Tài liệu Đề tài Quản lý mạng lưới đại lý bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam: lời mở đầu
Bước sang những năm đầu của thế kỉ XXI, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển với tốc độ tăng trưởng như vũ bão. Theo đó, cuộc sống và thu nhập bình quân của người dân cũng được nâng cao. Người dân không chỉ quan tâm đến thu nhập và cuộc sống hàng ngày mà còn quan tâm đến sự an toàn lâu dài của bản thân mình cũng như của cả gia đình và người thân. Chính vì vậy mà nhu cầu tham gia bảo hiểm của người dân ngày một gia tăng. Trước thực trạng đó, hàng loạt các doanh nghiệp Bảo hiểm của Nhà nước cũng như của tư nhân đã ra đời.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một trong những công cụ tài chính hữu hiệu nhằm huy động tiền tiết kiệm phân tán trong dân cư để tạo lập nên nguồn vốn tập trung, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển đất nước. Thông qua hoạt đông đầu tư vốn, ngành bảo hiểm (đặc biệt là BHNT) đã góp phần thúc đẩy thị truờng tài chính, thị trường vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Nó đang đóng vai trò tích cực cho việc duy trì sự ổn định và phát triển nền kin...
42 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quản lý mạng lưới đại lý bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
Bước sang những năm đầu của thế kỉ XXI, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển với tốc độ tăng trưởng như vũ bão. Theo đó, cuộc sống và thu nhập bình quân của người dân cũng được nâng cao. Người dân không chỉ quan tâm đến thu nhập và cuộc sống hàng ngày mà còn quan tâm đến sự an toàn lâu dài của bản thân mình cũng như của cả gia đình và người thân. Chính vì vậy mà nhu cầu tham gia bảo hiểm của người dân ngày một gia tăng. Trước thực trạng đó, hàng loạt các doanh nghiệp Bảo hiểm của Nhà nước cũng như của tư nhân đã ra đời.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một trong những công cụ tài chính hữu hiệu nhằm huy động tiền tiết kiệm phân tán trong dân cư để tạo lập nên nguồn vốn tập trung, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển đất nước. Thông qua hoạt đông đầu tư vốn, ngành bảo hiểm (đặc biệt là BHNT) đã góp phần thúc đẩy thị truờng tài chính, thị trường vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Nó đang đóng vai trò tích cực cho việc duy trì sự ổn định và phát triển nền kinh tế xã hội, đặc biệt nền kinh tế thị trường nhằm thực hiện chức năng là tấm lá chắn để khắc phục hậu quả tài chính do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra cho nền kinh tế trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh. Đồng thời cung cấp sự đảm bảo tài chính cho từng người dân, từng hộ gia đình và các tổ chức kinh tế tham gia bảo hiểm.
Tăng trưởng và phát triển bền vững là mục tiêu lâu dài của mọi doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng mạnh mẽ thì sự cạnh tranh diễn ra cũng ngày càng gay gắt hơn. Vậy các doanh nghiệp Bảo hiểm phải làm gì để chiến thắng trong cạnh tranh, đạt được tốc độ tăng trưởng và phát triển cao? Sự thành công của doanh nghiệp không chỉ nằm trong chất lượng sản phẩm mà còn nằm trong bí quyết quản lý doanh nghiệp của các nhà quản lý của các cấp quản trị khác nhau.
Quản lý là một chức năng quan trọng và không thể thiếu được ở bất kì một doanh nghiệp nào. Quản lý giúp cho bộ máy hoạt động nhịp nhàng và có hiệu quả hơn. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh trong lĩnh vực BHNT, do có những đặc thù riêng của sản phẩm bảo hiểm nên các doanh nghiệp thường đặt đại lý làm trung tâm trong thực hiện chính sách phân phối sản phẩm. Vì vậy, số lượng đại lý của mỗi doanh nghiệp là rất lớn với mạng lưới phủ khắp cả nước, việc quản lý lực lượng đại lý lớn là rất khó đối với doanh nghiệp kinh doanh BHNT.
Đại lý BHNT là người đại diện cho công ty BHNT trong giao dịch với khách hàng, là người có ảnh hưởng chủ yếu tới số lượng hợp đồng, tỉ lệ duy trì hợp đồng, doanh thu phí... Nói cách khác, đó là nhân tố quyết định tới kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Vì vậy nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo đại lý là khâu rất quan trọng trong quản lý đại lý BHNT. Vấn đề quản lý đại lý BHNT luôn là mối quan tâm hàng đầu trong kinh doanh BHNT, nhất là trong giai đoạn hiện nay - khi thị trường bảo hiểm đã mở cửa.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam thì từ năm 1994 trở về trước chỉ có một mình Bảo Việt độc quyền kinh doanh trên thị trường. Nhưng sự ra đời của NĐ 100/CP ngày 18/12/1993 của chính phủ cũng là lúc kết thúc tình trạng độc quyền của Bảo Việt. Kể từ mốc thời gian đó, ngày càng nhiều doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập. Từ chỗ chỉ có một, nay trên thị trường đã có 15 doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có 5 doanh nghiệp BHNT với đầy đủ các hình thức kinh doanh. Thực tế đã chứng minh rằng, càng nhiều công ty bảo hiểm ra đời thì tình hình cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt. Nhưng điều đáng nói là trong thời gian qua đã có tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các đại lý Bảo hiểm để hạ uy tín, chiếm khách hàng. Trước tình hình đó Bộ tài chính đã ra công văn 5467/TC/TCNH yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm chú ý đến việc quản lý mạng lưới đại lý của mình.
Trong bối cảnh đó em đã chọn đề tài “Quản lý mạng lưới đại lý BHNT tại Việt Nam”. Do chưa có điều kiện tiếp xúc với thực tế của ngành bảo hiểm nên bài viết chỉ mang tính lý luận chứ chưa có tính thực tiễn cao.
Nội dung chính của bài viết bao gồm:
I. Lý thuyết cơ bản về BHNT và đại lý BHNT .
II. Quản lý mạng lưới đại lý BHNT .
III. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý mạng lưới đại lý BHNT tại Việt Nam.
nội dung
I. Lý thuyết cơ bản về BHNT và đại lý BHNT
1. Khái niệm
BHNT là sự cam kết giũa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. (Theo giáo trình bảo hiểm của trường ĐHKTQD Hà Nội)
Khái niệm trên cho thấy trong hợp đồng BHNT có 4 loại người gắn với quyền lợi và nghĩa vụ của hợp đồng: người bảo hiểm, nguời tham gia BHNT, người thụ hưởng quyền lợi và người được bảo hiểm.
Người bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm) là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật doanh nghiệp, luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
Người tham gia bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm và người được thụ hưởng.
Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.
Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự , tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng.
Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.
Sự ra đời của BHNT trên thế giới
Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời từ năm 1583, do công nhân người Anh là William Gybbon tham gia. Phí bảo hiểm ông phải đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm đó, người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh.
Năm 1759, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Philadenphia (Mỹ). Công ty này đến nay vẫn còn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình.
Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được thành lập và bán BHNT cho mọi người dân trong xã hội. Đây là mốc đánh dấu của một ngành kinh doanh trong bảo hiểm.
Năm 1787, công ty BHNT đầu tiên ở Pháp ra đời nhưng đến năm 1792 thì bị phá sản. Vào tháng 12/1829, công ty BHNT khác được thành lập.
ở Đức năm 1828, công ty BHNT đầu tiên được ra đời và phát triển thành bảo hiểm tồn tích (tích luỹ).
Công ty BHNT Prudential của Anh được thành lập năm 1853 là công ty đầu tiên trong công nghiệp bảo hiểm.
ở châu á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên tại Nhật Bản. Năm 1868 công ty Meijei của Nhật ra đời và hoạt động dưới hình thức kinh doanh. Đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến nay nhưng nó đã trải qua rất nhiều lần sát nhập vào các tập đoàn kinh tế khác nhau ở Nhật.
Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1958 doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ USD, năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ USD và năm 1993 con số này là 1647 tỷ USD chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm.
Trên đây là một số mốc quan trọng thể hiện sự ra đời và phát triển của BHNT trên thế giới. Như vậy, trên thế giới BHNT ra đời từ rất lâu, nó đã và đang trở thành ngành dịch vụ không thể thiếu được trong cuộc sống của người dân.
1.2 Sự hình thành và phát triển của BHNT tại Việt Nam
So với các nước trên thế giới thì BHNT ở Việt Nam ra đời khá muộn.
Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một số gia đình được hưởng quyền lợi của các hợp đồng BHNT này. Các hợp đồng BHNT này đều do các công ty BHNT của Pháp trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970-1971, tại miền Nam, công ty Hưng Việt đã triển khai một số loại hình bảo hiểm. Nhưng công ty này chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn nên hầu hết người dân chưa biết nhiều về loại hình bảo hiểm này.
Ngày 20/03/1996, Bộ tài chính kí quyết định cho phép Bảo Việt triển khai loại hình BHNT đầu tiên là BHNT có thời hạn 5, 10 năm và bảo hiểm trẻ em.
Ngày 22/06/1996, Bộ tài chính kí quyết định số 568/QĐ/TCCB cho phép thành lập công ty BHNT trực thuộc Bảo Việt. Ngày 01/8/1996, Bảo Việt đó cung cấp ra thị trường hợp đồng bảo hiển nhõn thọ (BHNT) đầu tiờn của Việt Nam kể từ khi đất nước thống nhất. Đây có thể coi là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.
Đến nay, hàng loạt công ty BHNT đã lần lượt ra đời và hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Công ty bảo hiểm TNHH Chinfon - Manulife (06/1999), công ty TNHH bảo hiểm Prudential Việt Nam (10/1999), công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Bảo Minh - CMG (1999), công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA (08/2000).
Bảng 1. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
Doanh nghiệp
Năm bắt đầu triển khai
Xuất xứ
Loại hình doanh nghiệp
Vốn (điều lệ) ban đầu
1.Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
1996
Việt Nam
Nhà nước
779 tỷ đ. (Năm1996)
2. Công ty liên doanh TNHH Bảo Minh-CMG
1999
Việt Nam + úc
Liên doanh
2 triệu USD
3. Công ty TNHH bảo hiểm Menulife
1999
Canada
100% vốn nước ngoài
5 triệu USD
4. Công ty TNHH bảo hiểm Prudential Việt Nam
1999
Anh
100% vốn nước ngoài
14 triệu USD
5. Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA)
2000
Mỹ
100% vốn nước ngoài
5 triệu USD
Điều này có nghĩa là thị trường BHNT Việt Nam hiện đang trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Số lượng các công ty bảo hiểm nhiều lên, số lượng các sản phẩm cũng phong phú, đa dạng. Thực tế này đã dẫn đến cạnh tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm về mọi mặt đặc biệt là vấn đề mở rộng mạng lưới đại lý BHNT.
2. Sự cần thiết và tác dụng của BHNT
2.1 Sự cần thiết
Kinh tế phát triển làm cho đời sống nhân dân không ngừng tăng lên và nó cũng tạo ra lớp người có thu nhập cao trong xã hội. Họ tiến hành đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó có BHNT vì BHNT đáp ứng được những yêu cầu của họ.
Hiện nay, việc lo cho tuổi già hoặc khi về nghỉ hưu đang là vấn đề được xã hội quan tâm, lo lắng và coi trọng. Một số người khi hết tuổi lao động có thu nhập từ lương hưu, nhưng thực tế khó có thể đáp ứng đủ các nhu cầu chi tiêu trong cuộc sống. Ngoài ra, phần lớn người già không có lương hưu phải sống nhờ vào con cái hay vẫn phải lao động vất vả để kiếm sống đang là vấn đề xã hội bức xúc. Vấn đề là phải tạo ra công cụ để mọi người có thể đều đặn dành ra những thu nhập và tiết kiệm chi tiêu hiện tại của mình những khoản tiền nhỏ mà vẫn đủ đảm bảo cuộc sống khi về già. BHNT đáp ứng được những yêu cầu đó của họ.
Do chi phí đào tạo, chi phí khởi nghiệp ngày càng cao vì vậy mà cha mẹ thường mua BHNT cho con cái mình, để khi chúng trưởng thành sẽ có một khoản tiền lập nghiệp hoặc đi du học nước ngoài...
Bên cạnh yếu tố tiết kiệm, BHNT còn mang tính rủi ro. Đối với mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp thì tính mạng của người chủ là rất quan trọng. Nó ảnh hưởng tới sự tồn tại, ổn định và phát triển của gia đình, của doanh nghiệp. Do đó, ngày nay nhu cầu đảm bảo cho sự ổn định của gia đình, của doanh nghiệp càng được đặt lên hàng đầu và hợp đồng BHNT đã giúp họ đạt được điều đó.
Chính vì vậy, BHNT ra đời là cần thiết khách quan trong cuộc sống của con người và sở dĩ BHNT phát triển mạnh mẽ như hiện nay vì nó có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi cá nhân, từ đó tạo ra sự ổn định trong đời sống xã hội cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế.
2.2 Tác dụng của BHNT
Một là, đối với cá nhân, gia đình:
BHNT có tác dụng thể hiện sự quan tâm, lo lắng của người chủ gia đình đối với những người phụ thuộc, của cha mẹ đối với con cái, đồng thời góp phần giảm bớt khó khăn về mặt tài chính cho gia đình khi không may gặp phải rủi ro. Hơn nữa khi tham gia bảo hiểm cũng có nghĩa là tiết kiệm một cách thường xuyên, có kế hoạch.
Hai là, đối với các doanh nghiệp:
BHNT ra đời góp phần ổn định sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp tạo lập mối quan hệ gần gũi gắn bó giữa chủ và thợ, đặc biệt là gắn bó và giữ chân được những người chủ chốt trong doanh nghiệp.
Ba là, đối với nền kinh tế:
BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, cơ quan xí nghiệp. Mỗi cá nhân mua BHNT là một cách tự bảo vệ mình, chủ động đối phó với rủi ro, đồng thời còn tạo ra một khoản tiền tiết kiệm. Sự giúp đỡ của ngân sách hay các tổ chức sử dụng lao động chỉ còn mang ý nghĩa động viên chứ không có vai trò quyết định.
BHNT góp phần thu hút vốn để phát triển kinh tế. Đối với các nước phát triển, quỹ bảo hiểm huy động được một số lượng vốn khổng lồ thậm chí lớn hơn cả ngành ngân hàng.
ở Việt Nam, BHNT tạo kênh huy động và cung cấp vốn lớn cho nền kinh tế.
Bảng 2: Quỹ đầu tư các công ty BHNT có thể cung cấp cho nền kinh tế
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2004
Quỹ đầu tư
(tỉ đồng)
0,7
15
178
582
1.654
4.000
7886
Ghi chú: Quỹ đầu tư ước tính vào cuối năm, tương ứng với quỹ dự phòng nghiệp vụ, không tính nguồn vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu.
Nguồn: Tạp chí bảo hiểm số 2/2004.
Như vậy nguồn vốn đầu tư từ hoạt động kinh doanh BHNT có thể cung cấp cho nền kinh tế là rất lớn, với tốc độ tăng trưởng như trên thì trong tương lai con số này lớn hơn rất nhiều.
Bốn là, đối với xã hội:
BHNT góp phần tạo nên một phong cách, tập quán sống mới tham gia BHNT thể hiện một nếp sống đẹp. Đó là tự biết lo lắng cho tương lai của mình và quan tâm đến tương lai của người thân, đồng thời giáo dục cho thế hệ sau đức tính tiết kiệm, cần cù, sống có trách nhiệm với người khác.
Mặt khác, BHNT còn góp phần to lớn vào việc giải quyết việc làm cho xã hội, BHNT là ngành thu hút nhiều lao động hơn cả vì nó cần một mạng lưới nhân viên, đại lý khai thác bảo hiểm, nhân viên máy tính, tài chính kế toán...Tính đến cuối năm 2005, tổng số đại lý chuyên nghiệp của toàn thị trường Việt Nam lên tới con số xấp xỉ 82.000 người, trong tương lai không xa con số này còn lớn hơn rất nhiều để đáp ứng mục tiêu mở rộng thị trường của các doanh nghiệp BHNT.
3. Những nội dung cơ bản của đại lý BHNT
3.1 Khái niệm đại lý BHNT
Trong thuật ngữ pháp lý, đại lý là một người làm việc cho một người nào đó. Trong thuật ngữ bảo hiểm, đại lý là một cá nhân hay một tổ chức đại diện cho một doanh nghiệp bảo hiểm (Công ty bảo hiểm) hoạt động vì quyền lợi của công ty bảo hiểm, thay mặt cho công ty bảo hiểm để bán các “sản phẩm” và dịch vụ của công ty cho khách hàng.
Đại lý BHNT cũng là người được uỷ quyền hành động thay cho công ty BHNT trên cơ sở hợp đồng đại lý.
3.2 Phân loại đại lý BHNT
Theo phạm vi quyền hạn
Đại lý toàn quyền: là đại lý có quyền tham gia về chính sách sản phẩm của công ty và có tác động ảnh hưởng tới giá bán của sản phẩm.
Đại lý uỷ quyền: là đại lý hoạt động dưới sự uỷ quyền của công ty.
Tổng đại lý: là đại lý trong đó nắm quyền điều hành một số lượng đại lý trong tay.
Đại lý chuyên nghiệp: là những người chịu sự quản lý trực tiếp của công ty. Họ là nhân viên của một phòng khai thác BHNT có địa điểm cố định và chịu sự quản ký trực tiếp của tổ trưởng tổ đại lý và trưởng phòng khai thác BHNT đó.
Đại lý chuyên nghiệp hàng ngày gặp nhau tại phòng khai thác BHNT để họp, điểm danh. Ngoài ra họ được hưởng các chế độ thưởng cũng như phải chịu các biện pháp phạt của công ty áp dụng chung cho các đại lý chuyên nghiệp.
Đại lý bán chuyên nghiệp: là những người đã nghỉ hưu hoặc những người làm bán thời gian. Họ không thuộc tổ chức của một phòng khai thác BHNT ở một địa điểm cố định nào và công ty không có trách nhiệm trả cho họ các chi phí như thuê nhà, điện nước, máy tính. Các đại lý bán chuyên nghiệp này không phải gặp nhau hàng ngày tại một địa điểm để họp, điểm danh như đại lý chuyên nghiệp. Các cuộc họp của họ được tổ chức tại văn phòng công ty.
Cộng tác viên: là những người công ty không trực tiếp tổ chức và quản lý nhân sự mà công việc này do cộng tác viên tự tuyển cho mình các đại lý và họ gửi qua công ty để công ty đào tạo. Cộng tác viên ít chịu sự quản lý của công ty, chế độ thưởng phạt cũng ít áp dụng đối với các đối tượng này.
Theo quan hệ kinh tế.
Đại lý khai thác: là đại lý hoạt động dưới sự uỷ quyền của công ty để bán những sản phẩm bảo hiểm của công ty cho khách hàng và được hưởng hoa hồng theo doanh số bán.
Đại lý thu phí: là đại lý hoạt động dưới sự uỷ quyền của công ty để chuyên đi thu phí của các hợp đồng bảo hiểm mà các đại lý khai thác đã hoàn tất mọi thủ tục đối với khách hàng của mình. Đại lý thu phí được hưởng hoa hồng theo số lượng hợp đồng thu phí.
Đại lý độc quyền: là đại lý duy nhất về sản phẩm của một hãng trên một vùng lãnh thổ
3.3 Đặc điểm của đại lý BHNT
a. Mối quan hệ đối với công ty bảo hiểm nhân thọ .
Hợp đồng đại lý giữa công ty BHNT và đại lý xác định mức độ kiểm soát mà công ty BHNT có thể thực hiện đối vơí các đại lý đó. Như vậy hợp đồng đại lý xác định mức độ độc lập của đại lý đối với công ty BHNT mà họ làm đại lý.
Nói chung, công ty BHNT có thể thực hiện sự kiểm soát của mình nhiều hơn đối với các đại lý là nhân viên của công ty so với các đại lý độc lập. Công ty không thể và không có quyền áp đặt các hình thức quản lý và kiểm soát đối với các phương thức mà đại lý sử dụng để thực hiện các mục tiêu của đại lý. Đại lý độc lập có quyền tự do sử dụng bất cứ các hình thức nào mà họ cho là phù hợp với qui định của pháp luật nhằm đạt được mục tiêu nêu trong hợp đồng đại lý.
Nếu đại lý là nhân viên của công ty thì công ty với tư cách là người chủ có thể thực hiện các biện pháp quản lý và kiểm soát các phương thức mà đại lý áp dụng, cũng như có quyền đưa ra các mục tiêu bắt buộc đại lý của mình phải tuân theo.
b. Phương thức nhận thù lao.
Các đại lý là nhân viên của công ty BHNT có thể nhận thù lao thông qua tiền lương hoặc kết hợp giữa tiền lương với hoa hồng phí. Các đại lý độc lập mà chỉ làm đại diện cho duy nhất một công ty thì thường nhận thù lao dưới hình thức hoa hồng phí, ngoài ra các công ty BHNT cũng thường cung cấp cho những đại lý này một mức thu nhập tối thiểu đủ để họ có khả năng tồn tại trong giai đoạn ban đầu. Các đại lý được trả công bằng hoa hồng phí có thể nhận hai hình thức hoa hồng phí. Thứ nhất là hình thức hoa hồng phí theo tỉ lệ phần trăm doanh thu cố định. Đây là nguồn thu nhập chính của các đại lý này.
Đại lí còn có thể nhận được một khoản hoa hồng không cố định đôi khi nó được coi là khoản hoa hồng theo lãi hoặc hoa hồng thưởng thêm. Khoản hoa hồng này phụ thuộc vào tỷ lệ tổn thất và mức tăng doanh thu phí mà đại lí mang lại cho công ty BHNT. Các khoản hoa hồng không cố định được các công ty BHNT sử dụng để kích thích các đại lí kinh doanh được nhiều hơn.
Nhiều công ty BHNT cho phép các đại lí của mình được chỉ định và quản lí các đại lí con. Đại lí quản lí này thường được nhận hoa hồng đối với các dịch vụ mà các đại lí con của họ kinh doanh được. Khoản hoa hồng này được gọi là hoa hồng quản lí và nó thường thấp hơn các khoản hoa hồng mà các đại lí con nhận được vì các đại lí con có công chính trong việc tạo ra các dịch vụ.
c. Thẩm quyền đối với các đơn bảo hiểm
Nếu một đại lí có thẩm quyền đối với các đơn bảo hiểm mà họ bán cho khách hàng, công ty BHNT sẽ không thể tái tục các đơn bảo hiểm đó một cách trực tiếp hoặc tái tục thông qua các đại lí khác. Tức là công ty BHNT không cho phép tự ý lấy các đơn bảo hiểm đó của đại lí hoặc chuyển chúng cho một đại lí khác.
Thẩm quyền đối với các đơn bảo hiểm có ý nghĩa rất quan trọng đối với cả đại lí và công ty BHNT. Thẩm quyền đối với các đơn bảo hiểm cung cấp cho các đại lí một tài sản vô hình có giá trị thị trường cao. Thẩm quyền đối với các đơn bảo hiểm cũng cho phép các công ty bảo hiểm quản lí và kiểm soát tốt hơn đối với các dịch vụ của họ vì các đại lí không thể chuyển các dịch vụ này cho các công ty BHNT khác khi hợp đồng đại lí vẫn còn hiệu lực và ngay cả khi đã hết hiệu lực (vì thời hạn của các đơn bảo hiểm có thể vẫn chưa kết thúc)
II. Quản lý mạng lưới đại lý BHNT
1. Sự cần thiết phải quản lý mạng lưới BHNT
1.1 Khái niệm
Quản lý là sự tác động qua lại có chủ đích, có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.(Theo giáo trình Quản lý kinh tế của trường ĐHKTQD)
Như vậy quá trình quản lý bao gồm các yếu tố sau:
Phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và ít nhất là một đối tượng để quản lý chịu tác động của chủ thể quản lý tạo ra và các khách thể có quan hệ gián tiếp với chủ thể quản lý.
Phải có một mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng và chủ thể, mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.
Chủ thể phải thực hành việc tác động.
Chủ thể có thể là một người, nhiều người, một thiết bị, còn đối tượng có thể là con người hoặc giới vô sinh hoặc giới sinh vật.
Theo giai đoạn ở phạm vi kinh tế vi mô thì quản lý bao gồm 4 chức năng.
Chức năng lập kế hoạch.
Chức năng tổ chức.
Chức năng điều hành.
Chức năng kiểm tra.
1.2 Sự cần thiết
Riêng đối với doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh trong lĩnh vực BHNT, do có những đặc điểm riêng của sản phẩm BHNT nên việc phân phối sản phẩm được thực hiện chủ yếu thông qua mạng lưới đại lý. Đại lý BHNT là những người có ảnh hưởng trực tiếp và chủ yếu đến số lượng hợp đồng, tỷ lệ duy trì hợp đồng, doanh thu phí...Nói cách khác, đó là nhân tố quyết định đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Vì vậy, quản lý mạng lưới đại lý BHNT luôn là một vấn đề mang tính thời sự trong kinh doanh BHNT.
Các công ty BHNT hiện đang hoạt động tại Việt Nam chọn xuất phát điểm từ kênh phân phối qua đại lý là phù hợp với thực tiễn kinh doanh BHNT ở Việt Nam cũng như cách thức tổ chức và quản lý ở thời điểm hiện tại.
Vấn đề đặt ra là: Vì sản phẩm được bán thông qua mạng lưới đại lý, nên việc kinh doanh BHNT phụ thuộc rất nhiều vào việc quản lý mạng lưới đại lý. Một sự cố nào đó xảy ra trong hệ thống đại lý cũng có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp bảo hiểm cần có những đối sách thích hợp, trong trường hợp bị mất một lúc hàng loạt đại lý thì kết quả kinh doanh có bị ảnh hưởng lớn hay không? vấn đề đại lý chiếm dụng phí bảo hiểm, nghỉ không lý do, số lượng hợp đồng khai thác được giảm, tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng cao...và những vấn đề phát sinh khác sẽ giải quyết như thế nào? Chính vì thế doanh nghiệp BHNT cần phải tiến hành quản lý một cách thường xuyên và có hệ thống mạng lưới đại lý bảo hiểm. Đó là yếu tố chính để doanh nghiệp thành công trong kinh doanh BHNT.
Trên thị trường BHNT Việt Nam có trên 50 sản phẩm các loại đã được 5 công ty BHNT tung ra phục vụ khách hàng. Kênh phân phối lớn nhất của các công ty này vẫn là các đại lý bảo hiểm với tổng đại lý chuyên nghiệp của toàn thị trường lên tới con số 82.000 người, hoạt động tại nhiều địa bàn của cả nước. Với một lực lượng đại lý lớn như vậy thì việc quản lý là rất cần thiết.
Một thực tế đã được ghi nhận ở Việt Nam trong thời gian qua là đội ngũ các đại lý đã xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạng để hạ uy tín, chiếm khách hàng. Và tình trạng khai thác bừa bãi, tư vấn cho khách hàng lựa chọn các sản phẩm bảo hiểm không phù hợp với khả năng tài chính của họ hoặc thông tin thiếu chính xác và trung thực về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm đã xảy ra. Điều này cũng dẫn tới một số hợp đồng của khách hàng bị huỷ ngang chừng và khi phát sinh trách nhiệm thì không đảm bảo quyền lợi chính đáng của khách hàng và của công ty, các ngành chức năng cũng đã nhìn thấy những sơ hở trong vấn đề quản lý các đại lý BHNT. Chính vì vậy, Bộ tài chính gần đây đã ra công văn 5467/TC/TCNH, trong đó nội dung chính là lưu ý các doanh nghiệp bảo hiểm về việc quản lý mạng lưới đại lý của mình.
Như vậy, vấn đề quản lý mạng lưới đại lý không chỉ là vấn đề bức xúc của BHNT, mà đó là vấn đề đặt ra đối với toàn ngành bảo hiểm tại Việt Nam. Bởi vì, nếu thực hiện các chức năng quản lý tốt sẽ nâng cao được chất lượng đại lý, gắn bó liên kết các đại lý lại với nhau và với doanh nghiệp bảo hiểm, tăng hiệu quả của việc khai thác, số lượng hợp đồng được ký kết nhiều hơn, từ đó tăng doanh thu phí của doanh nghiệp bảo hiểm. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp bảo hiểm.
2. Quản lý mạng lưới đại lý BHNT
2.1 Lập kế hoạch
Trong việc thiết lập một môi trường để các cá nhân đang làm việc với nhau trong một tập thể thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả, nhiệm vụ cốt yếu của công tác quản lý là phải biết rõ mọi người có hiểu được nhiệm vụ, các mục tiêu của nhóm và các phương pháp để đạt được các mục tiêu đó hay không. Để sự cố gắng của nhóm có hiệu quả cao, các cá nhân phải biết họ được yêu cầu hoàn thành cái gì. Đây là chức năng của việc lập kế hoạch.
Lập kế hoạch là quá trình xác định những mục tiêu của tổ chức và phương thức tốt nhất để đạt được những mục tiêu đó.
Như vậy, lập kế hoạch là quyết định trước xem phải làm gì, làm như thế nào, khi nào làm và ai làm việc đó.
Theo phạm vi hoạt động các kế hoạch được chia ra thành kế hoạch chiến lược và kế hoạch tác nghiệp.
Kế hoạch chiến lược: Là kế hoạch ở cấp độ toàn bộ doanh nghiệp, nó thiết lập nên những mục tiêu chung của doanh nghiệp và vị trí của doanh nghiệp đối với môi trường.
Kế hoạch tác nghiệp: Là kế hoạch trình bày rõ và chi tiết cần phải làm như thế nào để đạt được những mục tiêu đã đặt ra trong kế hoạch chiến lược. Kế hoạch tác nghiệp đưa ra những chiến thuật hay những bước cụ thể mà doanh nghiệp sẽ tiến hành để thực hiện kế hoạch chiến lược.
Như vậy, đối với một doanh nghiệp BHNT, kế hoạch quản lý mạng lưới đại lý BHNT là kế hoạch tác nghiệp, đó là một phần hay sự cụ thể hoá của kế hoạch chiến lược trong một khoảng thời gian ngắn (thường là một năm).
Kế hoạch chiến lược còn là cơ sở của nhiều kế hoạch khác của công ty, cho nên công ty phải xem xét và lập kế hoạch chiến lược trước. Có thể có 4 bước để lập kế hoạch chiến lược là:
Xác định cương lĩnh của công ty.
Đề ra các nhiệm vụ và mục tiêu.
Hình thành kế hoạch phát triển cơ ngơi công ty.
Hoạch định chiến lược phát triển công ty.
Trên cơ sở kế hoạch chiến lược, nguồn lực hiện có và thực trạng quản lý mạng lưới đại lý BHNT, hiện nay một kế hoạch quản lý mạng lưới đại lý sẽ được lập ra. Kế hoạch này trình bày cụ thể cách thức quản lý mạng lưới đại lý được vạch ra bởi trưởng phòng quản lý đại lý trên cơ sở những ý kiến của các cấp trong công ty và luôn luôn đảm bảo thích ứng kịp thời với môi trường kinh doanh của công ty.
Kế hoạch quản lý mạng lưới đại lý BHNT thường bao gồm: Kế hoạch tuyển chọn, kế hoạch đào tạo đại lý và kế hoạch khai thác.
Trong kế hoạch tuyển chọn nhà quản lý cần đưa ra những tiêu chuẩn tuyển chọn cơ bản, cách thức tuyển chọn mà công ty áp dụng, phạm vi dự định tuyển chọn và chi phí dành cho tuyển chọn.
Trong kế hoạch đào tạo nhà quản lý cần vạch ra những nội dung cần đào tạo, thời gian đào tạo, cách thức đào tạo phù hợp với công ty và chi phí dành cho đào tạo.
Trong kế hoạch khai thác nhà quản lý cần đưa ra kế hoạch khai thác cụ thể đối với từng nhóm, từng cá nhân...
Trên thực tế mỗi công ty BHNT đưa ra một kế hoạch quản lý mạng lưới đại lý khác nhau phù hợp với năng lực và trình độ quản lý của mỗi công ty, phù hợp với mục tiêu trước mắt của công ty, trên cơ sở đó đề đạt được các mục tiêu lâu dài là dần dần mở rộng thị phần, từ đó đạt mức tăng trưởng doanh thu cao và cuối cùng là tăng lợi nhuận của công ty, tăng thu nhập cho nhân viên. Đó là mục tiêu cao nhất mà mọi doanh nghiệp muốn vươn tới.
2.2 Chức năng tổ chức
Tổ chức là một từ mà nhiều người sử dụng một cách rất linh hoạt. Một vài người cho rằng nó bao hàm tất cả các hành vi của tất cả các thành viên. Một số khác coi nó ngang bằng với hệ thống tổng hợp các mối quan hệ tập quán và xã hội. Nhưng đối với hầu hết những người quản lý thuật ngữ này ám chỉ một cơ cấu chủ định về vai trò nhiệm vụ hay chức vụ được hợp thức hoá.
Vậy “cơ cấu chủ định về vai trò nhiệm vụ” được hiểu như thế nào?
Thứ nhất, những người cùng làm việc với nhau phải thực hiện những vai trò nhất định.
Thứ hai, những vai trò mà mỗi người cần phải thực hiện cần phải được xây dựng có chủ đích để đảm bảo rằng các hoạt động này là phù hợp với nhau, sao cho con người có thể làm việc một cách trôi chảy, có hiệu quả và có kết quả trong các nhóm.
Một số cách phân chia bộ phận cơ bản.
Phân chia bộ phận theo chức năng trong doanh nghiệp.
Việc nhóm gộp các hoạt động theo các chức năng trong doanh nghiệp phân chia theo chức năng - là cách được thừa nhận rộng rãi trong thực tiễn. Nó bao quát được tất cả những việc doanh nghiệp thực hiện. Do việc thực hiện của tất cả mọi người đều mang ý nghĩa là phải tạo ra điều gì đó mà những người khác coi là có ích và muốn có, cho nên các chức năng cơ bản của doanh nghiệp bao gồm sản xuất, bán hàng và tài chính. Tuy nhiên mỗi một doanh nghiệp, một bộ phận khác nhau lại có những chức năng cụ thể khác nhau. Vì vậy nhà quản lý phải dựa vào những chức năng cụ thể đó để có hình thức tổ chức hợp lý.
Phân chia bộ phận theo lãnh thổ.
Đây là một phương pháp khá phổ biến ở các doanh nghiệp hoạt động trong một phạm vi địa lý rộng. Theo cách phân chia này các hoạt động trong một khu vực hay địa cư nhất định nên được gộp nhóm và giao người quản lý.
Cách phân chia theo lãnh thổ là cách đặc biệt hấp dẫn với các hàng có quy mô lớn hoặc các doanh nghiệp có hoạt động trải rộng về nguồn vật chất hay địa lý.
Phân chia bộ phận theo sản phẩm.
Việc nhóm các hoạt động theo các sản phẩm hoặc tuyến sản phẩm đã từ lâu có vai trò ngày càng tăng trong các doanh nghiệp quy mô lớn với nhiều dây truyền công nghệ.
Chiến lược này cho phép ban quản trị cao nhất trao các quyền hạn lớn hơn cho ban quản lý bộ phận theo chức năng sản xuất, bán hàng dịch vụ và kỹ thuật liên quan đến một sản phẩm hay dây truyền sản phẩm cho trước và chỉ rõ mức trách nhiệm chính về lợi nhuận của người quản lý mỗi bộ phận này.
Phân chia theo bộ phận khách hàng.
Việc nhóm các hoạt động phản ánh sự quan tâm trước hết về người tiêu thụ là điều có thể nhìn thấy ở nhiều doanh nghiệp. Khách hàng là chìa khoá để phân chia các hoạt động theo nhóm, khi những hàng hoá khác nhau mà một doanh nghiệp sản xuất cho họ lại được quản lý bởi một người phụ trách bộ phận.
Các chủ doanh nghiệp và các nhà quản lý hay sắp xếp các hoạt động dựa vào cơ sở này nhằm đáp ứng những đòi hỏi của các nhóm khách hàng được xác định rõ ràng.
Ngoài ra còn rất nhiều cách phân chia khác nhau như: phân chia bộ phận theo quy trình hay thiết bị, phân chia bộ phận hướng theo thị trường...Tuỳ theo đặc điểm sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, đặc điểm hợp đồng của mỗi bộ phận khác nhau mà người quản lý có thể lựa chọn cách phân chia bộ phận hợp lý từ đó nâng cao hiệu quả quản lý của mình.
Đối với một doanh nghiệp bảo hiểm, xuất phát từ đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm như: khách hàng cá thể, nhu cầu bảo hiểm đa dạng, khả năng tài chính riêng biệt, yêu cầu chất lượng phục vụ khác nhau...nên mạng lưới đại lý bảo hiểm có thể tổ chức theo các hình thức sau:
Mạng lưới đại lý theo sản phẩm.
Mạng lưới đại lý theo khu vực địa lý.
Mạng lưới đại lý theo chức năng.
Ngoài ra còn có mô hình tổng đại lý.
Tuỳ theo đặc điểm của mỗi DNBH, của thị trường mục tiêu, của loại sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp có thể chọn cho mình một mô hình tổ chức thích hợp. Riêng đối với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực BHNT thường không tổ chức mạng lưới đại lý theo sản phẩm, hình thức này thường được áp dụng ở cấp độ quản trị cao hơn đối với doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại bảo hiểm khác nhau.
Thực tế các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực BHNT tại Việt Nam đã lựa chọn hình thức tổ chức mạng lưới đại lý theo khu vực địa lý. Trong thời gian qua các doanh nghiệp đã xây dựng được mạng lưới đại lý khắp cả nước (điển hình là Bảo Việt) nhằm đáp ứng nhu cầu BHNT của mọi tầng lớp nhân dân. Với mạng lưới phủ khắp các huyện thị và đội ngũ đại lý đông đảo, các sản phẩm BHNT đã len lỏi vào mọi hang cùng ngõ hẻm, từ thành phố đến nông thôn.
Nếu như năm 1996, Bảo Việt mới triển khai thí điểm BHNT tại một số tỉnh thành và đạt được kết quả khá khiêm tốn với trên 1.200 hợp đồng và doanh thu phí chưa đến 1 tỷ đồng thì đến năm 2001 doanh thu phí BHNT đã đạt 1.511 tỷ đồng và đến năm 2003 đã đạt 2.671 tỷ đồng. Đến cuối năm 2005, Bảo Việt Nhân thọ có gần 1, 7 triệu hợp đồng chính có hiệu lực và gần 1 triệu điều khoản bổ trợ. Thêm vào đó, chất lượng khai thác cũng được nâng lên đáng kể, biểu hiện qua số tiền bảo hiểm trung bình /hợp đồng, số phí bảo hiểm bình quân /hợp đồng ngày càng cao, công tác đánh giá rủi ro được chú trọng hơn (thông qua việc áp dụng đánh giá rủi ro sức khoẻ, tài chính, mục đích tham gia, quyền lợi có thể được bảo hiểm), tỷ lệ huỷ hợp đồng dưới 6%/năm (thấp hơn so với mức chung trên thị trường). Khi Bảo Việt triển khai thí điểm BHNT, chỉ có 2 sản phẩm được đưa ra thị trường là BHNT Hỗn hợp 5, 10 năm và An sinh giáo dục. Cùng với sự phát triển của thị trường, giỏ sản phẩm đưa ra thị trường của Bảo Việt đã tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng. Đến nay, Bảo Việt đã đưa ra thị trường các sản phẩm thuộc hầu hết các chủng loại BHNT truyền thống như Hỗn hợp, Sinh kỳ, Tử kỳ, Trọn đời, các sản phẩm bảo hiểm hưu trí (niên kim nhân thọ), đồng thời nhiều sản phẩm bổ trợ (rider) cũng đã được cung cấp. Tính đa dạng còn thể hiện như: có sản phẩm chia lãi như An Khang Thịnh Vượng, cũng có sản phẩm không chia lãi như An Gia Tài Lộc; có sản phẩm bảo hiểm cá nhân lại có sản phẩm bảo hiểm theo nhóm (như Tử Kỳ nhóm); có sản phẩm có số tiền bảo hiểm cố định, lại có sản phẩm có số tiền bảo hiểm tăng dần như An Gia Thịnh Vượng; có sản phẩm trả tiền bảo hiểm đáo hạn một lần nhưng cũng có sản phẩm trả tiền bảo hiểm nhiều lần; có sản phẩm đóng phí định kỳ lại có cả sản phẩm đóng phí một lần; có sản phẩm có số tiền bảo hiểm cố định lại có sản phẩm có số tiền bảo hiểm tăng dần; vừa có sản phẩm ngắn hạn vừa có sản phẩm trung và dài hạn; có sản phẩm bảo vệ đơn thuần, có sản phẩm tiết kiệm, có sản phẩm kết hợp bảo hiểm và tiết kiệm. Có thể nói, các đặc trưng sản phẩm của Bảo Việt Nhân thọ khá đa dạng, đáp ứng được một phần đáng kể nhu cầu của công chúng và có thể đảm bảo cạnh tranh trên thị trường về sản phẩm.
Song song với sự phát triển của Bảo Việt, Bảo Minh cũng có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Cụ thể như chủ trương chia tách các đơn vị khu vực TP.HCM và Hà Nội đã góp phần tăng doanh thu hai khu vực này. Chủ trương mở rộng hệ thống phân phối, thành lập các công ty thành viên mới đã đóng góp 12 tỷ đồng vào doanh thu năm 2005 và 56 tỷ đồng trong năm 2006. Việc xác định hai nhóm nghiệp vụ chủ lực là bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm con người cùng với các giải pháp kèm theo đã phát huy hiệu quả qua sự tăng trưởng doanh thu của 2 nhóm này, năm 2005 tăng 34% so với năm 2004) và năm 2006 tăng 19% năm 2005, dự kiến theo kế hoạch 2007 tăng là 8,5%. Bên cạnh đó Bảo Minh đã dần khẳng định lại thế mạnh về bảo hiểm hàng hải với nhiều hợp đồng giá trị lớn, góp phần tăng 39% doanh thu nghiệp vụ. Các kết quả đáng khích lệ đó đã góp phần nâng cao doanh số của Bảo Minh. Năm 2006, mặc dù thị trường bảo hiểm Việt nam cạnh tranh gay gắt do nhiều công ty bảo hiểm mới ra đời nhưng Bảo Minh vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao, ổn định là 20% cao hơn tốc độ tăng trưởng chung 16% của toàn thị trường. Các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận đều tăng cao và vượt kế hoạch đề ra. Tổng doanh thu phí bảo hiểm đạt trên 1.468 tỷ đồng, bằng 107% so với kế hoạch năm, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước. Lợi nhuận sau thuế đạt 100, 7 tỷ đồng, đạt 118% kế hoạch, tăng 18,2% so với năm 2005. Tính đến hết 9 tháng đầu năm 2007 doanh thu toàn tổng công ty đạt hơn 1200 tỷ đạt 78% kế hoạch, tăng trưởng 21 % so với cùng kỳ năm trước. Chủ trương tăng cường năng lực nhận tái bảo hiểm bằng việc mở rộng quan hệ hợp tác và đa dạng hóa các nghiệp vụ nhận tái đã đem lại kết quả. Doanh thu nhận tái bảo hiểm năm 2006 tăng trưởng 55,5% so với năm 2005, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng chung của Tổng Công ty. Tính đến 30/09/2007 doanh thu nhận tái của Bảo Minh đã đạt hơn 93 tỷ đạt 85 % kế hoạch năm.
Ngày 28/11/2006 cổ phiếu Bảo Minh với mã BMI đã chính thức niêm yết tại Trung Tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, đánh dấu một bước phát triển mới của Tổng công ty. Giá trị cổ phiếu Bảo Minh khi lên sàn rất cao và không ngừng gia tăng, chứng tỏ các nhà đầu tư đã đánh giá cao và tin tưởng vào kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty.
Trong khi đó, sau hơn 7 năm hoạt động tại Việt Nam (1999-2007), Prudential Việt Nam đã phục vụ hàng triệu người dân Việt Nam thông qua hệ thống hơn 70 Trung tâm phục vụ khách hàng, Văn phòng chi nhánh và Văn phòng Tổng đại lý. Prudential Việt Nam hiện đang dẫn đầu thị trường bảo hiểm nhân thọ với thị phần chiếm 41,6%, tính theo doanh thu phí bảo hiểm đến cuối năm 2006.
Prudential Việt Nam không những bảo vệ an toàn tài chính và tiết kiệm cho khách hàng thông qua hoạt động bảo hiểm nhân thọ mà còn tiếp tục phát triển sang lĩnh vực đầu tư và quản lý quỹ với sự ra đời của Công ty Quản lý Quỹ Đầu tư Chứng khoán Prudential Việt Nam năm 2005. Ngoài ra, Prudential Việt Nam đã trở thành định chế tài chính nước ngoài đầu tiên tham gia vào thị trường dịch vụ tài chính với việc thành lập Công ty Tài chính Prudential Việt Nam vào tháng 10/2006. Prudential Việt Nam đang phát triển thành Tập đoàn Bảo hiểm Đầu tư Tài chính hàng đầu tại Việt Nam.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp BHNT tại Việt Nam đã lựa chọn hình thức tổ chức mạng lưới đại lý theo chức năng.
Các công ty BHNT nước ngoài đang hoạt động trên thị trường Việt Nam đã áp dụng hình thức là chỉ sử dụng đại lý BHNT trong khâu khai thác hợp đồng mới mà không cần đến vai trò trung gian này trong thu phí bảo hiểm định kỳ. Hoa hồng trả cho các đại lý BHNT cũng dựa trên doanh thu phí bảo hiểm đầu tiên, khuyến khích khai thác hợp đồng mới. Còn phí bảo hiểm định kỳ thì hoặc khách hàng nộp trực tiếp tại công ty hoặc công ty sẽ cử nhân viên đến tận nhà thu. Trường hợp khách hàng tự nộp, công ty có cơ chế chiết khấu giảm nên khuyến khích được khách hàng “làm thay” cho công ty. Trong khi đó, chi phí cho việc nhân viên thu phí định kỳ không cao vì định kỳ đóng phí dài hạn và ít lần đi thu. Chính vì vậy các công ty đã thu hút được một bộ phận khách hàng trung lưu, mức thu nhập khá, thường mua với số tiền bảo hiểm lớn với định kỳ đóng phí dài hạn, hàng quý, nửa năm, cả năm.
Đối với Bảo Việt trong thời gian đầu (1998-1999) do mới được triển khai loại hình BHNT tại Việt Nam nên số lượng khách hàng của mỗi đại lý BHNT không quá lớn, đồng thời trên thị trường lúc đó mới chỉ có một mình Bảo Việt được Bộ tài chính cấp giấy phép kinh doanh BHNT, được chào bán những sản phẩm BHNT đầu tiên. Không những thế Bảo Việt còn mang theo cả uy tín, kinh nghiệm, khả năng tài chính vững vàng của hơn 30 năm kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Trong bối cảnh đó, đại lý BHNT tổng hợp đã phát huy vai trò chủ đạo tích cực trong quá trình phát triển nghiệp vụ BHNT của Bảo Việt. Tính chất “tổng hợp” của đại lý BHNT của Bảo Việt thể hiện ở hai khía cạnh chính, hay nói cách khác đại lý BHNT đồng thời thực hiện cả hai chức năng, vừa phải khai thác hợp đồng mới vừa thu phí bảo hiểm định kỳ.
Đến giữa năm 2000 thì khả năng khai thác mới của các đại lý BHNT tổng hợp của Bảo Việt bị “chậm” lại, công việc thu phí định kỳ chưa hiệu quả, tỷ lệ bỏ hợp đồng và tỉ lệ nợ phí bảo hiểm đều ở mức “báo động”. Đó có thể xem là những dấu hiệu biểu hiện khả năng không còn phù hợp nữa của việc một đại lý BHNT thực hiện đồng thời cả hai chức năng, yêu cầu đặt ra là phải “chuyên môn hoá đại lý BHNT” của Bảo Việt.
“Chuyên môn hoá” thực chất là qúa trình tách rời hai chức năng mà một đại lý tổng hợp đang làm để chuyển giao cho hai đại lý khác nhau: đại lý chuyên khai thác và đại lý chuyên thu phí. Có thể khẳng định rằng, chủ trương “chuyên môn hoá” đại lý BHNT là hoàn toàn đúng đắn, nhưng muốn thực hiện nó một cách toàn diện, triệt để lại là công việc đầy khó khăn đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Đây là một thách thức lớn đối với các nhà quản lý. Để chủ trương “chuyên môn hoá đại lý BHNT” của Bảo Việt tiếp tục được triển khai triệt để và giành được những thắng lợi quan trọng trong thực tế thì đòi hỏi các nhà quản lý phải đưa ra được những giải pháp mang tính khả thi, từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức mạng lưới đại lý từ đó nâng cao hiệu quả khai thác của đại lý BHNT tại Bảo Việt.
Ngoài ra trong BHNT còn có mô hình tổng đại lý, theo đó việc bán sản phẩm do một nhà thầu độc lập là tổng đại lý đảm đương. Tổng đại lý có toàn quyền tuyển dụng các đại lý và lợi nhuận mà tổng đại lý được hưởng là chênh lệch trong khoản chi phí mà doanh nghiệp giao cho với các khoản chi trả hoa hồng và các chi phí quản lý khác.
Đến những năm gần đây
2.3 Chức năng điều hành
Theo giáo trình quản lý kinh tế của ĐHKTQD: Điều hành là một chức năng của quản lý, đó là quá trình tác động lên các con người trong doanh nghiệp một cách có chủ đích để họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu đạt được các mục tiêu đề ra của doanh nghiệp.
Vậy điều hành hàm ý chỉ dẫn, ra lệnh, động viên, thúc đẩy con người hoạt động. Nhưng con người ở đây không thể hoạt động độc lập mà họ phải hoạt động phối hợp với nhau thì mới có thể thực hiện được mục tiêu chung. Vì vậy các nhà quản lý phải tác động thế nào đó để giúp các cá nhân và các nhóm mà mình phụ trách phát huy tối đa khả năng của họ nhằm đạt được các mục tiêu chung của cả doanh nghiệp, đồng thời cũng đạt được mục tiêu của nhóm và của mỗi người.
Chức năng điều hành có vai trò hết sức quan trọng:
Nó làm cho mọi hoạt động của từng đơn vị và của toàn thể tổ chức diễn ra một cách đồng bộ và ăn khớp với nhau để đạt được mục đích chung.
Điều hành có liên quan đến việc ra quyết định, tổ chức truyền đạt và thực hiện các quyết định bằng cách giao việc, ra lệnh, động viên, khen thưởng cấp dưới, tích cực hoá thái độ và tinh thần làm việc của người lao động, đó là những yếu tố liên quan trực tiếp đến năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Chức năng điều hành thể hiện nghệ thuật điều khiển, lãnh đạo con người, thể hiện tài ba của nhà quản lý.
Trong phạm vi quản lý mạng lưới đại lý BHNT thực hiện chức năng điều hành đồng nghĩa với việc thực hiện những công việc sau:
Tuyển chọn đại lý BHNT.
Đào tạo đại lý BHNT.
Các hoạt động nhằm tạo ra, duy trì và phát triển động lực trong công việc của người đại lý BHNT.
Tuyển chọn đại lý BHNT.
Tuyển chọn đại lý BHNT là khâu đầu tiên, và có thể nói là khâu quan trọng nhất của quy trình quản lý đại lý BHNT. Vì chất lượng tuyển chọn đại lý ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo đại lý, đồng thời ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng khai thác của đại lý sau này. Hơn nữa nó còn ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của BHNT, vì nếu công tác tuyển chọn không được coi trọng dẫn đến tình trạng tuyển chọn một cách ồ ạt bao gồm cả những người không có khả năng do đó làm tăng chi phí dành cho đào tạo mà chất lượng đại lý vẫn không cao.
Để nâng cao chất lượng tuyển chọn đại lý các nhà quản lý cần đưa ra những tiêu chuẩn tuyển chọn và cách thức tuyển chọn phù hợp với từng địa phương, từng khu vực.
Có rất nhiều tiêu chuẩn được đặt ra để tuyển chọn đại lý nhưng nhìn chung các doanh nghiệp BHNT thường dựa và một số mặt như: trình độ, tuổi tác, tư cách đạo đức, kinh nghiệm, khả năng giao tiếp, ngoại giao, hoàn cảnh gia đình, phương tiện đi lại...
Với các đặc điểm nghề đại lý BHNT là sản phẩm vô hình, thời hạn bảo hiểm thường kéo dài, nhận thức của dân cư rất hạn chế, thậm chí còn không ít ý kiến sai lệch, vì thế đòi hỏi người đại lý cần nắm vững những kiến thức về sản phẩm, đồng thời am hiểu đời sống kinh tế - xã hội để có thể giới thiệu chính xác cũng như ứng phó với các tình huống thực tế một cách linh hoạt và có hiệu quả. Để làm được điều này ngoài sự trải nghiệm thực tế, đại lý cần phải có trình độ học vấn ở một mức độ nhất định.
Thực tế trên thị trường BHNT Việt Nam một số công ty đã tuyển chọn nhiều đại lý chỉ có trình độ phổ thông trung học mà chưa qua một trường chuyên môn nào. Mặc dù trình độ học vấn phụ thuộc vào mức sống cũng như dân trí của từng địa phương nhưng việc tuyển chọn đại lý có trình độ thấp sẽ ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm đặc biệt trong xu hướng cạnh tranh ngày càng sôi động. Bởi lẽ những người này có cách nghĩ khá đơn giản, không cầu kỳ và thiếu chiều sâu, chính vì thế họ cũng không coi trọng tính khoa học của quy trình khai thác, việc lập kế hoạch khai thác và kỹ năng thuyết phục khách hàng. Do đó, từ việc tìm kiếm khách hàng tiềm năng, tiếp cận, giới thiệu sản phẩm đến kết thúc bán hàng và giao hợp đồng nhiều khi tiến hành rất ngẫu hứng, không bài bản, không thống nhất với nhau, dễ dẫn đến tình trạng che giấu thông tin hoặc làm sai lệch thông tin.
Bên cạnh đó, tuổi tác cũng là một tiêu chuẩn tuyển chọn được các công ty hết sức quan tâm, song vấn đề độ tuổi nào phù hợp nhất thì câu trả lời ở từng địa phương, từng doanh nghiệp lại không giống nhau.
Có thể thấy rằng mỗi độ tuổi khác nhau lại có những ưu nhược điểm nhất định. Vì vậy tuỳ theo quan điểm của từng doanh nghiệp, từng nhà quản lý mà lựa chọn độ tuổi khác nhau.
Đối với những người có độ tuổi cao thì đại lý khai thác tốt hơn vì họ có nhiều kinh nghiệm và nhiều mối quan hệ xã hội, song lớp người này lại có hạn chế rất lớn là không có sự nhanh nhẹn và hoạt bát trong khai thác, mặt khác do sức khoẻ giảm sút nên họ không thể làm nhiều giờ trong ngày. Ngoài ra khi có tuổi, cuộc sống của đại lý tương đối ổn định, họ dành thời gian quan tâm đến gia đình nhiều hơn là cho công việc, đặc biệt lúc này năng lực làm việc cũng như nhu cầu về thu nhập không còn cao như trước nữa...
Ngược lại, đối với những người qúa trẻ, việc trở thành đại lý BHNT sẽ gặp những trở ngại hoàn toàn khác. Trước hết phải tính đến kinh nghiệm và sự chín chắn trong công việc. Do sản phẩm BHNT là sản phẩm vô hình, khó có thể cảm nhận được gía trị nếu như chưa xảy ra sự kiện bảo hiểm trong khi đó khách hàng vẫn đóng phí đều đặn cho công ty bảo hiểm, nên điều đầu tiên và quan trọng nhất của người đại lý là phải tạo được niềm tin cho khách hàng. Với những đại lý ít tuổi, do chưa từng trải nên dễ lúng túng, bối rối khi xử lý các phản ứng của khách hàng, dễ gây ra tâm trạng thiếu tin tưởng và giảm tính chuyên nghiệp của người đại lý. Mặt khác các đại lý trẻ thường hay rơi vào tình trạng mặc cảm, bị động, thiếu tự tin khi tiếp xúc với những khách hàng đứng tuổi hoặc có địa vị trong xã hội. Ngoài ra đối với đa số đại lý trẻ tuổi thì nghề đại lý BHNT chỉ là công việc trước mắt trong thời gian chưa có được việc làm ổn định, vì vậy họ có thể bỏ nghề giữa chừng như vậy sẽ gây ra những tác hại không nhỏ cho công ty bảo hiểm.
Một tiêu chuẩn khác cũng không thể không nhắc tới trong việc tuyển chọn là tư cách đạo đức của người đại lý. Trong nghề đại lý BHNT, yếu tố này càng trở nên cần thiết vì đây là một nghề kinh doanh khá tự chủ, ít chịu sự quản lý của cấp trên, lại thường xuyên thu và giữ tiền của khách hàng. Nếu tư cách đạo đức không tốt sẽ dẫn đến đại lý làm bừa, làm ẩu, dây dưa nợ đọng phí (cho dù khách hàng đã nộp cho họ đầy đủ và đúng kì hạn) - trong điều kiện thông tin giữa công ty và khách hàng đa số đều thông qua đại lý như hiện nay thì điều này vẫn còn khá phổ biến. Không những thế, một số trường hợp đại lý bị sa thải do làm việc kém hiệu quả, thiếu ý thức kỷ luật sau đó đã nói xấu công ty bảo hiểm làm giảm lòng tin của khách hàng, làm cho số lượng hợp đồng bị huỷ bỏ tăng lên...Như vậy cần phải khẳng định rằng đạo đức nghề nghiệp cũng là yếu tố then chốt và cần được quan tâm thích đáng trong quá trình tuyển chọn đại lý.
Trên đây là những tiêu chuẩn quan trọng nhất khi tiến hành tuyển chọn đại lý BHNT, ngoài ra các tiêu chuẩn như khả năng giao tiếp, ngoại hình, phương tiện đi lại...cũng góp phần không nhỏ trong việc tuyển chọn đại lý có chất lượng cao.
Với những tiêu chuẩn như trên thì vấn đề đặt ra là cách thức tuyển chọn như thế nào cho phù hợp với yêu cầu của từng công ty. Có hai cách thức tuyển chọn là:
Tuyển gián tiếp: Là việc tuyển các đại lý BHNT thông qua báo chí, quảng cáo, hội chợ nghề nghiệp, Internet hoặc tự đăng ký.
Tuyển trực tiếp: Là việc tuyển các đại lý BHNT qua lực lượng tuyển là cán bộ, các giám sát của công ty.
Hiện nay, các công ty sử dụng cả hai hình thức tuyển trên, cụ thể là việc tuyển chọn được thực hiện qua một số kênh như: đại lý cũ giới thiệu, cán bộ công ty giới thiệu, qua các phương tiện thông tin đại chúng...Mỗi kênh có những ưu nhược điểm khác nhau.
Thứ nhất, kênh đại lý cũ giới thiệu đại lý mới: Qua thực tế ở một số địa phương cho thấy những đại lý được tuyển qua kênh này đa số có chất lượng khá tốt và rất hiếm có trường hợp bỏ nghề vì họ có những hiểu biết nhất định về BHNT và công việc phải làm, mặt khác họ còn được chính những đại lý cũ đó dìu dắt và giúp đỡ trong quá trình khai thác. Tuy nhiên các công ty chưa thực sự quan tâm và đầu tư cho kênh này.
Thứ hai, qua các cán bộ công ty giưới thiệu: Về cơ bản kênh này cũng có những ưu điểm tương đồng với kênh thứ nhất, tuy nhiên lại có hạn chế là có thể vì nể nang mà phải nhận những đại lý không đủ tiêu chuẩn.
Kênh tuyển chọn thứ ba là qua các phương tiện thông tin đại chúng: Có thể nói đây là kênh có phạm vi ảnh hưởng lớn nhất đồng thời việc sử dụng ở các địa phương cũng linh hoạt và đa dạng nhất. Tuyển đại lý qua kênh này có ưu điểm là tập hợp được nhiều ứng cử viên vì thế tuyển chọn được đại lý với số lượng lớn, chất lượng cao. Tuy nhiên, cách tuyển chọn này cũng mắc phải một số nhược điểm là: chi phí lớn, khó kiểm soát được tính chính xác về các thông tin cá nhân như năng lực, tư cách đạo đức nghề nghiệp ...của các ứng cử viên.
Bên cạnh những cách thức tuyển chọn trên, một số công ty bảo hiểm đặc biệt là các công ty BHNT nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thực hiện việc tuyển chọn đại lý thông qua chính sách thăng tiến cho đại lý. Khi đại lý được thăng tiến (lên tổ trưởng hoặc nhóm trưởng), nếu muốn tăng thu nhập thì không có cách nào khác là phải tuyển thật nhiều đại lý có năng lực, công ty chỉ tham gia đào tạo, hỗ trợ chứ không trực tiếp tuyển. Như vậy, với mô hình 3-4 cấp họ đã tạo ra được rất nhiều đầu mối tuyển dụng.
b) Đào tạo đại lý BHNT.
Sự tham gia của các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực BHNT trong những năm gần đây đã khiến cho thị trường này trở nên sôi động và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, chính điều này cũng làm phát sinh không ít hình thức cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa một số doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm với nhau.
Để hạn chế tình trạng trên và đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh thì việc quản lý mạng lưới đại lý có vai trò quan trọng.
Thông qua đào tạo các đại lý được trang bị kiến thức với mức tương xứng với sự uỷ quyền của doanh nghiệp cho họ theo hợp đồng mà hai bên đã ký kết. Việc đào tạo còn nêu rõ các nội dung: trách nhiệm của đại lý, đạo đức hành nghề đại lý, các nội dung về sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm cho phép đại lý tiến hành và kỹ năng bán hàng. Ngoài ra, phải đảm bảo các đại lý đựơc trang bị đủ các kiến thức chung của hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Kết thúc mỗi khoá học các doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ chức cho đại lý thực hành nghề đại lý, thông qua sát hạch để cấp chứng chỉ đào tạo và chỉ cấp cho những người đủ tiêu chuẩn. Sau đó công ty vẫn phải tiếp tục đào tạo bổ túc thường xuyên các kiến thức, cập nhật thông tin cho các đại lý bảo hiểm.
Các nội dung đào tạo nêu trên là những vấn đề cơ bản nhất mà một đại lý BHNT cần được đào tạo trước khi vào nghề. Trong đó vấn đề đạo đức và tư cách nghề nghiệp của đại lý BHNT cần phải được thường xuyên tu dưỡng, học hỏi...vì hiện nay trong hoạt động của người làm đại lý BHNT xuất hiện một số hiện tượng như:
Các đại lý BHNT nói nhiều, nói quá tốt về sản phẩm mình chào bán, tiếp thị, thậm chí cả những điều không thể có.
Hiện tượng chiếm dụng phí bảo hiểm.
Các đại lý BHNT nói xấu lẫn nhau, nói xấu các công ty BHNT khác trong khi đi khai thác.
Những hiện tượng trên sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến công ty BHNT, đến khách hàng, làm khách hàng thiếu tin tưởng vào ý nghĩa tốt đẹp của bảo hiểm. Các đại lý bảo hiểm cần phải nhận thức được điều này, tôn trọng và cùng hoạt động lành mạnh hơn vì mục đích phát triển chung.
c) Vậy thực tế việc tuyển chọn và đào tạo đại lý BHNT tại một số công ty được thực hiện như thế nào?
Bảo Việt coi trọng việc sơ tuyển.
Công ty này thường xuyên tuyển đại lý mới thông qua người làm đại lý trước giới thiệu, thậm chí bảo lãnh (khuyến khích có thưởng đối với đại lý cũ), có tiểu ban phỏng vấn, sơ tuyển để xem khả năng giao tiếp, khả năng phát triển...Tổ chức các lớp học để đại lý được trang bị những hiểu biết cơ bản về nghề nghiệp, nắm vững những điều khoản của từng sản phẩm, các kỹ năng tư vấn giao tiếp, các quy trình phải tuân thủ...Sau đó ai đạt yêu cầu qua kiểm tra mới ký hợp đồng tạm thời trong 3 tháng để thử việc, trong thời gian thử việc phải được người có kinh nghiệm kèm cặp giúp đỡ. Sau 3 tháng học việc nếu đạt yêu cầu mớ ký hợp đồng dài hạn.
Bảo Việt còn có trung tâm đào tạo thống nhất để có chương trình bồi dưỡng nâng cao theo các cấp độ khác nhau và có cấp chứng chỉ cho đại lý của cả nước. Tại các công ty còn có câu lạc bộ để bồi dưỡng trao đổi kinh nghiệm như: câu lạc bộ những đại lý trên 200 hợp đồng, câu lạc bộ những đại lý giỏi, câu lạc bộ những đại lý khai thác được những hợp đồng có giá trị cao...Những sai sót đều được kịp thời chấn chỉnh hoặc phải xử lý nghiêm. Chính vì vậy Bảo Việt vẫn luôn luôn tăng trưởng và phát triển, đứng đầu về số lượng hợp đồng và đứng đầu về thị phần BHNT ở nước ta.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Bảo Việt cũng gặp phải một số hạn chế nhất định trong vấn đề đào tạo:
Thời gian để tập trung nghiên cứu chuyên sâu bị hạn chế do đội ngũ giảng viên số lượng không nhiều lại phải phục vụ trên 120 công ty (bao gồm cả BHNT và phi BHNT).
Vì bài giảng phục vụ cho tất cả các công ty nên tính đặc trưng của từng địa phương trong chương trình giảng dạy chưa rõ nét.
Thời gian đào tạo còn ngắn: Chương trình đào tạo đại lý cấp I từ 6 đến 15 ngày và nếu nhanh thì sau 1 năm người đại lý mới được đào tạo và nâng cấp thông qua chương trình đại lý cấp II với thời gian khoảng 3 đến 5 ngày. Với thời gian đào tạo như vậy làm người đại lý chưa phát huy hết những ưu điểm cũng như chưa kịp thời sửa chữa những nhược điểm, việc kết hợp giữa lý luận và thực tiễn khó khăn, không hệ thống hoá được kiến thức nên thường chỉ tập trung tư vấn và bán một số sản phẩm nhất định.
Một vấn đề đáng lo ngại khác là đại lý chưa mặn mà với việc được đào tạo, chưa coi đó là nhu cầu thiết thực mà mới chỉ cho đó là nghĩa vụ, là sự bắt buộc.
Prudential chú ý đến việc huấn luyện cơ bản.
Đây là công ty bảo hiểm thuộc loại hàng đầu của Anh quốc, hiện nay đang đứng sau Bảo Việt với hơn 200.000 khách hàng. Công ty có hơn 8.000 đại lý được huấn luyện đào tạo cơ bản, được sàng lọc qua thực tế công việc. Vì vậy nhìn chung các đại lý của công ty thường xuyên hoàn thành được định mức công việc với chất lượng tốt (theo số liệu 10/9/2001).
Chinfon Manulife theo chuẩn mực quốc tế.
Công ty này sau khi tuyển đại lý qua lớp học ban đầu, qua làm thử, nếu đạt yêu cầu sẽ đào tạo cơ bản hơn cho đại lý. Đặc biệt công ty khuyến khích các đại lý theo học chương trình giáo dục về bảo hiểm của LOMA (viết tắt của Life Oiffee Management Association - Hiệp hội quốc tế các công ty chuyên về dịch vụ tài chính, BHNT, bảo hiểm hưu trí, dịch vụ sức khoẻ và các dịch vụ tài chính khác). Chinfon Manulife đã ban hành chính sách giáo dục BHNT LOMA đối với toàn thể nhân viên của công ty kể từ ngày 4/3/2000 nhằm khuyến khích các nhân viên tham gia tìm hiểu về chương trình BHNT còn mới mẻ ở Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội để các nhân viên nâng cao kiến thức và kỹ năng phục vụ trong ngành BHNT.
Chính sách giáo dục LOMA của công ty đóng vai trò quan trọng trong việc huấn luyện đại lý hoàn thành các mục tiêu cũng như chiến lược kinh doanh của công ty. Chính vì vậy tháng 11/2000 công ty đã có 68 nhân viên thi đậu và tháng 5/2001 vừa qua có thêm 55 nhân viên thi đậu FLMI (Fellow Life Management Institute - Hội viên hiệp hội quản lý BHNT) tức là chính thức trở thành thành viên của LOMA (dự kiến tháng 11 có thêm 2 nhân viên nữa hoàn tất chương trình FLMI này). Nhiều đại lý rất thích đào tạo chuẩn hoá kiểu đạt chứng chỉ quốc tế này.
AIA đề cao trách nhiệm của đại lý.
Công ty BHNT quốc tế Mỹ đến tháng 6/2002 đã có khoảng 70.000 khách hàng với trên 6.000 tư vấn bảo hiểm. AIA coi trọng xây dựng đội ngũ huấn luyện tốt, có trách nhiệm cao để đủ sức đào tạo đội ngũ đại lý tốt. Công ty coi trọng đào tạo kỹ năng bán hàng, kiến thức sản phẩm đặc biệt được học quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
Bảo Minh - CMG kiểm soát đạo đức nghề nghiệp.
Theo số liệu tháng 6/2002 công ty hiện có 285.000 hợp đồng với 2.500 đại lý. Công ty có ý định không chạy theo số lượng đại lý mà trước hết tập trung vào chất lượng đại lý nên công ty coi trọng đào tạo và kiểm soát sự hoạt động của đại lý để khen thưởng hoặc sử lý nghiêm các vi phạm về tính trung thực và về chất lượng đại lý.
d) Các hoạt động nhằm tạo ra, duy trì và phát triển động lực trong công việc của người đại lý BHNT.
Tuyển chọn và đào tạo đại lý BHNT là những công việc đầu tiên và hết sức quan trọng trong công tác quản lý mạng lưới đại lý, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng khai thác qua đó ảnh hưởng đến doanh thu phí của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra một yếu tố cũng không kém phần quan trọng mà một công ty BHNT hay cụ thể hơn là những nhà quản lý mạng lưới đại lý cần phải xem xét đó là làm như thế nào để tạo ra, duy trì và phát triển động lực trong công việc của người đại lý BHNT.
Đạt được điều đó cũng đồng nghĩa với việc nhà quản lý đang dần dần hoàn thiện công tác quản lý của mình, mỗi nhà quản lý khác nhau có cách làm khác nhau nhưng tất cả đều mong muốn đạt được mục tiêu đó là tạo ra và không ngừng kích thích sự phát triển động lực trong công việc của người đại lý BHNT, gắn kết các đại lý với nhau trong công việc, tạo điều kiện cho họ giúp đỡ nhau và giúp đỡ họ khi cần thiết.
Các hoạt động cơ bản mà nhà quản lý mạng lưới đại lý tổ chức bao gồm:
Một là, họ thường tổ chức các hoạt động đoàn thể, phong trào: Xuất phát từ đặc điểm công việc của đại lý là khá chủ động về giờ giấc, ít chịu sự quản lý của công ty. Do đó , quỹ thời gian rỗi của họ nhiều khi bị sử dụng một cách lãng phí. Vì vậy để khuyến khích được đại lý gắn bó với công việc, với cơ quan, sử dụng hiệu quả thời gian nhàn rỗi, các công ty BHNT thường tổ chức các hoạt động phong trào (văn hoá, văn nghệ, thể thao...) tạo điều kiện để đại lý được tham gia sinh hoạt các tổ chức đoàn thể tại đơn vị, từ đó giúp các đại lý gần gũi nhau hơn, trao đổi giúp đỡ nhau trong công việc.
Hai là, các công ty thường đưa ra những quy chế khen thưởng và kỷ luật đại lý.
Bất kỳ một hoạt động nào có tổ chức và muốn đạt hiệu quả đều cần đến quy chế thưởng phạt đối với các thành viên của mình. Với hoạt động đại lý, do đặc thù là các giao dịch trực tiếp với khách hàng, đại lý khá chủ động về thời gian và thường nắm giữ một khối lượng tiền lớn nên quy chế này càng được các công ty thực hiện nghiêm minh. Tuy nhiên, bên cạnh mục tiêu phòng ngừa sai phạm, răn đe những hành vi tiêu cực thì quy chế thưởng phạt còn nhằm tạo động lực và khuyến khích đại lý khai thác. Mỗi công ty cần căn cứ vào tình hình thực tế ở từng địa phương, từng công ty để đưa ra một quy chế phù hợp. Song việc khen thưởng - kỷ luật cần đảm bảo nguyên tắc chung là phải tạo ra tâm lý thoải mái cho đại lý trong việc chấp hành, không nên quá gò bó, khắt khe, thưởng - phạt phải tương xứng.
Ba là, các công ty thường hỗ trợ các đại lý trong công việc.
Trong quá trình đi làm, đại lý rất cần sự hỗ trợ từ phía công ty BHNT trên nhiều góc độ khác nhau: trợ giúp về cơ sở vật chất, tư vấn, tháo gỡ những tình huống khó khăn trong quan hệ với khách hàng, trợ cấp khi đi học nghiệp vụ, khi ốm đau...
Bốn là, con đường thăng tiến cho đại lý.
Bên cạnh mong muốn có công việc ổn định, thu nhập cao, đại lý còn có nguyện vọng được khẳng định mình với công ty, với xã hội. Việc bổ nhiệm những đại lý làm tốt lên những chức vụ cao hơn cũng là một biện pháp có tác dụng khuyến khích rất có hiệu qủa được nhiều công ty áp dụng.
2.4 Chức năng kiểm tra
Kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm đảm bảo cho các mục tiêu của doanh nghiệp và các kế hoạch vạch ra để đạt tới mục tiêu này đã đang được hoàn thành.
Như vậy, kiểm tra là chức năng quan trọng của cá nhân mọi nhà quản lý từ chủ doanh nghiệp đến người phụ trách các bộ phận trong doanh nghiệp.
Đối với hoạt động quản lý mạng lưới đại lý BHNT, các nhà quản lý thường kiểm tra các mặt sau: việc thực hiện các quy định của công ty như sinh hoạt đại lý hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng...kiểm tra việc nộp phí cho công ty theo hợp đồng đại lý, kiểm tra số lượng hợp đồng mà mỗi đại lý khai thác được, kiểm tra về tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng, kiểm tra về công tác tuyển dụng và đào tạo đại lý BHNT ...
Từ kết quả kiểm tra nhà quản lý tiến hành so sánh với kế hoạch và định mức đã đặt ra, từ đó đưa ra những quyết định kịp thời để sửa chữa những sai lầm nếu có. Loại bỏ những đại lý hoạt động kém hiệu qủa như số lượng hợp đồng khai thác được ít hay tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng cao, đồng thời loại bỏ cả những đại lý mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến uy tín và kết quả kinh doanh của công ty.
III. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý mạng lưới đại lý BHNT tại Việt Nam
1. Đối với doanh nghiệp BHNT
Tại hội nghị Quản lý và phát triển ngành bảo hiểm nhân thọ VN (Đà Nẵng, ngày 18/9) do Hiệp hội Bảo hiểm VN tổ chức, Tổng Thư ký Hiệp hội Bảo hiểm VN Phùng Đ ắc Lộc cho biết: Qua 10 năm triển khai, thị trường BHNT VN đã phát triển vượt bậc. Đặc biệt, từ năm 1999 - 2000, việc Bộ Tài chính cấp phép hoạt động cho các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài vào VN như Manulife, Prudential, AIA và liên doanh Bảo Minh CMG đã đưa thị trường BHNT VN có những bước tiến nhanh chóng và vững chắc.
Cả nước hiện có khoảng 7 triệu người tham gia BHNT, chiếm 7% dân số. Riêng trong giai đoạn 2000 - 2004, doanh thu phí BHNT tăng bình quân 40%/năm, đạt 7.886 tỷ đồng vào cuối năm 2004, xấp xỉ 1,25% GDP. Đến nay đã có trên 100 sản phẩm BHNT trên thị trường VN, từng bước đáp ứng nhu cầu phong phú của nhiều đối tượng khách hàng trong việc bảo vệ bản thân, bảo vệ gia đình lẫn nhu cầu tích luỹ tài chính cho những dự án, mục tiêu trong tương lai...
5 năm gần đây, đã có số lượng lớn khách hàng hưởng lợi từ BHNT khi hợp đồng bảo hiểm đáo hạn hoặc khi gặp rủi ro, có sự kiện bảo hiểm xảy ra với khoảng 800 tỷ đồng được chi trả mỗi năm. Đồng thời các doanh nghiệp BHNT cũng chi trả xấp xỉ 500 tỷ đồng /năm giá trị hoàn lại cho khách hàng chấm dứt hợp đồng trước hạn theo đúng cam kết trong hợp đồng...
Ông Phùng Đ ắc Lộc khẳng định: “Năng lực tài chính của các doanh nghiệp tham gia thị trường BHNT VN tăng lên rõ rệt, tính đến cuối năm 2004 đạt tổng vốn chủ sở hữu 3.400 tỷ đồng, gấp 3 lần năm 2001. Các doanh nghiệp BHNT cũng tích luỹ được 15.692 tỷ đồng cho quỹ dự phòng nghiệp vụ (chiếm 84,5% tổng dự phòng của toàn ngành bảo hiểm VN). Số tiền này được dùng đầu tư phát triển nền kinh tế VN như mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc, kinh doanh bất động sản, góp vốn liên doanh, cho các doanh nghiệp và người tham gia BHNT vay vốn... Lãi đầu tư chủ yếu được dùng để chi trả bảo tức cho người tham gia bảo hiểm... Ngoài ra, các doanh nghiệp BHNT cũng thu hút và tạo việc làm cho 5.000 cán bộ nhân viên bảo hiểm, 100.000 đại lý bảo hiểm, góp phần giảm bớt khó khăn cho xã hội.
1.1 Về công tác tổ chức
Trước những khó khăn mà Bảo Việt gặp phải trong quá trình “chuyên môn hoá” đại lý BHNT, đồng thời qua quá trình tìm hiểu và tham khảo một số ý kiến, em xin đưa ra một vài ý kiến với hy vọng ứng dụng được trong thực tế:
Giảm số lượng đại lý tổng hợp: Về tổng thể các công ty đều đã có đại lý chuyên khai thác và đại lý chuyên thu phí, nhưng số lượng đại lý tổng hợp vẫn còn khá lớn. Nguyên nhân chính là vì các đại lý tổng hợp trước đây vẫn hoàn thành một cách xuất sắc cả hai chức năng của mình là khai thác hợp đồng mới và thu phí định kỳ. Tuy nhiên, số đại lý tổng hợp này thường được phân bố ở các vùng đặc thù xa xôi, hẻo lánh, tiềm năng khai thác ít, không thể phân công được đại lý chuyên thu phí.
Phân công đại lý chuyên thu theo địa bàn và đại lý chuyên khai thác: Hiện tại, đại lý chuyên thu phí được giao theo dõi và thu phí các hợp đồng của nhiều đại lý chuyên khai thác, rải rác tại nhiều vùng địa bàn khác nhau. Việc phân công như vậy khiến đại lý chuyên thu phí tốn nhiều công sức, thời gian để có thể thu đủ phí theo yêu cầu của công ty. Giải pháp tốt nhất là phân công mỗi địa bàn một đại lý chuyên thu phí chuyên trách. Ngoài ra căn cứ vào tình hình thực tế, khi bàn giao hợp đồng các đại lý chuyên khai thác thường có xu hướng chuyển cho những đại lý thu phí “quen biết mình” nên có thể phân công một đại lý chuyên thu phí nhận toàn bộ hợp đồng của từ một đến ba đại lý chuyên khai thác, nhất là các đại lý chuyên khai thác có mối quan hệ tốt với đại lý chuyên thu phí.
Tăng cường hỗ trợ mạnh đại lý chuyên khai thác: Nhiệm vụ chính của đại lý chuyên khai thác là tìm kiếm khách hàng mới, thuyết phục khách hàng tham gia bảo hiểm , thu phí bảo hiểm đầu tiên. Muốn tăng được doanh thu, tăng được số hợp đồng thì các đại lý chuyên khai thác phải nhận được sự hỗ trợ đặc bịêt từ phía các công ty như: tìm kiếm các đầu mối khách hàng lớn là tổ chức, tập thể; hỗ trợ phương tiện, cơ sở vật chất để đại lý đi khai thác như cung cấp tờ rơi, bố trí xe đưa đón đại lý; trường hợp đại lý tự khai thác được các khách hàng lớn là tổ chức, tập thể, thậm chí là cá nhân, nhưng khách hàng yêu cầu công ty đến làm việc, công ty bố trí thời gian làm việc với khách hàng, không khoán trắng cho đại lý; xây dựng chế độ hoa hồng phù hợp; tăng cường thi đua khen thưởng khai thác mới; đẩy mạnh dịch vụ khách hàng.
Nên liên kết với những dịch vụ khác như ngân hàng, các tổ chức thương mại lớn để thuận tiện trong việc phục vụ khách hàng
1.2 Về công tác tuyển chọn đại lý BHNT
Để đảm bảo chất lượng đại lý ngay từ những bước ban đầu, mỗi công ty cần xây dựng cho mình một quy chế thi tuyển chặt chẽ, bài bản trên cơ sở các quy định của tổng công ty và phù hợp với địa phương mình. Dưới đây là một số đề xuất nhỏ mà các công ty có thể tham khảo trong quá trình xây dựng quy chế tuyển chọn.
Về tiêu chuẩn tuyển chọn:
Các công ty nên tuyển những người đã có một nghề nghiệp hay một trình độ chuyên môn nhất định - nếu không phải là tốt nghiệp đại học, cao đẳng thì có thể là trung cấp hoặc đã qua một khoá đào tạo nghề hoặc đã đi làm, không nên tuyển những người có trình độ đơn thuần chỉ là phổ thông trung học. Đồng thời cần chú trọng đến khả năng giao tiếp, ứng xử và các mối quan hệ mà họ có.
Về tuổi tác: Độ tuổi phù hợp có thể là trong khoảng từ 26-40, vì lứa tuổi trên 26 thường đã đạt tới độ chín trong suy nghĩ và hành động, việc lựa chọn nghề đã qua cân nhắc khá kỹ lưỡng, còn dưới 40 tuổi để đảm bảo không quá già, sức khoẻ còn tốt và còn hăng say với công việc. Tuy vậy vẫn có thể giao động xung quanh khung này tuỳ theo từng địa phương.
Đối với các yếu tố khác như ngoại hình, phương tiện đi lại, khả năng tài chính...cũng rất đáng quan tâm và cần có sự ưu tiên cho những người có ngoại hình ưa nhìn, có xe máy và có thể tự chủ về mặt tài chính. Đặc biệt, không thể bỏ qua yếu tố tư cách đạo đức và tiểu sử công tác của ứng cử viên.
Về cách thức tuyển chọn.
Có thể tuyển đại lý từ tất cả các kênh, tuy nhiên nên tập trung chủ yếu vào hai kênh là qua đại lý giới thiệu và qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Đối với kênh tuyển qua đại lý cũ: Các công ty cần phải chú trọng hơn bằng cách phát động và khuyến khích đại lý cũ giới thiệu đại lý mới, đưa ra các hình thức khen thưởng thích đáng cho những người giới thiệu được đại lý mới với số lượng lớn và hiệu quả khai thác cao.
Đối với việc tuyển qua các phương tiện thông tin đại chúng: Để phát huy được tác dụng, chúng ta cần phải khắc phục những mặt hạn chế của hình thức này:
Về vấn đề chi phí: Các công ty có thể chọn các phương tiện vừa đơn giản, tiết kiệm lại hiệu quả như đài truyền thanh hoặc đề nghị với lãnh đạo chính quyền, ngành, đoàn thể ...hợp tác để kết hợp phổ biến trong các cuộc họp, hội nghị. Sau đó sẽ cử cán bộ công ty xuống tận nơi để tiến hành sơ tuyển vòng 1 (trước khi thi tuyển ở công ty).
Về việc xác minh thông tin của người dự tuyển: Để tránh tiếp cận nhầm người, các cán bộ của công ty được giao nhiệm vụ tuyển đại lý nên phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương nơi thí sinh cư trú, mặt khác cần làm tốt khâu phỏng vấn.
1.3 Về công tác đào tạo đại lý
Để khắc phục những hạn chế của công tác đào tạo như: Đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo chưa đều tay, khả năng sư phạm chưa cao và hầu như cũng chỉ đào tạo những gì mình có, chưa thực sự đáp ứng được những mong đợi của người đại lý. Nên chăng chúng ta cần đổi mới và cải tiến một số mặt sau:
Về phía trung tâm đào tạo của công ty:
Tập trung nghiên cứu, tổng hợp kinh nghiệm để đào “thầy” là chính, tức là đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên cho những người làm công tác đào tạo của các công ty, chuyển việc đào tạo đại lý trực tiếp cho công ty.
Đẩy mạnh công tác đào tạo từ xa thông qua bản tin hoặc đưa ra chủ đề tham luận, nghiên cứu...
Về phía những người làm công tác đào tạo tại công ty:
Yêu cầu người làm công tác đào tạo cần đáp ứng một số yêu cầu như phải hiểu sâu sắc và đầy đủ về BHNT, về các sản phẩm cuả mình và các công ty khác.
Phải có kiến thức thực tế, đặc biệt là về kỹ năng bán hàng. Hàng quý nên dành thời gian để trực tiếp làm nghiệp vụ bán hàng của người đại lý.
Phải có khả năng truyền đạt kiến thức cho người khác, mà ta thường gọi là khả năng sư phạm.
Ham học hỏi và thường xuyên tiếp xúc, gần gũi với đại lý.
Cách thức đào tạo:Việc đào tạo được tiến hành theo hai cách thức.
Một là, đào tạo bắt buộc: Đó là chương trình đào tạo có tính bắt buộc mà bất kỳ đại lý nào cũng phải trải qua và nắm vững những kiến thức cơ bản làm cơ sở tiếp nhận và phát triển các kiến thức khác như chương trình đào tạo đại lý cấp I, đại lý cấp II, III...Tuy nhiên ngay cả trong chương trình đào tạo đại lý cấp I cũng cần chia ra một số giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đào tạo cho đại lý tương lai những kiến thức cơ bản về bảo hiểm và BHNT, tập chung vào các sản phẩm bảo hiểm chủ lực hiện nay của công ty. Phần kỹ năng chỉ mang tính chất giới thiệu những bước công việc.
Giai đoạn 2: Sau khi đại lý đã thực hành bán hàng trong một thời hạn nhất định, nếu chúng ta trang bị lại và sâu hơn các kiến thức về BHNT để giúp họ có thể vận dụng trả lời khách hàng trong các tình huống cụ thể thực tế. Đồng thời, giới thiệu thêm các sản phẩm còn lại và giúp đại lý ý thức được một chu trình đầy đủ về khai thác BHNT.
Giai đoạn 3: Hệ thống hoá toàn bộ kiến thức của chương trình bảo hiểm cấp 1, giúp đại lý có thể ghi nhớ một cách hệ thống những kiến thức được cung cấp. Giai đoạn này người đại lý thường ở trạng thái “khủng hoảng” do các mối quen biết sẵn có bắt đầu khô cạn, do vậy cần hỗ trợ họ bằng quy trình khai thác hoàn thiện hơn.
Hai là, đào tạo theo yêu cầu: Là hình thức đào tạo đúng những kiến thức cần thiết mà đại lý đang mong đợi. Nó giúp tiết kiệm thời gian và tăng nhanh quá trình hoàn thiện và nâng cao trình độ nghiệp vụ của người đại lý. Đây là công việc rất quan trọng, quyết định người đại lý có trở thành người khai thác giỏi hay không. Người làm công tác đào tạo dựa trên yêu cầu của các phòng ban nghiệp vụ và của chính đại lý để xây dựng và thiết kế chương trình đào tạo phù hợp.
Đào tạo theo yêu cầu của các phòng ban nghiệp vụ: Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý của mình, các phòng ban chức năng sẽ nhận biết được người đại lý còn khiếm khuyết nào trong tác nghiệp và yếu ở khâu nào trong kỹ năng để đặt ra yêu cầu cần đào tạo bổ sung thêm phần thiếu và yếu đó, giúp đại lý hoàn thiện được kỹ năng và đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Đào tạo theo yêu cầu của đại lý: Trong công việc thực tế, chỉ có đại lý mới nhận thấy họ cần phải có thêm kiến thức gì. Yêu cầu này lại không giống nhau giữa các đại lý. Do vậy, nếu người làm công tác đào tạo thực hiện được yêu cầu này thì đại lý sẽ hào hứng hơn trong việc học tập, đón nhận kiến thức nhanh hơn và cũng tránh được tư tưởng đi học do công ty bắt buộc.
2. Đối với nhà nước
Bên cạnh những thành công, thị trường BHNT Việt Nam cũng tồn tại không ít những khó khăn, hạn chế cần được tháo gỡ. Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh BHNT ở nước ta còn yếu và chưa đồng bộ. Nhiều quy định chưa rõ ràng và thiếu chưa phù hợp với đặc tính của BHNT. Hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh đã xuất hiện mà chưa bị loại bỏ triệt để gây tác động xấu đến uy tín và chất lượng hoạt động của thị trường BHNT. Thị trường BHNT còn thiếu các công cụ đầu tư dài hạn, nên yếu tố hiệu quả và sự bền vững còn thấp. Mục tiêu tăng trưởng và mở rộng thị trường vẫn là trọng tâm mà các doanh nghiệp đặt ra; trình độ cán bộ, nhân viên đại lý làm BHNT còn nhiều bất cập, chưa có nhiều chuyên gia giỏi; công tác tuyên truyền, giới thiệu để quảng bá về BHNT đến mọi tầng lớp nhân dân chưa được làm tốt nên số đông người dân chưa hiểu rõ và không mặn mà với BHNT.
Những bất cập trên đều có thể khắc phục nếu đi vào triển khai và thực thi một hệ thống giải pháp đồng bộ liên quan đến thị trường BHNT cả về mặt pháp lý, chính sách chế độ, quyền lợi bộ máy tổ chức, đào tạo nhân lực... Nhà nước cần hoàn thiện một hành lang pháp lý để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh BHNT và bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp của người tham gia cũng như các doanh nghiệp BHNT. Đồng thời cần có chiến lược, chính sách hỗ trợ, định hướng phù hợp trong qua trình phát triển thị trường BHNT.
Do hoạt động đại lý BHNT có những điểm khác biệt so với các đại lý thương mại nói chung nên nhà nước cần có những quy định chặt chẽ và cụ thể hơn về tiêu chuẩn, điều kiện đào tạo, sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề đại lý BHNT. Đặc biệt để tiêu chuẩn hoá được đội ngũ đại lý BHNT Việt Nam ngang tầm với tiêu chuẩn của khu vực và thế giới, nhà nước cần quy định rõ nội dung đào tạo, đồng thời tổ chức tiến hành thi sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề đại lý, không nên giao hoặc uỷ quyền kiểm tra sát hạch và cấp chứng chỉ hành nghề đại lý cho doanh nghiệp. Thêm vào đó để đạt được hợp đồng đại lý BHNT phải bỏ ra khá nhiều chi phí như chi phí đi lại, tiếp thị,...do vậy khi xác định thuế thu nhập cho đại lý cũng cần có cách tính phù hợp.
Ngoài ra, để có thể phát triển nghề đại lý BHNT như là một nghề chuyên nghiệp, cần bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội để đại lý yên tâm công tác lâu dài, có nguồn tài chính đảm bảo khi hết khả năng lao động.
Trên đây là một số kiến nghị em muốn đưa ra để cùng trao đổi, với hy vọng rằng sẽ sớm tìm được tiếng nói chung, tìm ra giải pháp tối ưu để góp phần nâng cao chất lượng tuyển dụng và đào tạo đại lý BHNT nhằm không ngừng tăng cường chất lượng, hiệu quả công tác khai thác và phục vụ khách hàng. Từ đó hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý mạng lưới đại lý BHNT tại Việt Nam.
kết luận
với 10 năm hoạt động và phát triển BHNT đã khẳng định được vị trí số một trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Mặc dù vậy các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng đã gặp rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý nói chung và quản lý mạng lưới bảo hiểm nói riêng vì đây là loại hình kinh doanh khá mới mẻ đối với Việt Nam. Tuy nhiên các công ty BHNT đã luôn luôn tự hoàn thiện mình về mọi mặt trên cơ sở kinh nghiệm của các nước trên thế giới và áp dụng một cách phù hợp vào điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam. Vì vậy hoạt động kinh doanh BHNT đã đạt được những thành tựu to lớn hiện nay và đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước.
Nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh các công ty kinh doanh BHNT bên cạnh việc nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm để hấp dẫn khách hàng, còn đặc biệt coi trọng công tác quản lý mạng lưới đại lý của mình nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đại lý.
Bởi vậy, em chọn đề tài “Quản lý mạng lưới đại lý BHNT tại Việt Nam”.
Với sự hiểu biết về lý luận và qua tham khảo tài liệu, bài viết đã trình bày một cách khái quát có hệ thống các vấn đề phục vụ cho việc quản lý mạng lưới đại lý. Về thực tế, trên cơ sở tìm hiểu tình hình thực tế một số công ty BHNT tại Việt Nam đã giúp em phần nào hiểu được những hoạt động quản lý mà một số công ty đang tiến hành. Tuy nhiên do còn hạn chế về nhiều mặt nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự chỉ bảo giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn, các thầy cô trong bộ môn bảo hiểm và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô trong khoa Bảo hiểm và cô giáo hướng dẫn trực tiếp Tôn Thị Thanh Huyền đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Giáo trình bảo hiểm-Nhà xuất bản thống kê 2000.
2. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm - Nhà xuất bản thống kê 1998.
3. Giáo trình quản lý kinh tế - Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật 2000.
4. Những vấn đề cốt yếu của quản lý - Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật 1999.
5. Tạp chí bảo hiểm
6. Thời báo kinh tế Việt Nam 2007.
7. www.baoviet.com.vn
8. www.baominh.com.vn
9. www.prudential.com.vn
10. www.vnexpress.net
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 63118.DOC