Tài liệu Đề tài Quan điểm của Marx- Lenin về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp: ĐẶT VẤN ĐỀ:
Qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, trong chúng ta không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, nhà nước và toàn thể dân tộc. Trước sự biến động phức tạp của tình hình thế giới: toàn cầu hóa, khủng bố, chiến tranh khu vực,.. đặc biệt là chiến lược diễn biến hòa bình với nhiều hình thức mới, chúng ta cần phải quán triệt sâu sắc chủ trương tư tưởng của Người. Con đường đi lên chủ nghĩa cộng sản còn nhiều khó khăn và thử thách. Nhiệm vụ quan trọng lúc này là phải giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, tập hợp sức mạnh quần chúng tức là giải quyết triệt để các vấn đề dân tộc, giai cấp và mối quan hệ giữa chúng.
Vấn đề dân tộc là những việc cần phải xem xét, nghiên cứu, giải quyết liên quan đến lợi ích của dân tộc, ở đây dân tộc được hiểu là toàn thể nhân dân Việt Nam.
Vấn ...
13 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quan điểm của Marx- Lenin về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, trong chúng ta không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, nhà nước và toàn thể dân tộc. Trước sự biến động phức tạp của tình hình thế giới: toàn cầu hóa, khủng bố, chiến tranh khu vực,.. đặc biệt là chiến lược diễn biến hòa bình với nhiều hình thức mới, chúng ta cần phải quán triệt sâu sắc chủ trương tư tưởng của Người. Con đường đi lên chủ nghĩa cộng sản còn nhiều khó khăn và thử thách. Nhiệm vụ quan trọng lúc này là phải giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, tập hợp sức mạnh quần chúng tức là giải quyết triệt để các vấn đề dân tộc, giai cấp và mối quan hệ giữa chúng.
Vấn đề dân tộc là những việc cần phải xem xét, nghiên cứu, giải quyết liên quan đến lợi ích của dân tộc, ở đây dân tộc được hiểu là toàn thể nhân dân Việt Nam.
Vấn đề giai cấp là những việc cần phải xem xét, nghiên cứu, giải quyết liên quan đến lợi ích của giai cấp, ở đây giai cấp được hiểu là giai cấp công nhân.
Thực tiễn đặt ra yêu cầu cần phải tìm hiểu, nghiên cứu, học tập và tiếp thu những quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp để áp dụng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta sẽ đi tìm hiểu xem Hồ Chí Minh đã giải quyết mối quan hệ này như thế nào để có thể áp dụng vào thực tiễn phát triển của đất nước.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Quan điểm của Marx- Lenin về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp:
Quan điểm của Marx- Engels:
Đề cao khẳng định vai trò của vấn đề giai cấp đối với vấn đề dân tộc: “vấn đề dân tộc là một bộ phận của vấn đề giai cấp”.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Marx –Engels đề cập đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp như sau: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như vậy, Marx-Engels đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp công nhân. Marx-Engels viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo Marx-Engels, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện tiền đề để giải phóng dân tộc. Lenin từng nhận xét, đối với Marx, so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định thì việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc bao giờ cũng chủ yếu thuộc về một giai cấp tiêu biểu mà giai cấp đó đại diện cho PTSX tiến bộ. Ví dụ như: trong thời đại phong kiến: giai cấp phong kiến, trong thời đại tư bản: giai cấp tư bản, trong thời đại XHCN: giai cấp công nhân.
Do Marx nghiên cứu mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở các nước châu Âu nên việc đề cao vai trò của vấn đề giai cấp là hoàn toàn phù hợp. Vì tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng: tư sản và vô sản; về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cuộc cách mạng tư sản; vào thời của Marx, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh.
Quan điểm của Lenin:
Đến thời Lenin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lenin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Lenin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại."
Tuy nhiên, Lenin cũng cho rằng sự nghiệp cách mạng giai cấp ở các nước chính quốc có tính chất quyết định còn sự nghiệp cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa phụ thuộc vào sự nghiệp cách mạng giai cấp ở các nước chính quốc.
Sau khi Lenin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tóm lại:
Marx - Engels, Lenin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát triển một cách sáng tạo học thuyết Marx- Lenin. Và vấn đề xuyên suốt trong tư tưởng của Hồ Chí Minh- mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp- là một trong những sáng tạo của Người nhằm bổ sung làm phong phú hơn học thuyết Marx- Lenin.
Tiếp thu chủ nghĩa Marx-Lenin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết (không thể tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp mà quên vấn đề dân tộc và ngược lại. Nếu tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp sẽ dẫn tới chủ nghĩa biệt phái, nếu tuyệt đối hóa vấn đề dân tộc thì sẽ rơi vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan).
Vấn đề dân tộc và giai cấp có mối quan hệ gắn bó.
Vấn đề dân tộc nhìn nhận trên quan điểm vấn đề giai cấp:
Sự nghiệp cách mạng dân tộc phải do giai cấp công nhân lãnh đạo thực hiện.
Sự nghiệp cách mạng dân tộc phải dựa vào hệ tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân: chủ nghĩa Marx- Lenin.
Trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra: phong trào Cần Vương, Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Thế,…, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị các chế độ ấy - những hình thái kinh tế - xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng giai cấp. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''. Sau bao năm bôn ba nước ngoài, Người đã tìm được con đường cứu nước. Đó là khi Người đến với chủ nghĩa Marx- Lenin, sau khi Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lenin.
“Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin. Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: “Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!” Hình của Đảng lồng trong hình của Nước. Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười,”
(“Người đi tìm hình của nước” – Chế Lan Viên)
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chính vì vậy, cuộc cách mạng dân tộc phải đi theo lập trường của giai cấp công nhân hay chính là lấy “ chủ nghĩa Marx- Lenin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động…”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”.
Sự nghiệp cách mạng dân tộc được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Trong cuộc cách mạng dân tộc, khi xác định về lực lượng lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: bất cứ cuộc cách mạng nào cũng cần có người lãnh đạo để tập hợp sức mạnh chung, nếu không có người lãnh đạo thì chỉ là một đội quân ô hợp và Đảng cộng sản là người lãnh đạo duy nhất của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Đồng thời Người cũng khẳng định: Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân. Ngay khi tuyên bố thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Ở đây, bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện không chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân mà điều cơ bản là ở chỗ lập trường của giai cấp công nhân và nền tảng tư tưởng của Đảng chính là chủ nghĩa Marx- Lênin. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và với tư cách đó, giai cấp công nhân bao giờ cũng là đội tiên phong của cả dân tộc. Vì vậy, khi Người nói Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, hay “Đảng cách mạng chân chính”, “Đảng mácxít - Lêninnít”… thì trong tư tưởng của Người, Đảng bao giờ cũng là “đội tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Và bản chất giai cấp của Đảng chỉ là một: Đảng mang bản chất giai cấp công nhân, được xây dựng theo nguyên tắc về Đảng kiểu mới của V.I Lênin.
Sự nghiệp cách mạng dân tộc phải thực hiện khối liên minh công- nông- tri thức.
Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân. Vì vậy để có thể thực hiện được cách mạng giải phóng dân tộc, cần có sự đoàn kết sức mạnh của tất cả các cá nhân, sức mạnh tập thể. Chính vì vậy mà mặt trận dân tộc thông nhất được thành lập. Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nơi quy tụ mọi con dân Việt Nam, song đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh công - nông - trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo- Đảng cộng sản.
Sau khi cuôc cách mạng giành thắng lợi, chúng ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH và lập ra một Nhà nước của dân tộc Việt Nam. Nhưng như chúng ta đã biết, nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp xuất hiện. Do đó, nhà nước là sản phẩm tất yếu của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào là phi giai cấp, không có nhà nước nào đứng trên giai cấp. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định: giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: sau khi giành được độc lập phải đi lên CNXH.
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau. Tất cả các phong trào cứu nước dù diễn ra vô cùng anh dũng nhưng đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu.Chỉ đến khi Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Marx- Lenin, con đường giải phóng dân tộc mới được tìm ra. Người “ hoàn toàn tin theo Lenin và Quốc tế thứ ba” chính vì Lenin và Quốc tế thứ ba đã “ bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”. Người thấy trong lý luận của Lenin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “… chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và K.Marx, F.Engels, V. I. Lenin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong đó có “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Vừa ra đời, Đảng tuyên bố : "Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác bỏ thẳng thừng chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; và nhìn rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ chủ nghĩa nào khác, bất cứ một con đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.”.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ.
Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng những khả năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng đồng dân tộc khác.
Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là cái lôgíc phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam, 71 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, làm nên cốt cách Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và vị thế Việt Nam trước thế giới.
Giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc.
Hồ Chí Minh đã giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích giai cấp phải phục tùng lợi ích dân tộc.
Tháng 5- 1941, Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mục tiêu của giai cấp công nhân cũng chính là mục tiêu của cả dân tộc, lợi ích của giai cấp công nhân nằm trong lợi ích của dân tộc. Vì vậy, giai cấp công nhân phải phục vụ lợi ích của dân tộc. Đảng, nhà nước, các tổ chức khác đều phải hành động với mục đích là phục vụ nhân dân. Tiến lên chủ nghĩa xã hội cũng vì mục đích đêm lại lợi ích cho nhân dân mà thôi.
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động là chủ và nhân dân lao động làm chủ, nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công- nông- trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam.
Phát triển sáng tạo học thuyết Marx- Lenin về Đảng cộng sản, Hồ Chí Minh cho rằng: Đảng cộng sản Việt Nam là “Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời là “Đảng của dân tộc Việt Nam”, Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”. Đảng ra đời vì sự sống còn của dân tộc, vì nhân dân mà ra,vì nhân dân mà chiến đấu.
Ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng CSVN luôn là người đại diện xứng đáng cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951), trong báo cáo chính trị, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Năm 1953, Hồ Chí Minh viết: “Đảng lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc… Đảng là đảng của giai cấp lao động cũng là Đảng của toàn dân”. Năm 1957, Bác khẳng định: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc.
Nhất quán với quan điểm này, khi miền Bắc tiến hành cuộc cách mạng XHCN, vào năm 1961, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”. Vận dụng sáng tạo những nguyên tắc về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải tập hợp được trong hàng ngũ của mình những người trong giai cấp công nhân, nông dân nghèo, binh lính… miễn là những người đó “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái đấu tranh và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng”.
Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc… Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc”.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã hội vì Đảng không có mục đích tự thân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không còn lợi ích nào khác. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”.
Lý luận chủ nghĩa Marx- Lenin là nền tảng tư tưởng của Đảng, nhưng Đảng hoạt động không chỉ dựa trên lý luận chủ nghĩa Marx- Lenin mà còn dựa trên nền tảng căn cố, tư tưởng văn hóa của cả dân tộc và Hồ Chí Minh là người thực hiện vấn đề đó. Và tổ chức hoạt động của Đảng không chỉ có nguyên tắc cơ bản của giai cấp công nhân: tập trung dân chủ mà còn phải tuân theo những nguyên tắc của nhân dân được hun đúc trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, trong quá trình đấu tranh chông giặc ngoại xâm: đoàn kết, kỷ luật, trên dưới một lòng,…
Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mạng tiên phong, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Điều đó khiến cho mọi người dân Việt Nam yêu nước, dù là đảng viên hay không, đều thực sự cảm nhận Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của Bác Hồ, là Đảng của mình, và đều gọi Đảng là “Đảng ta”.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một nhà nước mới ở Việt Nam là một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ “nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Đây là quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Người sáng lập. Quan điểm đó xuyên suốt, có tính chất chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của nhà nước cách mạng Việt Nam.
Nhà nước của dân:
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nồi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết (Hiến pháp 1946). Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và nhân dân bẩu ra quốc hội – cơ quan quyền nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao của nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước: nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu mà tỏ ra không xứng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nhân dân nắm trong tay quyền lực nhưng không thể thực hiện, vì vậy nhà nước là công cụ để thực thi quyền lực của nhân dân.
Nhà nước do dân:
Nhà nước do dân lập nên, tạo dựng mà thành thông qua hai tiến trình: đấu tranh cách mạng và bầu cử; do dân nuôi dưỡng; do dân ủng hộ tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ của mình; do dân kiểm tra đánh giá các hoạt động.
Nhà nước vì dân:
Một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Như chúng ta đã biết mục đích cả cuộc đời của Bác là đem lại lợi ích cho nhân dân, cho nên, nhà nước được xây dựng trên tư tưởng của Người cũng phải có mục đích là vì dân. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối,chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm liệm: phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành.
Trong thực tế, nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới.
Kết luận:
Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh không những không mâu thuẫn với nhau mà còn thống nhất, liên kết chặt chẽ, tác động qua lại, biện chứng với nhau. Tính giai cấp càng được tăng cường thì tính dân tộc càng được củng cố vững chắc, dân tộc càng có sức mạnh không một kẻ thù nào có thể phá vỡ; tính dân tộc càng được mở rộng thì tính giai cấp càng được tăng cường. Không thể tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp mà quên vấn đề dân tộc và ngược lại. Nếu tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp sẽ dẫn tới chủ nghĩa biệt phái, nếu tuyệt đối hóa vấn đề dân tộc thì sẽ rơi vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Vì vậy, phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Vấn đề dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết – sự khác biệt, sáng tạo trong tư tưởng của Hồ Chí Minh so với Marx- Lenin.
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Marx- Lenin, đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Nhưng Người cũng cho rằng ở các nước thuộc địa phương Đông không phải làm ngay cách mạng vô sản mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN. Có thể nói chủ nghĩa dân tộc là tư tưởng nền tảng và nhất quán trong hệ tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh.
Theo quan điểm của Quốc tế cộng sản, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế có mâu thuẫn với nhau. . Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với nhau. Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ nghĩa dân tộc có thể phát triển thành chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hoá và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”. Bởi vậy, “chủ nghĩa dân tộc theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân tộc cải lương), mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người”. Như vậy, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh dùng ở đây, nói như C.Mác, không phải như giai cấp tư sản đã hiểu, mà là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của người dân bản xứ.
Khi tiếp thu học thuyết Mác về đấu tranh giai cấp, Nguyễn Ái Quốc cũng thừa nhận đấu tranh giai cấp là một động lực trong xã hội có giai cấp, nhưng Người không cho đó là động lực duy nhất.
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Marx đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Marx bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Marx ở thời mình không thể có được". Và người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Marx về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông". Ở phương Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây…".
Xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, mất nước với nhiệm vụ cứu nước giành độc lập dân tộc đang đặt lên hàng đầu, thì “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Hơn nữa, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sự phân hoá giai cấp đã bắt đầu nhưng chưa triệt để và sâu sắc, xung đột giai cấp chưa gay gắt và mạnh mẽ, cả dân tộc đang đấu tranh vì mục tiêu chung: chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do.
Năm 1924, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam đang đấu tranh giải phóng dân tộc hồi đầu thế kỷ XX, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”.
Theo Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp”. Sở dĩ như vậy là vì, “ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và đấu tranh giữa toàn dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai”.
Ngay ở dòng đầu tiên của Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày ngắn gọn và dứt khoát ý kiến cho rằng, ở phương Đông và ở Việt Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như phương Tây” (phương Tây diễn ra quyết liệt và đẫm máu hơn). Bởi vì, ở phương Tây, có đấu tranh giai cấp vì có xung đột về quyền lợi giữa các giai cấp, nhưng ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng, theo Nguyễn Ái Quốc, “sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu”. Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất phát triển thấp kém, sự phân hóa trong cơ cấu kinh tế diễn ra không mạnh, sự phân hóa giai cấp trong cơ cấu xã hội không lớn: “nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc”. Người lao động, nhân dân bị áp bức tuyệt đại đa số là nông dân; trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức dân tộc của họ rõ ràng mạnh hơn ý thức giai cấp (vì ngay giai cấp công nhân Việt Nam trước năm 1924 cũng vẫn còn là giai cấp “tự phát”). Nguyễn Ái Quốc đã phác họa ra kẻ bóc lột ở phương Đông là “những kẻ mà ở đó được coi là địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ” và “những tên trọc phú ở đó thì ở đây chỉ là những kẻ thực lợi khá giả thôi”.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được."
Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa dân tộc trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam khi đó, trong phần cương lĩnh và phương hướng hành động chung, Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ của Nguyễn Ái Quốc đề nghị “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lý luận về phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Lenin chưa bao quát đến các nước thuộc địa. Ở các nước thuộc địa ngoài phong trào công nhân còn có phong trào yêu nước và phong trào yêu nước còn có nhiều yếu tố nổi bật hơn. Phong trào yêu nước xuất hiện sớm hơn cùng với các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, phong trao công nhân ở Việt Nam chỉ xuất hiện khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa. Phong trào yêu nước thu hút được nhiêu lực lượng lao động hơn, mọi tầng lớp lao động đều tham gia. Và điều quan trọng là hầu hết công nhân xuất phát từ nông dân, cả phong trào yêu nước lẫn phong trào công nhân đều có mục đích chung: đánh đuổi thực dân, giải phóng đất nước, xây dựng một chính quyền mới, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng biệt cho mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
Tháng 5- 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị lần thứ tám ban chấp hành trung ương Đảng, chủ trương “thay đổi chiến lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định dứt khoát: “cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc”. Hội nghị chủ trương tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ chia lại công điền và ruộng đất “tịch thu của Việt gian phản quốc” cho dân cày nghèo, tức ruộng đất nằm trong tay kẻ thù của dân tộc, chứ không phải là của giai cấp địa chủ nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế.
Kết luận:
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tất cả mọi hành động của Đảng, nhà nước, các cơ quan đoàn thể, cá nhân đều phải có mục đích là vì nhân dân, đất nước và không gì ngoài mục đích đó.
TỔNG KẾT:
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Tư tưởng đó được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân..
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945- 1975) đã chứng minh cho tính đúng đắn, khoa học, cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến lên. Mặc dù chiến lược giải phóng dân tộc được thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã bị phủ nhận trong một thời gian dài và bị thay thế bằng một chiến lược đấu tranh giai cấp của Luận cương chính trị tháng 10- 1930; mặc dù bị Quốc tế thứ ba phản đối, cho rằng Hồ Chí Minh rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nhưng Người vẫn kiên trì với quan điểm của mình, và cuối cùng qua thực tiễn những tư tưởng của Người đã được khẳng định trở lại trong thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước (1930- 1945) đặc biệt trong hội nghị trung ương tám Ban chấp hành trung ương Đảng (5- 1941): Đảng chủ trương “thay đổi chiến lược”, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập lên hàng đầu.
Trong hai cuộc kháng chiến, nhờ giải quyết triệt để mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp của Người mà cách mạng Việt Nam đã tìm ra được đúng con đường của mình, đoàn kết toàn dân, tạo sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và giành được thắng lợi vẻ vang.
Chẳng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx – Lênin và những quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đề ra chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã được cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận với niềm phấn khởi và đầy tin tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh to lớn để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Những luận điểm về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là một phát hiện quan trọng và đặc sắc. Chúng không chỉ hoàn toàn đúng với hơn 80 năm qua của cách mạng Việt Nam, mà còn có tầm chỉ đạo chiến lược sống còn đối với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam hiện nay. Trước những biến động mới và phức tạp của thế giới ngày nay, khi mà nhiều luận đề cũ tưởng như là chân lý bất di bất dịch đã trở nên lạc hậu và cản trở sự phát triển, thì những luận điểm trên của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cách đây 84 năm vẫn cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc và đầy đủ hơn.
Vấn đề dân tộc và giai cấp đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước; nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân; chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Qua nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, chúng ta thấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx- Lenin vào thực tiễn cach mạng Việt Nam. Khi nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Marx- Lenin, Người đã loại bỏ những gì không thích hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, dám đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả: “lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ thực tiễn sinh động”. Charles Fourniau - nhà sử học người Pháp đã cho rằng: “Việc áp dụng một cách độc đáo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, chắc chắn đó là một trong những nguyên nhân thắng lợi của Việt Nam, thể hiện một cách chính xác sự thống nhất đã đạt được của truyền thống dân tộc và của cuộc cách mạng sâu xa mà việc áp dụng chủ nghĩa Mác đòi hỏi, cũng là sự thống nhất một cuộc cách mạng dân tộc với phong trào cộng sản quốc tế, đó là những dấu ấn riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên phong trào cách mạng Việt Nam”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
Giáo trình những nguyên ký cơ bản chủ nghĩa Marx- Lenin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
Võ Nguyên Giáp (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000.
Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
Tạp chí quốc phòng toàn dân
Việt Nam - Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, VOVNEWS, 2/2/2006.
MỤC LỤC
Trang
Đặt vấn đề. 1
Giải quyết vấn đề. 1
Quan điểm của Marx- Lenin về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. 1
Quan điểm của Marx- Engels. 1
Quan điểm của Lenin. 2
Vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. 2
Vấn đề dân tộc và giai cấp có mối quan hệ gắn bó. 2
Vấn đề dân tộc nhìn nhận trên quan điểm vấn đề giai cấp. 2
Sự nghiệp cách mạng dân tộc phải do giai cấp công nhân lãnh đạo thực hiện 2
Sự nghiệp cách mạng dân tộc phải dựa vào hệ tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân: chủ nghĩa Marx- Lenin. 2
Sự nghiệp cách mạng dân tộc được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. 3
Sự nghiệp cách mạng dân tộc phải thực hiện khối liên minh công- nông- tri thức. 3
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: sau khi giành được độc lập phải đi lên CNXH. 4
Giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc 6
Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. 6
Nhà nước của dân, do dân và vì dân 7
Vấn đề dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết – sự khác biệt, sáng tạo trong tư tưởng của Hồ Chí Minh so với Marx- Lenin. 8
Tổng kết 10
Tài liệu tham khảo. 12
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu luan tthcm.docx