Tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước về xăng dầu: Đề tài : Quản lý nhà nước về xăng dầu
Phụ lục
PHẦN THỨ I
KHÁI QUÁT LÝ LUẬN
1.Khái niệm và một số đặc điểm của quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại
Đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước về thương mại
2.Chức năng quản lý nhà nước về thương mại
a.Chức năng kế hoạch hóa về thương mại
b.Chức năng tổ chức và phối hợp các hoạt động quản lý thương mại
c.Chức năng lãnh đạo ,điều khiển các hoạt động thương mại
d.Chức năng kiểm soát các quan hệ trao đổi ,các hoạt đông thương mại.
3.Vai trò của quản lý nhà nước về thương mại
a.Định hướng ,hướng dẫn hoạt động của các chủ thể trao đổi
b.Tạo lập môi trường thương mại và cạnh tranh
c.Hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết các mâu thuẫn,tranh chấp thương mại
d.Điều tiết quan hệ thị trường ,các hoạt động thương mại
e.Giám sát ,kiểm tra thực hiện các mục tiêu phát triển thương mại
PHẦN THỨ II
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM
I.Chức năng và vai trò quản lý nhà nước về xăng dầu
a. Quy hoạch phá...
32 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1192 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quản lý nhà nước về xăng dầu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài : Quản lý nhà nước về xăng dầu
Phụ lục
PHẦN THỨ I
KHÁI QUÁT LÝ LUẬN
1.Khái niệm và một số đặc điểm của quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại
Đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước về thương mại
2.Chức năng quản lý nhà nước về thương mại
a.Chức năng kế hoạch hóa về thương mại
b.Chức năng tổ chức và phối hợp các hoạt động quản lý thương mại
c.Chức năng lãnh đạo ,điều khiển các hoạt động thương mại
d.Chức năng kiểm soát các quan hệ trao đổi ,các hoạt đông thương mại.
3.Vai trò của quản lý nhà nước về thương mại
a.Định hướng ,hướng dẫn hoạt động của các chủ thể trao đổi
b.Tạo lập môi trường thương mại và cạnh tranh
c.Hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết các mâu thuẫn,tranh chấp thương mại
d.Điều tiết quan hệ thị trường ,các hoạt động thương mại
e.Giám sát ,kiểm tra thực hiện các mục tiêu phát triển thương mại
PHẦN THỨ II
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM
I.Chức năng và vai trò quản lý nhà nước về xăng dầu
a. Quy hoạch phát triển hệ thống kinh doanh xăng dầu
b. Tổ chức kinh doanh xăng dầu
c. Quản lý kinh doanh xăng dầu
d.Thanh tra ,kiểm tra xử lý các hoạt động kinh doanh xăng dầu.
II.Thực trạng quản lý nhà nước về xăng dầu tại Việt Nam
1.Tổng quát về hoạt động kinh doanh xăng dầu
2.Phân tích hoạt động quản lý kinh doanh xăng dầu qua các giai đoạn
a.Giai đoạn trước năm 2000
b. Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố chấm dứt bù giá, vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng 9/2008)
c. Giai đoạn từ cuối năm 2008 đến tháng 11 năm 2009
d. Giai đoạn từ cuối tháng 11 năm 2009 đến nay
PHẦN THỨ IIIĐINH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
I.Cơ hội và thách thức
II.Định hướng phát triển thị trường xăng dầu thời gian tới
Phần một : Cơ sở lý luận
1.Khái niệm và một số đặc điểm của quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại là sự tác động có định hướng ,có tổ chức của hệ thống cơ quan quản lý trên tầm vĩ mô về thương mại các cấp đến hệ thống bị quản lý thông qua việc sử dụng các công cụ và chính sách quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện môi trường xác định.
Các cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước về thương mại là người ra quyết định,người tổ chức ,người điều hành và tác động tới doanh nghiệp ,các tổ chức cá nhân tiến hành hoạt động thương mại trong phạm vi thị trường cả nước ,thị trường từng địa phương cũng như thị trường ngoài nước theo phạm vi phân công phân cấp quản lý.
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình trong điều hành và quản lý thương mại thông qua ban hành và sử dụng các công cụ kế hoạch hóa ,chính sách,luật pháp và các quyết định khác về thương mại để tác động tới các chủ thể người bán ,người mua trên thị trường .Sự tác động của các hệ thống quản lý nhà nước về thương mại đến đối tượng trao đổi luôn đặt trong mối quan hệ với môi trường cụ thể ,xác định trong từng thời kỳ.
Đặc điểm cơ bản của quản lý nhà nước về thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại mang những đặc điểm chung của quản lý nhà nước về kinh tế.Mọi loại hình quản lý về kinh tế bao gồm hai hệ thống là các cơ quan quản lý và đối tượng quản lý.Con người là trung tâm của quản lý nằm ở hai hệ thống,do vậy mọi quản lý suy cho cùng là quản lý con người,vì con người .Quản lý bao giờ cũng có sự trao đổi thông tin và liên hệ ngược,nếu không có thông tin quản lý sẽ không thể thực hiện hiệu quả.Quản lý kinh tế luôn hướng vào mục tiêu xác định và phải có giải pháp thực hiện mục tiêu đã vạch ra.
Tính đặc thù của quản lý nhà nước về thương mại
Mục tiêu của quản lý nhà nước về thương mại gắn liền với quá trình kinh tế xã hội ,các lợi ích cần đạ được từ thương mại trong từng thời kỳ cụ thể .Mục tiêu quản lý nhà nước về thương mại bị chi phối bởi mục tiêu quản lý kinh tế xã hội mà Đảng ,Nhà nước đã vạch ra .Mục tiêu bao trùm của quản lý nhà nước về thương mại là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định ,bền vững và đảm bảo sự tiến bộ và công bằng xã hội.
Để đạt được mục tiêu ,quản lý nhà nước về thương mại cần phải có quá trình tổ chức công nghệ và kỹ thuật để vận hành ,phải sử dụng các công cụ ,phương tiện mang tính liên ngành để điều tiết hoạt động thương mại theo định hướng mục tiêu ,phù hợp với lợi ích mong muốn trong mỗi thời kỳ.
Quản lý nhà nước về thương mại bao gồm quản lý các chủ thể thương nhân ,các nhà sản xuất và người tiêu dùng trong và ngoài nước cũng như hoạt động trao đổi của họ cùng cơ sở hạ tần vật chất kỹ thuật thương mại .Quản lý nhà nước về thương mại còn bao gồm việc kiểm tra sự chấp hành chính sách,pháp luật và các định chế khác có liên quan tới lĩnh vực thương mại .Nó liên quan tới nhiều cấp ,nhiều ngành và đòi hỏi phải có sự phối hợp trong nước và quốc tế .
2.Chức năng quản lý nhà nước về thương mại
a.Chức năng kế hoạch hóa về thương mại
Kế hoạch hóa thương mại là toàn bộ quá trình hoạch định và triển khai thực hiện chiến lược ,quy hoạch,kế hoạch ,chương trình dự án phát triển thương mại của quốc gia bao gồm phạm vi cả nước ,của từng địa phương từng vùng và theo từng ngành hàng ,ngành dịch vụ phù hợp với yêu cầu ,mục tiêu của tiến trình CNH,HDH đất nước và hội nhập quốc tế.
Nhà nước thực hiện chức năng kế hoạch hóa của mình để định hướng,hướng dẫn hoạt động thương mại và đầu tư của chủ thể tham gia thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế .Giúp các doanh nghiệp có sự lựa chọn và quyết định đúng đắn chiến lược,chính sách và kế hoạch sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển.
Các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tiếp cận thông tin từ các văn bản kế hoạch hóa như các chiến lược và dự báo phát triển kinh tế ,thương mại và thị trường.
Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về thương mại cần phải đổi mới nhận thức về kế hoạch hóa ,cải tiến nội dung ,phương pháp và hoàn thiện bộ máy kế hoạch hóa thương mại ,tăng cường các phương tiện kỹ thuật và hệ thống công nghệ thông tin quản lý,nâng cao trình độ nguồn nhân lực công tác chiến lược ,quy hoạch và kế hoạch phát triển thương mại ,nhất là trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày nay.
b.Chức năng tổ chức và phối hợp các hoạt động quản lý thương mại
Nhà nước thiết lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý,sử dụng bộ máy quản lý này để hoạch định các chiến lược ,quy hoạch các ,chính sách,các văn bản pháp quy khác về quản lý thương mại .Đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ máy tổ chức để triển khai thực hiện những công việc thuộc chức năng quản lý của nhà nước ,nhằm đưa chính sách ,pháp luật vài thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp,biến chiến lược ,quy hoạch và kế hoạch phát triển thương mại thành hiện thực.
Hoạt động thương mại rất đa dạng ,diễn ra trên phạm vi cả nước và từng địa phương ,từng vùng ,ở cả thị trường trong và ngoài nước ,liên quan tới nhiều bộ ngành .Do vậy ,nhà nước phải phối hợp giữa các cơ quan quản lý về thương mại ,các cấp trung ương và tỉnh ,giữa các ngành thương mại dịch vụ với các ngành sản xuất trong nền kinh tế ,giữu chính phủ ,quốc hội ,tòa án và cơ quan khác .
c.Chức năng lãnh đạo ,điều khiển các hoạt động thương mại
Nhà nước là người đại diện quyền lợi hợp pháp của mọi chủ thể tham gia thị trường ,đảm bảo thực thi quyền kinh doanh của các doanh nghiệp,bằng luật pháp ,khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền.Một mặt ,nhà nước hướng dẫn ,kích thích doanh nghiệp hoạt động theo định hướng đã vạch ra.Mặt khác ,nhà nước phải điều tiết thị trường ,can thiệp khi cần thiết để ổn định kinh tế vĩ mô ,duy trì sức mạnh nền tài chính quốc gia ,giữ vững sức mua của tiền tệ ,đảm bảo lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng .Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau để điều tiết thị trường và quan hệ thương mại ,xử lý mâu thuẫn của các quan hệ trao đổi đó .Những biện pháp khuyễn khích hay hạn chế trong thương mại quốc tế thường được sử dụng là các chính sách kinh tế như ; thuế ,lãi suất ,giá,tỷ giá,trợ cấp khác và các công cụ phi thuế.Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật để ràng buộc quan hệ trao đổi ,buôn bán của các chủ thể kinh doanh trên thị trường ,không phân biệt đó là nhà kinh doanh trong nước hay nước ngoài .
d.Chức năng kiểm soát các quan hệ trao đổi ,các hoạt đông thương mại.
Nhà nước kiểm soát tất cả các quan hệ trao đổi buôn bán trên thị trường giữa các bên thông qua bộ máy tổ chức bằng việc sử dụng các phương pháp ,công cụ khác nhau .Nhà nước kiểm soát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước để đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực ,tài sản quốc gia cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Phát hiện những lệch lạc nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật và các quy định chính sách của nhà nước như buôn bán hàng cấm ,kinh doanh các dịch vụ không được cấp phép ,gian lận thương mại buôn lậu ,làm hàng giả …Từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh thích hợp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về thương mại.Ngoài ra nhà nước cũng phải kiểm tra đánh giá sức mạnh của hệ thống tổ chức bộ máy quản lý thương mại của nhà nước các cấp cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức trong các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại trong từng giai đoạn để có biện pháp đổi mới và tăng cường cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
3.Vai trò của quản lý nhà nước về thương mại
a.Định hướng ,hướng dẫn hoạt động của các chủ thể trao đổi
Nhà nước định hướng,hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động đầu tư cà kinh doanh trên thị trường nội địa và quốc tế ,nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cho sự phát triển thương mại.Từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,cải thiện đời sống dân cư và nâng cao phúc lợi xã hội.
b.Tạo lập môi trường thương mại và cạnh tranh
Môi trường thương mại và cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào chính sách luật pháp và thủ tục hành chính .Các thông tin về kế hoạch hóa thương mại nếu bị thiên lệnh trong quá trình phổ biến cho các doanh nghiệp ,các quy định chính sách nếu phân biệt đối xử sẽ bóp méo cạnh tranh ,thủ tục hành chính rườm rà ,khuân khổ pháp lý nếu không đầy đủ đồng bộ ,nhất quán ,minh bạch sẽ gây trở ngại cho thương mại trên nhiều mặt ,dẫn đến cả tổn thất về vật chất ,tinh thần, Do vậy,nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập ,cải thiện môi trường kinh doanh ,nhất là trong điều kiện moi trường kinh doanh luôn có sự vận động ,biến đổi không ngừng.
c.Hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết các mâu thuẫn,tranh chấp thương mại
Nhà nước là người tiếp cận ,can thiệp và giải quyết các mâu thuẫn trên thị trường .Nhà nước mới có khả năng và cần thiết phải giải quyết các mâu thuẫn giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trong mua và bán ,trong nhập khẩu và xuất khẩu ,mâu thuẫn giữa kinh doanh đúng đắn ,trung thực và kinh doanh bất hợp pháp ,giữa kinh doanh hàng thật và hàng giả …
Nhà nước dựa vào các chuẩn mực về pháp luật,các định chế cần thiết để thực hiện và cướng chế việc thi hành luật ,giả quyết tranh chấp thương mại thông qua hệ thống luật pháp và hệ thống hành pháp .
d.Điều tiết quan hệ thị trường ,các hoạt động thương mại
Các quan hệ thị trường ,các hoạt động trao đổi tự nó không phải bao giờ cũng cân đối và hiệu quả .Theo quy luật thị trường ,các chủ thể kinh doanh luân quan tâm tới việc bố trí nguồn lực đến nơi có điều kiện sản xuất và thương mại thuận lợi ,bán được giá cao ,tìm kiếm lợi nhận dẫn tới việc phân bổ nguồn lực mất cân đối giữa các vùng miền .Do vậy,nhà nước phải điều tiết các quan hệ trao đổi ,các hoạt động thương mại để hạn chế nhược điểm trên nhằm đảm bảo tính cân đối và để mọi người dân đều được hưởng thành tựu kinh tế xã hội ,để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân .
Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ ,biện pháp khác nhau để điều tiết thị trường và thương mại xử lý đúng đắn mâu thuẫn của các quan hệ trao đổi.Những biện pháp khuyến khích hay hạn chế thương mại thường được sử dụng là thuế quan và các biện pháp phi thuế quan .Để điều tiết thị trường ,trong nhiều trường hợp nhà nước phải sử dụng thực lực kinh tế nhà nước để điều hòa cung cầu ,ổn định giá cả thị trường ,nâng cao sức mua của xã hội .
e.Giám sát ,kiểm tra thực hiện các mục tiêu phát triển thương mại
Quản lý nhà nước về thương mại bao giờ cũng hướng tới mục tiêu cụ thể phù hợp với định hướng mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ .Do vậy ,thông qua thực hiện các chức năng của quản lý ,nhà nước sẽ giám sát ,kiểm tra và phát hiện những biểu hiện sai lệch ,những mâu thuẫn bất hợp lý trong quá trình thực hiện mục tiêu để từ đó đưa ra các giải pháp điều chỉnh sự phát triển cho phù hợp.Các mục tiêu của thương mại mang tính bền vững bao gồm mục tiêu về kinh tế xã hội ,về môi trường văn hóa ,trong đó mục tiêu kinh tế không chỉ là số lượng mà còn thể hiện ở chất lượng của tăng trưởng thương mại .Việc kiểm soát và điều chỉnh thực hiện mục tiêu phát triển thương mại đòi hỏi phải có sự phối hợp giữu các cấp và ngành ,giữa trung ương và địa phương ,giữu trong nước và quốc tế ,nhất là trong lĩnh vực quản lý nhà nước về thương mại dịch vụ ,trong các vấn đề buôn lậu và gian lận thương mại.
Phần hai : Quản lý nhà nước về xăng dầu ở Việt Nam
I.Chức năng và vai trò quản lý nhà nước về xăng dầu
a. Quy hoạch phát triển hệ thống kinh doanh xăng dầu
1. Cơ sở kinh doanh xăng dầu phải được phát triển theo quy hoạch
Bộ Công thương có trách nhiệm lập quy hoạch phát triển cơ sở kinh doanh xăng dầu; phối hợp với các Bộ, cơ quang ngang Bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quá trình lập quy hoạch và kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch đã được phê duyệt.
2. Bộ Giao thông vận tải khi lập dự án xây dựng mới hoặc dự án cải tạo nâng cấp các đường quốc lộ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thương mại và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác định vị trí các cơ sở kinh doanh xăng dầu theo tiêu chuẩn quy định dọc các tuyến đường này vào trong dự án; chỉ đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch của dự án đã được phê duyệt.
3. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm lập quy hoạch phát triển cơ sở kinh doanh xăng dầu trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch đã được phê duyệt.
4. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được phép đầu tư phát triển cơ sở kinh doanh xăng dầu phải tuân thủ các quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng và xây dựng đúng quy hoạch do cấp có thẩm quyền phê duyệt.
b. Tổ chức kinh doanh xăng dầu bao gồm :
Kinh doanh xuất khẩu ,nhập khẩu xăng dầu
Sản xuất xăng dầu
Kinh doanh phân phối xăng dầu
Kinh doanh dịch vụ xăng dầu
Dự trữ và lưu thông xăng dầu
c. Quản lý kinh doanh xăng dầu
Các quy định vể kinh doanh xăng dầu và điều kiện kinh doanh xăng dầu tại thị trường Việt Nam hiện nay được thực hiện theo nghị định Số 84/2009 NĐ CP của thủ tướng chính phủ.
A. Một số khái niệm
1. Xăng dầu là tên chung để chỉ các sản phẩm của quá trình lọc dầu mỏ, dùng làm nhiên liệu, bao gồm: xăng động cơ, dầu diesel, dầu hoả, dầu mazut, nhiên liệu máy bay; các sản phẩm khác dùng làm nhiên liệu động cơ, không bao gồm các loại khí hoá lỏng.
2. Kinh doanh xăng dầu, bao gồm các hoạt động kinh doanh: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất xăng dầu; nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất, chế biến xăng dầu; sản xuất, chế biến xăng dầu; phân phối xăng dầu tại thị trường trong nước; dịch vụ cho thuê cảng, kho, tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu và dịch vụ vận tải xăng dầu.
3. Sản xuất, chế biến xăng dầu là quá trình lọc dầu, chuyển hoá dầu thô và các nguyên liệu khác thành các sản phẩm xăng dầu.
4. Cơ sở kinh doanh xăng dầu là nơi thực hiện việc sản xuất, chế biến, giao nhận, tồn trữ, bán lẻ xăng dầu, bao gồm: cảng chuyên dụng xuất nhập xăng dầu; nhà máy sản xuất, chế biến xăng dầu; kho xăng dầu; phương tiện vận tải xăng dầu; cửa hàng, trạm bán lẻ xăng dầu.
5. Nguyên liệu để sản xuất, chế biến xăng dầu, bao gồm: dầu thô, condensate, xăng có chỉ số octan cao, reformate, naphta và các chế phẩm, phụ gia khác.
6.Thương nhân kinh doanh xăng dầu bao gồm :thương nhân kinh doanh xuất khẩu ,nhập khẩu xăng dầu ,thương nhân sản xuất xăng dầu ,thương nhân làm tổng đại lý ,đại lý bán lẻ xăng dầu ,thương nhân kinh doanh dịch vụ xăng dầu.
7.Thương nhân đâu mối bao gồm :Thương nhân kinh doanh xuất khẩu ,nhập khẩu xăng dầu và thương nhân sản xuất xăng dầu.
B.Quản lý kinh doanh xăng dầu
1. Nhập khẩu xăng dầu
Hàng năm, căn cứ nhu cầu xăng dầu của nền kinh tế quốc dân và nguồn xăng dầu sản xuất trong nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương xác định nhu cầu định hướng về xăng dầu nhập khẩu của năm tiếp theo. Nhu cầu xăng dầu phục vụ cho quốc phòng được xác định riêng.
Trên cơ sở nhu cầu định hướng về xăng dầu nhập khẩu, Bộ Công Thương giao hạn mức nhập khẩu tối thiểu cả năm theo cơ cấu chủng loại cho từng thương nhân có Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu để làm thủ tục nhập khẩu với cơ quan hải quan.
Căn cứ nhu cầu thị trường, thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu quyết định khối lượng xăng dầu nhập khẩu các loại để tiêu thụ tại thị trường trong nước nhưng không thấp hơn mức tối thiểu được giao.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan kiểm tra, giám sát việc nhập khẩu xăng dầu của các thương nhân, bảo đảm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và tiêu dùng của xã hội. Trong trường hợp cần thiết, Bộ Công Thương điều chỉnh mức nhập khẩu tối thiểu đã giao cho các thương nhân.
2.Xuất khẩu, gia công xuất khẩu xăng dầu và nguyên liệu
Chỉ thương nhân có Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu được xuất khẩu (xăng dầu, nguyên liệu sản xuất trong nước và xăng dầu, nguyên liệu có nguồn gốc nhập khẩu), tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu xăng dầu và nguyên liệu. Chỉ có thương nhân sản xuất xăng dầu được xuất khẩu và gia công xuất khẩu xăng dầu.
Tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gia công xuất khẩu xăng dầu và nguyên liệu thực hiện theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Bộ Tài chính hướng dẫn thủ tục hải quan đối với hoạt động xuất khẩu xăng dầu, nguyên liệu có nguồn gốc nhập khẩu.
3.Quy định về thành lập quỹ bình ổn giá
Thương nhân đầu mối có nghĩa vụ trích lập Quỹ Bình ổn giá để tham gia bình ổn giá theo quy định .
Quỹ Bình ổn giá được lập để tại doanh nghiệp, được hạch toán riêng và chỉ sử dụng vào mục đích bình ổn giá.
Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế hình thành, quản lý và sử dụng Quỹ Bình ổn giá.
4.Giá bán xăng dầu
- Nguyên tắc quản lý giá bán xăng dầu
a) Giá bán xăng dầu được thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
b) Thương nhân đầu mối được quyền quyết định giá bán buôn; việc điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu được thực hiện theo nguyên tắc, trình tự và có trách nhiệm tham gia bình ổn giá theo quy định của pháp luật hiện hành và được bù đắp lại những chi phí hợp lý khi tham gia bình ổn giá
c) Thời gian giữa hai (02) lần điều chỉnh giá liên tiếp tối thiểu là mười (10) ngày dương lịch đối với trường hợp tăng giá, tối đa là mười (10) ngày dương lịch đối với trường hợp giảm giá; khi điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu, thương nhân đầu mối đồng thời phải gửi quyết định giá và phương án giá của mình đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
d) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khi nhận được quyết định giá và phương án giá của thương nhân đầu mối, có trách nhiệm giám sát để bảo đảm việc điều chỉnh giá của thương nhân đầu mối thực hiện đúng quy định của pháp luật;
đ) Căn cứ tình hình kinh tế - xã hội, giá xăng dầu thế giới trong từng thời kỳ, Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh các quy định nêu trên
- Điều chỉnh giảm giá bán lẻ xăng dầu
a) Trường hợp các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá cơ sở giảm trong phạm vi mười hai phần trăm (≤ 12%) so với giá bán lẻ hiện hành, thương nhân đầu mối phải giảm giá bán lẻ tương ứng;
b) Trường hợp các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá cơ sở giảm trên mười hai phần trăm (> 12%) so với giá bán lẻ hiện hành, sau khi cơ quan có thẩm quyền áp dụng các giải pháp điều tiết về tài chính theo quy định của pháp luật (Thuế nhập khẩu, Quỹ Bình ổn giá...), thương nhân đầu mối tiếp tục giảm giá bán lẻ của mình; không hạn chế khoảng thời gian giữa hai (02) lần giảm và số lần giảm giá.
- Điều chỉnh tăng giá bán lẻ xăng dầu
a) Trường hợp các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá cơ sở tăng trong phạm vi bảy phần trăm (≤ 07%) so với giá bán lẻ hiện hành, thương nhân đầu mối được quyền tăng giá bán lẻ tương ứng;
b) Trường hợp các yếu tố cấu thành làm cho giá cơ sở tăng vượt bảy phần trăm (> 07%) đến mười hai phần trăm (≤ 12%) so với giá bán lẻ hiện hành, thương nhân đầu mối được quyền tăng giá theo điểm a khoản này cộng (+) thêm sáu mươi phần trăm (60%) của mức giá cơ sở tăng trên bảy phần trăm (> 07%) đến mười hai phần trăm (≤ 12%); bốn mươi phần trăm (40%) còn lại sử dụng Quỹ Bình ổn giá để bù đắp theo hướng dẫn của Bộ Tài chính;
c) Trường hợp các yếu tố cấu thành biến động làm cho giá cơ sở tăng trên mười hai phần trăm (> 12%) so với giá bán lẻ hiện hành hoặc việc tăng giá ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân, Nhà nước công bố áp dụng các biện pháp bình ổn giá thông qua điều hành thuế, quỹ Bình ổn giá và theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Quản lý số lượng và chất lượng xăng dầu
1. Chỉ được phép lưu thông xăng dầu trên thị trường Việt Nam có chất lượng phù hợp với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và Tiêu chuẩn công bố áp dụng.
2. Thương nhân kinh doanh xăng dầu phải thực hiện các quy định hiện hành về quản lý chất lượng xăng dầu trong quá trình nhập khẩu, sản xuất, pha chế, tồn trữ, vận chuyển và bán cho người tiêu dùng; chịu trách nhiệm về chất lượng xăng dầu trong hệ thống phân phối thuộc mình quản lý. Phải bảo đảm độ chính xác của dụng cụ đo lường xăng dầu bán cho các đối tượng sử dụng; bán đủ số lượng, đúng chất lượng.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm chỉ đạo việc kiểm định các thiết bị đo lường theo quy định hiện hành của pháp luật về đo lường và việc bảo đảm chất lượng theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và Tiêu chuẩn công bố áp dụng; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xăng dầu để điều chỉnh, bổ sung các chỉ tiêu chất lượng, phương pháp thử phù hợp với tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và quốc tế; chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp trong nước; tiến hành thừa nhận lẫn nhau về kết quả đánh giá sự phù hợp của tổ chức đánh giá sự phù hợp nước ngoài để bảo đảm đáp ứng yêu cầu kịp thời, nhanh chóng, chính xác và thuận lợi cho công tác kiểm tra.
d.Thanh tra ,kiểm tra xử lý các hoạt động kinh doanh xăng dầu.
Thương nhân kinh doanh xăng dầu phải chịu sự thanh tra ,kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh xăng dầu.
Các Bộ ,cơ quan ngang bộ ,ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo chức năng ,nhiệm vụ của mình có trách nhiệm chỉ đạo ,tổ chức thanh tra ,kiểm tra việc chấp hành các quy định tại nghị định 84 của thủ tướng chính phủ về kinh doanh xăng dầu và các văn bản khác ;ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm ,bảo đảm bình ổn thị trường xăng dầu ,đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và được thực hiện cụ thể như sau:
1. Bộ Công Thương
- Kiểm tra, giám sát thương nhân đầu mối tuân thủ các điều kiện và quy định tại về kinh doanh xăng dầu bao gồm:
- Kinh doanh xuất khẩu,nhập khẩu xăng dầu
- Sản xuất xăng dầu
- Kinh doanh phân phối xăng dầu
- Kinh doanh dịhj vụ xăng dầu
- Dự trữ và lưu thông xăng dầu
2. Bộ Tài chính
Kiểm tra, giám sát thương nhân đầu mối thực hiện các quy định về việt thực thi quỹ bình ổn giá và giá bán xăng dầu.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ
Kiểm tra, giám sát thương nhân kinh doanh xăng dầu thực hiện các quy định có liên quan về :
- Thực hiện quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh nhập khẩu ,xuất khẩu xăng dầu.
- Điều kiện sản xuất xăng dầu,quyền và nghĩa vụ của thương nhân sản xuất xăng dầu.
- Quyền và nghĩa vụ của tổng đại lý ,đại lý và các cửa hàng bán lẻ xăng dầu.
- Quản lý số lượng và chất lượng xăng dầu
b) Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn về cửa hàng bán lẻ xăng dầu và quy định thực hiện thống nhất trong cả nước.
4. Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan liên quan quy định tiêu chuẩn, điều kiện điểm đấu nối của hệ thống giao thông với hệ thống cơ sở kinh doanh xăng dầu.
5. Các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo thẩm quyền đối với các quy định có liên quan tại Nghị định này.
II.Thực trạng quản lý nhà nước về
xăng dầu tại Việt Nam
1.Tổng quát về hoạt động kinh doanh xăng dầu
Xăng dầu là một trong những loại vật tư chiến lược hàng đầu của sản xuất, quốc phòng. Đó là loại vật tư nguyên liệu không thể thiếu trong cuộc sống. xăng dầu dùng làm nhiên liệu cho các phương tiện cho các phương tiện giao thông, máy móc sản xuất trong moi linh vực như công nghiệp, nông nghiệp. Ngay cả trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng đóng vai trò thiết yếu. Vì vậy những biến động về giá cả hay trong quản lý xăng dầu cũng sẽ gây ra những biến động với cuộc sống của người dân, vì đây là vấn đề hết sức nhạy cảm có tác động trực tiếp.
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hoạt động kinh doanh xăng dầu cũng đã trải qua các giai đoạn tương ứng, từ phương thức cung cấp theo định lượng, áp dụng một mức giá thống nhất do Nhà nước quy định đến mua bán theo nhu cầu, thông qua hợp đồng kinh tế.
Để tiệm cận với những thay đổi đó, đặc biệt là giai đoạn bắt đầu tiếp cận thị trường, Nhà nước đã nhiều lần điều chỉnh cơ chế quản lý vĩ mô về kinh doanh xăng dầu với những chính sách phù hợp với đặc thù của mỗi giai đoạn.
Khái quát thị trường xăng dầu trong 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam đặt viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng của thị trường xăng dầu năm 1989, quá trình chuyển đổi có thể phân chia thành 4giai đoạn: trước năm 2000, từ năm 2000 đến cuối năm 2008 , từ cuối năm 2008 đến tháng 12 năm 2009 và từ cuối năm 2009 đến nay.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá và nhìn nhận trên mọi góc cạnh của thị trường, chúng ta cần khẳng định những bước tiến của quá trình đổi mới cơ chế kinh doanh xăng dầu, đối diện với những mặt hạn chế và đặt ra các vấn đề cần tiếp tục đổi mới để phát triển thị trường xăng dầu trong giai đoạn tiếp theo, thích ứng với những biến động ngày càng phức tạp của nguồn năng lượng dầu mỏ.
2.Thực trạng quản lý xăng dầu qua các giai đoạn
a.Giai đoạn trước năm 2000
Giai đoạn này kéo dài trên 10 năm, với sự gia tăng của các đầu mối nhập khẩu từ một đầu mối duy nhất, tăng dần lên 5 và đến năm 1999, đã có 10 đầu mối tham gia nhập khẩu xăng dầu cho nhu cầu nội địa.
Trong những năm từ 1989 đến 1992, khi không còn nguồn xăng dầu cung cấp theo Hiệp định với Liên xô (cũ), Nhà nước chuyển từ quy định "giá cứng" sang áp dụng giá chuẩn để phù hợp với việc hình thành nguồn xăng dầu nhập khẩu từ lượng ngoại tệ do doanh nghiệp đầu mối tự cân đối, mua của các doanh nghiệp xuất khẩu qua ngân hàng hoặc hình thức uỷ thác bao tiêu xăng dầu cho doanh nghiệp có ngoại tệ thu được từ xuất khẩu. Vào giai đoạn này, nguồn ngoại tệ từ dầu thô do Nhà nước bảo đảm chỉ chiếm dưới 40% tổng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu. Doanh nghiệp đầu mối được quyền quyết định giá bán +/- 10% so với giá chuẩn để bảo đảm hoạt động kinh doanh.
Từ năm 1993, để thống nhất quản lý giá bán, Nhà nước ban hành quy định giá tối đa; doanh nghiệp tự quyết định giá bán buôn và bán lẻ trong phạm vi giá tối đa. Nhà nước xác định mức độ chịu đựng của nền kinh tế để xác định giá tối đa; việc điều chỉnh giá tối đa ở giai đoạn này chỉ diễn ra khi tất cả các công cụ điều tiết đã sử dụng hết.
Công cụ thuế nhập khẩu được sử dụng như một van điều tiết để giữ mặt bằng giá tối đa, không tạo ra siêu lợi nhuận và doanh nghiệp cũng không phát sinh lỗ sau một chu kỳ kinh doanh.
Phụ thu là một công cụ bổ sung cho thuế nhập khẩu khi mức thuế nhập khẩu đã được điều chỉnh tăng hết khung, được đưa vào Quỹ Bình ổn giá do Nhà nước quản lý.
Lệ phí giao thông thu từ năm 1994 cũng được hình thành từ nguyên tắc tận thu cho ngân sách Nhà nước khi điều kiện cho phép, là khoản thu cố định và sau này đổi tên là phí xăng dầu.
Đặc điểm lớn nhất của giai đoạn này là: nhờ quy định của Nhà nước về giá chuẩn, doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh giá bán xăng dầu nhập khẩu thuộc nguồn ngoại tệ tự huy động từ các doanh nghiệp xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi cho họ thông qua tỷ giá phù hợp nên đã huy động được số ngoại tệ nhập khẩu gần 60% nhu cầu xăng dầu cho nền kinh tế sau khi không còn nguồn xăng dầu theo Hiệp định.
Chính phủ chủ trương không áp dụng cơ chế bù giá cho các đối tượng sử dụng xăng dầu thông qua doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là điều kiện quyết định để Việt Nam có thể tự cân đối được ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu ngay cả khi nguồn ngoại tệ tập trung của Nhà nước từ dầu thô mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ hơn 50% so với tổng nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu lúc đó.
Giai đoạn này cũng là thời kỳ giá xăng dầu thế giới ở mức đáy (dầu thô chỉ ở mức trên 10 usd/thùng), tương đối ổn định nên với cơ chế giá tối đa, Nhà nước đã đạt được mục tiêu đề ra, cụ thể là :
1. Cân đối cung - cầu được đảm bảo vững chắc;
2. Các hộ sản xuất và người tiêu dùng lẻ được hưởng mức giá tương đối ổn định; biến động giá tuy chỉ theo xu hướng tăng song mức tăng đều, không gây khó khăn nhiều cho sản xuất và tiêu dùng khi chủ động hoạch định được ngân sách cho tiêu thụ xăng dầu hàng năm;
3. Ngân sách Nhà nước tăng thu thông qua việc tận thu thuế nhập khẩu, phụ thu, phí xăng dầu
4. Doanh nghiệp có tích luỹ để đầu tư phát triển, định hình hệ thống cơ sở vật chất, từ cầu cảng, kho đầu mối, kho trung chuyển, phương tiện vận tải đến mạng lưới bán lẻ.
Mặc dù vậy, cơ chế quản lý - điều hành trong giai đoạn này cũng đã bộc lộ khá rõ những nhược điểm mà nổi bật là tương quan giá bán giữa các mặt hàng không hợp lý dẫn đến tiêu dùng lãng phí, nhà đầu tư không có đủ thông tin để tính toán đúng hiệu quả đầu tư nên chỉ cần thay đổi cơ chế điều hành giá sẽ làm ảnh hưởng rất lớn sử dụng nhiên liệu, nhiều nhà sản xuất thậm chí đã phải thay đổi công nghệ do thay đổi nhiên liệu đốt (thay thế madut, dầu hoả bằng than, trấu, gas); gian lận thương mại xuất hiện do định giá thấp đối với mặt hàng chính sách (dầu hoả); Nhà nước giữ giá ổn định trong một thời gian quá dài thoát ly giá thế giới tạo sức ỳ và tâm lý phản ứng của người sử dụng về thay đổi giá mà không cần xét đến nguyên nhân và sự cần thiết phải điều chỉnh tăng giá.
Ở cuối của giai đoạn này giá thế giới- nguồn-thị trường đã có dấu hiệu biến động mạnh, ở mức cao hơn; các cân đối cung cầu và ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát…đều có nguy cơ bị phá vỡ khi tình trạng đó kéo dài; trong khi chưa tìm được cơ chế điều hành thích hợp, vì mục tiêu ổn định để phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước đã sử dụng biện pháp bình ổn giá, khởi đầu cho giai đoạn bù giá cho người tiêu dùng qua doanh nghiệp nhập khẩu trong gần 10 năm tiếp theo.
b. Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố chấm dứt bù giá, vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng 9/2008)
Về cơ bản, nội dung và phương thức quản lý điều hành hoạt động kinh doanh xăng dầu vẫn chưa có sự thay đổi so với giai đoạn trước đó.
Trong khi đó, từ đầu những năm 2000, biến động giá xăng dầu thế giới đã có những thay đổi căn bản; mặt bằng giá mới hình thành và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới trong các năm tiếp theo. Do tiếp tục chính sách bù giá cho người tiêu dùng thông qua doanh nghiệp nhập khẩu khi cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp nên số tiền ngân sách bù giá ngày càng gia tăng, từ 1000 tỷ (năm 2000) lên đến 22 nghìn tỷ đồng năm 2008; loại trừ yếu tố trượt giá thì đây cũng là một tốc tộ tăng quá cao; chưa có đánh giá nào đề cập đến khía cạnh này song xét đơn thuần trên số liệu, nếu đầu tư hàng ngàn tỷ đồng này cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh doanh xăng dầu, đã có thể tạo lập một hệ thống kinh doanh xăng dầu đủ lớn và hiện đại, có khả năng cạnh tranh khi mở cửa thị trường xăng dầu trong tương lai gần.
Cũng trong giai đoạn này, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 2; giá xăng dầu đã dịu lại song cũng đã hình thành một mặt bằng mới; trước nguy cơ không thể cân đối ngân sách cho bù giá xăng dầu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu.
Cho đến thời điểm này, sự đổi mới cơ chế quản lý, chủ yếu là quản lý giá theo Quyết định 187 vẫn được coi là mạnh mẽ nhất với các tư tưởng cơ bản bao gồm:
- Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh tăng giá bán trong phạm vi + 10% (đối với xăng) và + 5% (đối với các mặt hàng dầu).
- Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp được phép cộng tới vào giá bán một phần chi phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá 2% so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu.
- Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà nước không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng - Nhà nước và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vì những lý do khách quan, sự đột phá cơ chế điều hành giá trong QĐ 187 chưa được triển khai trên thực tế; cho đến hiện nay, Nhà nước tiếp tục điều hành và can thiệp trực tiếp vào giá bán xăng dầu, kể cả chiều tăng và giảm.
Trong giai đoạn này, mặc dù chưa vận hành điều khoản về giá xong sự ra đời của QĐ 187 năm 2003 và NĐ 55 năm 2007 đã tạo ra một hệ thống phân phối rộng khắp với gần 10.000 cửa hàng xăng dầu trên cả nước, góp phần ổn định, lành mạnh hóa thị trường trước đây khá lộn xộn khi thiết lập quan hệ giữa người nhập khẩu và các đại lý, tổng đại lý khi gắn trách nhiệm, quyền lợi của doanh nghiệp đầu mối với các đại lý, tổng đại lý cũng như giúp cơ quan quản lý chức năng, người tiêu dùng cùng tham gia vào quá trình giám sát hoạt động của các đại lý, tổng đại lý trong việc chấp hành quy định kinh doanh xăng dầu.
Đánh giá chung cho giai đoạn này, có thể thấy quyết tâm rất cao để đổi mới cơ chế quản lý kinh doanh xăng dầu thể hiện qua 2 văn bản pháp quy là QĐ 187 và NĐ 55 song cho đến hiện nay, văn bản đã không đi vào thực tế kinh doanh (trừ hệ thống phân phối được thiết lập nhưng việc kiểm soát tính tuân thủ hầu như chưa thực hiện được). Yếu tố ổn định giá vẫn được đặt lên hàng đầu và chính nó đã làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước lúng lúng khi phải điều hành đạt các mục tiêu dường như mâu thuẫn nhau ở cùng một thời điểm.
Việc áp dụng một biện pháp duy nhất (biện pháp bù giá), làm cho giá nội địa thoát ly giá thế giới trong một chu kỳ quá dài với bối cảnh giá xăng dầu thế giới đã nhiều lần hình thành mặt bằng giá mới cao hơn; ngoài yếu tố cung cầu thì yếu tố địa chính trị cũng ảnh hưởng lớn đến biến động giá; biên độ dao động giá quá mạnh sau mỗi ngày… đã làm cân đối ngân sách bị phá vỡ, doanh nghiệp bị kiệt quệ nguồn lực cho phát triển; việc kìm giá và điều chỉnh sốc tác động tiêu cực đến nền kinh tế, chưa kể hiện tượng đầu cơ chờ tăng giá làm méo mó nhu cầu, chuyển khá nhiều nguồn lực cho đại lý; phần lớn người tiêu dùng không được thông tin đầy đủ về cơ chế điều hành và lợi ích mà Nhà nước đem lại cho nhân dân nên thường xuyên có phản ứng tiêu cực sau mỗi lần điều chỉnh giá (kể cả tăng và giảm), từ đó chưa tạo được sự đồng thuận trong xã hội; thẩm lậu xăng dầu qua biên giới ngày càng phức tạp, khó kiểm soát; Nhà nước thất thu ngân sách kể cả lúc giá thấp hơn và cao hơn nước lân cận do thẩm lậu xăng dầu qua biên giới.
Hệ quả rất xấu của cơ chế bù giá xăng dầu kéo dài (mà người tiêu dùng vẫn hiểu là bù lỗ cho doanh nghiệp đầu mối) là việc khó chấp nhận điều chỉnh tăng giá, kể cả mức rất thấp và phản ứng mạnh trước thông tin doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu không có hiệu quả mà luôn được Nhà nước bù lỗ.
Cũng cần khẳng định rằng, chỉ khi Nhà nước bảo đảm đủ cân đối ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu thì mới có thể áp dụng biện pháp bù giá. Đây chính là điểm khác biệt so với giai đoạn trước, khi mà nguồn ngoại tệ từ dầu thô và các nguồn dự trữ tập trung khác của Nhà nước đã đủ lớn.
c. Giai đoạn từ cuối năm 2008 đến nay
Năm 2009, thị trường tiếp tục diễn biến phức tạp
Năm 2009, thị trường xăng dầu thế giới tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp và khó dự báo. Thế giới tiếp tục phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức từ hậu quả nặng nề của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
Trong giai đoạn 2008-2009, nhu cầu xăng dầu của thế giới đã giảm hơn 2 triệu thùng/ngày, từ mức 86 giảm xuống 84 triệu/ngày, mặc dù trong những tháng cuối năm 2009, nhu cầu đã bắt đầu tăng trưởng trở lại. Hầu hết, lượng giảm tập trung tại các nước phát triển OECD (trong đó 1/3 là từ Mỹ, 1/3 từ Châu Âu); những nước đang phát triển ngoài khối OECD như Trung Quốc, Ấn Độ chỉ chứng kiến sự chững lại tạm thời và sau đó tiếp tục tăng trưởng. Trong năm 2009, Mỹ chiếm 23%, Châu Âu chiếm 18% nhu cầu tiêu thụ xăng dầu toàn thế giới.
Giá dầu thế giới nằm trong dự báo, đã lập lại mặt bằng mới với mức giá dầu thô WTI bình quân cả năm là 61,8 USD/thùng (năm 2008 là xấp xỉ 100 USD/thùng); giá các sản phẩm xăng dầu biến động khá phức tạp với biên độ dao động rộng hầu như lặp lại của năm 2008, khi so sánh giá bình quân tháng 12 với tháng 1 của ba sản phẩm chính (xăng 92 - điêzen 0,05S - madút): năm 2009 tăng tương ứng 61% - 36% - 83%; năm 2008 giảm 61% - 43% - 52%.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trong nước cũng không nằm ngoài vùng xoáy của khủng hoảng khi phải đối diện với sản lượng tiêu thụ sụt giảm, giá sản phẩm biến động khá phức tạp với biên độ dao động không thua kém năm 2008; Tình hình đảm bảo ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu cũng gặp nhiều khó khăn, với chênh lệch khá cao giữa tỷ giá thị trường liên ngân hàng và tỷ giá giao dịch thực tế đã ảnh hưởng đến khả năng huy động ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, không đủ nguồn cung, buộc phải giãn mua bằng các hợp đồng vay có thể chịu nhiều rủi ro do biến động tỷ giá.
Cơ chế kinh doanh xăng dầu đã chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một bước chuyển quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, các thông tin ra xã hội không đầy đủ về vấn đề vốn rất nhạy cảm này nên cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp còn phải chịu sức ép rất lớn từ dư luận.
Có thể nói, giai đoạn này tuy rất ngắn nhưng đã bộc lộ nhiều nhất những bất cập của cơ chế điều hành giá và thuế xăng dầu. Việc tiếp tục can thiệp giá và áp dụng một cơ chế điều hành trong điều kiện giá xăng dầu thế giới biến động rất nhanh chóng theo hai xu hướng ngược nhau đã dẫn đến một nghịch lý là: trong thời kỳ giá thế giới đã giảm sâu, Nhà nước vẫn phải bỏ một số tiền bù giá tương đương, thậm chí cao hơn so với giai đoạn giá thế giới tăng đỉnh điểm; phân khúc số tiền bù giá cho từng giai đoạn trong năm 2008 có thể thấy rõ nhận định này (khoảng 12 ngàn tỷ /11 ngàn tỷ).
d. Giai đoạn từ cuối tháng 11 năm 2009 đến nay
Năm 2010, được xem là một cơ hội đối với ngành Xăng dầu vì đây là năm đầu tiên Nghị định 84 thực sự được “đi vào cuộc sống”. Bên cạnh đó cũng có không ít khó khăn, áp lực đối với các doanh nghiệp đầu mối. Vì khi áp dụng cơ chế này đòi hỏi sự chủ động cũng như phải rất linh hoạt trong việc ứng phó với thị trường xăng dầu vốn luôn biến động đầy phức tạp.
Với quyết tâm của Chính phủ và các Bộ ngành về tiếp tục kiên trì vận hành kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đã tạo ra một hành lang để các doanh nghiệp đầu mối sau nhiều năm với cơ chế bù lỗ, có điều kiện thực hiện bước chuyển quan trọng nhất trong hoạt động của mình, đó là tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh xăng dầu.
Tuy nhiên, từ khi công bố chấm dứt bù giá đến nay, doanh nghiệp vẫn không có thực quyền về xác định giá bán như các văn bản quy định; Nhà nước không có biện pháp kiểm soát các doanh nghiệp kết cấu giá bán xăng để hình thành nguồn trả nợ ngân sách, tạo ra sự mấp mô về giá bán, doanh nghiệp không bình đẳng trong cạnh tranh; các văn bản mới tiếp tục ra đời song cũng không đi vào thực tế (barem thuế nhập khẩu, quỹ bình ổn giá); cơ chế đăng ký giá kéo dài mang nặng tính xin cho (phê duyệt), các cơ quan truyền thông khai thác và đưa ra thông tin về tăng giảm giá rất sớm, không những không có tính định hướng dư luận mà tạo ra áp lực nặng nề cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý, nguồn lực từ doanh nghiệp đầu mối chuyển qua đại lý rất khó kiểm soát sự minh bạch và đúng đắn của các nhu cầu ở trước thời điểm tăng giá. Trầm trọng hơn là xã hội không thừa nhận hoạt động kinh doanh xăng dầu là phải có lãi (dù rất thấp) như tất cả các hoạt động kinh doanh khác, trong khi dễ dàng chấp nhận thông tin về hoạt động ngân hàng có thể lãi hàng ngàn tỷ đồng trong 6 tháng 2009.
Trên cả nước trong những năm qua tình hình kinh doanh xăng dầu phát triển nhanh cả về số lượng Thương nhân kinh doanh và tổng mức lưu chuyển háng hoá trên thị trường gia tăng góp phần tích cực phục vụ cho các ngành sản xuất, nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Tuy vậy, trong kinh doanh xăng dầu hiện nay còn biểu hiện một số hạn chế
Kinh doanh bán lẻ xăng dầu còn nhiều bất cập
Các cơ sở kinh doanh phát triển nhanh nhưng mang tính tự phát, chưa có quy hoạch, phân bố không đều, phần lớn tập trung ở thành thị, trên quốc lộ 1A và ven biển; nhiều cơ sở kinh doanh không đảm bảo điều kiện, không có Giấy Chứng nhận đầy đủ điều kiện kinh doanh nhưng vẫn kinh doanh, nhiều cột bơm không được Kiểm định. Một số cơ sở kinh doanh không nộp hoặc nộp không đủ thuế, không Niêm yết giá, thậm chí có hiện tượng phá cặp chì điều chỉnh phương tiện đo, pha dầu vào xăng, gian lận trong hoá đơn Chứng từ để thu lợi bất chính.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do một số cơ sở kinh doanh xăng dầu ít hiểu biết, coi thường các Quy định của Nhà nước, làm cho thị trường kinh doanh xăng dầu lộn xộn. Mặt khác các cấp chính quyền ở huyện, xã, các ngành chức năng thiếu sự quản lý chặt chẽ các điều kiện kinh doanh, thiếu phối hợp với nhau trong kiểm tra, Kiểm soát; những vi phạm của các cơ sở kinh doanh chưa được xử lý nghiêm.
Gian lận trong kinh doanh xăng dầu: Vẫn chưa giảm
Tình trạng gian lận thương mại trong kinh doanh xăng dầu tuy đã được các cơ quan chức năng tích cực kiểm tra, ngăn chặn và xử lý nhưng thời gian gần đây tiếp tục tái diễn. Một số tổ chức, cá nhân, nhất là các cửa hàng, trạm bán lẻ xăng dầu đã sử dụng nhiều hình thức gian lận tinh vi hơn để gian lận về đo lường, chất lượng trong kinh doanh xăng dầu gây thiệt hại đến lợi ích người tiêu dùng, tạo tâm lý thiếu tin tưởng cho người dân, gây bức xúc cho công luận.
Để ngăn chặn và giải quyểt các vấn đề trên nhà nước cần tích cực hơn nữa trong việc thực hiện kiểm tra,thanh tra và giám sát hoạt động kinh doanh xăng dầu về đăng ký kinh doanh, niêm yết giá và bán đúng giá niêm yết, giấy phép kinh doanh, điều kiện kinh doanh, các thiết bị đo lường, chất lượng xăng dầu…
Xử phạt kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh xăng dầu, kể cả việc áp dụng các biện pháp mạnh như đình chỉ hoạt động, rút giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh hoặc chuyển cơ quan có thẩm quyền truy tố trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Tất cả các thủ đoạn và biện pháp gian lận trong đo lường và kinh doanh xăng dầu; các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm trong kinh doanh xăng dầu cần được công bố công khai, tuyên truyền rộng rãi để cảnh báo cho nhân dân biết, cùng phối hợp với các cơ quan chức năng giám sát, ngăn chặn, xử lý.
Điều tiết kinh doanh xăng dầu chưa hợp lý
Việc các doanh nghiệp (DN) đầu mối kinh doanh xăng dầu đã không tiêu thụ hết lượng xăng dầu trong nước, trong khi vẫn phải bỏ ngoại tệ NK xăng dầu đã làm tăng tỉ lệ nhập siêu, không phát huy được năng lực đầu tư trong nước. Đây là bài học về quản lý, điều hành thị trường xăng dầu.
Nhà máy lọc dầu Dung Quất lọc dầu thành công nhưng lại bị... tồn kho. Ảnh: Duy Quân
Việc tiêu thụ xăng dầu của NMLD Dung Quất đã gặp trắc trở kể từ khi nhà máy này chính thức đi vào hoạt động (31.5.2010). Đầu tiên là việc sản phẩm xăng máy bay ZA1 của NM thay vì được các đối tác trong nước đón nhận nồng nhiệt, thì mẻ sản phẩm đầu tiên - 5.800 tấn xăng ZA1 lại được xuất bán cho Cty BP Singapore Pte. Ltd (thuộc Tập đoàn BP- Anh), sau đó là tập đoàn Shell. Trong bối cảnh VN vẫn phải NK 100% xăng máy bay, thì đối tác NK nhiên liệu bay trong nước lấy lý do, sản phẩm xăng ZA1 sản xuất trong nước chưa được sự phê chuẩn của nhà chức trách hàng không để được cung cấp lên máy bay.
Lần này, mấu chốt của việc tồn kho xăng dầu Dung Quất cũng là bởi trước đó, trong quá trình chạy thử từ đầu năm đến khi nghiệm thu chính thức, nhà máy này đã không sản xuất ổn định. Một trong những nguyên nhân là do trong quá trình chạy thử, nhà thầu Technip phải chịu phí tổn về nhiên liệu đầu vào, nên nhà thầu cũng vận hành nhà máy với đúng nghĩa “chạy thử”.
Chính vì không đạt đến công suất thiết kế ngay trong giai đoạn này và không ra sản phẩm ổn định, nên các đầu mối NK xăng dầu không thể trông cậy vào một nguồn phập phù như vậy. Tại cuộc họp giao ban sản xuất đầu tháng 10 tại Bộ Công Thương, bà Đàm Thị Huyền, Phó TGĐ Petrolimex khẳng định: “Với việc đảm bảo tới 50% nhu cầu thị trường, nên trong mọi tình huống, việc đảm bảo nguồn cung là quan trọng nhất. Ngay từ đầu năm, Petrolimex đã phải ký hợp đồng NK dài hạn với đối tác nước ngoài và không dễ gì đơn phương giảm lượng NK. Nếu giảm, chúng tôi phải chịu phạt hợp đồng rất lớn”.
Thêm vào đó, dự báo xăng dầu từ đầu năm cũng không chuẩn. Năm nay, các DN dự báo tổng nguồn cung xăng dầu trong nước tăng 10% so với năm trước, nhưng trên thực tế, việc này đã không xảy ra. Cầu không lớn, mà cung tăng đột biến (NMLD Dung Quất từ 31.5.2010) khiến sản phẩm của nhà máy bị tồn kho là điều dễ hiểu.
PHẦN THỨ IIIĐINH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XĂNG DẦU TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Một là : Chuyển kinh doanh xăng dầu sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước hướng tới 3 mục tiêu:
1. Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và phát triển kinh tế đất nước; bình ổn thị trường xăng dầu trong mọi tình huống
2.Giá bán xăng dầu thực sự được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
3. Hài hoà ba lợi ích Nhà nước ổn định nguồn thu - Người tiêu dùng được mua với mức giá hợp lý - Doanh nghiệp kinh doanh có tích luỹ cho đầu tư phát triển;
Hai là : Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư, tham gia thị trường từ khâu thượng đến hạ nguồn theo đúng quy hoạch nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, không ngừng nâng cao chất lượng, dịch vụ, văn minh thương mại.
Ba là : Bằng cơ chế chính sách tạo ra áp lực, từng bước trở thành ý thức, thói quen của người tiêu dùng nhỏ lẻ, hộ sản xuất trong việc sử dụng tiết kiệm nguồn năng lượng hóa thạch ngày càng cạn kiệt.
Các vấn đề cần tập trung giải quyết
Trước hết, cần tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường, tạo hành lang pháp lý để khuyến khích thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư hệ thống phân phối theo đúng quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Về số lượng doanh nghiệp đầu mối, cần xem xét, đánh giá lại để xác định số doanh nghiệp đầu mối hợp phù hợp, có đủ tiềm lực, làm nòng cốt và là lực lượng để Nhà nước bình ổn định thị trường trong mọi tình huống.
Khâu phân phối bán lẻ, cần khuyến khích thương nhân tham gia phát triển hệ thống cửa hàng theo đúng quy hoạch, phát triển đồng đều trên các vùng miền nhất là vùng sâu xa để đem lại cho người tiêu dùng có nhiều lựa chọn dịch vụ có chất lượng tốt nhất, giá cả cạnh tranh.
Cơ chế điều hành nguồn
Việt Nam đã có nguồn xăng dầu sản xuất trong nước và đáp ứng trên 30% nhu cầu xã hội; nguồn xăng dầu này trước hết phải được tiêu dùng tại thị trường trong nước thông qua cơ chế đấu giá cạnh tranh để các doanh nghiệp đầu mối tiêu thụ như xăng dầu nhập khẩu. Với cơ chế này vừa tạo được nguồn thu tối đa cho ngân sách Nhà nước vừa bám sát giá thị trường thế giới, không qua nhiều tầng nấc trung gian đẩy giá bán lên cao.
Trong một vài năm tới, nước ta vẫn phải nhập khẩu trên 60% nhu cầu xăng dầu cả nước, việc phân giao hạn ngạch nhập khẩu cho các đầu mối sau khi được sắp xếp lại không nên chia đều bình quân các sản phẩm sẽ là lãng phí xã hội nếu như doanh nghiệp nhập khẩu với một khối lượng quá nhỏ được chia đều cho cả năm kế hoạch.
Ba là, Cơ chế điều hành giá bán xăng dầu
Từ những bài học kinh nghiện rút ra, xuất phát từ yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và xuất phát từ tính chất nhạy cảm của mặt hàng, việc định giá bán tại thị trường trong nước cần có sự thay đổi căn bản. Cơ chế quản lý giá bán xăng dầu cần hướng tới các mục tiêu sau:
(1)/ Sự bình ổn giá, ngăn ngừa tác động tự phát của giá xăng dầu trên thị trường thế giới vào hệ thống giá xăng dầu trong nước, đẩy giá bán trong nước lên quá cao hoặc giảm quá thấp không hợp lý; khuyến khích cạnh tranh về giá;
(2)/ Nguyên tắc điều hành giá theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, có lên, có xuống theo tín hiệu của thị trường thế giới; mức giá bán lẻ xăng của Việt Nam tương đương với mặt bằng giá của các nước có chung đường biên giới để ngăn ngừa và hạn chế tình trạng buôn lậu xăng dầu qua biên giới. Nhà nước chỉ can thiệp bằng các biện pháp hành chính trong trường hợp “khẩn cấp/ đặc biệt” và được công bố công khai để người tiêu dùng cùng chia sẻ và ủng hộ.
(3)/ Thực hiện nguyên tắc chia sẻ lợi ích và trách nhiệm giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng; doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu phải có trách nhiệm nộp đủ các khoản thu của ngân sách Nhà nước theo luật định (theo mức thuế mà Nhà nước công bố).
Bốn là, Cơ chế điều hành thuế khâu nhập khẩu
Trong thời gian qua, nguồn cung cấp xăng dầu cho tiêu thụ trong nước được đáp ứng từ nguồn nhập khẩu, vì vậy để thu tập trung và để tránh gian lận thương mại, nên các khoản thu của ngân sách hiện nay chủ yếu thu ở khâu nhập khẩu qua thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt (mặt hàng xăng); các khoản thu còn lại gồm thuế VAT, phí xăng, dầu, thuế thu nhập doanh nghiệp được thu ở khâu bán ra.
Với cách điều hành thuế nhập khẩu hiện nay đáp ứng được yêu cầu nguồn thu ngân sách được tập trung, tận thu khi giá xăng dầu trên thị trường thế giới xuống thấp. Tuy nhiên, khi xăng dầu tiêu thụ trong nước được đáp ứng từ 2 nguồn nhập khẩu và sản xuất trong nước, nếu để thuế nhập khẩu cao (tối đa 40%) sẽ không khuyến khích nhà máy lọc dầu hạ thấp chi phí vì được bảo hộ thông qua thuế nhập khẩu cao, dễ dẫn đến nguy cơ thiếu nguồn cung do nhập khẩu không cạnh tranh được.
Cần thiết phải cải cách thuế nhập khẩu một cách căn bản, theo cam kết giảm thuế, thay thế bằng khoản thu mới, bù đắp phần hụt thu do giảm thu thuế nhập khẩu; lượng xăng dầu được sản xuất trong nước cần được thu tương đương với nguồn nhập khẩu để bình đẳng giữa kinh doanh xăng dầu nhập khẩu với kinh doanh xăng dầu sản xuất trong nước. Giải pháp thực hiện là chuyển phần lớn thuế nhập khẩu và toàn bộ thuế tiêu thụ đặc biệt sang thu ở khâu bán ra, cụ thể:
(1) Thuế nhập khẩu: nên giữ ở tỷ lệ đủ để khuyến khích sản xuất đề nghị khung thuế nhập khẩu mới là 0% - 5% thay cho khung hiện nay 0% - 40%, phần còn lại (sau khi trừ 5%) thu ở khâu nhập khẩu, sẽ chuyển sang thu theo số tuyệt đối ở khâu bán ra và có thể gọi là “Thuế sử dụng xăng dầu”;
(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt: đang áp dụng đối với mặt hàng xăng là 10% tính trên giá CIF có thuế nhập khẩu và cũng được thu ở khâu nhập khẩu. Thời gian tới đề nghị chuyển sang thu khâu bán ra, cũng thu theo số tuyệt đối;
(3) Phí xăng dầu không phân biệt từ nguồn sản xuất trong nước hay từ nguồn nhập khẩu, thu 100% ở khâu bán ra như hiện nay; đối tượng kê khai và nộp phí xăng dầu là các doanh nghiệp đầu mối vừa bảo đảm tập trung, dễ kiểm soát, tránh gian lận.
Năm là, Cơ chế Phòng ngừa rủi ro giá dầu
Nhà nước tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu cũng như các hộ sản xuất sử dụng nhiều xăng dầu (than, điện, xi măng, sắt thép...) có điều kiện áp dụng cơ chế “PHÒNG NGỪA RỦI RO GIÁ DẦU” thông qua phương thức mua bán xăng dầu phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm ổn định đầu vào của sản xuất, bình ổn thị trường trong nước trước biến động khó lường của giá dầu thế giới.
Sáu là, Nhóm giải pháp khác
Tổ chức và quy hoạch hệ thống kinh doanh xăng dầu, tăng cường kiểm soát về tình hình thực hiện an toàn cháy nổ, tính trung thực của hệ thống này.
Thực hiện các chương trình đảm bảo về mặt an ninh quốc phòng và bình ổn xã hội liên quan đến xăng dầu như quỹ dự trữ xăng dầu.
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, kiểm soát chặt theo thẩm quyền để tránh lãng phí xã hội,giảm chi phí lưu thông, tăng hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh.
Tăng cường công tác thanh kiểm tra của các cơ quan quản lý chức năng có liên quan và ban hành các chế tài xử lý các vi phạm qui định nhằm sắp xếp, ổn định hệ thống phân phối, lành mạnh hoá thị trường theo quy định của pháp luật hiện hành về kinh doanh xăng dầu.
Khuyến khích các doanh nghiệp có đủ điều kiện kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế định hình kinh doanh lâu dài, văn minh thương mại, hiện đại hoá cơ sở vật chất, giảm thiểu các yếu tố làm bất ổn thị trường và nguy cơ cháy nổ, ô nhiễm môi trường... chủ động nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và xã hội.
KẾT LUẬN
Trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và trước những biến động khó tiên liệu của thị trường xăng dầu thế giới; việc đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực nói chung và đối với xăng dầu nói riêng như là một nhu cầu tất yếu, một giải pháp có tính đột phá để thích nghi và phát triển.
Từ thực tiễn hoạt động kinh doanh xăng dầu, bài tham luận này xin đề xuất một số biện pháp có tính định hướng để trao đổi với hy vọng giúp các nhà hoạch định chính sách tham khảo để sớm thiết lập cơ chế quản lý điều hành kinh doanh xăng dầu mang tính khả thi, tạo ra sự chuyển động chung của nền kinh tế và thực hiện thành công mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bài giảng quản lý nhà nước về thương mại
( Bộ môn kinh tế thương mại – trường đại học thương mại )
2.Giáo trình quản lý kinh tế
(Học viện chính trị quốc gia)
3. Giáo trình quản lý trên các lĩnh vực kinh tế
(Học viện hành chính quốc gia)
4. Diễn đàn pháp luật
(www.diendanphapluat.com )
5. Báo điện tử Vietnamnet
( www.vietnamnet.vn )
6.Bộ công thương Việt Nam
( )
7. Diễn đàn cao học kinh tế Việt Nam
( www.caohockinhte.info )
8. Học liệu mở Việt Nam
( www.hoclieumo.com )
BẢNG ĐÁNH GIÁ
Họ và tên
Nhận xét
Đánh giá
Ký tên
1.Phạm Văn Cường
2.Vũ Gia Cường
3.Đỗ Duy Đại
4.Phạm Tiến Đại
5.Lại Thị Duyên
6.Phạm Hồng Gấm
7.Phạm Thị Giang
8.Nguyễn Ánh Dương
9. Nguyễn Trọng Đức
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_ly_nha_nuoc_ve_xang_dau_7957.doc