý nguồn lực. • Các quan hệ và quy định về trách nhiệm phải rõ ràng, bao gồm cả việc ủy quyền và quan hệ báo cáo hành chính rõ ràng. • Quan hệ quy định về trách nhiệm phải hết sức rạch ròi, có các kế toán viên theo dõi quá trình chi tiêu ngân sách của chính họ và chịu trách nhiệu về việc sử dụng đúng theo quy trình và giá trị tiền bạc của các khoản chi tiêu đó. • Có những quy trình kiểm toán độc lập và chất lượng cao để có phản hồi kịp thời vào quy định pháp luật liên quan đến chi tiêu chính phủ. Ngược lại, khi các quy trình và thể chế hoạch định chính sách, kế hoạch và ngân sách phân tán rời rác, việc cải thiện về mặt kỹ thuật không có khả năng đủ củng cố hợp lý cho hệ thống hoạch định và phân bổ ngân sách. Hơn nữa, để có những cải thiện đáng kể sẽ rất mất thời gian và đòi hỏi phải có sự hỗ trợ cao của chính phủ và các hệ thống thưởng phạt phù hợp. Cải thiện việc lập hệ thống kế hoạch và ngân sách phản ánh các cấp khác nhau của chính phủ. Cần phải đạt đựợc sự nhất trí về mục tiêu và quy trình cũng nhu kế hoạch của những người sẽ thực thi các kế hoạch đó thông qua các quy trình lên kế hoạch có tính tổng thể. Vì vậy , một hệ thống lập kế hoạch và ngân sách hiệu quả dường như tạo ra các động lực tích cực đối với tất cả các đối tượng tham gia chính. 4.2 Kế hoạch cải cách hành chính Với trình độ lạc hậu của nền kinh tế,sức ì của cơ chế quan liêu bao cấp , sự chậm chạp và chưa sẵn sàng hội nhập quốc tế của đất nước,trong khi đó xu hướng toàn cầu hoá ngày càng mãnh liệt bao trùm tất cả các hoạt động từ kinh tế, chính trị, khoa học và công nghệ, xã hội, văn hoá và môi trường, Chính phủ đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội mang tên “ chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Bên cạnh những chiến lược phát triển kinh tế , các cơ quan hành chính cũng có những bước cải cách hành chính cụ thể phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế . Do những thói quen và sự trì trệ còn tồn lại dai dẳng từ nền hành chính tập trung bao cấp đã ăn sâu vào nếp nghĩ, cách làm của đội ngũ cán bộ công chức, đặc biệt là những người được hưởng lợi từ nền hành chính cũ, sẽ làm cản trở công cuộc cải cách hành chính (CCHC) và gây khó khăn trong việc thực hiện để có thể vượt qua những ảnh hưởng và tồn tại của cơ chế cũ và điều chỉnh thích nghi với cơ chế thị trường. Đồng thời, thực hiện CCHC ở Việt Nam sẽ gặp phải vấn đề thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý nhà nước khi xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương trình tổng thể CCHC nhà nước nhằm mục tiêu từng bước thay thế cơ chế quản lý tập trung bao cấp bằng cơ chế mới phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương trình tổng thể CCHC nhà nước dựa trên 4 chiến lược có sự gắn kết chặt chẽ với nhau: Cải cách thể chế tăng cường hiệu lực của luật pháp và hiệu quả cung cấp dịch vụ công; Cải cách tổ chức bộ máy, xây dựng cơ cấu tổ chức hợp lý trong đó xác định rõ trách nhiệm của từng đơn vị thành viên, cá nhân; Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, sắp xếp hợp lý cơ cấu công chức, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chế độ đãi ngộ cán bộ công chức; Và cải cách tài chính công, đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách. Mục tiêu tổng thể của chương trình CCHC nhà nước là đến năm 2010 xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhằm đạt mục tiêu nói trên, Kế hoạch hành động CCHC đã lựa chọn 4 lĩnh vực : Tổ chức bộ máy: sắp xếp nhằm hợp lý cơ cấu tổ chức của Bộ, giảm bớt sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Tăng cường năng lực nhằm đẩy mạnh phân cấp (trong giai đoạn tiếp theo); Thể chế: tăng cường các chức năng quản lý nhà nước, dựa chủ yếu vào việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý và đề xuất các quy chế làm việc mới theo nguyên tắc ISO; Nguồn nhân lực: Xây dựng hệ thống quản lý nguồn nhân lực và lập kế hoạch đào tạo tăng cường năng lực nhằm xây dựng một nền công vụ vững mạnh; Cải cách quản lý tài chính công. 5. Đề xuất hình thức lập kế hoạch theo mục tiêu 5.1 Khái niệm: Lập kế hoạch theo mục tiêu là cách thức lập kế hoạch sử dụng các phương pháp tiếp cận theo khung lôgíc. Đây một phương pháp được sử dụng rộng rãi trên thế giới như một công cụ thiết kế và lập kế hoạch hiệu quả bởi những đặc điểm ưu việt sau: Đây là phương pháp có sự tham gia, có nghĩa là các đối tác và các đối tượng hưởng lợi trực tiếp tham gia vào tất cả các khâu phân tích và lập kế hoạch do vậy đảm bảo tính tự chủ và hỗ trợ tốt cho quá trình thực hiện; Phương pháp này giúp xác định các mục tiêu rõ ràng ở các cấp độ khác nhau; Phương pháp này sử dụng các chỉ số xác định mức độ hoàn thành các mục tiêu và nhờ đó tạo điều kiện cho công tác giám sát và đánh giá dựa theo kết quả; Lập kế hoạch theo khung lôgíc áp dụng phương pháp phân tách công việc, liên hệ một cách lôgíc giữa các hoạt động với mục tiêu cần đạt được và do vậy tạo cơ sở cho việc lập kế hoạch hoạt động chi tiết cho từng năm, tháng, tuần hoặc kế hoạch hàng ngày nếu muốn; Phương pháp này cho phép xác định rõ trách nhiệm và các nhiệm vụ cụ thể cho tất cả các thành viên Ban quản lý dự án cũng như đối với từng cá nhân. 5.2 Các bước lập kế hoạch Xác định và thống nhất các ưu tiên: xác định những vấn đề và các hoạt động ưu tiên nhằm giải quyết các nhu cầu cuả cơ quan hành chính và có ảnh hưởng trực tiếp đến các dịch vụ công theo yêu cầu của các đối tượng hưởng lợi. Việc xác định các ưu tiên ngay từ đầu có vai trò quan trọng đối với tinh thần cam kết và tính tự chủ trong quá trình triển khai thực hiện sau này. Sự tham gia của các đối tác: Căn cứ vào các ưu tiên đã được lựa chọn đưa ra các nhóm lập kế hoạch chiến lược có sự tham gia của các tổ chức khác. Dự thảo Kế hoạch hành động: Các nhóm lập kế hoạch dự thảo kế hoạch hành động chiến lược theo khung lôgíc gồm các mục tiêu, kết quả, chỉ số đánh giá, các hoạt động chính, nguồn lực thực hiện, thời gian cho các hoạt động ưu tiên của bộ ngành cơ quan chính phủ. Quá trình tham vấn: Trong quá trình dự thảo, kế hoạch hành động do từng nhóm lập kế hoạch chuẩn bị được chỉnh sửa và hoàn thiện sau khi tham vấn ý kiến với đơn vị chủ quản và các đối tác liên quan. Phổ biến triển khai thực hiện :Quá trình phổ biến, quán triệt nội dung của Kế hoạch hành động CCHC được thực hiện ngay sau khi bản Kế hoạch được duyệt. Triển khai thực hiện. Kế hoạch hoạt động chi tiết, sử dụng phương pháp phân tách công việc được xây dựng trên cơ sở tính tự chủ và sự cam kết của các đối tác tham gia thực hiện được đảm bảo. 5.3 Các giai đoạn thực hiện: Phương pháp khung lôgíc thường được áp dụng trong 2 giai đoạn: giai đoạn phân tích và giai đoạn thiết kế chương trình, dự án: *) Giai đoạn phân tích: Giai đoạn này bao gồm quá trình phân tích trạng thái hiện tại, sau đó xác định những mục tiêu để cải thiện trạng thái đó. Quá trình phân tích trạng thái hiện tại tập trung vào những vấn đề và những khó khăn gặp phải nhằm xác định những lĩnh vực hoạt động kém hiệu quả, những kết quả chưa đạt yêu cầu và những yếu kém về năng lực hoạt động của các đơn vị, những quy định chưa hoàn thiện và như vậy cung cấp thông tin rõ ràng làm cơ sở đề xuất những thay đổi có thể triển khai, cơ chế giám sát, đánh giá hợp lý. Các mục tiêu được xây dựng trên 2 cấp độ: những mục tiêu phát triển dài hạn, tương tự như mục tiêu tổng thể và những mục tiêu cụ thể trước mắt. Mục tiêu phát triển hay mục tiêu chỉ đạo, xác định phương hướng mà không cho biết đích đến cuối cùng dự kiến. Những mục tiêu chỉ đạo là những tuyên bố về sứ mệnh hoặc như những ngôi sao chỉ đường đến mục tiêu dài hạn cuối cùng. Mục tiêu trước mắt là hình ảnh thực tế chúng ta mong muốn đạt được sau khi kết thúc kế hoạch và sử dụng các tiêu chí SMART để xây dựng. *) Giai đoạn thiết kế chương trình, dự án: Ở giai đoạn này, trạng thái hiện tại đã được mô tả kỹ càng trong Báo cáo nghiên cứu điều tra cơ bản hoặc kết quả phân tích vấn đề và tương lai mong muốn cũng đã được phác thảo dưới dạng các mục tiêu, trong đó các mục tiêu trước mắt tạo nên hình ảnh hiện thực trong tương lai. Giai đoạn thiết kế giải quyết vấn đề làm thế nào để đi từ hiện tại đến tương lai.Các khái niệm và mối quan hệ trong khung lôgíc được thể hiện trong ma trận kế hoạch . Một trong những yêu cầu cơ bản trong công tác lập kế hoạch, đó là quy trình và kỹ thuật lập kế hoạch. Trong đó, bao gồm 4 bước chính là: xây dựng kế hoạch; kỹ năng lập kế hoạch tổng hợp; xác định và chuẩn bị các nguồn lực vật chất, nguồn lực con người; các yếu tố cấu thành sức mạnh của tổ chức...Tuy nhiên, khi xem xét vấn đề này, chúng ta cần tính tới yếu tố lịch sử. Đất nước chúng ta xuất phát từ một nền kinh tế kế hoạch, nên hai chữ “kế hoạch” đến nay vẫn còn đè nặng theo kiểu tư duy định lượng: phát triển bao nhiêu cây, bao nhiêu con, bao nhiêu tấn, tạ…Việc đưa ra các mục tiêu bằng những con số quá cụ thể trong điều kiện đất nước đang chuyển dần sang nền kinh tế thị trường rõ ràng đã không còn phù hợp. Vì vậy , các tổ chức nói chung và cơ quan hành chính nói riêng cần giảm bớt các khâu trong quá trình hoạch định nên chú trọng đến việc ra quyết định trên cơ sở các mục tiêu nên "Hoạch định không ngừng và thường xuyên ra quyết định" II. CHỨC NĂNG TỔ CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1) Đặc điểm cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính 1.1) Tính chuyên môn hoá: Chuyên môn hoá công việc là sự phân chia một công việc phức tạp thành các công việc đơn giản, mang tính độc lập tương đối để giao cho từng người phụ trách. Sự chuyên môn hoá là một cách thức hữu hiệu để tối ưu hoá kết quả hoạt động của tổ chức, nhờ vào việc đơn giản hoá các công việc và biến mỗi người thành chuyên gia trong một số khâu nhất định. Đối với cơ quan hành chính, đây là một yêu cầu tất yếu nhằm hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình – quản lý nhà nước về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng,…) trên phạm vi lãnh thổ rộng lớn về mặt địa lý (59 tỉnh và 4 thành phố trực thuộc trung ương) và phức tạp về thành phần dân cư ( khác nhau về giới tính, độ tuổi, dân tộc, tôn giáo…). Công việc đó được phân chia một cách khoa học và có hệ thống từ trung ương đến địa phương, theo từng cấp, từng ngành, từng lĩnh vực, cụ thể hoá cho từng vị trí công tác. Nhờ đó, loại bỏ được những chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan, các bộ phận trong quá trình hoạt động nhưng vẫn đảm bảo sự thống nhất về cơ cấu tổ chức của cung một loại cơ quan trên những địa bàn, cấp, lĩnh vực khác nhau. Mỗi cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính phải đảm bảo những tiêu chuẩn nhất định về trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ tương ứng với vị trí công tác. Mỗi vị trí công tác được giao phó một hoặc một số công việc cụ thể. Đối với những vị trí quan trọng như Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các cấp, các công việc này được cụ thể hoá thành các điều luật như: Điều 114 và 116 của Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định về Nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ ,của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ Hoặc Điều 124 quy định chung về nhiệm vụ của Chủ tịch UBND. 1.2 Phân chia cơ quan thành các bộ phận: Chuyên môn hoá là cơ sở để tiến hành sự hợp nhóm các công việc, nhiệm vụ và chức năng hoạt động của tổ chức theo chiều ngang để giao cho những nhà quản trị phụ trách, hình thành nên mô hình tổ chức theo bộ phận: mô hình tổ chức đơn giản, mô hình tổ chức theo chức năng, hoặc mô hình tổ chức hỗn hợp... Các cơ quan hành chính tuỳ theo chức năng, thẩm quyền hoạt động có thể tổ chức theo 2 mô hình cơ bản là: theo chức năng và mô hình tổ chức hỗn hợp. Cụ thể: *) Đối với các cơ quan hành chính có thẩm quyền chung (Chính phủ và UBND các cấp): Do phải quản lý mọi mặt của đời sống xã hội trên một phạm vi địa lý nhất định nên các cơ quan này được tổ chức theo mô hình tổ chức theo chức năng. Trong mỗi cơ quan, người đứng đầu điều hành và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của đơn vị mình phụ trách. Đồng thời, các thành viên khác sẽ đảm nhận chuyên về một lĩnh vực hoạt động như lĩnh vực kế hoạch, tài chính, … hoặc ngành cụ thể như ngành nông nghiệp, giao thông vận tải… Ví dụ: Cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao gồm: Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm điều hành và báo cáo các hoạt động của Chính phủ trước Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Chủ tịch nước. Phó thủ tướng làm việc theo sự phân công của Thủ tướng. Bộ trưởng và các thành viên khác chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành , lĩnh vực mình phụ trách trong phạm vi cả nước. Tương tự như Chính phủ, UBND các cấp cũng tổ chức theo mô hình này, nhưng về số lượng các thành viên chỉ giới hạn từ 3 đến 11 thành viên (Số lượng cụ thể được quy định tại điều 122 luật tổ chức HĐND và UBND và tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương) bao gồm Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các Uỷ viên. *) Đối với các cơ quan có thẩm quyền riêng (Bộ, các cơ quan ngang Bộ; Sở phòng ban thuộc UBND các cấp) : Các cơ quan hành chính có thẩm quyền riêng quản lý nhà nước về một ngành hay lĩnh vực công tác. Trong mỗi cơ quan có các bộ phận đảm nhiệm chức năng riêng về tài chính, kế hoạch, nhân sự… đảm bảo hoạt động thông suốt của tổ chức. Đồng thời, do phạm vi hoạt động trên toàn quốc (Bộ và cơ quan ngang Bộ) hoặc địa phương (UBND các cấp) nên cần phải có những bộ phận riêng ở các cấp khác nhau. Có thể thấy rõ điều này qua ví dụ về cơ cấu tổ chức của Bộ tài chính như sau: Cơ cấu tổ chức của bộ tài chính bao gồm: Vụ, Văn phòng Bộ, thanh tra Bộ, Cục thuộc Bộ, Tổng cục thuộc Bộ, Tổ chức sự nghiệp có thu thuộc Bộ. Trong đó: - Vụ: được tổ chức để tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực theo hướng một vụ được giao nhiều việc, nhưng một việc không giao cho nhiều vụ :Vụ Ngân sách Nhà nước, Vụ tài chính - Hành chính-sự nghiệp - Văn phòng Bộ có chức năng giúp Bộ trưởng tổng hợp, điều phối hoạt động các tổ chức của Bộ theo chương trình, kế hoạch làm việc và thực hiện công tác hành chính quản trị đối với các hoạt động của cơ quan b. - Thanh tra Bộ có chức năng thực hiện quyền thanh tra phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật về thanh tra. - Cục thuộc Bộ được tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. - Tổng cục thuộc Bộ được tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo chuyên ngành lớn, phức tạp không phân cấp cho địa phương, do Bộ trực tiếp phụ trách và theo hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương trong phạm vi toàn quốc. Ví dụ Tổng cục thuế. - Đối với Tổng cục thuế: Là cơ quan quản lý nhà nước về chuyên ngành thuế. Bên cạnh các bộ phận có chức năng chung như: Các ban, Trung tâm, Tạp chí thuế…thì tuỳ theo phạm vi địa lý, ở mỗi tỉnh có Cục thuế tỉnh, ở huyện có Chi cục thuế thuộc huyện 1.3 Số cấp quản trị và cơ cấu tổ chức theo hình tháp. Các cơ quan hành chính nhà nước được tổ và hoạt động trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật Cơ sở cho mọi hoạt động của cơ quan hành chính là pháp luật và hoạt động của các cơ quan này nhằm đảm bảo pháp luật nhà nước được thực thi trong toàn xã hội. Vì thế, có thể nói môi trường hoạt động của các cơ quan này mang tính ổn định cao, tuân theo tính ổn định của các quy định pháp luật, trong đó có các quy định về chức năng và nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan này. Hoạt động đó không giới hạn trong một địa phương, một vùng mà thống nhất trên toàn lãnh thổ. Do đó cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức theo cơ cấu hình tháp. Đây là loại cơ cấu có rất nhiều cấp bậc quản trị. Các cấp bậc này chủ yếu được phân chia theo phạm vi thẩm quyền và có quan hệ với nhau theo chiều dọc giữa “cấp trên- cấp dưới” hay “ra lệnh-kiểm tra”. Trong đó, thủ trưởng ra các mệnh lệnh hành chính và kiểm tra gắt gao việc thực hiện mệnh lệnh. Những mệnh lệnh này mô tả chi tiết cụ thể công việc của cấp dưới và những người này thực hiện theo đúng những nhiệm vụ được giao và chỉ những nhiệm vụ đó. Điều này thể hiện của sự chuyên môn hoá hoạt động theo chức năng, với sự phân chia cơ quan thành các bộ phận mang tính độc lập cao, tạo nên biên giới rõ ràng giữa các đơn vị và công việc. Nhờ đó tránh sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và hoạt động, nhất là trong việc quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo sự thống nhất hoạt động trong mỗi cơ quan cũng như toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính với trung tâm là Chính phủ, nâng cao hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước. Ví dụ: Mô hình tổ chức của Bộ tài chính: Bộ trưởng Các thứ trưởng Các tổng cục trưởng Các cục trưởng Trưởng các chi cục Các đội trưởng Các nhân viên 1.4 Mối quan hệ quyền hạn trong cơ quan hành chính *) Các loại quyền hạn trong cơ quan hành chính: Trong một tổ chức, quyền hạn đề cập đến quyền tự chủ trong quá trình ra quyết định và quyền đòi hỏi sự tuân thủ quyết định gắn liền với một vị trí hay chức vụ quản trị nhất định. Đây là công cụ để nhà quản trị có thể thực hiện quyền tự chủ và tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ của từng người. Có ba loại quyền hạn cơ bản: - Quyền hạn trực tuyến: là quyền hạn cho phép người quản trị ra quyết định và giám sát trực tiếp đối với cấp dưới. -Quyền hạn tham mưu: Bộ phận tham mưu cố vấn cho những người quản trị trực tuyến về lĩnh vực chuyên môn mà bộ phận đó phụ trách. - Quyền hạn chức năng: là quyền trao cho một cá nhân ra quyết định và kiểm soát những hoạt động nhất định của các bộ phận đó. Tuân theo các quy luật tổ chức, trong cơ cấu của cơ quan hành chính đồng thời tồn tại đồng thời các quyền hạn trên. Trong đó, quyền hạn quyết định là phổ biến và cơ bản nhất, phù hợp với phương thức quản trị theo kiểu hành chính. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ có quyền ra quyết định cho Bộ trưởng, Bộ trưởng ra quyết định cho cấp dưới Bộ,.. tạo nên mối quan hệ quyền hạn giữa cấp trên và cấp dưới trải dài từ trung ương đến cơ sở. Mỗi thủ trưởng của các cơ quan có quyền ra quyết đinh cho cấp dưới trực tiếp và nhận sự báo cáo của họ . Đồng thời, để đưa ra các quyết định đúng đắn, họ cần có sự tham mưu, giúp đỡ từ cấp dưới. Đó có thể là cá nhân như các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, hoặc là cơ quan như Các Vụ thuộc Bộ, các Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban. Những người đứng đầu các cơ quan hành chính cũng trao cho cấp dưới những quyền hạn quyết định nhất định để thực hiện chức năng của mình. Những quyền này bị giới hạn trong một lĩnh vực, ngành nhất định hoặc trong phạm vi địa lý nhất định. *) Phân bổ quyền hạn giữa các cấp quản trị - Tập trung và phân quyền trong cơ quan hành chính: Sự tồn tại của các loại quyền hạn trong cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính là thể hiện của phương thức phân bổ quyền hạn giữa các cấp trong cơ quan này. Đó là phương thức tập quyền, trong đó mọi quyền ra quyết định được tập trung vào cấp quản trị cao nhất, đảm bảo theo nguyên tắc một thủ trưởng. Tuy nhiên, họ không trực tiếp ra mọi quyết định mà uỷ quyền cho cấp dưới để nhân danh mình thực hiện một số công việc nhất định. Đó là xu hướng phân tán quyền ra quyết định cho những cấp quản trị thấp hơn trong hệ thống thứ bậc (phân quyền), một yêu cầu tất yếu khi quy mô hoạt động của các cơ quan hành chính là rất rộng. Việc phân bổ quyền hạn ở cơ quan hành chính được quy định rất rõ trong các văn bản pháp luật. Kết quả của việc phân bổ này là cơ cấu tổ chức quản lý trực tuyến-chức năng: Trong mỗi cấp quản lý đều có các cơ quan chức năng. Mỗi cơ quan chức năng chịu trách nhiệm nghiên cứu một lĩnh vực chuyên môn nhất định nhằm giúp nhà quản lý các cấp ban hành ra các quyết định quản lý. Cơ quan chức năng được phép ra quyết định cho cấp dưới trong phạm vi hạn chế đã được uỷ quyền. So sánh chức năng tổ chức trong cơ quan hành chính với các cơ quan, tổ chức khác Là một loại tổ chức, cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính tuân theo những nguyên tắc khoa học cơ bản về tổ chức như: Chuyên môn hoá và phân nhóm chức năng; phân định phạm vi và phân cấp quản lý; nguên tắc hành chính thống nhất; nguyên tắc phù hợp giữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm… Đồng thời, là một cơ quan của nhà nước, cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính có những đặc điểm riêng có của một cơ quan nhà nước thực hiện quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Đó là: Mức độ chuyên môn hoá cao: Các công việc quản lý trên mọi mặt của xã hội trong phạm vi toàn quốc được phân chia một cách khoa học và hệ thống cho các cấp, các ngành, các địa phương, cụ thể hóa cho từng cơ quan, bộ phận, cá nhân. Chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan được phân định cụ thể. Trên cơ sở đó, từng cá nhân đảm nhiệm từng phần hành riêng với các quy định vè trình độ năng lực chuyên môn, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn và phải hoàn thành những nhiệm vụ được giao và chỉ những nhiệm vụ đó mà thôi. Sự phân chia cơ quan hành chính thành các bộ phận theo mô hình hỗn hợp, có sự đan xen giữa phân theo chức năng và phân theo địa giới hoạt động. Mối quan hệ quyền hạn trong tổ chức: Xét theo mối quan hệ về quyền hạn, các cơ quan hành chính có cơ cấu trực tuyến- chức năng: Trong mỗi cấp quản lý đều có các cơ quan chức năng. Mỗi cơ quan chức năng chịu trách nhiệm nghiên cứu một lĩnh vực chuyên môn nhất định nhằm giúp nhà quản lý các cấp ban hành ra các quyết định quản lý. Cơ quan chức năng được phép ra quyết định cho cấp dưới trong phạm vi hạn chế đã được uỷ quyền. Trong các cơ quan này, nguyên tắc tập trung và phân quyền được kết hợp: Tập trung để đảm bảo tính thống nhất trong mọi hoạt động,theo chế độ một thủ trưởng, là cơ sở cho việc đảm bảo pháp luật được thực thi thống nhất trên toàn quốc. Phân quyền để đảm bảo hiệu quả vè hiệu lực của quản lý nhà nước và tính dân chủ hoá trong mọi hoạt động. Đội ngũ nhân sự - hạt nhân của cac cơ quan hành chính là các cán bộ công chức nhà nước làm việc trong lĩnh vực quản lý hành chính. Ngoài việc tuân thủ các quy định chung, đội ngũ cán bộ này còn phai tuân thủ các quy định pháp luật khác liên quan đến cán bộ, công chức như Pháp lệnh về cán bộ, công chức; Nghị định số 117/2003/NĐ- CiP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước… 3.Cải cách cơ cấu tổ chức các cơ quan hành chính ở Việt Nam . Giữ một vị trí quan trọng trong bộ máy quyền lực nhà nước, vấn đề xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan hành chính được Đảng và Nhà nước ta coi là một nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội nói chung và cải cách hành chính nói riêng. Để phù hợp hơn với sự phát triển của nền kinh tế và cơ chế quản lý mới, trong những năm tới vấn đề sây và cải cách bộ máy cơ quan hành chính cần tập trung vào một số vấn đề sau: 3.1.Phân cấp quản lý trong bộ máy cơ quan hành chính: Phân cấp quản lý là sự phân giao trách nhiệm quản lý nhà nước giữa các cơ quan trung ương và địa phương ,phù hợp hơn với cơ chế quản lý mới và thể hiện yêu cầu dân chủ hóa các hoạt động quản lý kinh tế. Thông qua đó, phát huy mạnh mẽ tính năng động sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội trên địa bàn. Trên cơ sở chủ trương của Đảng trong Nghị định số 08/2004 ngày 30/6/2004 về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa Chính phủ và chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các văn bản khác, trong những năm qua, việc phân cấp quản lý đã được tiến hành một cách sâu rộng và đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa. Bộ máy Chính phủ được tinh giản từ 27 xuống còn 23 bộ: Bộ Nông nghiệp, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thuỷ lợi thành Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại thành Bộ Công thương. Một số cơ quan thuộc Chính phủ đã được đưa về trực thuộc Bộ quản lý: Cục lưu trữ Nhà nước về Ban tổ chức – cán bộ Chính phủ, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài thuộc Bộ ngoại giao… Điều cần nhấn mạnh ở đây là kết quả của việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ đã khẳng định tính đúng đắn của mô hình tổ chức “Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực”. Ý nghĩa quan trọng của mô hình này không chỉ giảm đầu mối tổ chức của Chính phủ, mà còn là mô hình hợp lý của các Bộ, phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế - xã hôi và là hướng đi cho cơ cấu tổ chức trong thời gian tới. Đi đôi với các hoạt động trên là sắp xếp lại một số tổ chức theo ngành dọc, như Tổng cục Thuế, tổ chức lại 2 tổng cục thuộc Bộ tài chính là Tổng cục Quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp và Tổng cục Đầu tư và phát triển;Tổng cục Hải quan thuộc Bộ Tài chính; Cục hàng không dân vận thuộc Bộ giao thông vận tải; Chuyển Bảo hiểm Y tế Việt Nam thành Bảo hiểm xã hội Việt Nam; thành lập một số tổ chức như Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Kiểm toán Việt Nam,… Ở địa phương: Việc sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực địa chính và quản lý nhà ở các đô thị thành Sở địa chính-Nhà đất ở thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh… là một kết quả quan trọng. Đồng thời, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp xã đã giảm số đầu mối từ trên 30 xuống còn 20 cơ quan cấp tỉnh, trên 20 phòng ban cấp huyện xuống còn 10 phòng ban. Đặc biệt những địa phương làm tốt như Thành phố Hồ Chí Minh giảm từ 58 đầu mối câp trung ương xuống còn 31 đầu mối, từ 21 phòng ban cấp huyện xuống còn 11 phòng (với quận) và 13 phòng (với huyện) và giảm 472 cán bộ; từ 12 ban cấp xã phường với 8460 biên chế xuống 3 ban với 6352 biên chế, giảm 20/8 biên chế ( Cải Cách hành chính nhà nước ) Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình phân cấp quản lý còn những hạn chế nhất định, chủ yếu là tốc độ cải cách còn chậm. Trong quá trình thực hiện thiếu sự phối hợp giữa các cấp, các đơn vị. Thêm nữa, tuy số đầu mối cấp tỉnh giảm xuống thì tổ chức các sở ở tỉnh và phòng ở huyện lại tăng, đặc biệt là tổ chức bên trong, kéo theo đó là tăng biên chế hành chính… Xuất phát từ thực tiễn cải cách nhà nước trong những năm qua, cải cách tổ chức bộ máy cơ quan hành chính trong những năm tới cần tiếp tục tiến hành rà soát, làm thật rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương. Việc xác định được các chức năng, nhiệm vụ,quyền hạn và trách nhiệm là cơ sở để thiết lập tổ chức của các cơ quan hành chính nên cần được tiến hành một cách khoa học, kiên quyết, chặt chẽ trong toàn bộ hệ thống hành chính. Mỗi địa phương dựa trên quy định chung và điều kiện cụ thể của mình để tiến hành phân cấp có hiệu quả dựa trên nguyên tắc cơ bản là mỗi cơ quan, mỗi tổ chức, mỗi bộ phận hợp thành đều phải có chức năng, nhiệm vụ một cách đích thực, rõ ràng và bảo đảm có đủ thẩm quyền để thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ đó. Từ đó khắc phục được sự chồng chéo, trùng lặp về nội dung, phạm vi đối tượng quản lý trong hệ thống bộ máy hành chính, xác định được mối quan hệ, phân công phối hợp giữa các bộ, nghành với chính quyền địa phương. Trong đó cần quan tâm tới cơ quan hành chính cấp xã vì đây là cơ sở quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân tực hiện pháp luật, phát triển kinh tế xã hội nhưng thực tế chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là chính sách tiền lương đối với đội ngũ cán bộ. 3.2.Đẩy mạnh quá trình tin học hoá trong hoạt động của cac cơ quan hành chính. Việc ứng dụng tin học hoá vào hoạt động là một điều cần thiết, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Thông qua việc ứng dụng thông tin vào công tác quản lý hành chính sẽ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, giảm số lượng biên chế. Theo đó, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hành chính của mỗi cơ quan và cả nước sẽ được cải cách dần theo hướng gọn nhẹ hơn và hiệu quả cao hơn. Hiện nay, chúng ta đã bước đầu hình thành được hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ bao gồm Trung tâm tích hợp dữ liệu của các Bộ, các tỉnh. Hệ thống thông tin điện tử đã bước đầu đưa vào sử dụng các dịch vụ cơ bản như thư điện tử, các phần mềm ứng dụng quản lý nhà nước. Cổng thông tin điện tử Chính phủ đã được xây dựng, đưa vào hoạt động, đang tiến hành thử nghiệm tin học hoá quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh , cấp giấy đăng ký kinh doanh tại Huế, Hà Tây… Tuy nhiên,việc ứng dụng tin học còn hạn chế về quy mô, tốc độ cũng như hiệu quả, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Lĩnh vực tin học còn mới mẻ so với các lĩnh vực khác, thời gian phát triển chưa lâu. Hệ thống cơ sở vật chất của ngành còn nhiều hạn chế so với các nước khác. Trình độ tin học cửa nguồn nhân lực nói chung, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính quản lý hệ thống thông tin điện tử nói riêng còn thiếu và yếu và cũng chưa có quy chế quản lý đội ngũ này ở cơ quan hành chính. Việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình tinh giảm bộ máy biên chế cán bộ, công chức hành chính. Trong khi thời gian giải quyết các thủ tục hành chính đã nhanh hơn thì số lượng cơ cấu cán bộ, công chức vẫn không thay đổi, do đó không tận dụng hết ưu điểm của công nghệ hiện đại và dẫn đến tình trạng nhân viên dùng tài sản công không đúng mục đích. Trước tình hình đó, một số vấn đề cần thực hiện là: - Tiếp tục triển khai đề án 112 của Chính phủ về mô hình “Chính phủ điện tử”. Đẩy mạnh việc thử nghiệm để sớm đưa vào ứng dụng thực tế công nghệ thông tin trong tất cả các hoạt động của cơ quan hành chính. Dành một phần ngân sách nhà nước cho việc đầu tư cơ sở vật chất trong lĩnh vực tin học. - Xây dựng các quy chế liên quan đến đội ngũ cán bộ, công chức trong lĩnh vực quản lý hệ thống thông tin điện tử. Quy định các tiêu chuẩn liên quan đến lĩnh vực tin học bên cạnh các tiêu chuẩn khác của cán bộ, công chức nhà nước. Đồng thời xây dựng các chương trình, kế hoạch để nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, công chức hiện có. 3.3.Đổi mới thể chế quản lý cán bộ, công chức Thể chế quản lý cán bộ, công chức nhà nước là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, quy định chi tiết về đối tượng, tiêu chuẩn của công chức, quyền hạn, nhiệm vụ, chế độ tuyển dụng, sử dụng, quản lý,…. Trong quá trình xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc thể chế quản lý cán bộ, công chức là một vấn đề hết sức quan trọng, là khung pháp lý tạo nền móng cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn cao, tận tuỵ phục vụ nhân dân, do dân và vì dân. Dưới góc độ pháp lý, cần thống nhất các văn bản pháp luật liên quan đến cán bộ, công chức thành Luật Công vụ. Luật Công vụ được xây dựng trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh cán bộ, công chức hiện hành đồng thời nâng lên tầm khái quát cao hơn, điều chỉnh các nội dung liên quan đến cán bộ, công chức gồm đối tượng, phạm vi áp dụng; Vai trò của cán bộ, công chức; Những việc được làm và không được làm; Đạo đức công vụ và văn hoá ứng xử của công chức; Nội dung quản lý công chức: bầu cử, tuyển dụng, đào tạo đánh giá công chức, chính sách tiền lương cà đãi ngộ, hưu trí..; Trách nhiệm của công chức khi thi hành nhiệm vụ, phân cấp quản lý công chức, thanh tra công vụ,… Chú ý oàn thiện các nội dung liên quan đến nghĩa vụ, quyền hạn, quyền lợi, nâng cao trách nhiệm của công chức trong thực thi công vụ bằng cách quy định các nghĩa vụ về thực hiện công vụ, về trật tự hành chính trong thực hiện công vụ, … Sự khác biệt về quyền, nghĩa vụ của mỗi nhóm công chức (lãnh đạo, quản lý và thực thi, thừa hành) để quy định phù hợp với mỗi nhóm và phân định rõ trách nhiệm của người đứng đầu, của tập thể, của cá nhân; Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh ngạch công chức, đảm bảo một vị trí phải ứng với một chức danh ngạch công chức cụ thể. Xây dựng quy chế thống nhầt về tinh giản biên chế trong cơ quan hành chính ở trung ương và địa phương để thực hiện được việc thường xuyên đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ, công chức không đủ năng lực, trình độ, những người vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, tạo điều kiện đổi mới, trẻ hoá, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức. Để các nội dung này thực sự hoàn chỉnh, trong quá trình xây dựng cần chú ý đến sự phù hợp của Luật Công vụ với các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan như: Quy định quyền và nghĩa vụ cần tính đến định hướng phát triển công chức trong các văn kiện Đảng; Các nội dung về đãi ngộ tiền lương cần tính đến sự tương quan với Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí; Quy định về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra cần tính đến bồi thường về thiệt hại ngoài hợp đồng của Luật dân sự… Trên cơ sở Luật thống nhất, Chính phủ cần xây dựng quy định chi tiết về quản lý cán bộ, công chức được quy định trong Luật công vụ. III.CHỨC NĂNG LÃNH ĐẠO CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 1. Các đặc điểm về sự lãnh đạo trong cơ quan hành chính. .Lãnh đạo là đưa ra chủ trương, đường lối, mục đích, tính chất nguyên tắc hoạt động trong các điều kiện môi trường nhất định.Về nội dung chức năng, lãnh đạo gồm : xác định phương hướng, mục tiêu lâu dài, lựa chọn chủ trương chiến lược, điều hoà phối hợp các mối quan hệ và động viên thuyết phục con người. 1.1.Phương thức lãnh đạo và các hình thức thể hiện. Thủ trưởng đưa ra các quyết định dứt khoát , mang tính bắt buộc , đòi hỏi mọi người phải chấp hành nghiêm ngặt , nếu vi phạm bị xử lý thích đáng. Phương pháp lãnh đạo hành chính giúp xác lập kỷ cương làm việc , thông thường được thể hiện qua việc các thủ trưởng ban hành các quy định hành chính dưới hình thức là các văn bản pháp quy và các văn bản cá biệt, qua đó lãnh đạo một cách gián tiếp các cơ quan cấp dưới: -“thủ tướng chính phủ ký các nghị quyết ,nghị định của cp ra các quyết định, chỉ thị và hướng dẫn việc thi hành các văn bản đó”( điều 21 luật tổ chức chính phủ năm 2001) -“bộ trưởng ,thủ trưỏng cơ quan ngang bộ ra quyết định ,chỉ thị , thông tư và hướng dẫn việc thi hành các văn bản đó”( điều 24 luật tổ chức chính phủ năm 2001) 1.2.Phong cách lãnh đạo. Theo quy định của Hiến Pháp 1992 sửa đổi năm 2001 thì có sự kết hợp giữa chế độ tập thể lãnh đạo với chế độ một thủ trưởng trong hoạt động của chính phủ và Uỷ Ban Nhân Dân các cấp. Các cơ quan này thường quyết định những vấn đề quan trọng có liên quan đến nhiều lĩnh vực, do vậy có sự đóng góp trí tuệ tập thể trong bàn bạc được giao. Khi cần quyết định vấn đề nào đó thì các thành viên trong chính phủ sẽ họp và đưa ra ý kiến, thủ tướng sẽ dựa vào những đề xuất của các thành viên để ra quyết định cuối cùng. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn tổ chức và hoạt động theo chế độ một thủ trưởng, theo đó người đứng đầu mỗi mỗi cơ quan như bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền ra các quyết định cá nhân nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật quy định. Các bộ có trách nhiệm tôn trọng quyền quản lý của nhau, phối hợp với nhau thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ ấy. theo chế độ lãnh đạo này mỗi việc chỉ giao cho 1 người phụ trách và chịu trách nhiệm chính .Thủ trưởng cơ quan được phân công công việc phải chịu trách nhiệm chính về công việc được phân công (điểm b khoản 1 điều1 quy chế làm việc của chính phủ 2003 và khoản 2 điều2 quy chế làm việc mẫu của bộ cơ quan ngang bộ , cơ quan thuộc chính phủ 2005); “cấp trên không làm thay công viêc của cấp dưới , tập thể không làm thay công việc của cá nhân ngược lại” (điểm a khoản1 điều 1 quy chế làm việc của chính phủ 2003) Phong cách lãnh đạo dân chủ đề cao sự đóng góp của tập thể được thể hiện qua cách thức giải quyết công việc của thủ tướng chính phủ ngoài việc “triệu tập và chủ toạ các phiên họp của chính phủ” (điểm2 điều 20 luật tổ chức chính phủ năm 2001) 1 tháng 1 lần để thảo luận các vấn đề quan trọng , thủ tướng cính ph ủ còn “họp ,làm việc với lãnh đạo cơ quan liên quan tổ chức tư vấn ,các chuyên gia để tham khảo ý kiến trước khi quyết định.” (điểm b khoản 3 điều 4 quy chế làm việc của chính pủ 2003) và “thành lập các tổ chức làm tư vấn cho thủ tướng để giải quyết đối với 1 số vấn đề phức tạp, quan trọng liên quan đến nhiều ngành nhiều địa phương và phải xử lý trong thời gian dài” (điểm c khoản3 điều 4 quy chế làm việc của chính phủ 2003); Bộ làm việc theo chế độ thủ trưởng nhưng đồng thời chính phủ vẫn quy định “những công việc cần thảo luận tập thể. Lãnh đạo bộ(bộ trưởng , các thứ trưởng) trước khi bộ trưởng quyết định: (theo khoản 3 điều 3 quy chế làm việc mẫu của bộ cơ quan ngang bộ , cơ quan thuộc chính phủ 2005) 1.3.Kỹ năng lãnh đạo. Theo phương thức suy nghĩ và hành động, người lãnh đạo cần có các kỹ năng: kỹ năng tư duy, kỹ năng tổ chức , kỹ năng nghiệp vụ. kỹ năng tư duy: được thể hiện qua sự đòi hỏi trong nhiệm vụ của các tổ chức mà người lãnh đạo đứng đầu Đối với chính phủ,1 số nhiệm vụ là lãnh đạo công tác các bộ , cơ quan ngang bộ , cơ quan thuộc chính phủ , uỷ ban nhân dân các cấp ; xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở ; trình dự án luật , pháp lệnh và các dự án khác trước quốc hội và uỷ ban thường vụ quốc hội ; tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê thống kê của nhà nứơc ; công tác thanh tra kiểm tra nhà nước ; thống nhất công tác quản lý đối ngoại ; đàm phán ký kết điều ước quốc tế ; thực hiện chính sách xã hội chính sách tôn giáo quyết định việc điều chỉnh địa giới…( điều 8 luật tổ chức chính phủ 2001). Như vậy, chính phủ phải thực hiện công tác trên tất cả các lĩnh vực bao gồm: 1)kinh tế ,2) khoa học , công nghệ và môi trường ,3) văn hoá giáo dục , thông tin , thể thao và du lịch ,4) y tế và xã hội ,5) dân tộc và tôn giáo .Vì vậy người lãnh đạo chính phủ phải gánh vác 1 trách nhiệm nặng nề , cho nên phải biết tư duy đúng hướng , biết vạch ra đường lối chủ trương .Những cái mà họ đề ra không chỉ bó hẹp trong phạm vi 1 tổ chức mà còn ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của 1 đất nước kỹ năng tổ chức: là kỹ năng làm việc với con người, phương tiện và nắm bắt thông tin để đưa ra các quyết định điều phối sử dụng, liên kết, cô lập, phân rã con người ở trong và ngoài hệ thống. Đứng đầu là thủ tướng chính phủ (là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động của chính phủ) chịu trách nhiệm trước quốc hội. Dưới thủ tướng là các bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chịu trách nhiệm trước thủ tướng chính phủ và quốc hội về lĩnh vực, ngành mình phụ trách trong phạm vi cả nước. Tất cả các thủ trưởng cơ quan đều chỉ đạo phối hợp của các thành viên và đôn đốc việc thực các quyết định của cơ quan cấp trên và của người lãnh đạo đó. Ví dụ : Đối với thủ tướng chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nên phải quy định chế độ làm việc của thủ tướng với thành viên chính phủ, chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chỉ đạo,phối hợp hoạt động của các thành viên chính phủ, quyết định các vấn đề có ý kiến khác nhau giữa các bộ trưởng,thủ trưởng cơ quan ngang bộ,thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ. Đồng thời thủ tướng chính phủ cũng là người đề nghị quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ : trình quốc hội phê chuẩn đề nghị về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức vì lý do sức khỏe hoặc lý do khác đối với phó thủ tướng bộ trưởng cơ quan ngang bộ ;bổ nhiểm, miễm nhiệm, cách chức thứ trưởng và chức vụ tương đương; quyết định các biện pháp cải tiến lề lối làm việc hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước(điều 20 luật tổ chức chính phủ 2001).Tất nhiên, những việc làm đó của thủ tướng chính phủ có phạm vi cả nước nhưng ta vẫn nhận thấy nhiệm vụ này đòi hỏi thủ tướng chính phủ phải có kĩ năng tổ chức bên cạnh các kĩ năng khác. Đối với bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ trách nhiệm được quy định rõ tại điều 3 quy chế làm việc mẫu của bộ,cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ năm 2005. Đó là chỉ đạo, điều hành bộ thực hiện chức năng nhiệm vụ quyền hành theo đúng quy định;phân công công việc cho các thứ trưởng ,phó thủ trưởng cơ quan ngang bộ; uỷ quyền cho thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc bộ thực hiên một số công việc cụ thể và quyết định công tác tổ chức bộ máy và nhân sự của bộ sau khi tập thể lãnh đạo bộ thảo luận. Ngoài ra thủ trưởng còn đi công tác và xử lý công tác tại chỗ, tiếp khách…. Để thực hiện những công tác đó, người thủ trưởng phải vận dụng kỹ năng tổ chức một cách nhuần nhuyễn. kỹ năng nghiệp vụ: Đây là một trong những kỹ năng rất quan trọng của nhà lãnh đạo.kỹ năng này được thể hiện khi bổ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải trình chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển kế hoạch dài hạn, các công trình quan trọng của ngành, lĩnh vực; quyết định các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và các định mức kinh tế kỹ thuật của ngành thuộc thẩm quyền: thường xuyên hướng dẫn và chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ; kiểm tra đôn đốc việc thực hiện pháp luật và quy định đối với ngành, lĩnh vực của các cơ quan của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Hiện nay, Bộ trưởng bộ tài chính Vũ Văn Ninh là thạc sỹ tài chính ngân sách, quản trị kinh doanh, lý luận chính trị cao cấp. Bộ trưởng bộ xây dựng Nguyễn Hồng Quân là kỹ sư xây dựng thủy điện, lý luận chính trị cao cấp. Bộ trưởng bộ văn hoá, thông tin, du lich: Hoàng Tuấn Anh kỹ sư đo đạc hàng không, cử nhân luật, lý luận chính trị cao cấp. Bộ trưởng bộ khoa học công nghệ Hoàng Văn Phong : tiến sĩ toán lý Bộ trưởng bộ nội vụ Trần Văn Tuấn : tiến sĩ chuyên ngành kinh tế, lý luận chính trị cao cấp, Bộ trưởng bộ giáo dục đào tạo Nguyễn Thiện Nhân : lý luận chính trị cao cấp, giáo sư kinh tế, tiến sĩ điều khiển học, thạc sĩ quản lý cộng đồng. -Uỷ ban nhân dân thành phố hồ chí minh: Chủ tịch UBND Lê Hoàng Quân : cử nhân luật, cử nhân chính trị. Phó chủ tịch UBND Nguyễn Thánh Tài : cao học quản trị kinh doanh, cử nhân chính trị. Nguyễn Trung Tín: cử nhân chính trị, cử nhân kinh tế. Nguyễn Hữu Tín: thạc sĩ kinh tế. cao học lý luận chính trị. Nguyễn Thị Hồng: cử nhân luật, cử nhân chính trị, thạc sĩ quản trị kinh doanh. Nguyễn Thị Thu Hà: cử nhân hoá thực phẩm, thạc sĩ kinh tế, thạc sĩ quản lý nhà nước. 1.4.Công tác nhân viên a) Tuyển dụng. Thủ trưởng cơ quan chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác đào tạo tuyển dụng sử dụng cán bộ công chức viên chức thuộc phạm vi quản lý của mình Việc tuyển công chức trong các cơ quan hành chính phải được thực hiện bằng thi tuyển.Hội đồng thi tuyển hoặc hội đồng tuyển dụng do người đứng đầu cơ quan quyết định thành lập.Chủ tịch hội đồng là người đứng đầu cơ quan hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan. Các thành viên khác là đại diện lãnh đạo các bộ phận chuyên ngành hoặc công chức phụ trách công tác tuyển dụng làm việc theo nguyên tắc tập thể. Tuy nhiên số lượng biên chế là do thủ trưởng cơ quan cấp trên phân bổ: thường là bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ phân bổ. b)Khen thưởng. Thủ trưởng các cơ quan có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo,xây dựng phong trào thi đua ở đơn vị thuộc quyền mình quản lý. Theo định kỳ phải có trách nhiệm xem xét, đánh giá, xét chọn tập thể để khen thưởng hoặc đề nghị cấp trên xét khen thưởng. Công tác khen thưởng động viên được xác định là một bộ phận trong công tác điều hành quản lý, là một trong những nhiệm vụ của thủ trưởng các ngành, cấp. 2.So sánh với các tổ chức khác. Các tổ chức khác cũng có hai chế độ lãnh đạo như trên, áp dụng chế độ nào là còn tuỳ thuộc vào tổ chức đó. Khác nhau cơ bản trong việc lãnh đạo các tổ chức là ở phương thức thực hiện. Hầu hết các tổ chức đều sử dụng hình thức đưa ra các văn bản, quy chế làm việc, thông qua đó chỉ đạo hoạt động của cấp dưói. Nhưng trong các tổ chức chính trị xã hội (Hội cựu chiến binh, hội nông dân Việt Nam, tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Uỷ ban TW mặt trận tổ quốc Việt Nam…) thì phương thức lãnh đạo là đưa ra các gương điển hình và các danh hiệu vinh dự để khuyến khích sự hoạt động của các thành viên. 3.Thực trạng hiện nay và giải pháp về vấn đề lãnh đạo trong các cơ quan hành chính. 3.1.thực trạng 3.1.1.Đối với những cơ quan kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo và chế độ một thủ trưởng (Chính phủ và UBND các cấp) thì có một số đặc điểm sau. Ưu điểm. Đối với những vấn đề chính có sự bàn bạc nhất trí của các thành viên trong tổ chức nên tạo động lực cho các thành viên hoàn thành nhiệm vụ. Các quyết định mang tính khách quan và đúng đắn, hợp lý hơn. Phân công công việc cho các thành viên cũng dễ dàng hơn, khả năng hoàn thành của các thành viên là rất lớn vì họ là người thực sự ra quyết định đó nên có tâm huyết để hoàn thành nó. Đối với những vấn đề thược thẩm quyền của người tổ chức thì họ sẽ là người ra quyết định cuối cùng và chịu trách nhiệm về các quyết định đó. Ưu điểm của hình thức này là các quyết định đưa ra một cách nhanh chóng, kịp thời điều chỉnh những vấn đề cấp bách và khẩn cấp. Nhược điểm. Đối với những vấn đề tập thể lãnh đạo thì không phân định được trách nhiệm một các rõ ràng. Nếu ra các quyết định đúng đắn, có thành tích thì nhận về mình, còn nếu thiếu sót thì đùn đẩy trách nhịêm cho người khác. Ngoài ra còn tồn tại một vấn đề nữa đó là có những thành viên trong tổ chức bàng quan với những vấn đề của tổ chức, thấy người khác đưa ra ý kiến thì chỉ biết giơ tay tán thành mà không hề phân tích hay hiểu xem ý kiến đó có phù hợp và mang lại hiệu quả hay không? Họ làm việc theo phương trâm “thứ nhất ngồi lỳ thứ nhì đồng ý” và không hề hoặc rất ít khi đưa ra ý kiến gì để đóng góp cho tổ chức nhằm giúp cho tổ chức đưa ra được các quyết định đúng đắn. Vì những nguyên nhân trên mà quyết định theo số đông cũng chưa chắc đã là quyết định đúng đắn nhất và mang lại hiệu quả cao nhất cho tổ chức. Đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của người lãnh đạo, do người lãnh đạo quyết định, nó mang ý chí chủ quan. Nó sẽ là quyết định đúng đắn nếu người ra quyết định thực sự hiểu rõ về vấn đề đặt ra còn nếu không thì sẽ dẫn đến việc ra các quyết định sai lầm. 3.1.2. Đối với các cơ quan hành chính theo chế độ một thủ trưởng (Các Bộ và cơ quan ngang bộ, các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND các cấp). Ưu điểm. Đối với hầu hết các vấn đề thì trách nhiệm được phân định một cách rõ ràng, người chịu trách nhiệm cuối cùng là các bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Nhược điểm. Khi một bộ ra văn bản có động chạm đến ngành thuộc lĩnh vực của các Bộ khác phải có sự đồng thuận và nhất trí của các bộ đó. Vì vậy khi cần quyết định một vấn đề gì đó thì phải thông qua rất nhiều cửa vì thế cho nên sẽ làm chậm trễ việc thực hiện và có thể sẽ gây ra hậu quả lớn. Khi gây ra hậu quả lớn thì lại không phân định được trách nhiệm rõ ràng, bộ này đổ lỗi cho bộ kia . Chế độ một thủ trưởng trong các bộ và cơ quan ngang bộ cũng dễ dẫn tới tình trạng chuyên quyền tức là người lãnh đạo không hề tham khảo ý kiến của các thành viên trong tổ chức mà tự mình ra quyết định. Nếu quyết định đó là đúng đắn thì giúp cho tổ chức phát triển nhưng ngược lại nó sẽ mang đến hậu quả khó lường vì nó là ý kiến chủ quan của người lãnh đạo nên không thể bao quát hết mọi vấn đề. 3.1.3. Quản lý. Ngoài ra vấn đề quản lý hành chính có hiệu quả cũng đang được quan tâm. “Quyết định số 144 /QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chíh nhà nước được đưa ra với mục tiêu hướng tới việc xây dựng và thực hiện quy trình xử lý công việc hợp lý, phù hợp với quy định của ogáo kyâth , từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý và cung cấp dịch vụ công. Sau gần một năm triển khai thực hiện quyết định này, đã có gần 170 cơ quan hành chính trên gần 40 tỉnh, thành phố thực hiện áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 cho một hoạc nhiều chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. Một trong những nội dung của việc triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000 là phải hiểu và thực thi tám nguyên tắc quản lý chất lượng trong quá trình vận hành hệ thống quản lý chất lượng của mình.Ba nguyên tắc đầu tiên là trọng tâm hướng vào khách hàng; định hướng của lãnh đạo; sự tham gia của mọi thành viên Quá trình triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu này cũng được vẫn vấp phải một số khó khăn chủ quan và khách quan: có trở lực trong thay đổi nhận thức, thói quen, nề nếp làm việc, khó khăn về cơ sở vật chất, thiếu cơ chế khuyến khích gẵn năng suất hiệu quả với quyền lợi vật chất của cán bộ công chức;chưa hiểu rõ bản chất của việc áp dụng mô hình quản lý chất lượng theo ISO 9000 trong lĩnh vực hành chính. Từ đó dẫn đến tồn tại phổ biến đó là không có định hướng rõ ràng về phạm vi áp dụng của hệ thống và không chú trọng đến việc thực hành các nguyên tắc quản lý chất lượng tốt mà bộ tiêu chuẩn ISO 9000 đã đề cập. 3.2.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo trong cơ quan hành chính. Sự tập trung, thống nhất quyền lực là một nguyên tắc, thuộc tính của quản lý hành chính nhà nước, nếu không sẽ không bảo đảm được sự thống nhất trong điều hành, chỉ huy hoạt động công vụ. Từ góc độ hành chính, người đứng đầu cơ quan nhà nước là người chỉ huy, điều hành các công việc có tính hành chính trong cơ quan nhà nước, để thực thi các nhiệm vụ, công vụ của cơ quan đó. Chính điều đó đòi hỏi phải phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể và cá nhân người đứng đầu cơ quan.Pháp luật nước ta hiện nay đã đi theo hướng tăng dần quyền hạn của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước - cơ quan thẩm quyền chung (Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp). Đối với cơ quan làm việc theo chế độ một thủ trưởng thì người đứng đầu cơ quan có toàn quyền quyết định mọi vấn đề của cơ quan. Tuy vậy, trên thực tế thường có tình trạng dường như mọi vấn đề đều được đưa ra bàn luận tập thể. Tình trạng đó tất yếu dẫn đến hệ quả là: nếu mọi công việc trôi chảy, thành công thì đó là công lao của người đứng đầu cơ quan, nhưng khi có "vấn đề" thì đó là trách nhiệm của tập thể. Nhưng mặt khác cũng có hiện tượng, việc được đưa ra bàn luận chỉ là hợp thức hóa những quyết định chuyên quyền của người đứng đầu cơ quan. Do đó, trong điều hành công vụ, đòi hỏi phải đề cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, đồng thời cần phải xác định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước và người đứng đầu các bộ phận trong cơ quan đó. Việc hoàn thiện chế độ công vụ cần phải hướng tới xây dựng chế độ phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong cơ quan nhà nước IV. CHỨC NĂNG KIỂM TRA 1. Đặc điểm của chức kiểm tra Nhà nước ta, ngay từ đầu đã xem trọng cơ chế kiểm tra, đặc biệt kiểm tra trong các cơ quan hành chính nhà nước. Tầm quan trọng và tính hữu hiệu của cơ chế kiểm tra cũng hình thành và phát triển dần theo đà phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp quyền. Tính chất quan trọng của kiểm tra được thể hiện ở cả hai mặt.Một mặt kiểm tra là công cụ quan trọng để nhà quản trị phát hiện ra những sai sót và có biện pháp điều chỉnh.Mặt khác, thông qua kiểm tra, các hoạt động sẽ được thực hiện tốt hơn và giảm bớt được sai sót có thể nảy sinh Bất cứ một sự quản lý nào, công hay tư, thuộc lĩnh vực nào cũng phải có kiểm tra, là một khâu không thể thiếu được trong công nghệ quản lý.Quản lý nhà nước,hơn đâu hết lại càng cần có kiểm tra. 1.1.Nội dung của kiểm tra 1.1.1.Phạm vi kiểm tra Cơ chế kiểm tra của nhà nước, đặc biệt là kiểm tra trong các cơ quan hành chính,chỉ nói riêng sự kiểm tra đối với các quyết định và hành vi của bản thân nhà nước (tức là nhà nước tự kiểm tra nhà nước) cũng bao gồm một phạm vi rất rộng: -Kiểm tra tính hợp hiến, kiểm tra tính hợp pháp, kiểm tra tính hợp lý, kiểm tra tính hiệu quả; -Kiểm tra văn bản, kiểm tra hành vi ; -Kiểm tra chính trị, kiểm tra hành chính, kiểm tra tư pháp, kiểm tra chuyên môn kỹ thuật; -Kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới trong hệ thống thứ bậc; kiểm tra của các cơ quan xét xử tư pháp ; -Kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao của các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong các cơ quan hành chính. Tuỳ theo bản chất, đối tượng, chủ thể kiểm tra và tổ chức kiểm tra, chúng ta đã dùng những thuật ngữ khác nhau để chỉ sự kiểm tra: kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát. Kiểm tra hành chính là kiểm tra nội bộ các cơ quan hành chính,cơ quan cấp trên kiểm tra cơ quan hành chính và nhân viên dưới quyền, xử lý theo thứ tự hành chính và mang tính chất hành chính với các hình thức kỉ luật hành chính . Thanh tra vừa có tính chất và đặc điểm của kiểm tra như nói trên, nhưng nó khác là thanh tra mang tính chất nhà nước, do một tổ chức thường xuyên hay lâm thời mang tính quyền lực nhà nước,do một cơ quan có thẩm quyền đặt ra và giao cho quyền hạn thanh tra. Cơ quan kiểm sát thực hiện chức năng công tố và đưa ra truy tố trước toà án để xét xử hoặc những vụ kiệm nhân sự về mối quan hệ tư nhân vói tư nhân, tức là quan hệ dân sự giữa công dân với nhau hoặc là về những vụ án hình sự của người công dân có những tội liên quan đến nền an ninh quốc gia 1.1.2.Một số nội dung kiểm tra cụ thể. *)Kiểm tra cải cách hành chính với một số nội dung chủ yếu sau a ,Việc chỉ đạo, điều hành triển khai công tác CCHC thuộc phạm vi trách nhiệm của UBND huyện, thị, Sở ngành về thực hiện chủ trương, kế hoạch cải cách hành chính năm 2006 và 2007, Chỉ thị 32/2006/CT-TTg ngày 7/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cần làm ngay để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp. b,Kiểm tra việc tiến hành các nội dung, giải pháp CCHC cụ thể như: +Cải cách thể chế: - Nâng cao chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; kỷ luật, kỷ cương triển khai các văn bản quy phạm pháp luật. - Kết quả rà soát thủ tục hành chính và áp dụng thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa” ở từng cấp hành chính. - Kết quả xử lý các vướng mắc, kiến nghị của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện cơ chế , chính sách nhà nước và giải quyết thủ tục hành chính. +Các biện pháp và kết quả cải cách tổ chức bộ máy: - Tổ chức thực hiện vai trò chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp tăng cường năng lực hoạt động của bộ máy, của hệ thống hành chính, việc phân công, phân cấp. - Các biện pháp và kết quả nâng cao năng lực tổ chức hoạt động, cải cách lề lối làm việc, đổi mới phương thức vận hành. +Các biện pháp nâng cao chất lượng cán bộ công chức, viên chức - Việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu. - Xây dựng và khai thác hệ thống dữ liệu về cán bộ công chức. - Công tác đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hoá trình độ cán bộ công chức, viên chức. +Cải cách tài chính công: - Thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ về quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chánh đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. - Thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 về quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. - Việc quản lý ngân sách, tài chính (trong đó có quản lý thu, chi phí, lệ phí) - Các biện pháp tăng cường thực hiện quản lý ngân sách, tài chính; chống tham nhũng, lãng phí. +Hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước: - Các biện pháp và kết quả triển khai các nội dung đổi mới phương thức vận hành tổ chức bộ máy, hệ thống hành chính (chỉ đạo, điều hành, xây dựng chất lượng thông tin, khai thác dữ liệu, ứng dụng tin học, tin học hoá quản lý, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, các biện pháp giảm giấy tờ, hội họp...) - Kết quả tăng cường, hiện đại hoá một bước về trụ sở, trang thiết bị của cơ quan và UBND cấp huyện, cấp xã. - Xây dựng văn minh công sở, công vụ.  *)Kiểm tra công tác văn thư lưu trữ a,Căn cứ kiểm tra: Việc kiểm tra chéo công tác văn thư, lưu trữ năm 2007 giữa các Bộ, ngành được thực hiện căn cứ vào những văn bản sau: - Các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn nghiệp vụ khác của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về công tác văn thư, lưu trữ; - Văn bản số 66/VTLTNN-NVTW ngày 09 tháng 02 năm 2006, số 56/VTLTNN-NVTW ngày 26 tháng 01 năm 2007 của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước hướng dẫn phương hướng nhiệm vụ công tác văn thư, lưu trữ năm 2006 và năm 2007 của các cơ quan, tổ chức trung ương. b,Nội dung kiểm tra: Nội dung kiểm tra chéo công tác văn thư, lưu trữ tập trung vào các lĩnh vực: công tác quản lý văn thư, lưu trữ; các hoạt động nghiệp vụ văn thư và hoạt động nghiệp vụ lưu trữ từ tháng 6/2005 đến tháng 6/2007. Các nội dung trên được cụ thể hoá thành 10 chỉ tiêu; tương ứng với mỗi chỉ tiêu là khung điểm để đánh giá, chấm điểm *)Kiểm tra thi hành luật đất đai a,Kiểm tra tình hình chỉ đạo triển khai thi hành Luật Đất đai tại địa phương -Kiểm tra việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai của địa phương để thi hành Luật Đất đai và các Nghị định của Chính phủ. -Kiểm tra việc phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai. b,Kiểm tra về thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất -Kiểm tra việc lập mới, điều chỉnh, trình, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010 của cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã theo quy định của Luật Đất đai. -Kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xử lý quy hoạch "treo". -Phát hiện những vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. c,Kiểm tra về tình hình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở tại đô thị và nông thôn -Kiểm tra về kết quả cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. -Kiểm tra việc thực hiện trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã ký cho người sử dụng đất. -Kiểm tra hồ sơ địa chính gắn với việc cấp, chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. -Phát hiện những vướng mắc, đề xuất giải quyết những vướng mắc trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. d,Kiểm tra về thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư -Kiểm tra việc thu hồi đất theo quy định tại Điều 38 của Luật Đất đai. -Kiểm tra việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. -Những vướng mắc và hướng khắc phục. e,Kiểm tra về tình hình giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo về đất đai -Kiểm tra việc giải quyết tranh chấp đất đai. -Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại về đất đai, tố cáo liên quan đến quản lý, sử dụng đất. -Những vướng mắc và hướng khắc phục. *)Kiểm tra việc thực hiện tiết kiệm,chống lãng phí a) Kiểm tra việc thực hiện các quy định quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan đến thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như: quản lý sử dụng trụ sở làm việc, phương tiện đi lại, trang thiết bị làm việc, điện, nước, điện thoại, quản lý sử dụng lao động, thời gian lao động… b) Kiểm tra việc quản lý ngân sách nhà nước, tiền, tài sản nhà nước, tài nguyên thiên nhiên theo quy định của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. c) Kiểm tra việc thực hiện mục tiêu, biện pháp, kế hoạch thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí hàng năm và dài hạn (nếu có). 1.2.Chủ thể kiểm tra Nhà nước xác định nội dung cần kiểm tra sau đó chọn những trọng điểm kiểm tra là những bộ phân trọng yếu , chia nhỏ thành các cụm kiểm tra và chỉ định một bộ phận đi kiểm tra Thành phần đoàn kiểm tra của mỗi cụm gồm: -Cụm trưởng : Đại diện lãnh đạo Văn phòng phụ trách công tác cần kiểm tra của các bộ ngành được chỉ định làm cụm trưởng -Thành viên của đoàn kiểm tra gồm: Đại diện lãnh đạo văn phòng và một số cán bộ làm về công tác cần kiểm tra của các bộ ngành - Thư ký đoàn kiểm tra: là một thành viên được cụm trưởng chỉ định trong số cán bộ phụ trách về công tác cần kiểm của các bộ ngành Nhà nước cũng có thể giao việc kiểm tra cho chủ tịch uỷ ban nhân đân có trách nhiệm tổ chức kiểm tra tại địa phương mình theo đúng mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra.Chủ tịch uỷ ban nhân dân tự thành lập các đoàn kiểm tra gồm đại diện các sở tài nguyên môi trường, tài chính vật giá, kế hoạch và đầu tư, xây dựng tư pháp, và thanh tra nhà nước cấp tỉnh. Hoặc chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh thành giao viêc kiểm tra cho các sở ban ngành trong tỉnh kiểm tra thường xuyên với những nội dung đặc biệt(tiết kiệm,chống lãng phí) 1.3.Trình tự tiến hành kiểm tra: Căn cứ vào các chỉ tiêu kiểm tra, các Bộ, ngành tự kiểm tra, đánh giá, chấm điểm và gửi báo cáo về đơn vị kiểm tra. Sau khi thỏa thuận thống nhất với các Bộ, ngành trong cụm, cụm trưởng có văn bản thông báo chính thức về thời gian kiểm tra tại từng Bộ, ngành; thời gian, địa điểm tổng kết kiểm tra toàn cụm gửi cho Bộ, ngành trong cụm và gửi cho đơn vị cấp trên Chương trình làm việc chung như sau: - Cụm trưởng giới thiệu về mục đích, nội dung kiểm tra và thành phần đoàn kiểm tra; - Đại diện lãnh đạo Văn phòng Bộ, ngành trình bày báo cáo tự đánh giá, chấm điểm kết quả thực hiện các chỉ tiêu; - Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm tra thực tế công tác cần kiểm tra tại Văn phòng Bộ, ngành và một số đơn vị trực thuộc; - Đoàn kiểm tra họp thảo luận, thống nhất chấm điểm theo từng chỉ tiêu và điểm chung cho từng Bộ, ngành; - Thông qua biên bản kiểm tra tại Bộ, ngành; - Cụm trưởng tổng hợp kết quả kiểm tra công tác cần kiểm tra chung của toàn cụm và gửi hồ sơ về cho cơ quan cấp trên Hồ sơ gửi về cơ quan cấp trên gồm: + Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm tra chéo công tác cần kiểm tra của cụm trưởng + Bảng điểm tổng hợp kết quả kiểm tra chéo của Cụm + Báo cáo kết quả tự kiểm tra của từng đơn vị trong cụm + Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kiểm tra của từng đơn vị trong cụm *)Hình thức kiểm tra Trong cơ quan hành chính nhà nước sử dụng hình thức kiểm tra chủ yếu là kiểm tra sau. Để xem xét việc thực hiện có đúng theo kế hoạch hay không , đúng theo những văn bản pháp luật mà nhà nươc đề ra hay không 2. So sánh với các tổ chức có tư cách pháp nhân khác 2.1.So sánh với cơ quan sự nghiệp và thu Cơ quan sự nghiệp và thu cùng lằm trong phần cơ quan thuộc chính phủ nhưng hoạt động của nó có phần khác cơ quan hành chính nhà nước là có thu và có phần độc lập về tài chính hơn nên công tác kiểm tra cũng có phần khác cơ quan hành chính nhà nước. Việc kiểm tra không phụ thuộc vào sự chỉ đạo của cấp trên nhiều như cơ quan hành chính,mà có p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc74614.DOC
Tài liệu liên quan