Đề tài Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng nó trong phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyến sang kinh tế thị trường ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng nó trong phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyến sang kinh tế thị trường ở Việt Nam: lời Mở đầu Mâu thuẫn luôn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật có thể có nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành ... Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, nền kinh tế đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn, bởi bên cạnh những ưu điểm, kinh tế thị trường luôn chứa đựng những mặt tiêu cực mang tính nội tại kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Giải quyết được những mâu thuẫn ấy chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế một cách vững c...

doc27 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1092 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng nó trong phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyến sang kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời Mở đầu Mâu thuẫn luôn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật có thể có nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập, mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành ... Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, nền kinh tế đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn, bởi bên cạnh những ưu điểm, kinh tế thị trường luôn chứa đựng những mặt tiêu cực mang tính nội tại kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Giải quyết được những mâu thuẫn ấy chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế một cách vững chắc và ổn định theo đúng những định hướng đã đặt ra. Vì vậy, trong phạm vi của một bài tiểu luận, tôi chọn đề tài: “ Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng nó trong phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyến sang kinh tế thị trường ở Việt Nam”, với mong muốn có thể có được một cái nhìn đúng đắn hơn về nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới. Phạm vi của đề tài là rất rộng, do thời gian có hạn nên trong tiểu luận này chỉ xem xét đánh giá một vài mâu thuẫn tiêu biểu . - Mâu thuẫn giữa đổi mới về kinh tế và ổn định chính trị. - Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. - Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị trường ở Việt Nam. - Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường với xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nội dung I . Lý luận chung về mâu thuẫn Ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán thiên tài về sự tác động qua lại của các mặt đối lập và xem xét sự tác động qua lại đó là cơ sở vận động của thế giới. Nhiều đại biểu triết học cổ đại Phương Đông đã xem vận động do sự hình thành những đối lập và các đối lập ấy cũng luôn vận động. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêracơlit- người được Lênin coi là ông tổ của phép biện chứng cho rằng trong sự vận động biện chứng vĩnh viễn của mình, các sự vật đều có khuynh hướng chuyển sang các mặt đối lập... Tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển của phép biện chứng trước Mácxít là trong học thuyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức, tiêu biểu là I.Cantơ và G.V.Hêghen. Các antinômi của Cantơ xuất hiện trên cơ sở vượt quá trình độ nhận thức có tính chất kinh nghiệm khi Cantơ xem các mặt đối lập là những đối lập về chất. Song do không giải quyết được vấn đề các antinômi, Cantơ đã đi tới từ bỏ việc thừa nhận các mâu thuẫn khách quan. Ông xem sự tồn tại của mâu thuẫn là bằng chứng nói lên tính bất lực của con người trong việc nhận thức thế giới. Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động và phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất (quan điểm này cho rằng đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt về mâu thuẫn). Theo ông, đó là sự đồng nhất trừu tượng, trống rỗng, không bao hàm một nhân tố chân lý nào. Ông quan niệm bất kỳ sự đồng nhất nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn. Ông là người sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động và phát triển: “Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt động. Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó. Song do bị chi phối bởi quan niệm duy tâm và lợi ích giai cấp Hêghen đã đẩy việc giải quyết mâu thuẫn không thể điều hoà được trong “xã hội công dân” vào lĩnh vực tư tưởng thuần tuý. Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu tư tưởng về mâu thuẫn, bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã cho rằng chúng ta phải tìm xung lực vận động và sự phát triển của sự vật trong chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý luận đó được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập -Quy luật mâu thuẫn - đây là hạt nhân của phép biện chứng. 1- Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến: Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau ... Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm “mặt đối lập” là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Do đó cần phải phân biệt rằng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập mà trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc động lực, đồng thời qui định các bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật thì hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn mang tính khách quan vì là cái vốn có trong các sự vật, hiện tượng và tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy nên có tính phổ biến. Chính vì vậy mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật hiện tượng và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau và trong bản thân mỗi sự vật hiện tượng cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, vai trò tác động lẫn nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy cần phải có phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể. 2- Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau: Sự thống nhất của các mặt đối lập Hai mặt đối lập trong sự vật tồn tại trong sự thống nhất của chúng. “Sự thống nhất” của các mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà là “nương tựa” vào nhau, tạo ra sự phù hợp, cân bằng như liên hệ phụ thuộc, qui định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên. * Ví dụ: Quan hệ lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất: khi lực lượng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển, hai hình thức này chính là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của phương thức sản xuất. Nhưng quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau: - Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. - Thứ hai: Đó phải là một khái niệm “động” phản ánh được trạng thái biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. - Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý nghĩa nhận thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất được coi là thoả đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ dẫn cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất. Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất” với nhau. Với ý nghĩa đó, sự thống nhất của các mặt đối lập còn bao hàm sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do đó sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hoá sang mặt đối lập kia- khi xét về một vài đặc trưng nào đó. Ví dụ: Sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích giai cấp tư sản nhưng lại tạo tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập. Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối. Bản thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại với nhau, “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản. Không thể hiểu đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là sự thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đó. Sự thủ tiêu chỉ là một trong những hình thức đấu tranh của các mặt đối lập. Tính đa dạng của hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập tuỳ thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như mối quan quan hệ qua lại giữa chúng, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, phụ thuộc vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập. Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của vật. Sự đấu tranh của mối quan hệ gẵn bó với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Lênin viết: “Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa nó chính là nó nhờ có sự thống nhất giữa các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tính tương đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất của các mặt đối lập là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tương đối. Sự đấu tranh của cac mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”. Mâu thuẫn biện chứng có quan hệ như thế nào với nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển? Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia ra làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển, thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành đối lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối lập sẽ chuyễn hoá lẫn nhau. Mâu thuẫn được giải quyết, sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn... Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao, chính vì vậy Mác viết: “Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt đối lập, sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới”. Nhấn mạnh hơn nữa tư tưởng ấy Lênin khẳng định “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập : Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Do đó , không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán vị đổi chỗ một cách đơn giản máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức: + Phương thức thứ 1: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới cao hơn về trình độ. + Phương thức thứ 2: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn. Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Tóm lại: Từ lý luận về mâu thuẫn cho ta thấy trong thế giới hiện thực bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi, sự vật mới hình thành, sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát triển. II- Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở việt nam 1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Nền kinh tế nước ta hiện nay, có thể nói, đang ở trong giai đoạn quá độ từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ đó chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan, nóng vội hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc sao chép nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào. 1.1 Một số đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử, nó nhằm tới mục tiêu cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay cũ đổi mới hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cả về kinh tế và chính trị – xã hội, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưỏng Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Như chúng ta đã biết, từ khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như là đặc trưng riêng biệt của CNXH, là cái đối lập với cơ chế thị trường của CNTB. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường – bước phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá là tất yếu. Bởi nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế tập trung không phải là thuộc tính cố hữu của một chế độ xã hội nào mà vấn đề là áp dụng vào thời điểm nào cho phù hợp. Nước ta đang trong giai đoạn quá độ nên việc phát triển nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan. Nước ta sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội (1991-2000) và 15 năm (1986-2000) tiến hành sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng: - GDP tăng hơn 2 lần so với năm 1990, tích luỹ nội bộ đạt 27%GDP, kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều, cơ cấu kinh tế có bước chuyển biến tích cực. Hiện nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế đã phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. - Đất nước đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội. Phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút được khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. - Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá không ngừng tiến bộ. - Quốc phòng và an ninh được giữ vững, tình hình chính trị- xã hội cơ bản ổn định Nhìn một cách tổng hợp, với những thành tựu đạt được trên đây sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 15 năm trước. Khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong những năm tới.... Đại hội IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khác với nền kinh tế thị trường tự do, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng có những đặc trưng chủ yếu sau: - Về mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: + Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. + Nâng cao đời sống nhân dân. + Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. - Về hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển, chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao với những bước đi vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quản xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. - Về quản lý: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý nhà nước , nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và của toàn thể nhân dân. - Về phân phối: + Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. + Theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh. + Thông qua phúc lợi xã hội. - Về mặt xã hội: + Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. + Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục đào tạo con người, xây dựng phát triển nhuồn nhân lực của đất nước, làm cho chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội Đảng IX Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn cuả Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII của Đảng đồng thời giúp Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định: cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá ddộ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. 1.2 Một số đặc điểm của kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học: Nền kinh tế nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy những đặc trưng của nó đã được trình bày ở trên là vấn đề có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc trưng đó chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý trí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc. Vậy từ phương diện triết học thì những đặc điểm của nền kinh tế quá độ của nước ta hiện nay là gì ? Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung-bao cấp, mọi chức năng kinh tế - xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất, lưu thông, phân phối... khá nặng nề. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, nền kinh tế vận động chậm chạp, kém năng động. Kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đến nay, theo đường lối đổi mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa và điều đó có nghĩa là, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta “điều chỉnh và bổ xung nhận thức, làm cho quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể; đường lối, chủ trương, chính sách ngày càng đồng bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất định, đã thể hiện khả năng của kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền kinh tế đất nước. Thành tựu những năm đổi mới ở nước ta vừa qua đã có tác dụng làm cho chúng ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Bước chuyển sang cơ chế thị trường này đương nhiên không tránh khỏi có những mặt tiêu cực của nó; nhưng dẫu sao nó cũng nói lên sức sống và khả năng tác động của các quan hệ thị trường. Về thực chất của bước chuyển này, một số người cho rằng: “ở Việt Nam, dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa được hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hoá ... ”. Sự đan xen chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh của một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính - bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường biến đổi theo nhiều chiều hướng khác nhau. Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết thuộc về sự đổi mới các quan hệ sở hữu. Nếu trước đây nền kinh tế chỉ tồn tại một kiểu sở hữu tương đối thuần khiết với hai thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể thì hiện nay cùng với sở hữu chủ đạo là sở hữu nhà nước còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhằm đáp ứng đòi hỏi đa dạng và năng động của nền kinh tế. Vai trò của Nhà nước và của kinh tế Nhà nước trong một nền kinh tế hướng tới thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất quan trọng. Nhà nước, ngoài việc trực tiếp phải quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế còn phải đóng vai trò là nhân vật trung gian giữa các vấn đề kinh tế và xã hội. Nhà nước với các chính sách luật lệ của mình, một mặt, có khả năng làm cho nền kinh tế đạt tới một sự tăng trưởng có hiệu quả, nhưng mặt khác cũng phải giải quyết các vấn đề do chính sự tăng trưởng kinh tế đó tạo ra. Trên thực tế, bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế còn quá cồng kềnh và kém hiệu quả, trùng lắp nhiều chức năng với nhiều nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà. Hầu hết các doanh nghiệp kinh tế Nhà nước đều hoạt động thiếu năng động và hiệu quả, quá ỷ lại vào Nhà nước, chưa thật tập trung vào những ngành, những lĩnh vực then chốt, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước, sức cạnh tranh còn thấp đã được Nghị quyết Hội nghị lần III- BCHTW Đảng lần IX nhận định . Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề nói trên dù ít, dù nhiều, cũng là các vấn đề của bản thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay, cơ chế quản lý đang ở giai đoạn hình thành nên thường là không đồng bộ, thiếu hụt. Chúng ta chưa thực sự tạo ra môi trường an toàn và ổn định cho sản xuất và kinh doanh. Tính không rõ ràng, thiếu xác định cả trên phương diện kinh tế - xã hội dường như đang là một cái gì đó rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Cần thiết phải lưu ý rằng, khác với cơ chế hành chính - bao cấp, cơ chế thị trường với các qui luật khách quan khó nắm bắt của mình, thường biểu hiện ra như là một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và nằm xa sự chi phối của con người. Thông thường trong thời kỳ quá độ yếu tố tự phát thể hiện vai trò của mình mạnh hơn yếu tố tự giác. Bởi vậy, trong nền kinh tế nước ta hiện nay, việc nắm được các yếu tố tự phát, tự giác của nền kinh tế, hiểu được phương thức hoặc tìm ra được phương pháp kiểm soát thích hợp đối với chúng ta đều hết sức có ý nghĩa. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội (1991-2000) và 15 năm (1986-2000) tiến hành sự nghiệp đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng: GDP tăng bình quân 7%/năm, văn hoá xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện: đến năm 2000 có 61 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, truyền hình phủ trên 85%, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt... Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với sự tiến bộ xã hội. Do vậy, trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh thì kinh tế thị trường nhất định phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. 2. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam. 2.1. Mâu thuẫn giữa đổi mới kinh tế và ổn định chính trị. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì kinh tế quyết định chính trị. “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của Đuyrinh cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F.Ăng-ghen đã khẳng định: “Bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế, trái lại, là mục đích” . Và trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” F.ăngen đã chỉ rõ: "Để thoả thuận những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”. Quyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực hiện được sự thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thực hiện thông qua đấu tranh chính trị. Theo F.ăngen “Bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề về giải phóng kinh tế". Để nhấn mạnh vai trò của chính trị , V.I Lênin đã khẳng định: “Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế". Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét, giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cùng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế- xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của kinh tế. V.I Lênin còn khẳng định: “Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất". Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện kiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt nam nói riêng. Có thể nói, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986) của Đảng Cộng sản Việt nam, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới. Khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề để đổi mới trong hiện thực. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách khỏi đổi mới trong thực tiễn. Bản thân đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn mà gắn liền với thực tiễn cuả công cuộc đổi mới. Chính vì vậy, tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu nhất để không ngừng đổi mới và phát triển tư duy. Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề, khi mà chúng ta giành được những thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do các nước đó đổi mới chính trị trước đổi mới kinh tế; còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này mới xem qua tưởng là chính xác, nhưng đi vào phân tích sẽ thấy nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn. Theo quan điểm các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin như đã trình bày ở trên thì mỗi khi chính trị không phù hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện tiên quyết để thay đổi về kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho nên không thể quy nguyên nhân thất bại trong đổi mới ở Liên Xô và Đông Âu là nguyên nhân thất bại. Nguyên nhân thực sự dẫn đến sự sụp đổ đó là do mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị không được phát hiện kịp thời và sớm khắc phục đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị làm mất vai trò của Đảng Cộng Sản. Khẳng định rằng ở nước ta đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau cũng không phù hợp với thực tiễn. Sự thật là phải có đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, luật pháp mới...thì mới có thể đổi mới kinh tế. Bản thân đường lối đổi mới của Đảng cùng với chính sách luật pháp...của nhà nước đều thuộc về chính trị. Vấn đề là ở chỗ: lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan đến quyền thống trị của giai cấp lãnh đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc đổi mới nên phải tiến hành từng bước và hết sức quan trọng. Đổi mới chính trị phải trên cơ sở đổi mới kinh tế, gắn liền với đổi mới kinh tế và đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( tháng 6 - 1991 ), Đảng ta đã khẳng định: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”. Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách rời đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng ta khẳng định rằng phải tập trung hết sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị nhưng phải thận trọng không gây mất ổn định chính trị. Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6- 1996) của Đảng. Khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới. Đảng đã khẳng định: "Phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị". Đây là một cách khái quát mới, hoàn toàn khoa học nó phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa phù hợp với công cuộc đổi mới ở nước ta. Đại hội Đảng lần IX tiếp tục khẳng định: “ Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”. Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn định chính trị giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như là một nghịch lý nhưng lại hoàn toàn có lý và khoa học. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của nhà nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. ổn định về chính trị lại không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới về chính trị không phải là đổi mới vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị lại phải gắn liền với đổi mới về kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng cường được vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN, và nhờ đó mới giữ vững được sự ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải là đổi mới một cách tuỳ tiện, mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đó chính là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang "nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm thực hiện mục tiêu chung: "Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Và đó cũng là cơ sở kinh tế cho sự ổn định về chính trị. Tóm lại : ổn định chính trị và đổi mới kinh tế là hai mặt đối lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn định được chính trị thì mới đổi mới kinh tế thành công, ngược lại, đổi mới kinh tế tốt là điều kiện để ổn định về chính trị. Hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế , trên nền tảng của đổi mới kinh tế. 2.2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, ở nước ta hiện nay vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học và chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũng không còn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển cần phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi sang kinh tế thị trường ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng , thể hiện rõ tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội . Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa học, trí tuệ là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được xây dựng và phát triển. Trước đây chúng ta đã tỏ ra thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ, khoa học, đến việc tạo lập cơ sở kinh tế, vật chất của CNXH, bằng chứng là một thời chúng ta đã không coi trọng đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học. Do thế hậu quả tất yếu đã xẩy ra là khoa học ở nước ta chậm hoặc ít có điều kiện môi trường phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu và càng không thể không nói đến công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đại hội Đảng lần IX đã khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh”. 2.3. Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trong cơ chế thị trường. Trước đây chúng ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là: sở hữu XHCN tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng CNXH và xây dựng CNXH quyết định. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Sở hữu tư nhân TBCN và sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân TBCN bằng cách tước đoạt hoặc "chuộc lại" để chuyển thẳng lên sở hữu toàn dân, còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hoá nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên, mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục, tổ chức họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai hình thức. Qua 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội và 15 năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần, đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể như quan niệm trước đây... - Sở hữu Nhà nước: Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ ở nước ta mà còn ở một số nước khác trong hệ thống XHCN thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà có một thời gian khá dài, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới sở hữu toàn dân, vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả. Hình thức sở hữu Nhà nước, xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nước ở nước ta, có lẽ chủ yếu thể hiện quyền sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Kinh tế nhà nước phải phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước phải giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ”. - Về sở hữu tập thể: ở nước ta trước đây hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (Gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp), mà các mà các xã viên là chủ sở hữu chính vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp, quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự "nhập nhằng" với quyền sở hữu Nhà nước và với sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát ra khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả. Hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội nhưng nó là hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển mạnh hơn hình thức sở hữu này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “Chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng phát triển”. Thực tiễn cho thấy ở nước ta hiện nayđã có nhiều hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Điều đó cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay. - Sở hữu tư nhân: Loại hình sở hữu này tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế Việt Nam và đã đóng một vai trò nhất định trong việc phát triển nền kinh tế thị trường. Sở hữu tư nhân tạo động lực cho phát triển sản xuất nhạy bén với nhu cầu thị trường. - Sở hữu hỗn hợp: Đây cũng là một sản phẩm của cơ chế thị trường, là sự kết hợp giữa sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể với sở hữu tư nhân. Các loại hình sở hữu trên cùng tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế, tác động lẫn nhau, chi phối lẫn nhau và tạo một động thái mới cho phát triển kinh tế, giúp cho quá trình phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn. Với việc chấp nhận sự tồn tại công bằng giữa các loại hình sở hữu, Đảng và Nhà nước đã kết hợp tài tình các điểm mạnh và điểm yếu do những loại hình sở hữu ấy đem lại, tạo động lực chung là phát triển nền kinh tế một cách toàn diện, ví dụ kết hợp tính nhạy bén, năng động của hình thức sở hữu tư nhân, tư bản nhà nước với tính ổn định, quy mô lớn, định hướng rõ ràng của các hình thức sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước. 2.4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp Cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH chúng ta phải bắt đầu từ con người lấy con người làm điểm xuất phát. Đại hội đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục- đào tạo là một động lực quan trọng trong thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường tức là thông qua việc mua- bán, trao đổi hàng hoá- tiền tệ, trong kinh tế thị trường các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển mở rộng và baoquát trên mọi lĩnh vực. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ, ô nhiễm môi trường. Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Việc xây dựng củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra các điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng phát triển con người cho thế kỷ XXI. Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn. Đây là những kết quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các qui luật xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên qui mô toàn xã hội. Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần đề cập: kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo ra điều kiện vật chất để xây dựng phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển hoàn toàn, toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt có tác phong nhanh nhẹn, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả từ đó nâng cao hoạt động thực tiễn của con ngươì góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ vẫn có của con người lao động trong nền kinh tế tập trung. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp để con người mở rộng các mối quan hệ, giao lưu, buôn bán từ đó hình thành các chuẩn mực văn hoá đạo đức mới theo tiêu chí thị trường như: chữ tín trong chất lượng , chữ tín trong giao dịch... Tuy nhiên cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng được kinh tế thị trường là những ưu điểm tự nó hình thành cho con người. Có những lúc, những nơi kinh tế thị trường lại làm con người tha hoá biến chất, làm con người trở thành nô lệ sùng bái đồng tiền, đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp lên nhân phẩm, văn hoá, đạo đức... là những căn bệnh trầm kha không dễ khắc phục trong nền kinh tế thị trường. Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, nhưng những hạn chế của kinh tế thị trường như chủ nghĩa thực dụng, chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý, nạn tham nhũng, buôn gian bán lận... tạo ra những độc tố huỷ hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản. Đối với nước ta mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định "Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng". Như vậy, Đảng ta vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng XHCN. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ phát huy được tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngừa, hạn chế khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá, giáo dục nhằm xoá bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thường các giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc như nội dung của Nghị quyết TW 5 đã nêu. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn đã nêu. Và Đại hội Đảng IX cũng khẳng định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gẵn bó với nhân dân” ./. Kết luận Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến , nó tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng. Nhưng ở các sự vật, hiện tượng khác nhau, ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi sự vật, hiện tượng ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu thành một sự vật sẽ có những mâu thuẫn khác nhau. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển dẫn đến sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới. Do đó trong hoạt động thực tiễn phân tích từng mặt độc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật hiện tượng để từ đó tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế. Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển. Việc xuất hiện những mâu thuẫn trong kinh tế phải được coi là một thực tế khách quan. Bởi vì việc giải quyết những mâu thuẫn ấy chính là động lực để chúng ta có thể phát huy được hết thế mạnh của mình, duy sự sự thống nhất và ổn định, nhằm mục tiêu chung là phát triển kinh tế, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc, vì một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh./. Mục lục Lời nói đầu Nội dung I- lý luận chung 1- Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến. 2- Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất , vừa đấu tranhvới nhau. II- Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở việt nam 1- Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.1- Một số đặc điểm chung của kinh tế thị trường ở Việt Nam. 1.2- Một số đặc điểm của kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học 2- Những mặt phát sinh trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam 2.1- Mâu thuẫn giữa đổi mới kinh tế và ổn định chính trị. 2.2- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 2.3- Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trong cơ chế thi trường. 2.4- Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Triết học tập 1,2,3 - Nhà Xuất bản Chính trị Quốc Gia năm 2001. Học Viện Chính trị quốc gia: Giáo trình Triết học Mác- LêNin - Nhà Xuất bản Chính trị Quốc Gia năm 2001. Văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX. Tạp chí Triết học số 1(101) tháng 2-1998. Tạp chí Triết học số 1(107) tháng 2-1999. Tạp chí Triết học số 1 tháng 3- 2001.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60406.DOC
Tài liệu liên quan