Tài liệu Đề tài Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay: MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa của đề tài
6. Bố cục của đề tài
B. Phần nội dung
Chương 1: Một số quan điểm trước Mác về con người
1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người
2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người
Chương 2: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về giải phóng con người
Chương 3: Vấn đề xây dựng con người của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay
1. Con người Việt Nam trong lịch sử
2. Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và vấn đề đặt ra cho con người Việt Nam
3. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam đáp ứng giai đoạn hiện nay
C. Phần kết thúc
D. Danh mục tham khảo
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như sinh vật học, tâm lý học, đạo đức ...
43 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1479 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa của đề tài
6. Bố cục của đề tài
B. Phần nội dung
Chương 1: Một số quan điểm trước Mác về con người
1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người
2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người
Chương 2: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về giải phóng con người
Chương 3: Vấn đề xây dựng con người của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay
1. Con người Việt Nam trong lịch sử
2. Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và vấn đề đặt ra cho con người Việt Nam
3. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam đáp ứng giai đoạn hiện nay
C. Phần kết thúc
D. Danh mục tham khảo
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học. Nghiên cứu về con người là một vấn đề không mới lạ nhưng lại xoay quanh nhiều khía cạnh tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi ngành khoa học. Con người cũng luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến trung đại.
Từ thời xa xưa cho đến thời đại ngày nay con người được xem là vị trí trung tâm và có vai trò quyết định đến sự tồn vong và phát triển của xã hội. Con người được xem là chủ thể của lịch sử xã hội, con người làm ra lịch sử xã hội. Vì vậy con người phải được tôn trọng, được sống tự do hạnh phúc và được phát triển toàn diện. Song ngày nay con người vẫn đang trong tình trạng bất công, đòi hỏi xã hội phải quan tâm đến sự phát triển của con người.
Con người cũng là mục tiêu cơ bản của sự phát triển xã hội. Để đảm bào cho xã hội phát triển vấn đề xây dựng con người giữ một vai trò hết sức quan trọng và luôn thường trực. Đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vai trò của con người ngày càng được khẳng định rõ nét.
Ở Việt Nam vấn đề con người cũng luôn là một vấn đề thời đại và đang được nhiều ngành khoa học, nhiều cá nhân đặc biệt quan tâm, nhất là vấn đề xây dựng con người mới trong thời đại mới.
Chính vì những lí do về mặt lí luận và thực tiễn trên cùng với mối quan hệ riêng cá nhân mà tôi đã chọn đề tài: Quan điểm của triết học Mác - LêNin về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề con người là một vấn đề không mới và đã được rất nhiều ngành khoa học từ trước đến nay quan tâm tìm hiểu, nó cũng được nói đến rất nhiều qua sách vở, báo chí, các phương tiện thông tin. Tuy là vấn đề không mới nhưng đây là vấn đề mang tính thời đại và có ý nghĩa lớn lao đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Ngoài ra nó cũng là một nội dung có ý nghĩa quan trọng của chủ nghĩa Mác - LêNin và của cách mạng XHCN, là vấn đề thực tiễn nóng bỏng đòi hỏi phải được giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng. Khi làm đề tài này, bản thân tôi cũng mong muốn có một đóng góp nhỏ vào lĩnh vực trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ
Thứ nhất, tìm hiểu quan điểm của triết học phương Đông và phương Tây vầ nguồn gốc và bản chất của con người.
Thứ hai, tìm hiểu quan điểm của triết học Mác - LêNin về con người từ đó có những nhân thức đúng đắn về con người trong thời đại ngày nay và chính bản thân mình.
Thứ ba, tìm hiểu con người Việt Nam từ xưa đến nay và vấn đề xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời đại mới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được viết nhờ trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - LêNin với phương pháp logic lịch sử, hệ thống hoá, phân tích tổng hợp và liên hệ thực tiễn.
5. Ý nghĩa của đề tài
Tìn hiểu nguồn gốc và bản chất của con người trong quan điểm của triết học Mác - LêNin để từ đó rút ra được kết luận cho bản thân trong việc tự hoàn thiện mình.
Mong được trao đổi ý kiến với những nguời có chung mối quan tâm, nhất là đối với thế hệ trẻ hiện nay trong việc hoàn thiện bản thân đáp ứng yêu cầu của thời đại mới.
6. Bố cục của đề tài
Đề tài gồm có ba chương:
Chương 1: Một số quan điểm trước Mác về con người
Chương 2: Quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác - LêNin về con người
Chương 3: Vấn đề xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ CON NGƯỜI
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học v.v...Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh không biết khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của những người nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải quyết khác nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học đều tự hỏi: Thực chất con người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn trong chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn loài, chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra, quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình nhận thức đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi không có khả năng vượt quá cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển Đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan điểm triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần song Heghen cũng là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật cơ bản của quá trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, Phơ bách đã phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì Phơ bách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
Tóm lại, các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức lý luận xem xét người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng tuy nhiên họ vẫn còn nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người.
Sau này chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế đó, đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết triết học trước đây để đi tới quan niệm về con người thiện thực, con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên.
1. Quan điểm của triết học phương Đông về con người
Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Đó là những vấn đề: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?.... Đây cũng chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan - một nội dung cấu thành thế giới quan triết học. Tuỳ theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con người. Mặt khác trong khi giải quyết những vấn đề trên, mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế giới quan, phương pháp luận khác nhau: Duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu hình...
Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính Tự Nhiên của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các trường phái triết học Ấn độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (siêu hình học) đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
Nhìn chung quan điểm về con người trong triết học phương Đông thể hiện rất phong phú nhưng mang nặng tính duy tâm. Các học thuyết ấy lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống.
Song các chuẩn mực đạo đức, các quan điểm về bản tính con người, đạo làm người và hình mẫu con người lại rất đa dạng chứa đựng những tư tưởng giống nhau, khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Những tư tưởng này tồn tại lâu dài trong lịch sử và giữ vai trò nền tảng cho thế hệ sau tiếp tục hoàn thiện để thể hiện quan điểm của mình.
2. Quan điểm của triết học phương Tây về con người
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện ở hai khuynh hướng duy vật và duy tâm qua thời đại cổ, thời trung cổ, thời phục hưng và cận đại, thời hiện đại. Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây đến nay những vấn đề triết học về con người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt. Thực tế lịch sử đã cho thấy giác độ tiếp cận giải quyết các vấn đề triết học về con người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông. Nhìn chung, các nhà triết học theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên quan.
Thời cổ đại
các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất.
Tiêu biểu cho quan điểm của con người ở phương Tây cổ đại là những tư tưởng của người Hy Lạp.
Ở Hy Lạp các nhà duy vật đầu tiên đã coi con người như một bộ phận cấu thành thế giới. Xuất phát từ quan điểm thế giới do một số chất tạo nên, các nhà duy vật thời kì này cũng quan niệm con người được bắt nguồn từ một hay một số chất đó. Ví dụ: TaLet xem chất đó là nước, Heraclit xem chất đó là lửa, Anaximen xem chất đó là không khí.
Empêđốclơ, Lơxíp, Đêmôcrít là những người tiêu biểu cho quan điểm duy vật thời kì này.
Empêđốclơ cho rằng nguồn gốc của thế giới là lửa, không khí, đất và nước. Những yếu tố này hoà hợp với nhau, trải qua bốn thời kì tiến hoá đã sinh ra sự sống. Mọi sức sống đều có lí tính nhưng con người là sự sống có lí tính cao nhất thông minh nhất.
Lơxíp và Đêmôcrít cho rằng bản nguyên của thế giới là nguyên tử nên ông cũng khẳng định con người là sản phẩm của sự kết hợp các nguyên tử.
Con người có linh hồn, song linh hồn cũng do các nguyên tử tạo nên và một số yếu tố của linh hồn ấy là nhu cầu và tưởng tượng đã dạy bảo bàn tay con người hoạt động để đưa con người từ mông muội đến văn minh.
Chủ nghĩa duy tâm lại truy tìm nguồn gốc và bản chất của con người từ những lực lượng siêu tự nhiên. Tiêu biểu cho quan điểm này là Xôcrat và Platôn.
Xôcrat cho rằng thế giới do thần tạo ra và đã an bài. Con người không nên tìm hiểu thế giới vì như thế là xúc phạm thần mà con người hãy tự hiểu về bản thân mình.
Platôn cho rằng ý niệm có trước tất cả, là nguồn gốc của tấ cả. Ý niệm tồn tại vĩnh viễn và bất biến. Con người gồm hai phần độc lập với nhau là thể xác và linh hồn. Thể xác được tạo thành từ đất, nước, lửa, không khí nên có thể mất đi. Khi con người chết, linh hồn thoát khỏi thể xác về với thế giới ý niệm của mình để đến một lúc nào đấy linh hồn lại nhập vào một thể xác mới tạo ra một người mới. Nhân thức của con người là sự hồi tưởng lại những gì mà ý niệm đã có.
Thời trung cổ
Đây là thời kì hệ tư tưởng cơ đốc giáo giữ vai trò thống trị nên quan điểm về vái trò của Chúa Trời cũng là vai trò thống trị. Tômát Đacanh là người tiêu biểu cho tư tưởng ở thời kì này.
Tômát Đacanh quan niệm thế giới do Chúa Trời sáng tạo ra từ hư vô và con người là hình ảnh của Chúa được Chúa đặt sống ở trung tâm vũ trụ. Con người có thể xác và linh hồn bất tử. Linh hồn này được Chúa tạo ra cùng sự tạo ra thể xác con người. Chúa sắp xếp thế giới theo trật tự từ các sự vật không có linh hồn đến con người, thần thánh và cao nhất là Chúa. Đây là trật tự chặt chẽ và bất biến. Quan điểm về con người nói riêng và triết học của Tômát Đacanh nói chung được Giáo hội Thiên Chúa giáo coi là hệ tư tưởng duy nhất đúng và được Giáo hội sử dụng làm hệ tư tưởng chính thống của mình.
Con người trong triết học thời trung cổ đã bị tước đoạt hết tính tự nhiên, năng lực và sức mạnh. Hình ảnh con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối, vật vờ, tạm bợ trong thế giới hữu hình dưới quyền lực vô biên của đấng sáng tạo. Hệ tư tưởng này đã bóp chết ý muốn vươn lên, tự khẳng định mình, tự giải phóng mình mà nhiều nhà tư tưởng thời cổ đại đã đề cập đến.
Thời Phục Hưng và cận đại
Triết học thời kì phục hưng hiện đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lí tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong những yếu tố quan trọng nhằm giải thoát cho con người khỏi mọi gông cùm chật hẹp mà chủ nghía thần học thời trung cổ đã áp đặt cho con người. Tuy nhiên, để nhận thức đầy đủ nhận thức của con người cả về mặt sinh học và về mặt xã hội thì chưa có trường phái nào đạt được, mới chỉ nhấn mạnh về mặt cá thể mà xem nhẹ mặt xã hội.
Ở Anh, Bêcơn coi thể xác con ngưòi là sản phẩm tự nhiên, là thực thể vật chất, con tinh thần là thứ vật chất chỉ tồn tại trong óc người vận động theo thần kinh vào máu, song chính thứ vật chất ấy đã đem lại cho con người sức mạh tiềm tàng là tri thức.
Ở Pháp, Rutxô quan niệm bản tính con người là tự do và lịch sử nhân loại không tuân theo ý muốn của bất kì thế lực nào mà là kết quả hoạt động của con người mang bản tính tự do ấy. Điđrô coi con người là đỉnh cao nhất trong quá trình tiến hoá lâu dài của tự nhiên; coi trí tuệ và đạo đức là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và coi sức mạnh của con người nằm trong tri thức khoa học.
Ở Hà Lan, Xpinôda cho rằng giới tự nhiên là thực thể duy nhất, tồn tại theo chính mình, con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Triết học có nhiệm vụ chính là giúp con người có học thức để nhận thức giới tự nhiên, làm theo giới tự nhiên và làm theo lý tưởng đạo đức cao đẹp.
Triết học thời Phục Hưng và cận đại có nét nổi bật là phủ nhận quyền lực của đấng sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề cao vai trò của lí trí, đề cao các giá trị và đề cao tư tưởng vì con người.
Thời hiện đại
Vấn đề con người trong triết học phương Tây hiện đại thể hiện rõ nét qua quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghía thực dụng, chủ nghĩa phê phán, chủ nghĩa hiện sinh. Tư tưởng của những học thuyết này tạo nên trào lưu triết học nhân bản phi lí tính, trong đó chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trò trọng yếu.
Nhìn chung, các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi lí tính cũng như các học thuyết khác ở phương Tây hiện đại đều coi những yếu tố về tinh thần như nhu cầu bản năng, vô thức, tri thức, tình cảm … là bản chất của con người. Con người thường được tuyệt đối hoá về mặt cá nhân. Mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, cá nhân với xã hội thường đề cập ở góc độ hoài nghi, bi quan bế tắc. Tất cả những điều ấy phản ánh sự khủng hoảng về mặt giá trị của con người trong giá trị phương Tây hiện đại. Các quan điểm triết học trước Mác và ngoài mácxít còn có một hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin về con người.
CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ
CON NGƯỜI
1. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con ngườia) Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Theo quan điểm duy vật lịch sử sự tồn tại và phát triển của con người luôn luôn chịu sự chi phối tác động bởi 3 loại qui luật sau: các qui luật sinh học, các qui luật tâm lý ý thức, các qui luật XH. Trong tác phẩm những luận cương về Phơbách, C.Mác đưa ra luận cương VI khẳng định về bản chất con người năm 1845. Nói tới bản chất con người phải dựa trên một nền tảng sinh học xác định, đó là cơ thể sống, con người hiện thực. Bản chất con người không phải là cái bất biến mà nó luôn được phát triển theo sự tiến bộ của lịch sử vì vậy mỗi thời đại lịch sử khác nhau sẽ có những kiểu mẫu người khác nhau. Sự đóng góp mới của triết học Mác về vấn đề con người là xem xét con người mang tính lịch sử cụ thể; khẳng định bản chất con người là do các quan hệ xã hội quyết định. Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại với tư cách là một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống ... Điều đó giải thích vì sao Mác cho rằng co người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị.
Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất của con người. Mác và Ăngghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học đi trước rằng con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội, nhưng khác với họ, Mác và Ănghen xem xét mặt tự nhiên của con người, như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích ... Không còn hoàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con người ... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ sản xuất ... Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư duy ... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa ... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.b) Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Sự tổng hòa các quan hệ XH là trong cuộc sống hiện thực thông qua các quan hệ XH cụ thể như quan hệ với gia đình với anh em, bè bạn, tập thể, giai cấp, cộng đồng XH, các quan hệ này tác động vào bản thân mỗi con người theo những chiều hướng khác nhau, ở những mức độ khác nhau từ đó mà định hình phát triển nhân cách mỗi con người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã hội” Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố và đặc điểm sinh học của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con người đơn thuần như một phần của giới tự nhiên còn bỏ qua, không nói gì đến mặt xã hội của con người. Khi xác định bản chất của con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái không thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con người trở thành một con người. Sau, thì khi nói đến “Sự định hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với bản chất và sự phát triển của con người. Chính Lênin cũng đã không tán thành quan điểm cho rằng mọi người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện một sự bình đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn ... Nói tới bình đẳng thì đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chỉ không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phơ bách: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội ...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
c) Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục ... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dầncủa chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các
giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
2. Qua điểm của triết học Mác - LêNin về giải phóng con người
Triết học Mác - LêNin là triết học vì con người. Ngay từ năm 1835, trong những suy tư của một chàng trai trong việc lựa chọn nghề nghiệp, C.Mác đã viết: “kim chỉ nam chủ yếu phải định hướng cho chúng ta trong việc lựa chọn nghề nghiệp là phúc lợi của loài người, là sự hoàn thiện của chúng ta; kinh nghiệm ca ngợi những ai đem lại hạnh phúc cho một số lượng người nhiều nhất là người hạnh phúc nhất; bản thân tôn giáo dạy chúng ta rằng cái lý tưởng mà mọi người hướng tới đã hi sinh bản thân mình cho nhân loại, vậy ai dám bác bỏ những lời dạy bảo đó?”
Khi viết tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thể hiện tư tưởng cơ bản và chủ đạo của tuyên ngôn là “vĩnh viễn giải phóng quan hệ xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức”. Song, “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt”.
Như vậy cốt lõi của Mác - Lênin nói chung, của triết học về con người trong triết học Mác - Lênin nói riêng là vấn đề giải phóng con người, từ giải phóng con người cụ thể tiến đến giải phóng nhân loại. Toàn bộ các nội dung trả lời của câu hỏi như: Con người là gì? Nguồn gốc của con người? Bản chất con người? ... đều nhằm mục đích hiểu đối tượng giải phóng để xác định đúng đắn những vấn đề liên quan đến vấn đề giải phóng.
Triết học Mác - Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề giải phóng con người. Lịch sử đã ghi nhận nhiều học thuyết, nhiều quan điểm về giải phóng con người, song do điều kiện lịch sử, do sự ràng buộc về giai cấp, do cách hiểu về con người, nguồn gốc và bản chất của con người khác nhau nên xác định giải phóng con người là giải phóng đối tượng nào? Giải phóng bằng cách nào? Giải phóng như thế nào cũng rất khác nhau.
Các học thuyết triết học duy tâm và quan niệm tôn giáo, quan niệm giải phóng con người là giải thoát về mặt tâm linh để con người có thể đạt được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế giới khác ngoài thế giới tự nhiên. Với quan niệm như vậy thì không thể đem lại sự giải phóng con người một cách hiện thực, mà chỉ giải phóng hư ảo - “thuốc phiện của nhân dân”. Các nhà duy vật trước Mác hoặc không thấy được tính xã hội của con người, không thấy các quan hệ xã hội của con người, hoặc nhận thức về con người trừu tượng nên vẫn xem những biểu hiện của bản chất con người trong cuộc sống hiện thực như bản tính tự nhiên vốn có, bất biến của con người. Không hiểu đúng bản chất của con người thì không thể xác định đúng những nội dung trong quá trình giải phóng và tất yếu không thể thực hiện được quá trình giải phóng.
Lịch sử cũng ghi nhận giai cấp tư sản phương Tây đã thực hiện các cuộc giải phóng con người do bản chất của chủ nghĩa tư bản do mục đích của phương thức sản xuất của tư bản chủ nghĩa nên đồng thời với việc giải phóng con người khỏi những ràng buộc của xã hội chủ phong kiến, giai cấp tư sản đã trói chặt con người bằng rằng buộc khác nghiệt ngã hơn: rằng buộc kinh tế, phân hoá xã hội thành hai đối cực là nhà tư bản bóc lột và người lao động bị bóc lột. Đến nay ngay cả khi đời sống của người lao động đã được cải thiện nhưng sự đối cực đấy vẫn không mất đi mà chỉ tăng lên dưới nhiều hình thức biểu hiện khác.
Triết học Mác - Lênin xác định “bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của bản thân con người về với con người”, là giải phóng người lao động thoát khỏi lao động bị tha hoá.
Trong các tác phẩm của mình C.Mác đã chỉ rõ những biểu hiện của lao động bị tha hoá, nguyên nhân dẫn đến sự tha hoá, trên cơ sở đó, C.Mác cũng đã xác định phương hướng và các lực lượng có thể thực hiện sự nghiệp giải phóng con người thoát khỏi sự tha hoá và tiến tới một xã hội mà “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện để phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Theo C.Mác:
Lao động bị tha hoá là lao động làm người lao động đánh mất mình trong “hoạt động người” nhưng lại tìm thấy mình trong “hoạt động vật”. Lao động là hoạt động người nhưng ở lao động tha hoá nó đã là “một cái gì đó bên ngoài” người lao động. Người lao động thực hiện hoạt động lao động không phải là thoả mãn nhu cầu lao động mà chỉ vì sự sinh tồn của thể xác. Đó là lao động cưỡng bức. Điều này tất yếu dẫn đến việc người lao động cảm thấy mình hành động tự do trong khi thực hiện chức năng động vật như ăn uống, sinh đẻ con cái; còn trong những chức năng của con người thì người lao động cảm thấy mình chỉ là con vật. Cái vốn có của súc vật trở thành chức phận của con người, còn cái có tính người lại biến thành cái vốn có của xúc vật. “Tính bị tha hoá của lao động biểu hiện rõ rệt ở chỗ một khi không còn sự cưỡng bức lao động về thể xác hoặc về mặt khác thì người ta trốn tránh lao động như trốn tránh dịch hạch vậy”.
Lao động bị tha hoá là lao động làm đảo lộn các quan hệ của người lao động.
Trong lao động, người lao động thực hiện với tư liệu sản xuất là thực hiện quan hệ với đồ vật. Song vì hoàn toàn phụ thuộc vào tư liệu sản xuất nên không phải con người sử dụng tư liệu sản xuất mà tư liệu sản xuất sử dụng con người.
Mặt khác, chỉ vì phải có sản phẩm để nhận thù lao mà người lao động phải lao động nên con người đã bị sản phẩm của chính mình nô dịch; người lao động tạo ra sản phẩm nhưng sản phẩm không phải của người lao động mà của người chủ nên nó trở nên xa lạ với người tạo ra nó.
Như vậy, quan hệ giữa con người với đồ vật (trực tiếp là quan hệ giữa tư liệu sản xuất với sản phẩm của quá trình sản xuất) đã trở thành quan hệ giữa con người và người thống trị xa lạ.
Cùng với quá trình trên là người lao động phải thực hiện quan hệ với người chủ. Đây là quan hệ giữa người với người. Song, người lao động quan hệ với người chủ qua số sản phẩm của người chủ thu được và số tiền thù lao mà người lao động được trả. Cho nên, về bản chất quan hệ giữa người với người đã trở nên quan hệ giữa người với đồ vật.
Lao động bị tha hoá là lao động làm cho người lao động bị phát triển què quặt.
Đây là hệ qủa của sự phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc sử dụng thành tựu của nó chỉ vì lợi nhuận. Với mục đích sản xuất vì lợi nhuận nên khoa học, công nghệ càng phát triển mạnh thì máy móc thay thế con người lao động ngày càng nhiều, chuyên môn hoá lao động càng sâu, số người bị máy móc thay thế càng lớn, những lao động còn lại bước vào qua trình lao động thuần tuý thực hiện thao tác mà dây chuyền lao động sản xuất đã quy định. Vì vậy, nền sản xuất máy móc vì lợi nhuận đã “ném một bộ phận công nhân về với lao động giã man và biến bộ phận công nhân thành những cái máy”.
C.Mác cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự tha hoá là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ tư bản về chế độ sản xuất đã tập trung những tư liệu sản xuất cơ bản của chủ nghĩa xã hội vào tay một số nhà tư bản, một số tập đoàn tư bản làm tuyệt đại đa số người lao động trở thành vô sản. Nhu cầu sinh tồn đã buộc những con người không có tư liệu sản xuất tự nguyện một cách cưỡng bức đến với các nhà tư sản và họ làm thêm cho nhà tư bản. Và do quá trình người bóc lột người, quá trình lao động bị tha hoá đã diễn ra.
Đối với phương thức và lực lượng giải phóng con người, triết học Mác - Lênin đã khẳng định:
Giải phóng con người là xóa bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hoá để con người trở về với chính mình. Song “con người bẩm sinh đã có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính chân chính của mình trong xã hội”. Việc giải phóng xã hộ loài người phải được thực hiện trong xã hội loài người.
Nguyên nhân sản sinh ra tha hoá là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên “xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu với tính cách là sự khẳng định sinh học của con người là sự xoá bỏ một cách tích cực sự tha hoá”. Điều đó cũng có nghĩa là lực lượng thực hiện chính là những người tước đoạt tư liệu sản xuất - những người vô sản. Sức mạnh giải phóng dân tộc của họ không phải là sức mạnh của những cá nhân đơn độc mà như C.Mác đã chỉ rõ, chỉ khi nào họ nhận thức được và tổ chức được “những lực lượng của bản thân” thành những lực lượng xã hội - cũng chính là thành lực lượng chính trị - thì giải phóng con người mới được thực hiện. Giải phóng xã hội, sở hữu tư nhân, khỏi sự nô dịch trở thành hình thức chính trị của sự giải phóng giai cấp vô sản, song ở đây không chỉ giải phóng cho họ vì sự giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng của toàn thể nhân loại.
Lênin đã nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sánh rõ vai trò của lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, là người thực hiện sứ mệnh giải phóng con người.
CHƯƠNG III
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.Con người Việt Nam trong lịch sử
Con người Việt Nam hình thành dưới sự tác động của các điều kiện tự nhiên và xã hội. Song trước hết phải kể đến sự tác động của môi trường - địa lý, đời sống kinh tế, lịch sử giữ nước và sự tác động của môi trường văn hoá.
Sự tác động của môi trường - địa lý
Nơi khai sinh lập nghiệp của tổ tiên người Việt là vùng đất mới được bồi đắp, nằm giữa một bên là núi một bên là biển nên hệ thống thoát nước sông ngòi chằng chịt. Vì vậy dấu vết sông nước đã in đậm nét trong văn hoá và lối tư duy của người Việt. Sông ngòi nhiều phù sa, vùng nhiệt đới nắng lắm mưa nhiều là điều kiện thuận lợi cho phát triển chăn nuôi và trồng trọt, vừa là thử thách đối với con người qua dông bão lũ lụt. Những điều kiện ấy từng bước hình thành cuộc sống tiểu nông lúa nước, với tư duy tiểu nông lúa nước cùng với những năng lực cần có để chống thiên tai, giữ gìn thành quả lao động.
Việt Nam nằm ở Đông Nam Châu Á - khu vực vừa có vị trí chiến lược vừa là nơi giao thoa của nhiều nền văn hoá nên người Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều nền văn hoá khác nhau.
Đời sống kinh tế
Nền kinh tế tiểu nông đã tác động mạnh mẽ đến người Việt trong lịch sử. Thích ứng với nền sản xuất này là những đơn vị sản xuất gia đình và những cộng đồng làng xã để hợp lực chống thiên tai, giúp nhau trong sản xuất cũng như trong hoạn nạn. Gắn liền với cộng đồng làng xã là nền dân chủ làng xã biểu thị tập trung qua quan lệ làng, hương ước.
Nền kinh tế tiểu nông và kết cấu kinh tế, tổ chức làng xã đã hình thành ở người Việt Nam nhiều phẩm chất đạo đức, năng lực, quan điểm và tầm nhìn tương ứng.
Lịch sử giữ nước
Việt Nam là một trong những quốc gia bị nhiều thế lực mạnh về tiềm lực kinh tế và quân sự, xâm chiếm, đô hộ, có thời gian đô hộ liên tục hơn 10 thế kỷ. Lịch sử dân tộc đã hình thành những con người thường xuyên phải chiến đấu trong thế trận không cân sức để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và sự sống của mình.
Môi trường văn hoá
Từ hoàn cảnh địa lý và lịch sử giữ nước, người Việt chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hoá và các dân tộc khác nhau trên thế giới tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ, Pháp. Có những hệ tư tưởng này từng là quốc giáo ở Việt Nam như Nho Giáo, Phật Giáo. Đầu thế kỷ XX người Việt Nam được tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập thì chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành hệ tư tưởng định hướng cho Cách mạng Việt Nam. Môi trường văn hoá đa dạng đã đem lại sự đa dạng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam nói riêng và toàn bộ đời sống người Việt Nam nói chung.
Môi trường sinh sống tự nhiên, những điều kiện kinh tế - xã hội - chính trị - văn hoá đã hình thành nên bản chất con người Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử. Hiện nay cách mạng Việt Nam có những yêu cầu mới. Từ những yêu cầu này nhìn lại, người Việt Nam có nhiều mặt tích cực nhưng cũng bộc lộ nhiều hạn chế.
Những mặt tích cực của người Việt Nam trong lịch sử được coi là một phần bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là : lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
Những mặt hạn chế của con người Việt Nam trong lịch sử bộc lộ qua:
Những hạn chế của truyền thống dân chủ làng xã:
Truyền thống dân chủ làng xã là sản phẩm tất yếu của cộng đồng làng xã mà cuộc sống tiểu nông tự cung tự cấp đã tạo ra. Cùng với việc hình thành tinh thần đoàn kết, cộng đồng làng xã đã nảy sinh dân chủ làng xã. Hình thức dân chủ sơ khai này thường dẫn đến tư tưởng cục bộ dòng họ, làng xã; tư tưởng bình quân chủ nghĩa, can thiệp vào cuộc sống riêng tư.
Tập quán sản xuất tiểu nông:
Là sản phẩm của nền sản xuất tồn tại lâu dài. Tập quán này dẫn đến khả năng hoạch toán kinh tế kém cỏi, nặng nề lợi ích trước mắt mà bỏ qua lợi ích lâu dài; thiếu chuẩn xác về thời gian, kỹ thuật, tâm lý cầu an, cầu may, thích bình quân, không thích sự phận hoá trong cuộc sống.
Đề cao thái qua kinh nghiệm:
Đề cao đến mức tuyệt đối hoá vai trò của nông nghiệp là sản phẩm của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, đặc biệt là nền sản xuất nhỏ, manh mún. Nền sản xuất này có quy trình ổn định và chủ yếu chịu sự chi phối có tính ổn định của tự nhiên nên kinh nghiệm được đánh giá rất cao. Điều này dẫn đến việc xem thường lý luận, xem thường tuổi trẻ.
Tính hai mặt của một số truyền thống:
Một số truyền thống của người Việt Nam cũng biểu lộ tính chất hai mặt của nó như: sống giản dị, ghét cầu kỳ, xa hoa là phẩm chất tốt song dễ dẫn đến sự hạ thấp nhu cầu trong khi nhu cầu là một trong những động lực để phát triển; truyền thống giỏi chịu đựng là phẩm chất tốt nhưng cũng dễ dẫn đến sự cam chịu, thoả mãn, bằng lòng với cái hiện có.
2. Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam
Cách mạng Việt Nam đang diễn ra trong những biến đổi sâu sắc, phức tạp của thế giới; trên những thành tựu lớn lao mà dân tộc Việt Nam đã đạt được và trước những cơ hội và thách thức mà người Việt Nam phải nắm bắt và vượt qua .
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ trên thế giới đã đưa nhân loại vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là xã hội hoá thông tin và kinh tế tri thức đã tạo ra cơ sở vật chất cho quá trình toàn cầu hoá xu hướng hợp tác hoá quốc tế để cùng tồn tại và phát triển.
Cục diện chính trị trên thế giới thay đổi bởi sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội; sự phân hoá của các quốc gia độc lập và khả năng tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản. Hiện nay trên thế giới đang diễn ra nhiều cuộc đấu tranh cục bộ, chạy đua vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, khủng bố, với tính chất ngày càng phức tạp.
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương đang phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố gây bất ổn định. Tuy vậy, hoà bình, hợp tác phát triển đang trở thành xu thế lớn hiện nay.
Ở Việt Nam , qua quá trình đổi mới, cở sở vật chất của nền kinh tế tăng cường. Tình hình chính trị xã hội cơ bản đã được ổn định . Môi trường hoà bình hợp tác, liên kết quốc tế tạo điều kiện để người Việt Nam phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh đó, nguy cơ tụt hậu xa hơn về nền kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng, tệ nạn quan liêu; diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra đối với con người Việt Nam đến nay vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp. Tình trạng tham nhũng và suy thoái về tư tưởng thống trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân.
Từ thực tế thế giới và của đất nước, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục dổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đang đòi hỏi người Việt Nam phải đạt được những yêu cầu mới để thực hiện nhiệm vụ từng giai đoạn trong mục tiêu chung trước diễn biến đa dạng, phức tạp của thế giới, trước những cơ hội và thử thách của chính mình.
3. Vấn đề xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu cách mạng hiện nay
Trước những yêu cầu và thách thức của thời đại mới, đồng thời với đấu tranh chống thoái hoá biến chất, trong giai đoạn hiện nay phải xây dựng con người Việt Nam có những đức tính cơ bản sau:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì mục đích chung
- Có nếp sống lành mạnh, văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, có ý thức bảo vệ và xây dựng môi trường sinh thái
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích bản thân gia đình và xã hội
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
Để đạt được yêu cầu này, người Việt Nam đã và đang tập trung đầu tư vào những lĩnh vực xã hội như:
- Trong lĩnh vực kinh tế : thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trong lĩnh vực chính trị: khẳng định con người đi lên chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhằm nâng cao tính chính trị tích cực của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân thâm gia nhiều hơn vào quản lý nhà nước và xã hội.
- Trên lĩnh vực xã hội: giải phóng con người ra khỏi sự thao túng của các quan hệ xã hội cũ đã lỗi thời, kế thừa những truyền thống tốt đẹp, xây dựng chuẩn mực quan hệ mới.
- Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo - khoa học công nghệ: đây được coi là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là nền tảng đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Trên lĩnh vực văn hoá: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa là tạo mục tiêu vùa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Vấn đề mà tiểu luận tìm hiểu là: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam hiện nay. Đây là vấn đề đã đang và sẽ được nhiều tập thể và cá nhân quan tâm tìm hiểu. Bản thân tôi khi làm đề tài này cũng mong muốn được đóng góp ý kiến nhỏ vào lĩnh vực trên cùng với những những người có chung mối quan tâm.
D. DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác Lênin. NXB Chính trị quốc gia. Năm 2005
2. Giáo trình Triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học.NXB lý luận chính trị. Năm 2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Triet hoc.doc