Đề tài Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: thực trạng, kinhnghiệm và giải pháp

Tài liệu Đề tài Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: thực trạng, kinhnghiệm và giải pháp: MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ, MÔ HÌNH MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC …………….. 6 1.1. Một số vấn đề lý luận về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn …… 6 1.2. Mô hình và bài học kinh nghiệm trong và ngoài nước…………………. 45 Chương 2: THỰC TRẠNG CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY ………………………………….. 66 2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh tác động đến quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn …………………… 66 2.2. Chủ trương chính sách của trung ương và của tỉnh Bắc Ninh về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn …………………………………………… 70 2.3. Kết quả thực hiện chủ trương chính sách về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh …………………………………………….. 77 2.4. Một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh …………………………………………………….. ...

pdf193 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1093 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: thực trạng, kinhnghiệm và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ, MÔ HÌNH MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC …………….. 6 1.1. Một số vấn đề lý luận về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn …… 6 1.2. Mô hình và bài học kinh nghiệm trong và ngoài nước…………………. 45 Chương 2: THỰC TRẠNG CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY ………………………………….. 66 2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh tác động đến quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn …………………… 66 2.2. Chủ trương chính sách của trung ương và của tỉnh Bắc Ninh về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn …………………………………………… 70 2.3. Kết quả thực hiện chủ trương chính sách về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh …………………………………………….. 77 2.4. Một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh …………………………………………………….. 126 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH BẮC NINH ĐẾN NĂM 2015 …………. 132 3.1 Những thuận lợi, khó khăn và thách thức đối với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh …………………… 132 3.2. Những quan điểm đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn tới ………………………………… 136 3.3. Phương hướng đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh đến năm 2015 …………………………………………………….. 139 3.4. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015 ..................................... 148 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................. 184 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ . ................. 186 DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO ................................................................. 187 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng là một quá trình tất yếu để chuyển một nền nông nghiệp lạc hậu thành một nền công nghiệp hiện đại. Ở nhiều quốc gia trên thế giới quá trình này diễn ra và một số nước thành công. Mấy thập kỷ gần đây, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở những nước công nghiệp mới (NICs) đã tiến hành cũng được luận bàn, khái quát thành kinh nghiệm và mô hình công nghiệp hoá khác nhau. Ở Việt Nam, vấn đề công nghiệp hoá, trong đó có việc đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra từ những năm 60 của thế kỷ trước, tuy đã đạt một số thành tựu đáng kể nhất là những năm đổi mới vừa qua, nhưng đến nay nông nghiệp, nông thôn vẫn là khu vực còn nhiều khó khăn, trở ngại. Bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, giữ vị trí quan trọng trong toàn bộ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là cần phải phân tích sâu sắc thực trạng kinh tế nông nghiệp, nông thôn và từ đó đề ra các giải pháp để đẩy nhanh quá trình này trong giai đoạn tới. Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội, là một trong tám tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Những năm đổi mới vừa qua, cùng với những chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp và nông thôn, tỉnh Bắc Ninh đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp tác động thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và mang lại những thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, xét động thái công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn tỉnh Bắc Ninh vẫn bộc lộ không ít những hạn chế và bất cập về cơ chế chính sách và những giải pháp hữu hiệu cần phải được quan tâm giải quyết. 2 Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề ra chủ trương, chính sách và những giải pháp cho quá trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, nghiên cứu sinh chọn đề tài luận án tiến sĩ: “Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp” làm nội dung nghiên cứu của luận án. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Những năm qua vấn đề nông nghiệp, nông thôn đã được nhiều nhà khoa học, tập thể quan tâm nghiên cứu. Đã có khá nhiều công trình thuộc nhiều chuyên ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau đề xuất phương hướng và đưa ra những giải pháp tích cực nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn như: - Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá IX tháng 3 năm 2002 về: “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, thời kỳ 2001 - 2010”. - Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002. - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam: “Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ 2001 – 2020”. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội năm 2001. - GS.TS Đỗ Hoài Nam: “Một số vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2004. - GS.TS Nguyễn Kế Tuấn: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2006. - TS Mai Thị Thanh Xuân: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Trung Bộ”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Hội năm 2004. - GS.TS Nguyễn Đình Phan: “Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002 3 - TS Đặng Kim Sơn: “Công nghiệp hoá từ nông nghiệp, lý luận thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội năm 2001. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều tập trung vào phân tích các khía cạnh từ những vấn đề về lý luận cơ bản, vai trò, yếu tố tác động, sự cần thiết và nội dung của công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Một số công trình đề cập định hướng chiến lược phát triển công nghiệp nông thôn; có công trình khoa học đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí bước đi, cơ chế chính sách của công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Có công trình nghiêu cứu và đặt vấn đề khá cụ thể về phương hướng, nội dung và giải pháp thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn hoặc vấn đề phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Các công trình đã nghiên cứu và được công bố chủ yếu là phân tích, đánh giá tình hình hiện nay trên phạm vi cả nước hoặc một vùng kinh tế của đất nước và đề xuất các giải pháp cho những năm tới. Song có lẽ cho tới nay chưa có một luận án, công trình nào nghiên cứu, đánh giá về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh theo một quá trình lịch sử từ năm 1986 đến nay một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống. Trong quá trình nghiên cứu và qua thực tiễn công tác của mình, tác giả luận án mong muốn được góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận, đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp để thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Luận án phân tích thực trạng và đề ra phương hướng, mục tiêu và những giải pháp chủ yếu để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh trong giai đoạn tới: Phấn đấu đến năm 2010 Bắc Ninh là một tỉnh phát triển khá trong cả nước, đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận án lấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh làm đối tượng nghiên cứu. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề rất rộng lớn và phức tạp, phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào những nội dung cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn; phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề mới, phát triển các khu, cụm công nghiệp làng nghề; xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; phát triển nguồn nhân lực…thời gian từ năm 1986, mà chủ yếu từ năm 1997 đến nay (sau khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập). 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, mô hình hoá và tiếp cận hệ thống; phương pháp khảo sát, điều tra thực tế. 6. Những đóng góp khoa học của luận án - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và kinh nghiệm một số nước, một số tỉnh . - Phân tích, đánh giá thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và tác động của nó đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986, mà chủ yếu từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn địa phương. - Xây dựng được quan điểm phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh, đồng thời đưa ra phương hướng, mục tiêu, đề xuất các giải pháp mang tính khoa học phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương và sự phát triển chung của cả nước nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh đến năm 2015. - Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh 5 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và kinh nghiệm trong và ngoài nước. Chương 2: Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN 1.1.1. Thực chất và sự cần thiết công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá - Các quan niệm về công nghiệp hoá Mỗi phương thức sản xuất đều có cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng với nó. Cơ sở vật chất kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất để sản xuất ra của vật chất, nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Sự biến đổi và phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, năng lực và quy mô tích luỹ, sự tác động của quy luật nhân khẩu, quan hệ kinh tế đối ngoại... là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến trình độ của cơ sở vật chất - kỹ thuật. Ngoài ra, tính chất và trình độ của các quan hệ sản xuất, có ảnh hưởng không nhỏ và có mối quan hệ hữu cơ đối với cơ sở vật chất - kỹ thuật. Nói đến cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói đến trình độ, sự vận động và biến đổi của nó theo xu hướng nào. Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là kỹ thuật thủ công, lạc hậu. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện, với những bước chuyển biến có tính quy luật của nó, tất yếu đưa sản xuất dựa trên kỹ thuật thủ công lên hiện đại, công nghiệp đại cơ khí. Vì vậy, đặc trưng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá với trình độ khoa học - kỹ thuật cao. Đối với những nước xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to 7 lớn và là một yêu cầu khách quan. Bởi vì, cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật, công nghệ ngày càng cao hơn, hiện đại hơn. Điều đó không chỉ dừng lại ở chỗ, những yếu tố của tư liệu sản xuất được cơ khí hoá và ngày càng hiện đại hoá, mà còn ở trình độ công nghệ tiên tiến và thường xuyên đổi mới. Vậy có thể khái quát: “Cơ sở vật chất của nền sản xuất hiện đại, chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học – công nghệ ngày càng phát triển cao...”[20]. Để có được cốt vật chất kỹ thuật như vậy, tất cả các nước phải tiến hành xây dựng nó. Nói cách khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại là quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Trong lịch sử, nhiều nước đã tiến hành công nghiệp hoá, ở mỗi nước, quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra khác nhau về bước đi, tốc độ và nội dung cụ thể. Nước Anh đã tiến hành công nghiệp hoá trong những điều kiện hoàn toàn khác với hiện nay. Đó là nước tiến hành công nghiệp hoá đầu tiên. Nước Anh chỉ có thể bắt đầu công nghiệp hoá từ nông nghiệp, tích luỹ vốn, mở rộng thị trường, tìm kiếm nguồn lao động... và phải bằng những biện pháp cưỡng chế tàn bạo. Trong bộ Tư bản, C.Mác có đề cập “...những người nông dân bị tước đoạt bằng vũ lực, bị xua đuổi và bị biến thành những kẻ lang thang lại bị người ta dùng những đạo luật kỳ quái đánh đập, đóng dấu bằng sắt nung đỏ, tra tấn để ghép vào một kỷ luật cần thiết cho chế độ làm thuê...”[12] Hơn nữa, nước Anh vì là nước đầu tiên tiến hành công nghiệp hoá, nên phải bắt đầu tự nghiên cứu, tự sáng tạo, tự áp dụng vào sản xuất và công nghiệp hoá là một con đường vừa dài, vừa gian nan. Nước Anh đã mất khoảng 100 năm với sự bóc lột, tước đoạt tàn bạo hàng triệu người lao động mới đạt được nền công nghiệp dẫn đầu thế giới vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Nước Mỹ đi sau đã học tập kinh nghiệm công nghiệp hoá của nước Anh, đã nhập khẩu được kỹ thuật, đã thu hút được vốn, lao động, kỹ thuật 8 công nghệ từ Châu Âu chuyển sang và có thị trường Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ. Đó là những lý do chính làm rút ngắn thời gian công nghiệp hoá ở Mỹ xuống còn khoảng 80 năm. Nước Nhật tiến hành công nghiệp hoá khoảng 60 năm với những đặc điểm nổi bật là: Nhật đã kế thừa kỹ thuật, công nghệ và vốn thị trường của Châu Âu và Châu Mỹ. Đồng thời, người Nhật đã sử dụng những ưu thế vốn có của nền văn hoá và xã hội Nhật vào quá trình công nghiệp hoá. Ở Liên Xô (cũ), quan niệm cho rằng: công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là phát triển các ngành công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành cơ khí, do đó tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng lớn. STa-Lin viết: “Quan trọng hơn, vì nếu không phát triển công nghiệp nặng, thì chúng ta không thể xây dựng được ngành công nghiệp nào cả, chúng ta không thể thực hiện được một công cuộc công nghiệp hoá nào cả”.[41] Theo V.I.Lê Nin: “Chỉ có đại công nghiệp cơ khí mới có thể làm cho công nghiệp và nông nghiệp hoàn toàn tách rời nhau... chính nền sản xuất bằng máy móc, đã cắt đứt hẳn mối quan hệ giữa công nhân với ruộng đất” [54]. Như vậy, công nghiệp hoá ở Liên Xô (cũ) trong giai đoạn đó là phù hợp với bối cảnh lịch sử của thế giới và tình hình trong nước. Mô hình công nghiệp hoá này đã đem lại những kết quả đáng kể, song bên cạnh đó cũng còn nhiều hạn chế mà đến thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX đã có sự điều chỉnh cho hợp lý. Các nước và lãnh thổ (NICs) Đông Á đi sau, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá hơn nữa, chỉ còn khoảng 40 năm. Do họ đã tiếp thu được kinh nghiệm của cả Châu Âu, Châu Mỹ và Nhật Bản. Ngày nay, một số nước ASEAN còn có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá này xuống còn khoảng 30 năm, trong đó Đài Loan là vùng lãnh thổ tiến hành công nghiệp hoá thành công. Từ thực tiễn về công nghiệp hoá của đất nước, có thể khái quát một số quan niệm về công nghiệp hoá: + Quan niệm đơn giản nhất cho rằng: công nghiệp hoá là đưa tính đặc 9 thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình công nghiệp. Theo quan điểm này, có những điểm chưa hợp lý, vì thứ nhất là nội dung quan niệm này gần như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ hai là không thể hiện được tính lịch sử của qúa trình công nghiệp hoá. Thứ ba là không thể hiện được mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá. Quan niệm về công nghiệp hoá nêu trên được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử công nghiệp hoá của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ và do có những điểm chưa hợp lý, nên quan niệm này ít được vận dụng trong thực tiễn. + Quan niệm Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thì khi tiến hành công nghiệp hoá nhấn mạnh là phát triển công nghiệp nặng. Cho rằng: công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với trung tâm là chế tạo máy. Với đường lối công nghiệp hoá như vậy, công nghiệp nặng có vai trò đặc biệt quan trọng và trong một chừng mực nhất định nó phù hợp với hoàn cảnh Liên Xô khi bước vào thời kỳ công nghiệp hoá: chủ nghĩa đế quốc bao vây, chống đối, không có sự trợ giúp từ bên ngoài, trong khi yêu cầu phải xây dựng một nền sản xuất lớn, hiện đại và bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Liên Xô cần thực hiện công nghiệp hoá với tốc độ nhanh, phải tập trung vào phát triển công nghiệp nặng, nhằm đảm bảo các nhu cầu trong nước. Do vậy, chủ trương về công nghiệp hoá này chỉ đúng với giai đoạn lịch sử Liên Xô lúc đó. Sẽ sai lầm nếu hiểu công nghiệp hoá như vậy trong mọi hoàn cảnh, mọi phương diện. Bởi vì, công nghiệp hoá không chỉ đơn thuần là phát triển đại công nghiệp. + Quan niệm mới về công nghiệp hoá: năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra quan niệm: Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế. Trong quá trình này, một bộ phận nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này, có một bộ phận công nghiệp chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ về kinh tế -xã hội [23]. 10 Do đó, công nghiệp hoá không chỉ hiểu là quá trình phát triển nền kinh tế dựa trên trình độ kỹ thuật, công nghệ hiện đại mà còn là quá trình phát triển, đảm bảo tạo ra cơ cấu sản phẩm vật chất, bao gồm các điều kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt, đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế và sự tiến bộ xã hội. - Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá Kinh nghiệm về công nghiệp hoá của các nước đi trước và qua thực tế kiểm nghiệm, kết hợp với sự phát triển mạnh của khoa học công nghệ và quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá được hiểu như sau: Công nghiệp hoá chính là một cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình công nghiệp hoá. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá luôn gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành giữ vị trí quan trọng, biến một nước có nền kinh tế kém phát triển thành một nước có nền kinh tế phát triển, có công nghiệp hiện đại. Hiện nay, ở Việt Nam công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là: Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [22]. Quan niệm này nói lên phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền được hai phạm trù, không thể tách rời là công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Xác định vai trò không thể thiếu được của khoa học-công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa.Công nghiệp hoá và hiện đại hoá có mối quan hệ mật 11 thiết với nhau, quá trình tiến hành công nghiệp hoá là cái đích để đạt tới hiện đại hoá. Việc tiến hành công nghiệp hoá phụ thuộc nhiều vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình chung của khu vực và thế giới. Xu hướng hiện nay ở các nước đang phát triển là vừa tiến hành công nghiệp hoá theo những kinh nghiệm truyền thống, nhưng đồng thời cũng thường xuyên cập nhật, hội nhập những thành tựu khoa học- kỹ thuật mới nhất, để vừa đảm bảo phát triển tuần tự, vừa phát triển nhảy vọt ở những thời điểm, những ngành nghề có điều kiện và khả năng. 1.1.1.2. Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống phát triển thành nông nghiệp hiện đại, về thực chất là hiện đại hoá các biện pháp sản xuất nông nghiệp, hiện đại hoá công nghệ sản xuất, hiện đại hoá quản lý sản xuất kinh doanh và hiện đại hoá lực lượng lao động ngành nông nghiệp; làm thay đổi căn bản tính chất, phương thức sản xuất, cơ cấu sản xuất, hình thức tổ chức quản lý sản xuất của một nền nông nghiệp sản xuất tự cung, tự cấp, dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên với kỹ thuật thủ công sang một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, trong điều kiện thương mại hoá toàn cầu và phải đảm bảo cho sự phát triển bền vững về tự nhiên, kinh tế- xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu của nó là đưa máy móc thiết bị và phương pháp sản xuất công nghiệp cùng với các hình thức tổ chức sản xuất kiểu công nghiệp vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nhằm khai thác triệt để lợi thế của mỗi ngành, trên cơ sở đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. Nội dung này được cụ thể hoá trên các mặt cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, sinh học hoá trong các ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đồng thời làm tan rã dần nền nông nghiệp chậm phát triển và nông nghiệp truyền thống. 12 Lịch sử phát triển nông nghiệp thế giới và các nước trong khu vực đều chứng minh rằng, muốn có một nền nông nghiệp bền vững, năng suất lao động cao không thể dựa vào nông cụ thô sơ và sức kéo trâu bò là chủ yếu. Chỉ có cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá mới tạo ra nền nông nghiệp hàng hoá, có chất lượng sản phẩm cao, có quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Mặt khác, nông nghiệp không thể tự cải tạo kỹ thuật, không thể tự mình giải quyết vấn đề phát triển. Sự phát triển của nông nghiệp được quyết định bởi bản thân quá trình nền sản xuất xã hội thực hiện được, quá trình phát triển với hai tiến trình thị trường hoá và công nghiệp hoá. Đó là quá trình chuyển từ làn sóng nông nghiệp sang làn sóng công nghiệp. Sự phát triển này khiến cho nông nghiệp mất vị trí nền tảng của nền kinh tế. Quy luật chung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là làm giảm tỷ lệ GDP của nông nghiệp trong cơ cấu chung nền kinh tế, lao động ngành nông nghiệp có tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu lao động chung của các ngành kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp diễn ra đồng thời với công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế của đất nước. Không thể tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp bó hẹp trong quan niệm phát triển trong phạm vi ngành nông nghiệp, mà nó phải gắn với sự phát triển và sự chuyển đổi cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. Chính sự phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, cơ sở hạ tầng trong điều kiện hiện đại hoá làm thay đổi phương thức sản xuất, cơ cấu của nền sản xuất xã hội và là sự thay đổi bản chất kinh tế của nông nghiệp. Chuyển từ lĩnh vực tất yếu thành lĩnh vực kinh doanh, thành cực tăng trưởng và bắt buộc phải tồn tại phát triển trong cơ chế thị trường. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp phải đảm bảo vai trò duy trì và phát triển cảnh quan thiên nhiên, xã hội cho phù hợp với yêu cầu của cuộc sống ở trình độ văn minh cao, trình độ văn hoá cao. Tái sản xuất hệ sinh thái, duy trì phát triển môi trường sống bền vững. Giữ gìn và phát triển truyền thống lâu đời của cộng đồng các dân tộc. Tham gia đắc lực trong việc hình thành sự kết hợp hài hoà giữa cuộc sống công nghiệp, đô thị và thiên nhiên, giữa lao động thư giãn và giải trí cho các tầng lớp dân cư và cộng đồng các dân tộc. 13 - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình thay đổi căn bản phương thức hoạt động, cơ cấu kinh tế của nông thôn và thay đổi căn bản tầng lớp gắn liền với sản xuất nông nghiệp là nông dân. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn làm thay đổi căn bản khái niệm về nông thôn truyền thống: Nông thôn là một xã hội được tổ chức trên nền tảng sản xuất nông nghiệp và dân cư của nó là những người làm ruộng. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra cùng với quá trình đô thị hoá, đã làm thay đổi hệ thống xã hội ở các phương diện: tập trung hoá sản xuất, do đó tập trung hoá dân cư, tăng một cách căn bản các quá trình trao đổi, giao dịch dịch vụ, sự phát triển của xã hội tiêu dùng, phát triển mạnh hạ tầng kinh tế - xã hội. Sự thay đổi này đã dẫn tới sự thay đổi căn bản trong phương thức sản xuất và phương thức sinh hoạt xã hội, văn hoá. Cùng với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã cải tổ toàn bộ xã hội theo diện mạo công nghiệp-thương mại hoà nhập vào xu thế toàn cầu hoá và sự biến chuyển của xã hội nông thôn cũng không thể nằm ngoài xu hướng chung này. Cơ cấu nghề nghiệp thay đổi, xu hướng cơ bản là chuyển từ hoạt động nông nghiệp sang cơ cấu dân cư nghiêng về phi nông nghiệp, tỷ lệ hộ ở nông thôn làm nông nghiệp giảm, tỷ lệ hộ phi nông nghiệp tăng lên. Tuy nhiên, ở các nước phát triển, dân cư chuyển vào sống trong các đô thị ngày càng tăng cùng với dân cư nông thôn giảm đi đáng kể (tỷ lệ dân nông thôn ở các nước công nghiệp phát triển chỉ còn 10 – 25%). Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn liền với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ: tăng tỷ trọng công nghiệp và dich vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Vì vậy, công nghiệp hoá không thể thiếu phát triển nông nghiệp, các ngành nghề phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn, áp dụng phương pháp công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề lao động nông thôn, tạo thêm việc làm để tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. 14 Qua quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến trình phát triển xã hội đã có sự thay đổi căn bản, đó là quá trình phát triển đô thị hoá kèm theo thu hẹp xã hội nông thôn, về mặt cơ sở hạ tầng cho sản xuất, cơ sở hạ tầng văn hoá, đời sống (hạ tầng về kinh tế và xã hội) là sự thay đổi về chất của xã hội nông thôn. Sự chênh lệch thu nhập, đời sống vật chất, văn hoá xã hội của dân cư ở nông thôn và dân cư thành thị được thu hẹp. Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là xây dựng nông thôn mới có nông nghiệp hiện đại, công nghệ kỹ thuật cao, dịch vụ phát triển theo hướng văn minh, hiệu quả. Quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng nông thôn hoàn thiện, đời sống vật chất tinh thần của nông dân không ngừng được cải thiện, xã hội ổn định và công bằng. 1.1.1.3. Sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Trong khi coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta vẫn xác định nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong những năm trước mắt là: “coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”[20]. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và những lợi thế phát triển của Việt Nam hiện nay. Cụ thể, việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta xuất phát từ những cơ sở chủ yếu sau: Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia Lương thực là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đối với cuộc sống con người, nhất là đối với một nước có truyền thống tiêu dùng lúa gạo như Việt Nam. Vì vậy, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là nhân tố quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, nhờ đó thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thực hiện phân công lại lao động xã hội hợp lý hơn. Không chỉ ở Việt Nam, mà ngay cả các nước Đông Á, sự phát triển nông nghiệp vẫn được coi là một trong các nhân tố quan trọng tạo nên sự thần kỳ của họ trong nửa cuối thế kỷ trước. 15 Quy mô dân số Việt Nam ngày càng tăng nên nhu cầu về lương thực, thực phẩm cũng tăng lên rất nhanh, trong khi đó quỹ đất nông nghiệp của nước ta lại ít. Do đó, để đáp ứng đầy đủ nhu cầu lương thực cho hơn 80 triệu dân đòi hỏi nông nghiệp phải được công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo sự phát triển vượt bậc về năng suất, cây trồng, vật nuôi. Vả lại, nếu nông nghiệp không sản xuất đủ lương thực thì việc dùng ngoại tệ để nhập khẩu lương thực sẽ đè nặng lên chi tiêu của Chính phủ, do đó sẽ ngăn cản việc nhập khẩu máy móc, công nghệ, nguyên nhiên vật liệu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Thực tế nói lên rằng, nếu trong cơ cấu kinh tế quốc dân mà không có một nền nông nghiệp phát triển để đảm bảo đầy đủ lương thực cho con người thì toàn bộ nền kinh tế sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tạo ra tốc độ tăng trưởng cao. Do đó, vấn đề an ninh lương thực là nhiệm vụ thường xuyên của quốc gia cũng như từng địa phương. Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu của sự phát triển công nghiệp và dịch vụ Nông nghiệp và nông thôn không chỉ sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng trực tiếp cho con người, mà còn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, trước hết là cho công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng suất khẩu. Vì vậy, sự lạc hậu hay tiến bộ của nông nghiệp, nông thôn có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển công nghiệp và dịch vụ. Thực tế nhiều nước đã chỉ ra rằng, sự lạc hậu của lực lượng sản xuất tại nông thôn đã hạn chế đến sự tăng trưởng của công nghiệp thành thị, vì nguồn tích luỹ thấp, mức đầu tư bị giảm xuống. Trong trường hợp đó, khu vực công nghiệp ở thành thị không đủ sức để cải tạo khu vực nông nghiệp cổ truyền ở nông thôn như vai trò vốn có của nó, mà ngược lại cả công nghiệp và nông nghiệp đều rơi vào tình trạng kém phát triển. Chỉ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm cho năng suất lao động nông nghiệp tăng lên, khối lượng nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp nhiều hơn, khi đó công nghiệp mới có cơ hội phát triển, và đến lượt nó công nghiệp sẽ thúc đẩy trở lại đối với sự phát triển nông nghiệp và các ngành khác. Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã tạo ra quy mô và tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu nông nghiệp, là nhân tố có tác động quan trọng đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế khác. 16 Mặt khác, nông nghiệp, nông thôn là địa bàn rộng lớn tiêu thụ các sản phẩm của công nghiệp, từ tư liệu sản xuất, vật tư thiết bị đến các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng. Nhiều nhà kinh tế đã khẳng định rằng, với vai trò là thị trường tiêu thụ hàng hoá cho lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp, nông thôn đã trở thành động lực thúc đẩy công nghiệp, dịch vụ phát triển, và như vậy nó còn quan trọng hơn cả vai trò nguồn cung cấp “đầu vào” cho công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng thu nhập và quy mô dân số trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ tác động đến dung lượng của thị trường nội địa đối với hàng hoá của khu vực công nghiệp. Nói cách khác, tăng trưởng của lĩnh vực công nghiệp phụ thuộc vào tăng trưởng của khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Do đó, “bóc lột” lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vượt quá mức đầu tư trở lại cho nó thì sẽ làm cho khu vực này rơi vào tình trạng trì trệ, dẫn tới giảm sút tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng xác đinh: “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”[26]. Ngoài ra, nông nghiệp, nông thôn còn là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho các ngành kinh tế khác. Dưới tác động của khoa học và công nghệ, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giải phòng một bộ phận lao động ra khỏi nông nghiệp để chuyển nhanh sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, do đó công nghiệp và dịch vụ sẽ có cơ hội phát triển nhanh. Học thuyết kinh tế và kinh nghiệm các nước đã qua công nghiệp hoá đều chỉ ra rằng, quá trình phát triển kinh tế theo hướng hiện đại đều gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động từ nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Trong vòng 30 năm từ 1965-1995, tại nhiều nước châu Á thực hiện công nghiệp hoá, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm đi khá nhanh và số lao động đó được chuyển vào các ngành công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao hơn. Ở những nước có tốc độ công nghiệp hoá nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì tốc độ chuyển dịch lao động nông nghiệp ngày càng lớn. Công nghiệp hoá gắn liền với đô thị hoá và thu hút phần lớn lao động từ nông nghiệp chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp, chủ yếu từ dịch vụ. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tuy không đòi hỏi tăng nhanh số 17 lượng lao động vào các hoạt động thuần tuý công nghiệp, nhưng nó đòi hỏi nhiều lao động dịch vụ hỗ trợ như: vận chuyển hàng hoá, đóng gói, phân loại sản phẩm, thông tin thị trường, tiếp thị, y tế, văn hoá, giáo dục…khi các hoạt động này tăng nhanh cả về số lượng và năng lực thì nó đòi hỏi nguồn lao động bổ sung rất lớn từ nông nghiệp. Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu tích luỹ vốn cho nền kinh tế-điều kiện tiên quyết để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Là một nước nông nghiệp với đa phần dân số sinh sống ở nông thôn, thế mạnh của nước ta là thế mạnh về nông nghiệp và các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Đây là tiềm năng to lớn cần khai thác để tạo nguồn vốn tích luỹ và cũng là mục tiêu của chủ trương dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ cho phép khai thác triệt để và có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp ở nước ta nhằm tạo giá trị thu nhập cao. Việc phát triển công nghệ sinh học, một thành tựu của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ tạo ra nhiều giống cây, con mới phù hợp với điều kiện sinh thái, rút ngắn thời gian canh tác, do đó sẽ tăng vụ, tăng sản lượng và giá trị trên một đơn vị diện tích. Việc áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại trong đánh bắt và chế biến hải sản sẽ làm tăng sản lượng và giá trị của nguồn lợi từ biển, từ đó sẽ tạo nguồn thu nhập cao cho ngư dân. Nông nghiệp, nông thôn nước ta đóng vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản cho công nghiệp hoá. Trong nhiều năm trước đây, nông nghiệp đã tạo ra trên 40% thu nhập quốc dân và hiện nay ngành này đã tạo ra gần 30% GDP và hơn 45% giá trị xuất khẩu của các nước, chưa kể các sản phẩm công nghiệp lấy nguyên liệu từ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp là chủ yếu. Vì vậy, nông nghiệp phát triển mạnh, năng suất hàng hóa nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại và tốt về chất lượng, là tiền đề vật chất quan trọng của công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp chế biến nói riêng. Mặt khác, những năm qua, cùng với sự phát triển của sản xuất, tỷ lệ để dành (tích luỹ) trong khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn tăng dần từ 5,2% năm 1990 18 lên 10% năm 1995 và khoảng 14,15% năm 2000. Tích luỹ đó chủ yếu do kết quả của phát triển nông nghiệp và ngành nghề thủ công trong nông thôn. Ở các nước đang phát triển, ngoài nguồn vốn từ viện trợ và đầu tư nước ngoài thì cần thiết phải có nguồn vốn từ tiết kiệm trong nước, trong đó nguồn thặng dư nông nghiệp là quan trọng. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn đầu, nguồn vốn tất yếu phải dựa vào nông nghiệp và nông thôn, vì đây là khu vực rộng lớn, xét cả về khía cạnh lao động và tổng sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn do nông nghiệp, nông thôn tạo ra sẽ được đầu tư trước hết và chủ yếu vào các hoạt động kinh doanh nông nghiệp và một số hoạt động phi nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và kinh tế nông thôn sẽ làm tăng đáng kể nguồn vốn tích luỹ cho nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu của phát triển bền vững, nâng cao đời sống xã hội nông thôn Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và kinh tế nông thôn do công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho gần 80% dân số sinh sống tại nông thôn, do đó là điều kiện căn bản để tạo nên sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Một chân lý rút ra từ thực tiễn: dân có giàu thì nước mới mạnh, 73% dân số sống ở nông thôn (năm 2005) mà chủ yếu là nông dân, nếu nông dân không giàu thì đất nước làm sao giàu mạnh được? Do vậy, phải làm cho nông dân giàu lên, tăng sức mua ở nông thôn chính là tạo ra thị trường thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó cũng là bài học rút ra từ kinh nghiệm công nghiệp hoá ở các nước đi trước như Bắc Mỹ, Tây Âu, Singapo, Hàn Quốc. Nông thôn phát triển, đời sống nông dân no đủ, họ sẽ tin tưởng vào cuộc sống, vào chế độ xã hội. Do đó mà yên tâm làm giàu, xây dựng nông thôn giàu đẹp, ổn định. Sự ổn định của nông thôn sẽ có tác động rất lớn đến sự ổn định của cả nước. Hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm bị chiến tranh tàn phá, do đó đang tồn tại sự chênh lệch khá xa về kinh tế và văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng trung du và miền núi, do đó tiềm ẩn nguy cơ sự bất ổn định. 19 Hơn nữa, sự lạc hậu của nông nghiệp và nông thôn đã làm tăng thêm làn sóng di cư tự do từ nông thôn ra thành thị, tạo nên hiện tượng quá tải ở thành thị. Quá trình đô thị hoá ồ ạt đặt ra những thách thức về môi trường đối với thành phố, như vấn đề vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống, nhu cầu nước sạch, giao thông vận tải, rác thải, trật tự trị an... Do vậy, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước không thể không coi trọng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, không thể không gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn để giảm dần sự cách biệt về trình độ phát triển giữa các vùng trong nước. Bài học rút ra từ các nước đi trước mà họ tiến hành công nghiệp hoá từ nông nghiệp cho thấy, nếu mức độ chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn càng thấp thì sức mua của xã hội càng tăng nhanh và ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao, sự tụt hậu của nông nghiệp, nông thôn so với thành thị và công nghiệp càng giảm. Những nước để sự chênh lệch giàu nghèo tăng lên quá mức, nông thôn lạc hậu so với thành thị, thậm chí bần cùng hoá thì sức mua của nông thôn thấp, kéo theo nhiều vấn đề phức tạp như tỷ lệ đói nghèo cao, dân cư từ nông thôn ra thành thị ồ ạt, môi trường xuống cấp, thất nghiệp, lạm phát gia tăng và từ đó làm chậm quá trình công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế nói chung. Ngày nay, vai trò quan trọng của nông thôn đối với sự ổn định chính trị, xã hội đã được thừa nhận. Không riêng gì ở Việt Nam và các nước đang phát triển khác, mà ngay cả các nước công nghiệp phát triển và các nước mới công nghiệp hoá vẫn rất chú trọng đến khu vực nông nghiệp, nông thôn. Các học giả Đài Loan cho rằng: “Vấn đề nông nghiệp và nông thôn bao gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục cho nên nó vô cùng quan trọng và phức tạp. Trong tương lai, tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân sẽ ngày càng thu nhỏ, nhưng nó vẫn là lực lượng chủ yếu quyết định sự ổn định của nền kinh tế, xã hội và là yếu tố quan trọng để đảm bảo môi sinh, cân bằng sinh thái”[35]. 20 Thứ năm, xuất phát từ yêu cầu đổi mới công nghệ của nông nghiệp và nông thôn Nông nghiệp, nông thôn là khu vực kinh tế, xã hội có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của đời sống đại đa số dân cư. Nhưng nếu nông nghiệp và nông thôn lại nằm trong tình trạng phát triển thấp kém thì không thể đảm trách được vai trò quan trọng đó, trong khi chúng ta vẫn đang phải dựa vào nông nghiệp trong nhiều năm tới nữa. Điều đó nói nên rằng, vấn đề phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn sẽ là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Nền nông nghiệp lạc hậu thì năng suất, sản lượng thấp, không đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nông sản, thực phẩm của xã hội, thậm chí cho chính bản thân nông thôn. Điều đó đòi hỏi nông nghiệp phải trở thành một nền nông nghiệp phát triển toàn diện, hiện đại và nông thôn trở thành một nông thôn giàu có, văn minh. Nhưng bản thân nông nghiệp và nông thôn lại không thể tự mình tạo ra quá trình đó, không thể đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ để trở thành nền nông nghiệp hiện đại; cũng không thể có khả năng tạo ra sức tăng trưởng nhanh để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động... Những bất cập đó cho thấy, lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn không thể thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá bản thân nó, mà đòi hỏi phải có sự tác động của công nghiệp và đô thị. Thứ sáu, xuất phát từ tiềm năng, lợi thế của đất nước hiện nay Việt Nam là một nước nông nghiệp. Tiềm năng và lợi thế của Việt Nam cũng là tiềm năng về phát triển nông nghiệp, bao gồm: tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên mặt nước và yếu tố con người... Đây vừa là điều kiện, vừa là mục đích của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhằm khai thác triệt để và phát huy các tiềm năng này, nhưng mặt khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện tại cũng chỉ có thể dựa chủ yếu vào những tiềm năng đó. Nguồn tài nguyên phong phú của Việt Nam cho phép phát triển nền nông nghiệp đa dạng. Diện tích đất nông nghiệp nước ta chiếm 39,2% diện 21 tích tự nhiên, trong đó đất có độ màu mỡ chiếm tỷ lệ tương đối cao (chủ yếu tập trung ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh vùng Trung Bắc Bộ). Đây là điều kiện để phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, hiện đại. Hiện tại quỹ đất chưa sử dụng còn nhiều, chiếm 11,38% diện tích tự nhiên, trong đó có khoảng 3 triệu ha đất có khả năng nông nghiệp (1 triệu ha có thể sử dụng ngay). Đây là nguồn lực quan trọng để tăng diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm, hoặc khoanh nuôi, trồng rừng mới theo hình thức kinh tế trang trại, nhằm tăng sản lượng và giá trị nông nghiệp. Tài nguyên rừng Việt Nam khá phong phú, trong đó diện tích rừng sản xuất chiếm đến 53%, được phân bố chủ yếu ở Tây Nguyên, các tỉnh miền núi Trung du Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Rừng Việt Nam không chỉ cung cấp gỗ, tre, nứa... mà còn có nhiều động vật quý và khoáng sản. Đây là nguồn cung cấp hàng lâm sản xuất khẩu quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài. Ngoài ra, Việt Nam còn có hơn 3.200 km bờ biển với hệ thống sinh vật biển đa dạng và phong phú, với hơn 1.700 loài cá biển, cung cấp sản lượng bình quân 1 triệu tấn/năm. Sau cá là tôm, với sản lượng khai thác khoảng 5 vạn tấn/năm, cùng nhiều hải sản quý khác như mực, vẹm, sò, bào ngư, hải sâm, đồi mồi, trai ngọ... Có thể nói, nguồn lợi thuỷ sản của Việt Nam rất lớn và hiện đang là nguồn hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, với kim ngạch đạt 2,6 tỷ USD ( năm 2005). Việt Nam còn có lực lượng lao động nông thôn khá dồi dào, với trình độ học vấn tương đối cao (96,26% người lớn biết chữ, 34,11% tốt nghiệp tiểu học, 31,31% tốt nghiệp trung học cơ sở, 11,82% tốt nghiệp trung học phổ thông- năm 2002). Đó là điều kiện quan trọng để người lao động tiếp thu và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học-công nghệ thế giới, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn lại sẽ thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả nhất đối với lực lượng lao động tiềm tàng này. Như vậy, việc xác định lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá, hiện 22 đại hoá từ nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn và cũng phù hợp với quy luật phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại. Phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì mới vực dậy được cả khu vực nông thôn, và nhờ đó đẩy mạnh phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc Đảng ta đặt ra nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn lên hàng đầu trong những năm trước mắt là vừa hợp với quy luật, vừa hợp với yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Nếu muốn công nghiệp hoá gấp thì là chủ quan. Cho nên, trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp. Ta cho nông nghiệp là quan trọng, ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp, sau mới đến công nghiệp nặng”. Theo Người, đó là cách để “đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy”.[26] 1.1.2. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta phụ thuộc rất lớn vào việc xác định đúng đắn nội dung cụ thể cho từng thời kỳ cụ thể. Theo tinh thần của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay đến năm 2010 cần giải quyết tốt những nội dung sau: 1.1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại Biến đổi cơ cấu kinh tế là một quá trình căn bản của sự phát triển kinh tế. Một sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế có liên quan đến sự thay đổi vai trò của các khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, của trồng trọt và chăn nuôi, của các loại cây và các loại con... trong một thời gian dài. Những thay đổi đó được đánh giá bằng sự thay đổi tương quan về tỷ trọng của các khu vực, các ngành, hay các bộ phận trong nội bộ ngành... Một xu hướng biến đổi cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, hiện đại khi tỷ trọng giá trị của các ngành phi nông nghiệp, nhất là dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân ngày càng được tăng, tỷ trọng giá trị của nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ngày càng giảm và trong nội bộ ngành nông 23 nghiệp thì tỷ trọng giá trị lâm nghiệp và thuỷ sản ngày càng tăng, còn giá trị nông nghiệp thuần ngày càng giảm. Để tạo sự thay đổi tích cực trong cơ cấu kinh tế theo hướng đó, tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay phải thực hiện nội dung sau: Thứ nhất, chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa canh với việc hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn Tình trạng độc canh, thuần nông là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc. Hậu quả của nó là không tạo được sức bật cho sự phát triển nông thôn. Vì vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và sản phẩm, biến nền nông nghiệp chủ yếu chỉ sản xuất lúa gạo và hoa mầu thành nền nông nghiệp hàng hoá phong phú, đa dạng sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa canh với các hệ sinh thái khác nhau, liên kết, bổ sung, hỗ trợ cho nhau sẽ tạo sự phát triển bền vững của nông nghiệp nước ta. Đây là một xu hướng cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nông nghiệp. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ cấu nông nghiệp ở nước ta được bố trí theo ý đồ chủ quan, đưa ra những mô hình cơ cấu cây trồng, vật nuôi thoát ly thực tế các mối quan hệ kinh tế, kỹ thuật, môi trường và thể chế... do đó ít mang lại hiệu quả. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải phá bỏ cơ cấu lạc hậu đó, hướng vào phát triển nền nông nghiệp đa dạng về cây và con phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết của đất nước cũng như của từng lãnh thổ, nhằm tạo giá trị thu nhập cao nhất trên mọi đơn vị diện tích. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nông nghiệp phải thực hiện 3 nhiệm vụ lớn và trực tiếp là: bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; đảm bảo tối đa nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng giá trị nông sản xuất khẩu. Để thực hiện các nhiệm vụ đó, nông nghiệp, nông thôn không thể là một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu, mà phải là nền nông nghiệp phát triển toàn diện, hiện đại. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý cho nông nghiệp và nông thôn sẽ cho phép sự lựa chọn những công nghệ thích hợp để phát huy thế mạnh của nông nghiệp, nông thôn, do đó sẽ khai thác tốt nhất các nguồn lực 24 hiện có ở nông thôn, tạo nên một sức bật mới trong nông thôn. Nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng cao và đa dạng thì sản xuất nông nghiệp cũng không thể tập trung sản xuất lương thực, mà còn phải đẩy mạnh sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi đa dạng khác để đáp ứng nhu cầu đó. Đồng thời với đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, nông thôn còn hướng tới xây dựng và phát triển những vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn để áp dụng có hiệu quả những thành tựu mới của khoa học – công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Xây dựng vùng hàng hoá lớn sẽ tạo được khối lượng lớn về nông sản với chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, từ đó nâng cao đời sống nông dân, tăng cường sức mua, mở rộng thị trường hàng hoá công nghệ phẩm. Điều đó đến lượt nó lại trở thành động lực của sự phát triển công nghiệp. Thứ hai, chuyển nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ trạng thái khép kín sang nền nông nghiệp đa hàng hoá, hướng mạnh vào xuất khẩu, mở rộng phân công và hợp tác lao động Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, mở rộng phân công và hợp tác lao động là xu thế tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển chung của các nước đang phát triển, mà Việt Nam cũng không nằm ngoài những vấn đề mang tính quy luật đó. Chỉ trên cơ sở sản xuất hàng hoá phát triển mới kích thích và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo sự phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Kinh tế hàng hoá phát triển cũng sẽ thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, đẩy mạnh phân công và hợp tác, mở rộng thị trường, tạo sự tích tụ và tập trung sản xuất nhanh chóng, từng bước chuyển nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn, hiện đại. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá là phải giảm dần tỷ trọng giá trị những cây, con cho năng suất và giá trị hàng hoá thấp, tăng dần tỷ trọng diện tích và tỷ trọng giá trị các loại cây và con có giá trị thương phẩm cao và có thị trường tiêu thụ lớn. Trước mắt, phải giảm giá trị trồng trọt, tăng tỷ trọng giá trị chăn nuôi; trong trồng trọt thì giảm 25 tỷ trọng giá trị cây lương thực, tăng tỷ trọng giá trị cây thực phẩm, cây ăn quả, cây lâm nghiệp và cây công nghiệp, đặc biệt phải mở rộng diện tích các loại cây đặc sản cho giá trị xuất khẩu cao, giảm tỷ trọng giá trị sản phẩm thô, tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm chế biến... trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đó là cách để khai thác tốt hơn tiềm năng các vùng đất khác nhau: trung du, miền núi, diện tích ao hồ, sông, biển... đồng thời đa dạng hoá sự kết hợp giữa nông, lâm, ngư nghiệp để tận dụng hiệu quả đất đai, khí hậu, đất lao động và vốn của nông dân ở nông thôn; làm cho đất đai, sông nước, đồi núi đều được khai thác hợp lý nhất, tạo giá trị cao nhất trên một đơn vị diện tích. Thứ ba, chuyển kinh tế nông thôn thuần nông sang phát triển kinh tế nông thôn tổng hợp nông - công nghiệp - dịch vụ và chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp Một điều dễ thấy là sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên nên năng suất lao động và hiệu quả thường rất bấp bênh. Việc kết hợp phát triển nông nghiệp với công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến), tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có ý nghĩa to lớn trong việc làm tăng hiệu quả kinh tế nông thôn, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức thu nhập và đời sống nông dân. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tác động tích cực vào nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển kinh tế nông thôn tổng hợp, bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp và thương mại, du lịch, dịch vụ, trong đó giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị các ngành sản xuất phi nông nghiệp. Từ đó, một bộ phận lao động sẽ được đưa sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng đó sẽ làm cho nông thôn thuần nông trở thành một nông thôn với kết cấu kinh tế đa dạng, phong phú và năng động, người nông dân sẽ dần trở thành công nhân, nhờ đó sẽ thoát dần khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, tạo sự phát triển bền vững của nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, sự đổi mới bộ mặt xã hội nông thôn không chỉ là nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, mà còn là thước đo hiệu quả của quá trình đó. Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng phát huy cao độ các nguồn lực từng vùng nông thôn Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 26 tất yếu dẫn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước hình thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại, kết hợp nhiều thành phần kinh tế trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sử hữu ở nông thôn. Sự phát triển ba ngành cơ bản trên trong một cơ cấu hữu cơ nhiều thành phần kinh tế với các tỷ trọng hợp lý cùng với việc áp dụng những quy trình công nghệ hiện đại sẽ đưa khu vực nông thôn phát triển với tốc độ nhanh và hiệu quả. Để phát huy các nguồn lực ở nông thôn, trước hết phải tập trung xây dựng, phát triển hợp tác xã và đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác hoạt động trên cơ sở tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng. Trên cơ sở chuyển đổi hợp tác xã kiểu cũ thành hợp tác xã kiểu mới hoặc thành lập mới các hợp tác xã theo luật để đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ cho sản xuất của kinh tế hộ như: dịch vụ kỹ thuật (bảo vệ thực vật, nhân giống và cung cấp giống, dịch vụ điện nước, dịch vụ làm đất), dịch vụ tài chính, dịch vụ thương mại, tiêu thụ sản phẩm... Kết hợp hài hoà các hình thức sở hữu, phương thức quản lý, mô hình tổ chức kinh tế và quan hệ phân phối trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã sẽ tạo cơ hội cho việc làm và tăng thu nhập cho nông dân. Kinh tế hộ nông dân đang là lực lượng tạo ra hầu hết các nông sản chủ yếu cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đặc điểm của các vùng nông thôn là sản xuất nhỏ, phân tán nên việc xác định hộ nông dân, hộ dân cư nông thôn (kinh tế cá thể, tiểu chủ) là đơn vị kinh tế cơ sở tự chủ có tác động rất lớn đến việc khai thác triệt để các nguồn lực phân tán ở nông thôn. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở nông thôn nước ta là phải ngày càng đa dạng, phong phú trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực, với nhiều trình độ. Tuy nhiên, do tư duy của nền kinh tế hộ là tư duy sản xuất nhỏ nên hiệu quả kinh doanh thấp, do đó cần có sự hướng dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ các hộ nông dân phát triển thành kinh tế trang trại, hoặc tự nguyện liên kết lại với nhau để có đủ sức mạnh vươn lên trong cơ chế thị trường. Sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phải được tạo điều kiện để ngày càng phát triển. Đây là những thành phần kinh tế có điều kiện về vốn, về công nghệ, lại rất năng động, do đó sự phát triển của nó sẽ thu hút được các nguồn vốn lớn hơn, tạo sự phát triển mạnh mẽ hơn cho khu vực kinh tế nông thôn. 27 1.1.2.2. Thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá và sinh học hoá trong nông nghiệp Một trong những mục tiêu lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là cải tạo nền nông nghiệp thủ công, lạc hậu, năng suất thấp, tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp cơ khí hiện đại, năng suất cao, tạo khối lượng nông sản hàng hoá lớn, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại. Để đạt được điều đó, nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn phải được thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá và sinh học hoá. - Cơ giới hoá Khi nói về vai trò của công cụ lao động, C.Mác đã viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những công cụ nào”[12] . Trong hoạt động nông nghiệp, việc sử dụng các nông cụ cơ giới ngày càng hiện đại cũng là điều kiện trực tiếp để tăng năng suất lao động và do đó tăng thặng dư nông nghiệp. Lịch sử phát triển nông nghiệp thế giới và các nước trong khu vực đã cho thấy, muốn có một nền nông nghiệp bền vững, năng suất lao động cao thì không thể dựa vào những nông cụ truyền thống, thô sơ với sức kéo của trâu bò là chủ yếu, mà phải thay thế về cơ bản lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Chỉ có trang bị các công cụ cơ giới cho nông nghiệp trong tất cả các khâu, từ sản xuất đến thu hoạch, vận chuyển và chế biến thì mới xoá được tình trạng nghèo nàn và lạc hậu ở khu vực nông thôn nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Đẩy mạnh cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp không chỉ làm tăng năng suất lao động nông nghiệp, mà còn có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua việc giải phóng một số bộ phận lao động nông thôn ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp. Hơn nữa, năng suất lao động tăng lên, đất trồng sớm được giải phóng, do đó lại có thể tăng thêm mùa vụ, tăng sản lượng và giá trị thu nhập. Với những tác động đó, cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp là nội dung quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay. 28 - Điện khí hoá Điện khí hoá là điều kiện để các công cụ cơ giới phát huy tác dụng. Sự phát triển của lĩnh vực điện năng tạo cơ hội sử dụng điện rộng rãi trong sản xuất, do đó sẽ làm tăng sức sản xuất của các công cụ lao động. Ở Việt Nam, vai trò của điện khí hoá nông thôn mặc dù đã được đặt ra khá lâu, nhưng thực tế mới chỉ được ứng dụng một cách rộng rãi vào khoảng giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX khi mạng lưới điện quốc gia về đến nông thôn. Tuy nhiên mức độ điện khí hoá ở nông thôn còn rất hạn chế cả về phạm vi lẫn chất lượng và đối tượng sử dụng. Ngay từ đầu thế kỷ XX, V.I.Lê -Nin đã rất coi trọng vai trò của điện khí hoá trong sự phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, Đảng ta cũng xác định là “điện phải đi trước một bước”, bởi muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì không thể thiếu hệ thống điện quốc gia, trong đó có việc cung cấp năng lượng ổn định cho nông thôn để vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt của dân cư, vừa phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Thực hiện nội dung điện khí hoá nông thôn trong những năm trước mắt là đẩy mạnh xây dựng các trạm điện với công suất khác nhau không chỉ đến tận các huyện, mà còn phải đến tận các xã, thôn. Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn tới, trên phạm vi toàn quốc điện khí hoá nông thôn phải phát triển theo hướng phủ kín mạng lưới điện đến 100% số thôn với chất lượng điện đảm bảo về công suất, cường độ an toàn. Chuyển đổi nhanh hình thức quản lý kinh doanh điện với hướng ưu tiên cho phát triển điện nông thôn và phục vụ nông nghiệp, cải tạo hệ thống cấp điện, dẫn điện hiện tại, đảm bảo cho giá điện nông thôn ít nhất là bằng và thấp hơn giá điện thành phố và khu vực công nghiệp, để đến năm 2010 giải quyết cơ bản nhu cầu dùng điện ổn định và có chất lượng cao ở khu vực nông thôn. - Thuỷ lợi hoá Nước là một trong bốn điều kiện và là điều kiện cơ bản nhất của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt với nền nông nghiệp lúa nước như Việt Nam. Năng suất cây trồng, vật nuôi cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào việc có cung cấp đầy đủ nước cho nó một cách thật sự khoa học hay không, bởi dù công cụ lao 29 động có hiện đại đến mấy, dù phân bón và giống tốt đến mấy mà tưới tiêu không chủ động được thì năng suất cây trồng vẫn bị hạn chế. Đó là một thực tế ở các vùng nông thôn nước ta: có điều kiện đất đai thuận lợi cho sản xuất lúa nước, nhưng do thời tiết không thuận nên hàng năm đã bị mất đi hàng ngàn tấn lương thực; hay ở một số vùng do thường xuyên bị nắng hạn, thiếu nước nên năng suất cây trồng rất thấp, thậm trí có nơi còn bị mất mùa. Cả hai trường hợp trên đều có nguyên nhân từ việc không chủ động được nguồn nước tưới tiêu hợp lý. Vì vậy, về mặt này yêu cầu đặt ra là phải thường xuyên tu bổ, nâng cấp hệ thống trạm bơm, kênh mương, hồ đập để giải quyết yêu cầu tiêu úng, nước tưới đảm bảo đủ yêu cầu, kịp thời cho sản xuất nông nghiệp. Riêng đối với vùng nông nghiệp sạch thì cần phải trang bị hệ thống tưới, tiêu nước một cách khoa học. - Sinh học hoá Sự phát triển của công nghệ sinh học có vai trò ngày càng lớn đối với nền kinh tế nông nghiệp. Nó không chỉ tác động đến việc cải tạo giống cây, giống con hay tạo ra những loại giống mới có năng suất, chất lượng cao, mà còn tác động rất lớn đến khâu chế biến, bảo quản giá trị sử dụng của sản phẩm. Vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay có nội dung là: áp dụng nhanh các thành tựu của cách mạng sinh học để tạo và nhân nhanh giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là áp dụng thành tựu về giống có ưu thế lai như kỹ thuật cấy truyền hợp tử, kỹ thuật gen hocmon sinh trưởng; áp dụng công nghệ sản xuất các loại phân vi sinh cố định nitơ để thay thế dần phân đạm hoá học; sản xuất các chế phẩm vi sinh để bảo vệ cây trồng thay thế dần các loại hoá chất độc hại đối với người và gia súc; sản xuất các loại thuốc thú y và các loại vacxin thế hệ mới.... Đó là con đường vừa làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, vừa tạo được nông phẩm “sạch” đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người tiêu dùng. Trong điều kiện hiện nay, nội dung cách mạng sinh học ở nước ta là phải tập trung vào các khâu chính của quá trình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, đặc biệt là trong khâu giống và các khâu sau thu hoạch để nâng cao giá trị sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. 30 1.1.2.3. Phát triển công nghiệp nông thôn, trong đó chú trọng phát triển các làng nghề truyền thống và làng nghề mới Công nghiệp nông thôn là bộ phận của công nghiệp với các trình độ phát triển khác nhau, phân bổ ở nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn bao gồm nhiều ngành nghề, đan kết chặt chẽ với kinh tế nông thôn, nhất là sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp nông thôn không phải là toàn bộ các hoạt động phi nông nghiệp hoặc bó hẹp trong các hoạt động tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, mà bao gồm bộ phận sản xuất công nghiệp và các dịch vụ có tính chất công nghiệp ở nông thôn của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp; các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã và các tổ hợp, các tổ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh chế biến lương thực, thực phẩm hoặc xí nghiệp công nghiệp khác, quy mô vừa và nhỏ mà hoạt động của nó trực tiếp gắn với kinh tế ở nông thôn. Phát triển công nghiệp nông thôn có tác động tích cực và có hiệu quả tới toàn bộ sự phân công lao động, tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Phát triển công nghiệp nông thôn là quá trình có tính quy luật bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội theo vùng lãnh thổ. Thực trạng nghèo đói, sự phân hoá về kinh tế và xã hội giữa các vùng lãnh thổ đã và đang đặt ra yêu cầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng hệ thống các cơ sở công nghiệp nông thôn đồng bộ và rộng khắp trên địa bàn nông thôn. Đây là con đường cơ bản và quan trọng trong trước mắt cũng như lâu dài để tăng năng suất và hiệu quả của sản xuất ở nông thôn, cải biến phong cách sống và thị hiếu tiêu dùng ở nông thôn theo hướng xích lại gần với phong cách và lối sống đô thị. Sự phát triển công nghiệp nông thôn sẽ tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tạo điều kiện để nâng cao mức sống, nhờ đó sẽ làm giảm sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn cả trong sản xuất lẫn trong tiêu dùng. Nhờ những ảnh hưởng nói trên của công nghiệp nông thôn mà sự chuyển dịch tự phát của dân cư nông thôn sẽ làm giảm bớt những căng thẳng về kinh tế, xã hội ở các đô thị do mật độ dân cư tập trung quá lớn. 31 Sự phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản có tác động mạnh đến sự phát triển của sản xuất nông, lâm, thuỷ sản và đời sống của cư dân nông thôn. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong giá trị của nông sản chế biến, giá trị của nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản thường chiếm đến 70-80%. Cho nên, quy mô, tốc độ và cơ cấu phát triển công nghiệp chế biến phụ thuộc rất lớn vào trình độ và tính chất phát triển của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Nhưng mặt khác, nhờ phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản mà các ngành nông, lâm, ngư nghiệp sẽ được phát triển theo hướng đa ngành, chuyên canh, thâm canh, có năng suất cao, tỷ suất hàng hoá lớn, giá trị gia tăng nhiều và tỷ lệ tổn thất sau khi thu hoạch thấp. Phát triển các làng nghề truyền thống và các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp đa dạng ở nông thôn cũng là nội dung phát triển công nghiệp nông thôn. Các ngành nghề tồn tại phổ biến ở nông thôn là: chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng, gốm, sứ, thuỷ tinh, rèn, đúc, sửa chữa cơ khí, gia công, may mặc...Sự phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có ưu thế là sử dụng nguồn nguyên liệu và lao động tại chỗ nên nó khai thác được lợi thế của mỗi vùng, mỗi địa phương. Do đó, các địa phương phải tiến hành phân công lại lao động trên địa bàn theo hướng gắn sự phát triển công nghiệp với nông nghiệp và nông thôn, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp. Đồng thời tăng cường và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc thể hiện thông qua các mặt hàng được chế biến từ bàn tay khéo léo, khối óc tinh tế của người thợ thủ công, giới thiệu những nét đẹp độc đáo của văn hoá dân tộc. Sự phát triển của công nghiệp và làng nghề ở nông thôn sẽ làm “thức dậy” tiềm năng to lớn về nguồn vốn phân tán trong dân cư, về một thị trường rộng lớn, hấp dẫn, một nguồn lao động dồi dào, cả về nguồn tài nguyên khoáng sản, đồng thời kéo theo sự phát triển của nhiều hoạt động dịch vụ, thương mại, xây dựng, vận tải, thông tin, văn hoá. Sự phát triển các dịch vụ 32 này vừa thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp nông thôn phát triển, vừa thu hút được số lao động dư thừa ở nông thôn, làm thay đổi cơ cấu lao động ở nông thôn nói riêng và cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung. Là những bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế nông thôn, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cùng phát triển trong mối quan hệ tương hỗ với nhau. Vì vậy, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá việc kết hợp phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ nông thôn ngay từ đầu là hết sức cần thiết đối với một nước thực hiện công nghiệp hoá từ nông nghiệp. Từ sự phân tích trên, có thể nói công nghiệp nông thôn có vai trò ngày càng to lớn, hiện đang thu hút khoảng trên 60% tổng số lao động và tạo ra khoảng trên 50% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Công nghiệp nông thôn thúc đẩy sự hình thành, hoàn thiện và mở rộng thị trường, góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng quy mô của quá trình sản xuất và tái sản xuất kinh tế nông thôn. Công nghiệp nông thôn gắn chặt với sự phát triển kinh tế-xã hội nông thôn nó tác động đến tất cả các quá trình của sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc chuyển nông thôn sang giai đoạn mới chúng ta phải đương đầu với những khó khăn và thách thức mới đòi hỏi phải có những định hướng đúng đắn và giải pháp tích cực, phù hợp. 1.1.2.4. Phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là sự nghiệp của toàn dân, nhưng trước hết và trực tiếp là sự nghiệp của nông dân. Vì vậy, trình độ của nông dân, đặc biệt là của cán bộ quản lý các cấp ở nông thôn có ảnh hưởng rất lớn đến thành công của quá trình này. Người nông dân Việt Nam đã có hàng nghìn năm gắn bó với sản xuất nông nghiệp, nên kiến thức của họ về kỹ thuật nông nghiệp cũng gắn rất chặt với kỹ thuật canh tác cổ truyền, còn những kiến thức hiện đại về phát triển nông nghiệp, nông thôn thì vẫn còn rất thấp, thậm trí nhiều nơi ở vùng sâu, vùng xa còn chưa được tiếp cận. Họ chỉ quen với cung cách làm ăn của tư duy sản xuất nhỏ, do đó năng suất lao động thấp, làm không đủ ăn. 33 Người nông dân trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thời đại phát triển nền kinh tế trong điều kiện mở rộng phân công và hợp tác quốc tế thì không thể là người nông dân kém hiểu biết, với những kinh nghiệm sản xuất cổ truyền đó. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải nâng cao trình độ dân trí cho dân cư nông thôn, đặc biệt là đối với lực lượng lao động, mà điều này chỉ có được khi có sự tác động tích cực của hệ thống giáo dục - đào tạo. Việc phổ cập giáo dục cho cư dân nông thôn là điều kiện đầu tiên tạo cho nông dân khả năng tiếp cận được với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trong nông nghiệp, từ đó sẽ cho phép họ nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác, tăng năng suất lao động. Đây là cơ sở để người nông dân đủ sức làm chủ hoạt động kinh doanh của mình, chủ động lựa chọn các phương án sản xuất tối ưu nhằm đạt hiệu quả cao. Vì vậy, việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn là rất có ý nghĩa, bởi không có đầu tư nào mang lại nguồn lực lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục. Sử dụng nguồn nhân lực trình độ cao sẽ làm tăng hàm lượng chất xám trong giá trị hàng hoá, do đó nâng cao sức cạnh tranh của nông sản phẩm (khâu yếu nhất của hàng hoá Việt Nam hiện nay). Cùng với phát triển hệ thống giáo dục là phát triển hệ thống truyền thanh, truyền hình, thư viện, nhà văn hoá để nâng cao trình độ cho người lao động ở nông thôn. Hệ thống này sẽ cung cấp và cập nhật những thông tin về khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công cho lực lượng lao động nông thôn, nhờ đó mà họ tiếp cận được với những phương thức canh tác tiên tiến. Tuy nhiên, để làm tốt điều này cần phải xây dựng các trung tâm khuyến nông, trung tâm chuyển giao khoa học- công nghệ nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng các trung tâm dạy nghề ở nông thôn để đào tạo đội ngũ lao động có văn hoá và tay nghề cao, năng động trong sản xuất kinh doanh và tiếp thu khoa học-kỹ thuật sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề khác. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, do đó sẽ thúc đẩy quá trình này sớm đi đến thành công. 34 Trong lực lượng lao động ở nông thôn, một bộ phận có vai trò rất lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là đội ngũ cán bộ quản lý, trước hết là đội ngũ cán bộ hợp tác xã. Những năm gần đây, các tổ chức kinh tế tập thể ở nông thôn đã có chiều hướng phát triển mạnh, nhưng lực lượng cán bộ quản lý chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng, do đó đã hạn chế rất lớn đến hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, hạn chế đến quá trình phát triển kinh tế nông thôn. Thực tiễn đó đang đặt ra yêu cầu hết sức cấp bách cho các địa phương là phải có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức về trồng trọt và chăn nuôi cũng như kiến thức quản lý sản xuất kinh doanh cho đội ngũ này. Đội ngũ cán bộ huyện, xã gồm cả cán bộ quản lý hành chính, kinh tế và kỹ thuật là lực lượng nòng cốt ở địa phương có vai trò quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, nông nghiệp, nông thôn. Thông qua đội ngũ này, các chủ trương phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước sẽ đến được với người nông dân, phục vụ lợi ích của cộng đồng nông thôn. Sự tác động của cơ chế thị trường, sự sống còn và phát triển của một số ngành nghề truyền thống, thậm trí của từng loại cây trồng, vật nuôi... đang đòi hỏi sự phát huy tinh thần tự chủ, năng động và sáng tạo của các cấp quản lý ở địa phương, trong đó đơn vị xã là hạt nhân. Vì vậy, trí thức hoá đội ngũ này cho các địa phương vừa là điều kiện, vừa là mục đích của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nước ta. 1.1.2.5. Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế - xã hội nông thôn, đưa nông thôn phát triển ngày càng văn minh, hiện đại Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn có nội dung nữa là xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn. Nói đến kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn là nói tới những điều kiện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn, bao gồm: hệ thống 7 hạ tầng kinh tế, kỹ thuật như: điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc, phương tiện đi lại..., và hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội như phòng khám đa khoa, bệnh viện, các loại hình trường học (mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, dạy nghề... ở nông thôn), các loại hình dịch vụ văn hoá như thư viện, bưu điện. Do nông thôn là những vùng rộng lớn trải khắp đất nước, với trình độ phát triển kinh tế, xã hội khác nhau nên cần phải xác định phương án và các 35 bước tiến hành xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho phù hợp với từng vùng nông thôn, trong từng thời kỳ cụ thể. Phải thấy rằng, sự hình thành và phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ tiên tiến cho những cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hay thực hiện chuyên canh để có nông sản nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, tăng kim ngạch xuất khẩu... chỉ có được khi ở nông thôn có một hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại. Nói cách khác, sản xuất nông nghiệp hàng hoá và phát triển công nghiệp nông thôn không thể thiếu các công trình thuỷ lợi, đường sá, hệ thống điện, nước, hệ thống thông tin liên lạc, kho chứa và bảo quản hàng hoá, chợ và trung tâm buôn bán... Một khi kết cấu hạ tầng đã được tạo lập tương đối đầy đủ và đồng bộ ở nông thôn, các nhà đầu tư sẽ bỏ vốn đầu tư vào khu vực này, do đó sẽ thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển mạnh hơn. Trong tiến trình phát triển nền kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng, vai trò của kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ngày càng được khẳng định. Thiếu hệ thống thông tin viễn thông hiện đại, thiếu hệ thống giao thông thông suốt, hay thiếu những tổ chức thiết chế như ngân hàng và thị trường tài chính phát triển, những cơ sở dịch vụ kinh tế, xã hội khác... thì kinh tế, xã hội khó có thể phát triển mạnh. Bởi vậy việc xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội trở thành một nội dung quyết định của sự nghiệp công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng và công nghiệp hoá đất nước nói chung. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn phát triển sẽ tạo sự thay đổi về chất của bộ mặt nông thôn và đặt nền tảng cho một tiến trình phát triển lâu dài, hiện đại. Đó là những điều kiện và động lực cho việc nâng cao năng suất lao động xã hội, cho cách mạng khoa học – công nghệ nói chung. Đối với các vùng nông thôn chậm phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng còn là cách thức để xoá bỏ sự cách biệt về địa lý, xã hội, hình thành những cơ sở cho việc tăng cường giao lưu kinh tế, văn hoá, phá bỏ sự khép kín của nông thôn truyền thống, tạo điều kiện, cơ hội cho nông dân tiếp cận được với những dịch vụ mới như tín dụng, thông tin, công nghệ và đưa nông dân vào một sự chuyển động chung của tiến trình phát triển hiện đại. 36 Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn còn là cách để thực hiện phân bố rộng khắp những thành tựu của sự phát triển, tạo lập sự công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn. Cùng với việc phát triển kết cấu hạ tầng, cần xây dựng mạng lưới đô thị nhỏ (các thị trấn, thị tứ) phù hợp với điều kiện của từng vùng nông thôn. Đó sẽ là những trung tâm giao lưu kinh tế, chính trị, văn hoá có tác động lớn trong việc nâng cao mức sống vật chất và tinh thần ở nông thôn, do đó xóa dần “bức tường” về không gian giữa nông thôn và thành thị.[55] 1.1.3. Các yếu tố tác động đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Quá trình nghiên cứu và khảo sát thực tế vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn một số tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long cho thấy rằng có nhiều yếu tố tác động quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Các yếu tố này được tiếp cận theo ba nhóm: Nhóm yếu tố thứ nhất liên quan đến nguồn lực, bao gồm các yếu tố: nguồn tài nguyên thiên nhiên; nguồn vốn; tiến bộ khoa học - công nghệ; con người - nguồn nhân lực. Nhóm yếu tố thứ hai liên quan đến điều kiện thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như sự phát triển của thị trường và kết cấu hạ tầng, tập quán và lối sống dân cư. Nhóm yếu tố thứ ba liên quan đến việc huy động các nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, bao gồm: mức độ hoàn chỉnh của cơ chế thị trường, vai trò quản lý của Nhà nước. Dưới đây là sự phân tích tác động của từng yếu tố đến quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 1.1.3.1. Sự tác động của các yếu tố nguồn lực đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - Nguồn tài nguyên thiên nhiên Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, cũng như của mỗi vùng, đều bị ảnh hưởng trên một mức độ nhất định, bởi số lượng và trữ lượng tài nguyên thiên nhiên. Tương tự như vậy, tốc độ công nghiệp hoá nông nghiệp, nông 37 thôn dù trên phạm vi toàn quốc hay trong khuôn khổ của tỉnh Bắc Ninh đều chịu ảnh hưởng lớn bởi nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thực tế cho thấy, nơi nào có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, điều kiện tự nhiên thuận lợi thì quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở đó diễn ra thuận lợi hơn. Tuy nhiên, kinh nghiệm trên thế giới cũng chỉ ra rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn chứ hoàn toàn không phải là yếu tố quyết định. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là những nước và vùng lãnh thổ có nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm nhưng vẫn thực hiện công nghiệp hoá tương đối thành công. Nguồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm nguồn tài nguyên đất đai, tài nguyên rừng, biển, tài nguyên trong lòng đất, tài nguyên nước, tài nguyên khí hậu… Chính số lượng, trữ lượng, chất lượng, mật độ tập trung của các tài nguyên đất đai, rừng, biển, tài nguyên trong lòng đất, tính phong phú và sự điều hoà của tài nguyên nước, tính ôn hoà và đặc trưng của tài nguyên khí hậu đã tạo nên những lợi thế khác nhau đối với sự phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nếu những tài nguyên trên khan hiếm hoặc có những quy luật vận động khắc nghiệt (nước và khí hậu) thì sẽ gây khó khăn cho tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. - Nguồn vốn Bất luận như thế nào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cũng luôn có nhu cầu về vốn, bao gồm cả vốn bằng tiền và vốn bằng tài sản hay cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật – kinh tế - xã hội. Nhu cầu đó càng lớn khi yêu cầu về tốc độ công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn càng nhanh. Nguồn vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn có thể có được từ các nguồn vốn: vốn ngân sách, vốn của các chủ thể kinh doanh, vốn tự do nhàn rỗi trong dân, vốn nước ngoài có thể huy động. Trong những nguồn trên, vốn ngân sách nhìn chung hết sức hạn hẹp, đặc biệt trong bối cảnh ngân sách hiện nay luôn ở trong tình trạng bội chi, do đó việc đầu tư ngân sách để góp phần vào thúc đẩy công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề nan giải. Mặc dù vậy, nếu thiếu những “cú hích” từ phía Nhà nước, 38 không chỉ bằng cơ chế, mà cả bằng việc đầu tư vào những hạng mục nhất định như giao thông, thuỷ lợi, điện, các công trình nghiên cứu phục vụ nông nghiệp, đào tạo nhân lực… thì nông nghiệp, nông thôn phát triển sẽ hết sức khó khăn. Vốn đầu tư từ các chủ thể kinh doanh nhìn chung cũng không nhiều, nhưng muốn đẩy nhanh công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn thì càng phải có cơ chế khuyến khích gia tăng khả năng tự tích luỹ. Như vậy, để đẩy nhanh vượt bậc tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ngoài nguồn vốn của Nhà nước, của các chủ thể kinh doanh còn phải khai thác nhiều nguồn vốn nữa (vốn nhàn rỗi trong dân, vồn từ nước ngoài). Việc huy động các nguồn vốn này sao cho có hiệu quả để quá trình tuần hoàn vốn diễn ra một cách nhịp nhàng theo đúng quy luật của trao đổi kinh tế thị trường lại càng khó hơn. Điều đó đủ thấy rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gặp phải thách thức hết sức to lớn về sự thiếu vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. - Nguồn lực tiến bộ khoa học-công nghệ Tiến bộ khoa học công nghệ có vị trí đặc biệt đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vị trí của nguồn lực này càng lớn khi loài người đã bước sang thế kỷ XXI- thế kỷ của kinh tế tri thức. Nếu nguồn lực này càng dồi dào thì tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn diễn ra càng nhanh. Nguồn lực khoa học- công nghệ biểu hiện trên nhiều mặt: - Tiềm năng về đội ngũ các nhà nghiên cứu khoa học - công nghệ. - Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, triển khai tiến bộ khoa học - công nghệ. - Khả năng tiếp thu những thành tựu tiến bộ khoa học- công nghệ trên thế giới. - Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng đóng vai trò quyết định đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nguồn nhân lực, trước hết phản ánh qua số lượng lao động trong độ tuổi lao động. Yếu tố về số lượng lao động tác động tới tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn mang tính đặc thù, đặc biệt là khi xét nó trong mối tương quan với quy mô và tốc độ tăng dân số. Nếu lao động quá ít thì không thể đáp 39 ứng cho nhu cầu lao động của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng ngược lại, nếu lao động quá lớn và đằng sau nó là quy mô dân số quá đông và tốc độ tăng dân số nhanh thì đây là khó khăn, thách thức. Khía cạnh thứ hai có liên quan đó là chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm cả chất lượng nguồn nhân lực lao động trực tiếp và nguồn lao động quản lý. Trong thời đại của tiến bộ khoa học-công nghệ diễn ra nhanh chóng, chất lượng nguồn nhân lực có vai trò đặc biệt quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Chiến lược đến năm 2010, 2015 về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khu vực nông thôn nhấn mạnh đến việc xây dựng năng lực ở các lĩnh vực như dịch vụ khuyến nông, thông tin và đào tạo nghề cho người lao đông, hỗ trợ các doanh nghiệp nông thôn. 1.1.3.2. Những yếu tố liên quan tới điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Ở bất kỳ nước nào, vùng nào công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thực hiện nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn, bền vững hay không bền vững… là tuỳ thuộc vào những điều kiện khách quan chung của nước đó, vùng đó. Những điều kiện này bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, nhưng nhìn chung chúng có thể được tập hợp thành 3 nhóm yếu tố cơ bản là: thị trường và sự phát triển của thị trường; sự phát triển của kết cấu hạ tầng; tập quán và lối sống của dân cư. Trước hết, thị trường và sự phát triển của thị trường tác động tới động lực và sự bền vững của công nghiệp hoá, hiện đại hoá tác động đến phương hướng phát triển của các ngành, các sản phẩm, từ đó tác động tới cơ cấu của sản xuất kinh doanh của vùng, tới hiệu quả của từng cơ sở kinh doanh. Nó cũng tác động tới bước đi cũng như cơ cấu lãnh thổ và phân bố lực lượng sản xuất trong vùng. Thứ hai, sự phát triển của kết cấu hạ tầng và công nghiệp hoá, hiện đại hoá có mối quan hệ qua lại rõ rệt. Ở những vùng có công trình thuộc kết cấu hạ tầng phát triển, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra một cách thuận lợi hơn, có tốc độ và quy mô lớn hơn. Ngược lại, ở những nơi đã đạt trình độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cao thì không những cơ sở hạ tầng phát triển, đồng bộ hơn, mà chúng cũng thường xuyên được củng cố, nâng cấp, hoàn thiện và mở rộng hơn. Chính bởi mối quan hệ qua 40 lại chặt chẽ này mà việc phát triển kết cấu hạ tầng vừa được coi là điều kiện, một nội dung, một quá trình, một bộ phận cấu thành không thể tách rời của toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung. Thứ ba, tập quán và lối sống của dân cư tác động đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách gián tiếp thông qua nhận thức về các giá trị, triết lý, cách tư duy và động lực của dân cư cũng như các nhà kinh doanh trong tỉnh và trong vùng. 1.1.3.3. Những yếu tố liên quan đến việc huy động các nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - Mức độ hoàn chỉnh của cơ chế kinh tế thị trường Cơ chế thị trường với những quy luật vốn có của nó có vai trò khá lớn trong việc khuyến khích cạnh tranh, kích thích sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Vì vậy việc hoàn thiện các cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta có ảnh hướng lớn đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Mức độ hoàn chỉnh của cơ chế kinh tế thị trường tới tất cả các giao dịch liên quan đến hoạt động kinh tế. Cơ chế thị trường càng hoàn chỉnh, thì chúng càng có tác động mạnh mẽ và dứt khoát đến tư duy và cách thức hoạt động kinh tế của dân cư nông thôn. Nhờ vậy, mới có thể đẩy nhanh việc phát triển sản xuất hàng hoá ở các vùng nông thôn và dân cư ở đây mới thoát ra khỏi tư duy và tập tục làm ăn theo lối tiểu nông. Rõ ràng, cơ chế thị trường với sự tác động trên đã trở thành động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta . - Vai trò quản lý nhà nước Quản lý nhà nước đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn bao gồm quản lý nhà nước Trung ương và cấp tỉnh. Quản lý nhà nước ở cấp tỉnh chỉ là sự cụ thể hoá quản lý nhà nước cấp Trung ương trên một địa bàn cụ thể. Vì vậy, ở đây thuật ngữ quản lý nhà nước là sự quản lý của một hệ thống từ trung ương đến chính quyền cơ sở. Nhìn chung, quản lý nhà nước có vai trò ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, có 41 liên quan trực tiếp đến huy động các nguồn lực đã kể trên và thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: + Quy hoạch và lựa chọn chiến lược cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần phải định vị công nghiệp hoá và dịch vụ theo các giai đoạn khác nhau: giai đoạn 2006 – 2010 và giai đoạn 2011 đến năm 2020. Có hai điểm cần nhấn mạnh: Một là, nhà nước đầu tư nhiều hơn nữa để có một quy hoạch rõ ràng và lựa chọn một chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thích hợp cho mỗi vùng. Hai là, trong giai đoạn đầu (từ nay đến năm 2010) việc triển khai công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn không chỉ là giúp các vùng xây dựng một quy hoạch sao cho có thể đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn mà còn phải phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ liên quan trực tiếp đến nông nghiệp. + Hệ thống quản lý chính sách vĩ mô của nhà nước. Tiếp theo việc quy hoạch và lựa chọn chiến lược, việc hoàn thiện hệ thống chính sách và luật pháp có liên quan đến việc huy động tối đa các nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề hết sức cấp thiết. Bởi vì, chỉ có hoàn thiện các chính sách vĩ mô mới tạo ra động lực để huy động có hiệu quả các nguồn lực vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Ngoài vấn đề quy hoạch, lựa chọn chiến lược phát triển và mức độ hoàn chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô, không thể không nói tới vai trò đầu tư trực tiếp của Nhà nước đối với việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế - văn hoá và xã hội, ứng dụng triển khai tiến bộ khoa học- công nghệ đối với nông nghiệp và nông thôn, trợ giúp của nhà nước trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn . Tuy nhiên, cũng cần phải tránh tư tưởng trông chờ quá nhiều vào sự đầu tư của Nhà nước, các địa phương, các nhà kinh doanh phải tự vươn lên với tinh thần phát huy nội lực.[31] 42 Mô hình 1: Tổng quát về các yếu tố tác động đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 1.1.4. Một số chỉ tiêu tổng hợp đánh giá kết quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn 1.1.4.1. Chỉ tiêu về kinh tế Tốc độ phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, dịch vụ. Tốc độ phát triển nội bộ ngành nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ). Chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu và chất lượng lao động trong nông nghiệp, nông thôn. Chỉ tiêu đánh giá mức độ cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá và ứng dụng công nghệ sinh học. Chỉ tiêu về tăng trưởng các ngành kinh tế ở nông thôn. Chỉ tiêu đánh giá về mức độ phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, kinh tế -xã hội nông thôn. Trong lĩnh vực nông nghiệp, hệ thống chỉ tiêu đánh giá sản xuất nông sản hàng hoá được coi là một trong những chỉ tiêu đánh giá chủ yếu đó là: * Chỉ tiêu diện tích và cơ cấu cây trồng: Thực tiễn CNH, HĐH NNNT Nguồn lực tự nhiên Nguồn lực KH- CN Nguồn Vốn Nguồn nhân lực Sự phát triển thị trường Chiến lược quy hoạch phát triển Thể chế thị trường Sự phát triển kết cấu hạ tầng Chính sách kinh tế vĩ mô 43 - Chỉ tiêu diện tích luận án sử dụng là chỉ tiêu diện tích đất nông nghiệp, diện tích canh tác, diện tích gieo trồng. - Cơ cấu diện tích cây trồng là tỷ trọng diện tích gieo trồng của từng loại cây trồng trên tổng diện tích gieo trồng. * Khối lượng nông sản hàng hoá là khối lượng sản phẩm nông nghiệp được bán ra thị trường. * Giá trị sản xuất (GO) ngành trồng trọt là toàn bộ giá trị sản phẩm (sản phẩm vật chất + sản phẩm dịch vụ) được sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định. Công thức: ∑ = = n i PiQiGO 1 Trong đó: GO: Giá trị sản xuất Qi: Khối lượng sản phẩm thứ i Pi: Đơn giá sản phẩm thứ i * Giá trị sản phẩm hàng hoá GV (Goods Value) là phần giá trị sản phẩm nông nghiệp đem bán hoặc trao đổi trên thị trường. Công thức: ∑ = = n ni PiGV Xi Trong đó: GV: Giá trị sản phẩm hàng hoá Xi: Khối lượng sản phẩm thứ i Pi: Đơn giá sản phẩm thứ i * Chi phí trung gian (IC) là toàn bộ khoản chi phí vật chất (trừ khấu hao tài sản cố định) và dịch vụ sản xuất. * Giá trị gia tăng (VA) là giá trị sản phẩm và dịch vụ được tạo ra trong năm sau khi trừ chi phí trung gian VA = GO – IC * Thu nhập hỗn hợp (MI) là phần thu nhập thuần tuý của người sản xuất bao gồm cả phần công lao động và phần lợi nhuận. MI = VA – (A + T) – Giá trị lao động thuê ngoài (nếu có) Trong đó: (1) (3) (4) (2) 44 A: Khấu hao tài sản cố định T: Thuế các loại * Cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá là tỷ trọng giá trị từng loại nông sản hàng hoá trên tổng giá trị nông sản hàng hoá. * Tỷ suất nông sản hàng hoá (TSNSHH) là tỷ trọng giữa nông sản hàng hoá so với giá trị sản phẩm nông nghiệp được sản xuất ra trong kỳ. Tổng giá trị NSHH TSNSHH (%) = x 100 Tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp * Giá trị SPHH/1 ha đất canh tác là giá trị sản phẩm hàng hoá tính trên một đơn vị diện tích đất canh tác. * Giá trị SPHH/1 lao động nông nghiệp là giá trị sản phẩm hàng hoá tính cho một lao động nông nghiệp tạo ra trong một năm. * Tỷ suất lợi nhuận là lợi nhuận thu được trên một đồng chi phí Tổng lợi nhuận TLN = Tổng chi phí * Chỉ tiêu đánh giá mức độ ảnh hưởng của năng suất, diện tích và giá thành đến kết quả sản xuất một số cây trồng. 1.1.4.2. Chỉ tiêu về xã hội và chất lượng cuộc sống Tỷ lệ một số chỉ tiêu chủ yếu về giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học- công nghệ, thông tin/vạn dân. Chỉ tiêu về giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nông thôn. Tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội; tỷ lệ lao động qua đào tạo; hiệu quả sử dụng các nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Chỉ tiêu về đời sống kinh tế, văn hoá-xã hội nông thôn (thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ hộ giàu, nghèo). Tỷ lệ đô thị hoá nông thôn.Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) bao gồm các chỉ số về tuổi thọ, tri thức và thu nhập. 1.1.4.3. Chỉ tiêu môi trường Tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh; tỷ lệ độ che phủ đất rừng/diện tích đất lâm nghiệp. Chỉ tiêu về đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn theo quy chuẩn ( môi trường nước, không khí ). (5) (6) 45 Như vậy, hệ thống các chỉ tiêu trên được lựa chọn trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Nếu xét ở tầm vĩ mô, cho phép thấy rõ chúng ta đang đứng ở vị trí nào trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, còn cách xa đích bao nhiêu và để sớm đứng vào hàng ngũ những nước công nghiệp, hoặc là một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, hoặc cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nếu xem xét ở góc độ địa phương thì các chỉ tiêu trên là cơ sở đánh giá mức độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đến đâu và như thế nào? Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X của Đảng đặt ra mục tiêu: đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 17 (nhiệm kỳ 2006- 2010) xác định đến năm 2010 Bắc Ninh là tỉnh phát triển khá trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản là tỉnh công nghiệp, theo hướng hiện đại. Như vậy, những chỉ tiêu chủ yếu trên là cơ sở đánh giá kết quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh trong những giai đoạn tiếp theo, đồng thời là cơ sở đánh giá mức độ để đạt mục tiêu là tỉnh công nghiệp vào năm 2015. 1.2. MÔ HÌNH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ THỰC TIỄN CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG VÀO TỈNH BẮC NINH 1.2.1. Mô hình và kinh nghiệm của một số nước và vùng lãnh thổ Các nước và vùng lãnh thổ Châu Á, trong đó có Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan, Đài Loan đã thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn với những nội dung phong phú, bước đi linh hoạt và đem lại nhiều thành công. Sau đây luận án phân tích kinh nghiệm ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan 1.2.1.1. Trung Quốc, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh trong những năm cải cách và mở cửa. Trước hết, Trung Quốc đã thực hiện những cải cách kinh tế theo hướng tập trung khai thác thế mạnh của nền kinh tế nông nghiệp và nông dân trên cơ sở coi trọng vai trò kinh tế hộ. Nhờ đó kinh tế đã có sự đổi thay, tạo việc làm cho hơn 80 triệu lao động ở nông thôn (thời kỳ 1980 – 1989) và thu nhập của nông dân tăng bình quân từ 2% đến 3% một năm. 46 Thành công nổi bật trong cải cách kinh tế của Trung Quốc đó là, từ năm 1978 đến năm 1992, Trung Quốc đã thực hiện phương châm “Ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất nhập thành” để phát triển công nghiệp hương trấn. Bước đi của Trung Quốc là thận trọng từ thấp lên cao, không chạy theo phong trào, chủ nghĩa thành tích như thời kỳ “Công xã nhân dân” trước đó. Xí nghiệp hương trấn là hình thức mới, cao hơn của công nghiệp hoá nông thôn Trung Quốc. Kết quả về sản lượng của doanh nghiệp hương trấn giai đoạn 1978 – 1995 tăng trưởng ở mức 24,7%/năm, chiếm 56% sản lượng công nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho 130 triệu lao động, gấp 2 lần doanh nghiệp nhà nước. Năm 1996 cả nước có 23,36 triệu doanh nghiệp hương trấn, thu hút 130 triệu lao động (1997) nông thôn chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ với tổng giá trị 213 tỷ USD, chiếm 30% GDP cả nước, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% xuống dưới 50%. Sự phát triển của công nghiệp hương trấn đã đem lại hiệu quả góp phần quyết định thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn Trung Quốc. Đó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông, sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá, sử dụng được phần lớn lao động dư thừa của nông nghiệp ngay trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nông nghiệp truyền thống. Bước đi ban đầu của công nghiệp nông thôn Trung Quốc là tiểu thủ công nghiệp và chế biến nông sản, bước cao hơn là phát triển ở 5 ngành lớn: công nghiệp chế biến nông sản; công nghiệp dịch vụ; kiến trúc; giao thông vận tải và dịch vụ thương nghiệp với quy mô tương đối lớn. Từ năm 1986, chính phủ Trung Quốc đã đề ra chương trình “đốm lửa”. Thực chất, đó là bước thứ hai của công nghiệp hoá nông thôn với mục tiêu chủ yếu là chuyển giao công nghệ và khoa học, kỹ thuật tới những vùng nông thôn rộng lớn, kết hợp khoa học, kỹ thuật với kinh tế. Bốn nguyên tắc của chương trình “đốm lửa” là: hướng vào thị trường; vốn hoạt động tự góp cộng với vay ngân hàng; đường lối công nghệ là “quay vòng ngắn”; huy động mọi lực lượng khoa học, kỹ thuật từ tăng cường cho xí nghiệp hương trấn để giải quyết vấn đề chất lượng sản phẩm. Nhờ cách làm đúng đó, trong những năm 1995 – 2000 khoa học-công nghệ đã đóng góp 40,7% tổng sản phẩm nông nghiệp cả nước. Để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển, hiện 47 nay Trung Quốc chủ trương tập trung giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân (tam nông). 1.2.1.2. Đài Loan, bước đi của công nghiệp nông thôn Đài Loan lại bắt đầu từ phát triển nông nghiệp toàn diện. Từ năm 1983, thực

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA_Nguyen.Sy_NEU.pdf
Tài liệu liên quan