Tài liệu Đề tài Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BIDV- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
CTTC- Cho thuê tài chính.
Cty- Công ty.
Phòng QLRR- Phòng Quản lý rủi ro.
Phòng QHKH-Phòng Quan hệ khách hàng.
Phòng QTTD-Phòng Quản trị tín dụng.
DPRR- Dự phòng rủi ro.
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Dư nợ cho thuê 2006-2008
Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ cho thuê theo loại hình doanh nghiệp 2006-2008
Bảng 2.3: Thị phần của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008
Bảng 2.4: Dư nợ cho thuê và nợ quá hạn 2006-2008
Bảng 2.5: Tỷ lệ nợ quá hạn theo ngành kinh tế năm 2008
Bảng 2.6: Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu 2006-2008
Bảng 2.7: Nợ xấu của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008
Bảng 2.8: Lãi treo và tỷ lệ lãi treo 2006-2008
Bảng 2.9: Trích lập dự phòng rủi ro 2006-2008
Bảng 3.1: Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả 2009-2010
Biểu đồ 2.1: Cho thuê tài chính nội ngành và ngoại ngành 2006-2008
Biểu đồ 2....
87 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 995 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BIDV- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
CTTC- Cho thuê tài chính.
Cty- Công ty.
Phòng QLRR- Phòng Quản lý rủi ro.
Phòng QHKH-Phòng Quan hệ khách hàng.
Phòng QTTD-Phòng Quản trị tín dụng.
DPRR- Dự phòng rủi ro.
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Dư nợ cho thuê 2006-2008
Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ cho thuê theo loại hình doanh nghiệp 2006-2008
Bảng 2.3: Thị phần của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008
Bảng 2.4: Dư nợ cho thuê và nợ quá hạn 2006-2008
Bảng 2.5: Tỷ lệ nợ quá hạn theo ngành kinh tế năm 2008
Bảng 2.6: Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu 2006-2008
Bảng 2.7: Nợ xấu của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008
Bảng 2.8: Lãi treo và tỷ lệ lãi treo 2006-2008
Bảng 2.9: Trích lập dự phòng rủi ro 2006-2008
Bảng 3.1: Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả 2009-2010
Biểu đồ 2.1: Cho thuê tài chính nội ngành và ngoại ngành 2006-2008
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu dư nợ theo loại hình doanh nghiệp 2006-2008
Biểu đồ 2.3: Thị phần của các công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008.
Biểu đồ 2.4: Nợ quá quá hạn 2006-2008.
Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính ba bên
Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính ba bên
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của công ty cho thuê tài chính BIDV từ tháng 11/2008
LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, vì vậy chúng ta phải không ngừng đổi mới và phát triển chính mình. Với việc gia nhập WTO, nhu cầu về vốn kinh doanh của các doanh nghiệp càng tăng cao, đặc biệt là nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp để tăng quy mô, trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh.
Hiện nay, lượng vốn trung và dài hạn đầu tư cho các doanh nghiệp vẫn còn khiêm tốn. Kênh huy động vốn quen thuộc vẫn là đi vay vốn ngân hàng thương mại. Tuy nhiên việc đi vay vốn ngân hàng, bên cạnh những ưu điểm lâu đời của hình thức tín dụng này, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong tài sản đảm bảo cũng như uy tín, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong những trường hợp như vậy, một kênh huy động khác mà doanh nghiệp có thể tìm đến là các công ty cho thuê tài chính. Với những ưu điểm của mình, cho thuê tài chính tỏ ra thích hợp với những doanh nghiệp mới thành lập, có lượng vốn nhỏ.
Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam với hơn 49 năm kinh nghiệm và chủ lực trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Thành lập từ năm 1998, Công ty cho thuê tài chính đã có hơn 8 năm kinh nghiệm cung cấp dịch vụ thuê tài chính cho hàng trăm doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trên phạm vi cả nước với tổng số vốn tài trợ hàng ngàn tỷ đồng. Tôn chỉ hoạt động của Công ty là “Đơn giản, chất lượng và hiệu quả”.
Trên thực tê hoạt động cho thuê tài chính của các Công ty cho thuê tài chính nói chung và hoạt động cho thuê tài chính của Công ty cho thuê tài chính-BIDV nói riêng, trong thời gian qua, cũng đã xuất hiện một số rủi ro như không thu được tiền thuê, tính chuyển nhượng của tài sản thuê thấp, hiệu quả của dự án không như dự tính...
Do đó, để kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo an toàn hoạt động và không ngừng phát triển, Công ty cho thuê tài chính-BIDV cần phải nhận diện, phân tích rủi ro để từ đó có các giải pháp thích hợp để giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng và an toàn hoạt động.
Với suy nghĩ như thế, em đã chọn đề tài “Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương, gồm:
Chương 1: Quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương I:Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.
1.1. Tổng quan về hoạt động cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính thực sự là một kênh dẫn vốn quan trọng, được đánh giá là khá hữu hiệu, tạo điều kiện thu hút vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô hoạt động kinh doanh cho thuê tài chính trên thế giới hiện nay phát triển khá nhanh và tăng trưởng vượt bậc qua các năm. Các sản phẩm của hình thức tín dụng này ngày càng đa dạng hơn, từ máy fax, máy photocopy, máy tính đến xe tải, máy bay, tàu thủy...Trước khi đi vào phân tích về lĩnh vực quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính, việc tìm hiều những nét tổng quan về hình thức tín dụng này sẽ giúp chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn.
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động cho thuê tài chính
Hoạt động cho thuê tài chính có nguồn gốc từ việc cho thuê tải sản. Từ những năm 2800 trước Công nguyên tại thành phố Sumerian gần vịnh Ba Tư ( hiện nay thuộc Iraq ), giao dịch cho thuê tài sản đầu tiên ra đời với việc cho thuê các công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, ruộng đất, nhà cửa. Sau đó, vào khoản năm 1700 trước Công nguyên, vua Babylon đã ban hành nhiều văn bản quy định về cho thuê tài sản.
Ở các nước có nền văn minh cổ đại như Hy Lạp, La Mã, Ai Cập, giao dịch cho thuê tài sản cũng đã xuất hiện hàng ngàn năm trước công nguyên. Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên phát triển việc cho thuê hầm mỏ. Người Hy Lạp cổ đại cũng tiên phong tạo ra khái niệm ngân hàng cho thuê. Tài sản thuộc quyền sở hữu của ngân hàng cho thuê đầu tiên được kí kết vào năm 370 trước công nguyên trong đó bao gồm tên ngân hàng, tiền kí quỹ, tên văn phòng và đội ngũ nhân viên.
Đến đầu thế kỷ 19 do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế hàng hóa hoạt động thuê tài sản đã có sự thay đổi về tính chất của giao dịch và xuất hiện hình thức cho thuê tài chính đầu tiên ở Mỹ. Hoạt động cho thuê tài chính thời kỳ này đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng, chủng loại thiết bị tài sản thuê. Những dạng hợp đồng cho thuê tài chính tạm thời bắt nguồn từ Hoa Kỳ. Công ty cho thuê tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ United State Leasing Corporation do Henry Shoeld sáng lập vào năm 1952 Công ty đã được thành lập để phục vụ cho ngành công nghiệp vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt.
Các nước châu Âu đã nối gót thành lập những công ty cho thuê vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 và có những bước phát triển mạnh mẽ ở châu Á và châu Phi từ thập niên 70. Thập niên 80 đã đánh dấu việc cho thuê tài chính được chấp nhận rộng rãi trên thế giới.
Ở Việt Nam, phải đến năm 1995, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn ngày càng gia tăng, nghiệp vụ cho thuê tài chính mới bắt đầu được thực hiện dưới hình thức tín dụng thuê mua bằng việc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 149/QĐ-NHNN ngày 27/05/1995. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng được thành lập công ty trực thuộc hoặc văn phòng Tín dụng thuê mua để quản lý và giám sát hoạt động tín dụng thuê mua. Tiếp theo đó ngày 09/10/1995 Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP quy định tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam. Nghị định này đã là cơ sở hướng dẫn và là quyết định cho hàng loạt các Công ty Cho thuê tài chính ra đời.
Mặc dù công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập ở Việt Nam vào năm 1996 và hoạt động cho thuê cũng đã manh nha ở các ngân hàng thương mại trước đó nhưng mãi đến khi Chính Phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP vào ngày 02/05/2001 thì hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam mới thực sự được hình thành. Mới đây nhất, chính phủ đã ban hành Nghị định số 95/2008/NĐ-CP sửa đổi và bổ sung một số điều về Nghị định 16/2001/NĐ-CP. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật này đã tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam.
Hiện nay ở Việt Nam đang có 13 công ty cho thuê tài chính được thành lập dưới các hình thức khác nhau đang hoạt động. Trong số đó, có các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, có các doanh nghiệp dưới hình thức công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài, lại có doanh nghiệp thuộc hình thức đa sở hữu như Công ty cho thuê tài chính liên doanh. Lượng vốn cấp theo hình thức cho thuê tài chính chiếm tỷ lệ khá nhỏ so với hình thức cấp vốn của ngân hàng. Trong khi đó, với lợi thế của mình, đáng lẽ loại hình dịch vụ cho thuê tài chính phải được phát triển nhanh chóng ở Việt Nam, nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang cần thu hút một lượng vốn lớn cho đầu tư cũng như cho tái đầu tư mở rộng. Dù vậy cũng phải nhìn nhận hoạt động cho thuê tài chính đã phần nào giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại trong việc cung ứng vốn đối với doanh nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
Các Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay gồm:
+ Các công ty cho thuê tài chính của các Ngân hàng: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Công thương, Ngoại thương, Sài Gòn Thương Tín, Đầu tư và Phát triển Việt Nam;
+ Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài gồm: Công ty cho thuê tài chính ANZ-VTRAC; Cty cho thuê tài chính Kexim và Công ty cho thuê tài chính Quốc tế Chailease;
+ Các loại hình khác: Công ty cho thuê tài chính Quốc tế VN (liên doanh); Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cho thuê tài chính Công nghiệp tàu thủy.
1.1.2. Khái niệm hoạt động cho thuê tài chính
* Theo Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC), một giao dịch thuê tài sản thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn dưới đây đều được gọi là thuê tài chính:
- Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hết hợp đồng.
- Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua bán tài sản tại thời điểm chấm dứt hợp đồng.
- Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động hữu dụng của tài sản.
Trên cơ sở phân loại của IASC, các nước có những quy định cụ thể trong pháp luật về cho thuê tài chính dựa trên điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mỗi nước, có thể nhấn mạnh tiêu chuẩn này hay giảm bớt tiêu chuẩn khác nhưng về cơ bản không có điều gì mâu thuẩn với các tiêu chuẩn chung.
* Ở Việt Nam, theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 của Chính phủ về “ Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính” thì:
“Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.”
Điểm khác biệt lớn giữa quan điểm về cho thuê tài chính ở Việt Nam so với trên thế giới là đối tượng cho thuê là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác mà không áp dụng cho thuê đối với bất động sản.
1.1.3. Đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính
- Hoạt động cho thuê tài chính phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định như Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra 4 tiêu chuẩn mà bất cứ giao dịch thuê nào thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn sau đều được gọi là giao dịch thuê tài chính:
+ Quyền sở hữu tài sản thuê được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp đồng.
+ Hợp đồng thuê có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng với giá trị thấp hơn giá trị thuê tại thời điểm kết thúc hợp đồng.
+ Thời gian của hợp đồng thuê chiếm phần lớn thời gian sử dụng hữu ích của tài sản thuê.
+ Giá trị hiện tại của toàn bộ tiền thuê tối thiểu do người thuê trả tiền lớn hơn hoặc bằng giá trị thị trường của tài sản thuê tại thời điểm ký hợp đồng
- Đa phần các hợp đồng cho thuê tài chính được hai bên ký kết là để đầu tư cho các tài sản thuê mới. Quyền lựa chon tài sản thuê trong các trường hợp đều thuộc về bên thuê, công ty cho thuê tài chính có nghĩa vụ phải mua đúng loại tài sản thuê mà bên thuê đã thỏa thuận hay cam kết với bên cung cấp tài sản.
- Tài sản thuê tài chính phải được mua bảo hiểm vật chất đầy đủ trong suốt quá trình thuê. Phí bảo hiểm cho tài sản có thể do bên thuê hoặc bên cho thuê thanh toán và được quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính nhưng người hưởng thụ trong suốt quá trình thuê phải là bên cho thuê tài chính.
- Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không hủy ngang nên bên thuê không được quyền chấm dứt hợp đồng trước hạn, trừ trường hợp do lỗi của bên cho thuê hoặc bên thuê đề nghị xin chấm dứt hợp đồng trước hạn và phải được bên cho thuê đồng ý.
- Thuê tài chính là một hình thức vay vốn, tài trợ vốn. Tổng số tiền thuê tài chính được trả theo một lịch thanh toán do bên cho thuê và bên thuê thỏa thuận và được quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính. Thông thường số tiền thuê tài chính được trả theo định kỳ nhất định mà bên thuê đề nghị. Các khoản tiền phải trả trong một kỳ bao gồm tiền gốc và tiền lãi thuê.
So sánh giữa cho thuê tài chính và cho vay trung dài hạn
Để các đặc trưng của hoạt động cho thuê tài chính trở nên nổi bật và dễ nhận biết, ta có thể làm phép so sánh sau:
Về cơ bản, có thể coi cho thuê tài chính như một loại hình tín dụng trung và dài hạn vì nó mang những đặc trưng cơ bản của loại hình tín dụng này:
- Bên cho vay (hay bên cho thuê) chuyển giao có thời hạn cho bên đi vay (hay bên đi thuê) một lượng giá trị dựa trên những cơ sở tín nhiệm.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay (hay cho thuê) hay nói cách khác là bên đi vay (đi thuê) phải trả thêm phần lãi ngoài vốn vay gốc.
Tuy nhiên cho thuê tài chính vẫn có thể phân biệt với tín dụng trung và dài hạn thông thường của ngân hàng qua một số điểm sau:
- Trong cho vay trung và dài hạn thông thường, ngân hàng tài trợ vốn bằng tiền cho khách hàng dùng số tiền đó mua tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Còn trong cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ cho khách hàng trực tiếp bằng các tài sản máy móc thiết bị mà khách hàng đang cần dùng. Như vậy, tài trợ bằng cho thuê tài chính đảm bảo sử dụng đúng mục đích vốn vay hơn so với hoạt động cho vay thông thường.
- Lãi suất cho thuê của cho thuê tài chính cao hơn so với lãi suất tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, do được tính trên cơ sở lãi suất cho vay trung và dài hạn cộng với một tỷ lệ nhất định các chi phí quản lý tài sản cho thuê của bên cho thuê.
- Trong giao dịch tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng phần lớn có sự tham của hai bên là người đi vay và ngân hàng, nhưng cũng có những trường hợp có sự tham gia của bên thứ ba là người bảo lãnh trong trường hợp người đi vay không đủ năng lực tài chính. Còn trong cho thuê tài chính, bên cạnh sự tham gia của bên thuê, công ty cho thuê tài chính, người bảo lãnh còn có sự tham gia rất quan trọng của một chủ thể thứ ba là các nhà cung cấp tài sản, nhưng cũng có trường hợp chỉ có hai bên tham gia trong giao dịch mua và cho thuê lại.
- Trong tín dụng trung và dài hạn, người đi vay có quyền định đoạt đối với tài sản đầu tư bằng tiền vay (tài sản đó thuộc sở hữu của người vay, được thế chấp cho ngân hàng). Do đó, khi cần thu nợ thường khó khăn vì xử lý tài sản thế chấp phức tạp. Đối với cho thuê tài chính, quyền sở hữu tài sản vẫn do bên cho thuê nắm giữ và bên thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản trong thời gian cho thuê. Vì thế bên thuê không được hạch toán vào tài sản có của mình mà chỉ được hạch toán vào tài sản ngoại bảng và tất nhiên cũng không được sử dụng làm vật bảo đảm trong tài sản thế chấp. Đồng thời, cũng nhờ vậy mà khi xảy ra tình huống xiết nợ thì điều đó dễ dàng cho công ty cho thuê tài chính để thu hồi tài sản.
- Trong tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng thường yêu cầu người vay phải có tài sản đảm bảo và kéo theo nhiều thủ tục giấy tờ. Còn trong cho thuê tài chính, tài sản vẫn thuộc sở hữu của bên cho thuê nên người thuê không bị đòi hỏi có tài sản thế chấp và nhờ đó giảm bớt một số công đoạn thủ tục, giấy tờ.
1.1.4. Phân loại hoạt động cho thuê tài chính.
Việc áp dụng cho thuê tài chính có sự cải biến tùy theo điều kiện kinh tế và môi trường kinh doanh của mỗi quốc gia, nhưng sự khác biệt là không nhiều do quan hệ cho thuê hiện nay đã có mối quan hệ toàn cầu, doanh nghiệp của một nước hoàn toàn có thể sử dụng sản phẩm được thuê từ một tổ chức nước ngoài. Bên cạnh đó, các công ty cho thuê tài chính, các ngân hàng, tổ chức tài chính của các nước phát triển cũng đã thâm nhập vào các nước đang phát triển dưới hình thức thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, mở chi nhánh hoặc liên doanh. Điều này giúp cho thuê tài chính thâm nhập sâu hơn vào các nước đang phát triển và sự khác biệt về quan điểm cho thuê tài chính giữa các quốc gia dần dần thu hẹp lại.
Theo số đối tác tham gia giao dịch, cho thuê tài chính thường có hai hình thức chủ yếu sau:
a, Cho thuê tài chính giản đơn (có sự tham gia của hai bên)
Theo hình thức này, trước khi nghiệp vụ cho thuê xuất hiện, tài sản được dùng để tài trợ đã thuộc quyền sở hữu của người cho thuê bằng cách mua tài sản hoặc tự xây dựng. Đây là hình thức được các công ty kinh doanh bất động sản và các công ty sản xuất máy móc thiết bị thực hiện. Các tổ chức tài chính rất ít khi áp dụng hình thức tài trợ này.
Bên cho thuê
Bên đi thuê
Ký hợp đồng thuê (1)
Bàn giao tài sản thuê (2)
Thanh toán tiền thuê (3)
Sơ đồ 1.1: Cho thuê tài chính hai bên
Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng
Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng và giao tài sản cho bên đi thuê
Theo định kỳ bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê
b, Cho thuê tài chính thông thường (có sự tham gia của 3 bên) :
Theo hình thức này, có sự tham gia của ba bên là bên cho thuê, bên đi thuê và bên cung cấp. Bên thuê được quyền lựa chọn, thỏa thuận với bên cung cấp về sản phẩm. Bên cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng của bên đi thuê.
Nhà cung cấp
Bên thuê
Bên cho thuê
(1) (3)
(4) (5)
(6)
(2)
Sơ đồ 1.2: Cho thuê tài chính ba bên
Bên thuê được chủ động lựa chọn máy móc thiết bị, thỏa thuận với nhà cung cấp bằng hợp đồng hoặc bản ghi nhớ.
Bên thuê – Bên cho thuê ký kết hợp đồng cho thuê tài chính trên cơ sở hồ sơ pháp lý, phương án sản xuất kinh doanh, hợp đồng mua máy móc thiết bị, kết quả thẩm định của bên cho thuê đồng ý cho thuê.
Bên cho thuê – Nhà cung cấp ký kết hợp đồng mua bán máy móc thiết bị là tài sản thuê theo thỏa thuận giữa bên thê và nhà cung cấp.
Nhà cung cấp giao hàng cho bên thuê, lắp đặt, chạy thử, nghiệm thu tài sản giao nhận.
Bên cho thuê thanh toán tiền tiền mua tài sản thuê cho nhà cung cấp.
Bên cho thuê thanh toán tiền thuê tài chính theo hợp đồng cho thuê chính.
Đây là hình thức cho thuê được sử dụng phổ biến nhất, có đến 80% hợp đồng thuê tài chính trên thế giới áp dụng theo phương thức này. Các công ty cho thuê tài chính đã áp dụng phương thức này là chủ yếu để tài trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là đối với cho thuê thiết bị. Sở dĩ như vậy là vì, phương thức này có những ưu điểm nổi trội sau đây:
Về phía bên thuê: Bên thuê được quyền lựa chọn nhà cung cấp, trực tiếp thỏa thuận, đám phán cho nhà cung cấp về những đặc tính của sản phẩm nhằm lựa chọn ra sản phẩm phù hợp nhất, thỏa mãn tối đa yêu cầu của bên thuê.
Về phía bên cho thuê: Bên cho thuê không phải mua sản phẩm trước, như vậy sẽ giảm bớt những chi phí về kho bãi, hao mòn trong quá trình dữ trự và hơn nữa còn giúp quay vòng vốn nhanh hơn nhờ không phải dự trữ hàng tồn kho.
Mặt khác bên thuê trực tiếp nhận sản phẩm từ nhà cung cấp, nhờ vậy bên thuê giảm được rủi ro xảy ra khi bên thuê từ chối nhận hàng do những sai sót về mặt kỹ thuật. Việc lắp đặt bảo dưỡng, sửa chữa sản phẩm đều thuộc nhà cung cấp và bên thuê nên bên cho thuê không phải quan tâm đến tình trạng hoạt động của tài sản.
Trên đây là hai hình thức cho thuê cơ bản. Từ hai hình thức này còn có nhiều hình thức biến tướng, đó là hình thức cho thuê hợp vốn, mua và cho thuê lại, cho thuê giáp lưng...
c, Cho thuê hợp vốn:
Đây là hình thức cho thuê đặc biệt kết hợp từ hai hình thức cho thuê cơ bản trên. Trong hình thức cho thuê này, nhiều bên cho thuê cùng tài trợ cho một bên thuê, trong đó bên cho thuê đứng ra làm đầu mối. Hình thức này được áp dụng khi nhu cầu thuê tài chính của bên thuê vượt quá giới hạn cho thuê của một công ty cho thuê tài chính hoặc nhằm phân tán rủi ro hoặc cũng có trường hợp do bên thuê yêu cầu ( Ở Việt Nam, tổng dư nợ cho thuê tài chính của một công ty cho thuê tài chính không được vượt quá 30% vốn tự có đối với một khách hàng và 80% vốn tự có đối với nhóm khách hàng có liên quan). Sự liên kết của các bên cho thuê có thể xảy ra theo chiều ngang (giữa nhiều nhà sản xuất, giữa các định chế tài chính với nhau ) hoặc theo chiều dọc (giữa các công ty mẹ với các chi nhánh của mình).
d, Mua và cho thuê lại ( tái cho thuê):
Đây là hình thức cho thuê mà trong đó công ty cho thuê tài chính mua tài sản thuộc sở hữu của bên thuê và cho bên thuê thuê lại chính tài sản đó theo hình thức cho thuê tài chính để bên thuê tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong giao dịch mua và cho thuê lại, bên thuê đồng thời là bên cung ứng tài sản cho thuê. Bên mua và cho thuê lại (gọi là bên cho thuê) là các công ty cho thuê tài chính được phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam.
Hình thức cho thuê này được sử dụng trong trường hợp nhiều doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác hết tài sản cố định hiện có, nhưng lại không đủ uy tín để vay vốn lưu động ở các ngân hàng. Đồng thời doanh nghiệp vẫn muốn duy trì năng lực sản xuất hiện có nên không thể bán bớt tài sản cố định của mình. Trong hoàn cảnh này, hình thức giao dịch mua và cho thuê lại sẽ giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng trên, ngoài ra phương thức này cũng có thể được sử dụng như một giải pháp tình thế cho vẫn đề nợ quá hạn mà không phải sử dụng đến biện pháp thanh lý. Điều này còn nhằm ngăn chặn việc phá sản của doanh nghiệp, đông thời giúp ngân hàng giảm được thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra khi doanh nghiệp thực sự lâm vào tình trạng phá sản. Có thể coi phương thức mua và cho thuê lại như là sự chuyển hóa từ vay ngắn hạn sang tài trợ trung và dài hạn.
e, Cho thuê giáp lưng:
Dù các công ty tài chính có thể tài trợ được cho cả những doanh nghiệp không nhận được sự tin tưởng cao từ ngân hàng hoặc các công ty cho thuê tài chính khác nhưng cũng không có nghĩa là tài trợ cho bất cứ ai. Ví dụ trong những trường hợp doanh nghiệp đã không thực hiện được những hợp đồng trong quá khứ, hay doanh nghiệp chưa được bên cho thuê biết đến (như các công ty nước ngoài chỉ chấp nhận tài trợ cho những công ty lớn của Việt Nam). Trong những trương hợp này, dưới sự đồng ý của bên cho thuê, bên thuê thứ nhất sẽ cho bên thuê thứ hai (người thực sự cần sử dụng tài sản vào thời điểm đó ) thuê lại tài sản mà mình đã thuê từ bên cho thuê. Kể từ khi hợp đồng cho thuê lại được kí kết, mọi quyền lợi và nghĩa vụ cùng tài sản thuê được chuyển giao từ bên thuê thứ nhất sang bên thuê thứ hai. Các chi phí pháp lý, di chuyển tài sản phát sinh từ hợp đồng này do bên thuê thứ nhất và bên thuê thứ hai thỏa thuận với nhau. Dù bên đi thuê thứ nhất chỉ là trung gian giữa bên cho thuê và bên đi thuê thứ hai nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý về việc thực hiện hợp đồng đối với bên cho thuê. Bù lại, bên đi thuê thứ nhất sẽ nhận được phần chênh lệch giữa hai khoản tiền thuê như là hoa hồng trách nhiệm.
f, Cho thuê bằng vốn vay:
Đây cũng là một biện pháp trong trường hợp công ty cho thuê không đủ điều kiện tự tài trợ cho khách hàng. Không giống như quan hệ đồng tài trợ trong cho thuê hợp vốn, bên cho thuê sẽ vay vốn từ các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác để mua tài sản cho thuê. Bên cho thuê vẫn là trái chủ trong quan hệ cho thuê, còn bên cho vay là trái chủ của bên cho thuê. Hay nói cách khác, vốn tài trợ trong phương thức này bao gồm hai phần, một phần là vốn của bản thân bên cho thuê và một phần là vốn vay được cung cấp từ các bên cho vay. Vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tiền tài trợ nhưng không được vượt quá 80% và khoản cho vay được đảm bảo bằng chính tài sản cho thuê và cam kết chuyển nhượng hợp đồng cho thuê và các khoản tiền thuê.
1.1.5. Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính
a) Đối với bên đi thuê:
Bên đi thuê dễ dàng tiếp cận nguồn tài trợ từ cho thuê tài chính: Do đặc thù của cho thuê tài chính là quyền sở hữu tài sản thuộc về bên cho thuê, các công ty cho thuê tài chính, các công ty tài chính không quá khắt khe trong việc xem xét uy tín của khách hàng để đưa ra quyết định cho vay. Điều này tạo thuận lợi rất lớn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay các doanh nghiệp mới thành lập. Thông thường đối với các khoản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp hoặc cầm cố) và chỉ cho vay tối đa là 80% tổng chi phí thực hiện dự án, nhưng với kênh cho thuê tài chính, doanh nghiệp chẳng những không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế chấp mà còn có thể được tài trợ đến 100% vốn đầu tư. Việc không đòi hỏi tài sản đảm bảo còn giúp thủ tục cho thuê tài chính được thực hiện nhanh chóng, đơn giản.
Cho thuê tài chính giúp các doanh nghiệp sử dụng linh hoạt đồng vốn hơn thay vì mua tài sản cố định: Thuê tài chính giúp cho bạn tiếp cận được với rất nhiều loại thiết bị, từ những thiết bị văn phòng đơn giản như máy photocopy, máy tính, xe tải, xe ô tô cho tới các dây chuyền sản xuất hiện đại. Mặc dù thuê tài chính không trực tiếp chuyển vốn cho doanh nghiệp, tuy nhiên hình thức này hoàn toàn có thể giúp doanh nghiệp giảm bớt lượng tiền cần để khởi sự hoặc mở rộng kinh doanh.
Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn máy móc thiết bị, nhà cung cấp, cũng như mẫu mã chủng loại phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình. Ngoài ra nếu doanh nghiệp đã lỡ đầu tư mua tài sản mà thiếu vốn lưu động thì vẫn có thể bán lại cho công ty cho thuê tài chính và sau đó công ty sẽ cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy doanh nghiệp vừa có vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà vẫn được sử dụng tài sản. Kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp được quyền ưu tiên mua lại tài sản với giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
Việc sử dụng tài sản cho thuê không ảnh hưởng đến hạn mức tín dụng của doanh nghiệp ( hay nói cách khác là không ảnh hưởng đến nguồn tài trợ từ vốn vay ngân hàng ) do tài sản đi thuê được hạch toán ngoại bảng. Hơn nữa, dù không phải bỏ ngay ra một khoản tiền đểu lớn để mua tài sản nên doanh nghiệp không bị đọng vốn, có thể sử dụng số tiền đó để phục vụ cho những hoạt động khác nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, lịch trả nợ cũng thường được các công ty cho thuê tài chính điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cho thuê tài chính giúp doanh nghiệp hạn chế sự lạc hậu, bắt kịp tôc độ phát triển của khoa học công nghệ, qua đó nâng cao năng lực sản xuất: để tăng cường khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn phải chú ý đến việc đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất nhằm tăng năng suất hoạt động, tạo ra những sản phẩm tiến tiến, hạ giá thành sản phẩm. Cho thuê tài chính là một kênh đáp ứng nhu cầu đó của khách hàng. Lợi ích này đặc biệt quan trọng nếu ngành kinh doanh của doanh nghiệp phải dựa nhiều vào các công nghệ tân tiến như thế hệ máy tính mới nhất, các công cụ truyền thông, dây chuyền công nghệ mới hoặc các thiết bị khác. Nhiều hợp đồng thuê ngắn hạn có thể sẽ tiết kiệm hơn là việc sau một hai năm lại mua thiết bị mới. Ngoài ra, do các tài sản đều thuộc sở hữu của bên cho thuê nên bên đi thuê không phải quan tâm đến rủi ro về mặt pháp lý.
Cho thuê tài chính giúp doanh nghiệp hưởng lợi ích từ lá chắn thuế: Tài sản cho thuê tài chính vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên bên cho thuê được phép khấu hao tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác, bên đi thuê phải trả chi phí thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Như vậy cả hai doanh nghiệp đều nhận được lợi ích từ tấm chắn thuế.
b, Đối với nhà cung cấp:
Hoạt động cho thuê tài chính giúp nhà cung cấp thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, đối với loại hình cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên, dù người muốn sử dụng sản phẩm chưa có điều kiện để thanh toán, nhà cung cấp vẫn được nhận tiền ngay mà không phải sử dụng đến những biện pháp như cho mua trả góp, vay trả chậm để bán được hàng.
c, Đối với nền kinh tế:
Cho thuê tài chính là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế: cũng như các hoạt động tín dụng khác, các công ty cho thuê tài chính thu hút vốn từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế và thông qua hoạt động cho thuê tài chính của mình, chuyển vốn đến tay những đối tượng đang cần vốn dưới dạng tài sản. Đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay, nguồn vốn được chu chuyển không chỉ trong nội bộ một nền kinh tếmà mở rộng giữa các quốc gia với nhau. Điều đó được thể hiện thông qua việc các công ty cho thuê tài chính cung cấp các loại máy móc, thiết bị cho thuê được mua từ nước ngoài hoặc thông qua các hoạt động liên doanh, mở chi nhánh, thành lập công ty cho thuê tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài của các tổ chức tài chính quốc tế. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, phần lớn các công ty cho thuê tài chính là công ty con của ngân hàng mẹ. Hoạt động huy động vốn của các công ty này còn rất hạn chế và nguồn vốn hoạt động chủ yếu hình thành từ việc đi vay ngân hàng mẹ.
Cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ bổ sung, giúp hoàn thiện hệ thống tài chính của nền kinh tế: nhu cầu tài trợ vốn trung và dài hạn là rất cao, nhưng khả năng đáp ứng của ngân hàng đối với nguồn vốn này là có hạn. Điều này là do nguồn vốn huy động được của các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn là nguồn ngắn hạn, mà việc chuyển đổi từ nguồn ngắn hạn sang tài trợ dài hạn mang lại nhiều rủi ro. Phương thức tài trợ cho thuê là hình thức tài trợ bổ sung góp phần đa dạng hóa loại hình dịch vụ trong hệ thống tài chính. Nếu doanh nghiệp cần có máy móc, thiết bị ngay lập tức, việc đi thuê sẽ được chấp thuận nhanh hơn nhiều so với các khoản vay tín dụng, và không cần nhiều thủ tục giấy tờ phiền hà, các yêu cầu về tín dụng cũng dễ chịu hơn. Nhất là với các doanh nghiệp đang ở giai đoạn khởi đầu, việc thuê tài chính sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc đi vay ngân hàng. Thông qua hoạt động của mình, các công ty tài chính cũng đóng vai trò là trung gian giúp gắn chặt hệ thống tài chính với lĩnh vực sản xuất.
1.2. Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.
1.2.1. Khái niệm rủi ro.
Rủi ro là một khái niệm luôn song hành cùng với tất cả các lĩnh vực. Trong hoạt động tín dụng, rủi ro là một phạm trù rất quan trọng mà cho thuê tài chính cũng không phải là ngoại lệ. Có nhiều quan niệm về rủi ro và những hậu quả mà rủi ro gây ra, tuy nhiên khái niệm chung nhất về rủi ro có thể được đưa ra như sau: Rủi ro là bất cứ điều gì không chắc chắn có thể ảnh hưởng tới các kết quả so với những gì chúng ta mong đợi.
Lĩnh vực tài chính nói chung, tài chính ngân hàng nói riêng không chỉ là lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế mà còn là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất về rủi ro. Hoạt động tín dụng chiếm từ 60% đến 70% các chỉ số trong hoạt động tài chính ngân hàng. Do đó nói đến rủi ro trong lĩnh vực tài chính thì rủi ro tín dụng là rủi ro thường được quan tâm nhất. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm về rủi ro tín dụng:
Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế, rủi ro tín dụng là rủi ro mất vốn do bên đối tác không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Ở Việt Nam, quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 22/04/2005 “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Tại sổ tay tín dụng của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam cho rằng “Rủi ro tín dụng là tình trạng khách hàng không thực hiện nghĩa vụ tài chính đã cam kết”.
Từ các khái niệm về rủi ro tín dụng, xuất phát từ đặc thù hoạt động cho thuê tài chính thì có thể hiểu:
Rủi ro hoạt động cho thuê tài chính là những tổn thất mà công ty cho thuê tài chính phải gánh chịu khi bên thuê không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo cam kết tại hợp đồng cho thuê tài chính.
1.2.2. Các loại rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tồn tại khách quan cùng với sự tồn tại của hoạt động này. Về bản chất, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung dài hạn, vì vậy hoạt động cho thuê tài chính có những rủi ro giống như hoạt động tín dụng nói chung, đồng thời có những rủi ro đặc thù. Có nhiều tiêu chí để phân loại, nhưng khái quát lại có thể phân rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính bao gồm: rủi ro về tài chính, rủi ro hoạt động và rủi ro khác.
1.2.2.1. Rủi ro tài chính.
Rủi ro tài chính là những rủi ro liên quan trực tiếp đến việc thu hồi tiền thuê gây nên những thiệt hại về mặt tài chính cho bên thuê. Các rủi ro về tài chính bao gồm:
Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn:
Rủi ro này rất đáng lo ngại bởi nó sẽ làm trì trệ cũng như làm đảo lộn kế hoạch kinh doanh của công ty cho thuê tài chính. Thậm chí nếu người thuê vĩnh viễn không trả tiền thuê thì có thể khiến việc thu hồi vốn đầu tư trở nên khó khăn hoặc công ty bị mất vốn. Khi rủi ro này xảy ra, thiệt hại đối với công ty cho thuê tài chính là không nhỏ. Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn trong các trường hợp sau:
Bên thuê không đủ khả năng thanh toán tiền thuê khi đến hạn do tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh yếu kém. Doanh nghiệp rơi vào tình trạng như vậy xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể do tình hình kinh tế, môi trường kinh doanh hoặc do năng lực quản trị của chính doanh nghiệp. Sự không đủ khả năng thanh toán này có thể xảy ra tạm thời hoặc là vĩnh viễn tùy vào mức độ yếu kém và khả năng phục hồi của người thuê. Trong trường hợp này, các công ty cho thuê tài chính có thể tham gia hỗ trợ doanh nghiệp bằng các biện pháp gia hạn nợ, cơ cấu lại nợ, tài trợ thêm máy móc thiết bị cần thiết, khuyến nghị về cách thức sản xuất, định hướng thị trường để người thuê có thể vượt qua được tình hình khó khăn trước mắt, phục hồi sản xuất kinh doanh để tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ hoàn trả trong thời gian tiếp theo.
Bên thuê có ý định lừa đảo: Tài sản thuê vẫn khai thác có hiệu quả nhưng bên thuê dây dưa không trả nợ mà lấy nguồn thu từ dự án dùng vào mục đích khác. Với nguyên nhân này, khi các khoản thuê bắt đầu phát hiện có vấn đề, công ty cho thuê tài chính cần phải có biện pháp mạnh, dứt khoát quyết liệt nagya từ đầu buộc bên thuê phải thực hiện các nghĩa vụ của mình.
Tiền thuê nhận được không đủ bù đắp số tiền bỏ ra tài trợ, trong các trường hợp như
Xảy ra vi phạm hợp đồng cho thuê tài chính dẫn tới tranh chấp, phải tố tụng tại các cơ quan chức năng, dẫn tới trì trệ hoạt động sản xuất, tài sản thuê phải ngừng hoạt động, không được bảo dưỡng và bị xuống cấp dẫn tới giá trị thu hồi thấp.
Công ty cho thuê tài chính tài trợ khách hàng với lãi suất cố định trong khi phải đi huy động vốn với lãi suất thả nổi. Khi lãi suất huy động vốn trên thị trường biến động theo chiều hướng tăng lên thì lãi suất cho thuê thu về không đủ bù đắp cho chi phí bỏ ra để có số vốn tài trợ ban đầu gây thiệt hại vốn cho công ty.
1.2.2.2. Rủi ro hoạt động
Rủi ro hoạt động là những rủi ro liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện cho thuê. Các rủi ro hoạt động bao gồm:
Rủi ro về dự án đầu tư:
Hoạt động thuê tài chính gắn liền với quá trình thực hiện dự án đầu tư của bên thuê. Vì vậy hiệu quả của dự án đầu tư quyết định đến khả năng trả tiền thuê của bên thuê tài chính.
Rủi ro trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng thuê tài chính, hợp đồng mua tài sản, hợp đồng bảo hiểm tài sản
Hợp đồng cho thuê tài chính là văn bản pháp lý cao nhất xác định giao dịch thuê tài chính giữa bên thuê và bên cho thuê. Các rủi ro pháp lý thường gặp trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng có thể là: người ký hợp đồng không đúng quy định, loại tài sản thuê trong hợp đồng không đúng với tài sản thuê trong thực tế, hay một số điều khoản thỏa thuận không đúng quy định của pháp luật...
Các rủi ro về pháp lý trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng mua tài sản có thể là do nhà cung cấp tài sản không có thực hoặc đã phá sản giải thể trong khi đã chuyển tiền mua tài sản. Có trường hợp các điều khoản trong hợp đồng không phù hợp với thông lệ quốc tế (trường hợp tài sản phải nhập khẩu), mô tả về tài sản, giao nhận, giá cả, bảo hiểm, bảo hành, bảo trì...không rõ ràng, khi xảy ra tranh chấp gây thiệt hại lớn cho bên cho thuê.
Cũng như vậy, các rủi ro về pháp lý trong quá trình ký kêt và thực hiện hợp đồng bảo hiểm tài sản có thể là do: các điều khoản không được xác định rõ ràng dẫn đến bên bảo hiểm từ chối bồi thường hoặc chỉ bồi thường một phần thiệt hại; rủi ro đối với tài sản thuê không thuộc phạm vi bảo hiểm...
Rủi ro về tài sản cho thuê.
Loại rủi ro này liên quan đến giá trị còn lại (giá trị thu hồi) của tài sản cho thuê, có thể do các nguyên nhân sau:
- Nguyên nhân liên quan đến chất lượng tài sản thuê: tài sản sau khi cho thuê có thể bị lỗi thời, hư hỏng, mất phẩm chất hoặc tài sản thuộc loại hàng chuyên dùng, đặc chủng nên không chuyển nhượng, cho thuê lại hoặc bán đi được.
- Tài sản thuê bị mất hoặc không được mua bảo hiểm nên khi rủi ro xảy ra với tài sản làm tài sản hư hỏng không có nguồn để bù đắp. Nếu tài sản do nhà cung cấp giao cho người cho thuê không đúng theo hợp đồng thì không được phép kinh doanh.
- Nguyên nhân do phía nhà cung cấp cố ý lừa đảo, chiếm dụng vốn của công ty cho thuê. Có nhiều cách để nhà cung cấp thực hiện ý đồ của mình, nhưng điển hình nhất vẫn là thông đồng với người thuê để làm sai lệch giá tài sản so với thị trường, gây thiệt hại cho công ty cho thuê tài chính.
1.2.2.3. Rủi ro khác
Bên cạnh hai nhóm rủi ro trên, có thể có các nguyên nhân khác nữa trên các phương diện sau:
Rủi ro do môi trường kinh doanh biến động: Tình hình kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho thuê tài chính. Kinh tế lâm vào suy thoái, mất ổn định làm cho việc sản xuất bị trì trệ, các doanh nghiệp sẽ giảm nhu cầu thuê máy móc thiết bị, khả năng trả lãi cho thuê cũng giảm do lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm.
Rủi ro do tiến bộ khoa học kĩ thuật: Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, nếu không kịp thời đổi mới, tài sản cho thuê sẽ trở nên lạc hậu hoặc ngày càng suy giảm chất lượng-hao mòn vô hình.
Rủi ro bất khả kháng: do các nguyên nhân như: thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, khủng bố...
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro hoạt động cho thuê tài chính
a, Nợ xấu:
Nợ xấu và phân loại nợ xấu của các tổ chức tín dụng được pháp luật nước ta quy định trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc Ngân hàng nhà nước. Theo Nghị định này, Nợ xấu là các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại hoặc các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà công ty cho thuê tài chính có đủ cơ sở đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì công ty cho thuê tài chính chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ thuộc nợ xấu.
Trong trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với công ty cho thuê tài chính mà có bất kỳ khoản nợ nào bị xếp vào nhóm nợ xấu thì các khoản nợ còn lại của khách hàng đó cũng bị xếp vào nhóm nợ xấu đó.
Để có thể đánh giá mức độ nợ xấu của công ty cho thuê tài chính ta dùng công thức sau:
Nợ xấu
Công thức : Tỷ lệ nợ xấu (%) = x 100%
Tổng dư nợ cho thuê
Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu số nợ gốc là nợ xấu trong một trăm đồng dư nợ cho thuê. Chỉ tiêu này là căn cứ để đánh giá chất lượng cho thuê tài chính.
b, Nợ quá hạn:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá hạn.
- Tỷ lệ nợ quá hạn (%): Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu số nợ gốc đã quá hạn trong một trăm đồng dư nợ cho thuê. Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng công tác thẩm định cho thuê cùng với năng lực quản lý tài sản cho thuê sau khi đã giải ngân.
Công thức: Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ cho thuê
- Tỷ lệ nợ quá hạn ròng (%): Đây là chỉ tiêu nợ quá hạn đã được điều chỉnh bởi quỹ dự phòng rủi ro. Chỉ tiêu này có ý nghĩa phản ánh về hoạt động của công ty ở khía cạnh mức độ an toàn trong kinh doanh cũng như khả năng chống đỡ cũng như khả năng chống đỡ của công ty trước các rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Nợ quá hạn – Dự phòng rủi ro
Công thức : Tỷ lệ nợ quá hạn ròng = x 100%
Dư nợ cho thuê – Dự phòng rủi ro
c, Lãi treo:
Lãi treo là các khoản lãi cho thuê đến hạn mà khách hàng không trả được nên công ty cho thuê tài chính đưa ra ngoại bảng để theo dõi.
Chỉ tiêu này cho biết đồng vốn của công ty cho thuê tài chính đem đầu tư có thu được hiệu quả hay không. Chỉ tiêu này cũng phản ánh về mức độ rủi ro của hoạt động cho thuê tài chính chủ yếu ở khía cạnh hiệu quả sinh lời của vốn kinh doanh, đồng thời thể hiện chất lượng của hoạt động cho thuê tài chính.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
Có thể phân các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro hoạt động cho thuê tài chính thành hai nhóm là các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan, cụ thể như sau:
a, Các nhân tố khách quan:
Chính sách kinh tế vĩ mô và môi trường pháp lý:
Chính sách kinh tế vĩ mô có tác động lên toàn bộ nền kinh tế, từ đó có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bên thuê. Một khi Chính phủ có những chính sách phù hợp, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng trả lãi cho thuê của các doanh nghiệp thuê tài chính cao hơn, giảm thiểu rủi ro cho các công ty cho thuê tài chính.
Môi trường pháp lý cũng có những tác đến động rủi ro hoạt động cho thuê tài chính. Pháp luật quy định tất cả các yếu tố trong quy trình cho thuê tài chính, từ loại tài sản thuê, đến đăng kí quyền sở hữu, lãi suất, các nghiệp vụ bảo lãnh...Vì vậy, môi trường pháp lý tốt tạo niềm tin cho những người tham gia, có thể bảo vệ quyền lợi cho tất cả các bên, đồng thời không có kẽ hỡ cho những kẻ có ý định xấu. Môi trường pháp lý thuận lợi còn là nhân tố thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính hoạt động có trật tự, hiệu quả.
Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội:
Sự ảnh hưởng này dễ thấy trong thời gian vừa qua (2008), khi nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng, mà đặc biệt là ngành Ngân hàng-Tài chính, các hoạt động kinh doanh đều bị thu hẹp lại. Khi đó, đối tượng khách hàng của cho thuê tài chính không chỉ ít đi mà việc thu hồi lãi cũng trở nên khó khăn, khả năng gặp phải rủi ro của công ty cho thuê tài chính cao lên. Môi trường chính trị-xã hội cũng có những ảnh hưởng nhất định, thể hiện qua lối sống, thói quen, phong tục sử dụng tài sản của người kinh doanh, người tiêu dùng. Ví dụ như thói quen sử dụng đồ rẻ tiền không đảm bảo chất lượng có thể dẫn tới việc tài sản nhanh chóng xuống cấp, hư hỏng không thu hồi về được.
Môi trường tự nhiên:
Bên cạnh các yếu tố của tự nhiên như về thiên tai, địch họa có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, yếu tố khí hậu của từng quốc gia cũng có ảnh hưởng đến hoạt động cho thuê tài chính. Khí hậu phức tạp, điều kiện tự nhiên không ổn định còn làm cho việc bảo quản, sử dụng tài sản cho thuê khó khăn, tài sản thuê nhanh hỏng, sử dụng không hiệu quả, dẫn tới khả năng thu hồi thấp.
b,Các nhân tố chủ quan:
Về phía công ty cho thuê tài chính:
- Mô hình tổ chức và nguyên tắc quản trị điều hành:
Công ty cho thuê tài chính có mô hình tổ chức hợp lý, các nhiệm vụ của phòng ban được phân công cụ thể, cùng với quản trị chặt chẽ sẽ giúp công ty hoạt động có hiệu quả hơn, từ đó hạn chế được các rủi ro.
- Chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng cán bộ tín dụng sẽ quyết định việc sàng lọc các dự án tốt, khách hàng tốt. Để có thể có đánh giá một cách chính xác về khách hàng, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực chuyên môn đầy đủ, bên cạnh đó phải có khả năng phân tích, am hiểu nhiều về lĩnh vực kinh doanh cũng như môi trường sống của khách hàng. Cán bộ tín dụng còn phải có khả năng dự báo, đồng thời cũng phải tinh nhanh trong việc phát hiện số liệu, hồ sơ giả do khách hàng cung cấp. Rủi ro có thể xảy ra trong toàn bộ quá trình cho thuê tài chính, vì vậy có năng lực chuyên môn thôi là chưa đủ, đạo đức nghề nghiệp cũng là yếu tố vô cùng quan trọng đối với cán bộ tín dụng. Thiếu ý thức trách nhiệm, cố ý bỏ sót thủ tục cho thuê hay thông đồng với khách hàng có thể dẫn tới những rủi ro khó có thể khắc phục trong cho thuê tài chính.
- Các quy định, quy trình cho thuê tài chính của công ty
Dựa trên những quy định chung của pháp luật, mỗi công ty cho thuê tài chính có những quy định riêng và quy trình cho thuê tài chính riêng. Nếu các quy định này không chặt chẽ sẽ tạo nhiều sơ hở trong quá trình thực hiện, chất lượng cho thuê phụ thuộc nhiều vào quy trình thẩm định cũng như xét duyệt khoản thuê. Các bảng biều, chỉ số chấm điểm khách hàng, chỉ số đánh giá khách hàng, nội dung phân tích dự án nếu không chặt chẽ, đầy đủ có thể dẫn tới những quyết định sai lầm của cán bộ tín dụng. Đồng thời sự phân cấp trách nhiệm phân tích, đánh giá, xét duyệt đến lãnh đạo phụ trách và người ra quyết định cũng góp phần nâng cao hiệu quả giám sát chất lượng thẩm địnhm đảm bảo cho việc quyết định cho thuê tài chính là đúng đắn, mang lại lợi nhuận và sự an toàn cho hoạt động cho thuê tài chính.
- Chính sách khách hàng:
Bên cạnh việc khuyến khích khách hàng, chính sách khách hàng phù hợp sẽ lựa chọn được những khách hàng tốt, phù hợp với mục tiêu của công ty và kiểm soát được rủi ro ngay từ đầu.
Về phía khách hàng thuê tài chính
- Do kinh doanh thua lỗ:
Việc kinh doanh thua lỗ của khách hàng có thể từ nhiều nguyên nhân khác nhau, do năng lực kinh doanh thấp, gặp một số tác động ngoài dự kiến, không nắm bắt được nhu cầu thị trường... Làm ăn thua lỗ làm cho bên thuê không đủ năng lực tài chính để hoàn tất lãi cho thuê, cũng như không có khả năng mua lại tài sản thuê. Đây là một rủi ro lớn. khó khắc phục đối với công ty cho thuê tài chính.
- Khách hàng thuê chủ định lừa đảo:
Khách hàng có thể có nhiều thủ đoạn tinh vi để qua mặt công ty cho thuê tài chính, mà cán bộ thẩm định khó có thể phát hiện. Khách hàng có thể làm đẹp báo cáo tài chính, làm hiện trường giả, thậm chí là thông đồng với nhà cung cấp để hạ giá tài sản thuê. Trong những trường hợp rủi ro này, công ty cho thuê tài chính được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên vẫn là bên chịu thiệt thòi đầu tiên và tổn thất lớn nhất.
1.3. Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính
1.3.1. Khái niệm
Quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính là quá trình phân loại, đánh giá rủi ro để từ đó đưa ra các chính sách, biện pháp, quy chế, nghiệp vụ nhằm ngăn chặn, phòng ngừa giảm thiểu rủi ro xảy ra trong hoạt động cho thuê tài chính cũng như giải quyết rủi ro đã xảy ra sao cho hiệu quả tác động đến hoạt động cho thuê tài chính xuống mức thấp nhất có thể.
Rủi ro có thể xảy ra trong suốt quá trình hoạt động cho thuê tài chính. Vì vậy để có thể hạn chế rủi ro, việc quản lý rủi ro cũng là một quá trình liên tục bắt đầu từ khâu thẩm định trước khi cho thuê, phê duyệt cho thuê, giải ngân, theo dõi khoản thuê, đưa ra các dấu hiệu cảnh báo sớm về tình trạng của khách hàng, quản lý các khoản nợ có vấn đề nhằm giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại cho các công ty cho thuê tài chính.
1.3.2. Nội dung quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính
Theo như định nghĩa, việc quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính diến ra trong suốt quá trình cho thuê. Vì vậy nội dung của hoạt động quản lý cũng bao gồm tất cả các khâu, cụ thể như sau:
Xây dựng chính sách cho thuê phù hợp
Một chính sách cho thuê tài chính phù hợp sẽ đảm bảo đưa hoạt động cho thuê tài chính phát triển theo đúng định hướng, đạt được mục tiêu an toàn-hiệu quả, tăng trưởng bền vững và kiểm soát được rủi ro cũng như tiến dần đến thông lệ quốc tế. Để đạt được như vậy, chính sách cho thuê tài chính phải được xây dựng và thực thi trên những nội dung cơ bản sau:
- Xác định quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ tham gia quá trình cho thuê, cơ chế phân cấp, ủy quyền trong phê duyệt cho thuê tài chính.
- Xác định thị trường và các lĩnh vực cho thuê, xây dựng các giới hạn an toàn trong hoạt động cho thuê.
-Xây dựng chính sách khách hàng trong hoạt động cho thuê tài chính.
Xây dựng hệ thống các công cụ đo lường và định hạng rủi ro cho thuê tài chính
- Chấm điểm khách hàng
Công ty cho thuê tài chính chấm điểm khách hàng để phân loại khách hàng. Việc chấm điểm bảo gồm các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của khách hàng, và từ đó có những chính sách tín dụng với tứng khách hàng và nhóm khách hàng. Việc chấm điểm được xây dựng theo một mô hình khoa học, với các chỉ tiêu-hệ số cụ thể sao cho có kết quả đầy đủ và chính xác nhất về khách hàng. Hiện nay hầu hết các công ty cho thuê tài chính đều có phần mềm chấm điểm khách hàng.
- Phân loại khoản cho thuê:
Khoản cho thuê được thực hiện phân loại theo chất lượng và mức độ rủi ro. Khoản cho thuê có chất lượng cao thì có tỷ lệ rủi ro thấp và ngược lại. Việc phân loại khoản cho thuê cần được các công ty cho thuê tài chính thực hiện thường xuyên để theo dõi, phân tích và có phương án xử lý kịp thời đối với rủi ro phát sinh trong từng khoản cho thuê để giúp bảo toàn vốn và thu được lợi nhuận.
- Định hạng rủi ro công ty:
Bên cạnh việc phân loại các khoản cho thuê như đã nói ở trên, các công ty cho thuê tài chính phải thực hiện phân loại về mức độ rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính để giúp cho các cấp điều hành chỉ đạo, khắc phục kịp thời các tồn tài, đối phó với các rủi ro tiềm ẩn, từ đó giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động cho thuê tài chính.
- Đánh giá nhà cung cấp, đánh giá tính hợp lý của tài sản cho thuê
Rủi ro có thể xảy ra ở mọi góc cạnh, vì vậy cần đánh giá một cách toàn diện. Các công ty cho thuê tài chính không chỉ đánh giá khách hàng, đánh giá chung về khoản thuê mà còn phải đánh giá cả bên cung cấp tài sản cũng như tính hợp lý của tài sản thuê, để tránh những rủi ro về ngay từ khi bắt đầu kí hợp đồng.
Quản lý, giám sát danh mục cho thuê:
- Xây dựng danh mục: mục tiêu của công ty cho thuê tài chính là xây dựng được một danh mục cho thuê tài chính an toàn hiệu quả. Tài sản cho thuê phải được phân bổ một cách hợp lý vào các lĩnh vực ngành nghề theo các giới hạn quy định, tránh tập trung cho thuê quá mức, thực hiện phân tán rủi ro, tránh “bỏ nhiều trứng vào một giỏ”
- Rà soát, phân tích rủi ro : Danh mục cho thuê phải được rà soát và có các báo cáo định kỳ về xu hướng rủi ro, các nguy cơ rủi ro chính, các lĩnh vực rủi ro cao của danh mục và có các biện pháp áp dụng, giảm thiểu rủi ro.
- Điều chỉnh danh mục: Trên cơ sở rà soát, phân tích rủi ro ảnh hưởng đến khả năng giảm sút thu nhập và mất vốn của danh mục cho thuê hiện tại, thực hiện việc điểu chỉnh danh mục cho thuê tài chính một cách kịp thời, hợp lý nhằm tạo sự cân đối của danh mục giữa các tài sản có độ rủi ro cao và các tài sản có độ rủi ro thấp, từ đó tạo ra thu nhập và điều tiết rủi ro.
Trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro:
Việc trích lập dự phòng rủi ro là việc mà bất kỳ tổ chức tín dụng nào cũng phải làm. Vì vậy công ty cho thuê tài chính phải thường xuyên thực hiện việc phân loại tài sản “Có”, trích lập và sử dụng dự phòng để chủ động xử lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính.
Xây dựng hệ thống thông tin quản trị rủi ro hoạt động cho thuê tài chính:
Hệ thống thông tin rủi ro hoạt động cho thuê tài chính phải được xây dựng để đảm bảo cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu về hoạt động cho thuê tài chính một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác và thường xuyên cập nhật nhằm giúp cho các cấp lãnh đạo quản trị hoạt động cho thuê tài chính có hiệu quả, hạn chế thiệt hại do thiếu thông tin.
Hệ thống thông tin rủi ro hoạt động cho thuê tài chính được chia làm hai lĩnh vực
- Các thông tin có tính vĩ mô, định hướng: Bao gồm môi trường kinh tế vĩ mô, các định hướng, chính sách kinh tế của Nhà nước có ảnh hưởng đến hoạt động cho thuê tài chính, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính.
- Các thông tin phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính: gồm các thông tin từ khách hàng thuê tài chính; hệ thống thông tin phục vụ cho quản trị điều hành hoạt động cho thuê tài chính như báo cáo thực trạng hoạt động cho thuê tài chính, dự báo xu hướng phát triển, báo cáo xu hướng rủi ro hoạt động cho thuê tài chính, báo cáo tổng kết ...
Các báo cáo bao gồm:
Báo cáo về tính hình tập trung cho thuê tài chính.
Những vấn đề trong danh mục cho thuê tài chính theo đó chỉ ra những khoản cho thuê có vấn đề, khoản cho thuê cần chú ý và những khoản thuê có thể bị mất.
Tình trạng các khoản cho thuê đã được cơ cấu lại.
Những khu vực cho thuê tài chính tăng trưởng nhanh.
Hàng năm hoặc hàng quý, hội đồng quản trị phải nhận được báo cáo về những khoản có khả năng mất vốn trong tình huống thay đổi bát lợi của nền kinh tế hoặc khủng hoảng.
Các báo cáo lên ban điều hành: Báo cáo định kỳ về xu hướng rủi ro trong lĩnh vực cho thuê tài chính; Báo cáo về danh mục cho thuê và các rủi ro chính; Báo cáo định kỳ về mức độ tập trung của danh mục cho thuê và việc duy chuyển các khoản thuê; Báo cáo đột xuất theo yêu cầu khi phát sinh các vấn đề về cơ chế chính sách.
Chương II: Thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
2.1. Tổng quan về công ty cho thuê tài chính – BIDV.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển.
Ngày 27/5/1995, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ra Quyết định số 149/QĐ-NH5 về việc ban hành thể lệ Tín dụng thuê mua. Theo đó, Công ty Tín dụng thuê mua trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã chính thức được thành lập theo Quyết định của thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 128/ QĐ-NH5 ngày 26/4/1995.
Để tạo một hành lang thông thoáng hơn cho hoạt động cho thuê, tháng 10/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 64/NĐ-CP quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam. Sau 3 năm hoạt động cho thuê một cách dè dặt như một chi nhánh trực thuộc của ngân hàng, tháng 9/1998 Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tiền thân là Công ty tín dụng thuê mua, đã chính thức được thành lập theo Quyết định số 305/1998/QĐ-NHNN5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Công ty Cho thuê tài chính BIDV là một doanh nghiệp nhà nước và là một trong những Công ty cho thuê tài chính được thành lập rất sớm, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này. Điều 2 của Quyết định số 305 này quy định: “Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một pháp nhân; là doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam; được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cấp vốn điều lệ; có quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính, chịu ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo quy định tại Điều lệ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.”
Một số nét về công ty như sau:
Tên gọi đầy đủ của công ty bằng tiếng Việt: Công ty cho thuê tài chính-Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Tên gọi đầy đủ bằng tiếng Anh: Financial Leasing Company of Bank for Investment and Development of Viet Nam.
Tên viết tắt bằng tiếng Anh: BIDV Leasing Co. (BLC)
Vốn điều lệ được cấp ban đầu : 55 tỷ đồng. Năm 2001 vốn điều lệ tăng lên là 102 tỷ đồng Việt Nam. Cuối năm 2006 vốn điều lệ tăng lên 200 tỷ đồng.
2.1.2. Hoạt động và cơ cấu tổ chức của công ty
a, Hoạt động của công ty
Hiện nay, Công ty cho thuê tài chính BIDV cung cấp các dịch vụ:
Cho thuê tài chính: là một hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn trong đó Công ty cho thuê tài chính BIDV sẽ đứng ra mua các máy móc, thiết bị và động sản theo yêu cầu của doanh nghiệp và cho doanh nghiệp thuê trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận. Trong thời hạn thuê, tài sản thuê vẫn thuộc sở hữu của công ty; doanh nghiệp có toàn quyền sử dụng tài sản thuê vào mục đích kinh doanh và có nghĩa vụ bảo dưỡng, mua bảo hiểm tài sản thuê và trả phí thuê. Hêt thời hạn thuê, tài sản thuộc sở hữu doanh nghiệp với giá chọn mua danh nghĩa.
Cho thuê ủy thác: Công ty nhận vốn ủy thác của các tổ chức khác để thực hiện cho thuê tài chính đối với các doanh nghiệp do các tổ chức đó chỉ định.
Mua và cho thuê lại: Công ty mua các tài sản trước đây thuộc sở hữu doanh nghiệp và cho doanh nghiệp thuê lại. Đây là một hình thức tháo gỡ khó khăn về tài chính cho doanh nghiệp.
Tư vấn về cho thuê tài chính: Công ty sẽ tư vẫn cho cac doanh nghiệp về các giải pháp đàu tư vốn và công nghệ có liên quan đến dịch vụ thuê tài chính.
Nhập khẩu trực tiếp tài sản thuê: Công ty sẽ đứng ra nhập khẩu trực tiếp tài sản thuê mà doanh nghiệp yêu cầu. Như vậy, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí nhập khẩu ủy thác.
b, Cơ cấu tổ chức
Nguyên tắc tổ chức và điều hành
Công ty cho thuê tài chính BIDV chịu sự quản lý của của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam về vốn, về kế hoạch phát triển kinh doanh, về tổ chức nhân sự và chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước về nội dung và phạm vi hoạt động nghiệp vụ.
Công ty thực hiện các nghiệp vụ theo quy định của pháp luật về tài chính, tín dụng và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động kinh doanh của mình.
Công ty chịu sự quản lý, thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Mô hình tổ chức
Từ một mô hình tổ chức đơn giản năm 1998 với 01 Ban lãnh đạo, 03 phòng chức năng Kinh doanh, Tổng hợp, Kế toán, đến tháng 10 năm 2001 công ty Cho thuê tài chính BIDV thành lập Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11 năm 2008 mô hình tổ chức và hoạt động của Công ty Cho thuê tài chính BIDV như sau:
+ Hội sở chính gồm có Ban Giám đốc, phòng Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ và 8 phòng chức năng là Phòng Quan hệ khách hàng I, phòng Quan hệ khách hàng II, phòng Quản lý rủi ro, phòng Quản trị tín dụng, phòng Cho thuê nội ngành, phòng Kế hoạch-Tổng hợp, phòng Tài chính-Kế toán, phòng Tổ chức-Hành chính,
+ Chi nhánh Công ty tại thành phố Hồ Chí Minh (được nâng cấp thành Công ty Cho thuê tài chính II Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam từ tháng 1 năm 2005)
Tuân thủ theo các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước, được sự chấp thuận của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, công ty Cho thuê tài chính BIDV thực hiện mô hình tổ chức mới như sau:
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Ban kiểm soát HĐQT
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng tổ chức Hành chính
Phòng Tài chính Kế toán
Phòng Quản lý Rủi ro
Phòng Kế hoạch Tổng hợp
Phòng Quản trị tín dụng
Phòng Quan hệ khách hàng I
Phòng Quan hệ khách hàng II
Phòng Cho thuê nội ngành
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của công ty cho thuê tài chính BIDV từ tháng 11/2008
Với mô hình như trên, chức năng nhiệm vụ các phòng ban được quy định cụ thể hơn, chuyên môn hóa cao hơn, tạo được sự phối hợp liên kết giữa các bộ phận, phòng ban chức năng với nhau. Các quyết định, chính sách của Công ty đưa ra đều dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá và có sự tham gia của số đông mà không mang tính chất chủ quan của một người quyết định (giám đốc, phó giám đốc). Vì vậy, mô hình tổ chức mới mang tính ưu việt, chuyên môn và năng động hơn so với mô hình quản trị cũ.
2.2. Thực trạng quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính tại công ty cho thuê tài chính BIDV
2.2.1.Thực trạng về hoạt động cho thuê tài chính
Tiếp theo năm 2005, năm 2006 là năm rất khó khăn của Công ty sau 8 năm hoạt động, các khoản nợ xấu đã bùng phát, việc quản lý, quản trị điều hành đã bộc lộ nhiều sai sót, kết quả kinh doanh của Công ty sa sút, lợi nhuận thấp nhất sau 8 năm hoạt động, tỷ lệ Nợ xấu/Dư nợ ngoại ngành gần 16%. Các cuộc thanh kiểm tra kéo dài đã ảnh hưởng lớn đến tâm lý cán bộ.
Cuối năm 2006, Ban lãnh đạo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam quyết tâm khôi phục lại Công ty bằng việc kiện toàn nhân sự lãnh đạo chủ chốt, kiện toàn mô hình tổ chức Công ty theo Thông tư 06/2006/TT-NHNH, cấp bổ sung vốn điều lệ lên 200 tỷ đồng, cho phép Công ty hưởng lãi suất vay ưu đãi,...
Với sự hỗ trợ về nhiều mặt và chỉ đạo sát sao của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, năm 2007 Công ty đã có sự tăng trưởng mạnh thoát khỏi ra sự khủng hoảng và trích lập đủ Dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu, lợi nhuận trước thuế đạt 21,3 tỷ đồng gấp 23 lần so với năm 2006, thu nhập của cán bộ Công ty đã được cải thiện với thu nhập sau thuế bình quân đầu người đạt 213 triệu đồng/người, hoàn thành các kế hoạch kinh doanh đề ra.
Sang năm 2008 Công ty đã thực sự khôi phục và hoàn thành nhiệm vụ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giao với hầu hết các chỉ tiêu đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Quy mô tổng tài sản là 1.705 tỷ đồng tăng 43% so với đầu năm, dư nợ tín dụng (ngoại ngành) đạt 1352 tỷ đồng, tăng trưởng 65% so với năm 2007, lợi nhuận trước thuế sau trích Dự phòng rủi ro là 54,16 tỷ đồng, cao gấp 2,5 lần so với năm trước và tỷ lệ nợ xấu nội bảng/dư nợ ngoại ngành khống chế ở mức 2,79%. Tháng 11/2008 Công ty đã triển khai mô hình TA2 tách bạch giữa 3 chức năng khởi tạo, quản lý rủi ro và tác nghiệp nhằm quản lý khoản thuê tốt hơn, bên cạnh đó Công ty cũng đã triền khai thực hiện dự án hiện đại hóa công nghệ thông tin Công ty.
Để có thể hiểu rõ hơn về thực trạng cho thuê tài chính của Công ty cho thuê tài chính-BIDV, có thể xem xét các chỉ tiêu sau:
a, Cơ cấu dư nợ theo đối tượng cho thuê
Bảng 2.1: Dư nợ cho thuê 2006-2008
Đơn vị: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
1
Tổng dư nợ
936
1195
1733
2
Dư nợ ngoại ngành
548
821
1352
3
Dư nợ nội ngành
388
377
381
( Nguồn: Báo cáo tổng kết từ năm 2006-2008 công ty cho thuê tài chính-BIDV)
Biểu đồ 2.1: Cho thuê tài chính nội ngành và ngoại ngành 2006-2008
Cho đến nay, Công ty vẫn chưa được phép thực hiện các nghiệp vụ đầu tư tài chính và chưa đủ điều kiện để cho thuê vận hành nên hoạt động vẫn dựa vào một sản phẩm duy nhất là cho thuê tài chính. Cho thuê tài chính là hoạt động chủ đạo của công ty, đưa lại doanh thu và lợi nhuận lớn nhất cho công ty, là yếu tố quyết định sự sống còn của công ty.
Theo tiêu chí đối tượng cho thuê cũng như lãi suất cho thuê và mức độ rủi ro, cho thuê tài chính của công ty được phân thành hai khu vực là cho thuê nội ngành và cho thuê ngoại ngành.
- Cho thuê nội ngành:
Đối tượng thuê của cho thuê nội ngành là các tài sản mua bán từ các chi nhánh BIDV hoặc các tài sản mua bán tập trung toàn ngành. Tài sản thuê thường là xe ô tô, hệ thống máy văn phòng, hệ thống điều hòa, từ năm 2002 có cả máy rút tiền tự động và trở thành tài sản có tỷ trọng dư nợ cho thuê lớn nhất. Tháng 11/2008 phòng cho thuê nội ngành cũng đã được thành lập để thực hiện một cách tôt nhất khu vực cho thuê này.
Tính đến ngày 31/12/2008, dư nợ cho thuê tài chính nội ngành là 381 tỷ đồng (gồm 0,2 tỷ đồng đầu tư), tăng không nhiều so với năm 2007 (377 tỷ đồng), và giảm so với năm 2006 (388 tỷ đồng). Trong khi đó Tổng dư Nợ lại tăng lên nhiều, điều đó cho thấy, Công ty đang mở rộng hoạt động sang khu vực cho thuê ngoại ngành-khu vực đem lại nhiều lợi nhuận hơn.
- Cho thuê tài chính ngoại ngành
Đây là khu vực cho thuê chiếm tỷ trọng lớn hơn trên tất cả các mặt dư nợ, giá trị tài sản...Tài sản cho thuê đa dạng, gồm các dây chuyền sản xuất, các sản phẩm công nghiệp, tiêu dùng, thực phẩm, máy mọc đơn lẻ; phương tiện thi công cầu, đường, xây dựng; phương tải vận chuyển hàng hóa, hành khách…Khách hàng của hoạt động cho thuê tài chính ngoài hệ thống ngân hàng ĐT&PTVN bao gồm các pháp nhân như công ty TNHH, công ty CP, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã…
Năm 2007, số lượng dự án đã ký kết là 174 dự án, tổng giá trị cho thuê lên đến 1056 tỷ đồng, dư nợ cho thuê ngoại ngành cuối kỳ là 821 tỷ đồng, tăng 49,8% so với năm 2006. Dư nợ cho thuê đến 31/12/2008 của cho thuê ngoại ngành là 1.352 tỷ đồng, tăng trưởng 65% so với cuối năm 2007( dư nợ 821 tỷ đồng ), đạt 102,4% kế hoạch được giao.
b, Cơ cấu dư nợ theo loại hình doanh nghiệp cho thuê
Trong thời gian qua Công ty tiếp tục thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu dư nợ theo hướng tăng tỷ lệ cho thuê đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có dự án khả thi và giảm cho thuê bên các doanh nghiệp quốc doanh thông qua việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án, đồng thời thúc đẩy mạnh việc đôn đốc thu hồi nợ. Kết quả cho thấy, tỷ trọng dư nợ cho thuê với các doanh nghiệp quốc doanh giảm đáng kể, từ 57,3% năm 2006 xuống còn 5,5% năm 2008, ngược lại trong thời gian đó tỷ trọng dư nợ trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong thời gian đó tăng mạnh, từ 42,7% lên đến 94,5%.
Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ cho thuê theo loại hình doanh nghiệp
và loại hình tài sảN 2006-2008
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Dư nợ
Tỷ trọng
Dư nợ
Tỷ trọng
Dư nợ
Tỷ trọng
I- THEO HÌNH THỨC SỞ HƯŨ
1-Doanh nghiệp quốc doanh
536,2
57,3%
314,4
26,3%
95,6
5,5%
2-Doanh nghiêp ngoài quốc doanh
399,8
42,7%
881,0
73,7%
1637,7
94,5%
II- THEO LOẠI TÀI SẢN
1-Phương tiện vận chuyển
254,59
27,2%
437,52
36,6%
825,1
47,6%
2-Máy móc thiết bị
107,52
11,5%
236,69
19,8%
382,7
22,1%
3-Tài sản khác
573,89
61,3%
521,19
43,6%
525,5
30,3%
Tổng
936,0
100%
1195,4
100%
1733,3
100%
( Nguồn: Báo cáo tổng kết từ năm 2006-2008 công ty cho thuê tài chính-BIDV)
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu dư nợ theo loại hình doanh nghiệp 2006-2008
c, Cơ cấu dư nợ theo nhóm tài sản cho thuê
Hiện nay tài sản cho thuê của công ty cho thuê tài chính-BIDV khá đa dạng, bao gồm dây chuyền sản xuất, chế biến; máy móc thiết bị sản xuất, khai thác, xây dựng và văn phòng...; phương tiện vận tải và các động sản phục vụ sản xuất kinh doanh. Để có thể dễ so sánh, có thể cơ cấu dư nợ theo các nhóm tài sản lớn gồm phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị và tài sản khác như ở bảng 2.2. Trong giai đoạn 2006-2008, dư nợ cho thuê theo nhóm tài sản phương tiện vận chuyển và nhóm máy móc thiết bị đều tăng, còn các tài sản khác giảm dần từ 573,89 tỷ đồng năm 2006 xuống 521,19 tỷ đồng năm 2007 và năm 2008 là 525,5 tỷ đồng. Việc tập trung cho thuê vào một loại tài sản có thể dẫn tới rủi ro cao, đặc biệt nhóm tài sản máy móc thiết bị thường hao mòn nhanh chóng, nhất là hao mòn vô hình do phát triển của khoa học kỹ thuật. Vì vậy Công ty cần có những định hướng cụ thể trong việc đầu tư vào nhóm tài sản nào trong giai đoạn nào.
d, Thị phần hoạt động so với các công ty cho thuê tài chính khác
Bảng 2.3: Thị phần của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Tên công ty
Dư nợ cho thuê
Thị phần(%)
1
Cty CTTC II NHNN & PTNT VN
6206.27
44.43
2
Cty CTTC I NHNN & PTNT VN
2146.48
15.36
3
Cty CTTC I NH Đầu tư & PTVN
1733.34
12.41
4
Cty CTTC II NH Đầu tư & PTVN
1309.45
9.37
5
Cty CTTC NH Ngoại thương VN
1084.16
7.76
6
Cty CTTC NH Công thương VN
985.06
7.05
7
Cty CTTC NH Sài Gòn thương tín
331.77
2.37
8
Cty CTTC NH Á Châu
106.14
0.76
9
Cty CTTC Công nghiệp tàu thủy
67.27
0.48
Tổng cộng
13969.94
100.00
(Nguồn:Báo cáo kết quả công tác năm 2008 của Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam)
Biểu đồ 2.3: Thị phần của các công ty cho thuê tài chính năm 2008
Hiện nay có 9 công ty thuộc Hiệp Hội cho thuê tài chính Việt Nam, trong đó 2 Công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Việt Nam chiếm thị phần lớn nhất (lần lượt là 44.43% và 15.36%) dư nợ của hai công ty này chiếm hơn một nửa tổng dư nợ của cả 9 công ty. Công ty cho thuê tài chính I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đứng thứ 3 với thị phần 12.41%. Điều này có phần dễ hiểu vì 2 công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Việt Nam ra đời trước và có vốn điều lệ lớn hơn (200.000 triệu đồng và 350.000 triệu đồng), trong khi vốn điều lệ của Công ty cho thuê tài chính I- BIDV là 200.000 triệu. Sản phẩm cho thuê của Công ty cho thuê tài chính-BIDV cũng không phong phú như Công ty cho thuê tài chính II-NHNN&PTNT, đặc biệt là về tàu thuyền các loại. Trong năm 2008, Dư nợ cho thuê tàu thuyền của Công ty cho thuê tài chính I-BIDV là 595,826 tỷ đồng, công ty CTTC II-NHNN&PTNT là 3088,663 tỷ đồng, công ty CTTC I- NHNN&PTNT là 1433,659 tỷ đồng)
2.2.2. Thực trạng về rủi ro hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty Cho thuê tài chính – BIDV
Khủng hoảng kinh tế thế giới, đặc biệt là trong ngành Ngân hàng-Tài chính từ năm 2007, làm cho rủi ro và nguy cơ xảy ra rủi ro ngày càng gia tăng trong hoạt động cho thuê tài chính. Trong giai đoạn 2006-2008, thực trạng về rủi ro của Công ty được thực hiện qua các chỉ tiêu
2.2.2.1. Tình hình Nợ quá hạn
a, Phân tích nợ quá hạn theo thời gian
Bảng 2.4: Dư nợ cho thuê và nợ quá hạn 2006-2008
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
-Tổng dư nợ cho thuê
936
1195,4
1733,3
-Nợ quá hạn
85,8
223,4
653,2
+ Nhóm II
4,3
190,3
615,4
+ Nhóm III
24,1
2,8
11,8
+ Nhóm IV
1,7
7,8
22,4
+ Nhóm V
55,7
22,5
3,6
Tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ
9,17%
18,69%
37,69%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006-2008 Công ty cho thuê tài chính -BIDV)
Biểu đồ 2.5: Nợ quá quá hạn 2006-2008
Bảng 2.3 đã phân loại Nợ quá hạn theo Quyết định 493/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Năm 2006, Nợ quá hạn mới chỉ 88,5 tỷ đồng; nhưng sang năm 2007, Nợ quá hạn tăng vọt lên 223,4 tỷ đồng và năm 2008 nhiều nhất 653,2 tỷ đồng. Điều này dẫn đến Tỷ lệ Nợ quá hạn của các năm lần lượt tăng lên là 9,17% năm 2006; 18,69 năm 2007 và 37,69 năm 2008. Có thể thấy tốc độ tăng Nợ quá hạn trong 3 năm qua cao, năm sau hơn gấp đôi năm trước. Trong khi đó tốc độ tăng Tổng dư nợ cho thuê năm sau so với năm trước lần lượt là 27,7% (năm 2007 so với 2006) và 45% (năm 2008 so với 2007).
Theo tính chất của các khoản Nợ quá hạn, trong năm 2006, phần lớn các khoản Nợ quá hạn nằm trong Nhóm V (nợ quá hạn trên 306 ngày), 65% nợ quá nằm trong nhóm nợ quá hạn nguy hiểm nhất này. Sang các năm 2007,2008, các khoản nợ quá hạn ở nhóm V dần dịch chuyển lên nhóm II. Sở dĩ như như vậy là vì, Công ty đã có các biện pháp xử lý kịp thời với những khoản nợ quá hạn. Đối với các công ty cho thuê tài chính thì tài sản cho thuê chính là tài sản đảm bảo cùng với các tài sản đảm bảo khác (nếu có). Tất cả các khoản cho thuê tài chính của Công ty cho thuê tài chính-BIDV đều có tài khoản đảm bảo. Khi khách hàng không trả tiền thuê, Công ty có quyền phát mại tài sản cho thuê để thu hồi nợ.
Chúng ta có thể phân tích kỹ hơn tình hình nợ quá hạn theo các tiêu chí sau:
b, Phân tích nợ quá hạn theo ngành nghề kinh tế:
Bảng 2.5: Tỷ lệ nợ quá hạn theo ngành kinh tế năm 2008
Đơn vị: tỷ đồng
Ngành kinh tế
Dư nợ
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)
Công nghiệp chế biến
41,98
33,82
80,56
Công nghiệp khai thác mỏ
29,05
2,74
9,43
Nông lâm nghiệp
107,48
12,57
11,7
Tài chính-tín dụng
262,05
0
0
Vận tải
424,76
208,71
49,14
Xây dựng
201,92
29,27
14,5
Y tế và hợp đồng cứu trợ xã hội
10,18
10,18
100
Khách sạn- nhà hàng
2,35
2,30
97,87
Sản xuất phân phối điện nước
9,43
4,02
42,63
Khác
644,1
349,59
54,28
Tổng cộng
1733,3
653,2
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2008 Công ty cho thuê tài chính -BIDV)
Công ty cho thuê tài chính-BIDV thực hiện cho thuê tài chính trên nhiều ngành nghề khác nhau. Tính đến năm 31/12/2008, dư nợ trong ngành Vận tải là lớn nhất (chiếm 24,5%), tiếp theo là các ngành Tài chín-tín dụng và Nông lâm nghiệp. Công ty không quá tập trung quá nhiều vào một ngành nghề nào nhất định.
Xét về Nợ quá hạn, thì ngành Y tế và cứu trợ xã hội có tỷ lệ nợ quá hạn cao nhất, nợ quá hạn lên tới 100%. Tài sản Công ty cho ngành này thuê là các máy siêu âm, máy chụp X-Quang. Hoạt động y tế-cứu trợ xã hội mang đặc thù của một ngành nghề xã hội, thu nhập mang tính chất tài chính công, việc thanh toán có thể có nhiều thủ tục phức tạp, vì vậy việc thu hồi tiền thuê khá khó khăn. Mặt khác, các thiết bị y tế thường có khả năng chuyển đổi thành tiền thấp, Công ty nên hạn chế việc cho thuê trong ngành này. Tuy nhiên toàn bộ nợ quá hạn của ngành này nằm vào nhóm II, nợ nhóm II là các khoản nợ được gia hạn nợ hoặc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, vì vậy mức độ rủi ro chưa phải là nghiêm trọng.
Ngành có tỷ lệ nợ quá hạn cao thứ hai là ngành Khách sạn-nhà hàng. Đây là ngành dịch vụ có nhiều cơ hội phát triển, khả năng thanh toán không phải là quá thấp, thế nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại lên đến 97,87%. Công ty cần cân nhắc việc thu hồi nợ trong lĩnh vực cho thuê này.
Phương tiện giao thông vận tải có tỷ lệ nợ quá hạn là 49,14%. Các tài sản cho thuê thương là xe ca, xe tãi, xe tải...Đây là loại tài sản dễ mua bán, khả năng chuyển đổi thành tiền cao, khi cần thiết có thể phát mại để thu nợ. Chính vì vậy Công ty nên đẩy mạnh cho thuê tài chính trong ngành nghề này
2.2.2.2. Tình hình Nợ xấu
a, Phân tích Nợ xấu theo Quyết định 493
Bảng 2.6: Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu 2006-2008
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
-Tổng dư nợ cho thuê
936
1195,4
1733,3
-Nợ xấu
81,5
33,1
37,8
+ Nhóm III
24,1
2,8
11,8
+ Nhóm IV
1,7
7,8
22,4
+ Nhóm V
55,7
22,5
3,6
Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ
8,7%
2,77%
2,18%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006-2008 Công ty cho thuê tài chính -BIDV)
Tỷ lệ Nợ xấu của Công ty giảm rõ rệt qua các năm trong giai đoạn 2006-2008. Năm 2006, tỷ lệ nợ xấu rất cao 8,7%, nợ xấu tập trung vào nhóm V (nợ có khả năng mất vốn) là 55,7 tỷ đồng, chiếm 68,3% tổng nợ xấu của năm 2006. Sang năm 2007, nợ xấu giảm rõ rệt, còn 33,1 tỷ đồng, giảm 59,4% so với năm 2006; đồng thời nợ xấu ở nhóm V cũng giảm xuống.
Sở dĩ giảm được nợ xấu một cách nhanh chóng như vậy là vì trong năm 2007, công ty xác định nhiệm vụ trọng tâm là lành mạnh hóa tình hình tài chính. Công ty cho thuê tài chính-BIDV đã kiên quyết trong việc thu hồi, xử lý nợ xấu như: khởi kiện 13 doanh nghiệp và có 9 trường hợp có quyết định công nhận thỏa thuận của tòa án; làm đơn tố giác tố giác tội phạm và làm thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm. Kết quả là Công ty đã thu gốc 20,7 tỷ đồng; thu lãi 0,4 tỷ đồng, trong đó có hai khoản nợ bán được cho DATC (Công ty mua bán nợ của Bộ tài chính) với trị giá hơn 11 tỷ đồng của Công ty Xây dựng công trình đường thủy và Công ty cầu 7 Thăng Long.
Sang năm 2008, tỷ lệ nợ xấu tiếp tục giảm, một điều đáng lưu ý là nợ Nhóm V giảm nhiều, giảm 84% so với nợ nhóm V năm 2007, và chỉ còn chiếm 9,5% tổng nợ xấu năm 2008. Trong năm 2008 Công ty tiếp tục thực hiện chính sách lành mạnh hóa tài chính như năm 2007 đã đề ra. Công ty đã tích cực thu hồi, bán tài sản, truy hồi tài sản và thu được: Công ty Hoàng Anh 11,7 tỷ đồng; Cty Cổ phần cơ khí và xây lắp số 7: 1.434 triệu đồng; Cty TNHH Đức Nguyên: 1.236 triệu đồng; Cty Hoàng Linh: 810 triệu đồng; Cty In Thế kỷ 198 triệu đồng...Đồng thời Công ty cũng tích cực phối kết hợp với cơ quan thi hành án để thu nợ: Cty Toàn Long 35 triệu đồng; Cty Cổ phần Đất Việt: 50 triệu đồng; DNTN Thương mại Hà Phát: 310 triệu đồng...
Kết quả của những hoạt động tích cực trên nợ xấu của Công ty cho thuê tài chính- BIDV giảm mạnh cả về tuyệt đối và tương đối.
b, So sánh tỷ lệ Nợ xấu với các công ty cho thuê tài chính khác
Bảng 2.7: Nợ xấu của các Công ty cho thuê tài chính hội viên Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam năm 2008
Đơn vị: tỷ đồng; %
STT
Tên công ty
Dư nợ cho thuê
Tỷ lệ Nợ xấu
(nhóm 3,4,5)
Tỷ lệ Nợ xấu
(Nhóm 5)
1
Cty CTTC II NHNN & PTNT VN
6206.27
1,92
0,55
2
Cty CTTC I NHNN & PTNT VN
2146.48
14,06
1,29
3
Cty CTTC I NH Đầu tư & PTVN
1733.34
2,18
0,20
4
Cty CTTC II NH Đầu tư & PTVN
1309.45
3,32
1,07
5
Cty CTTC NH Ngoại thương VN
1084.16
0,76
0,39
6
Cty CTTC NH Công thương VN
985.06
16,18
11,44
(Nguồn:Báo cáo kết quả công tác năm 2008 của Hiệp hội cho thuê tài chính Việt Nam)
Bảng trên là tỷ lệ nợ xấu của 6 công ty cho thuê tài chính có dư nợ cho thuê lớn nhất Việt Nam. So với những công ty này, BLC có tỷ lệ nợ xấu đứng thứ 3. So với Công ty cho thuê tài chính II-NHNN&PTNT VN – là công ty có dư nợ lớn nhất, thì tỷ lệ nợ xấu của BLC vẫn cao. Điều này cho thấy BLC không những phải nâng cao năng lực cạnh tranh bằng cách tăng dư cho thuê mà vấn đề quan trọng hơn nữa là quản lý nợ xấu. Tuy nhiên trong việc xử lý nợ có khả năng mất vốn (Nợ nhóm V), BLC lại là công ty làm tốt nhất với tỷ lệ này rất thấp 0,2%.
2.2.2.3. Lãi treo
Bảng 2.8: Lãi treo và tỷ lệ lãi treo 2006-2008
Đơn vị: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
1
Tổng dư nợ
936
1195,4
1733,3
2
Lãi treo
7,398
4,926
30,555
3
Lãi treo/Tổng dư nợ (%)
0,79
0,41
1,76
4
Thu nợ ngoại bảng
1,691
20,7
16,33
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006-2008 Công ty cho thuê tài chính –BIDV)
Năm 2007, dư nợ cho thuê tăng lên nhưng lãi treo lại giảm xuống so với năm 2006. Điều này cũng dễ hiểu, năm 2007 là năm Công ty bắt đầu mở chiến dịch lành mạnh hóa tài chính, kiên quyết thu hồi xử lý nợ; kết quả là Công ty đã thu được 20,7 tỷ đồng nợ ngoại bảng, làm giảm tỷ lệ lãi treo/tổng dư nợ xuống còn 0,41%. Sang năm 2008, cùng với sự tăng lên của tổng dư nợ, lãi treo cũng tăng lên rất nhanh mặc dù thu nợ ngoại bảng là 16,33 tỷ đồng. Tỷ lệ lãi treo/tổng dư nợ là 1,76% khá cao, Công ty cần sát sao hơn trong chính sách thu lãi. Tình hình kinh tế thế giới cũng như Việt Nam trong năm 2008 có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là ngành Ngân hàng tài chính, vì vậy hiệu quả sinh lời và kinh doanh của Công ty có phần đi xuống so với năm 2007.
2.2.3. Thực trạng quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính tại công ty cho thuê tài chính-BIDV
2.2.3.1. Các loại rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính của Công ty cho thuê tài chính-BIDV
a, Rủi ro tài chính
- Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn: hầu hết những đối tượng khách hàng này làm ăn thua lỗ, rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính dẫn đến không thể trả được nợ đúng hạn. Có thể kể tên một số doanh nghiệp cùng với giá trị của khoản nợ không thu hồi được như: Năm 2007có Công ty CP PG Rồng Biển 26,54 tỷ đồng; Công ty Liên doanh Hoàng Phát 459 triệu đồng. Năm 2006 có Công ty CP AP Việt Nam 2879 triệu đồng, Công ty Xây Dựng Công trình 5 Ninh Bình 861 triệu đồng, Công ty TNHH Đại Đồng 662 triệu...
- Do bên thuê có ý định lừa đảo: Có một số trường hợp tài sản vẫn hoạt động hiệu quả nhưng khách hàng dây dưa không trả nợ mà giữ nguồn thu từ dự án cho mục đích khác. Công CP Thiên Lộc có dư nợ là 1035 triệu đồng, nhưng khả năng thu hồi được vốn là 766 triệu đồng, DNTN Hoàng Hải dư nợ 318 triệu đồng nhưng khả năng không thu hồi được nợ lên đến 300 triệu đồng.
- Bên thuê bỏ trốn khi không trả được nợ hoặc không chịu giao tài sản khi Công ty quyết định thu hồi tài sản thậm chí tự ý bán tài sản thuê hoặc sử dụng tài sản thuê không đúng mục đích. Đó là trường hợp của Công ty TNHH Sản xuât thương mại Lê Hoàng, Công ty CP Xây dựng công trình giao thông 818, Công ty Xây dựng thương mại 495.
b, Rủi ro hoạt động
- Rủi ro về lãi suất: Trong năm 2006, đa số các hợp đồng cho thuê tài chính của Công ty đều áp dụng lãi suất thả nổi bằng lãi suất tiết kiện 12 tháng của Sở giao dịch I-BIDV cộng biên độ từ 0,23% đến 0,3%/ tháng. Có trường hợp khi lãi suất thay đổi, cán bộ quản lý khách hàng không ký lại Phụ lục thanh toán tiền thuê kịp thời để điều chỉnh lãi suất làm thất thoát tiền lãi, giảm thu nhập của công ty. Đó là trường hợp của: Công ty TNHH Khánh Linh, Công ty TNHH Việt Linh, Công ty TNHH Nam Sơn...
- Rủi ro do dự án đầu tư không có hiệu quả : Trường hợp gây tổn thất lớn nhất là Dự án khu vui chơi giải trí của Công ty CP PG Rồng Biển. Khách hàng này đã thuê thiết bị trò chơi, nhưng do dự án không phát huy hiệu quả nên không thể trả được nợ cho Công ty. Ngoài ra còn có một số dự án của các khách hàng khác không thể thu hồi được vốn như : Công ty CP AP Việt Nam, Công ty Xây dựng 5 Ninh Bình…
- Rủi ro trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng tài sản, hợp đồng bảo hiểm tài sản : Đó là trường hợp của công ty quảng cáo và hội chợ thương mại Thái Bình Dương thuê của Công ty cho thuê tài chính-BIDV màn hình quảng cáo ngoài trời. Trong quá trình sử dụng, màn hình đã bị cháy hỏng. Theo quy định thì nếu trong quá trình sử dụng tài sản bị hỏng, bên thuê có quyền chấm dứt hợp đồng. Khi tài sản bị hỏng, công ty Thái Bình Dương đã chấm dứt hợp đồng trước hạn với công ty cho thuê tài chính-BIDV, trả lại tài sản cho thuê và đòi lại số tiền đã ứng trước (30% giá trị tài sản).
Cũng trong hợp đồng này, Công ty đã mua bảo hiểm cho tài sản của công ty bảo hiểm Bảo Việt Hà Nội. Nhưng công ty bảo hiểm từ chối bồi thường vì cho rằng lỗi này là do nhà sản xuất và tài sản đang trong thời điểm bảo hành. Đến lượt nhà cung cấp cũng không nhận trách nhiệm vì cho rằng lỗi này không quy định trong hợp đồng. Bên thuê đã khởi kiện và kết quả là.
- Rủi ro về tài sản thuê: Đó là trường hợp cho thuê những tài sản có tính chuyển nhượng thấp, khi thu về công ty không thể cho thuê tiếp do tài sản mang tính chuyên dụng và đặc chủng cao, như trường hợp Công ty Du lịch Hải Long thuê thiết bị trò chơi cảm giác mạnh. Cũng có trường hợp cho thuê tài sản, nhưng tài sản không được bảo quản cẩn thận dẫn đến giá trị bị giảm sút nghiêm trọng. Rủi ro này xảy ra với trường hợp Công ty TNHH Hùng Cường thuê ô tô tải nhưng do bến bãi không có nên xe bị xuống cấp, hỏng hóc. Một vài trường hợp về rủi ro tài sản thuê còn gặp phải là: không mua bảo hiểm cho tài sản, không kiểm tra kiểm soát giá trị mua vào của tài sản...
c, Các rủi ro khác
Rủi ro do môi trường kinh doanh biến động: Rủi ro này dễ thấy nhất trong năm 2008 với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới toàn cầu làm cho ngành Ngân hàng tài chính phải đối mặt với một loạt khó khăn. Công ty cho thuê tài chính-BIDV cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Hoạt động cho thuê trở nên dè dặt hơn và gặp nhiều biến cố phức tạp hơn. Việc thực hiện các dự án của doanh nghiệp cũng chậm so với tiến độ dẫn tới việc thu hồi tiền lãi thuê của Công ty trở nên khó khăn hơn nhiều.
2.2.3.2. Thực trạng trích lập, sử dụng quỹ dự phòng rủi ro.
a, Thực trạng trích lập quỹ dự phòng rủi ro
Công ty cho thuê tài chính-BIDV luôn thực hiện trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, cụ thể như sau:
Bảng 2.9: Trích lập dự phòng rủi ro 2006-2008
Đơn vị: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
1
Tổng dư nợ
936
1195,4
1733,3
2
Trích DPRR trong năm
29,4
82,2
40,4
3
DPRR phải trích
20,5
31
60,48
Dự phòng chung
6,7
8,5
19,27
Dự phòng cụ thể
13,8
22,5
47,51
4
Số dư quỹ DPRR
11,6
32,3
60
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007, 2008 Công ty cho thuê tài chính –BIDV)
Theo Quyết định 493/QĐ-NHNN thì các tổ chức tín dụng phải thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro hàng tháng. Trong bảng trên, chỉ tiêu thứ hai thể hiện tổng số tiền DPRR mà Công ty cho thuê tài chính-BIDV đã trích trong các năm. Với sự hỗ trợ nhiều mặt và chỉ đạo sát sao của BIDV, năm 2007 Công ty đã có sự tăng trưởng mạnh thoát ra khỏi khủng hoảng và trích lập DPRR cho các khoản nợ xấu đầy đủ, kết quả 82,2 tỷ đồng, cao nhất trong ba năm. Đến 31/12/2007, số dư quỹ dự phòng là 32,3 tỷ đồng, trong khi DPRR phải trích là 31 tỷ đồng. Đây là năm Công ty thực hiện trich lập dự phòng rủi ro tốt nhất trong ba năm.
Sang năm 2008, tuy số tiền trích lập DPRR là 40,4 tỷ đồng vượt kế hoạch đề ra 135% (kế hoạch là 30 tỷ đồng), nhưng xét đến thời điểm 31/12/2008 thì số dư quỹ dự phòng vẫn thấp hơn DPRR phải trích (60 tỷ đồng <60,48 tỷ đồng ). Công ty cần kịp thời trích lập thêm để đảm bảo đúng quy định, đề phòng rủi ro một cách tốt nhất.
b, Thực trạng sử dụng quỹ dự phòng rủi ro
Trong thời gian qua, Công ty đã sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý một số khoản nợ xấu ngoại bảng. Xét thấy những khoản vay mà khách hàng không có khả năng trả nợ thậm chí là sau khi gia hạn nợ, ban lãnh đạo Công ty đã quyết định thu hồi tài sản với nhưng khoản vay này và dừng tính lãi. Sau khi phát mại tài sản để thu hồi vốn mà không đủ để bù đắp, Công ty dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp hết tiền nợ gốc còn lại. Trong năm 2008, Công ty đã trích 38 triệu quỹ dự phòng rủi ro để giải quyết nợ của Công ty Dệt may Hoàng Long (cho thuê xe ô tô con), trích 69 triệu để xử lý hợp đồng cho thuê thiết bị thi công xây dựng với Công ty TNHH Cường Thịnh. Khoản trích dự phòng lớn nhất trong năm là trích 29 tỷ cho khoản nợ của CTCP PG Rồng Biển (thuê thiết bị trò chơi). Trong năm 2007, Công ty cũng đã phải sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp rủi ro cho các công ty: Công ty cầu 7 Thăng Long, Công ty TNHH Toàn Long, Hợp tác xã Đức Nguyên.
2.2.3.2.Chính sách quản lỷ rủi ro của công ty cho thuê tài chính-BIDV
Năm 2006 là năm rất khó khăn của Công ty cho thuê tài chính-BIDV sau 8 năm hoạt động, các khoản nợ xấu gia tăng, việc quản lý điều hành đã bộc lộ nhiều sai sót. Trước thực trạng rủi ro bùng phát ảnh hưởng đến chất lượng cho thuê và kết quả kinh doanh của hoạt động cho thuê tài chính, cuối năm 2006, theo chỉ đạo của BIDV, Công ty cho thuê tài chính-BIDV đã chú trọng hơn đến quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính. Tháng 11/2008, đồng thời với việc sửa đổi cơ cấu bộ máy tổ chức hoạt động, Công ty đã ban hành Quyết định số 160/QĐ-QHKH ban hành Quy định về nghiệp vụ cho thuê tài chính ngoại ngành. Quyết định này đã thay thế các quyết định về quy trình nghiệp vụ và thẩm định dự án cho thuê tài chính trước đó, tạo ra cơ sở thực hiện và nâng cao khả năng quản lý rủi ro trong các dự án cho thuê, đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Theo Quyết định này, việc quản lý rủi ro được thực hiện từ khâu thẩm định đến khâu quản lý sau cho thuê và chia thành hai cấp độ là quản lý rủi ro toàn bộ danh mục cho thuê và quản lý rủi ro từng khoản thuê.
Quản lý rủi ro toàn bộ danh mục
Rủi ro toàn bộ là rủi ro do việc Công ty cho thuê tài chính đầu tư quá nhiều cho một lĩnh vực nào đó và khi lĩnh vực đó gặp khó khăn có thể là do chu kỳ kinh doanh hoặc do một diễn biến bất lợi nào đó trên thị trường thì Công ty cho thuê tài chính có thể gặp những tổn thất lớn, khó có thể bù đắp.
Trong giai đoạn năm 2002-2005, ngành vận tải được coi là ngành chủ đạo trong hoạt động cho thuê của Công ty cho thuê tài chính-BIDV.Tuy nhiên từ năm 2006 trở đi, bên cạnh ngành này Công ty đã tích cực mở rộng mạng lưới cho thuê của mình trên các ngành nghề khác, cũng có nhiều tiềm năng như: Công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác mỏ, nông lâm nghiệp, tài chính tín dụng... Không chỉ thực hiện đa dạng hóa danh mục các ngành nghề, mà Công ty còn tiến hành đa dạng hóa cả danh mục tài sản cho thuê. Hiện nay danh mục nhóm tài sản cho thuê của Công ty bao gồm 10 danh mục chính là: Dây chuyền sản xuât, máy rửa ảnh kĩ thuật số, taxi, thiết bị thi công-khai thác hầm mỏ, thiết bị thi công-xây lắp, thiết bị tin học viễn thông, thiết bị vận tải bộ, thiết bị vận tải thủy, thủy điện và máy móc thiết bị khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề “không bỏ nhiều trứng vào một giỏ”, Công ty xác định quản lý rủi ro đối với toàn bộ danh mục cho thuê là phải thường xuyên dự bảo được diến biến của các ngành kinh tế để có các chính sách đầu tư phù hợp nhằm tạo được một danh mục đầu tư hợp lý, an toàn, hạn chế được rủi ro. Công ty đã rà soát, phân tích kết quả hoạt động của năm trước để tạo ra một cơ cấu đầu tư hợp lý cho năm sau. Nội dung chủ yếu của quá trình này là trước hết phải đánh giá được các thuận lợi, khó khăn của ngành kinh tế từ đó đưa ra định hướng cho thuê (tăng hay giảm) đối với từng nhóm tài sản và tỷ trọng cụ thể của các nhóm trong toàn bộ danh mục cho thuê. Sau đó phải đưa ra các chính sách cụ thể đặc biệt là chính sách khách hàng: tùy thuộc vào định hướng cho thuê hàng năm sẽ quy định về lãi suất, thời gian thuê, tỷ lệ tham gia trả trước, chất lượng tài sản áp dụng cho từng nhóm tài sản, từng ngành nghề kinh doanh.
Quản lý từng khoản thuê
Việc quản lý rủi ro từng khoản thuê được thực hiện ở cả 3 khâu: trước, trong và sau khi cho thuê tài chính. Tùy từng loại hình doanh nghiệp cho thuê, loại tài sản cho thuê mà Công ty có những biện pháp quản lý các khoản thuê. Tuy nhiên về cơ bản, Công ty cho thuê tài chính-BIDV đã có những văn bản hướng dẫn thủ tục cho thuê tài chính bao gồm đầy đủ và cụ thể nội dung của từng bước. Quyết định 160/QĐ-QHKH về Ban hành Quy định về nghiệp vụ cho thuê tài chính ngoại ngành của Công ty quy định như sau:
Thẩm định khách hàng: bao gồm thẩm định năng lực pháp lý, năng lực sản xuất kinh doanh và quan trọng nhất là thẩm định dự án thuê tài chính. Công ty đã xây dựng được biện pháp phân tích rủi ro, biện pháp giảm thiểu và phòng ngừa rủi ro đối với các dự án cho thuê. Một số rủi ro chủ yếu bao gồm : rủi ro về cơ chính sách; rủi ro về xây dựng, hoàn tất; rủi ro thị trường, thu nhập, thanh toán; rủi ro về cung cấp; rủi ro về kỹ thuật, vận hành, bảo trì... Quá trình thẩm định cũng được qua hai vòng, phòng Quan hệ khách hàng thực hiện thẩm định sơ bộ và thực tế, phòng Quản lý rủi ro thực hiện thẩm định rủi ro
Phê duyệt cho thuê tài chính: Nhiệm vụ này được chia thành: cấp có thẩm quyền phê duyệt đề xuất cho thuê, cấp có thẩm quyền phê duyệt rủi ro cho thuê, cấp có thẩm quyền ký kết các hợp đồng liên quan đến cho thuê tài chính,cấp có thẩm quyền phê duyệt giải ngân. Có những trường hợp các dự án vượt thẩm quyền của công ty (các dự án vượt 15% vốn tự có và có thời gian thuê từ 7 năm trở lên) phải trình hồ sơ lên Hội sở chính của BIDV.
Giám sát và kiểm soát sau cho thuê:
Phòng Quan hệ khách hàng kiểm tra việc sử dụng tài sản thuê, chủ động đề xuất 6 tháng 1 lần lập tờ trình đi kiểm tra tài sản thuê tại Bên thuê mình quản lý, đồng thời phải thường xuyên theo dõi phân tích các biến động về hoạt động sản xuất kinh doanh của Bên thuê, tình hình tài chính, tài sản... để kịp thời nhận diện các rủi ro tiềm ẩn.
Phòng Quản lý rủi ro: Phối hợp với các phòng khác để phát hiện kịp thời các dấu hiệu rủi ro, đề xuất các biện pháp xử lý nếu có dấu hiệu bất thường; giám sát việc thực hiện phân loại nợ; giám sát thực hiện các biện pháp xử lý rủi ro đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Phòng quản trị tín dụng: Định kỳ ngày 25 hàng tháng, cán bộ quản trị tín dụng lập thông báo danh sách các khoản nợ đến hạn của tháng sau gửi phòng Quan hệ khách hàng để đôn đốc khách hàng trả nợ gốc và lãi đúng hạn; chịu trách nhiệm theo dõi diễn biến thực trạng các khoản cho thuê của khách hàng, qua đó cảnh báo các dấu hiệu rủi ro cho phòng Quan hệ khách hàng.
Thu nợ, lãi tiền thuê: Phòng Quan hệ khách hàng chịu trách nhiệm đôn đốc và thu nợ. Trong quá trình thực hiện, nếu biết bên thuê không có khả năng trả nợ thì phải áp dụng ngay các biện pháp thích hợp, tùy từng nguyên nhân có thể gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc thực hiện xử lý thu hồi nợ quá hạn.
Xử lý thu hồi nợ quá hạn và các vấn đề phát sinh khác:
Phòng QHKH chịu trách nhiệm rà soát phân tích nguyên nhân nợ quá hạn đồng thời tiếp tục đôn đốc khách hàng trả nợ quá hạn. Phòng QHKH đề xuất trình cấp có thẩm quyền phê duyệt nếu thay đổi chính sách khách hàng đang áp dụng, sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý nợ quá hạn không có khả năng thu hồi, bán nợ...
Phòng quản lý rủi ro chịu trách nhiệm phối hợp và trợ giúp cán bộ phòng QHKH trong việc rà soát, phân tích nguyên nhân và đề xuất các biện pháp xử lý nợ quá hạn; đồng thời giám sát trong quá trình thực hiện các biện pháp xử lý đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Phòng Quản trị tín dụng chịu trách nhiệm thường xuyên thông báo về trạng thái nợ quá hạn của Bên thuê cho phòng QHKH, phối hợp với phòng QHKH kiểm tra, đối chiếu số nợ gốc, lãi, phí, lãi phạt quá hạn.
2.3. Đánh giá công tác quản lý rủi ro hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-BIDV
2.3.1. Kết quả đạt được
Những kết quả mà Công ty cho thuê tài chính-BIDV đã làm được trong công tác quản lý rủi ro có thể kể ra gồm
Đổi mới cơ cấu tổ chức và quy trình nghiệp vụ
Tháng 11/2008 Công ty đã triên khai mô hình tổ chức mới theo TA2, sắp xếp lại nhân sự các phòng ban, đã và đang ban hành mới, chỉnh sửa các quy trình quy chế để mô hình mới nhanh chóng vận hành có hiệu quả. Chú trọng vào công tác quản lý rủi ro, phòng Thẩm định trước đây chuyển thành phòng Quản lý rủi ro. Công tác thẩm định được làm ở cả phòng Quan hệ khách hàng và phòng Quản lý rủi ro, tạo nên sự phối hợp giữa các phòng ban với nhau. Trong đó Phòng Quản lý rủi ro đóng vai trò chính trong việc tham mưu, đề xuất xây dựng các quy định, biện pháp quản lý rủi ro tín dụng. Đồng thời Công ty cũng quy định rõ các cấp thẩm quyền phê duyệt cho thuê, trong đó cấp có thẩm quyền phê duyệt rủi ro cho thuê bao gồm: Phó giám đốc phụ trách quản lý rủi ro, Giám đốc công ty, Hội đồng tín dụng, Hội đồng quản trị.
Cũng trong năm 2008, Công ty đã và đang xây dựng các văn bản mới quy định các quy trình, nghiệp vụ cho thuê để quản lý hoạt động cho thuê tài chính gồm: quy trình cho thuê tài chính, quy trình thẩm định, quy trình kiểm tra nội bộ... theo tiêu chuẩn ISO. Các quy trình này đã góp phần đảm bảo cho việc tác nghiệp của cán bộ được tuân thủ các bước nhằm nâng cao chất lượng, hạn chế một phần rủi ro tín dụng trong hoạt động cho thuê tài chính.
Công ty cũng đã xây dựng các hệ thống công nghệ thông tin phục vụ quá trình hoạt động. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin được cải thiện trong việc tạo báo cáo, chiết xuất dữ liệu phục vụ báo cáo nghiệp vụ, quản trị điều hành tại Công ty.
Xây dựng chính sách cho thuê tài chính phù hợp
Việc xây dựng chính sách cho thuê phải phù hợp với từng thời kỳ, một chính sách hợp lý sẽ đảm bảo cho việc quản lý rủi ro tốt hơn.
- Giới hạn cho thuê: Tổng dư nợ cho thuê đối với khách hàng là doanh nghiệp nhà nước <= 35% tổng dư nợ ngoại ngành. Dư nợ cho thuê tối đa đối với một khách hàng <=30% vốn tự có của Công ty cho thuê tài chính.
- Đầu tư vào một số lĩnh vực chủ yếu: Xác định một số ngành nghề chủ chốt trong hoạt động cho thuê như: vận tải đường thủy, vận tải đường bộ; xây lắp dân dụng và công nghiệp; các công trình thủy điện; dịch vụ du lịch.
- Thiết lập chính sách khách hàng: Bên cạnh việc thận trọng trong lựa chọn khách hàng về điều kiện pháp lý, tình hình tài chính, Công ty có những chính sách khuyến khích những khách hàng lâu năm, khách hàng thực hiện tốt việc trả nợ... Giảm tỷ trọng các doanh nghiệp quốc doanh trong dư nợ cho thuê, tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhiều tiềm năng.
Trong việc lựa chọn khách hàng, Công ty đã xây dựng được hệ thông chấm điểm khách hàng khá toàn diện thông qua các tiêu chí tài chính và phi tài chính. Theo các tiêu chí này sẽ châm điểm đối với từng khách hàng và dựa vào điểm số đạt được sẽ xếp khách hàng vào một trong các nhóm : AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC...
Phân loại và thu hồi xử lý nợ
- Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đã được Công ty thực hiện đầy đủ theo quyết định 493/QĐ-NHNN.
- Trong giai đoạn 2006-2008, Công ty đã tích cực và quyết liệt trong công tác thu hồi nợ, kết quả là Nợ xấu đã giảm đi rất đáng kể. Đặc biệt năm 2007 là năm Công ty cho thuê tài chính-BIDV thực sự khôi phục và hoàn thành nhiệm vụ “lấy lại phong độ”, tăng cường năng lực tài chính.
2.3.2. Hạn chế
Hoạt động cho thuê tài chính chưa có sự phân tán rủi ro:
- Hình thức cho thuê tài chính chưa phong phú
Hiện nay, Công ty cho thuê tài chính-BIDV thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chủ yếu dưới hình thức cho thuê ba bên, mua và cho thuê lại. Các hình thức cho thuê ủy thác, nhập khẩu trực tiếp tài sản thuê đã được thực hiện nhưng chưa nhiều. Các hình thức cho thuê giáp lưng, cho thuê bằng vốn vay chưa được thực hiện. Chính vì hình thức cho thuê còn đơn điệu nên Công ty chưa thực sự phát huy được hết khả năng của mình.
- Cơ cấu khách hàng và tài sản thuê:
Công ty chỉ tập trung cho thuê vào một số nhóm khách hàng có chung lĩnh vực kinh doanh hoặc cùng ngành nghề kinh tế kĩ thuật hoặc tập trung vaò một số loại tài sản như: thiết bị thi công, tàu biển, phương tiện vận tải. Việc đầu tư vào các tài sản có nhiều rủi ro mà không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu dễ đưa Công ty vào tình trạng khó khăn nếu có những ngành nghề đó suy thoái.Công ty cũng chưa được thực hiện cho thuê bất động sản. Trên thực tế công ty đang gặp phải rủi ro không thu được tiền thuê đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp và giao thông do nợ đọng dây dưa, bỏ thầu giá thấp nên làm ăn thua lỗ, tài sản thuê sau một thời gian sử dụng đã hư hỏng, giá trị giảm sút.
Mặt khác, Công ty cũng chưa xây dựng được kế hoạch lâu dài trong mục tiêu chiến lược khách hàng, nhóm tài sản thuê. Điều này làm cho công ty không chủ động trong việc đề ra một chính sách quản lý rủi ro mang tính chất toàn diện và kịp thời.
Các quy trình liên quan đến hoạt động cho thuê còn thiếu hoặc chưa chặt chẽ
- Chưa có quy trình thẩm định đặc thù cho từng loại khách hàng và từng ngành nghề: Quy trình thẩm định dự án được sử dụng chung với tất cả các đối tượng khách hàng nên mang tính chung chung, không phản ánh hết mức độ rủi ro và các tình huống xảy ra riêng biệt của từng lĩnh vực.
- Chưa có quy trình quản lý rủi ro, quy trình giám sát và quản lý hoạt động cho thuê tài chính.
Chất lượng cán bộ tín dụng còn hạn chế
Công ty không có cán bộ nào chuyên về kỹ thuật, việc thẩm định dự án hay kiểm tra tài sản mang tính chất kỹ thuật cao đều do cán bộ bên ngành kinh tế đảm nhận luôn. Chính vì vậy trong nhiều trường hợp, kết luận đưa ra về tài sản là thiếu chính xác và thiều tính chuyên môn.
Bên cạnh đó, trình độ về công nghệ thông tin và ngoại ngữ của các cán bộ còn hạn chế. Do vậy, khi Công ty đưa các phần mềm công nghệ cao vào phục vụ công tác thẩm định, lập báo cáo, chấm điểm khách hàng...thì khả năng làm quen và sử dụng thành thạo các phần mềm này trở thành một vấn đề. Những cán bộ trẻ nhanh nhẹn và bắt kịp được cái mới thì lại thiếu kinh nghiệm thực tế.
Công tác tiếp thị, quảng bá hình ảnh Công ty chưa cao
Cho đến nay, hoạt động cho thuê tài chính vẫn chưa thực sự phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các công ty cho thuê tài chính khác, Công ty cho thuê tài chính-BIDV vẫn chưa có một hình ảnh và thương hiệu thật nổi trội. Công tác tiếp thị khách hàng thuê vẫn kém năng động, chưa nhạy bén với thị trường, phương thức phục vụ chưa bài bản và thị phần cũng chưa ổn định.
Chương III:Giải pháp nâng cao quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-BIDV.
3.1.Mục tiêu, định hướng phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty cho thuê tài chính-BIDV 2009-2010
3.1.1. Mục tiêu chung
Đảm bảo tăng trưởng an toàn bền vững với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, củng cố và phát triển thương hiệu; thực hiện thắng lợi Nghị quyết chiến lược phát triển giai đoạn 2007-2010 của Công ty; nâng cao năng lực tài chính, các chỉ số hoạt động (CAR, ROA, ROE) đạt theo chuẩn mực và hướng tới thông lệ quốc tế
Thực hiện thành công cố phần hóa Công ty, trở thành Công ty cho thuê tài chính quản lý rủi ro tốt nhất Việt Nam.
3.1.2. Chỉ tiêu cụ thể năm 2009-2010
a, Nhóm chỉ tiêu về quy mô:
Tổng tài sản: Năm 2009 là 1921 tỷ đồng, tăng trưởng 14% so với năm 2008, năm 2010 là 2401 tỷ đồng tăng trưởng 19,5% so với năm 2009.
Hệ số nguồn vốn tự cân đối: 25%/tổng nguồn cho các năm.
Dư nợ cuối kỳ cho thuê ngoại ngành: Năm 2009 là 1.635 tỷ đồng, năm 2010 là 2.055 tỷ đồng.
Dư nợ cuối kỳ cho thuê nội ngành: Năm 2009 là 353 tỷ đồng và năm 2010 là 363 tỷ đồng
Thị phần về cho thuê tài chính chiếm 10%
Tỷ trọng dư nợ cho thuê doanh nghiệp ngoài quốc doanh/dư nợ cho thuê ngoại ngành đạt 90%.
b, Nhóm chỉ tiêu về chất lượng.
Tỷ lệ nợ xấu / Dư nợ ngoại ngành nhỏ hơn 5%;
Tỷ lệ lãi treo/ Dư nợ ngoại ngành nhỏ hơn 2%;
Nợ nhóm II nhỏ hơn 18%.
c, Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả:
Bảng 3.1 Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả 2009-2010
Đơn vị: tỷ đồng
TT
Chỉ tiêu
Năm 2009
Năm 2010
1
Chênh lệch thu chi trước trích DPRR
59,5
78,3
2
Trích Dự phòng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A6222.DOC