Tài liệu Đề tài Quan điểm toàn diện với việc tìm hiểu hoạt động của các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay: Lời Mở đầu
Trong một nền kinh tế, vốn chính là điều kiện vật chất quan trọng hàng đầu để duy trì hoạt động và phát triển của sản xuất. Nó chính là nguồn lực bên trong đóng vai trò quan trọng để xây dựng hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng kĩ thuật trong sản xuất. Không chỉ có vậy, vốn hay còn gọi là Tư Bản giúp cho những đề án kinh doanh, những ý tưởng táo bạo trở thành hiện thực. Nếu vấn đề về vốn không được giải quyết thì không chỉ nền kinh tế mà cả đất nước sẽ lâm vào khủng hoảng. Đặc biệt là nền kinh tế của Việt Nam ta hiện nay, một nền kinh tế trẻ, mới chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN được 10 năm. Vốn là 1 vấn đề hết sức quan trọng, cấp thiết để duy trì nền kinh tế. Để có được nguồn vốn dồi dào, bên cạnh việc thu hút vốn của Tư Bản nước ngoài thì có lẽ việc huy động nội lực, tiền tệ có sẵn trong nhân dân là hướng đi thực sự đúng đắn trong thời điểm này. Để có thể huy động nguồn vốn tiềm tàng đó thì vai trò của các Ngân Hàng Thương Mại Nh...
16 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1034 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quan điểm toàn diện với việc tìm hiểu hoạt động của các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở đầu
Trong một nền kinh tế, vốn chính là điều kiện vật chất quan trọng hàng đầu để duy trì hoạt động và phát triển của sản xuất. Nó chính là nguồn lực bên trong đóng vai trò quan trọng để xây dựng hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng kĩ thuật trong sản xuất. Không chỉ có vậy, vốn hay còn gọi là Tư Bản giúp cho những đề án kinh doanh, những ý tưởng táo bạo trở thành hiện thực. Nếu vấn đề về vốn không được giải quyết thì không chỉ nền kinh tế mà cả đất nước sẽ lâm vào khủng hoảng. Đặc biệt là nền kinh tế của Việt Nam ta hiện nay, một nền kinh tế trẻ, mới chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN được 10 năm. Vốn là 1 vấn đề hết sức quan trọng, cấp thiết để duy trì nền kinh tế. Để có được nguồn vốn dồi dào, bên cạnh việc thu hút vốn của Tư Bản nước ngoài thì có lẽ việc huy động nội lực, tiền tệ có sẵn trong nhân dân là hướng đi thực sự đúng đắn trong thời điểm này. Để có thể huy động nguồn vốn tiềm tàng đó thì vai trò của các Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước là hết sức quan trọng. Sự tồn tại của các Ngân Hàng sẽ góp phần lưu thông nguồn vốn trong xã hội. Ngoài ra, sự tồn tại của các Ngân Hàng còn góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định tăng trưởng kinh tế liên tục ở mức cao. Việc sử dụng các dịch vụ Ngân Hàng còn góp phần đưa ra 1 sự minh bạch về tài chính của các cá nhân, tổ chức... Nó góp phần hạn chế các hoạt động rửa tiền phi pháp. Vì vậy, việc tổ chức hoạt động giao dịch của các Ngân Hàng luôn được xem là vấn đề đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của các nước nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trên thế giới hiện nay, hoạt động của các Ngân Hàng như World Bank, City Bank... cùng với các tổ chức tài chính lớn như quỹ tiền tệ quốc tế IMF là hết sức quan trọng. Và ở Việt Nam ta, tuy lịch sử phát triển của ngành Ngân Hàng vẫn còn non trẻ nhưng Đảng và Nhà Nước đã thấy được vai trò quyết định của nó. Chúng ta hiện đang có 4 Ngân Hàng Thương Mại lớn nhất: Ngân hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu Tư Phát Triển Việt Nam. Các ngân hàng này đã điều tiết nền kinh tế Việt Nam, điều chỉnh nguồn ngoại tệ cho phù hợp. Ngân hàng với lịch sử tồn tại của mình đã để lại rất nhiều tiện ích nhưng kèm theo nó cũng có không ít khiếm quyết và bất cập. Bởi vậy, tìm hiểu hoạt động của các Ngân hàng là một hoạt động cần thiết để có thể đưa ra các dịch vụ Ngân hàng ngày càng mang lại nhiều tiện ích cho nhân dân.
quan điểm toàn diện với việc tìm hiểu hoạt động của các ngân hàng ở việt nam hiện nay
ChươngI: Quan điểm toàn diện
1.1Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
1.1.1Khái niệm:
Theo quan điểm của các nhà biện chứng duy vật, họ coi thế giới như một chỉnh thể thống nhất, các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới vừa tách biệt nhau, vừa có mối liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. Cơ sở của mối liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới.
1.1.2Các tính chất:
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
-Bất cứ một sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
-Mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tùy theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến chung nhất.
-Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối quan hệ chủ yếu và mối quan hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực của thế giới, mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp.
1.2Nguyên lí về sự phát triển:
1.2.1Những quan niệm khác nhau về sự phát triển:
*Sự tác động qua lại giữa các yếu tố trong một sự vật hay giữa các vật làm cho sự vận động và phát triển. Xem xét về sự phát triển cũng có những quan điểm khác nhau, đối lập nhau: quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng.
-Quan điểm siêu hình: xem xét sự phát triển chỉ tăng lên hay giảm đi đơn thuần về mặt lượng, không có gì thay đổi về mặt chất của sự vật.
-Đối lập với quan điểm siêu hình, quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa ra sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách quan hay trong tư duy chủ quan, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
1.2.2Tính chất của sự phát triển:
-Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì như trên đã phân tích theo quan đIểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó, sự vật luôn phát triển. Sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng chủ quan của con người.
-Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy ở bất kì sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan.
-Ngoài tính khách quan và phổ biến, sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng. Song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm thụt lùi.
=>Từ việc nghiên cứu nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng chúng ta cần rút ra quan điểm toàn diện về nhận thức, xem xét các hiện tượng cũng như trong hoạt dộng thực tiễn. Để nhận thức đúng đắn về sự vật chúng ta cần phải:
+Xem xét sự vật, hiện tượng đó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, hiện tượng, giữa các yếu tố, thuộc tính chính của sự vật đó.
+Xem xét sự vật hiện tượng trong mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
+Sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong không gian và thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian và thời gian đó. Vì vậy, chúng ta phải có quan đIểm lịch sử cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi vấn đề thực tiễn đặt ra. Để giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra chúng ta cần phải chú ý đến hoàn cảnh lịch sử làm phát sinh vấn đề đó, phải quan tâm đến bối cảnh hiện thực, cả khách quan và chủ quan.
1.3Vấn đề về sự phát triển Ngân Hàng:
Trong sự phát triển của tất cả mọi vật, chúng đều có sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong tất cả mọi lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, hoạt động XH... thì mối liên hệ phổ biến luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Trong sự phát triển hoạt động của Ngân Hàng cũng không phải là ngoại lệ. Sự phát triển của một Ngân Hàng phụ thuộc vào sự phát triển của các khâu: huy động vốn, hoạt động tín dụng và dịch vụ Ngân Hàng. Thật vậy, đây là 3 vấn đề quan trọng nhất, cơ bản nhất quyết định sự phát triển và tồn tại của mỗi Ngân Hàng. Vốn là một vấn đề mà Ngân Hàng nào cũng phải quan tâm. Chỉ khi có một nguồn vốn dồi dào thì nội lực của mỗi Ngân Hàng mới có thể được phát huy. Và khi đó hoạt động tín dụng của mỗi Ngân Hàng mới được tiến hành một cách hiệu quả. Nguồn vốn trong mỗi Ngân Hàng sẽ đẩy mạnh hoạt động tín dụng, vốn càng lớn thì hoạt động cho vay của các Ngân Hàng sẽ càng lớn. Nhưng không chỉ có hoạt động huy động vốn và tín dụng có mối liên hệ với nhau mà dịch vụ của mỗi Ngân Hàng cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Những dịch vụ tiện ích, nhanh chóng luôn là sự lựa chọn hàng đầu của khách hàng cả người gửi và người vay. Thủ tục nhanh chóng, sự phục vụ tận tình, chu đáo luôn là một yếu tố cần thiết làm nên bộ mặt của Ngân Hàng Thương Mại.
ChươngII
Theo thời gian, cùng sự phát triển của các Ngân Hàng trên thế giới thì các Ngân Hàng của Việt Nam, nổi bật là 4 Ngân Hàng: Incombank, Vietcombank, Agribank,... cũng đã phát triển nhanh chóng. Hoạt động của các Ngân Hàng này thì trên rất nhiều lĩnh vực...
2.1Giao dịch thương mại của Ngân Hàng Thương Mại trong lĩnh vực huy động vốn:
2.1.1Giao dịch nhận tiền gửi:
Trong lịch sử phát triển của Ngân Hàng, nhận tiền gửi được xem là một loại hình giao dịch lớn nhất và lâu đời nhất. Giao dịch nhận tiền gửi từ chỗ chỉ là giao dịch dân sự thuần túy đã trở thành những giao dịch mang tính chất thương mại rõ rệt. Thế ta hiểu giao dịch nhận tiền gửi như thế nào? Dưới góc độ kinh tế, hoạt động nhận tiền gửi được nhìn nhận như một nghiệp vụ kinh doanh của Ngân Hàng Thương Mại và nội dung chủ yếu là tiếp nhận các khoản tiền gửi của khách hàng thông qua việc mở các tài khoản cho khách hàng như: tài khoản tiền gửi định kì (tiền gửi có kì hạn), tài khoản tiền gửi hoạt kì (tiền gửi không kì hạn) và tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Việc các Ngân Hàng Thương Mại mở các tài khoản tiền gửi này cho khách hàng không đơn thuần là một hoạt động giữ hộ tài sản hay quản lí tài sản cho khách hàng để nhận tiền thù lao mà quan trọng hơn nó là nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ đi vay của Ngân Hàng Thương Mại từ nền kinh tế. Dưới góc độ pháp lí, giao dịch nhận tiền gửi của Ngân Hàng Thương Mại được hiểu là cam kết song phương của Ngân Hàng Thương Mại và khách hàng gửi tiền, thông qua việc giao kết hợp đồng gửi tiền. Ban đầu, Ngân Hàng chỉ giữ hộ khách hàng nhưng về sau do yêu cầu sử dụng mà Ngân Hàng sử dụng chính số tiền gửi này để cho vay hay đầu tư vào mục đích khác nhằm mục đích sinh lợi, với điều kiện hoàn trả cho người gửi tiền toàn bộ số vốn đã sử dụng, kèm theo một khoản tiền lãi nhất định tùy theo thời hạn.
Ngày nay ở Việt Nam ta, hoạt động về giao dịch nhận tiền gửi là trong những hoạt động cơ bản của các Ngân Hàng. Trong các Ngân Hàng, với một hệ thống chi nhánh và phòng giao dịch đã tỏa khắp cả nước để phục vụ khách hàng. Với các nghiệp vụ Marketing của mình như: Quảng cáo, mở các phiếu dự thưởng với các giải thưởng có giá trị, các Ngân Hàng đã thu hút các nguồn vốn đầu tư dư thừa trong nhân dân. Điển hình là 2 Ngân Hàng: Viêtcombank, Agribank. Ngân hàng Agribank với phương châm phục vụ người dân là chủ yếu đã mở mở một hệ thống rộng khắp với hơn 2000 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc. Từ vùng Tây Bắc núi cao hẻo lánh đến những đô thị sầm uất như Sài Gòn, Hà Nội... Agribank luôn có mặt. Còn Ngân Hàng Vietcombank, đây là Ngân hàng quốc doanh có uy tín hàng đầu Việt Nam. Phương châm của Ngân Hàng là là chất lượng. Đối tượng gửi tiền của Ngân Hàng Vietcombank là các công ty lớn của Nhà Nước cũng như tư nhân. Ngân Hàng có số vốn lớn nhất trong 4 Ngân Hàng Thương Mại lên tới 8 tỉ USD.
Tuy nhiên hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế nước ta hơn 8%/năm. Bởi vậy, vốn là 1 vấn đề hết sức bức thiết. Dẫn đến việc huy động vốn là quan trọng hơn bao giờ hết. Thế nên nước ta hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt của các Ngân Hàng nhằm thu hút vốn trong nhân dân. Sự cạnh tranh là rất cần thiết nhưng đôi khi cạnh tranh cũng gây ra những hậu quả khó có thể giải quyết được. Đặc biệt là sự tăng lãi suất hàng loạt của các Ngân Hàng, mà chủ yếu là các Ngân Hàng tư nhân, Ngân Hàng liên doanh. Điều này có thể gây ra 1 sự hỗn loạn trong thị trường tiền tệ, gây nhiều hậu quả, thậm chí gây ra sự phá sản hàng loạt của các Ngân Hàng.
Để giải quyết được vấn đề này, Đảng và chính phủ cần có các cơ chế hợp lí để đIều chỉnh tình hình lãi suất cho phù hợp. Nhà Nước phải đưa ra một giới hạn lãi suất thích hợp cho tất cả các Ngân Hàng hoạt động trong nước. Đặc biệt theo ý kiến của bản thân em, các Ngân Hàng nên kí thỏa thuận chung về lãi suất. Các Ngân Hàng chỉ nên cạnh tranh nhau về chất lượng phục vụ chứ không sử dụng tăng lãi suất tiền gửi hay giảm lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Nếu sử dụng phương pháp này để thỏa mãn mục đích của mình, thiệt hại phải gánh chịu lại chính là các Ngân Hàng.
2.1.2Giao dịch và phát triển giấy tờ có giá;
Trong lịch sử phát triển Ngân Hàng, việc phát hành các giấy tờ có giá để huy động vốn được xem là loại hình giao dịch ra đời muộn hơn so với giao dịch nhận tiền gửi của Ngân Hàng Thương Mại. Loại giấy tờ có giá đầu tiên do Ngân Hàng Thương Mại phát hành ra công chúng để huy động vốn và được công chúng chấp nhận như một loại tiền, đó là chứng thư tiền gửi. Về sau, do nhu cầu huy động vốn ngày càng gia tăng, cùng với sự chấp nhận rộng rãi của công chúng đối với các loại giấy tờ có giá này, các Ngân Hàng Thương Mại đã bắt đâù phát hành thêm một số loại giấy tờ có giá khác với hình thức và nội dung hấp dẫn hơn như tín phiếu Ngân Hàng và trái phiếu Ngân Hàng. Nói chung, tất cả các loại giấy tờ có giá này cho dù có thể có những tên gọi khác nhau nhưng đều có bản chất giống nhau: đó là phiếu hay chứng khoán ghi nợ, trong đó phản ánh việc Ngân Hàng mắc nợ người sở hữu tờ phiếu một số tiền nhất định và phải trả cho chủ sở hữu tờ phiếu số tiền đó khi đến thời hạn ghi phiếu nợ.
Về phương diện kinh tế, giao dịch phát hành giấy tờ có giá được hiểu là nghiệp vụ huy động vốn của Ngân Hàng Thương Mại. Nghiệp vụ này được thực hiện thông qua Ngân Hàng Thương Mại phát hành ra công chúng những loại giấy tờ có giá dưới dạng chứng khoán nợ để vay tiền của công chúng, với cam kết hoàn trả lại số tiền đó kèm theo một khoản lãi vào ngày đáo hạn. Về phương diện pháp lí, giao dịch phát hành giấy tờ có giá của Ngân Hàng Thương Mại được hiểu là hành vi pháp lí theo đó Ngân Hàng Thương Mại cam kết vay tiền của khách hàng trong 1 thời hạn nhất định với điều kiện sẽ hoàn trả cho khách hàng số tiền ghi trên chứng khoán thu nhận nợ do Ngân Hàng phát hành.
Giao dịch phát hành giấy tờ có giá của Ngân Hàng Thương Mại có đặc trưng cơ bản sau đây:
-Về bản chất pháp lí, việc phát hành giấy tờ có giá của Ngân Hàng Thương Mại ra công chúng thực chất là một hành vi vay tiền của khách hàng chứ không phải là hành vi bán giấy tờ có giá cho khách hàng.
-Đối tượng của giao dịch: mặc dù tên gọi của giao dịch là phát hành giấy tờ có giá nhưng đối tượng của giao dịch không phải là giấy tờ có giá do Ngân Hàng phát hành mà chính là những khoản tiền vốn do khách hàng đồng ý chuyển quyền sở hữu cho Ngân Hàng với điều kiện Ngân Hàng phải hoàn trả sau một thời hạn nhất định, kèm theo khoản tiền lãi đã thỏa thuận.
-Về tư cách pháp lí khi phát hành giấy tờ có giá để vay nợ của khách hàng, Ngân Hàng có tư cách là người vay hay người mắc nợ, còn khách hàng mua giấy tờ có giá có tư cách là người cho vay hay chủ nợ của Ngân Hàng.
Có thể nói, hoạt động giao dịch và phát hành giấy tờ có giá là một trong những hoạt động giao dịch rất quan trọng. Nó giúp huy động vốn cho Ngân Hàng. Tuy nhiên, hoạt động này đôi khi cũng có những rủi do nhất định. Các Ngân Hàng có thể lâm vào hoàn cảnh khó khăn, có thể dẫn đến phá sản khi nợ chưa thu được hết mà ngày trái phiếu đáo hạn đã đến. Bởi vậy, để hoạt động này diễn ra với hiệu quả lớn nhất mà chúng ta có thể làm được, chúng ta phải xây dựng hệ thống cho vay để có thể thu hồi vốn nhanh chóng.
2.1.3Giao dịch vay vốn của Ngân Hàng Thương Mại từ Ngân Hàng trung ương:
Trong lịch sử Ngân Hàng, ngoài hình thức nhận tiền gửi và phát hành các giấy tờ có giá thì việc huy động vốn từ Ngân Hàng trung ương cũng là hình thức được các Ngân Hàng Thương Mại ưa sử dụng. Bởi lẽ, lợi ích của phương thức này là nó cho phép Ngân Hàng Thương Mại có khả năng huy động vốn nhanh chóng, kịp thời để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của mình.
Tại Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia cũng như hoạt động kinh doanh Ngân Hàng trong điều kiện nền kinh tế thị trường đều quy định tổ chức tín dụng là Ngân Hàng được vay vốn ngắn hạn của Ngân Hàng Nhà Nước theo chế độ tái cấp vốn. Xét về phương diện kinh tế, giao dịch vay vốn của Ngân Hàng trung ương là 1 trong những nghiệp vụ quản lí tài sản nợ của Ngân Hàng Thương Mại. Nghiệp vụ này không chỉ phản ánh khoản nợ mà nó phải trả cho chủ nợ (Ngân hàng trung ương) mà còn thể hiện vai trò trung gian của Ngân Hàng Thương Mại giữa Ngân Hàng trung ương với các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Còn theo phương diện pháp lí, giao dịch vay vốn Ngân Hàng trung ương được quan niệm là hành vi pháp lí do Ngân Hàng Thương Mại thực hiện bằng cách kí kết các hợp đồng tái cấp vốn với Ngân Hàng trung ương để vay vốn ngắn hạn nhằm thỏa mãn nhu cầu kinh doanh của mình.
Giao dịch vay vốn Ngân Hàng Thương Mại từ Ngân Hàng trung ương có những đặc trưng sau:
-Về hạn vay vốn của Ngân Hàng trung ương, do mục đích vay vốn của Ngân Hàng trung ương đối với Ngân Hàng Thương Mại là để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và thực hiện chức năng giám sát hoạt động Ngân Hàng trong nền kinh tế nên về nguyên tắc, Ngân Hàng Thương Mại chỉ có thể vay tiền của Ngân Hàng trung ương trong thời hạn ngắn và khả năng vay dễ dàng hay khó khăn luôn phụ thuộc vào yêu cầu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân Hàng trung ương trong từng thời kì.
-Về hình thức vay vốn của Ngân Hàng trung ương. Ngân Hàng Nhà Nước được tái cấp vốn cho Ngân Hàng Thương Mại theo các hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác.
Mục đích tham gia vào giao dịch. Nếu Ngân Hàng trung ương xác lập giao dịch này với Ngân Hàng Thương Mại là để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và hoàn toàn không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận thì trái lại, Ngân Hàng Thương Mại lại tham gia vào giao dịch này nhằm mục tiêu chính là vay tiền để thỏa mãn nhu cầu kinh doanh tiền tệ của mình với mục tiêu cuối cùng là thu lợi nhuận tối đa.
2.1.4Giao dịch vay vốn của Ngân Hàng Thương Mại từ tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân Hàng:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, đôi khi một Ngân Hàng Thương Mại có thể lâm vào tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời mà việc vay vốn của công chúng bằng hình thức tiền gửi, phát hành trái phiếu hay thậm chí vay vốn của Ngân Hàng trung ương không thể nào giải quyết được. Trong những trường hợp như vậy, giải pháp thích hợp nhất mà Ngân Hàng Thương Mại có thể lựa chọn là đề nghị tổ chức tín dụng khác cung cấp cho mình một khoản tín dụng thông qua hình thức kí hợp đồng tín dụng hay hợp đồng chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá với tổ chức tín dụng đó.
2.2Giao dịch thương mại của Ngân Hàng Thương Mại trong lĩnh vực cấp tín dụng:
2.2.1Giao dịch cho vay của Ngân Hàng Thương Mại:
Trong nền kinh tế thị trường, cho vay là loại hình giao dịch cấp tín dụng mang tính truyền thống và phổ biến nhất của Ngân Hàng Thượng Mại. Xét từ góc độ kinh tế, cho vay được quan niệm là một nghiệp vụ quản lí tài sản của Ngân Hàng Thương Mại, theo đó phản ánh khoản tiền mà Ngân Hàng có thể đòi từ phía khách hàng, với tư cách là chủ nợ. Còn ở góc độ pháp lí, giao dịch cho vay tiền và giao dịch cho vay vốn của Ngân Hàng Thương Mại nói riêng có thể quan niệm là một hợp đồng qua đó người cho vay cam kết giao cho người vay một khoản tiền và người vay cam kết sẽ hoàn trả cho người vay khoản tiền tương ứng với số tiền đã vay kèm theo khoản lãi do các bên thỏa thuận.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động cho vay:
-Giao dịch cho vay của Ngân Hàng luôn có mục đích và tạo ra hệ quả là tạo ra một hợp đồng cho vay với khách hàng.
-Mục đích cho vay của Ngân Hàng là ứng vốn cho người vay sử dụng trong 1 thời hạn nhất định để được nhận tiền lãi, thông qua hành vi chuyển giao quyền sở hữu vốn cho người vay.
-Hệ quả pháp lí của việc cho vay là Ngân Hàng phải chuyển giao quyền sở hữu tài sản là vốn vay cho bên vay bằng thủ tục giải ngân theo phương thức đã thỏa thuận trong hoạt động tín dụng.
Giao dịch cho vay của Ngân Hàng Thương Mại là một trong những hoạt động quan trọng. Nó là nguồn thu nhập chính của mỗi Ngân Hàng giúp cho Ngân Hàng có thể tồn tại và phát triển được. Tuy nhiên, đây cũng chính là hoạt động mang nhiều rủi do cao. Nó có thể làm sụt giảm nguồn vốn của những Ngân Hàng bởi những khoản nợ khó đòi hoặc không thể chi trả. Công việc cho vay này tùy thuộc vào nhân viên phòng tín dụng. Đây là phòng đầu não, quan trọng nhất, được hưởng lương cao nhất và cũng nhiều rủi do nhất trong lĩnh vực Ngân Hàng. Nhiều nhân viên trong ngành Ngân Hàng do thiếu kinh nghiệm, nghiệp vụ yếu kém đã xác minh nguồn gốc tài sản thế chấp của khách hàng lệch so với giấy tờ gây hậu quả nghiêm trọng. Chẳng hạn một căn nhà nhưng một người lại thế chấp vay tiền tại nhiều Ngân Hàng khác nhau. Nhưng đây chỉ là những trường hợp vô ý. Còn có ngững trường hợp cố ý gây thất thoát tài sản Nhà Nước XHCN. Do họ được trích % hoa hồng từ hợp đồng cho vay bởi vậy họ làm ăn thiếu trách nhiệm, đôi khi làm ngơ trước những sai trái của người vay tiền. Đã có rất nhiều sự kiện liên quan đến các hoạt động tín dụng cho vay của các Ngân Hàng Thương Mại. Đặc biệt trong nhưng năm gần đây là vụ của Lã Thị Kim Oanh vay tiền của các Ngân Hàng Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn Việt Nam nhưng không có khả năng chi trả gây thất thoát lớn tài sản Nhà Nước. Một phần nguyên nhân làm sự việc diễn ra là do các cán bộ của Ngân Hàng thiếu trách nhiệm, nhận quà hối lộ của đối tượng. Để những vấn đề này không tiếp tục diễn ra, các Ngân Hàng cần phảI chỉnh đốn lại đội ngũ cán bộ của mình. Chúng ta phải tạo ra một môi trường làm việc chuyên nghiệp. Đặc biệt là về chế độ lương bổng, phải trả lương theo đúng năng lực của những người làm việc. Chỉ khi nào họ có được cuộc sống đầy đủ cho gia đình của họ thì họ mới có thể đóng góp hết mình cho Đảng, Nhà Nước nói chung và hệ thống Ngân Hàng của Việt Nam nói riêng.
2.2.2Giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá:
-Chiết khấu là dịch vụ cấp tín dụng ngắn hạn của Ngân Hàng cho khách hàng, dựa trên kĩ thuật chuyển nhượng một trái quyền từ khách hàng cho Ngân Hàng với giá cả được hai bên thỏa thuận thấp hơn giá trị bề mặt của chứng thư xác nhận trái quyền được chuyển nhượng.
-Về mặt lí thuyết, tuy là một trong những loại hình cấp tín dụng nhưng giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá có nhiều điểm khác biệt so với các loại hình giao dịch tín dụng khác của Ngân Hàng Thương Mại như giao dịch cho vay hay giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng.
Sự khác biệt ở chỗ:
+Giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá luôn có mục đích và hệ quả tạo ra một hợp đồng mua bán trái quyền có tính đặc thù, có tên gọi là hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá. Tính đặc thù của hợp đồng này thể hiện ở chỗ: đối tượng mua bán là các trái quyền còn thời hạn thanh toán ngắn, giá bán của trái quyền bao giờ cũng thấp hơn giá trị thực tế của trái quyền được giao dịch.
+Chiết khấu giấy tờ có giá tuy là một nghiệp vụ tín dụng nhưng về phương diện pháp lí, nó không phải là một hành vi cho vay vì Ngân Hàng không cho khách hàng vay số tiền mà sau đó họ sẽ phải hoàn trả trực tiếp cho Ngân Hàng vào ngày đáo hạn.
+Giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá tuy có đIểm giống với giao dịch Factoring ở chỗ cả hai loại hình giao dịch thương mại này phía Ngân Hàng đều phải ứng trước tiền cho khách hàng đang sở hữu các trái quyền chưa đến hạn thanh toán. Nhưng chiết khấu giấy tờ có giá khác với giao dịch Factoring ở chỗ nghiệp vụ chiết khấu chỉ có thể do các Ngân Hàng thực hiện đối với khách hàng là mọi tổ chức cá nhân, sở hữu thương phiếu hay các giấy tờ có giá khác.
+Nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá khác với nghiệp vụ cho vay cầm cố giấy tờ có giá ở chỗ, việc chiết khấu có mục đích là hệ quả chuyển quyền sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho Ngân Hàng để sau đó Ngân Hàng đòi tiền của người mắc nợ theo đúng vào ngày đáo hạn.
+Nghiệp vụ chiết khấu khác với nghiệp vụ tín dụng thâu chi ở chỗ, chiết khấu có độ an toàn cao hơn so với thấu chi và khách hàng được chiết khấu không phải là người mắc nợ chính của Ngân Hàng. Sau khi họ được sử dụng số tiền trên thanh toán vượt qua số dư hiện có theo sự đồng ý của Ngân Hàng, trong hạn mức thấu chi đã thỏa thuận.
Trong giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá thì điều quan trọng nhất là phải xác minh tính hợp pháp các giấy tờ mà khách hàng đã cầm cố. Tuy nhiên trong điều kiện nước ta hiện nay thì giao dịch này vẫn chưa được thịnh hành. Trong xã hội Việt Nam hiện nay đang diễn ra tình trạng các doanh nghiệp cần vốn đầu tư muốn vay vốn Ngân Hàng không được. Trong khi đó một số nơi lại thừa kinh phí dẫn đén các hành vi tham ô tài sản XHCN. Đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân muốn vay vốn của Ngân Hàng là rất khó khăn bởi Ngân Hàng Thương Mại của chúng ta hầu hết chỉ phục vụ các doanh nghiệp Nhà Nước. Bởi vậy để có thể phát huy được thế mạnh của hình thức giao dịch chiết khấu giấy tờ có giá chúng ta phải đẩy mạnh hoạt động cho vay sang các doanh nghiệp tư nhân. Họ là những người dám nghĩ, dám làm. Chỉ có thành phần kinh tế này mới có thể thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển một cách mạnh mẽ.
2.2.3Giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng:
Xét về phương diện thuật học, bảo lãnh Ngân Hàng vừa có ý nghĩa là danh từ kinh tế, vừa có tính cáchlà một thuật ngữ pháp lí.
+Với ý nghĩa là một danh từ kinh tế, bảo lãnh Ngân Hàng đưa giới Ngân Hàng hiện nay và thậm chí cả những nhà làm luật quan niệm như một nghiệp vụ cấp tín dụng của Ngân Hàng cho khách hàng, thông qua việc Ngân Hàng cam kết trả nợ thay cho khách hàng cho bên có quyền, nếu đến hạn mà người này không tự thực hiện được nghĩa vụ của mình.
+Với tính cách là một thuật ngữ pháp lí, bảo lãnh Ngân Hàng được định nghĩa tương đối khác nhau giữa pháp luật thực định và luật học.
Bảo lãnh Ngân Hàng khác với các hình thức bảo lãnh khác là:
+Chủ thể của giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng chính là các Ngân Hàng có đủ điều kiện pháp lí do pháp luật quy định. Việc bảo đảm các điều kiện này đối với chủ thể thực hiện giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng chính là nhằm bảo đảm sự an toàn cho quyền lợi của các chủ thể tham gia vào giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng cũng như lợi ích chung của toàn xã hội.
+Bảo lãnh Ngân Hàng là loại hình giao dịch pháp lí được chủ thể là Ngân Hàng thực hiện một cách thường xuyên, liên tục và mang tính chất chuyên nghiệp. Vì thế, giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng thường được giới luật gia quan niệm là một hành vi thương mại của Ngân Hàng và do đó chịu sự điều chỉnh của pháp luật thương mại cũng như pháp luật Ngân Hàng.
+Giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng được thiết lập giữa 3 chủ thể. Trong đó Ngân Hàng là chủ thể tham gia trực tiếp vào 2 quan hệ pháp luật, quan hệ giữa Ngân Hàng với khách hàng được bảo lãnh và quan hệ giữa Ngân Hàng với người được bảo lãnh, bên có quyền.
+Bảo lãnh Ngân Hàng là loại hình bảo lãnh có thu phí. Sở dĩ như vậy là bởi vì, khi đứng ra bảo lãnh cho khách hàng bằng việc phát hành thư bảo lãnh, Ngân Hàng có tư cách là người làm dịch vụ cho khách hàng nên đương nhiên có quyền thu phí dịch vụ bảo lãnh như một khoản tiền công dịch vụ.
+Giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng có mục đích và hệ quả tạo lập 2 hợp đồng, gồm hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh. Hai hợp đồng này tuy có mối liên hệ nhân quả với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau nhưng vẫn hoàn toàn độc lập với nhau về cả phương diện chủ thể và cả phương diện quyền, nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể.
+Giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng không phải là giao dịch 2 bên hay 3 bên mà là 1 giao dịch kép. Sở dĩ có thể quan niệm bảo lãnh Ngân Hàng là giao dịch kép là bởi vì để đạt được mục đích và động cơ chủ yếu của mình là phát hành thư bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng và gửi cho bên có quyền, bên nhận bảo lãnh để nhận tiền thù lao dịch vụ thì Ngân Hàng không thể không tiến hành kí kết cả 2 hợp đồng theo thứ tự: hợp đồng dịch vụ bảo lãnh được giao kết trước và hợp đồng bảo lãnh được giao kết sau.
+Theo thông lệ quốc tế, bảo lãnh Ngân Hàng là giao dịch không thể hủy ngang bởi những người đại diện có thẩm quyền của Ngân Hàng Thương Mại.
+Bảo lãnh Ngân Hàng được xác lập và thực hiện dựa trên chứng từ. Tính chất chứng từ của bảo lãnh Ngân Hàng thể hiện ở chỗ cả khi Ngân Hàng phát hành cam kết bảo lãnh cũng như người bảo lãnh thực hiện quyền yêu cầu ngay khi Ngân Hàng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh, của chủ thể này đều bắt buộc phải thiết lập bằng van bản.
+Bảo lãnh Ngân Hàng là loại hình bảo lãnh vô điều kiện. Tính chất về đIều kiện của bảo lãnh Ngân Hàng thể hiện ở chỗ, Ngân Hàng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với người nhận bảo lãnh ngay sau khi người này đã xuất trình các chứng từ phù hợp với nội dung của thư bảo lãnh hay cam kết bảo lãnh do Ngân Hàng phát hành mà không phụ thuộc vào việc người được bảo lãnh có khả năng tự thực hiện nghĩa vụ của họ hay không.
Giao dịch bảo lãnh Ngân Hàng là 1 trong những giao dịch mới phát triển của ngành Ngân Hàng trong thời gian gần đây. Tuy đây là dịch vụ tạo ra nhiều lợi nhuận cho Ngân Hàng và kèm theo nó là những mối quan hệ đối với những người được bảo lãnh nhưng nó cũng đi kèm với không ít dủi do. Đây là những dủi do tiềm tàng cho Ngân Hàng có thể gây thất thoát lớn cho các Ngân Hàng. Chăng hạn 1 Ngân Hàng Thương Mại đứng ra bảo lãnh cho một doanh nghiệp nào đó trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, cổ phiếu của doanh nghiệp này bị sụt giảm mạnh thì Ngân Hàng sẽ chịu những tổn thất rất nặng nề. Bởi vậy để tránh khỏi những dủi do đó, các Ngân Hàng phải có sự kiểm định kĩ lưỡng trước khi kí hợp đồng bảo lãnh cho 1 tổ chức, cá nhân hay doanh nghiệp cụ thể. Việt Nam ta hiện nay thì loại hình này chưa thực sự phát triển mà chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Nguyên nhân là do nền kinh tế nước ta chưa phát triển đến độ chín, thị trường chứng khoán nước ta vẫn đang trong thời kì non trẻ. Đây được mong là loại hình giao dịch tương lai đem lại nhiều lợi nhuận cho các Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước cũng như các Ngân Hàng cổ phần ở Việt Nam.
2.3Giao dịch mở tài khoản tiền gửi thanh toán và cung ứng dịch vụ thanh toán:
Khái niệm:
Dịch vụ Ngân Hàng từ lâu đã trở thành 1 nghề kinh doanh phổ biến của các Ngân Hàng trong nền kinh tế thị trường. Về mặt học thuật, dịch vụ Ngân Hàng được hiểu là thỏa thuận giữa Ngân Hàng và khách hàng về việc Ngân Hàng sử dụng chuyên môn kĩ thuật nghiệp vụ Ngân Hàng để làm giúp khách hàng 1 số công việc nhất định theo yêu cầu của khách hàng. Trên cơ sở đó, yêu cầu khách hàng thanh toán cho mình một khoản tiền công dịch vụ.
Trong lịch sử Ngân Hàng thế giới, những dịch vụ Ngân Hàng truyền thống và lâu đời nhất được biết đến từ thế kỉ 15 là dịch vụ mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng và dịch vụ làm trung gian thanh toán cho khách hàng và các chủ tài khoản với nhau.
Cơ chế hình thành giao dịch mở tài khoản tiền gửi thanh toán và cung ứng dịch vụ thanh toán:
Việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng và cung ứng dịch vụ thanh toán cho khách hàng tuy có thể tách ra 2 loại hình giao dịch độc lập với nhau để kí kết cả 2 loại hợp đồng nhưng rõ ràng điều này là không cần thiết. Trong khi chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng một giảI pháp khác hợp lí hơn. Đó là chỉ cần giao kết 1 hợp đồng nhưng bao gồm cả 2 nội dung. Ngân Hàng cam kết mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng và cam kết cung ứng dịch vụ thanh toán cho khách hàng.
Trong thời đại ngày nay, ở Việt Nam có rất nhiều loại hình dịch vụ Ngân Hàng tiện ích như: Dịch vụ chuyển khoản, các loại thẻ tín dụng, ATM hay VISA...
+Trong dịch vụ chuyển tiền của Ngân Hàng ở nước ta hiện nay thì nói chung cũng đã đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, dịch vụ này so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì rất lạc hậu. Dịch vụ này còn chậm vì hệ thống thông tin nội bộ của Ngân Hàng chưa nhanh nhạy. Điều quan trọng là hệ thống các Ngân Hàng Thương Mại của nước ta không kết nối với nhau. Chẳng hạn, một khách hàng muốn chuyển tiền từ Ngân Hàng Agribank đến Ngân Hàng Vietcombank hay ngược lại không thể thực hiện được. Sự không kết nối mạng lưới Ngân Hàng với nhau không những khó khăn trong việc chuyển khoản mà còn gây nhiều khó khăn trong nhiều vấn đề khác. Bởi vậy, Đảng và Nhà Nước ta cần nhanh chóng tạo ra mạng thông tin nội bộ giữa các Ngân Hàng với nhau.
+Tuy nhiên, loại phổ biến nhất, thông dụng nhất trong các loại hình dịch vụ Ngân Hàng ở Việt Nam hiện nay là thẻ ATM (hay còn được gọi là máy rút tiền tự động). Đây là dịch vụ rất tiện ích, phổ biến mà tất cả các các Ngân Hàng lớn nhỏ trên toàn thế giới đều sử dụng. Nó giúp khách hàng có thể thanh toán ở siêu thị, các loại phí dịch vụ như điện thoại hay nhiều loại hình khác. Đặc biệt, nó giúp khách hàng có thể rút tiền từ tài khoản của mình mà không cần phải đến Ngân Hàng, tiết kiệm thời gian cho khách hàng. Nó giúp cho khách hàng không phải thường xuyên mang theo tiền mặt trong người. Tuy nhiên, cùng những tiện ích của mình thì loại hình dịch vụ ATM vẫn có rất nhiều bất cập ở trên thế giới nói chung và ở Việt Nam ta nói riêng. Trên thế giới đã có nhiều trường hợp thẻ ATM bị làm giả và lấy tiền của khách hàng. Nó làm mất lòng tin nơi khách hàng. Việt Nam ta gần đây nhất là vụ khách hàng kiện Ngân Hàng Techcombank. Chị Trần Thị Thanh Thủy ở xí nghiệp thương mại mặt đất Nội Bài khởi kiện Ngân Hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam về việc mất 30 triệu đồng khi sử dụng thẻ thanh toán ATM đã thu hút sự chú ý của dư luận. Không những thế, thị trường Ngân Hàng nước ta đang diễn ra cuộc chạy đua phát hành thẻ ATM giữa các Ngân Hàng với nhau. Cuộc cạnh tranh diễn ra dưới các hình thức như giảm giá làm thẻ ATM của Ngân Hàng Vietcombank, hay Ngân Hàng Agribank thì miễn phí dịch vụ làm thẻ ATM. Tuy số lượng thẻ được làm ra rất nhiều nhưng tiện ích của thẻ ATM không được phổ biến rõ cho khách hàng biết. Đồng thời, cơ sở vật chất kĩ thuật của nước ta còn quá yếu kém, nghèo nàn, lạc hậu để có thể dùng thẻ ATM làm phương tiện thanh toán. Không những thế, việc nhập khẩu các loại máy ATM chất lượng không đảm bảo với công nghệ lạc hậu làm cho dịch vụ này ít phát huy hiệu quả. Điển hình là Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam tuy số lượng máy ATM là rất lớn nhưng các máy của Ngân Hàng này thường làm việc kém hiệu quả, hay diễn ra hiện tượng nuốt thẻ, gây mất thời gian cho khách hàng. Có người phải đi nhiều phòng giao dịch mới có thể rút tiền, mới có thể thực hiện được giao dịch mà mình mong muốn. Đó là một vấn đề hết sức bất cập, gây mất lòng tin của khách hàng. Hay như Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam có chất lượng và uy tín nhất trong khối Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước cũng có những thiếu xót nhất định. Bởi vậy, để có được những dịch vụ tiện ích đến với đông đảo khách hàng, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam cần phải có một sự điều chỉnh nhất định, trên nhiều lĩnh vực. Chúng ta phải tiếp thu công nghệ mới nhất, tiên tiến nhất trên thị trường thế giới. Đặc biệt là máy móc công nghệ phải đi trước một bước, phải nhập các thiết bị hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực đủ mạnh, tránh để nước ta tụt hậu và trở thành bãi rác thải của thế giới.
Kết Luận
Trong tương lai, có thể nói Ngân Hàng sẽ đóng 1 vai trò chủ chốt trong sự điều tiết, phân phối nền kinh tế của đất nước. Tất cả các hoạt động kinh tế, hay sinh hoạt, dịch vụ, công nghiệp hay nông nghiệp đều phải giao dịch thông qua hệ thống Ngân Hàng. Nền kinh tế trong tương lai sẽ không còn sử dụng tiền mặt như hiện nay mà khi đó giao dịch thanh toán sẽ thông qua thẻ tín dụng. Các hợp đồng mua bán sẽ không trả bằng tiền mặt mà sử dụng chuyển khoản. Bởi vậy Ngân Hàng sẽ là 1 ngành công nghiệp mới trong tương lai. Trên thị trường Ngân Hàng nước ta hiện nay có khoảng gần 20 Ngân Hàng với các thành phần liên doanh, nước ngoài hay Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước, Ngân Hàng cổ phần. Hoạt động của các Ngân Hàng này hiện nay là đáp ứng được nhu cầu của thị trường tiền tệ trong nước. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập với thế giới như hiện nay thì các Ngân Hàng không thể thực hiện các cơ chế như hiện nay. Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam ta hiện nay gần như vẫn hoạt động theo cơ chế độc quyền. Nhưng trong vài năm tới, năm 2009, khi nước ta ra nhập WTO thì thị trường Ngân Hàng, Tài Chính và Bảo Hiểm sẽ được mở cửa tự do. Khi đó, sự cạnh tranh của các Tập Đòan Tài Chính Ngân Hàng trên toàn thế giới sẽ là rất lớn. Cho nên, ngay từ bây giờ, Đảng và Nhà Nước ta cần có những sự cải tổ lớn để có thể đứng trước những thách thức thật sự lớn trong quá trình toàn cầu hóa. Với tư cách là sinh viên của Khoa Ngân Hàng-Tài Chính của Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, nơi đào tạo ra các cán bộ Ngân Hàng, lãnh đạo trong ngành Ngân Hàng chủ chốt của Việt Nam ta, em nghĩ điều cần thiết nhất của ngành Ngân Hàng nước ta hiện nay là cổ phần hóa các Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước. Theo dự kiến của chính phủ thì tất cả các Ngân Hàng thương mại Quốc Doanh của Việt Nam sẽ được cổ phần hóa trước năm 2010 trừ Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn(Agribank). Theo đó Nhà Nước sẽ giữ 51% cổ phần của các Ngân Hàng, các Tư bản nước ngoài không được nắm quá 10%. Theo em, Nhà Nước nắm như vậy là quá nhièu. Chúng ta cần đẩy mạnh nền kinh tế của đất nước. Khi Nhà Nước nắm cổ phần nhiều nhất trong các Ngân Hàng thì khi đó Nhà Nước vẫn sẽ nắm quyền quyết định hoạt động của các Ngân Hàng. Như thế cái cơ chế Nhà Nước làm việc với nhau sẽ vẫn tiếp tục diễn ra. Chúng ta sẽ không thể có được thị trường Tài Chính Ngân Hàng cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, việc Nhà Nước ta cổ phần hóa các Ngân Hàng cũng đã là một tín hiệu rất đáng mừng. Nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60496.DOC