Tài liệu Đề tài Phẫu thuật nôi so Robot điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi trung ương: Kinh nghiệm của một trung tâm - Phạm Duy Hiền: PHẪU THUẬT NỘI SOI ROBOT ĐIỀU TRỊ
NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM TẠI
BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG:
KINH NGHIỆM CỦA MỘT TRUNG TÂM
Phạm Duy Hiền1, Vũ Mạnh Hoàn1, Trần Xuân Nam1,
Nguyễn Minh Huyền1, Nguyễn Thị Bích Liên1
1 Bệnh viện Nhi Trung ương
Chịu trách nhiệm chính: Phạm Duy Hiền. Email: duyhien1972@yahoo.com, duyhien1976@gmail.com
Ngày nhận bài: 6/12/2018; Ngày phản biện khoa học: 13/12/2018; Ngày duyệt bài: 15/2/2019
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Mục tiêu: Mô tả kỹ thuật và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi Robot cắt nang, nối ống
gan chung (OGC) với hỗng tràng kiểu ROUX-en-Y trong điều trị nang ống mật chủ (NOMC)
ở trẻ em.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu toàn bộ bệnh nhân được chẩn đoán
NOMC và được PTNS robot từ tháng 2/2013 tới tháng 10/2016
Kết quả: 42 bệnh nhân (31 nữ, 11 nam) trong nhóm nghiên cứu. Đường kính trung bình
của nang là 27,2mm. Tuổi trung bình khi mổ là 40,2 tháng (từ 5-108 tháng) và cân nặng
trung bình là 13,4 kg (từ 6,5 tới 29 kg). 20 bệnh n...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 30/06/2023 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phẫu thuật nôi so Robot điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi trung ương: Kinh nghiệm của một trung tâm - Phạm Duy Hiền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẪU THUẬT NỘI SOI ROBOT ĐIỀU TRỊ
NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM TẠI
BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG:
KINH NGHIỆM CỦA MỘT TRUNG TÂM
Phạm Duy Hiền1, Vũ Mạnh Hoàn1, Trần Xuân Nam1,
Nguyễn Minh Huyền1, Nguyễn Thị Bích Liên1
1 Bệnh viện Nhi Trung ương
Chịu trách nhiệm chính: Phạm Duy Hiền. Email: duyhien1972@yahoo.com, duyhien1976@gmail.com
Ngày nhận bài: 6/12/2018; Ngày phản biện khoa học: 13/12/2018; Ngày duyệt bài: 15/2/2019
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Mục tiêu: Mô tả kỹ thuật và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi Robot cắt nang, nối ống
gan chung (OGC) với hỗng tràng kiểu ROUX-en-Y trong điều trị nang ống mật chủ (NOMC)
ở trẻ em.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu toàn bộ bệnh nhân được chẩn đoán
NOMC và được PTNS robot từ tháng 2/2013 tới tháng 10/2016
Kết quả: 42 bệnh nhân (31 nữ, 11 nam) trong nhóm nghiên cứu. Đường kính trung bình
của nang là 27,2mm. Tuổi trung bình khi mổ là 40,2 tháng (từ 5-108 tháng) và cân nặng
trung bình là 13,4 kg (từ 6,5 tới 29 kg). 20 bệnh nhân (47,7 %) là NOMC typ I và toàn bộ
số còn lại là typ 4. Phẫu thuật được tiến hành với 5 trocar (4 dụng cụ robot, 1 dụng cụ của
người phụ). Quai Y được làm ngoài ổ bụng. Thời gian mổ từ 150 phút đến 330 phút trung
bình 192,7 phút. Không có trường hợp nào có biến chứng sau mổ như nhiễm trùng vết mổ, rò
mật hay rò tụy, áp xe tồn dư, tắc ruột sau mổ. Thời gian nằm viện trung bình 5,1 ngày. 42/42
bệnh nhân (100%) được theo dõi từ 2 tuần đến 40 tháng. Đặc biệt không có bệnh nhân nào
bị hẹp miệng nối, không trường hợp nào bị sỏi mật hoặc phải mổ lại, không trường hợp nào
bị viêm dạ dày hay loét hành tá tràng sau mổ.
Kết luận: phẫu thuật nội soi Robot cắt nang, nối OGC hỗng tràng theo kiểu Roux-en-Y
điều trị bệnh lý NOMC là một phương pháp mổ an toàn, hiệu quả. 100% bệnh nhân hài lòng
với kết quả phẫu thuật.
Từ khóa: Bệnh nang ống mật chủ, phẫu thuật kiểu Roux-en- Y, Todani
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 1 (2019) I 49
NGHIÊN CỨU
Abstract
ROBOT-ASSISTED COMPLETE EXCISION OF CHOLEDOCHAL CYST,
HEPATICOJEJUNOSTOMY AND EXTRACORPOREAL ROUX-EN-Y
ANASTOMOSIS: A SINGLE CENTER EXPERIENCE
Purpose: Although laparoscopic approach for the treatment of choledochal cyst in children
is possible, it is technically challeging. Our aim is to describe the surgical techniques and early
outcomes of robotic-assisted cyst excision and Roux-en-Y hepaticojejunostomy in pediatric
patients.
Materials and Methods: Retrospective reviewed all the patients of CC were performed by
robotic surgery from 2/2013- 10/2016.
Results: From February 2013 to October 2016, 42 patients (31 girls and 11 boys) were operated
using DaVinci Si surgical system. The mean diameter of the choledochal cyst was 27.2 mm. The
mean age was 40.2 months (range, 5-108 months) and the mean weight was 13.4 kg (range,
6.5-29 kg). 20 patients (47.7%) were classified as Type I and 22 patients (52.3%) were Type IV.
The operation was performed using five ports (four robotic ports and one accessory laparoscopic
port). The Roux loop was fashioned extracorporeally. The operating time ranged from 150 to 330
minutes (mean = 193 minutes). There were no early postoperative complications on conversion to
open surgery. Patient was discharged after a mean of 5.1 days (range, 4-7 days). Follow-up time
ranged from 2 weeks to 40 months. No cholangitis, cholelithiasis, duodenal ulceror anastomosis
stenosis was recorded.
Conclusion: Robotic surgery for the treatment of choledochal cyst in children is safe and
feasible.
Keywords: choledochal cyst, Roux-en- Y, Todani
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ nang ống mật
chủ (NOMC) và nối ống gan chung (OGC)
với hỗng tràng theo kiểu Roux-enY đã trở
thành kỹ thuật qui chuẩn trong điều trị
NOMC [1]. Trong khoảng hơn một thập kỉ
gần đây, với sự phát triển nhanh chóng của
công nghệ hiện đại, phẫu thuật nội soi đã
tỏ rõ sự ưu việt và dần thay thế phẫu thuật
qui ước trong hầu hết các phẫu thuật trong ổ
bụng nói chung và phẫu thuật điều trị NOMC
nói riêng. Phẫu thuật nội soi (PTNS) Robot ra
đời đã làm tăng khả năng của phẫu thuật viên,
làm giảm độ khó cũng như các biến chứng
trong phẫu thuật nội soi vì nó giải quyết được
các nhược điểm trên của phẫu thuật nội soi.
Năm 2001 PTNS Robot tạo van chống luồng
trào ngược dạ dày thực quản theo kiểu Nissen
cho một bệnh nhi được thực hiện thành công
bởi Meininger và cộng sự. Đây được coi là ca
PTNS robot đầu tiên trên bệnh nhân nhi [2].
Hiện nay nhiều loại bệnh lý ở trẻ em đã được
tiến hành thành công như phẫu thuật điều trị
nang ống mật chủ, phình đại tràng bẩm sinh,
50 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 1 (2019)
PHẪU THUẬT NỘI SOI ROBOT ĐIỀU TRỊ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM TẠI
Bệnh viện Nhi Trung ương: KINH NGHIỆM CỦA MỘT TRUNG TÂM
thận ứ nước, cắt các khối u ổ bụng và trong
lồng ngực [3].
Tại Việt Nam, việc sử dụng Robot phẫu
thuật da Vinci mang đến cho phẫu thuật viên
nhiều thuận lợi như hình ảnh 3D với camera
được điều chỉnh bởi phẫu thuật viên, giảm độ
run tay và đặc biệt là dụng cụ nội soi có khớp
quay được 540 độ giúp cho việc thao tác như
phẫu tích, cắt nối rất chính xác. Ở Bệnh viện
Nhi Trung ương, phẫu thuật theo kiểu Roux-
enY được áp dụng điều trị cho bệnh nhân
NOMC từ năm 2013 đến hiện nay. Nghiên
cứu này được tiến hành với mục tiêu :
1) Mô tả kỹ thuật của phẫu thuật nội soi
Robot cắt nang, nối OGC với hỗng tràng kiểu
ROUX-en-Y trong điều trị NOMC ở trẻ em.
2) Đánh giá kết quả ban đầu của phẫu
thuật nội soi Robot cắt nang, nối OGC với
hỗng tràng kiểu ROUX-en-Y trong điều trị
NOMC ở trẻ em.
II ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2. 1. Đối tượng
Bao gồm toàn bộ các bệnh nhân được chẩn
đoán là NOMC typ I và IV (dựa vào triệu
chứng lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh: trên
siêu âm và MRI ổ bụng đo kích thước ống mật
chủ > 10mm, phân loại 5 typ theo Todani),
cân nặng > 6kg, không có các biến chứng của
NOMC như thủng, viêm tụy cấp, viêm mật
cấp và được phẫu thuật nội soi Robot cắt nang,
nối OGC với hỗng tràng kiểu ROUX-en-Y
tại khoa Ngoại Bệnh viện Nhi Trung ương từ
tháng 2/2013 tới tháng 10/2016.
Loại trừ các bệnh nhân có rối loạn đông
máu, bệnh nhân đang có các bệnh lý nội khoa
khác: viêm đường hô hấp, tiêu chảy.
2.2. Phương pháp
- Nghiên cứu mô tả tiến cứu. Thông tin
được lấy từ hồ sơ bệnh án, bộ câu hỏi phỏng
vấn bệnh nhân kiểm tra sau mổ.
- Nội dung phỏng vấn chính: tình trạng
bệnh nhân sau mổ: còn đau bụng, vàng da
vàng mắt, tình trạng vết mổ,..
- Ghi nhận các đặc điểm về tuổi, giới, cân
nặng. Tiền sử bệnh, thời gian xuất hiện triệu
chứng và các biện pháp điều trị trước phẫu
thuật Roux-en-Y.
* Kỹ thuật mổ
- Thì đặt trocar: Đặt 5 trocar. Bơm hơi CO2
với áp lực từ 10 – 12 mmHg (thấp hơn 10 lần
so với trị số huyết áp động mạch của bệnh
nhân).
- Thì nội soi (thì nối ruột ruột): dùng dụng
cụ nội soi như thông thường vào ổ bụng làm
quai Y như thường qui.
- Thì Robot (bao gồm thì docking, điều
khiển robot và nối mật ruột)
+ Thì docking: Lắp đặt các cánh tay robot
vào vị trí hoạt động
+ Điều khiển robot: Người mổ điều khiển
các cánh tay robot cắt NOMC theo một trong
các kĩ thuật: cắt nang ở giữa, mở thành trước
từ đầu hoặc cắt từ đáy.
+ Nối mật ruột: Sử dụng dụng cụ tiến hành
làm miệng nối mật ruột thông qua quai Y
+ Cắt túi mật, rửa ổ bụng và chỉ đặt dẫn
lưu dưới gan cho các trường hợp nang quá to,
khó khăn trong quá trình phẫu tích cắt nang
hoặc khâu nối ống gan chung với tá tràng
- Chăm sóc sau mổ: Nhịn ăn, nuôi dưỡng
tĩnh mạch 3 ngày tới khi nhu động ruột trở lại
bình thường. Bệnh nhân được ra viện sau 5
và 6 ngày khi ăn uống bình thường và không
có biến chứng gì xảy ra.
2.3. Xử lý số liệu: Tất cả các dữ liệu nghiên
cứu được tổng kết và xử lý theo thuật toán
thống kê y học của chương trình SPSS 22.0
2.4. Đạo đức nghiên cứu
Bệnh nhân được giải thích rõ về mục đích
của nghiên cứu, những lợi ích, rủi ro có thể
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 1 (2019) I 51
NGHIÊN CỨU
có và những đóng góp cho khoa học của
biện pháp điều trị. Bệnh nhân hoàn toàn tự
nguyện tham gia nghiên cứu và có ký cam kết,
có quyền rút khỏi nghiên cứu bất kỳ lúc nào.
III. KẾT QUẢ
Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân
nhỏ nhất là 5 tháng, lớn nhất là 108 tháng (9
tuổi), trung bình 40,2 ± 27,2 tháng. 42 bệnh
nhân bao gồm 31 trẻ gái, 11 trẻ trai, tỷ lệ nam/
nữ là 1:2,8. Cân nặng: Nhỏ nhất 6.5kg, lớn
nhất 29kg, trung bình 13,4 ± 4,3kg.
Phân loại: Nang thuộc Týp I (theo phân
loại của Todani): 20 bệnh nhân (47,7%).
Týp IV: 22 bệnh nhân (52,3 %). Kích thước:
Đường kính của nang: nhỏ nhất 9 mm, lớn
nhất 112 mm, trung bình 27,2 ± 18,6 mm.
* Kết quả điều trị
Tính chất phẫu thuật: Không có trường
hợp nào chuyển mổ mở.
Bảng 1. Thời gian mổ (Tính bằng phút)
Thời gian mổ Ngắn nhất Dài nhất Trung bình
Tổng thời gian mổ 150 330 192,7 ± 46,5
Thời gian Docking 10 30 16,3 ± 5,5
Thời gian điều khiển Robot 60 235 110,5 ± 40
Thời gian nối ruột ruột 40 90 52,4 ± 12
Thời gian nối mật ruột 20 80 40,4± 14,8
Thời gian mổ ngắn nhất là 150 phút, dài nhất là 330 phút. Trung bình 209,4 ± 4,7 phút.
Bảng 2. Kỹ thuật cắt nang
Kỹ thuật cắt nang Số lượng (n = 42) Tỷ lệ %
Cắt nang ở giữa 20 47,6
Mở thành trước từ đầu 16 38,1
Cắt từ đáy 6 14,3
Tổng 42 100
Phần lớn các trường hợp được cắt nang bằng cách cắt nang ở giữa (47,6%) tiếp theo là cắt
nang bằng cách mở thành trước từ đầu.
Bảng 3. Biến chứng sau mổ
Biến chứng sau mổ Số lượng (n = 42) Tỷ lệ (%)
Tử vong sau mổ 0 0
Rò mật 0 0
Nhiễm trùng đường mật 0 0
Thoát vị mạc nối lớn 0 0
Nôn 7 16,7
52 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 1 (2019)
PHẪU THUẬT NỘI SOI ROBOT ĐIỀU TRỊ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM TẠI
Bệnh viện Nhi Trung ương: KINH NGHIỆM CỦA MỘT TRUNG TÂM
Biến chứng sau mổ Số lượng (n = 42) Tỷ lệ (%)
Sốt 5 11,9
Rò tụy 0 0
Áp xe tồn dư sau mổ 0 0
Xoắn quai Y trong mổ 0 0
Nôn và sốt là 2 biến chứng gặp phải sau mổ. Không ghi nhận các trường hợp có biến chứng
khác như tử vong, nhiễm trùng và áp xe.
Bảng 4. Theo dõi sau mổ
Biến chứng Số lượng(n=42) Tỷ lệ (%)
Đau bụng đơn thuần 1 2,4
Sốt 2 4,9
Đau bụng + sốt 1 2,4
Đau bụng+sốt+vàng da (nhiễm trùng đường mật
ngược dòng) 0 0
Viêm dạ dày trào ngược 0 0,0
Hẹp miệng nối 0 0
Sỏi mật 0 0
Mổ lại 0 0,0
Bệnh nhân được theo dõi xa sau mổ, các biến chứng hay gặp nhất là đau bụng, sốt. Theo dõi
sau mổ từ 0,5-40 tháng trung bình là 14,7 ± 7,8 tháng.
Ăn đường miệng bắt đầu từ ngày thứ 3 sau mổ ở tất cả các bệnh nhân.Thời gian nằm viện:
Thời gian nằm viện ngắn nhất là 4 ngày, dài nhất là 7 ngày, trung bình 5,1 ± 1 ngày.Thông tin
sau mổ: Số bệnh nhân có thông tin sau mổ: 42/42 (100%)
IV. BÀN LUẬN
Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ NOMC và nối
ống gan chung với hỗng tràng theo kiểu
Roux-en-Y đã trở thành kỹ thuật qui chuẩn
trong điều trị NOMC [2].PTNS Robot ra đời
đã làm tăng khả năng của phẫu thuật viên, làm
giảm độ khó cũng như các biến chứng trong
phẫu thuật nội soi vì nó giải quyết được các
nhược điểm trên của phẫu thuật nội soi [2].
Hiện nay nhiều loại bệnh lý ở trẻ em đã được
tiến hành thành công như phẫu thuật điều trị
nang ống mật chủ, phình đại tràng bẩm sinh,
thận ứ nước, cắt các khối u ổ bụng và trong
lồng ngực [3]. Cắt nang hoàn toàn bằng nội
soi Robot được thực hiện ở toàn bộ số bệnh
nhân của chúng tôi, tuy nhiên 42 bệnh nhi
đầu tiên này đều được chọn lựa kỹ với tuổi
trung bình là 40,2 tháng, cân nặng trung bình
là 13,4 kg và kích thước đường kính nang
trung bình là 27,2 mm. Trong nghiên cứu
của chúng tôi không có trường hợp nào phải
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 1 (2019) I 53
NGHIÊN CỨU
chuyển mổ mở, tỉ lệ chuyển mổ mở của các
tác giả khác dao động từ 5 đến 15% [4].
PTNS Robot điều trị bệnh lý NOMC là
một phẫu thuật an toàn, không có trường
hợp nào tử vong sau mổ. Biến chứng trong
mổ hầu như không có, không bệnh nhân
nào phải truyền máu trong mổ. Chảy máu
trong thì cắt nang do tổn thương động mạch
gan hay tĩnh mạch cửa là biến chứng đáng
quan ngại nhất trong phẫu thuật nang ống
mật chủ, ngay cả với mổ mở [5], trong số 42
trường hợp được phẫu thuật nội soi Robot tại
Bệnh viện Nhi Trung ương không có trường
hợp nào gặp phải tai biến này. Việc dùng mổ
nội soi Robot với đầu camera thông minh,
góc phẫu thuật rộng 540 độ (trên hình ảnh
3D). Với góc phẫu thuật này, không cánh tay
người nào có thể thực hiện được, nhờ đó
nó có khả năng phẫu thuật ở những vị trí
khó. Không như phẫu thuật nội soi quy ước,
robot có thể di chuyển tự do ở 6 góc độ và
vận động tinh vi như hoặc hơn cổ tay của
phẫu thuật viên [5].
Thời gian PTNS Robot so với các tác giả
khác trên thế giới, thời gian mổ của chúng tôi
ngắn hơn đáng kể, hơn nữa chúng tôi không
gặp phải biến chứng nào trong và sau mổ.
Khác với kỹ thuật cắt nang trong phẫu
thuật nội soi đơn thuần là phẫu tích nang ra
khỏi tĩnh mạch cửa và động mạch gan rồi
mới cắt đôi nang ở giữa chia nang thành hai
nửa trên và dưới. Chúng tôi chủ trương cắt
đôi nang dần từ mặt trước đến mặt sau ở vị
trí bên dưới ống cổ túi mật đồng thời phẫu
tích tách nang ra khỏi tĩnh mạch cửa và động
mạch gan. Có tới 38,1% số các trường hợp
được thực hiện theo phương pháp này trong
nghiên cứu. Trường hợp nang quá to hoặc quá
viêm dính thì có thể phẫu tích từ đáy nang lên
(cặp cắt đáy nang trước) sau đó phẫu tích dần
lên OGC. Chúng tôi không gặp trường hợp
nào bị tổn thương ống gan mà phải tạo hình
lại trước khi tiến hành miệng nối mật ruột.
Kinh nghiệm rút ra là nên cắt đôi nang ở bên
dưới ống cổ túi mật trước, sau đó tìm ống gan
chung từ trong lòng nang, cắt bỏ cực trên của
nang ngay sát bên dưới lỗ ống gan chung này.
Biến chứng này cũng gặp ở các tác giả khác
[6].
Rò tuỵ là một biến chứng có thể gặp khi
quá trình phẫu tích phần dưới của nang, có
thể làm tổn thương một số ống tuỵ nhỏ. Theo
chúng tôi, thì phẫu tích này người phụ mổ
dùng pince 5mm vuông kéo tá tràng xuống
dưới, panh cardiere lắp ở cánh tay số 3 của
Robot giúp cặp và nâng nang ống mật chủ lên
trong khi panh marryland ở cánh tay số hai
và móc đốt đơn cực ở cánh tay số một thao
tác rất thuận lợi.
Nối ống gan chung với ruột bằng phẫu
thuật nội soi luôn là thách thức rất lớn với
Bảng 4. Theo dõi sau mổ
Năm T/g mổ(phút) T/g Robot(phút) Biến chứng
Woo et al [6] 2006 440 390 Không
Meehan JJ et al [8] 2007 445 408 Không
Chang EY et al [4] 2011 570 324 Rò mật
Chúng tôi 2016 192 110 Không
54 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 1 (2019)
các phẫu thuật viên, ở một số trung tâm
phải mở nhỏ bụng ở dưới sườn để thực
hiện miệng nối này. Với PTNS Robot nhờ
có camera phóng đại 12 lần, do phẫu thuật
viên tự điều chỉnh, dụng cụ phẫu thuật nội
soi có khớp quay được 540 độ và đặc biệt là
các cử động của PTV thuận chiều, hai tay
hoạt động như một nên việc khâu nối với
PTNS Robot trở nên rất dễ dàng, thuận lợi,
không có biến chứng (bảng 3). Số liệu mổ
mở trước đây của chúng tôi nghiên cứu 154
trường hợp cắt nang và nối Roux-en-Y có
tới 11 trường hợp rò mật (7,1%) trong đó 6
trường hợp phải mổ lại và một trường hợp
tử vong sau mổ [1].
Hẹp miệng nối mật ruột cũng là biến
chứng thường gặp trong phẫu thuật mổ mở
cắt nang, nối OGC hỗng tràng. Tác giả Kim
thông báo có tới 8 bệnh nhân bị hẹp miệng
nối trong số 34 bệnh nhân (24%) [7]. Trong
số bệnh nhân chúng tôi đã phẫu thuật chưa
có trường hợp nào xuất hiện hẹp miệng nối.
Nhiễm trùng đường mật ngược dòng là
một trong số các biến chứng sau mổ hay gặp
nhất trong phẫu thuật NOMC mà nguyên
nhân có thể do hẹp miệng nối, do sỏi trong
gan, do luồng trào ngược từ ruột lên đường
mật, do giun chui lên đường mật tuy nhiên
qua thời gian theo dõi trung bình 14,7 tháng
với 42/42 bệnh nhi được theo dõi sau mổ,
chưa có bệnh nhi nào (bảng 4) xuất hiện biến
chứng này, đây thực sự là một ưu việt của
PTNS Robot cắt nang, nối OGC hỗng tràng
theo kiểu Roux-en-Y so với phẫu thuật mổ
mở trước đây.
Các nhược điểm của PTNS Robot trong
điều trị U nang ống mật chủ cũng chính là
nhược điểm của PTNS Robot nói chung. Thứ
nhất là dụng cụ còn to cho trẻ em, hơn nữa
chiều dài của dụng cụ chưa thực sự phù hợp
cho các bệnh nhi, nhất là sơ sinh.Thứ hai là
giá thành đắt: Vì máy và các dụng cụ đi kèm
rất đắt với chi phí cho một ca mổ ở các nước
từ 15-30 nghìn đô la. Ở Bệnh viện Nhi Trung
ương tính ra cũng trên 100 triệu cho một ca
mổ. Cuối cùng là cảm nhận mắt tay hạn chế:
Vì khi phẫu tích, khâu nối, cầm giữ tổ chức là
hành động ảo nên phẫu thuật viên không cảm
nhận được sức căng ở tay giống như trong
phẫu thuật nội soi [3].
V. KẾT LUẬN
Phẫu thuật nội soi Robot cắt nang, nối
OGC hỗng tràng theo kiểu Roux-en-Y điều
trị bệnh lý NOMC ở trẻ em là một phương
pháp an toàn, hiệu quả và có tính khả thi ở
các trung tâm ngoại nhi lớn với trang thiết bị
hiện đại và đội ngũ phẫu thuật viên giàu kinh
nghiệm. Tuy nhiên giá thành còn cao ở thời
điểm hiện tại.
PHẪU THUẬT NỘI SOI ROBOT ĐIỀU TRỊ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM TẠI
Bệnh viện Nhi Trung ương: KINH NGHIỆM CỦA MỘT TRUNG TÂM
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 1 (2019) I 55
NGHIÊN CỨU
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Thanh Liêm, Phạm Duy Hiền, và Nguyễn Đức Thọ (2005). Kết quả điều
trị 154 trường hợp u nang ống mật chủ bằng kỹ thuật cắt nang và nối mật ruột kiểu
Roux-en-Y. Y học thực hành, 506, 42–45.
2. Meininger D.D, Byhahn C, Heller K. (2001). Totally endoscopic Nissen fundoplication
with a robotic system in a child. Surg Endosc.
3. Ohi R, Yaoita S, và Kamiyama T (1995). Pediatric laparoscopic dismembered
pyeloplasty. J Urol, 153.
4. Chang E.Y, Hong Y.J, Chang H.K. et al. (2012). Lessons and tips from the experience
of pediatric robotic choledochal cyst resection. J Laparoendosc Adv Surg Tech A,
609–614.
5. Ohi R, Yaoita S, Kamiyama T. (1990). Surgical treatment of congenital dilatation
of the bile duct with special reference to late complications after total excisional
operation. J Pediatr Surg, 613–617.
6. Hong L., Wu Y., Yan Z. et al (2008). Laparoscopic surgery for choledochal cyst in
children: a case review of 31 patients. Eur J Pediatr Surg, 67–71.
7. Jang JY, Kim SW, và Han HS (2006) Total laparoscopic management of choledochal
cyst using a four hole method. Surg Endosc. 1762–1765.
8. Eliott S. Meehan J.J., Sandler A (2007), The robotic approach to complex
hepaticobiliary anoma
56 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 1 (2019)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_phau_thuat_noi_so_robot_dieu_tri_nang_ong_mat_chu_o_t.pdf