Tài liệu Đề tài Quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam: BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2008
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2008
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Lời mở đầu
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO VÀ KIỂM TỐN NỘI BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM 11.1. Khái niệm và phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM 1
Khái niệm rủi ro 1
Phân loại rủi ro 1
Kiểm tốn nội bộ 4
Khái niệm kiểm tốn nội bộ 4
Mục tiêu, nguyên tắc và phạm vi kiểm tốn nội bộ 7
Nội dung hoạt động của Kiểm tốn nội bộ 8
Phương pháp thực hiện kiểm tốn nội bộ 9
Vai trị của kiểm tốn nội bộ đối với việc quản lý rủi ro trong NHTM 10
1.3.1. Quản lý rủi ro 10
1.3.2. Tầm quan trọng của quản lý rủi ro trong hoạt đ...
101 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1050 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BOÄ GIAÙO DUÏC ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TPHCM
LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ KINH TEÁ
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2008
BOÄ GIAÙO DUÏC ÑAØO TAÏO
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TPHCM
CHUYEÂN NGAØNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH - NGAÂN HAØNG
MAÕ SOÁ: 60.31.12
LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ KINH TEÁ
Ngöôøi höôùng daãn khoa hoïc: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2008
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
Lời mở đầu
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM 11.1. Khái niệm và phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM 1
Khái niệm rủi ro 1
Phân loại rủi ro 1
Kiểm toán nội bộ 4
Khái niệm kiểm toán nội bộ 4
Mục tiêu, nguyên tắc và phạm vi kiểm toán nội bộ 7
Nội dung hoạt động của Kiểm toán nội bộ 8
Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ 9
Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro trong NHTM 10
1.3.1. Quản lý rủi ro 10
1.3.2. Tầm quan trọng của quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng 12
1.3.3. Chuẩn mực quản lý rủi ro đang được áp dụng 12
1.3.4. Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro 15
Kinh nghiệm quản lý rủi ro tại ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc 16
1.4.1. Chính sách quản lý rủi ro 16
1.4.2. Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro và quy trình quản lý rủi ro 17
1.4.3. Bài học kinh nghiệm áp dụng cho các NHTM Việt Nam 19
Tóm lược chương 1 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TỪ GÓC ĐỘ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG NAM 21
. Khái quát về Ngân hàng TMCP Phương Nam 21
Sơ lược quá trình hình thành và phát triển 21
Một số thành tựu đến cuối năm 2007 22
Sứ mệnh – Tầm nhìn – Chiến lược hoạt động 23
Thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam 26
Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam từ năm 2005 đến tháng 6/2008 26
Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam .29
Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro tín dụng thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ 36
Thực trạng về rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam 37
Điểm qua một vài thời điểm khó khăn về thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam và nguyên nhân phát sinh. 37
Thực trạng khả năng thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam 40
Một số nguyên nhân chính gây nên tình trạng khó khăn thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam trong thời gian qua 41
Khả năng xảy ra rủi ro thanh khoản trong thời gian tới. 43
Thực trạng về rủi ro lãi suất tại Ngân hàng TMCP Phương Nam 44
Diễn biến lãi suất từ năm 2005 đến tháng 06/2008 44
Ảnh hưởng của việc biến động lãi suất và nguyên nhân phát sinh rủi ro 48
Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro lãi suất thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ... 51
Thực trạng rủi ro từ những tỷ lệ an toàn đảm bảo trong hoạt động của Ngân hàng Phương Nam 51
Điểm qua một số tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Ngân hàng Phương Nam 51
Những điểm phù hợp, chưa phù hợp với chuẩn mực của Việt Nam và thông lệ quốc tế. 52
Những rủi ro khác 54
Đánh giá chung về vấn đề nhận diện rủi ro từ công tác kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Phương Nam 54
Ưu điểm của kiểm toán nội bộ trong việc nhận diện và quản lý rủi ro tại ngân hàng Phương Nam 56
Nhược điểm của công tác kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam 57
Tóm lược chương 2 62
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TỪ GÓC ĐỘ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG NAM 63
Giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Phương Nam 63
Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Phương Nam 63
Các giải pháp hỗ trợ khác 72
Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước 82
Giải pháp về công tác kiểm toán nội bộ tại NHTM 82
Các giải pháp hỗ trợ công tác kiểm toán nội bộ tại các NHTM 84
Giải pháp đối với các cơ quan khác 86
Tóm lược chương 3 87
Kết luận
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATC: trung tâm đào tạo và ứng dụng Ngân hàng Phương Nam
CIC: trung tâm thông tin ứng dụng ngân hàng
KEB: ngân hàng ngoại hối Hàn Quốc
KTKSNB&PC: kiểm tra kiểm soát nội bộ và pháp chế
NHNN: ngân hàng Nhà nước
NHTM: ngân hàng thương mại
TCTD: tổ chức tín dụng
TMCP: thương mại cổ phần
TPHCM: thành phố Hồ Chí Minh
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo thời hạn cho vay.
Bảng 2.2: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo loại tiền.
Bảng 2.3: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo nhóm nợ
Bảng 2.4: Tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam
Bảng 2.5: Hệ số chênh lệch lãi suất tại Ngân hàng Phương Nam
Bảng 2.6: Một số tỷ lệ đảm bảo an toàn từ năm 2005 đến tháng 6/2008.
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Diễn biến lãi suất huy động VND từ 2005 đến tháng 6/2008
Biểu đồ 2.2: Diễn biến lãi suất huy động USD từ 2005 đến tháng 6/2008
LỜI MỞ ĐẦU
¯
Trong những năm gần đây, nhất là sau khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì mức độ hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng, trong đó, tài chính ngân hàng là một trong những lĩnh vực có nhiều thay đổi nhất. Sự hội nhập ấy mang đến cho ngành ngân hàng Việt Nam những cơ hội mới trong việc học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý cũng như tận dụng công nghệ tiên tiến, phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ từ những quốc gia phát triển. Bên cạnh đó, việc thiếu kinh nghiệm thực tế, lúng túng trong cách điều hành và kiểm soát các hoạt động ngân hàng trong điều kiện mới đã tạo nên những rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó, song song với mục tiêu tăng trưởng và phát triển, quản lý tốt các rủi ro để đảm bảo tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định đang là áp lực lớn của tất cả các ngân hàng thương mại nói chung tại Việt Nam.
Xuất phát từ mục tiêu đó, cần phải có một công cụ hữu hiệu để các ngân hàng thương mại có thể quản lý và kiểm soát các loại rủi ro hiện có, đồng thời ngăn chặn việc phát sinh những rủi ro mới. Thực hiện công tác kiểm toán nội bộ hiệu quả là giải pháp tối ưu mang tính chiến lược và cấp thiết trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, thực tế hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng mới được đề cập và áp dụng trong vài năm gần đây và quá trình thực hiện còn nhiều lúng túng, thiếu kinh nghiệm về cả lý luận lẫn thực tiễn. Do đó, kiểm toán nội bộ tại hầu hết các ngân hàng thương mại đều chưa được quan tâm đúng mức để phát huy tác dụng trong việc quản lý rủi ro.
Chính vì yêu cầu đó từ thực tế, cần có một nghiên cứu về vấn đề quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ nhằm góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại. Trong phạm vi của đề tài, việc nghiên cứu này được thực tiện tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam (Southern Bank) liên quan đến các loại rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro từ các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng. Các loại rủi ro còn lại chỉ được nêu lên mà không đi vào phân tích cụ thể (rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro hoạt động …). Song song đó, đề tài cũng đánh giá thực trạng quản lý rủi ro từ việc sử dụng công cụ kiểm toán nội bộ và đề xuất những gói giải pháp thực hiện quản lý rủi ro tại ngân hàng Phương Nam để đảm bảo đưa ngân hàng Phương Nam phát triển an toàn, ổn định và bền vững. Đó cũng là mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Những nghiên cứu đi từ lý luận đến thực tiễn, có ý nghĩa trong việc giúp ngân hàng Phương Nam quản lý rủi ro. Trên cơ sở tìm hiểu các loại rủi ro; nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ và nội dung của hoạt động kiểm toán nội bộ; cùng với việc phân tích những rủi ro đã và đang tồn tại ở Ngân hàng Phương Nam, đề tài đã luận giải được những nguyên nhân phát sinh các loại rủi ro và kiến nghị một số giải pháp để khắc phục những nguyên nhân đó và hạn chế việc xuất hiện những rủi ro khác trong thời gian tới.
Kết cấu nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về quản lý rủi ro và kiểm toán nội bộ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khái niệm rủi ro và phân loại rủi ro:
Khái niệm rủi ro:
* Rủi ro: là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Tuy nhiên không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những tình trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán được xác suất xảy ra mới được xem là rủi ro. Những tình trạng không chắc chắn nào chưa từng xảy ra và không thể ước đoán được xác suất xảy ra được xem là sự bất trắc chứ không phải rủi ro.
Rủi ro vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực: rủi ro có thể mang đến cho con người những tổn thất, mất mát, nguy hiểm; nhưng cũng có thể mang đến cơ hội, thời cơ. Nếu tích cực nghiên cứu, nhận dạng, đo lường rủi ro, chúng ta có thể tìm ra được những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những tiêu cực và phát huy được những cơ hội tích cực mang lại từ rủi ro.
* Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng:
Đó là những biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến những tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
Phân loại rủi ro:
Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không còn khả năng chi trả hoặc trả nợ không đúng hạn. Lưu ý rằng trong hoạt động ngân hàng, thực hiện nghiệp vụ cho vay thì đó mới chỉ là một giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là hoàn thành khi nào ngân hàng thu hồi về được khoản cho vay cả gốc và lãi. Tuy nhiên khi thực hiện giao dịch tín dụng ngân hàng không biết chắc được giao dịch đó có hoàn thành hay không. Do đó rủi ro tín dụng thể hiện ở khả năng hay xác suất hoàn thành giao dịch tín dụng đó.
Như vậy, rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bão lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản
Đây là loại rủi ro xuất hiện khi ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng nhu cầu của các hợp đồng thanh toán.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ ngân hàng nào là đảm bảo khả năng thanh khoản đầy đủ. Nghĩa là các ngân hàng có sẵn lượng vốn khả dụng trong tay hoặc có thể tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn vay mượn bên ngoài với chi phí hợp lý và đúng lúc cần thiết, hoặc có thể nhanh chóng bán bớt một số tài sản ở mức giá thỏa đáng để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh.
Ngày nay công tác quản trị thanh khoản trở nên quan trọng hơn trước đây rất nhiều. Bởi vì một ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng đủ nhu cầu thanh khoản, mặc dù về mặt kỹ thuật, nó vẫn có khả năng trả nợ. Hơn nữa, năng lực quản trị thanh khoản là thước đo quan trọng về tính hiệu quả tổng thể để đạt được mục tiêu dài hạn của ngân hàng.
Rủi ro tỷ giá hối đoái:
Rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động tỷ giá theo chiều hướng bất lợi cho ngân hàng, làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Rủi ro tỷ giá có thể phát sinh trong nhiều hoạt động khác nhau của ngân hàng. Nhưng nhìn chung bất cứ hoạt động nào mà ngân lưu thu phát sinh bằng một loại đồng tiền trong khi ngân lưu chi phát sinh bằng một loại đồng tiền khác đều chứa đựng nguy cơ rủi ro tỷ giá.
Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro phát sinh do sự biến động của lãi suất thị trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đến tổn thất về tài sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng. Loại rủi ro này phát sinh trong quan hệ tín dụng của tổ chức tín dụng mà theo đó tổ chức tín dụng có những khoản đi vay hoặc cho vay theo lãi suất thả nổi. Nếu ngân hàng đi vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí của ngân hàng tăng theo và ngược lại. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi ngân hàng huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu hoặc đầu tư tài chính khá lớn và theo lãi suất thị trường.
Rủi ro tác nghiệp (rủi ro hoạt động):
Rủi ro tác nghiệp xảy ra do nguyên nhân thiếu hoặc có nhưng không hiệu quả của các quy trình nội bộ, con người hoặc hệ thống, hoặc xảy ra do các sự kiện bên ngoài, gây tổn thất cho ngân hàng. Mỗi ngân hàng tùy thuộc vào mục tiêu quản lý rủi ro của mình mà có thể xây dựng định nghĩa riêng về rủi ro tác nghiệp trong ngân hàng mình.
Rủi ro thị trường:
Đây là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường hay những biến động của thị trường làm ảnh hưởng đến lãi suất, tỷ giá ngoại hối, giá chứng khoán mà ngân hàng đang đầu tư...
Kiểm toán nội bộ
Khái niệm:
Kiểm toán: là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng về những thông tin được kiểm tra nhằm xác định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các kiểm toán viên có đủ năng lực và độc lập.
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ: (1) là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng được thiết lập trên cơ sở phù hợp với quy định pháp luật hiện hành và được tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các rủi ro và đạt được các mục tiêu mà tổ chức tín dụng đã đặt ra.
Kiểm toán nội bộ: (2) là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập trong tổ chức tín dụng, thông qua đó đơn vị thực hiện kiểm toán nội bộ đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các hệ thống, các quy trình, quy định, góp phần đảm bảo tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật.
(1) Điều 2, quyết định 36/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006
(2) Điều 2, quyết định 37/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006
Bộ phận kiểm toán nội bộ là đơn vị chuyên trách thực hiện hoạt động kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng. Công tác kiểm toán nội bộ do nhân viên của chính tổ chức tín dụng thực hiện, có thể thực hiện cả ba phương pháp kiểm toán là kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính, với thế mạnh là kiểm toán hoạt động. Để có thể hoạt động hữu hiệu, bộ phận kiểm toán nội bộ cần được tổ chức độc lập với bộ phận được kiểm toán.
Tuy nhiên, do kiểm toán viên nội bộ là nhân viên của tổ chức tín dụng nên kết quả kiểm toán nội bộ chỉ có giá trị đối với tổ chức tín dụng và thường không đạt sự tin cậy của Ngân hàng Nhà nước hoặc các đối tác khác (nếu có).
Phương pháp kiểm toán:
d1/ Kiểm toán hoạt động: là tiến trình kiểm tra và đánh giá về sự hữu hiệu và tính hiệu quả của một hoạt động để đề xuất phương án cải tiến. Ở đây sự hữu hiệu là mức độ hoàn thành nhiệm vụ hay mục tiêu, còn tính hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và nguồn lực đã sử dụng.
Đối tượng của loại hình này rất đa dạng, có thể bao gồm:
Kiểm tra việc huy động, phân phối, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực (nhân lực, vật tư, hàng hoá, tài sản, tiền vốn…) của đơn vị.
Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh; phân phối và sử dụng thu nhập; kết quả bảo toàn và phát triển vốn.
Kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của đơn vị.
Do tính đa dạng của kiểm toán hoạt động, nên người ta không thể đưa ra chuẩn mực chung để đánh giá, mà chuẩn mực sẽ được xác định tuỳ theo từng đối tượng cụ thể của cuộc kiểm toán và theo nhận thức của kiểm toán viên. Vì vậy, nếu các chuẩn mực kiểm toán không được xác định một cách rõ ràng và chặt chẽ, việc kiểm tra và đưa ra ý kiến có thể phụ thuộc vào chủ quan của kiểm toán viên.
d2/ Kiểm toán tuân thủ: là việc kiểm tra nhằm đánh giá mức độ chấp hành một quy định nào đó ví dụ như văn bản pháp luật, văn bản hay quy định của đơn vị được kiểm toán.
Đối tượng của loại này có thể bao gồm:
Kiểm tra tính tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính kế toán, chế độ quản lý nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, nghị quyết, quyết định hay quy chế của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc.
Kiểm tra tính tuân thủ các quy định về nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ, thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như của từng khâu công việc của từng bộ phận trong hệ thống Kiểm soát nội bộ.
Kiểm tra sự chấp hành các nguyên tắc, các chính sách, các chuẩn mực kế toán từ khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp thông tin và trình bày báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị đến lưu trữ tài liệu kế toán.
Chuẩn mực dùng để đánh giá là những văn bản liên quan như: Luật thuế, các văn bản pháp quy, các nội quy, các hợp đồng…
d3/ Kiểm toán báo cáo tài chính: là sự kiểm tra và trình bày ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính của một đơn vị. Do báo cáo tài chính bắt buộc phải lập theo các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành, nên chuẩn mực và chế độ kế toán được sử dụng làm thước đo trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Kiểm toán báo cáo tài chính thường được thực hiện bởi các kiểm toán viên độc lập, và kết quả kiểm toán để phục vụ cho đơn vị, Nhà nước và bên thứ ba, trong đó chủ yếu là cho nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp và các cổ đông …
Phân loại theo chủ thể kiểm toán: gồm có kiểm toán nội bộ, kiểm toán của Nhà nước và kiểm toán độc lập. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ tập trung chủ yếu về kiểm toán nội nộ.
Mục tiêu, chức năng, nguyên tắc và phạm vi kiểm toán nội bộ: (3)
- Mục tiêu và chức năng cơ bản của kiểm toán nội bộ bao gồm:
Đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập trong tổ chức tín dụng.
Kiểm tra, rà soát, đánh giá mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ, nhằm cải tiến và hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Nhằm thực hiện mục tiêu này, đơn vị thực hiện kiểm toán nội bộ được khuyến khích thực hiện hoạt động tư vấn, tham gia vào quá trình xây dựng, cải tiến và hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ với điều kiện không được vi phạm nguyên tắc độc lập, khách quan.
- Các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán nội bộ:
Tính độc lập: bộ phận kiểm toán nội bộ độc lập với các đơn vị, các bộ phận điều hành, tác nghiệp của tổ chức tín dụng; hoạt động kiểm toán nội bộ độc lập với các hoạt động điều hành, tác nghiệp của tổ chức tín dụng.
Tính khách quan: bộ phận kiểm toán nội bộ, kiểm toán viên nội bộ phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, công bằng, không định kiến khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán nội bộ.
Tính chuyên nghiệp: kiểm toán viên nội bộ phải là người có kiến thức, trình độ và kỹ năng kiểm toán nội bộ cần thiết, không kiêm nhiệm các cương vị, các công việc chuyên môn khác của tổ chức tín dụng.
(3) Điều 3,4,10 của quyết định 37/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006
- Phạm vi kiểm toán nội bộ:
Kiểm toán tất cả các hoạt động, các quy trình nghiệp vụ và các đơn vị, bộ phận của tổ chức tín dụng.
Kiểm toán đặc biệt và tư vấn theo yêu cầu của Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát.
Nội dung hoạt động của Kiểm toán nội bộ (4)
Nội dung chính của hoạt động kiểm toán nội bộ là kiểm tra, đánh giá tính đầy đủ, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Tùy theo quy mô, mức độ rủi ro cũng như yêu cầu cụ thể của từng tổ chức tín dụng, kiểm toán nội bộ có thể rà soát, đánh giá những nội dung sau:
Mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Việc áp dụng, tính hiệu lực, hiệu quả của các quy trình nhận dạng, phương pháp đo lường và quản lý rủi ro, phương pháp đánh giá vốn.
Hệ thống thông tin quản lý và hệ thống thông tin tài chính, bao gồm cả hệ thống thông tin điện tử và dịch vụ ngân hàng điện tử.
Tính đầy đủ, kịp thời, trung thực và mức độ chính xác của hệ thống hạch toán kế toán và các báo cáo tài chính.
Cơ chế đảm bảo sự tuân thủ các quy định của pháp luật, quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, các quy định nội bộ, các quy trình, quy tắc tác nghiệp, quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
Cơ chế, quy định, quy trình quản trị, điều hành, tác nghiệp của tổ chức tín dụng.
Đánh giá tính kinh tế và hiệu quả các các hoạt động, tính kinh tế và hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực, qua đó xác định mức độ phù hợp giữa
(4) Điều 11 của quyết định 37/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006
kết quả hoạt động đạt được và mục tiêu hoạt động đề ra.
Các biện pháp đảm bảo an toàn tài sản.
Thực hiện các nội dung khác có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ, theo yêu cầu của Hội đồng quản trị và Ban Kiểm Soát.
Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ: (5)
Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ là phương pháp kiểm toán "định hướng theo rủi ro", ưu tiên tập trung nguồn lực để kiểm toán các đơn vị, bộ phận, quy trình được đánh giá có mức độ rủi ro cao.
Kiểm toán nội bộ phải xác định, phân tích, đánh giá những rủi ro và xây dựng hồ sơ rủi ro cho từng hoạt động của tổ chức tín dụng. Hồ sơ rủi ro bao gồm toàn bộ các rủi ro tiềm tàng, tác động có thể có của các rủi ro đó đối với hoạt động của tổ chức tín dụng và khả năng xảy ra những rủi ro đó. Dựa trên đánh giá về tác động, khả năng xảy ra của các rủi ro; từng rủi ro được phân loại thành rủi ro cao, trung bình hoặc thấp. Việc đánh giá, phân loại rủi ro phải được thực hiện ít nhất một năm một lần.
Kết quả đánh giá rủi ro sẽ là căn cứ để Trưởng Kiểm toán nội bộ làm việc với Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán nội bộ hàng năm. Các rủi ro sẽ được xếp hạng theo thứ tự từ cao đến thấp, trong đó những hoạt động được coi là có rủi ro cao sẽ được ưu tiên tập trung nhiều nguồn lực, thời gian hơn để kiểm toán, được kiểm toán trước và được kiểm toán thường xuyên hơn các hoạt động có rủi ro thấp hơn.
Kế hoạch kiểm toán nội bộ phải được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá rủi ro và phải được cập nhật, thay đổi, điều chỉnh phù hợp với các diễn biến, thay đổi trong hoạt động của tổ chức tín dụng và sự thay đổi của các rủi ro đi kèm theo.
(5) Điều 6 của quyết định 37/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006
Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro trong NHTM
Quản lý rủi ro:
Theo chính sách quản lý rủi ro của Ủy ban Basel thì “Quản lý rủi ro là một quá trình liên tục cần được thực hiện ở mọi cấp độ của một tổ chức tài chính và là yêu cầu bắt buộc để các tổ chức tài chính có thể đạt được các mục tiêu đề ra và duy trì khả năng tồn tại và sự minh bạch về tài chính”.
Quan điểm khác cho rằng cần quản lý tất cả mọi loại rủi ro của ngân hàng một cách toàn diện: “Quản lý rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quản lý rủi ro bao gồm các bước: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro, kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và tài trợ rủi ro”. Cụ thể các bước của quản lý rủi ro:
Nhận dạng rủi ro: là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bao gồm các công việc: theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ mọi hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các rủi ro, không chỉ những loại rủi ro đã và đang xảy ra, mà còn dự báo được những dạng rủi ro mới có thể xuất hiện đối với ngân hàng, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp kiểm soát và tài trợ rủi ro thích hợp.
Để nhận dạng rủi ro, nhà quản trị phải lập được bảng liệt kê tất cả các dạng rủi ro đã, đang và sẽ có thể xuất hiện đối với ngân hàng bằng các phương pháp sau: lập bảng câu hỏi nghiên cứu về rủi ro và tiến hành điều tra, phân tích các báo cáo tài chính, phương pháp lưu đồ, thanh tra hiện trường, phân tích các hợp đồng, làm việc với các cơ quan Nhà nước, các ban, ngành có liên quan.
Phân tích rủi ro: là phải xác định được những nguyên nhân gây ra rủi ro nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro trên cơ sở tìm ra những nguyên nhân, tác động đến các nguyên nhân làm thay đổi chúng, từ đó sẽ phòng ngừa rủi ro một cách hữu hiện hơn.
Đo lường rủi ro: gồm thu thập số liệu, phân tích, đánh giá; trên cơ sở đó lập ma trận đo lường rủi ro. Để đánh giá mức độ quan trọng của rủi ro người ta đánh giá cả hai tiêu chí: tần suất xuất hiện của rủi ro và biên độ của rủi ro, trong đó tiêu chí thứ hai đóng vai trò quyết định.
Kiểm soát, phòng ngừa rủi ro: là công việc trọng tâm của công tác quản trị. Đó là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt động để ngăn ngừa, né tránh, hoặc giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng không mong đợi có thể xảy ra với ngân hàng. Có các biện pháp kiểm soát rủi ro như: né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất, chuyển giao rủi ro, đa dạng rủi ro, quản trị thông tin …
Tài trợ rủi ro: khi rủi ro xảy ra, trước hết cần theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài sản, về nguồn nhân lực, về giá trị pháp lý. Sau đó cần có những biện pháp tài trợ rủi ro thích hợp. Các biện pháp này được chia thành 2 nhóm: tự khắc phục rủi ro và chuyển giao rủi ro.
Ngoài ra, việc quản trị rủi ro cần dựa trên 9 nguyên tắc cơ bản sau: (1) chấp nhận rủi ro, (2) điều hành rủi ro cho phép, (3) quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt, (4) sự phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập, (5) sự phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính, (6) hiệu quả kinh tế, (7) hợp lý về thời gian, (8) phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng, (9) chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép.
Căn cứ vào 9 nguyên tắc trên, mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một chính sách quản trị rủi ro riêng biệt, phải xây dựng được một hệ thống phòng chống từ xa, đưa ra được giải pháp nhằm điều tiết các tác động xấu đến tình hình tài chính của ngân hàng.
Tầm quan trọng của quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà ngành tài chính - ngân hàng đang hội nhập ngày càng sâu và rộng vào nền kinh tế quốc tế, yêu cầu đặt ra đối với việc quản lý và kiểm soát những rủi ro phát sinh trong quá trình quản trị ngân hàng là vô cùng cần thiết và cấp bách đối với tất cả các ngân hàng thương mại tại Việt Nam nói chung và với Ngân hàng TMCP Phương Nam nói riêng.
Hậu quả của việc quản lý rủi ro yếu kém có thể gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng như: không thu hồi được vốn vay, tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận; làm mất lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng; gây ra việc rút tiền hàng loạt, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Khi một ngân hàng không đủ khả năng thanh khoản thì con đường dẫn đến phá sản rất ngắn. Ngoài ra, nó còn kéo theo sự hoảng loạn của hàng loạt các ngân hàng khác trong hệ thống tài chính - ngân hàng trong nước. Ở mức độ hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay thì nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, ngân hàng ở một nước xảy ra rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng, có thể ảnh hưởng đến hệ thống tài chính ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế của nước đó và cả những nền kinh tế của các nước có liên quan.
Chính vì đặc thù đó của ngành ngân hàng, việc quản lý rủi ro tại các ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết cho hiện tại và cho cả tương lai.
Chuẩn mực quản lý rủi ro đang được áp dụng
Năm 1988, Ủy Ban Basel về giám sát ngân hàng (The Basel Committee on Banking Supervision) đã ban hành hệ thống đo lường vốn (The Basel Capital Accord) gồm 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng (Basel I). Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, các nguyên tắc Basel I đã thể hiện một số nhược điểm. Cụ thể là chỉ cung cấp một thước đo duy nhất về rủi ro vốn cho các ngân hàng đang hoạt động trên quy mô quốc tế thông qua chỉ tiêu vốn tự có trên tài sản có điều chỉnh theo rủi ro (CAR ³ 8%) mà không xem xét đến tính chất rủi ro khác nhau của những ngân hàng, của các khoản cho vay và của nhiều yếu tố khác. Đồng thời việc áp dụng Basel I cũng chưa thể giúp các nước ngăn chặn khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Ủy ban Basel đã ban hành khung đo lường rủi ro (Basel II) vào tháng 01 năm 2001 và có hiệu lực vào cuối năm 2006, thay thế hiệp ước Basel I. Basel II gồm một loạt các chuẩn mực giám sát nhằm hoàn thiện các kỹ thuật quản trị rủi ro và được cấu trúc theo 3 cấp độ: (i) yêu cầu tỷ lệ vốn tối thiểu đối với rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động, (ii) đưa ra các hướng dẫn liên quan đến quá trình giám sát, (iii) yêu cầu các ngân hàng cung cấp thông tin cơ bản liên quan đến vốn, rủi ro để đảm bảo khuyến khích các nguyên tắc của thị trường.
Hiệp ước Basel II nhấn mạnh đến phương pháp kiểm soát, đánh giá nội bộ trong bản thân mỗi ngân hàng, quy trình giám sát và quy tắc thị trường; tăng cường sự linh hoạt trong việc quản lý rủi ro và chú trọng hơn đến độ nhạy cảm rủi ro. Hiệp ước đã chỉ ra cụ thể khái niệm cũng như cách đo lường các loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động.
Ủy ban Basel khuyến khích mỗi ngân hàng cần phải xây dựng một quy trình theo dõi, quản lý rủi ro tác nghiệp chi tiết và cụ thể. Cần tiến hành theo dõi thường xuyên mọi mặt hoạt động, mọi mắt xích trong quá trình giao dịch nhằm đưa ra các báo cáo cảnh báo về những khiếm khuyết, thiếu sót hoặc sai sót trong mọi chính sách kinh doanh, quy trình tác nghiệp trong ngân hàng.
Tuy việc tiếp cận những chuẩn mực của Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, trong khi hệ thống ngân hàng Việt Nam còn đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, nhưng Basel II cũng đã ảnh hưởng đến yêu cầu về quản lý rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện đã ban hành nhiều quyết định để từng bước hướng tới những tiêu chuẩn đo lường rủi ro, giám sát ngân hàng theo các chuẩn mực của Basel II. Nội dung của các quyết định này yêu cầu các tổ chức tín dụng áp dụng các trọng số rủi ro của tài sản, tiến dần đến những đánh giá mang các yếu tố định tính; khẩn trương xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; dự phòng được chia thành dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Bao gồm các quyết định:
Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 “Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD”
Quyết định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/07 - sửa đổi bổ sung một số điều của quyết định 457
Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 - “Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của TCTD”
Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 - sửa đổi, bổ sung một số điều của QĐ 493
Với xu thế hội nhập và tự do hóa hoạt động ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ mới, áp dụng Basel II là yêu cầu cấp thiết và bắt buộc đối với mọi ngân hàng thương mại, trên cơ sở đó sẽ tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro của các ngân hàng. Hiện tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang áp dụng theo phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng dựa trên Hiệp ước Basel I, và mới chỉ thực hiện được một phần Basel I. Hoạt động thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đang đặt mục tiêu sẽ vận dụng đầy đủ các quy tắc giám sát của Basel I trước năm 2010. Do đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải một thời gian tương đối dài để có thể vận dụng những phương pháp đo lường rủi ro của Basel II vào hoạt động giám sát rủi ro.
Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro
Kiểm toán nội bộ ngày nay không chỉ chịu trách nhiệm kiểm toán báo cáo tài chính, tập trung vào công tác kiểm tra kế toán và thông tin tài chính của doanh nghiệp. Vai trò của kiểm toán nội bộ hiện đại được mở rộng, bao gồm công tác kiểm toán tính hiệu quả và tính tuân thủ của mọi hoạt động cũng như tư vấn hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng; kiểm toán nội bộ giữ vai trò là quan sát viên độc lập, nhằm đảm bảo hoạt động của ngân hàng tuân thủ các quy định pháp luật, đạo đức kinh doanh và quy chế hoạt động của ngân hàng. Kiểm toán nội bộ còn là người giám sát, bảo trì, nâng cấp hệ thống kiểm soát nội bộ trong vai trò đảm bảo hiệu quả kinh doanh và xây dựng các thủ tục kiểm soát cần thiết; là công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của ngân hàng. Nhờ đó, Ban điều hành và Hội đồng quản trị có thể kiểm soát hoạt động và quản lý rủi ro tốt hơn, tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh khi quy mô và độ phức tạp trong hoạt động ngân hàng vượt quá tầm kiểm soát trực tiếp của họ.
Có thể nói, kiểm toán nội bộ là một công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của ngân hàng, nhận diện và dự báo những rủi ro có thể xảy ra thông qua việc đánh giá tính đầy đủ, hiệu quả và hiệu lực của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện tư vấn cho Hội đồng quản trị, Ban điều hành và các bộ phận nghiệp vụ thực hiện các dự án xây dựng, áp dụng mới hay sửa đổi những quy trình nghiệp vụ quan trọng, cơ chế quản trị điều hành, quy trình nhận dạng, đo lường, đánh giá rủi ro; quản lý rủi ro, phương pháp đánh giá vốn; hệ thống thông tin, hạch toán kế toán, thực hiện các nghiệp vụ, sản phẩm mới - với điều kiện không ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán nội bộ.
Bên cạnh đó, công tác kiểm toán nội bộ hiệu quả còn làm gia tăng niềm tin của các cổ đông và các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán vào hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng.
Như vậy, công tác kiểm toán nội bộ thực sự là công cụ hữu hiệu giúp Hội đồng quản trị và ban điều hành đảm bảo thực hiện cân đối 3 mục tiêu: tăng trưởng, hiệu quả và kiểm soát.
Kinh nghiệm quản lý rủi ro tại ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc
Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc (Korea Exchange Bank – KEB) là một trong các ngân hàng uy tín nhất trong hệ thống ngân hàng Hàn Quốc với hơn 3.000 đại lý tại 142 nước, trong đó có Việt Nam. Lợi nhuận tăng trưởng bình quân hàng năm trong 6 năm gần đây đạt 38%.
Chính sách quản lý rủi ro của KEB gồm các công việc:
Tối đa hóa danh tiếng KEB và tăng lợi nhuận có cân nhắc đặc biệt đến các rủi ro có liên quan, trên cơ sở tìm kiếm cơ hội và các phương án kinh doanh mới
Quản lý rủi ro và quản lý nghiệp vụ độc lập với nhau
Quản lý rủi ro bao quát toàn bộ các hoạt động kinh doanh của KEB trên cơ sở ứng dụng các phương pháp quản lý rủi ro định tính và định lượng
Quản lý các rủi ro định lượng thông qua các hạn mức và bản danh sách kiểm tra.
Định kỳ xem xét lại hạn mức và các bản danh sách kiểm tra.
Các phương pháp, công cụ và dữ liệu quản lý rủi ro được chia sẻ trong toàn hệ thống ngân hàng
Đa dạng hóa rủi ro một cách hợp lý phù hợp với chiến lược rủi ro tín dụng của KEB
Xây dựng, quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ tác nghiệp.
Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro và quy trình quản lý rủi ro
Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro của KEB được bố trí từ Hội sở đến các đơn vị phụ thuộc như sau:
Sơ đồ: cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tại KEB
Hội đồng quản lý
rủi ro
Hội đồng thẩm định rủi ro
Hội đồng điều hành
Hội đồng tín dụng
Hội đồng
chuyên viên
Các giao dịch
ngoại tệ
Tài khoản tín thác
Rủi ro tín dụng
Hội đồng quản lý rủi ro: xây dựng mục tiêu, chiến lược, nhiệm vụ kinh doanh, rủi ro; trong đó xác định rõ trước những rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng nhằm thiết lập một hệ thống kiểm soát và quản trị rủi ro hiệu quả
Hội đồng thẩm định rủi ro tín dụng, hội đồng điều hành, hội đồng tín dụng: tổ chức giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh theo quy trình, quy chế tín dụng. Đánh giá thường xuyên mức độ rủi ro của hoạt động kinh doanh, đưa ra các biện pháp nhằm giảm thiểu, hạn chế tối đa rủi ro, tổn thất dự đoán trước. Đồng thời xem xét giải quyết và quyết định những rủi ro hệ thống.
Hội đồng chuyên viên: phân tích, thẩm định, dự báo, đo lường, đánh giá định kỳ rủi ro và các bộ phận nghiệp vụ rủi ro ngoại tệ, tín thác, tín dụng tác nghiệp theo từng mảng nghiệp vụ chuyên biệt qua các hồ sơ, báo cáo, các bản danh sách kiểm tra của các phòng ban, tổ tác nghiệp
Với cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tách bạch khỏi hoạt động kinh doanh nên hệ thống quản lý rủi ro của KEB phát huy hiệu quả và giảm thiểu rủi ro, do việc cảnh báo tổn thất dự đoán trước được thực hiện trước khi đưa ra các phán
quyết tín dụng.
Quản lý rủi ro của KEB:
Chương trình quản lý rủi ro của KEB gồm 4 yếu tố:
Xác định hạn mức rủi ro
Đánh giá rủi ro
Theo dõi rủi ro
Quy trình quản lý rủi ro
Phương pháp định lượng rủi ro:
Phương pháp thống kê
Dựa vào kinh nghiệm về rủi ro của các chuyên gia
Tính toán, phân tích, dự báo
Công tác theo dõi, kiểm tra, kiểm soát rủi ro do một bộ phận trực thuộc Hội đồng quản trị độc lập với bộ phận kiểm soát nội bộ của KEB đảm nhiệm, có nhiệm vụ theo dõi, kiểm soát chặt chẽ diễn biến, tình hình thực hiện quy trình quản trị rủi ro.
Hệ thống báo cáo quản lý rủi ro được KEB xây dựng có hiệu quả và hiệu lực, cho phép thông tin tới được tất cả các cấp ra quyết định tín dụng và hội đồng rủi ro đơn vị phụ thuộc.
Bài học kinh nghiệm áp dụng cho các NHTM Việt Nam:
Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro phù hợp với quy mô và mục tiêu hoạt động của từng ngân hàng.
Xem xét sử dụng các phương pháp, công cụ định tính và định lượng để đo lường và dự đoán rủi ro trong quá trình hoạt động ngân hàng.
Tách bạch và chuyên trách vai trò của các thành viên trong Hội đồng quản lý rủi ro, đặc biệt là các thành viên trong Hội đồng tín dụng không được là thành viên Hội đồng quản lý rủi ro.
Đẩy mạnh công tác kiểm toán nội bộ trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của ngân hàng để ngăn ngừa rủi ro.
Xây dựng hệ thống kiểm soát và quản lý rủi ro riêng biệt với hệ thống quản lý tín dụng trực thuộc Hội đồng quản trị.
Xây dựng nhanh, áp dụng hiệu quả hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm hỗ trợ tốt cho công tác quản lý rủi ro. Thực hiện các khuyến nghị của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng.
Xây dựng, đào tạo đội ngũ chuyên gia và quản lý rủi ro vì theo kinh nghiệm KEB thì không có phương pháp phân tích phức tạp, hiện đại nào có thể thay thế được kinh nghiệm và đánh giá của chuyên gia trong quản lý rủi ro
Tóm lược chương 1
Nội dung chương 1 đã đưa ra cơ sở lý luận về rủi ro, phân loại rủi ro, quản lý rủi ro và khái quát về công tác kiểm toán nội bộ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Đồng thời, chương 1 cũng đã nêu bật được tầm quan trọng của quản lý rủi ro cũng như vai trò của công tác kiểm toán nội bộ trong việc quản lý những rủi ro đó. Song song đó, việc đưa ra một số chuẩn mực về quản lý rủi ro đang được áp dụng giúp người đọc có cái nhìn tổng quát về quá trình quản lý rủi ro của các ngân hàng thương mại theo thông lệ chung trên thế giới.
Trên cơ sở lý luận nêu trên, chương kế tiếp sẽ đi vào chi tiết thực trạng về rủi ro và quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ, nêu ra một số nguyên nhân phát sinh những rủi ro đó và đánh giá ưu, khuyết điểm của việc quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TỪ GÓC ĐỘ KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TẠI NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG NAM
. Khái quát về Ngân hàng TMCP Phương Nam:
Sơ lược quá trình hình thành và phát triển.
Ngân hàng TMCP Phương Nam được thành lập ngày 19/05/1993 với số vốn ban đầu 10 tỷ đồng, mạng lưới tổ chức hoạt động gồm 01 Hội sở và 01 chi nhánh.
Từ khi thành lập đến nay, Ngân hàng Phương Nam đã trải qua các giai đoạn phát triển:
Giai đoạn từ năm 1993-1996: tập trung xây dựng, củng cố năng lực trong kinh doanh để đưa Ngân hàng vượt qua giai đoạn khó khăn ban đầu; tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên giỏi nghiệp vụ, có đạo đức; hình thành hệ thống nghiệp vụ đa dạng và hoàn chỉnh tạo cơ sở vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Giai đoạn từ năm 1997-2003: đóng góp tích cực, đi đầu trong việc thực hiện chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về việc củng cố, chấn chỉnh Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng Phương Nam thành công trong sáp nhập 05 Ngân hàng: (i) Ngân hàng TMCP Đồng Tháp năm 1996; (ii) Ngân hàng TMCP Đại Nam năm 1999; (iii) Quỹ tín dụng Nhân dân Định Công năm 2000; (iv) Ngân hàng TMCP NT Châu Phú năm 2001; (v) Ngân hàng TMCP NT Cái Sắn năm 2003. Ngân hàng Phương Nam từ 01 hội sở, 1 chi nhánh, đến năm 2003 đã có mạng lưới rộng khắp gồm 28 chi nhánh thuộc các vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước gồm TPHCM, Hà Nội, Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ. Với mạng lưới ngày càng phát triển, năng lực tài chính được nâng cao, Ngân hàng Phương Nam thực hiện đẩy mạnh các hoạt động, dịch vụ trong toàn hệ thống.
Giai đoạn từ năm 2004 đến 2006: hoàn thành tốt các mục tiêu phát triển trong thời kỳ đề ra cho kế hoạch 03 năm, chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tầm nhìn và chiến lược phát triển từ năm 2007 đến 2010: phát triển thành tập đoàn tài chính đa năng và mạnh mẽ của khu vực bằng chiến lược phát triển phạm vi hoạt động kinh doanh sang nhiều lĩnh vực tài chính như: chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản, …và trở thành một trong những ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam được công nhận trên thị trường tài chính các nước trong khu vực thông qua nỗ lực nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đưa ra nhiều giải pháp và phương hướng kinh doanh mới và sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên của Ngân hàng Phương Nam (nhân lực, cơ sở hạ tầng, tài nguyên bất động sản).
Một số thành tựu đến cuối năm 2007:
Sau hơn 15 năm thành lập, Ngân hàng Phương Nam luôn đảm bảo sự phát triển liên tục và ổn định, thể hiện ở một số chỉ tiêu:
Tổng tài sản của Ngân hàng đến 31/12/2007 đạt 17.129,590tỷ đồng, tăng 87,91% so với 31/12/2006, và tăng 549 lần so với năm đầu thành lập (năm 1993).
Vốn điều lệ đạt 1.434,21 tỷ đồng. Theo kế hoạch, trong năm 2008 Ngân hàng Phương Nam sẽ tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng.
Tổng vốn huy động đến 31/12/2007 đạt 14.661,70tỷ đồng, tăng 100,59% so với 31/12/2006, và tăng 470 lần so với năm đầu thành lập.
Tổng dư nợ đến 31/12/2007 đạt 5.861,10tỷ đồng, tăng 25,63% so với 31/12/2006, và tăng 271 lần so với năm đầu thành lập. Tỷ lệ nợ xấu chiếm 2,9 % tổng dư nợ.
Lợi nhuận trước thuế năm 2007 đạt 253,23tỷ đồng, tăng 34,41% so với 31/12/2006, và tăng 549 lần so với năm đầu thành lập (trong đó, thu ngoài tín dụng chiếm 14% tổng thu nhập). Ngân hàng Phương Nam luôn duy trì tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ở mức cao, đảm bảo tốt quyền lợi của cổ đông, duy trì mức cổ tức hàng năm từ 10-18%/năm.
Mạng lưới hoạt động của Ngân hàng Phương Nam liên tục phát triển. Tính đến 31/12/2007, mạng lưới hoạt động của Ngân hàng được mở rộng lên đến 71 đơn vị trực thuộc bao gồm 01 Trụ sở chính, 02 Sở Giao dịch, 21 chi nhánh, 39 Phòng giao dịch, 03 điểm giao dịch, và 01 Công ty trực thuộc (công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản có 04 Chi nhánh).
Tổng số cán bộ công nhân viên Ngân hàng đến ngày 31/12/2007 có 1.241 người. Năm 2006, Ngân hàng Phương Nam đã thành lập Trung tâm Đào tạo Ứng dụng Ngân hàng Phương Nam (ATC) với mục tiêu đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên Ngân hàng để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và thực hiện công việc hiệu quả, chính xác, giảm thiểu rủi ro, từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ quản lý các cấp, tăng cường công tác đào tạo và tái đào tạo đội ngũ nhân viên nhằm hoàn thiện hơn nữa cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Phương Nam.
Một số giải thưởng và danh hiệu mà Ngân hàng Phương Nam đã đạt được trong thời gian qua:
- “Thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam năm 2006” do người tiêu dùng bình chọn ngày 5/4/2006
- Bằng khen đã có thành tích trong công tác tổ chức, vận động, đóng góp cho các hoạt động xã hội - từ thiện của Thành phố Hồ Chí Minh do UBND TP.HCM trao tặng năm 2006
- Cúp vàng “Vì sự phát triển cộng đồng” ngày 16/7/2006.
- “Achieving a High Straight- Through Rate for Payment Processing” - giải thưởng thanh toán quốc tế do Ngân hàng Wachovia trao tặng (2004 - 2005 – 2006) ngày 19/12/2006
- “Hệ thống quản lý chất lượng đạt tiêu chuẩn ISO 9001:2000” của BVQI – Vương quốc Anh ngày 26/5/2007
- Thương hiệu “Việt Nam tốt nhất” do người tiêu dùng bình chọn, báo điện tử Vietnamnet tổ chức ngày 28/8/2007.
- “Ngân hàng thực hiện xuất sắc nghiệp vụ thanh toán quốc tế” do Citi Bank trao tặng ngày 28/8/2007
Sứ mệnh – Tầm nhìn – Chiến lược hoạt động
- Sứ mệnh: Ngân hàng Phương Nam luôn cam kết mang đến giá trị Tín trong chất lượng từng dịch vụ, thủ tục nhanh chóng, lãi suất hấp dẫn với nhiều giá trị cộng thêm,… Cùng với tiêu chí hoạt động của mình – “Tất cả vì sự thịnh vượng của khách hàng”, Ngân hàng Phương Nam mang sứ mệnh đem sự thịnh vượng đến với cộng đồng, xã hội và đến từng khách hàng.
- Tầm nhìn: Trở thành tập đoàn tài chính đa năng và là một trong những ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam được công nhận trên thị trường tài chính các nước trong khu vực thông qua nỗ lực nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đưa ra nhiều giải pháp và phương hướng kinh doanh mới, sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên của Ngân hàng Phương Nam (nhân lực, cơ sở hạ tầng, tài nguyên bất động sản).
- Chiến lược hoạt động:
Phát triển thành tập đoàn tài chính đa năng và mạnh mẽ của khu vực bằng chiến lược phát triển phạm vi hoạt động sang nhiều lĩnh vực tài chính như: chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản,…
Tích cực tìm kiếm các đối tác chiến lược trong và ngoài nước để trao đổi kinh nghiệm và công nghệ, hoàn thiện các qui trình nội bộ (bao gồm quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro), liên kết cùng phát triển vì mục tiêu phát triển bền vững của ngân hàng nói riêng và của cộng đồng nói chung.
Tối đa hoá giá trị đầu tư của các cổ đông; giữ vững tốc độ tăng trưởng lợi nhuận và năng lực tài chính lành mạnh.
Trải rộng hệ thống chi nhánh trên toàn quốc để mở rộng thị phần về các dịch vụ tài chính, làm cầu nối đưa hình ảnh ngân hàng đến gần hơn với khách hàng.
Sau khi điểm qua về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Phương Nam trong những năm qua, cũng như sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu phát triển của Ngân hàng Phương Nam trong thời gian tới, phần kế tiếp luận văn đi vào phân tích thực trạng về các rủi ro tại Ngân hàng Phương Nam và đánh giá về vấn đề quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ. Trong giới hạn đề tài, các rủi ro được phân tích bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro từ những tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động Ngân hàng. Những loại rủi ro còn lại như rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro hoạt động, rủi ro hệ thống chỉ được nêu ra mà không đi vào phân tích cụ thể.
Thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam
Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam từ năm 2005 đến tháng 6/2008:
Thực trạng về rủi ro tín dụng sẽ được phân tích căn cứ vào việc phân loại dư nợ theo những tiêu chí khác nhau:
Phân loại dư nợ theo thời hạn cho vay
Bảng 2.1: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo thời hạn cho vay:
Đvt: triệu đồng
Dư nợ
2005
2006
2007
6/2008
So sánh (+/-)
2006/2005
tỷ lệ (%)
2007/2006
tỷ lệ (%)
Ngắn hạn
3.517.638
3.750.500
4.017.542
5.260.654
232.862
6,62
267.042
7,12
Trung hạn
1.145.228
829.723
1.623.864
2.524.696
- 315.505
-27,55
794.141
95,71
Dài hạn
36.727
36.127
203.290
557.196
- 600
-1,63
167.163
462,71
Vốn TTUTĐT
51.808
29.209
9.937
10.604
- 22.599
-43,62
- 19.272
-65,98
Nợ tồn đọng
-
7.923
5.878
5.878
7.923
0,00
- 2.045
-25,81
Nợ khoanh
779
594
594
594
- 185
-23,75
-
-
Tổng
4.752.180
4.654.076
5.861.105
8.359.622
- 98.104
-2,06
1.207.029
25,93%
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Ngân hàng Phương Nam)
Nhìn chung, tỷ lệ cho vay ngắn hạn chiếm trên 70% trong cơ cấu tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam, vòng quay vốn tín dụng nhanh. Riêng năm 2007, tổng dư nợ tăng đến gần 26% so với năm trước, đồng thời lượng vốn vay trung dài hạn đã tăng đáng kể, chiếm đến 32% tổng dư nợ. Về lâu dài ngân hàng cần có biện pháp để phát triển các khoản cho vay trung dài hạn tuy nhiên cũng cần chú trọng trong việc cân đối nguồn để cho vay trung dài hạn vì đa số lượng vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế khác (thị trường I) đều là ngắn hạn. Cần đảm bảo tỷ lệ an toàn trong việc sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn và chấp hành nghiêm túc các quy định của ngân hàng Nhà nước.
Tổng dư nợ đến 30/06/2008 đã tăng 42,6% so với cuối năm 2007, tăng đều ở tất cả các kỳ hạn. Ngân hàng Phương Nam cần có biện pháp hạn chế tín dụng, có lộ trình giảm dư nợ để đảm bảo tỷ lệ tăng trưởng tín dụng năm 2008 không quá 30% so với cuối năm 2007 theo chủ trương của Ngân hàng Nhà nước.
Phân loại dư nợ theo loại tiền
Bảng 2.2: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo loại tiền:
Đvt: triệu đồng
Dư nợ
2005
2006
2007
6/2008
So sánh (+/-)
2006/2005
tỷ lệ
2007/2006
tỷ lệ
VND
4.491.552
4.426.445
5.321.311
7.133.080
- 102.833
-2,29%
916.183
20,88%
Vàng
76.000
129.386
235.248
909.992
53.386
70,24%
105.862
81,82%
Ngoại tệ
184.628
98.245
304.546
316.550
- 86.383
-46,79%
206.301
209,99%
Tổng
4.752.180
4.654.076
5.861.105
8.359.622
- 98.104
-2,06%
1.207.029
25,93%
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Ngân hàng Phương Nam)
Dư nợ vay bằng VND chiếm tỷ trọng lớn (hơn 90% tổng dư nợ), vàng và các loại ngoại tệ khác chiếm tỷ lệ nhỏ. Việc tập trung cho vay bằng VND cho thấy Ngân hàng Phương Nam chưa đa dạng hoá danh mục cho vay, chưa phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng và đặc biệt là mảng thanh toán quốc tế còn kém phát triển, sản phẩm dịch vụ liên quan còn nghèo nàn nên doanh số cho vay bằng ngoại tệ còn thấp.
Phân loại dư nợ theo nhóm nợ.
Bảng 2.3: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo nhóm nợ:
Đvt: triệu đồng
Dư nợ
2005
2006
2007
6/2008
So sánh (+/-)
2006/2005
tỷ lệ (%)
2007/2006
tỷ lệ (%)
Nhóm 1
4.567.185
4.160.453
5.376.000
8.071.742
- 406.732
-8,91
1.215.547
29,22
Nhóm 2
109.521
359.171
315.248
113.292
249.650
227,95
- 43.923
-12,23
Nhóm 3
18.774
44.000
38.632
45.953
25.226
134,37
- 5.368
-12,20
Nhóm 4
29.600
39.464
53.364
36.256
9.864
33,32
13.900
35,22
Nhóm 5
26.322
42.471
71.388
85.908
16.149
61,35
28.917
68,09
Nợ tồn đọng
-
7.923
5.878
5.878
7.923
-
- 2.045
-25,81
Nợ khoanh
779
594
594
594
- 185
-23,75
-
0,00
Tổng dư nợ
4.752.181
4.654.076
5.861.105
8.359.622
- 98.105
-2,06
1.207.029
25,93
Tổng nợ xấu
75.475
134.452
169.856
174.589
58.977
78,14
35.404
26,33
Nợ chú ý/TDN
2,30%
7,70%
5,37%
1,36%
5,4%
-
-2,33%
-
Nợ xấu/ TDN
1,59%
2,89%
2,90%
2,09%
1,30%
-
0,01%
-
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Ngân hàng Phương Nam)
Dư nợ tăng đều qua các năm nhưng tỷ trọng các nhóm nợ xấu, nợ cần chú ý cũng tăng theo, thậm chí tốc độ tăng nợ xấu còn cao hơn tốc độ tăng tổng dư nợ. Nợ cần chú ý năm 2006 tăng đến hơn gấp đôi so với năm 2005 và giảm ít vào năm 2007. Nợ thuộc nhóm này cần theo dõi chặt chẽ để tránh việc tăng tuổi nợ dẫn đến tăng dư nợ xấu. Theo khuyến cáo của Ngân hàng Nhà nước thì tỷ lệ nợ cần chú ý ở mức dưới 7% là chấp nhận được. Theo số liệu về dư nợ tại Ngân hàng Phương Nam trong 3 năm gần đây thì chỉ có năm 2006 là tỷ lệ nợ nhóm 2 ở mức 7,7%, các năm còn lại tỷ lệ này đều nằm trong mức cho phép dưới 7%. Tuy nhiên, mọi số liệu đều mang tính thời điểm. Do đó, Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa đến nhóm nợ này để kiểm soát chất lượng tín dụng hiệu quả hơn.
Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu:
Trong 3 năm gần đây, nợ xấu liên tục tăng về cả số tuyệt đối lẫn tương đối. Trong khi tổng dư nợ năm 2007 tăng 25,93% so với năm 2006 thì tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ tăng đến 26,33%. Điều này chứng tỏ Ngân hàng Phương Nam vẫn chưa chú trọng đến công tác thu hồi, xử lý các khoản nợ xấu cũng như việc hạn chế nợ xấu phát sinh đối với những hồ sơ cho vay mới. Đến cuối tháng 6/2008, tổng nợ xấu tăng ít trong khi tổng dư nợ tăng đến hơn 40% nên tỷ lệ nợ xấu giảm từ 2,9% vào cuối năm 2007 còn 2,09%. Như vậy, thực chất chất lượng tín dụng không được cải thiện.
Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ tại Ngân hàng Phương Nam đảm bảo ở mức dưới 3%. Tuy vẫn phù hợp với các tiêu chuẩn về nợ xấu do Ngân hàng Nhà nước quy định, nhưng so với một số ngân hàng thương mại cổ phần khác thì tỷ lệ này là khá cao (năm 2007 gần chạm ngưỡng 3%). Do đó, Ban lãnh đạo Ngân hàng Phương Nam cần có những giải pháp tích cực hơn nữa trong việc giảm tỷ lệ nợ xấu, mà cơ bản là giảm về số tuyệt đối, tránh trường hợp giãn nỡ cơ học tổng dư nợ để giảm tỷ lệ nợ xấu về số tương đối. Điều này rất dễ dẫn đến sai lầm trong việc mở rộng cho vay, lỏng lẻo trong công tác thẩm định hoặc mở rộng quá mức các đối tượng và điều kiện cho vay. Đây là gốc rễ phát sinh rủi ro tín dụng – một loại rủi ro quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam:
Cũng như tất cả các tổ chức tín dụng khác, rủi ro tín dụng phát sinh trong môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ khách hàng và bản thân ngân hàng gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Dưới đây là một số rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam bắt nguồn từ cả hai nguyên nhân trên.
2.2.2.1. Rủi ro do nguyên nhân khách quan:
a) Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước nói chung và Ngân hàng Phương Nam nói riêng, với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
b) Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương:
Ngân hàng Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý tiền tệ còn chịu nhiều chi phối trực tiếp của Chính phủ và sự can thiệp của nhiều cơ quan chức năng trong quá trình xây dựng và thực hiện chức năng quản lý và giám sát hoạt động của ngân hàng thương mại. Mức độ can thiệp hành chính vào hoạt động ngân hàng quá lớn, quyền lợi và quyền tự chủ kinh doanh của các ngân hàng thương mại chưa được đảm bảo bằng pháp luật, đặc biệt khi xảy ra tranh chấp.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ, cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng ngân hàng thương mại không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
Những văn bản này đều có quy định: Trong những trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng.
c) Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trong tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Tuy nhiên, Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp chỉ ở mức độ thống kê, chưa phát huy được tác dụng cảnh báo rủi ro, thông tin còn đơn điệu, thiếu cập nhật. Ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.
2.2.2.2. Rủi ro do nguyên nhân chủ quan:
* Nguyên nhân phát sinh rủi ro từ phía khách hàng:
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản mặc dù khi đến vay vốn họ có phương án kinh doanh cụ thể và khả thi.
Khả năng quản lý kinh doanh kém: khi nguồn vốn vay được giải ngân, quy mô kinh doanh mở rộng nhưng tư duy quản lý kém là nguyên nhân khiến họ sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả, dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đều có quy mô tài sản và nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ nợ/ vốn tự có cao, chưa có thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng sổ sách kế toán. Do đó, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Khi cán bộ tín dụng ngân hàng lập các bản phân tích tài chính doanh nghiệp dựa trên các số liệu được cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng chính là nguyên nhân vì sao các ngân hàng vẫn thường xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
* Nguyên nhân phát sinh rủi ro từ phía ngân hàng:
a. Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
Đạo đức cán bộ tín dụng là một trong các yếu tố tối quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về nghiệp vụ thì vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Họ có thể tiếp tay với khách hàng làm giả hồ sơ vay, nâng giá trị tài sản đảm bảo lên quá cao so với thực tế, hoặc có thể lỏng lẻo trong việc thẩm định khách hàng. Tất cả những việc đó đều có thể gây khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lý khoản vay, dẫn đến tổn thất trong việc thu hồi vốn vay.
Trong những năm gần đây, việc mở rộng mạng lưới các chi nhánh của Ngân hàng Phương Nam diễn ra khá nhanh, dẫn đến việc thiếu hụt trầm trọng về nhân lực, nhất là cán bộ tín dụng. Việc đề cử cán bộ tín dụng cũ lên những vị trí quản lý trong các đơn vị mới thành lập đòi hỏi phải có một lực lượng cán bộ tín dụng khác thay thế. Trong khi đó, sự cạnh tranh về nhân lực có chất lượng trong hệ thống ngân hàng thương mại dẫn đến công tác tuyển dụng dễ dàng hơn, các điều kiện và phạm vi tuyển dụng trở nên thông thoáng hơn. Kết quả là những cán bộ tín dụng mới, do chưa có kinh nghiệm, lại không có thời gian đào tạo bài bản về chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp nên việc phân tích, đánh giá khách hàng thiếu chính xác. Và như vậy, vừa vô tình vừa cố ý, các cán bộ tín dụng này góp phần tăng thêm rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
b. Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Cán bộ tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Trong tất cả các kết luận kiểm tra của thanh tra Ngân hàng Nhà nước cũng như của Phòng kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Phương Nam thì việc “cán bộ tín dụng không kiểm tra quá trình sử dụng vốn theo quy định” là sai phạm thường gặp nhất tại tất cả các đơn vị.
Theo “quy trình kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ” của Ngân hàng Phương Nam, thì chậm nhất là 30 ngày sau lần giải ngân đầu tiên của khách hàng, cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng. Định kỳ hàng tháng, hàng quý hoặc đột xuất cán bộ tín dụng có thể cùng lãnh đạo tiến hành kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo nợ vay của khách hàng thông qua sổ sách hạch toán, chứng từ, hóa đơn, hợp đồng do khách hàng cung cấp, và lưu trữ trong hồ sơ khách hàng. Tối thiểu 3 tháng 1 lần cán bộ tín dụng phải lập biên bản kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.
Tuy nhiên việc này thường không được cán bộ tín dụng thực hiện nghiêm túc. Một phần do tâm lý ngại phiền hà khách hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời đầy đủ các thông tin mà ngân hàng yêu cầu, do đó những chứng từ cung cấp đôi khi không phản ánh đúng tình hình hoạt động thực tế của khách hàng. Một số trường hợp cán bộ tín dụng cho khách hàng ký khống biên bản kiểm tra sử dụng vốn, hoặc ký biên bản không ghi ngày, ghi trước ngày … Tất cả những điều đó nhằm đối phó với công tác thanh tra, kiểm tra chứ không nhằm mục đích theo dõi khoản vay và hạn chế rủi ro. Chính quan điểm sai lầm này của cán bộ tín dụng đã làm mất tác dụng của công tác kiểm tra sau khi cho vay cũng như phát hiện kịp thời những rủi ro phát sinh trong quá trình sử dụng vốn của khách hàng.
c. Hệ thống các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ tín dụng còn yếu kém:
Một số văn bản về tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam chưa được ban hành kịp thời so với những biến động chung của các ngân hàng khác và/ hoặc so với quy định của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó, việc thường xuyên thay đổi các quy định về tín dụng thể hiện sự thiếu ổn định, thiếu chuyên nghiệp trong quá trình điều hành. Hiện tại Ngân hàng Phương Nam chưa có một bộ phận riêng chuyên soạn thảo, cập nhật những những quy định, thông báo, quyết định liên quan đến hoạt động tín dụng. Điều này dẫn đến việc các văn bản được ban hành thiếu tính đồng bộ, thống nhất và liên kết, gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam.
d. Công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ lỏng lẻo:
Kiểm soát, kiểm toán nội bộ cần được xem là hệ thống “thắng” (phanh) của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng đi nhanh thì hệ thống này càng phải hoạt động an toàn và hiệu quả để tránh cho cỗ xe đi vào những ngã rẽ rủi ro và luôn luôn đi đúng hướng. Kiểm soát, kiểm toán nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Ngân hàng Nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời đối với các vấn đề vừa phát sinh bởi tính sâu sát của kiểm tra viên trong công việc hàng ngày tại đơn vị.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Phương Nam vẫn chưa phát huy hết điểm mạnh này. Cụ thể, các kiểm tra viên được bố trí tại đơn vị chỉ thực hiện công tác kiểm tra sau khi nghiệp vụ đã phát sinh. Báo cáo hàng tháng của kiểm tra viên phải được trưởng đơn vị thông qua, điều này gây ra một số khó khăn nhất định cho kiểm tra viên trong công tác báo cáo. Các kiểm tra viên tại Hội sở thực hiện công tác giám sát từ xa qua báo cáo, cân đối, sao kê do đơn vị gửi nên tính chính xác và nhanh chóng đôi khi không đảm bảo. Bên cạnh đó, việc xử phạt các đơn vị có sai phạm cũng chưa được chú trọng. Sau khi được Phòng kiểm soát nội bộ nhắc nhở, cảnh cáo nhiều lần, một số đơn vị vẫn không thực hiện chỉnh sửa hoặc vẫn tiếp tục tái phạm mà chưa có một chế tài nào quy định cụ thể về việc cưỡng chế thi hành.
Như vậy, Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa được giao đầy đủ quyền hạn để thực hiện trách nhiệm của mình nên hiệu quả mà công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đạt được trong thời gian qua chưa cao.
Đối với hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Phương Nam: trong quá trình giám sát từ xa và kiểm toán trực tiếp tại đơn vị đã phát hiện một số sai phạm và đưa ra các khuyến cáo để đơn vị thực hiện chỉnh sửa. Song, có thể nói bộ phận kiểm toán nội bộ của ngân hàng Phương Nam vẫn chưa thực hiện hết chức năng và quyền hạn của mình trong việc phòng ngừa và phát hiện rủi ro có thể phát sinh, cũng như khắc phục những rủi ro đã tồn tại theo đúng như chức năng nhiệm vụ được quy định trong quy chế hoạt động mà Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Phương Nam quy định.
Tóm lại, đối với riêng Ngân hàng Phương Nam, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay và phụ thuộc vào hệ thống văn bản, quy định hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng, đạo đức của họ và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Hệ thống các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ tín dụng phụ thuộc vào bộ phận soạn thảo văn bản tại Hội sở chưa tạo được một hành lang pháp lý đầy đủ, vững chắc và thống nhất.
Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro tín dụng thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ:
Hội đồng quản trị và Ban Tổng Giám đốc Ngân hàng Phương Nam đã ban hành nhiều quy trình, quy chế về tín dụng để hạn chế rủi ro phát sinh và quản lý những rủi ro đang tồn tại. Các văn bản này quy định những vấn đề cơ bản, tạo cơ sở hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ tín dụng theo chiến lược, mục tiêu hoạt động của ngân hàng Phương Nam, đảm bảo tuân thủ các quy định của ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên, các quy trình, quy định này vẫn còn một số bất cập cần sửa đổi để hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ngày càng hoàn thiện hơn, hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý rủi ro tín dụng.
Trong năm 2007, Ngân hàng Phương Nam đã thành lập Phòng Quản lý tín dụng nhằm chuyên nghiệp hoá hoạt động quản lý tín dụng. Sau gần 1 năm hoạt động hiện tại phòng quản lý tín dụng đã được sáp nhập với Trung tâm xét duyệt tín dụng và đổi tên thành Phòng quản lý các chi nhánh.
Tuy nhiên, Phòng quản lý tín dụng (nay là Bộ phận Quản lý các chi nhánh của phòng Quản lý các chi nhánh) chưa thật sự phát huy tác dụng cũng như thực hiện các chức năng và nhiệm vụ được quy định trong Quy chế tổ chức và hoạt động. Công việc chủ yếu chỉ là tổng hợp các báo cáo từ các đơn vị, định kỳ và đột xuất gửi Ngân hàng Nhà nước hoặc báo cáo cho Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc khi có yêu cầu. Chưa có những đề xuất cũng như cảnh báo về tình hình tín dụng tại các đơn vị, chưa hỗ trợ, phối hợp với phòng KTKSNB&PC trong việc phát hiện kịp thời và khuyến cáo các đơn vị về chất lượng tín dụng.
Tóm lại, rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam xuất phát từ những nguyên nhân trên. Trong đó, thực hiện tốt các biện pháp về đào tạo và bố trí cán bộ nhân viên, cơ chế kiểm tra giám sát hành vi của cán bộ nhân viên ngân hàng trong quá trình xử lý công việc là coi như ngân hàng đã đi được một nửa chặng đường để quản lý tín dụng.
Thực trạng về rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam:
Điểm qua một vài thời điểm khó khăn về thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam và nguyên nhân phát sinh.
Trong suốt thời gian hoạt động của Ngân hàng Phương Nam tình trạng căng thẳng thanh khoản không thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, có những sự kiện làm xôn xao dư luận, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của Ngân hàng trong một vài thời điểm nhất định do khách hàng đến rút tiền đông hơn bình thường.
Vào tháng 7 năm 2005, tại Ngân hàng Phương Nam - Phòng giao dịch số 1 Hà Nội cho vay tiêu dùng đối với cán bộ nhân viên tại một số đơn vị. Tuy nhiên sau đó có đơn kiện về việc hơn 40 giáo viên của trường tiểu học Xuân Giang huyện Sóc Sơn có tên đứng vay tại Ngân hàng Phương Nam nhưng thực chất là họ không nhận được tiền. Sự việc xảy ra vào ngày 22/07/2005 sau khi bản tin thời sự trên VTV3 vào tối hôm trước đã phát tin về việc có dấu hiệu lừa đảo tại Ngân hàng Phương Nam. Người dân Hà Nội đã hoang mang và đến chi nhánh Ngân hàng Phương Nam tại Hà Nội rút tiền tiết kiệm trước hạn. Tuy nhiên vụ việc chỉ diễn ra trong vòng 1 ngày (22/07/05) và nhanh chóng được Ban giám đốc chi nhánh Hà Nội, phối hợp với đại diện Ngân hàng Nhà nước tại Hà Nội và bảo hiểm tiền gửi giải quyết. Người dân đa số là đến tìm hiểu thông tin hơn là đến rút tiền. Bởi thực chất, khả năng thanh khoản của Ngân hàng Phương Nam tại thời điểm đó rất an toàn (quỹ dự phòng xử lý rủi ro tại thời điểm đó là 30 tỷ đồng). Đồng thời, sáng hôm xảy ra sự việc, chi nhánh Ngân hàng Phương Nam tại Hà Nội đã rút 53 tỷ đồng từ tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước đề phòng trường hợp khách hàng đến rút tiền quá nhiều; trong khi tổng dư nợ đến thời điểm đó của các khoản vay tiêu dùng tại trường tiểu học Xuân Giang chỉ khoảng 500trđ.
Sự việc nhanh chóng được ổn định nhưng cũng đã ảnh hưởng đến uy tín cũng như khả năng thanh khoản của Ngân hàng Phương Nam trong một thời gian nhất định.
Cho đến năm 2008, sự kiện nổi bật trong những ngày đầu năm 2008 là việc Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Phương Nam bị bắt vì tội đe dọa giết người. Có thể nói vụ việc đó đã ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam trong khoảng ba ngày. Do đã chuẩn bị sẵn những phương án đối phó nên Hội đồng Quản trị Ngân hàng Phương Nam, được sự giúp đỡ của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, đã nhanh chóng ổn định tình hình và kịp thời trấn an khách hàng, nên việc rút tiền chỉ làm giảm lượng tiền gửi trong một khoảng thời gian chứ không làm mất khả năng thanh khoản của Ngân hàng Phương Nam.
Khoảng hơn một tháng sau sự kiện đó, Ngân hàng Phương Nam bước vào cuộc đua lãi suất huy động vào những ngày cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 2008. Lãi suất liên tục tăng nhanh từng ngày. Trong khoảng thời gian đó, Ngân hàng Phương Nam nói riêng và các Ngân hàng thương mại khác nói chung đều bị ảnh hưởng bởi tình trạng tiền gửi chạy lòng vòng và các sổ tiết kiệm được tất toán trước hạn. Với mức lãi suất huy động trung bình so với mặt bằng lãi suất chung trên thị trường, các đơn vị của Ngân hàng Phương Nam đã rất khó khăn để giữ khách hàng trước sự lôi kéo và mức lãi suất quá hấp dẫn của một số ngân hàng thương mại khác.
Cũng trong thời điểm đó, thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước ra thông báo tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1% cho tất cả các loại tiền gửi; đồng thời quyết định buộc các Ngân hàng thương mại phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, trong đó Ngân hàng Phương Nam phải mua 250 tỷ đồng tín phiếu. Đối với hầu hết các ngân hàng thì việc mua tín phiếu bắt buộc trong thời điểm đó đã là khó khăn khi mà nguồn vốn huy động đang có nguy cơ sụt giảm. Riêng tại Ngân hàng Phương Nam khó khăn đó càng tăng lên gấp bội do vẫn chưa khắc phục được hậu quả của sự kiện “riêng có” tại Ngân hàng Phương Nam vừa xảy ra trước đó. Thêm ảnh hưởng của tình hình chung khiến khả năng thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam một lần nữa rơi vào tình trạng căng thẳng. Khó khăn chồng chất khó khăn.
Các sự kiện xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn đã làm cho lượng vốn huy động của Ngân hàng Phương Nam tính đến cuối quí I năm 2008 giảm đáng kể. Tuy nhiên, điều này chỉ làm trạng thái thanh khoản căng thẳng chứ không làm mất khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam do tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam trong từng thời kỳ vẫn đảm bảo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, cộng với việc Hội đồng quản trị và Ban lãnh đạo Ngân hàng đã có những bước đi đúng đắn và kịp thời nên tình hình đã dần dần đi vào ổn định.
Các sự kiện phần lớn xảy ra trong khoảng thời gian ngắn và Ngân hàng Phương Nam cũng đã có những phương án xử lý kịp thời để đáp ứng nhu cầu vốn tại thời điểm đó. Vấn đề khó khăn là việc lấy lại uy tín cho ngân hàng, khắc phục hậu quả của những sự việc đó cũng như củng cố lòng tin của người dân vào Ngân hàng Phương Nam nói riêng và cả hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam nói chung.
Thực trạng khả năng thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam
Điểm qua chỉ tiêu tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam tại các thời điểm như sau:
Bảng 2.4: Tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam
Ngày
Tỷ lệ khả năng chi trả
31/12/2005
1,20
31/12/2006
1,25
31/12/2007
1,25
30/06/2008
1,25
(Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Ngân hàng Phương Nam)
Như vậy, tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam trong thời điểm kết thúc các năm tài chính 2005, 2006, 2007 đảm bảo đúng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản Có có thể thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo và các tài sản Nợ phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo). Như vậy, việc đảm bảo khả năng thanh khoản vẫn nằm trong tầm kiểm soát của ban quản trị Ngân hàng Phương Nam.
Tuy nhiên, các số liệu chỉ mang tính thời điểm do việc lấy số liệu căn cứ vào bảng cân đối kế toán cuối kỳ. Trong thực tế, tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời vẫn xảy ra trong một vài thời điểm. Giải pháp nhanh nhất Ngân hàng Phương Nam thực hiện để đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong thời điểm này là vay qua đêm, vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn có chi phí cao, lại dễ đưa ngân hàng đến tình trạng tiếp tục thiếu hụt thanh khoản vào ngày đáo hạn. Trong khi đó, việc duy trì các loại chứng khoán có tính thanh khoản cao như các loại công trái, tín phiếu chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, trái phiếu chính phủ vẫn chưa được ngân hàng quan tâm sử dụng đúng mức vì tỷ suất sinh lợi của các loại chứng khoán này rất thấp.
Một số nguyên nhân chính gây nên tình trạng khó khăn thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam trong thời gian qua:
Nguyên nhân khách quan: do tình hình kinh tế vĩ mô và những chính sách điều tiết của Ngân hàng Nhà nước, cụ thể:
Tốc độ lạm phát cuối năm 2007 tăng cao nhất trong vòng 15 năm trở lại đây (12,63%), và ngày càng tăng cao trong những tháng đầu năm 2008; cộng với việc Ngân hàng Nhà nước cùng lúc sử dụng nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ đã làm cho Ngân hàng Phương Nam cũng như hầu hết các ngân hàng thương mại khác gặp khó khăn.
Tính liên kết hệ thống giữa các ngân hàng thương mại để đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu; không có sự liên kết thống nhất trong việc xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro, chia sẻ các thông tin giữa các ngân hàng thương mại; tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá”, đòi tăng lãi suất hoặc rút tiền chuyển sang các ngân hàng thương mại khác, dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống các ngân hàng thương mại.
Việc khách hàng rút tiền từ ngân hàng này sang gửi ở ngân hàng khác hoặc rút tiền để mua vàng, ngoại tệ mạnh để tích trữ…đã làm tăng tính bất ổn của thị trường nội và ngoại tệ, gây khó khăn cho chính khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ gửi và vay tiền tại ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước “có lẽ” chưa dự đoán hết được mối quan hệ quá chặt chẽ giữa việc rút tiền khỏi lưu thông nhằm chống lạm phát, bằng việc phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, và rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại. Kết quả là muốn giữ cho hệ thống ngân hàng không lâm vào tình trạng mất thanh khoản, Ngân hàng Nhà nước lại phải bơm tiền ra liên tục thông qua thị trường mở, động thái này càng đẩy lãi suất VNIBOR lên cao (có thời điểm lên đến 42%). Mỗi khi lượng tiền cho vay ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước đáo hạn thì thiếu thanh khoản sẽ lại diễn ra và Ngân hàng Nhà nước lại phải bơm tiền đều đặn để các ngân hàng thương mại vượt qua thời điểm đó.
Nguyên nhân chủ quan:
Do lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn nên hầu hết tiền gửi của khách hàng được chuyển sang kỳ hạn ngắn. Việc mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn huy động cả tiết kiệm lẫn tiền gửi của các tổ chức (chủ yếu là không kỳ hạn và ngắn hạn) và cho vay, tạo sự mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ.
Cơ cấu dư nợ tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cụ thể là ngân hàng cho vay khá nhiều đối với những khách hàng đầu tư vào các lĩnh vực phi sản xuất như chứng khoán, bất động sản, tiêu dùng – những lĩnh vực có quá nhiều biến động bất thường, tiềm ẩn rủi ro.
Cũng như một số ngân hàng thương mại khác, việc vay trên thị trường liên ngân hàng để cho vay đã xảy ra tại Ngân hàng Phương Nam. Tuy nhiên việc duy trì tỷ lệ này ở một mức hợp lý tại từng thời điểm chưa được ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm đúng mức để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra.
Khả năng phân tích và dự báo biến động thị trường còn nhiều hạn chế. Ngân hàng chưa chú trọng đến khâu dự báo và xử lý cân đối giữa nguồn và sử dụng nguồn, chưa thiết lập hệ thống cảnh báo sớm về tình trạng thiếu hụt tạm thời khả năng chi trả và các giải pháp xử lý tối ưu.
Ủy ban quản lý Tài sản Có – tài sản Nợ của Ngân hàng Phương Nam chỉ mang tính hình thức, chưa phát huy hết chức năng và nhiệm vụ của mình nên hiệu quả hoạt động chưa cao.
Chưa quy định cụ thể về quản lý ngân quỹ, thu, chi nguồn vốn hàng ngày và các chính sách quy định về việc nắm giữ các giấy tờ có giá có khả năng thanh khoản cao.
Chưa có các giải pháp và chính sách trong việc kiểm soát và duy trì khả năng chi trả đối với từng loại tiền tệ, vàng.
Khả năng xảy ra rủi ro thanh khoản trong thời gian tới.
Thông qua việc xem xét những nguyên nhân khách quan và chủ quan, có thể nhận thấy Ngân hàng Phương Nam cần kịp thời có những biện pháp khắc phục hậu quả các đợt căng thẳng thanh khoản đã xảy ra, giải quyết triệt để các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản và có những đối sách phù hợp ứng với sự biến động của tình hình kinh tế trong từng thời kỳ. Đồng thời đưa ra những dự đoán, các kịch bản rủi ro thanh khoản có thể xảy ra trong tương lai để có giải pháp đối phó. Đây có thể xem là loại rủi ro quan trọng nhất, ảnh hưởng đến hoạt động của tất cả các ngân hàng thương mại nói chung, ảnh hưởng đến sự tồn tại của Ngân hàng Phương Nam nói riêng và ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam trong trường hợp xảy ra khủng hoảng thanh khoản.
Thực trạng về rủi ro lãi suất tại Ngân hàng TMCP Phương Nam
Diễn biến lãi suất từ năm 2005 đến tháng 06/2008:
Lãi suất huy động:
(Nguồn: các quyết định về lãi suất huy động VND, USD tại Ngân hàng Phương Nam qua các thời điểm)
Từ năm 2005 đến giữa năm 2008, lãi suất huy động VND và USD có xu hướng tăng cao. Nguyên nhân do diễn biến chung của nền kinh tế Việt Nam: tỷ lệ lạm phát tăng dần từ năm 2005 đến nay và đặc biệt là trong 6 tháng đầu năm 2008. Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, duy trì lãi suất thực dương, đảm bảo lợi ích người gửi tiền, cũng như giữ chân khách hàng, Ngân hàng Phương Nam cũng như các ngân hàng thương mại khác đã tăng dần lãi suất huy động VND từ mức khoảng 7%/năm lên 18%/năm, lãi suất huy động USD từ mức 3% lên gần 8%/năm. Càng về sau, nhất là trong những tháng đầu năm 2008, khoảng cách lãi suất giữa các kỳ hạn càng rút ngắn. Có thời điểm lãi suất huy động của tất cả các kỳ hạn dưới 12 tháng đều bằng nhau và cao hơn lãi suất huy động dài hạn. Đây là một điểm bất hợp lý trong việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Phương Nam (cũng như tình trạng chung của một số ngân hàng thương mại khác trong cùng thời điểm), thể hiện sự thiếu hụt trầm trọng nguồn vốn ngắn hạn. Sau đợt tăng lãi suất huy động giữa tháng 5, thì lượng tiền huy động tại ngân hàng Phương Nam trong tháng 6 tăng hơn 10% so với tháng trước. Như vậy, sau 6 tháng đầu năm 2008, tình hình thanh khoản của ngân hàng Phương Nam đã tương đối ổn định, lãi suất huy động cũng không còn liên tục tăng cao. Trong những tháng cuối năm 2008, với diễn biến tương đối ổn định của tình hình kinh tế vĩ mô, xu hướng sẽ giảm dần lãi suất huy động để đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng cũng chưa đẩy mạnh cho vay trung dài hạn nên hạn chế huy động nguồn vốn này. Do đó lãi suất huy động kỳ hạn từ 3 đến 6 tháng trước mắt vẫn cao hơn các kỳ hạn dài trên 6 tháng.
Lãi suất cho vay:
Ảnh hưởng chung của tình hình kinh tế những năm gần đây, lãi suất cho vay cũng biến động theo chiều hướng tăng dần như lãi suất huy động và theo tốc độ lạm phát của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, lãi suất cho vay không biến động nhanh và thường xuyên như lãi suất huy động. Từ mức khoảng 10% trong năm 2004, đến nay, lãi suất cho vay cao nhất không quá 21% theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (ứng với mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước công bố ngày 10/06/08 là 14%/năm). Cùng với những biến động về lãi suất trong những tháng đầu năm 2008, Ngân hàng Phương Nam đã tăng nhanh lãi suất cho vay để bù đắp chi phí huy động vốn liên tục tăng. Tình hình dần ổn định khi Ngân hàng Nhà nước chính thức ban hành quy định khống chế mức lãi suất cho vay tại các ngân hàng thương mại, đồng thời mở các cuộc thanh kiểm tra tại một số đơn vị của Ngân hàng Phương Nam (và các ngân hàng thương mại khác) về việc thực hiện quy định lãi suất cho vay.
Sau khi quy định của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực, Ngân hàng Phương Nam đã tiến hành rà soát và điều chỉnh lãi suất cho vay tại tất cả các đơn vị. Đến cuối tháng 6/2008, tất cả các đơn vị Ngân hàng Phương Nam đã điều chỉnh lãi suất cho vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời, trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng, Ngân hàng đang có lộ trình từng bước điều chỉnh tăng lãi suất cho vay đối với những hồ sơ phát sinh trước đây có mức lãi suất thấp (dưới 18%/năm) để bù đắp phần nào chi phí huy động đang duy trì ở mức 18%/năm và phấn đấu đạt kế hoạch lợi nhuận năm 2008.
Thực tế việc điều hành lãi suất cho vay tại Ngân hàng Phương Nam vẫn còn một vài điểm bất cập hiện đang thực hiện sửa đổi.
Cụ thể trong thời điểm xảy ra biến động lãi suất thường xuyên (khoảng tháng 5 năm 2008), việc cho vay tại các đơn vị căn cứ vào những “thông báo không chính thức” từ Hội sở. Mỗi khi có thay đổi lãi suất các đơn vị nhận được điện thoại và tiến hành cho khách hàng vay theo những “thông báo” đó mà không hề có một thông báo hay quyết định nào bằng văn bản về việc thay đổi lãi suất được ban hành.
Điều này có thể phát sinh nhiều rủi ro từ việc sai lệch thông tin, gây nhiều khó khăn trong quá trình kiểm tra, kiểm soát do lãi suất tại thời điểm này không nằm trong khung của bất kỳ quyết định nào có hiệu lực trong khoảng thời gian đó, và nhất là thể hiện một sự thiếu chuyên nghiệp trong quá trình điều hành. Tuy nhiên, tình trạng này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và các đơn vị cũng đã nghiêm túc thực hiện việc điều chỉnh lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và các quyết định của Ngân hàng Phương Nam đã ban hành sau đó.
Đánh giá rủi ro lãi suất thông qua hệ số chênh lệch lãi suất (hay hệ số thu nhập lãi ròng cận biên NIM – Net Interest Margin)
NIM =
x 100%
Thu nhập lãi – Chi phí lãi
å Tài sản Có sinh lời
Thời gian
31/12/2005
31/12/2006
31/12/2007
30/06/2008
NIM
3,03 %
3,94 %
2,15 %
1,02%
Bảng 2.5: Hệ số chênh lệch lãi suất tại Ngân hàng Phương Nam
(Nguồn: báo cáo của Ngân hàng Phương Nam)
Hệ số chênh lệch lãi suất này giúp ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lãi thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và việc tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp nhất. NIM càng thu hẹp thì rủi ro lãi suất càng lớn.
Thông qua chỉ tiêu NIM tại Ngân hàng Phương Nam trong 3 năm gần đây có sự biến động khó dự đoán. Thu nhập thuần từ lãi thực chất tăng đều từ năm 2005 đến 2007 nhưng do tổng tài sản có sinh lời tăng nhanh hơn mức tăng thu nhập thuần (cuối năm 2007 tăng gấp đôi so với cuối năm 2006) nên hệ số NIM giảm vào cuối năm 2007.
Đến giữa năm 2008, tổng tài sản có sinh lời tăng so với cuối năm 2007 nhưng tỷ lệ tăng không nhiều, trong khi đó thu nhập thuần từ lãi chỉ bằng một nửa cuối năm trước nên tỷ lệ chênh lệch lãi suất cũng giảm đi một nửa. Điều này phản ánh chính xác diễn biến bất hợp lý về lãi suất trong nửa đầu năm 2008: lãi suất huy động ngắn hạn cao hơn dài hạn và khoảng cách đến lãi suất cho vay không nhiều. Đây là một trong những rủi ro lãi suất tại Ngân hàng Phương Nam (cũng như nhiều ngân hàng thương mại khác nói chung)
Ảnh hưởng của việc biến động lãi suất và nguyên nhân phát sinh rủi ro:
Từ năm 2005 đến nay, lãi suất huy động và cho vay liên tục tăng. Biến động mạnh nhất là cuộc đua lãi suất huy động giữa các ngân hàng thương mại vào cuối tháng 2, đầu tháng 3 cho đến tháng 6 năm 2008, khi mà nền kinh tế đang phải đối mặt với lạm phát và những chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
- Ảnh hưởng lớn nhất và dễ thấy nhất từ việc tăng lãi suất huy động là lợi nhuận của ngân hàng ngày càng bị thu hẹp.
Ngân hàng phải tăng lãi suất huy động để thu hút khách hàng, hạn chế việc khách hàng tiền gửi đang di chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác trong thời gian ngắn. Song song đó, lãi suất cho vay cũng tăng theo để đảm bảo mức chênh lệch lãi suất và lợi nhuận của ngân hàng. Nhưng mức cho vay không thể tăng cao để duy trì khoảng cách lợi nhuận của ngân hàng.
Từ ngày 19/05/2008, Ngân hàng Nhà nước đã tăng lãi suất cơ bản từ 8,25% lên 12%, rồi 14%/năm vào ngày 10/06/08. Như vậy, lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản bằng VND như luật dân sự quy định mới thực sự có ý nghĩa. Cho đến cuối tháng 6 thì lãi suất cho vay tối đa không vượt quá 21%. Như vậy, tính đến cuối tháng 6/2008, khi lãi suất cho vay khống chế ở mức 21%/năm, lãi suất huy động bình quân 18%/năm thì lợi nhuận của ngân hàng rõ ràng đang ngày càng thu hẹp khi phải bù đắp các chi phí hoạt động khác.
Ngân hàng phải chịu thu hẹp lợi nhuận, thậm chí lợi nhuận thuần từ hoạt động cho vay không thể bù đắp được chi phí huy động. Thu từ lãi xấp xỉ hoặc cao hơn chi trả lãi không nhiều. Đối với Ngân hàng Phương Nam, từ trước đến nay thu tín dụng vẫn là nguồn thu chính, khoản thu ngoài dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp, ngân hàng vẫn chưa cải thiện được tình hình này, việc triển khai tiện ích của các sản phẩm dịch vụ khác chưa thực sự thu hút được khách hàng. Mặt khác, việc điều chỉnh lãi suất cho vay đối với những hợp đồng tín dụng đã ký trước đây chưa thực hiện triệt để và có hiệu quả nên thu từ lãi vay không tăng, trong điều kiện chi trả lãi huy động tăng cao thì nguồn thu này xem như đang giảm. Trong thời gian tới, nếu ngân hàng không có giải pháp đối với việc điều chỉnh lãi suất này cũng như phát triển các mảng dịch vụ ngân hàng khác thì đến cuối năm tài chính 2008 nguy cơ lỗ là khá cao.
- Việc thay đổi lãi suất trong thời gian ngắn là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong việc hoạch định nguồn cung – cầu thanh khoản, đảm bảo việc chi trả , khả năng thanh toán cũng như những tỷ lệ đảm bảo an toàn của Ngân hàng. Nguồn tiền mặt tại ngân hàng cần được duy trì để đảm bảo khả năng thanh khoản khi khách hàng có yêu cầu rút tiền.
Rất nhiều các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng Phương Nam nói riêng đã gặp khó khăn trong giai đoạn này, khi mà lãi suất huy động tăng cao, dự trữ bắt buộc tăng, lãi suất điều hòa vốn nội bộ tăng đẩy lãi suất cho vay tăng lên khiến ngân hàng khó khăn hơn trong việc tăng dư nợ. Bên cạnh đó, chính sách hạn chế tín dụng theo chủ trương của ngân hàng Nhà nước đã làm cho dư nợ tín dụng của ngân hàng ngày càng bị thu hẹp, ngân hàng chỉ thực hiện cho vay đối với một số đối tượng khách hàng nhất định.
- Lúc này từ rủi ro lãi suất có thể ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Khi mà lãi suất tăng cao, ngân hàng sẽ phải chọn lọc những khách hàng hoặc dự án thật tốt, thật sự hiệu quả để giải ngân. Tuy nhiên với mức lãi suất quá cao thì lượng khách hàng đáp ứng được rất ít. Lúc đó sẽ xuất hiện những khách hàng chấp nhận mức lãi suất cao nhưng phương án kinh doanh không thực sự tốt như những gì họ trình bày với ngân hàng, họ đang cần tiền để đầu tư mạo hiểm, hy vọng có thể tìm được mức lợi nhuận cao hơn lãi suất ngân hàng. Cũng có thể khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích, đi vay để cho vay, vì nguồn tiền mà ngân hàng giải ngân cho nền kinh tế trong giai đoạn này rất hạn chế. Nếu cán bộ tín dụng không thẩm định khách hàng cẩn thận, có thể dẫn đến những thất thoát cho ngân hàng mà nguyên nhân vì lãi suất cho vay quá cao.
- Một ảnh hưởng nữa của rủi ro lãi suất là làm giảm giá trị thị trường của tài sản Có và vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
Giá trị thị trường của tài sản Có hay tài sản Nợ là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, khi lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng tăng lên, và do đó, giá trị hiện tại của tài sản Có hoặc tài sản Nợ giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị hiện tại của tài sản Có và tài sản Nợ tăng lên. Trong những năm gần đây, lãi suất liên tục tăng nên giá trị tài sản của ngân hàng ngày càng giảm. Nếu không có những nhận định đúng đắn và khách quan thì việc đánh giá và so sánh về quy mô hoạt động của Ngân hàng sẽ trở nên không còn chính xác.
Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro lãi suất thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ:
Với diễn biến tình hình lãi suất như hiện nay, nhất là từ đầu năm 2008 đến nay, Ngân hàng Phương Nam hạn chế rủi ro lãi suất bằng cách thả nổi lãi suất cho vay, điều chỉnh lãi suất định kỳ 3 tháng một lần đối với những hồ sơ tín dụng mới phát sinh và những hồ sơ đã ký trước đó có quy định về việc điều chỉnh lãi suất. Thực hiện theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh lãi suất cho vay, theo đó, đối với những hồ sơ tín dụng ký sau ngày 19/05/2008 thì lãi suất cho vay tối đa không quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố (tối đa không quá 21%/năm); đối với những hồ sơ đã ký kết trước ngày 19/05/2008 thì vẫn áp dụng lãi suất cho vay cũ (đối với hồ sơ vay có lãi suất cố định), việc thay đổi lãi suất cho vay dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng, không vi phạm điều 4 bộ luật Dân sự năm 2005 và không cao hơn trần lãi suất cho vay.
Bên cạnh đó, ngân hàng cũng đã cân nhắc, điều chỉnh danh mục đầu tư: giảm bớt những khoản đầu tư dài hạn, những khoản có lãi suất cố định, chuyển sang tăng dần các khoản đầu tư ngắn hạn, lãi suất sinh lời linh hoạt để đảm bảo lợi nhuận trong điều kiện lãi suất thường xuyên biến đổi.
Thực trạng rủi ro từ những tỷ lệ an toàn đảm bảo trong hoạt động của Ngân hàng Phương Nam:
Điểm qua một số tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Ngân hàng Phương Nam:
Bảng 2.6: Một số tỷ lệ đảm bảo an toàn từ năm 2005 đến tháng 6/2008:
Chỉ tiêu
Quy định/ Thông lệ
31/12/05
31/12/06
31/12/07
30/06/08
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
>8%
21,40%
39,70%
28,80%
23,6%
Tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng để cho vay trung dài hạn
< 40%
26,30%
-20,40%
-3,60%
12,9%
Tổng tài sản Có (tỷ đồng)
-
6.496,7
9.215,9
17.119,6
17.331,3
Lợi nhuận trước thuế/tổng TSC
-
1,55%
2,04%
1,48%
0,41%
Tài sản Có sinh lời/ tổng TSC
> 75%
91,70%
81,80%
83,50%
84,7%
Tổng dư nợ/ tổng TSC
70% - 80%
73,70%
50,50%
34,20%
48,2%
Tổng huy động / tổng TSC
70% - 80%
49,70%
68,30%
56,00%
54,5%
(Nguồn: báo cáo của Ngân hàng Phương Nam)
Đa số các tỷ lệ đều đảm bảo, riêng tổng dư nợ và huy động tại Ngân hàng Phương Nam trong 3 năm gần đây thấp hơn thông lệ và chưa tăng tương ứng với mức độ tăng tổng Tài sản Có. Do đó, tỷ lệ dư nợ/ tổng TSC và huy động/ tổng TSC đều giảm dần qua các năm. Riêng đến giữa năm 2008, do tổng dư nợ tăng cao nên tỷ lệ dư nợ/ tổng TSC tăng so với cuối năm 2007.
Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế/ tổng TSC đến giữa năm 2008 chỉ bằng 1/3 so với cuối năm 2007, trong khi tổng TSC tăng không nhiều. Điều này cho thấy lợi nhuận đạt được trong nửa đầu năm 2008 giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là tình hình chung của toàn ngành tài chính ngân hàng trong giai đoạn khó khăn vừa qua.
Những điểm phù hợp, chưa phù hợp với chuẩn mực của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Nhìn chung, các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Ngân hàng Phương Nam trong 3 năm gần đây đều đáp ứng một cách tương đối theo những chuẩn mực, quy định và thông lệ. Tuy nhiên vẫn còn một số điểm chưa phù hợp hoặc chưa tận dụng hết tiềm năng phát triển, cụ thể như sau:
Đối với việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lớn hơn 8% theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005: Ngân hàng Phương Nam luôn đảm bảo. Song việc duy trì tỷ lệ này trong khoảng từ 20% đến 40% là một điều khá lãng phí.
Cũng theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn sử dụng để cho vay trung dài hạn tại Ngân hàng Phương Nam luôn đảm bảo nhỏ hơn 40%. Trong năm 2006 và 2007, tỷ lệ này ở mức -20,4% và -3,6% cho thấy dư nợ cho vay trung dài hạn thấp hơn nguồn huy động trung dài hạn, không cần sử dụng đến nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Như vậy, trong khi lãi suất huy động trung dài hạn cao mà nguồn giải ngân ra không nhiều làm chi phí trả lãi cho lượng tiền gửi này không được bù đắp đủ bằng thu nhập từ lãi cho vay trung dài hạn. Điều này chứng tỏ ngân hàng đã quá thận trọng trong việc cho vay cũng như còn yếu kém trong việc tăng dư nợ trung và dài hạn, gây lãng phí và sử dụng không hiệu quả lượng tiền huy động với kỳ hạn dài.
Việc đảm bảo tỷ lệ tài sản Có sinh lời/ tổng tài sản Có luôn ở mức lớn hơn 75% thể hiện khả năng thanh khoản của ngân hàng được đảm bảo khá tốt. Tuy nhiên, mặt trái của nó là việc duy trì tỷ lệ này quá cao chứng tỏ các khoản đầu tư trong tài sản của ngân hàng thường là ngắn hạn, khả năng sinh lời thấp.
Tỷ lệ tổng dư nợ/ tổng tài sản Có thấp hơn thông lệ, nhất là năm 2007. Nguyên nhân là do năm 2007 là năm mà các ngân hàng đồng loạt tăng vốn điều lệ cũng như mở rộng quy mô tổng tài sản nên dư nợ không tăng kịp tốc độ tăng của tổng tài sản (năm 2007 Ngân hàng Phương Nam tăng vốn điều lệ từ 1.290,789 tỷ đồng lên 1.434,21 tỷ đồng). Bên cạnh đó, việc hạn chế cho vay chứng khoán theo chỉ thị 03 của Ngân hàng Nhà nước góp phần hạn chế tăng dư nợ. Chính những lý do đặc thù trong năm 2007 làm tỷ lệ này giảm xuống mức 34,2%.
Tổng huy động/ tổng tài sản Có luôn thấp hơn thông lệ. Lượng vốn ngân hàng huy động được chưa tăng kịp so với mức tăng của tổng tài sản.
Như vậy, nhìn chung việc quản lý các chỉ tiêu hoạt động của ngân hàng Phương Nam đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nhưng vẫn chưa thật hiệu quả, còn lãng phí, chưa tận dụng được hết tiềm năng và nguồn lực để tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng.
Những rủi ro khác:
Bên cạnh các rủi ro vừa nêu thì hoạt động của ngân hàng Phương Nam còn gặp phải một số rủi ro khác như rủi ro về tỷ giá hối đoái, rủi ro hoạt động và một số rủi ro hệ thống khác. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, những rủi ro này chỉ được nêu ra mà không đi vào nghiên cứu chi tiết.
Tóm lại, tất cả các loại rủi ro trên đều có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và gây thiệt hại không nhỏ về mặt vật chất và uy tín của ngân hàng, nhưng rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản luôn có khả năng xuất hiện rất cao và gây thiệt hại lớn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó, Ngân hàng Phương Nam cần tập trung nhiều nguồn lực hơn nữa để có thể quản lý tốt hai loại rủi ro này.
Đánh giá chung về vấn đề nhận diện rủi ro từ công tác kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Phương Nam:
Trong hoạt động hàng ngày của ngân hàng thì hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ là không thể thiếu. Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ như kim chỉ nam giúp cho công việc hàng ngày được thực hiện đúng hướng, giúp cho bộ phận nghiệp vụ luôn thực hiện đúng những quy trình, quy định của pháp luật; giúp cho những bộ phận quản lý khác có thể theo dõi, kiểm soát và chấn chỉnh các hoạt động để giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất cho ngân hàng.
Trong những năm gần đây, hoạt động kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ mới thực sự được sự quan tâm tại các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Phương Nam nói riêng. Mặc dù Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật các Tổ chức tín dụng năm 2004 đã tách bạch hai chức năng kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ, nhưng đến ngày 01/08/2006 Ngân hàng Nhà nước mới ban hành quyết định 36/2006/QĐ-NHNN về quy chế kiểm tra kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng và 37/2006/QĐ-NHNN về quy chế kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng. Theo đó hai chức năng này đã thực sự được tách biệt và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Từ năm 2004 đến nay, Ngân hàng Phương Nam đã ban hành các quy định về hoạt động của bộ máy kiểm soát, kiểm toán nội bộ như: quy chế tổ chức hoạt động của bộ máy kiểm tra kiểm soát nội bộ; quy chế tổ chức hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ; quy chế kiểm toán nội bộ; quy trình kiểm toán nội bộ; quy chế tổ chức hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách.
Trên cơ sở các quyết định của Hội đồng quản trị về quy chế hoạt động và hướng dẫn nghiệp vụ cho công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ, Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ kết hợp với bộ phận kiểm toán nội bộ Ngân hàng Phương Nam triển khai thực hiện các chức năng kiểm soát, kiểm toán các hoạt động của tất cả các đơn vị trong hệ thống nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn những rủi ro trong quá trình tác nghiệp, đồng thời đưa ra những cảnh báo để Hội đồng quản trị và Ban điều hành Ngân hàng Phương Nam sớm có những biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Ưu điểm của kiểm toán nội bộ trong việc nhận diện và quản lý rủi ro tại ngân hàng Phương Nam:
Việc tách bạch chức năng và cơ cấu tổ chức hoạt động kiểm soát và kiểm toán nội bộ đã hỗ trợ nhau đem lại một số kết quả nhất định trong quá trình kiểm soát rủi ro tại ngân hàng Phương Nam.
Quá trình thực hiện nghiệp vụ kế toán, tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh doanh tiền tệ… được kiểm soát chặt chẽ từ trước, trong và sau khi thực hiện.
Kiểm tra viên tại đơn vị kịp thời phát hiện sai sót, nhắc nhở và có những cảnh báo để hạn chế rủi ro cho đơn vị.
Kiểm tra viên tại Hội sở tiến hành rà soát, kiểm tra, đánh giá hoạt động của đơn vị qua các đợt kiểm tra trực tiếp cũng như qua công tác giám sát từ xa, qua các báo cáo định kỳ của đơn vị
Bộ phận kiểm toán nội bộ với chức năng hoạt động định hướng theo rủi ro nên tất cả các mặt hoạt động của đơn vị đều được giám sát chặt chẽ thông qua các báo cáo định kỳ và đột xuất của đơn vị. Khi phát hiện bất kỳ dấu hiệu nào bất thường tại đơn vị có khả năng phương hại đến lợi ích chung của Ngân hàng Phương Nam, bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ yêu cầu đơn vị báo cáo chi tiết cụ thể hoặc trực tiếp xuống kiểm tra, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra các kiến nghị để xử lý.
Hoạt động kiểm toán nội bộ không chỉ trong phạm vi các đơn vị giao dịch trực tiếp với khách hàng như chi nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch; mà còn kiểm toán hoạt động của tất cả các phòng ban Hội sở, đặc biệt là phòng kế toán, kinh doanh tiền tệ, thanh toán quốc tế, và phòng đầu tư.
Tóm lại, dù có phân chia chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức hoạt động thì mục tiêu chung của bộ phận kiểm toán và kiểm soát nội bộ vẫn là nhận diện rủi ro, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có khả năng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng, đảm bảo cho ngân hàng Phương Nam phát triển ổn định và bền vững.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện mục tiêu chung đó, vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ vẫn còn nhiều hạn chế.
Nhược điểm của công tác kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam:
Về cơ sở pháp lý:
Tại điều 41 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các Tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày ngày 15/06/2004; theo quyết định 36/2006/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng và theo Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Phương Nam thì: Tổ chức tín dụng (Ngân hàng Phương Nam) phải lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ thuộc bộ máy điều hành, giúp Tổng giám đốc (Giám đốc) điều hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, không có hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trực thuộc bộ máy điều hành mà hoạt động kiểm soát thường xuyên đã được đưa vào từng quy trình về nghiệp vụ quản lý, việc thanh kiểm tra thường do kiểm toán nội bộ làm. Về kiểm toán nội bộ, để đảm bảo tính độc lập, chức năng này cần phải tách biệt và nằm dưới sự kiểm soát của Hội đồng quản trị thông qua Ban kiểm soát.
Về cơ cấu tổ chức:
Đối với Ban kiểm soát trực thuộc Hội đồng quản trị và Bộ phận kiểm toán nội bộ:
Kết quả thực hiện nhiệm vụ của Bộ phận kiểm toán nội bộ phải thường xuyên được Ban kiểm soát kiểm tra, rà soát, đánh giá. Tuy nhiên, Ban kiểm soát chưa thực sự độc lập đối với Bộ phận kiểm toán nội bộ và chưa có được sự độc lập tương đối đối với một số bộ phận được
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N.T. NGOC THU QUAN LY RUI RO TU GOC DO KIEM TOAN NOI BO TAI NGAN HANG PHUONG NAM.doc