Tài liệu Đề tài Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta và cơ chế lãi suất thoả thuận: 1
Đề tài : "Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất
ở nước ta và cơ chế lãi suất thoả thuận"
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong cơ chế thị trường, lãi suất là một trong những biến số
được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của
nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của
cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng
và toàn bộ nền kinh tế. Chính sách lãi suất là một trong những công cụ
quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm thúc
đẩy tăng trưởng và kiềm chế lạm phát. Một mặt, lãi suất được sử dụng
đúng đắn uyển chuyển, linh hoạt cần phù hợp với những điều kiện,
tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định sẽ có tác động tích cực
tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ngược lại, nếu sử dụng công cụ lãi suất
một cách cố định thì rất có thể chỉ có tác dụng tích cực ở thời kỳ này
nhưng chuyển sang thời kỳ khác với ...
40 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta và cơ chế lãi suất thoả thuận, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Đề tài : "Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất
ở nước ta và cơ chế lãi suất thoả thuận"
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong cơ chế thị trường, lãi suất là một trong những biến số
được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của
nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của
cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng
và toàn bộ nền kinh tế. Chính sách lãi suất là một trong những công cụ
quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm thúc
đẩy tăng trưởng và kiềm chế lạm phát. Một mặt, lãi suất được sử dụng
đúng đắn uyển chuyển, linh hoạt cần phù hợp với những điều kiện,
tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định sẽ có tác động tích cực
tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ngược lại, nếu sử dụng công cụ lãi suất
một cách cố định thì rất có thể chỉ có tác dụng tích cực ở thời kỳ này
nhưng chuyển sang thời kỳ khác với những điều kiện kinh tế xã hội
thay đổi lại trở thành vật cản cho sự phát triển của nền kinh tế.
Việt Nam qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế toàn diện,
chính sách lãi suất đã có những bước chuyển biến cơ bản - được cải
cách đáng kể theo định hướng thị trường. Cơ chế điêù hành lãi suất
3
được thay đổi theo từng thời kỳ phát triển kinh tế, ngày càng trở nên
linh hoạt, góp phần ổn định thị trường tiền tệ bình ổn giá cả, đẩy lùi và
kiềm chế lạm phát. Những chính sách lãi suất ngân hàng nhà nước
(NHNN) sử dụng đã có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế nói chung,
đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngân hàng thương
mại và các doanh nghiệp nói riêng. Để có chính sách lãi suất phù hợp
với nguyên tắc thị trường, đảm bảo nguồn lực tài chính được sử dụng
và phân bổ một cách hiệu quả hơn, thì VN luôn phải linh động với
các chính sách lãi suất, để có được chính sách lãi suất phù hợp với
từng giai đoạn ngắn của nền kinh tế.
Bố cục của đề tài được kết cấu bởi hai phần lớn.
Phần I : Một số Lý luận cơ bản về lãi suất
Phần II: Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta và cơ
chế lãi suất thoả thuận.
4
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu ...........................................................................1
Nội dung...............................................................................3
Phần I: Một số Lý luận cơ bản về lãi suất .............................3
I. Một số khái niệm về lãi suất .............................................3
II. Vai trò của lãi suất ...........................................................4
2.1. Lãi suất tác động tới sự phân bổ các nguồn lực ............ 4
2.2. Lãi suất với lạm phát ....................................................5
2.3. Lãi suất tác động tới tiêu dùng và tiết kiệm .................5
2.4. Lãi suất tác động đến đầu tư. ........................................6
2.5. Lãi suất tác động tới tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất
nhập khẩu ......................................................................................6
Phần II: Quá trình tiến tới tự do hoá LS ở nước ta và cơ LSTT
I. Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua:8
II. Tính tất yếu của viêc chuyển sang một cơ chế lãi suất theo
5
hướng thị trường :.........................................................10
III. Những thách thức đặt ra đối với việc thực hiện cơ chế lãi
suất thoả thuận:..............................................................13
3.1. Thị trường tài chính Việt Nam vốn còn hết sức kém phát
triển và lạc hậu so với các nước trong khu vực.............14
3.2. Cơ chế lãi suất thị trường hay lãi suất thoả thuận đòi hỏi
một thông tin tương ứng...............................................15
3.3. Hệ thống NH Việt Nam còn nhiều yếu kém cũng là thách
thức cho quá trình chuyển đổi sang lãi suất thị trường:
.............................................................................................16
IV. Các giải pháp để lãi suất thoả thuận phát huy hiệu quả kinh
tế.
4.1. Lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống NH Việt Nam ....................................................20
4.2. Xây dựng các quy chế giám sát TC đối với nền KT. ..21
4.3 Sự hiện diện đầy dủ các công cụ giám sát của chính sách
tiền tệ là rất cần thiết. ...................................................21
4.4 Cũng cố vai trò của Hiệp hội NH, tránh tình trạng các
NHTM cạnh tranh không lành mạnh thông qua lãi suất. ...41
6
Kết Luận...............................................................................40
NỘI DUNG
Phần I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ LÃI SUẤT
Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một
công cụ rất nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi
NHTW đặc biệt ở những nước đang phát triển. Vì vậy, có rất nhiều
cách hiểu về lãi suất, trong đó chúng ta có thể đưa ra một số khái niệm
cơ bản về lãi suất như sau:
- Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín
dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan
đến hoạt động gửi tiền và vay tiền. Đồng thời, lãi suất còn là công cụ
điều hành chính sách tiền tệ của NHTW mỗi nước.
7
- Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được ấn định trên thị trường,
không được điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá.
- Lãi suất thực là lãi suất được điều chỉnh cho đúng theo những
thay đổi dự tính về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí
thật của việc vay tiền. Theo Fisher, lãi suất danh nghĩa (i) bằng lãi suất
thực (r) cộng với mức lạm phát dự tính: i= r+ lạm phát.
- Lãi suất hoàn vốn: là một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại
của tiền thanh toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm
nay của công cụ đó. Đây là phép đo được các nhà kinh tế coi là phép
đo lãi suất chính xác nhất.
- Lãi suất tái chiết khấu: là hình thức tái cấp vốn được áp dụng
khi ngân hàng nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng.
- Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất do ngân hàng Nhà nước áp
dụng khi tái chiết khấu.
- Lãi suất liên ngân hàng: là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ
liên ngân hàng, nơi các ngân hàng thực hiện việc cho vay và cho vay
lẫn nhau, nó chỉ chính xác hơn về chi phí vốn vay của ngân hàng và
cung cấp vốn trên thị trường.
8
II. VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT
2.1 . Lãi suất tác động tới sự phân bổ các nguồn lực
Tất cả mọi nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội
phải phan bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả. Nghiên
cứu trong nền kinh tế thị trường cho thấy, giá cả đóng vai trò cực kỳ
quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực giữa các ngành kinh tế.
Như chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất
có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để
quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế , một dự án hay một tài sản
nào đó chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ
suáat lợi tức thu được từ ngành kinh tế đó, dự án đó hay tài sản đó với
chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét một ngành, một dự
án kinh doanh có đem lại lợi nhuận, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và
đủ để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không.
Ngành nào, dự án nào có tỷ suất lợi tức lớn hơn lãi suất thì nguồn lực
sẽ được phân bổ tới đó và đó là hiệu quả của sự phân bổ hiệu quả.
Thông qua lãi suất, các doanh nghiệp có thể lựa chọn những ngành
sản xuất khác nhau để đầu tư nhằm thu tỷ suất lợi nhuận cao.Như vậy
lãi suất là tín hiệu, là căn cứ để có sự phân bổ hiệu quả của các nguồn
9
lực khan hiếm trong xã hội, lãi suất là yếu tố cần thiết ban đầu trước
khi đi đến quyết định đầu tư.
2.2. Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối qua hệ chặt chẽ giữa lãi
suất và lạm phát. Fisher chỉ ra rằng lãi suất tăng cao thời kỳ lạm phát
cao, Những nước trải qua lạm phát cao cũng chính là những bnước có
mức lãi suất cao.Lạm phát là hiênh tượng mất giá chung của đồng
tiền; là tình trạng tăng liên tục của mức giá chung của nền kinh tế do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy cũng có nhiều biện pháp khác
nhau để kiểm soát lạm phát, trong đó giải pháp về lãi suất có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng.
Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân
hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến
cho đồng tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng
giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống
lạm phát.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát
không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, giảm tổng
10
cầu và làm giảm sản lượng. Do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp
với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát được lạm phát ổn định
giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất phù hợp là sự cần
thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
2.3. Lãi suất tác động tới tiêu dùng và tiết kiệm.
Thu nhập của các hộ gia đình thường được chia làm hai bộ
phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia nàyphụ thuộc vào nhiều
nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu
quả của tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi suất có tác dụng tích cực tới
các nhân tố khác.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay
nhiều hơn cho việc mua sắm các hàng hoá, nghĩa là tiêu dùng nhiều
hơn. Ngược lại, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để
dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
2.4. Lãi suất tác động đến đầu tư.
Hoạt động đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như
thu nhập, chi phí kỳ vọng trong kinh doanh. Trong đó lãi suất thể hiện
chi phí đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định đầu tư.
11
Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ
mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, do
vậy chi tiêu cho đầu tư giảm, ngược lại khi lãi suất giảm các doanh
nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu
tư sẽ tăng.
Ngay cả khi một doanh nghiệp có dư thừa vốn và không muốn
vay để đầu tư vào vốn hiện vật thì chi tiêu đầu tư vẫn bị ảnh hưởng
của lãi suất do doanh nghiệp có thể mua chứng khoán. Lãi suất cao,
chi phí cơ hội của khoản đầu tư sẽ cao, chi tiêu đầu tư giảm do doanh
nghiệp mua chứng khoán sẽ tốt hơn vào đầu tư vốn hiện vật. Khi lãi
suất chi phí cơ hội của đầu tư giảm, chi tiêu đầu tư sẽ tăng lên vì đầu
tư vào vốn hiện vật rất có thể đem lại thu nhập lớn hơn cho doanh
nghiệp so với mua chứng khoán.
Đối với đầu tư hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là
khoản lãi trả cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá
này đi hay khoản vay để mua hàng. Lãi suất làm việc tăng lên, chi phí
biên của việc giữ hàng dự trữ so với lợi ích biên đã giả định trước làm
cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm. Như vậy lãi suất là nhân tố chủ yếu
quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào vốn hiện vật và hàng dự
trữ.
12
2.5. Lãi suất tác động tới tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập
khẩu.
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ
của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối
quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, thuế quan,
sự ưa thích hàng nội, hàng ngoại, năng suất lao động ....Ngoài ra tỷ giá
trong ngắn hạn còn chịu ảnh hưởng của lãi suất: lãi suất tiền gửi nội tệ
và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi lãi
suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất tăng do tỷ lệ
lạm phát dự tính tăng( lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi
suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi)
thì giá đồng tiền trong nước tăng, tỷ giá tăng. Khi lãi suất tiền gửi
ngoại tệ tăng, đồng nội tệ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại.
Tỷ giá rất quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu. Nếu lãi
suất tăng làm tăng tỷ giá sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu giảm, nhập
khẩu tăng và ngược lại. Như vậy thông qua tỷ giá hối đoái, lãi suất có
ảnh hưởng lớn tới xuất nhập khẩu , xuất khẩu ròng của một quốc gia.
13
Phần II
QUÁ TRÌNH TIẾN TỚI TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở NƯỚC
TA VÀ CƠ CHẾ LÃI SUẤT THOẢ THUẬN
Ngày 30/5/2002. thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành quyết
định số 546/2002/QĐNHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả
thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của
tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Rõ ràng, đây là một bước chuyển
đổi quan trọng, mạnh mẽ và cần thiết trong chính sách tín dụng, phù
hợp với nguyên tắc thị trường nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính được
sử dụng và phân bổ một cách có hiệu quả hơn. Tuy nhiên trong điều
kiện Việt Nam hiện nay thì việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đã
thực sự thích hợp hay chưa? cũng là một câu hỏi cần đặt ra. Để làm rõ
vấn đề này, trước hết chúng ta sẽ nghiên cứu quá trình điều hành lãi
suất của NHNN nhằm hướng tới tự do hoá lãi suất trong thời gian qua.
I. CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA:
1.1 Trước năm 1989: nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế
kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến khủng hoảng về mọi
mặt, tài chính, tiền tệ,... Thời kỳ này là thời kỳ mà lãi suất được điều
hành theo cơ chế lãi suất âm, chính sách lãi suất cứng nhắc bị áp đặt
14
theo kiểu hành chính, khiến cho các ngân hàng (NH) làm ăn thua lỗ,
nền kinh tế thì trì trệ kém phát triển, thâm hụt ngân sách nặng nề,...
1.2. Từ năm 1989 đến năm 1992 là quá trình chuyển dần từ chế
độ lãi suất âm sang chế độ lãi suất dương, từng bước xoá bỏ bao cấp
qua lãi suất. Năm 1991, hệ thống NH chuyển sang mô hình hai cấp:
NHNN thực hiện chức năng NHTW và quản lý nhà nước, hệ thống
NHTM thực hiện chức năng của NHTM là kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ NH theo cơ chế thị trường. Trong giai đoạn này, NHNN quy định
các mức lãi suất tiền gửi, cho vay với mục tiêu là chống khủng hoảng,
chống lạm phát.
1.3. Từ 1992 đến 1995: là giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất
thực dương. NHNN vừa quy định sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi cho
vay ngắn và trung hạn, không phân biệt lãi suất cho vay đối với các
thành phần kinh tế, cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định mức lãi
suất huy động băng nhiều hình thức, chấm dứt bao cấp tín dụng thông
qua lãi suất, lãi suất huy động bằng lãi suất thực cộng với chỉ số trượt
giá bình quân trên thị trường. Lãi suất cho vay bằng lãi suất huy động
bình quân cộng thêm tỷ lệ chi phí hợp lý của NH, lãi suất phải bảo
toàn được vốn cho cả người vay, người gửi và có lãi thực.
15
Đối với lãi suất ngoại tệ, NHNN quy định trần lãi suất cho vy,
còn lãi suất huy động do các NHTM tự quyết định trêncơ sở lãi suất
thị trường quốc tế và cung câù vốn ngoại tệ trên thị trường tiền tệ
trong nước.
1.4. Thời kỳ từ năm 1996 đến tháng 7/2000: Đến cuối năm
1995, chính sách lãi suất đã bộc lộ nhiều tồn tại không phù hợp với
yêu cầu phát triển của thị trường tiền tệ. Vì vậy NHNN đã ban hành
chính sách lãi suất mới theo hướng nới lỏng hơn so với trước đây. Cụ
thể là NHNN bỏ quy định sàn lãi suất tiền gửi chỉ quy định trần lãi
suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất xho vay ngắn hạn, trần
cho vay ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn.
Trần lãi suất cho vay bằng ngoại tệ được điều chíh phù hợp với
biến động lãi suất trên, thị trường quốc tế và cung cầu vốn ngoại tệ thị
trường tiền tệ trong nước.
1.5. Thời kỳ từ tháng 7/2000 đến tháng 5/2002:
Xuất phát yêu cầu đổi mới hoạt động NH phù hợp với nhịp độ
và mục tiêu phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, thực hiện theo
luật NHNN, chính sách lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu
vốn trên thị trường nhưng vẫn có sự khống chế của NHNN bằng việc
16
quy định biên độ nhất định để các NHTM xác địng lãi suất cho vay.
Lãi suất cơ bản được NHNN thông báo hàng tháng dựa trên các nhân
tố chủ yếu sau:
Tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường áp dụng đối
với khách hàng có uy tín của NHTM lớn, diễn biến về lãi suất và tiền
tệ, diễn biến kinh tế vĩ mô; quan hệ tỷ giá với chính sách tiền tệ.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ , bỏ quy định trần lãi suất
cho vay, mà áp dụng lãi suất linh hoạt theo tiền tệ quốc tế. Thời gian
đầu còn bị khống chế với giới hạn không vượt quá lãi suất Sibor cộng
thêm tỷ lệ nhất định. Tuy nhiên sau một thời gian thực hiện, NHNN
đã tự do hoá lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ.
II. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIÊC CHUYỂN SANG MỘT CƠ
CHẾ LÃI SUẤT THEO HƯỚNG THỊ TRƯỜNG :
Trong khoảng thời gian từ tháng 7/2000 đến tháng 5/2002, lãi
suất cơ bản được điều chỉnh tương đối phù hợp với việc thực thi chính
sách lãi suất tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng, với biên độ khá
rộng, tạo điều kiện cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay phù hợp
với quan hệ cung cầu vốn ở thị trường thành thị và nông thôn.
17
Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản tự nó đã bộc lộ
nhiều nhược điểm làm hạn chế quá trình phát triển của hoạt động kinh
doanh NH và không thích hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Cụ thể, mục đích đưa ra trần lãi suất để hạn chế các NHTM cho vay
với lãi suất cao tránh ảnh hưởng hơn, vì bản thân các NHTM đã hoạt
động trong môi trường cạnh tranh tương đối quyết liệt mà bản thân lãi
suất là công cụ quan trọng để tìm kiếm khách hàng và nâng cao thị
trường tín dụng trong nền kinh tế. Mặt khác nhu cầu của nền kinh tế
trong những năm tới sẽ còn tiếp tục tăng cao đã đặt ra một yêu cầu
bức xúc đối với các NHTM phải huy động thêm nhiều nguồn vốn, mà
muốn vậy thì lãi suất cũng phải sử dụng như một công cụ đòn bẩy
quan trọng. Qua một năm thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay
ngoại tệ cũng đã cho thấy tỷ gía và thị trường ngoại hối vẫn ổn định và
hoạt động bình thường, không có tác động xấu đối với nền kinh tế.
Đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM ấn định lãi suất huy động cho
vay phù hợp với khả năng của NH, với nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Trên thế giới, các nước đang trong quá trình phát triển theo
kinhtế thị trường đều phấn đấu để tiến tới tự do hoá lãi suất, bởi vì tự
do hoá lãi suất có tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
có khả năng quyết định nhịp độ của tăng trưởng kinh tế. ở Việt Nam,
18
việc chuyển đổi lãi suất theo hướng thị trường có nhiều tác động tích
cực đối với kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính, cụ thể như sau:
Một là, việc nới lỏng cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị
trường đã tạo khả năng cho thị trường tài chính phát triển theo chiều
sâu.
Hai là, sự thay đổi chính sách lãi suất là phù hợp với diễn biến
kinh tế vĩ mô, nhưng cũng chính yêu cầu phát triển kinh tế, tiền tệ hoá
các mối quan hệ kinh tế và sự hình thành các nhân tố thị trường đã
buộc chính sách lãi suất phải có sự nới lỏng để chuyển dần sang cơ
chế lãi suất thoả thuận nhằm tạo điều kiện cho việc huy động tối đa
nguồn lực trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển và đồng bộ với
tổng thể chính sách kinh tế - tài chính - đối ngoại.
Ba là, việc nới lỏng cơ chế lãi suất, làm cho lãi suất tự điều
chỉnh linh hoạt và phù hợp hơn với quan hệ cung cầu vốn thị trường,
các nguồn vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi nhuận cao cới mức rủi
ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư thúc đẩy các NHTM phát triển
nhanh chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa ra các
mức lãi suất, sản phẩm dịch vụ thích hợp với khách hàng. Nếu
không, việc kiểm soát lãi suất bằng biện pháp hành chính sẽ rất hạn
chế, như thực tế năm 1991 - 1995, NHNN khống chế chặt chẽ mức
19
trần lãi suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích sự vay mượn lòng
vongf, trốn tránh sự kiểm soát, lãi suất tiền gửi tăng, nhưng lãi suất
cho vay lại không tăng được và chênh lệch lãi suất chỉ đủ bù đắp chi
phí kinh doanh, lợi nhuận rất thấp, khả năng tài chính của NHTM bị
yếu đi, dễ gây xáo trộn tổn thương cho thị trường tài chính.
Bốn là, quá trình chuyển dịch sang cơ chế lãi suất thoả thuận đi
liền với quá trình nới lỏng kiểm soát ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ
giá linh hoạt làm chi lãi suất trong nước bám sát hơn lãi suất quốc tế,
việc huy động vốn trong nước và vốn từ nước ngoài tăng lên để tài trợ
cho nhu cầu tín dụng trong nước.
Năm là, quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận
làm cho mức biến động ngày càng tăng của các luồng vốn đầu tư,
NHNN phải sử dụng và phát huy nhiều hơn các công cụ gián tiếp để
điều hành chính sách tiền tệ, tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng và
phát triển đồng đều các bộ phận của thị trường tiền tệ.
Sáu là, sau mỗi giai đoạn nới lỏng cơ chế điều hành lãi suất,
việc huy động vốn và mở rộng cho vay của TCTD được thuận lợi hơn,
người sản xuất và tổ chức kinh tế ở nông thôn được vay vốn nhiều hơn
do khối lượng vốn chuyển về đầu tư cho khu vực nông thôn tăng lên
20
(tín dụng đối với với khu vực nông thôn 5 năm gần đây tăng bình quân
23% đến 25%/năm, lớn hơn mức bình quân chung.
Bảy là, NSNN có điều kiện huy động được tối đa nguồn lực
trong nước để bù đắp thâm hụt, thay vì đi vay nước ngoài quá lớn
hoặc sử dụng tiền phát hành.
Xuất phát từ những nhận định nêu trên và đối chiếu với các điều
kiện để các nước có thể tự do hoá lãi suất, chúng ta có thể thấy đây
cũng là thời điểm thích hợp để thực hiện tự do hoá lãi suất.
Về kinh tế vĩ mô: trong những năm qua, chúng ta đã duy trì
được một nhịp độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định, lạm
phát được kiểm soát ở mức thấp, thâm hụt ngân sách luôn ở dưới mức
5% so với GDP, bội thu cán cân thanh toán: đây là điều kiện tiền đề và
có ý nghĩa quan trọng để chọn thời điểm tự do hoá lãi suất. Hệ thống
các TCTD đã và đang được củng cố, sắp xếp lành mạnh hoá và khả
năng ngày càng được nâng cao. Các công cụ của chính sách tiền tệ
ngày càng được hoàn thiện và vận hành linh hoạt theo cơ chế thị
trường.
Như vậy tự do hoá lãi suất là việc tất yếu cần phải tiến tới. Tuy
nhiên, việc chuyển sang áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận có phù hợp
21
với điều kiện của nước ta hiện nay hay không? Chúng ta sẽ tiến hành
lãm rõ điều này qua sự phân tích dưới đây.
III. NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN CƠ CHẾ LÃI SUẤT THOẢ THUẬN:
Trước hết, ta cần phải hiểu lãi suất thoả thuận là gì? Cơ chế lãi
suất thị trường mà theo đó, lãi suất được hình thành và biến động chủ
yếu do hệ cung cầu vốn thị trường, sự kiểm soát lãi suất của NHNN
được thcj hiện thông qua việc điều hành các công cụ của chính sách
tiền tệ tác động lên cung cầu vốn để hướng lãi suất thị trường biến
động phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Theo quyết định số 546/QĐ-NHNN, kể từ ngày 1/6/2002, chính
thức thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận bằng đồng VN của các
TCTD theo quyết định này, các TCTD được quyền chủ động xác định
lãi suất cho vay nội tệ trên cơ sở cung cầu vốn và mức độ tín nhiệm
đối với khách hàng. Tuy nhiên hàng tháng, NHNN vẫn tiếp tục công
bố lãi suất trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối
khách hàng tốt nhất của nhóm TCTD được lựa chọn, để các TCTD
tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Đồng thời, NHNN chủ
22
động á dụng các biện pháp để kiểm soát biến động lãi suất thị trường,
đảm bảo yêu cầu là mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Rõ ràng, thực hiện cơ chế lãi suất thị trường trong hoạt động tín
dụng thương mại rõ ràng là một bước chuyển đổi quản trọng, mạnh
mẽ về chính sách lãi suất và chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị
trương hơn. Lãi suất thoả thuận về bản chất kinh tế chính là lãi suất thị
trường. Vì vậy nó chỉ hoạt động và phát huy tác dụng trong điều kiện
thị trường tài chính phát triển. Những điều kiện cơ bản bao gồm:
- Thị trường tài chính phát triển có chiều sâu.
- Hệ thống NHTM hoạt động trên nguyên tắc thị trường có hiệu
quả.
- NHNN có đủ năng lực điều hành chính sách tiền tệ và kiểm
soát thị trường tài chính.
Với những điều kiện như vậy, việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả
thuận hiện nay ở Việt Nam đặt ra không ít thách thức, cụ thể như sau:
3.1. Thị trường tài chính Việt Nam vốn còn hết sức kém phát
triển và lạc hậu so với các nước trong khu vực.
Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế thị
trường tài chính Việt Nam vẫn còn lạc hậu so với các nước trong khu
23
vực. Sự nông cạn của thị trường làm cho các công cụ thị trường tài
chính Việt Nam được phản ánh qua các chỉ số tài chính cơ bản, các
chỉ số M2/GDP, tín dụng/GDP, tiền gửi/GDP,... đều ở mức thấp so
với các chỉ số của các nước trong khu vực. Điều đó được thể hiên qua
bảng sau:
24
M2/GDP(%
)
1993 1994 1995 1996 1997
Việt Nam 23,6 25,3 23,7 25 25,3
Trung Quốc 101,3 110,7 107,1 - -
Indonesia 45,8 45,6 49,1 54,3 57
Malaysia 78,3 89,9 89,1 96 105
Hàn Quốc 40 42 43,5 43,8 46
Phillipins 36,2 42,1 45,7 50,3 43
singapo 93,5 87,1 86,8 84,5 86
Thailan 74,9 79,2 78,7 79,5 90
Sự lạc hậu, sơ khai của thị trường tài chính Việt Nam bao gồm
cả tình trạng các công cụ tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và nhỏ
bé về lượng giao dịch tại trung tâm giao dich chứng khoán thành phố
HCM và trên thị trường mở - thị trường tiền tệ trong những năm qua.
3.2. Cơ chế lãi suất thị trường hay lãi suất thoả thuận đòi hỏi
một thông tin tương ứng.
25
Tại điều 1 của quyết định 546/2002/ QĐ-NHNN quy định
TCTD xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung
cầu vốn trên thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là
các tổ chức pháp nhân và cá nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đó là một quy định rất phù hợp
với cơ chế thị trường và điều đó đặt ra yêu cầu về chế độ thông tin phù
hợp nhằm đảm bảo để các NHTM có thể ra quyết định cho vay một
cách độc lập với mức lãi suất phù hợp theo từng đối tượng khách hàng
ở các điểm nhất định. Cũng có thể nói một cách khác, các doanh
nghiệp cần được định mức tín nhiệm một cáhc tương ứng để tránh tình
trạng "bằng đầu như vại". Việc xác định đâu là DN có nhu cầu vốn
thực sự cho sản xuất kinh doanh đòi hỏi một chế độ thông tin cập nhật
và minh bạch như chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán
và kiểm toán chính mức quốc tế,...; DN yếu kém và làm ăn thua lỗ;
đặc biệt là các trường hợp lừa đảo thường sẵn sàng chấp nhận vay với
mọi giá. tình trạng khách hàng hcấp nhận vay với mọi giá nhắc nhở
các NH lợi nhuận cao thường gắn với rủi ro cao, và do đó, hãy cảnh
giác với các trường hợp này.
Xây dựng thể chế thị trường như việc tăng cường tính công khai
về thông tin, điều kiện đảm bảo an toàn và giám sát tài chính là việc
26
làm cần thiết phải tiến hành song song vơí quá trình tự do hoá tài
chính và hội nhập quốc tế về tài chính tiền tệ nhằm tránh những thất
bại của thị trường, đảm bảo thị trờng hoạt đọng hiệu quả. Sự chậm trễ
của các nước Đông á trong viêc củng cố thể chế thị trường là bài học
quý báu cho Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam chưa có một cơ
chế công bố thông tin đầy đủ về DN và NH; Hệ thống kế toán theo
tiêu chuẩn Việt Nam là một trở ngại lớn và làm lệch lạc tới đánh giá
hiệu quả kinh doanh và kiểm tra giám soát đối với hoạt động của các
NH và DN trong nước. Trung tâm thông tin tín dụng NH (CIC) của
NHNN đã được đi vào hoạt động nhưng vẫn còn trong giai đoạn thí
điểm và do đó, chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm DN một cách độc
lập. Điều này đưa đến khó khăn cho các NHTM trong việc đưa ra một
mức lãi suất thoả thuận phù hợp với mức đọ tín nhiệm của từng DN và
diễn biến thị trường hơn nữa, đó cũng là thách thước cho hệ thống NH
trong việc mở rộng tín dụng NH hơn nữa theo cơ chế thương mại - lãi
suất thương mại thực sự.
3.3. Hệ thống NH Việt Nam còn nhiều yếu kém cũng là thách
thức cho quá trình chuyển đổi sang lãi suất thị trường:
Chỉ có hệ thống NH lành mạnh mới có thể đưa ra hệ thống lãi
suất phù hợp và hiệu quả. Điều này có thể được lý giải như sau: Khi
27
NH hoạt đọng lành mạnh, có hiệu quả, có năng lực quản lý rủi ro; Có
khả năng đánh giá DN thì NH mới có khả năng đưa ra một mức lãi
suất cho vay thấp nhất ứng vơí một mức rủi ro nhất định; Ngược lại,
khi các NHTM hoạt động kém hiệu quả (chi phí cao, khả năng quản lý
rủi ro kém,...) thường có khuynh hướng đưa ra lãi suất cho vay cao
hơn bình thường. Đối với lãi suất huy động, các NHTM yếu kém
thường đưa ra các mức lãi suất khá cao để huy động được nhiều tiền
từ công chúng nhằm duy trì hoạt động cầm chừng. Điều này nhắc nhở
những người gửi tiền hãy cảnh giác với những NH chào với lãi suất
huy động cao một cách bất thường.
Giống như hệ thống NH ở các nước đang phát triển, hệ thống
NH Việt Nam còn rất nhiều yếu kém trên các mặt: quản lý yếu kém
(nhất là quản lý rủi ro), dễ đổ vỡ do vốn thấp, nợ quá hạn cao, tính
cạnh tranh và sinh lời thấp. Đây là những thách thức lớn đối với hệ
thống NH Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị
trường, chấp nhận một cơ chế kinh doanh thực sự trên một sân chơi
bình đẳng, đặ biệt là khi tiến tới tự do hóa lãi suất một cách đầy đủ
hơn nữa.
* Tính cạnh tranh thấp trong hệ thống NH Việt Nam
28
Trong quá trình tự do tài chính và hội nhập quốc tế về NH, các
NHTM trong nước sẽ phải cạnh tranh quyết liệt hơn, NHTM nào có
đủ sức cạnh tranh, làm ăn có lãi sẽ tồn tại, ngược lại, NH nào ăn thua
lỗ sẽ có thể bị đóng cửa. Trước sức ép của cạnh tranh, các NH phải
không ngừng nâng cao năng lực quản lý, cắt giảm chi phí để cho vay
với lãi suất hấp dẫn nhất ở Việt Nam hiện nay, hệ thống NHTMQD
chiếm đa số cả về quy mô và thị phần: với 6 NHTMNN nhưng thị
phần huy động và tín dụng đã chiếm trên 70%, tổng tài sản của hệ
thống NHTMQD cũng chiếm gần 80% tổng tài sản có của hệ thống
NHTM Việt Nam, các NHTMQD lại cho vay các DNNN là chủ yếu.
Điều này gây khó khăn trong quá trình cải cách NHTMQD nhằm
chuyển hoạt động của hệ thống này sang kinh doanh trêncơ sở thương
mại thực sự, tạo lập một sân chơi bình đẳng trong lĩnh vực NH, đồng
thời cản trở việc phát huy tác dụng của quy luật kinh tế thị trường, vì
vậy tính cạnh tranh trong khu vực NH còn thấp. Ta có thể thấy rõ điều
đó qua bảng sau:
Số lượng các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
29
NHTMCP
51
50
48
48
43
43
NH Liên
doanh
4 4 5 5 5 5
Chi nhánh NH
nước ngoài
24 25 26 26 26 26
NHTMQD 6 6 6 6 6 6
Thị phần của các ngân hàng Việt Nam cuối năm 2000
Khoản mục Số lượng
định chế
Huy độngvốn
(% cả hệ
thống)
Tín dụng
(% cả hệ
thống)
NHTMCP 6 73 71,2
NH liên doanh 48 10,6 10,5
Chi nhánh NH nước
ngoài
30 15 16,5
Quỹ tín dụng nhân dân 948 1,4 1,8
30
Từ khi Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế, việc cho phép thành
lập các NHTM cổ phần còn quá nhỏ bé, dịch vụ đơn điệu, mạng lưới
các chi nhánh không nhiều, nămg lực cạnh tranh thấp; các hoạt động
của các chi nhánh NH nước ngoài còn hạn chế về tiền đồng (các chi
nhanhd NH nước ngoài chỉ được phép huy động vốn bằng đồng Việt
Nam không vượt quá 25% vốn được cấp, từ các cá nhân Việt Nam và
pháp nhân Việt Nam).
* Sự dễ tổn thương của hệ thống NH Việt Nam:
Các NHTM Việt Nam có mức vốn rất thấp, nợ quá hạn cao
(nhất là các NHTMCP). Sự dễ tổn thương của hệ thống NHTM Việt
Nam có thể là thách thức lớn khi hệ thống này chuyển sang một cơ
chế thi trường thực sự, đặc biệt là khi tự do hoá lãi suất, thả nổi tỷ giá
trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Các NHTMCP Việt Nam là khu vực dễ bị tổn thương nhất. Các
NHTMCP dường như được thành lập khá dễ dàng từ năm 1993 đến
năm 1996 và phát triển với tốc độ khá nhanh. Từ 15 NHTMCP vào
năm 1990, năm 1997 tăng lê 53 NHTMCP, đến nay một số NHTMCP
không đủ vốn điều lệ theo quy định, quản lý yếu kém đã bị đóng cửa
và chỉ còn là 43 NHTMCP.
31
Nợ quá hạn của hệ thống NHTM Việt Nam tăng nhanh từ năm
1997. Mặc dù tỷ lệ này không quá cao so với thế giới nhưng chế độ
hạch toán kế toán phân loại không theo tiêu chuẩn quốc tế, ngoài ra
một số nợ khó đòi của một số vụ án không được hạch toán vào khoản
nợ khó đòi, chế độ báo cáo làm cho con số nợ quá hạn bị bóp méo rất
nhiều.
Tóm lại, việc chuyển sang một cơ chế lãi suất mang tính thị
trường hơn ở Việt Nam là rất cần thiết và phù hợp. Nhưng trong điều
kiện nước ta hiện nay thì việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đặt ra
không ít những thách thức. Do đó chúng ta cần có những giải pháp
hữu hiệu để phát huy hiệu quả của cơ chế lãi suất này.
32
IV. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ LÃI SUẤT THOẢ THUẬN PHÁT
HUY HIỆU QUẢ KINH TẾ
4.1. Lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống NH Việt Nam:
Hệ thống NHTM là một kênh truyền dẫn quan trọng để các công
cụ gián tiếp của chính sánh tiền tệ tác động vào lãi suất thị trường,
mức cung tiền tệ và qua đó thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Các công cụ này phát huy tác dụng đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào
thái độ ứng xử cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống NH. Với
một hệ thống NH yếu kém, khả năng cạnh tranh thấp, tình hình tài
chính hạn hẹp, chất lượng hoạt động chưa cao, nợ quá hạn lớn ... thì
việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận không phát huy được tác dụng.
Do đó cần phải cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống NH.
Khẩn trương thực hiện các chương trình cơ cấu lại, làm trong
sạch, làm lành mạnh hoá hệ thống tài chính; tăng năng lực tài chính xử
lý dứt điểm các tồn đọng cũ; trước hết là đối với các NHTM Nhà
nước.
33
Xây dựng và phát triển, mở rộng hệ thống thanh toán hiện đại,
các dịch vụ ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng; nâng cao trình độ kỹ
thuật, thình độ quản lý theo cơ chế thị trường cho đội ngũ cán bộ.
Mở rộng thị trường liên ngân hàng, đưa các giấy tờ có giá vào
thương trường hoạt động như hối phiếu, thương phiếu, ... Tạo tiền đề
hình thành nhiều loại giá cả tiền tệ trên thị trường. Đồng thời mạnh
giạn mở rộng, phát triển các nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu các
giấy tờ có giá, làm phong phú các loại giá cả tiền tệ; tổ chức các trung
tâm thanh toán bù trừ tự động về séc, các giấy tờ có giá ...
Đôi khi với việc tổ chức lại hệ thống NH, cần thiết phải xây
dựng và phát triển thị trường tín dụng, thị trường tiền tệ, thị trường
chứng khoán theo cả chiều rộng và chiều sâu. Tháo gỡ những rào cản
gây khó khăn cho việc phát triển thị trường theo hướng quốc tế hóa.
4.2. Xây dựng các quy chế giám sát tài chính đối với nền
kinh tế.
Hiện nay, không có một hoạt động tài chính tự do hoan toàn mà
không chịu sự điều chỉnh của mộtquy định nào, ngay cả đến thị trường
chứng khoán lớn trên thế giới cũng là những thị trường có ngững quy
định chặt chẽ nhất. Vì vậy việc xây dựng các quy chế giám sát là cân
thiết để đảm bảo cho sự vạn hành có hiệu quả cacs hoạt động tài chính
34
NH. Mong muốn loại bỏ tất cả các nguy cơ bất ổ chứa trong một hệ
thống tài chính được tự do hoá là điều không thực tế, nhưng NH
hoàn toàn có thể giới hạn được các nguy cơ này bằng một sự giám sát
thận trọng, hiệu quả và một sự quản lý mềm dẻo, ling hoạt
4.3. Sự hiện diện đầy đủ công cụ giám sát của chính sách
tiền tệ là rất cần thiết.
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang đứng trước thách thức
của nhu cầu mở cửa và hội nhập một cách toàn diện, một chính sách
tiền tệ cứng nhắc sẽ không đảm bảo cho nó tránh được ảnh hưởng
mạnh mẽ từ bên ngoài. Sự hàn chế của các công cụ trực tiếp ở Việt
Nam trong thời gian qua đòi hỏi phải sử dụng các công cụ gián tiếp để
nâng cao tính chủ động, tính linh hoạt của chính sách tiền tệ, tạo điều
kiện áp dụng cơ chế LSTT một cách hiệu quả.
4.4. Cũng cố vai trò của Hiệp hội NH, tránh tình trạng các
NHTM cạnh tranh không lành mạnh thông qua lãi suất.
Về mặt lý luận, khi lãi suất đã được tự do hoá,thì các ngân hàng
không phải cạnh tranh về mặt lãi suất mà chủ yếu cạnh tranh về chất
lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Nhưng trong giai đoạn đầu
việc thực hiện cơ chế LSTT, các NHTM Việt Nam chủ động ấn định
lãi suất trong việc huy động vốn cũng như cho vay vốn. Trong điều
35
kiện nhu cầu vốn cho nền kinh tế là rất lớn, khả năng huy động vốn
và cho vay vốn của từng NH còn hạn chế, thì dể dẫn đến tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh, lôi keo khách hàng của nhau, làm cho thị
trường vốn trở nên lộn xộn. Để tránh tình trạng này, Hiệp hội NH cần
phát huy vai trò trong việc phối hợp với các NHTM trên cùng địa bàn
nhằm ổn định lãi suất kinh doanh.
Ngày nay tính cạnh tranh về lãi suất đã hình thành. Hiệp hội
Nhân hàng đã hoạt động và rồi đây sẽ hoạt động tốt hơn, sẽ là nơi tập
hợp, thống nhất và thoã thuận một phần giữa các tổ chức tín dụng với
nhau về nhữngvấn đề mà họ cúng quan tâm, trong đó có vấn áp dụng
mưc slãi suất sao cho có sự hài hoà lợi ích của nhau. Tái cơ cấu lại
NHTM là điều kiện rất thuận lợi để các tổ chức tín dụng xem xét, điều
chỉnh, củng cố và cải thiện cung cách quản lý tốt hơn, nền tài chính
lành mạnh hơn khắc phục sự bất cập về cán bộ. Đó là những yếu tố
giúp cho tổ chức tín dụng kinh doanh và tác nghiệp phù hợp yêu cầu
thực tế hôị nhập và hoàn thiện việc thực hiện những đổi mới trong đó
có đổi mới về lãi suất. Để thực hiện tốt chủ trương trên, các tổ chức tín
dụng cần chuẩn bị tìm lực và tinh thần đó là:
36
Nhanh chóng cơ cấu lại nền tài chính làm trong sạch bảng cân
đối kế toán để trên cở đó xác định được tìn năng khi thực hiện các cải
cách
Nhận thức được một cách đúng mức thuận lợi, khó khăn khi áp
dụng cho vay lãi suất thoả thuận bằng VNĐ
Hiệp hội Ngân hành cần hoạt động tốy hơn để tạo được sự đồng
thuận, giúp đỡ các tổ chức tín dụng khi xử lý về một số chủ trương về
lãi suất, nhằm tránh cạnh tranh không cần thiết.
Tín dụng ưu đãi nên đưa về NH cơ sở. Nếu một tổ chức tín dụng
nào đó tham gia thì chính phủ nên thực hiện cấp bù lãi suất cho NH đó
theo thời điểm lãi suất thị trường thoả thận để các tổ chức tín dụng
không bị khó khăn khi xử lý những khoản tín dụng này.
NHNN cần có chế tài trong trường hợp thật cần thiết để can
thiệp vào lãi suất thông qua các công cụ khác của chính sách tiền tệ
Cần phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để giải
thích cho dân chúng và các tổ chức kinh tế doanh nghiệp hiểu rõ ý
nghĩa, lợi ích... khi thực hiện cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng
VNĐ
37
KẾT LUẬN
Chính sách lãi suất là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền
tệ quốc gia, vì thế trước hết nó phải hướng tới những mục tiêu của
chính sách tiền tệ quốc gia: ổn định tiền tệ, đảm bảo mức lạm phát hợp
lý (4-5%), kích thích tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, chính sách tiền tệ
quốc gia nước ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị
trường tiền tệ tạo ra sự cạnh tranh công bằng và lành mạnh giữa
những tổ chức tín dụng tạo điều kiện để giảm chi phí tín dụng. Ngoài
ra chính sách tiền tệ còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất kinh
doanh . Thứ ba, chính sách lãi suất phải tạo động lực cho các DN mở
rộng sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn hiệu quả tăng sản phẩm xã hội.
Đưa ra một chính sách lãi suất đáp ứng đầy đủ yêu cầu trên
không đơn giản , đòi hỏi phải xử lý nhiều mối quan hệ khác nhau.
Nhận thấy những mặt tích cực của việc tiến hành LSTT .
Việc thực hiện LSTT nó không những phù hợp với xu hướng
tất yếu của hoạt động tín dụng theo cơ chế tị trường , mà nó còn phù
hợp với tính thương mại và tính bình đẵng trong thương mại giữa
người mua và người bán. Sát thực với cung cầu của thị trường vốn đó
là mong mõi của các nhà kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
38
Yhực hiện cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng VNĐ còn là thực
hiện chủ trương mà đại hội 9 của Đảng đề ra, Nghị quyết của chính
phủ. Nó sẵn sàng đáp ứng xu thế họi nhập với khu vực và thế giớivề
lĩnh vực tài chính NH.
39
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ
2. Tap chí Ngân hàng Năm 2001; số 2,4,5,6,7,8/năm2002
3. Tạp chí tài chính năm 2001; số6,7 năm 2002
4. Giáo trình Ngân hàng Trung Ương
40
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài - Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta và cơ chế lãi suất thoả thuận.pdf