Tài liệu Đề tài Phát triển thị trường tín dụng nông thôn, vai trò và gợi ý chính sách: LỜI MỞ ĐẦU.
Sau khi Việt Nam gia nhập vào WTO thì nền kinh tế Việt Nam đã có sự biến chuyển mạnh, lượng vốn đầu tư từ nước ngoài và khu vực chính phủ đưa vào nền kinh tế tăng nhanh, thị trường cũng sôi động và khó khăn hơn trước rất nhiều, khu vực nông nghiệp nông thôn của nước ta cũng không thể tránh khỏi những tác động đó. Thế nhưng khu vực nông nghiệp nông thôn, nơi tập trung những lợi thế hiện nay của nước ta và cũng là nơi mà khả năng chống đỡ các tác động từ bên ngoài rất yếu, nơi tập trung tới gần 70% dân số cả nước lại có mức tăng trưởng yếu kém, khả năng cạnh tranh không cao và quan trọng là chưa phát huy được lợi thế của mình so với nước ngoài. Bên cạnh những lý do về quy hoạch, quản lý, kỹ thuật… thì vốn cũng là một yếu tố quan trọng để khu vực nông nghiệp nông thôn có thể chuyển đổi thành cơ chế hàng hóa thị trường, phát huy được lợi thế của mình. Thế nhưng nguồn vốn đầu tư cho khu vực này lại chưa tương xứng với khả năng của nó, tỷ trọng vốn đưa vào khu vực này có khi cò...
28 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1100 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phát triển thị trường tín dụng nông thôn, vai trò và gợi ý chính sách, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU.
Sau khi Việt Nam gia nhập vào WTO thì nền kinh tế Việt Nam đã có sự biến chuyển mạnh, lượng vốn đầu tư từ nước ngoài và khu vực chính phủ đưa vào nền kinh tế tăng nhanh, thị trường cũng sôi động và khó khăn hơn trước rất nhiều, khu vực nông nghiệp nông thôn của nước ta cũng không thể tránh khỏi những tác động đó. Thế nhưng khu vực nông nghiệp nông thôn, nơi tập trung những lợi thế hiện nay của nước ta và cũng là nơi mà khả năng chống đỡ các tác động từ bên ngoài rất yếu, nơi tập trung tới gần 70% dân số cả nước lại có mức tăng trưởng yếu kém, khả năng cạnh tranh không cao và quan trọng là chưa phát huy được lợi thế của mình so với nước ngoài. Bên cạnh những lý do về quy hoạch, quản lý, kỹ thuật… thì vốn cũng là một yếu tố quan trọng để khu vực nông nghiệp nông thôn có thể chuyển đổi thành cơ chế hàng hóa thị trường, phát huy được lợi thế của mình. Thế nhưng nguồn vốn đầu tư cho khu vực này lại chưa tương xứng với khả năng của nó, tỷ trọng vốn đưa vào khu vực này có khi còn giảm tương đối so với các khu vực khác. Vậy làm thế nào để khu vực kinh tế nông thôn có đủ sức mạnh để chống đỡ các rủi ro bên ngoài, và phát huy đươc thực lực của mình với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Do đó nhóm đã chọn đề tài “ Phát triển thị trường tín dụng nông thôn, vai trò và gợi ý chính sách” qua đó cho thấy được sự quạn trong của vốn tới sự phát triển kinh tế khu vực nông thôn và bức tranh thị trường vốn khu vực này.
NỘI DUNG CHÍNH
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Lý thuyết ảnh hưởng của vốn sản xuất với tăng trưởng kinh tế
1.1. Mô hình Harrod-Domar (1940)
a. Luận điểm cơ bản
Harrod-Domar tranh luận rằng: nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế chính là lượng vốn sản xuât tăng thêm có được từ đầu tư và tiết kiệm của quốc gia.
Mô hình này cho rằng đầu ra (Y) của bất kỳ đơn vị kinh tế nào hoặc toàn bộ nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào tổng số vốn sản xuất (K), (K: quy mô vốn sản xuất hoặc vốn dự trữ hoặc lượng tư bản).
Sự thay đổi của quy mô vốn sản xuất (∆K) sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi tổng sản lượng quốc gia hoặc đầu ra (∆Y). Mối quan hệ tỉ lệ giữa sự thay đổi vốn và đầu ra được gọi là ICOR ( ICOR= (∆K/∆Y))
Có được vốn sản xuất tăng thêm là do thực hiện các hoạt động đầu tư. Nói cách khác đầu tư chính là cơ sở để gia tăng vốn sản xuất.
Vốn đầu tư quốc gia có nguồn gốc từ tiết kiệm. Tiết kiệm là phần dành lại từ đầu ra hoặc tổng sản lượng quốc gia. Như vậy, tăng trưởng GDP có quan hệ thuận với tỉ lệ tiết kiệm và quan hệ nghịch với ICOR.
b. Ứng dụng trong hoach định chính sách
Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng cần tăng tiết kiệm để gia tăng đầu tư. Nhưng nếu GDP/người thấp thì khó mà nâng cao tỉ lệ tiết kiệm. Đây là trở ngại của nhiều quốc gia có thu nhập thấp. Hướng khắc phục chính là thu hút thêm nguồn đầu tư nước ngoài.
Công thức tăng trưởng cho thấy để đẩy nhanh tăng trưởng cần giảm hệ số ICOR, nhưng việc này thường khó khăn cho các nước đang phát triển vì xu hướng ICOR ngày càng tăng theo giai đoạn phát triển kinh tế ngày càng cao. Lý do ICOR ngày càng tăng là năng suất biên của vốn sản xuất giảm dần.
Mô hình Harrod-Domar cũng ứng dụng vào trong khu vực nông nghiệp, tăng trưởng nông nghiệp phụ thuộc vào vốn đầu tư hàng năm tăng thêm cho khu vực nông nghiệp. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cho nông nghiệp cần quan tâm đến tăng đầu tư hơn nữa.
1.2 David Ricardo (1772-1823) và Lewis (1955)
Lợi nhuận của nhà sản xuất nông nghiệp, công nghiệp là nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư vào sản xuât, mở rộng quy mô vốn sản xuất sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Do đó chính sách khuyến khích người sản xuất mở rộng đầu tư vào sản xuất nông nghiệp là cần thiết nhằm đẩy nhanh tăng trưởng nông nghiệp.
1.3 Park S.S (1992)
Đối với một quốc gia, tổng số vốn vật chất tích lũy qua thời gian, được gọi là tài sản quốc gia (TSQG). TSQG bao gồm: công xưởng, nhà máy (1); trụ sở cơ quan của các đơn vị sản xuất- kinh doanh (2); máy móc thiết bị, phương tiện vận tải (3); Cơ sở hạ tầng (4); tồn kho của tất cả hang hóa (5); các công trinhg công cộng (6); các công trình kiến trúc quốc gia (7); nhà ở (8); các căn cứ quân sự và phương tiện quốc phòng (9). TSQG được chia thành 2 nhóm: bộ phận của TSQG được dùng trực tiếp trong sản xuất, được gọi là TSQG sản xuất, bao gồm từ loại (1)-(5). Bộ phận sản TSQG không dùng trực tiếp vào quá trình sản xuất, được gọi là TSQG phi sản xuất, bao gồm( 6)-(9). Như vậy, vốn sản xuất là một bộ phận của TSQG.
Theo Park, quy mô vốn sản xuất quyết định quy mô sản lượng quốc gia. Đầu tư vào mở rộng vốn sản xuất chính là mở rộng quy mô GDP của nền kinh tế và như vậy thực hiện được tăng trưởng kinh tế. Trong khu vực nông nghiệp cũng tương tự, quy mô vốn sản xuất nông nghiệp quyết định quy mô sản lượng nông nghiệp (giả định các yếu tố khác không đổi).
2. Vai trò của tín dụng trong phát triển kinh tế
Tín dụng đóng vai trò là công cụ tài trợ đáp ứng các nhu cầu về vốn để duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh :
Tín dụng góp phần giúp cho doanh nghiệp có thể tạo nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh, quá trình sản xuất diễn ra liên tục không bị gián đoạn khi doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn.
Tín dụng là một trong những công cụ đáp ứng nhu cầu vốn một cách nhanh chóng và tiện lợi nhất, để phục vụ mục tiêu sản xuất kinh doanh của danh nghiệp mà không cần bỏ thờí gian trông chờ vào nguồn vốn tích lũy hoặc vốn tự có.
Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả :
Thông qua các chức năng tập trung và phân phối lại vốn trong nền kinh tế, thì lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội được tận dụng và xác định làm giảm khối lượng tiền, giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp phần ổn định tiền tệ.
Thông qua vốn tín dụng, doanh nghiệp có thể đạy được các mục tiêu sản xuất kinh doanh, làm đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng, nhờ vậy mà tín dụng góp phần ổn định giá cả thị trường.
Tín dụng thúc đẩy thị trường tài chính phát triển :
Thông qua hoạt động tín dụng cho ra đời các loại chứng từ có giá như kỳ phiếu thương mại, trái phiếu, công trái… làm đa dạng sản phẩm cho thị trường tài chính và việc mua bán các loại chứng từ này làm tăng doanh số giao dịch trên thị trường tài chính, làm cho thị trường tài chính ngay càng sôi động và hấp dẫn hơn.
Mặc khác, lãi suất trên thị trường sẽ điều tiết hoạt động trên thị trường. Do vậy, các nhà đầu tư và lĩnh vực đầu tư có lãi suất lớn hơn lãi suất tiền gửi, ngược lại người cần vốn có thể lựa chọn nguồn vốn với chi phí thấp nhất có thể.
Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội :
Khi tín dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sẽ làm tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc doanh làm đời sống của người dân được nâng cao. Bên cạnh đó, vốn tín dụng cung ứng đã tạo khả năng cho việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài nguyên thiên nhiên, về lao động, đất đai…nên có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để giải quyết công ăn việc làm.
Hoạt động tín dụng còn cung ứng vốn cho đại bộ phận dân cư để đáp ứng nhu cầu trong sinh hoat cuộc sống.
Ngoài ra, tín dụng còn có vai trò quan trọng để mở rộng phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại giao lưu quốc tế.
3. Các lý thuyết về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng
3.1 Các lý thuyết về lãi suất
Quan điểm của McKinnon và Shaw (1973) : Sự suy thoái tài chính là kết quả của việc áp dụng lãi suất thực âm vì ảnh hưởng của sự mất cân bằng cung cầu tín dụng.
Các nhà kinh tế học thuộc trường phái Ohio (Adams 1973, Gonzales – Vega 1982, Von Pichke 1978), cho rằng :
(1) Lãi suất thực thấp không phải là cách hiệu quả của việc phân phối lại thu nhập cho nông dân nghèo ở vùng nông thôn.
Lý do :
Không huy động được tiết kiệm dẫn đến suy thoái nguồn vốn cho vay.
Sự khống chế của chính sách lãi trần dẫn đến hạn chế khả năng sinh lời của các định chế.
Hệ quả :
Phân bổ lượng tiền cho vay theo đối tượng chọn lọc.
Nhằm giảm thiểu chi phí thu nhập thông tin đối với khách hàng nên các định chế tín dụng sẽ phải lựa chọn khách hàng vừa đảm bảo ít rủi ro và quy mô lượng tiền vay lớn. Hệ quả nông dân nghèo, sản xuất nhỏ bị loại ra và người hưởng lợi là nông dân giàu.
(2) Sự ngộ nhận của việc ứng dụngquan điểm Keyn “ Lãi suất thấp la cần thiết để khuyến khích đầu tư vào sản xuất ’’.
Trong thời kỳ những năm 30 ở Mỹ lãi suất thực rất cao, nên việc giảm lãi suất là cần dể khuyến khích mở rộng đầu tư. Nhưng hiện nay đối với các nước đang phát triển lạm phát rất cao nhưng áp dụng lãi suất danh nghĩa thấp rồi lãi suất thực âm không có nghĩa là khuyến khích đầu tư. Do đó, ngộ nhận ở chỗ: giảm lãi suất không có nghĩa là lãi suất thực âm.
(3) Lãi suất thực âm sẽ khuyến khích sự dịch chuyển chi phí giao dịch từ các định chế tín dụng nông thôn đến người mượn và ảnh hưởng đến phong cách phục vụ của các định chế.
Khi biết lãi suất thấp, âm trogn dạng thực, người nông dân sẽ tìm nguồn cho vay này. Do nguồn cho vay này khan hiếm và phân bố có chọn lọc nên họ sẽ sẵn sàng sử dụng chi phí tiêu cực và sẵn sàng chịu thêm các chi phí bao gồm hồ sơ giấy tờ, chi phí đi lại, chi phí cơ hội về thời gian phải làm thủ tục. Như vậy chi phí vay tiền không có nghĩa là trả lãi suất. Những điều đó đã dẫn đến tình trạng quan liêu và lạm dụng nguồn lực hạn chế này cho lợi ích cá nhân của cán bộ tín dụng.
Siebel (1992): Lãi suất được xem là đòn bẩy của việc huy động nguồn lực trong nước và cải cách tài chính. Nó được xem như đòn bẩy khi đáp ứng ba điều kiện :
Lãi suất phải dương trong dạng thực.
Cấu trúc lãi không bị đảo ngược.
Không có sự khác nhau về lãi suất.
Quan điểm của Yaron (1994), Hulme và Mosley (1996): chính sách tài chính quan trọng nhất của các ĐCTDNT là phải quan tâm đến quan hệ lãi suất thực – danh nghĩa đối với cho vay, và đã tìm thấy bằng chứng rằng tất cả các ĐCTDNT nổi tiếng về hoạt động thành công đều được áp dụng lãi suất thực dương đối với cho vay.
3.2 Các lý thuyết về huy động tiết kiệm
Quan điểm Adams (1973) : sự thất bại trong hoạt động tín dụng của các ĐCTDNT thuộc khu vực chính thức trong các nước đang pháp triển là quá trình nhấn mạnh vào cho vay với lãi suất thấp trong khi bỏ qua việc huy động tiết kiệm ở nông thôn.
Quan điểm Von Pischke (1978) :
Nông dân không gửi tiết kiệm vì thiếu dịch vụ huy động tiết kiệm tiện lợi ở nông thôn. Chẳng hạn như quá nhiều thủ tục, giấy tờ, khoảng cách xa, thủ tục rút tiền phức tạp chậm trễ…
Nhiều ĐCTDNT có tiến hành nâng cao lãi suất để huy động tiết kiệm nhưng cũng thất bại vì lãi suất danh nghĩa có tăng nhưng lãi suất thực âm.
Quan điểm Vogel (1984) : giải thích nguyên nhân của việc xem nhẹ huy động tiết kiệm là do nhận thức sai lầm cho rằng tiết kiệm không thể nào huy động được ở nông thôn vì người nông dân không có thặng dư so với tiêu dùng. Hơn nữa, nhận thức này cho rằng ngay cả lãi suất cao của tiết kiệm cũng không thể thu hút được tiền gửi tiết kiệm của nông dân.
3.3 Các lý thuyết về cấu trúc tổ chức (Organizational Structure) :
Quan điểm Desai và Mellor (1993) : Một cấu trúc tổ chúc thích hợp nên tiến hành như sau :
Đa dạng hóa loại hình sở hữu đối với hệ thống ĐCTDNT. Hệ thống nên bao gồm các loại hình sở hữu khác gồm ngân hàng nhà nước, ngân hàng tư nhân, hợp tác xã, ngân hàng cổ phần, đươc tiến hành có mục đích :
Nhiều cạnh tranh và có lợi cho nông nhân hơn vì một hệ thống duy nhất với một loại hình sở hữu sẽ dẫn tới độc quyền và không có nổ lực đáp ứng yêu cầu khách hàng.
Tạo nhiều cơ hội hơn cho nông dân tiếp cận nguồn tín dụng chính thức :
Mỗi loại định chế cần thiết lập theo hệ thống hội nhập dọc: cấu trúc tổ chức của hệ thống bao gồm từ trung ương, vùng và cơ sở ở nông thôn. Điều này thực hiện vì các mục đích sau :
Có lợi thế về điều hòa vốn cho vay.
Thuận tiện trong việc huy động tiết kiệm và cho vay.
Lợi thế về quy mô (chi phí giao dịch trên một người mượn thấp, hữu dụng tối đa trang thiết bị hiện đại, nguồn vốn chất xám cao).
Mật độ cao cua các chi nhánh cơ sở của một ĐCTDNT là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả huy động. Mật độ cao sẽ mang lại hiệu quả vì các lý do sau :
Phù hợp với tính phân tán của sản xuất nông nghiệp.
Cải thiện được khả năng tiếp cận của nông dân đối với các định chế.
Nắm được thông tin người mượn, như vậy sẽ thẩm định được khả năng thanh toán của người mượn.
Mở rộng được quy mô của người mượn và huy động tiết kiệm nên sẽ có lợi thế trong chi phí giao dịch.
Đa dạng hóa chức năng dịch vụ của ĐCTDNT
Đa dạng chức năng đem lại hiệu quả hơn là đơn vị chức năng vì :
Đáp ứng nhu cầu đa dạng ở nông thôn.
Tạo sức cạnh tranh vì sự đa dạng dịch vụ: tiết kiệm, ký gởi, ủy thác, thanh toán trong giao dịch.
Giảm bớt rủi ro trong chi phí giao dịch.
3.4 Các lý thuyết về thông tin không hoàn hảo (Problems of imperfect information) :
Để giải quyết vấn đề bất cân xứng về thông tin giữa người mượn và người cho vay, các nhà kinh tế học thuộc trường phái thông tin không hoàn hảo (Hoff, Stiglitz, Braverman 1993) đã đưa ra các nguyên lý mà người cho vay có thể ứng dụng nhằm áp lực cũng như kích thích người mượn hoàn trả vốn vay. Kế thừa nguyên lý này, Hulme và Mosley (1996) đã đề nghị một cơ chế hoàn chỉnh mà các định chế tín dụng thuộc khu vực chính thức có thể áp dụng như sau :
Phương pháp trực tiếp : Định chế phải mở rộng nguồn lực một cách trực tiếp đối với việc sàng lọc, kích thích và cưỡng chế người mượn nhằm giảm tỉ lệ nợ quá hạn. Có ba cách phổ biến : thu hồi nợ thường xuyên, kích thích trả nợ và khuyến khích tiết kiệm.
Thu hồi nợ thường xuyên (intensive loan collection): tổng số nợ được thu hồi lại trong dạng trả nhiều lần và mỗi lần trả trong một khoảng thời gian cụ thể.
Kích thích trả lại nợ : Đối với phần nợ quá hạn được tính theo lãi suất phạt và chỉ cho vay tiếp khi trả lại nợ và tạo điều kiện cho định chế theo dõi hành vi năng lực thanh toan của người mượn. Nhằm nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong công tác thu hồi nợ, nhiều định chế áp dụng cơ chế khen thưởng cho cán bộ cơ sở gắn với tỷ lệ nợ quá hạn giảm.
(c) Khuyến khích tiết kiệm; Đối với người mượn không có tài sản thế chấp, để giảm rủi ro, các định chế đòi hỏi người mượn phải đóng góp một số tiền vào quỹ tiết kiệm bắt buộc, và được hưởng lãi suất tiết kiệm. Vì có tài khoản tiết kiệm tại định chế, người mượn sẽ có trách nhiệm hơn trong công việc trả nợ.
Phương pháp gián tiếp : Tạo ra sức ép và kích thích người mượn trả lại nợ bởi chính họ. Phương pháp này sử dụng cách thức cho vay theo nhóm, nếu một thành viên của nhóm không trả nợ thì các thành viên khác sẽ bị ảnh hưởng . Cách thức này tạo sức ép trong nhóm, các thành viên phải có trách nhiệm trả nợ đứng hạn.
Để đảm bảo ảnh hưởng tích cực của sức ép nhóm, Stiglitz (1996) đề nghị như sau:
Công cụ kích thích hiệu quả là mỗi thành viên có thể mượn tiền trong tương lai tùy thuộc vào việc thanh toán nợ của tất cả các thành viên trong nhóm ở hiện tại.
Quy mô của nhóm nên nhỏ, trong một nhóm nhỏ sức ép của nhóm sẽ có ý nghĩa, trong khi nếu nhóm quá lớn sức ép của nhóm sẽ giảm đi.
Nhóm nên hình thành bởi các thành viên có cùng đặc điểm rủi ro, vì nếu một thành viên có rủi ro lớn hơn thì anh ta sẽ được bao cấp bởi những thành viên khác.
3.5 Các lý thuyết về yếu tố ngoại sinh (Externalities) :
Theo quan điểm của Greenwald Hoff và Stiglitzss (1986) :
Trong bối cảnh thị trường tín dụng nông thôn, yếu tố ngoại sinh chính là sự giảm chi phí về cưỡng chế và thông tin có thể thực hiện được thông qua sự phát triển của các thị trường khác.
Yếu tố ngoại sinh bao gồm quyền sở hữu đất nông nghiệp, môi trường pháp lý, cơ sở hạ tầng nông thôn. Việc hoàn thiện quyền sở hữu làm cho đất nông nghiệp có giá trị như tài sản thế chấp và như vậy các định chế có thể mở rộng cung tín dụng. Môi trường pháp lý có hiệu lực sẽ giúp cho các định chế giảm bớt chi phí cưỡng chế. Nếu cơ sở hạ tầng tốt sẽ làm thu nhập người nông dân ổn định, thông tin giữa người mượn và người cho vay sẽ gần hơn, như vậy sẽ giúp cho các ĐCTDNT giảm chi phí sàn lọc và rủi ro trong hoạt động cho vay.
3.6 Các lý thuyết về yếu tố khác (Other Factors) :
Quan điểm của nhà kinh tế học Lee (1983), Sandaratne và Senanayake (1989), Seibel (1992) nhấn mạnh rằng những yếu tố khác như sự chậm trễ thường xuyên, quá trình thủ tục giấy tờ, khảng cách xa không thuận tiện, thiếu sự linh hoạt cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ĐCTDNT.
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÍN DỤNG HIỆN NAY.
Nhu cầu tín dụng khu vực nông thôn
Thực trạng về tổng quan vốn cho nông nghiệp – nông thôn
Trong tổng số 86 triệu người dân VN (2009) thì vẫn có tới 60,6 triệu người sống ở khu vực nông thôn, chiếm 70,4% tổng dân số. Trong tổng diện tích cả nước 331.051 km2 thì đất nông nghiệp là 251.273 km2 (chiếm tới 75,9%).
Rõ ràng, mặc dù sở hữu một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất là đất đai và người lao động song đóng góp của khu vực nông nghiệp nông thôn vào tăng trưởng kinh tế vẫn chưa tương xứng với tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản trong GDP giảm từ trên 40%GDP trước khi đổi mới xuống dao động quanh mức 20%GDP trong những năm gần đây.
Nguyên nhân:
Có nhiều nguyên nhân, song cơ bản là do khu vực nông nghiệp nông thôn chưa được đầu tư tương xứng trong khi chuyển dịch cơ cấu lao động không theo kịp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tỷ lệ vốn đầu tư hàng năm cho nông nghiệp chiếm khoảng 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội nên mặc dù tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng liên tục trên 40% GDP những năm gần đây song phần vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn còn khoảng cách rất xa so với nhu cầu và lại càng giãn rộng nếu so sánh với phần vốn đầu tư dành cho khu vực công nghiệp xây dựng và dịch vụ.
Trên thực tế, mới chỉ có ngân hàng Agribank có dư nợ tín dụng lớn đối với lĩnh vực nông nghiệp. Một số ngân hàng khác cho vay nông nghiệp nhưng dưới dạng hỗ trợ xuất khẩu gạo, cà phê, hạt tiêu… còn vốn trực tiếp đến nông dân rất hạn chế.
Mặc dù hệ thống ngân hàng (NH) đã về các vùng quê, nhưng không phải người dân nào cũng hiểu về tín dụng NH. Thêm vào đó, những điều khoản chặt chẽ của NH trong việc cho vay vốn cũng khiến nhiều người khó tiếp cận, nhất là nông dân. Thực trạng này đẩy nhiều nông dân phải vay vốn từ tín dụng "đen"….
Vốn ODA đầu tư vào nông thôn chưa tương xứng. Ngay cả vốn ODA dùng để phát triển cơ sở hạ tầng thì nhu cầu vốn ODA dành cho giao thông đã lên đến 237.552 tỉ đồng, chiếm hơn 59% tổng nhu cầu. Trong đó, phần lớn là dành cho các tuyến quốc lộ, đường sắt đô thị, đường cao tốc… và chỉ có 1.890 tỉ đồng thực sự dành cho giao thông nông thôn, nhưng phân bổ cho cả… 33 tỉnh. Còn lĩnh vực công nghiệp, vốn ODA dự kiến dành khoảng 75.729 tỉ đồng, cao hơn hẳn so với con số dự kiến dành cho nông, lâm nghiệp và thủy sản, chỉ vào khoảng 38.166 tỉ đồng.
Đó là lý do mà không có gì bất ngờ, khi tổng số vốn còn lại dành cho giáo dục, y tế, cấp nước... những thứ mà người nghèo và nhiều nông dân đang khao khát, quá ít. Y tế cũng chỉ được dành 3.083 tỉ đồng, chỉ đứng trên số vốn ODA khoảng 1.000 tỉ đồng dự định phân bổ cho lĩnh vực văn hóa.
Nhu cầu về tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn.
Người nông dân
Khu vực nông nghiệp nông thôn đang có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh và vốn đầu tư cho tiêu dùng của hàng chục triệu hộ gia đình nông dân. Người nông dân có nhu cầu lớn về vốn, trong đó có vốn tín dụng để mua sắm những tư liệu sản xuất quan trọng như máy móc thiết bị nông nghiệp phục vụ tưới tiêu, làm đất, chăm sóc cây trồng vật nuôi, thu hoạch, bảo quản, chế biến,... như phương tiện vận tải (ôtô, máy kéo, máy cày, xe thô sơ, tàu thuyền,... như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi,... như điện, xăng dầu,...
Bên cạnh đó, nông dân còn có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư nói chung, vay vốn tín dụng nói riêng nhằm cung ứng các tư liệu tiêu dùng như lương thực thực phẩm, hàng công nghiệp (may mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân và gia đình,...), vật liệu xây dựng, nội thất, phương tiện đi lại (xe đạp, xe máy, thuyền, xuồng,...) cũng như thụ hưởng các loại hình dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp (thuỷ lợi, điện, nước sinh hoạt, khoa học kỹ thuật,...), dịch vụ môi trường, dịch vụ tiêu dùng cá nhân - hộ gia đình, dịch vụ văn hoá - giáo dục đào tạo - y tế - xã hội,...
Do bị cách biệt về thu nhập mà người dân ở khu vực nông nghiệp và nông thôn không thể tự trang trải được nhu cầu về vốn của bản thân, và cũng không thể đảm bảo được nhu cầu cần thiết về giáo dục, y tế, văn hóa…
“ Theo báo cáo của TCTK, nếu thu nhập bình quân đầu người năm 2008 là 995.000 VND/tháng thì của khu vực nông thôn chỉ có 762.000 VND/tháng còn của khu vực thành thị tới 1,6 triệu VND/tháng. “
Ví dụ như ở Đồng Tháp
Chi phí phân bón, thuốc sâu, cho 1 ha lúa là khoảng 10 triệu đồng, Giống và chi phí lao động từ 2,5 đến 3,8 triệu đồng/ ha, Tuy vậy mà giá lúa chỉ giao động trong khoảng 5.000đ đến 6,800đ/kg, với năng suất 5,5 đến 6,5 tấn/ha, cho nên lợi nhuận của người dân chỉ đạt khoảng 10 triệu 1 vụ, thì họ không đủ vốn để trang trải hằng ngày cho y tế, giáo dục,…
Khó khăn trong việc tiếp cận vốn của người dân:
Có ít các tổ chức tín dụng và các đình chế tín dụng hướng về người dân. Chỉ có Ngân hàng AgiBank, ngân hàng chính sách xã hội và quỹ tín dụng nhân dân hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực này.
Nông dân còn thiếu khả năng sản suất sao cho các tổ chức tín dụng tin tưởng giao vốn cho sản xuất.
Một số hộ gia đình không có sổ đỏ, giấy tờ, tài sản có giá để thế chấp vay vốn
Thủ tục vay vốn còn quá phức tạp với trình độ người dân
Do khoảng cách xa mà khả năng nắm bắt thông tin của ngân hàng và người dân cũng như người dân với thông tin tín dụng ưu đãi còn hạn chế.
Kết quả là nông nghiệp nông thôn VN thiếu cả vốn dành cho sản xuất kinh doanh cũng như vốn dành cho đời sống sinh hoạt, thị trường tín dụng đen vẫn còn nhiều đất sống, đặc biệt ở khu vực nông thôn, các vụ vi phạm pháp luật liên quan tới tín dụng nông nghiệp nông thôn hầu như không giảm, thậm chí còn tăng,... Rủi ro của các hộ nông dân rất cao mỗi khi gặp thiên tai, mất mùa, dịch bệnh,... do thu nhập quá thấp nên không ít người trong số họ buộc phải tìm cách vay nợ khắp nơi, thậm chí là “vay nóng” với “lãi suất cắt cổ” để mua sắm tư liệu sản xuất, hay chỉ là đóng tiền cho con đi học, đi chữa bệnh, đi lao động ở nước ngoài,...
Doanh nghiệp
Nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng rất lớn.
Nếu như một hộ nông dân bình thường cần vốn để trang trải mùa vụ, đầu tư máy móc, vật tư nông nghiệp, trang trải cho nhu cầu sồng tối thiểu của cá nhân thì một doanh nghiệp có nhu cầu vốn còn cao hơn thế nữa. Không những do sản suất trên quy mô lớn nên họ cần nhiều vốn theo quy mô mà họ còn cần vốn để mở rộng đầu tư, cần vốn để nhập máy móc, thiết bị để có giới hóa hoàn toàn trong sản xuất, cần vốn để trả lương cho công nhân… và mặt khác còn cần vốn để nhập nông sản vào sản xuất hoặc đền bù hợp đồng khi mà thị trường nông sản mất mùa.
Bên cạnh các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng nông sản thì các doanh nghiệp cung cấp vật tư nông nghiệp cũng khốn đốn về vốn khi mà người nông dân không có tiền thanh toán nợ, hoặc không có tiền trả tiền vật tư.
Trên thực tế, không phải là doanh nghiệp thì dễ dàng tiếp cận vốn hơn nông dân, doanh nghiệp cũng có một số khó khăn khiến họ khó tiếp cận vốn như:
Do đặc thù và quy mô nhỏ
Không đủ điều kiện tín chấp, không có hợp đồng kinh doanh
Thủ tục vay quá phức tạp
Do đặc thù của nông nghiệp bị ảnh hưởng rủi ro bởi thời tiết cho nên dễ bị mất mùa, khi đó doanh nghiệp không có khả năng chi trả lãi xuất và vốn gốc
Hợp tác xã, trang trại.
Bên cạnh người nông dân, doanh nghiệp, thì HTX và trang trại cũng là một tổ chức sản xuất kinh doanh đáng chú ý ở nông thôn.
Trong quá trình hội nhập, người nông dân ở Việt Nam sẽ bị yếu thế hơn so với các quốc gia phát triển, do đó điều tất yếu là họ phải liên kết để sản xuất, hoặc mở rộng về quy mô do đó ngày nay mô hình hợp tác xã và trang trại đang có xu hướng phát tiển mạnh, như thế nhu cầu về vốn để thành lập và duy trì hoạt động cũng rất lớn.
Nhưng vì một số lý do chủ quan và khách quan mà việc tiếp cận vốn của các HTX và trang trại còn gặp khó khăn.:
Trình độ năng lực của cán bộ và xã viên còn hạn chế
Các phương án sản xuất kinh doanh còn chưa rõ rang và còn lúng túng
Việc tổ chức và nắm bắt thông tin về tín dụng còn hạn chế, chưa sâu sắc
Thủ tục thế chấp, bảo lãnh của ngân hàng còn quá chặt chẽ
Nhiều HTX do quá nghèo nàn, chưa có quyền sủ dụng đất để thế chấp
Đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nên việc dành ưu tiên vốn cho các công trình giao thông, công nghiệp, ở góc độ nào đó, là điều dễ hiểu. Nhưng liệu có bất công với nông dân và người nghèo không, khi họ chưa được chú ý đúng mức.
Nguồn cung vốn trong khu vực kinh tế NN-NT.
Quan điểm vốn đầu tư vốn cho khu vực NN-NT
Xét trên quan điểm hiệu quả xã hội: NN-NT là khu vực truyền thống, đối với việt nam có tới trên 70% cư dân và lực lượng lao động khu vực này. Cho nên đầu tư vào khu vực NN-NT có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực này, tạo ra công bằng xã hội và phát triển đồng đều giữa các khu vực kinh tế.
Xét trên quan điểm hiệu quả kinh tế: NN-NT bao hàm trong đó là những nghành , lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp, do vậy việc đầu tư vốn cho khu vực này ít đem lại hiệu quả so với việc đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. chính vì thế nếu xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế thuần túy chỉ nên đầu tư có chừng mực nào đó vào khu vực NN-NT nhằm duy trì và phát triển các lĩnh vực mà nước ta có lợi thế , còn đại bộ phận nguồn lực dành cho các nghành công nghiệp và dịch vụ . Tuy nhiên, từ thực tế phát triển những năm qua cho thấy NN-NT vẫn là lĩnh vực đóng góp quan trọng trong thành tựu phát triển kinh tế đất nước , vẫn là chỗ dựa vững chắc nhằm thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế. Hơn nữa hiện nay khu vực NN vẫn là địa bàn tập trung các lợi thế của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế . Cho nên việc đầu tư cho NN chính là khai thác các lợi thế nhằm nâng cao hiệu quả trong chiến lước phát triển kinh tế . Nhưng để phát triển NN-NT bền vững thì vẫn phải dựa trên một nền tảng thị trường tài chính nông thôn. Do vậy phát triển TTTCNT vẫn được xem là vấn đề cốt yếu trong chiến lược phát triển NN-NT nước ta hiện nay.
Để thúc đẩy sự phát triển của khu vực nông thôn thì vấn đề tiên quyết là vốn . Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy khu vực NN-NT phát triển.
Bảng 1: Đầu tư từ ngân sách nhà nước vào khu vực NN-NT
Đơn vị : tỷ đồng
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Cơ cấu GDP
100
100
100
100
100
100
nông lâm ngư
22.54
21.81
20.97
20.4
20.3
22.1
công nghiệp, xây dựng
39.46
40.21
41.02
41.5
41.58
39.7
dịch vụ
38
37.98
38.01
38.1
38.12
38.2
tổng chi ngân sách nhà nước
239,246
290,927
343,135
404,721
521,700
637,300
chi cho nông lâm ngư
20,220
22,927
25,749
30,087
33,900
39,759
tỷ trọng chi cho nông nghiệp (%)
8.5
7.9
7.5
7.4
6.5
6.2
Nguồn: Con người và sự kiện: Việt Nam và thế giới 2009. Thời báo kinh tế
Bảng 1 cho thấy đầu tư từ NSNN cho khu vực NN còn rất khiêm tốn so với mức đóng góp của khu vực này hàng năm đối với sự phát triển kinh tế trong nước . xuất phát từ thực tế là khu vực NN luôn phải đối mắt với những rủi ro do thiên tai , dịch bệnh , thị trường , nếu nhà nước không tăng cường đầu tư hỗ trợ thì khả năng tự chống đỡ của khu vực này không cao.
Các định chế tài chính.
Các định chế tài chính chính thức
NHNN& PTNN
NHNN& PTNN là định chế cho vay khu vực nông thôn lớn nhất và ngày càng chiếm thị phần lớn trong khối ngân hàng có vốn nhà nước , có mạnh lưới khắp 64 tỉnh . hiện này ngân hàng này không còn chương trình tín dụng cho hộ nghèo và cũng chưa có chiến lược thu hút tiết kiệm nhỏ từ nông thôn
Ngân hàng chính sách xã hội
Ngân hàng chính sách xã hội có mạng lưới hoạt hoạt động gồm 64 tỉnh , 592 phòng giao dịch cấp huyện , 8076 điểm giao dịch cấp xã , quản lý 239647 tổ tiết kiệm và vay vốn. Ngân hàng chính sách xã hội là tổ chức phi lợi nhuận với mục đích chủ yếu là cung cấp tín dụng cho người nghèo , nhưng lại không có tiêu chí riêng xác định khách hàng mà dựa vào quy định của chính phủ . Phương thức cho vay là ủy thác từng phần cho các tổ chức tín dụng và tổ chức chính trị xã hội . Nguồn vốn chủ yếu là vay từ ngân hàng nhà nước . Dự nợ cho vay hộ nghèo chiếm tới 80%. Tỷ lệ nguồn huy động thấp vì lãi suất tiền gửi thấp chỉ bằng nữa của ngân hàng thương mại và khoảng 20% khu vực không chính thức. Lãi suất cho vay trước tháng 10-1999 là 0,8% tháng , sau đó là 0,7% tháng , từ 1-1-2006 là 0,6%. Lãi suất thấp hơn nhiều so với các ngân hàng thương mại nên chính phủ luôn phải bù đắp và ngân hàng cũng khó bền vững về tài chính , sản phẩm thu hút tiết kiệm còn yếu.
Quỹ tín dụng nhân dân
Hiện này có 1026 quỹ cơ sỡ và 1 quỹ trung ương . Mạng lưới trên 1000 xã chiếm 11% số xã toàn quốc. Hiên này quỹ tín dụng nhân dân chỉ được thành lập ở những nơi có tiềm năng huy động vốn, có nhu cầu vay và có khả năng quản lý quỹ , giao thông thuận lợi. Các vùng khó khăn rất khó lập quỹ . Nguồn vốn vay huy động từ người dân , thủ tục vay đơn giản và phù hợp với trình độ của nông dân, sản phẩm tín dụng đa dạng , gần gũi với dân làng và có tham gia của bảo hiểm tiền gửi nên dễ được người dân chấp nhận. Qũy cho vay các thành viên của mình bằng cách đóng lệ phí thành viên và tài sản thế chấp. Qũy cũng được phép của nhà nước cho hộ nghèo vay . Qũy đã thể hiện sự bễn vững về tài chính nên phát triển nhanh, nhưng cũng chưa thu hút được những khoản tiết kiểm từ dân cư nông thôn.
Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn
Hoạt động ngay tại làng xã , năm 1998 cả nước có 19 ngân hàng . Nhưng hiện nay chỉ còn duy nhất một ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn. Lượng vốn của ngân hàng này không đáng kể.
Khu vực tài chính nông thôn chính thức có ưu thế về nguồn vốn lớn , có cơ sỡ vật chất được bao cấp từ trước và mạng lưới rộng khắp nhưng phần lớn các tổ chức chỉ quan tâm đến khách hàng có thu nhập cao nên vẫn còn khoảng 40% hộ có thu nhập thấp chưa được tiếp cận với nguồn chính thức.
Các định chế tài chính bán chính thức
Các tổ chính xã hội có hoạt động tín dụng vi mô nhằm giúp các thành viên của mình xóa đói giảm nghèo bằng cách giúp các ngân hàng và dự án trong việc cho vay nông dân và hộ nghèo nông thôn. Trong các tổ chức xã hội thì tổ chức Hội Phụ Nữ là tổ chức nổi bật nhất. Các chương trình của hội phụ nữ thường gồm cả phần tiết kiệm và tín dụng chia làm hai loại :
-Liên kết với ngân hàng như ngân hàng NN&PTNT và ngân hàng chính sách
-Trực tiếp quản lý một số chương trình tín dụng quốc gia và các dự án tín dụng do các tổ chức quốc tế tài trợ.
Hoạt động tài chính vi mô của NGO . Hiện nay có khoảng 60 tổ chức trong nước và quốc tế đang thực hiện các dự án tài chính tại VN
Các hình thức tài chính không chính thức
Tín dụng của những người cho vay chuyên nghiệp
Người cho vay là những người khá giả ở nông thôn, thường dùng nguồn vốn tự có để cho vay. Thủ tục đơn giản qua ký kết hoặc thỏa thuận miệng, không cần thế chấp . Lãi suất cho vay thường gấp 2-3 lần tín dụng chính thức.Thời hạn vay thường ngắn , thậm chí có thể vay nóng một vài ngày . Lượng vốn cho vay thường nhỏ hơn 10 triệu. Người cho vay thường hoạt động trong khu vực mình sinh sống là làng, xã .
Tín dụng nhóm tổ, phường, hội .
Đây là hình thức hợp tác với nhau giữa các hộ nên rất đa dạng và theo các quy tắc riêng . Hình thức rất phổ biến trong nông thôn bằng cách các thành viên góp vốn theo quy định để tạo ra một lượng vốn cho từng người sử dụng trong một thời gian nhất định. Tính tức cực của hình thức này là tính hợp tác và tiết kiệm trong tạo vốn cho nhau giữa những người trong thôn xóm.
Tín dụng tư thương
Đây là hình thức mua bán chụi vật tư hàng hóa giữa người buôn bán và cung cấp dịch vụ nông nghiệp. Trong quan hệ vay vốn là hiện vật , vốn trả là tiền , thủ tục vay đơn giản qua sự trao đổi hàng hóa vật tư và ký vào sổ nợ. Thời gian chịu nợ thường là một chu kỳ sản xuất kinh doanh , việc tính lãi thường theo thỏa thuận và thường biến động.
Khu vực không chính thức có ưu thế về sự thuận tiện và tính linh động trong khi vay vốn , các thông tin về người vay nắm rất rõ nên không cần tài sản thế chấp, thủ tục cho vay đơn giản. Nhưng lãi suất cho vay thường cao và lượng vốn vay nhỏ, thời gian ngắn.
Những hạn chế trong hoạt động tín dụng nông thôn hiện nay
Hoạt động tín dụng nông nghiệp, nông thôn tuy đạt được những kết quả nhất định, song so với mức tăng tín dụng chung của toàn bộ nền kinh tế còn thấp. Điều đó cho thấy tín dụng nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu và mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, hiệu quả của tín dụng ngân hàng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn chưa cao, chưa gắn kết được giữa nông nghiệp với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, tiềm năng kinh tế đồi rừng và miền ven biển ở nhiều vùng chưa được khai thác tốt.
Sở dĩ như vậy là do:
Trong hoạt động sản suất nông nghiệp còn chứa đựng nhiều rủi ro, do diễn biến thời tiết phức tạp, khó lường, dịch bệnh, sâu bệnh tấn công hàng năm, thị thường tiêu thụ sản phẩm nông sản, thực phẩm chưa ổn định, một số mặt hàng xuất khẩu thì phụ thuộc quá nhiều vào giá cả thế giới…, thêm vào đó, công tác nghiên cứu, dự báo kinh tế liên quan đến lĩnh vực này còn yếu nên đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho sản xuất. Tất cả những điều đó đã gây những khó khăn nhất định cho việc mở rộng đầu tư tín dụng của các định chế tài chính…
Thu nhập của các hộ nông dân còn thấp, cùng với việc xử lý quyền sử dụng đất của người nông dân còn có những bất cập, nên việc cho vay các khoản vốn lớn để mở rộng sản xuất của hộ gia đình nông thôn là rất hạn chế.
Công nghệ ngân hàng cũng như màng lưới viễn thông mới chỉ phát triển ở các vùng đô thị, đông dân, còn tại vùng sâu, vùng xa vẫn chưa phát triển, hạn chế cho việc tiếp cận tín dụng của người dân, cũng như các định chế tài chính khó có thể mở rộng màng lưới của mình. Và điều đó cũng giải thích tại sao các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông thôn còn nghèo nàn, chủ yếu là tín dụng truyền thống, các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng nông nghiệp còn rất hạn chế, gần như mới phát triển ở mức thử nghiệm, sản phẩm tín dụng của ngân hàng chưa bao gồm các dịch vụ hỗ trợ đi kèm,…
Quy trình cung cấp tín dụng còn phức tạp, chưa phù hợp với trình độ của người dân đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai. Các tổ chức tín dụng chính thức thường yêu cầu người đi vay phải thế chấp tài sản, phổ biến nhất là đất hay nhà có kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc ít nhất phải có giấy chứng nhận tạm thời quyền sử dụng đất do huyện cấp, và đôi khi yêu cầu cả bảo lãnh của chính quyền địa phương. Tuy hầu hết các nông hộ đều có đất, nhiều hộ không thể đem đất thế chấp cho ngân hàng để vay tiền vì chưa có “sổ đỏ” hoặc để xin được một giấy chứng nhận thì mất rất nhiều thời gian. Thủ tục phiền hà và quy định rắc rối là một cản trở lớn đối với người dân có trình độ văn hóa thấp, và làm nảy sinh những tệ nạn như cò vay vốn, phát triển hình thức tín dụng nặng lãi,… và không đáp ứng kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mạng lưới tiếp cận thông tin giữa ngân hàng và người đi vay chưa được nắm rõ. Tư duy bao cấp trong hoạt động tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn còn tồn tại làm tăng chi phí hoạt động của các định chế tài chính, đồng thời tăng tính ỷ lại và bóp méo thị trường tài chính nông thôn.
Chưa có chiến lược phát triển nông thôn phù hợp, quy hoạch vùng sản phẩm nông nghiệp chưa rõ ràng, thị trường tiêu thụ chưa mở rộng và ổn định, nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ cho nông nghiệp kịp thời. Việc hỗ trợ kỹ thuật cho phát triển trồng trọt, chăn nuôi chưa đồng bộ, việc bao tiêu sản phẩm chưa có kế hoạch, quy hoạch cụ thể, chắc chắn làm hạn chế mở rộng phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dẫn đến hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn.
Vai Trò của tín dụng trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn
3.1. Góp phần thúc đẩy hình thành thị trường tài chính nông thôn.
Thị trường tài chính ở nông thôn là nơi giải quyết quan hệ cung cầu về vốn, nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế nông thôn. Thị trường tài chính nông thôn bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Trong thị trường này, ngân hàng nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng, vì nó có hệ thống đến tận huyện. Mặt khác từng xã, khu vực còn có quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Chính hoạt động tín dụng đã hình thành và đẩy nhanh sự phát triển của thị trường tài chính, tín dụng ở nông thôn.
Đầu tư vốn phát triển NN-NT bao gồm nhiều định chế tài chính khác nhau , bao gồm cả các định chế tài chính thức , bán chính thức và không chính thức. Tuy nhiên, đóng vai trò chủ lực hiện vẫn thuộc về NHNN & PTNN, NHCSXH Việt Nam và các năm gần đây đang có sự phát triển mạnh của các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước. Các tư liệu về dư nợ tín dụng từ các tổ chức này một năm gần đây được thể hiện ở bảng 2
BẢNG 2: Cho vay NN-NT của các ngân hàng có vốn của Nhà Nước
chỉ tiêu
1999
2003
2008
1/ Tổng dư nợ( tỷ đồng)
33464
83742
723565
NHNN&PTNN
23150
63679
294697
Ngân hàng công thương
2683
4170
120752
Ngân hàng ngoại thương
821
2554
112793
Ngân hàng đầu tư và phát triển
2974
5080
160983
Ngân hàng chính sách xã hội
3830
8251
32340
2/ Tỷ trọng dư nợ (%)
100
100
100
NHNN&PTNN
69.2
76.0
40.7
Ngân hàng công thương
8.0
5.0
16.7
Ngân hàng ngoại thương
2.5
3.0
15.6
Ngân hàng đầu tư và phát triển
8.9
6.1
22.2
Ngân hàng chính sách xã hội
11.4
9.9
4.5
Nguồn : báo cáo thường niên của các ngân hàng
Các dữ liệu từ bảng 2 cho thấy , dự nợ tín dụng từ các tổ chức tín dụng chính thức cung ứng phần lớn nhu cầu vốn cho địa bàn NN-NT những năm qua có sự tăng trưởng rất mạnh . Bên cạnh đó , nguồn vốn cung ứng từ các tổ chức tài chính vi mô cho các dự án từng thôn , xã, hội hàng năm cũng tương đối lớn . Các nguồn vốn này thực sự đã tác động rất quan trọng đối với sự phát triển của khu vực NN-NT nước ta những năm qua. Tuy vậy khu vực NN-NT luôn trong tình trạng thiếu vốn , các định chế tài chính chính thức không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời các nhu cầu của khu vực này.
Cuộc khảo sát đầu năm 2010 giữa bộ công thương với các doanh nghiệp, hầu hết đều kêu thiếu vốn:
Điều : cần khoảng 14820 tỷ đồng để thu mua 400000 tấn điều trong nước và nhập khẩu khoảng 250000 tấn điều thô
Cà phê: khoảng 500 tỷ đồng thu mua tạm trữ cà phê
Hồ tiêu, lương thực , thực phẩm cũng đang đặt ra yêu cầu phải đầu cơ hàng hóa, chờ giá cao mới bán ra thị trường để chống lỗ.
Thủy sản: với đà tăng của một loạt các sản phẩm đầu vào thiết yếu làm tăng giá thành và giá bán thủy sản khiến các các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải tăng vốn để thu mua thủy sản…
3.2. Hoạt động tín dụng đã góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tư liệu sản xuất, khoa học công nghệ để phát triển kinh tế nông thôn.
Trong nông thôn hiện nay, số hộ dân khá đang giàu lên chiếm tỷ lệ ngày càng cao do họ có trình độ sản xuất kinh doanh, tiếp thu được khoa học kỹ thuật, họ có vốn là điều thiết yếu ban đầu cho quá trình sản xuất và nắm bắt nhanh nhạy thị trường, họ quyết định được sản xuất cái gì? sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào? để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Ngược lại, có những hộ không có kinh nghiệm, kinh doanh không có hiệu quả dẫn đến lỗ, hoặc có ruộng đất quá ít so với nhu cầu của họ hoặc thiếu vốn cho quá trình sản xuất. Trong mọi trường hợp đồng vốn tín dụng của ngân hàng, đã giúp hộ có khả năng giải quyết được khó khăn trong sản xuất kinh doanh và góp phần tăng thu nhập cho hộ. Quy mô sản xuất của hộ càng lớn, thì càng có khả năng đứng vững hơn trong cạnh tranh, bởi lẽ khi có vốn, người nông dân có thể áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, tăng sản lượng, tăng tỷ trọng hàng hoá và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó, họ có khả năng dễ dàng trong việc tích tụ và tập trung vốn.
3. 3. Tín dụng đã góp phần tận dụng khai thác mọi tiềm năng về đất đai, lao động và tài nguyên thiên nhiên.
Tiềm năng về phát triển ở nông thôn nước ta là rất lớn, nếu được Nhà nước quan tâm đúng mức với những chính sách vĩ mô thích hợp, đặc biệt là nếu có chính sách đầu tư tín dụng hợp lý, thì chắc chắn những khả năng tiềm tàng mà lâu nay chưa được sử dụng sẽ được động viên khai thác triệt để và phát huy hiệu quả. Sức lao động được giải phóng kết hợp với đất đai được giao quyền sử dụng lâu dài cho từng hộ gia đình sẽ đóng góp ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn hàng hoá nông sản thực phẩm cho tiêu dùng và xuất khẩu của đất nước.
Minh chứng là sự phát triển nhanh của kinh tế trang trại sau khi quyết định 67/1999/QDD-TT
Chính sách đầu tư tín dụng
Trang trại phát triển sản xuất, kinh doanh được vay vốn tín dụng thương mại của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc vay vốn được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 67/1999/QDD-TTg ngày 30 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về “Một số chính sách tín dụng ngân hàng phát triển nông nghiệp và nông thôn”, chủ trang trại được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay theo quy định tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
Kết quả phát triển kinh tế trang trại .
Theo tổng cục thống kê, vào năm 2000 có 57.069 đến năm 2009 cả nước có khoảng 150.000 trang trại với diện tích đất sử dụng khoảng 900.000 ha. Vốn bình quân cho vay một trang trại từ 200 triệu đến 300 triệu đồng, có trang trại vay đến 500 triệu đồng. Kinh tế trang trại phát triền nhanh cả về số lượng và chất lượng đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Các trang trại chuyên trồng cây nông nghiệp chiếm 55,3%, chăn nuôi gia súc, gia cầm chiếm 10,3%, lâm nghiệp chiếm 2,2%, nuôi trồng thuỷ sản chiếm 27,3% và sản xuất kinh doanh tổng hợp chiếm 4,9%.
Những mặt được của kinh tế trang trại thời gian qua có thể tựu trung ở một số điểm sau:
Thứ nhất: Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần khai thác thêm diện tich lớn đất trống, đồi núi trọc, diện tích còn hoang hoá (khoảng 20-30 vạn ha) đưa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nhất là ở các vùng trung du, miền núi và ven biền.
Thứ hai: Giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn, ngoài 30 vạn lao động của gia đình còn thuê thêm 10 vạn lao động thường xuyên và 30 triệu ngày công lao động thời vụ/năm.
Thứ ba: Hàng năm làm ra giá trị tổng sản lượng gần 12.000 tỷ đồng, trong đó 87% là sản phẩm hàng hoá.
3.4. Tín dụng đã góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho nông dân tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện hiện nay, đời sống nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu. Muốn cải thiện tình hình đó phải tăng cường đầu tư vốn phát triển nông thôn. Chính vì lẽ đó, vốn đầu tư của ngân hàng không những tham gia vào quá trình sản xuất bằng hình thức bổ sung vốn lưu động, mà còn là vốn đầu tư trung hạn và dài hạn nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến cho quá trình sản xuất. Các công trình đầu tư nhằm phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đó là: công nghiệp chế biến nông sản phẩm, ngành cơ khí phục vụ nông nghiệp, dịch vụ “đầu vào”, “đầu ra”, phát triển các ngành nghề mới, các hệ thống tưới tiêu, công trình thuỷ lợi, hệ thống đường giao thông, mạng lưới điện... nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Cùng với việc đầu tư xây dựng và cải tạo những công trình trên Nhà nước còn cần đầu tư xây dựng các công trình phục vụ cho hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ kỹ thuật để tạo ra những giống cây, con mới đưa vào sản xuất, từ đó tăng năng suất và đem lại hiệu quả kinh tế.
3.5. Tín dụng tạo điều kiện phát triển ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trong nông thôn.
Chính việc xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng các xí nghiệp chế biến nông sản đã thu hút một số lượng lớn lao động dư thừa trong nông thôn, tạo việc làm cho họ. Đồng thời dựa vào lợi thế so sánh của nước ta với khu vực và thế giới, giữa các vùng khác nhau cần thiết phải duy trì và phát triển ngành nghề ở nông thôn. Kinh tế hàng hoá càng phát triển thì sức mạnh cạnh tranh ngày càng lộ rõ, tất yếu dẫn đến phân hoá giàu nghèo ở nông thôn, có hộ sẽ phát triển thêm về nông nghiệp, có hộ sẽ rời khỏi nông nghiệp làm nghề khác như tiểu thủ công nghiệp, các nghề truyền thống. Do đó các ngành nghề này sẽ được phục hồi và phát triển. Hiện nay luật khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành đã tạo luồng sinh khí mới cho các doanh nghiệp trong nứơc mạnh dạn đầu tư vào tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doamh, dịch vụ và tạo điều kiện cho các ngành nghề khác phát triển, trước hết là chăn nuôi và ngành nghề phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến.
Việc bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa (trong đó có DN làng nghề) vay vốn của các ngân hàng thương mại đã được giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) thực hiện, và VDB thỏa thuận với các ngân hàng thương mại để mở rộng việc tiếp nhận và bảo lãnh cho DN vay vốn. Quy chế bảo lãnh cho DN vay vốn đã được sửa đổi, bổ sung về đối tượng, phạm vi, điều kiện và thời hạn bảo lãnh vay, có thêm nhiều thuận lợi cho DN.
Phát triển việc cho các làng nghề vay theo hướng sản xuất hàng hóa như chế biến nông lâm sản, chăn nuôi đại gia súc gia cầm, làm các nghề mộc, nghề rèn, thêu ren, đồ thủ công mỹ nghệ… , Theo thống kê vào quý 2/2010 nước ta có khoảng 2.790 làng nghề, thu hút 1,42 triệu hộ gia đình tham gia, với khoảng 10 triệu lao động chính và hàng triệu lao động phụ trong lúc nông nhàn, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống của cư dân nông thôn. Sự phát triển của làng nghề góp phần đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương. Tại nhiều làng nghề, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt từ 60% - 80% và ngành nông nghiệp chỉ đạt 20% - 40%. . Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh trong 10 năm gần đây, từ 274 triệu USD năm 2000 đến 880 triệu USD năm 2009. Thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đã có ở trên 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như: Mỹ, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Bỉ, Trung Quốc, Đài Loan… Sản xuất tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề dịch vụ nông thôn tiếp tục phát triển bình quân tăng 15%/ năm. Nhờ đó, thu nhập của hộ nông dân cũng ngày càng được cải thiện.
3.6. Tín dụng đã tạo cho người dân không ngừng nâng cao trình độ sản xuất, tăng cường hạch toán kinh tế đồng thời tạo tâm lý tiết kiệm tiêu dùng.
Hộ gia đình là một đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất kinh doanh lời ăn lỗ chịu. Do vậy bắt buộc bản thân hộ gia đình muốn tồn tại và phát triển thì phải đáp ứng được những yêu cầu mới. Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão đòi hỏi người nông dân phải không ngừng nâng cao trình độ của mình. Kết quả cuối cùng đã ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân và gia đình họ. Vì vậy ngoài việc hăng say lao động, họ phải áp dụng những quy trình kỹ thuật mới vào sản xuất để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động của đồng vốn trên cơ sở hoàn trả cả vốn và lãi. Cho nên đã kích thích các doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng phải cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng, nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh một cách triệt để, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo điều kiện đem lại lợi nhuận cao cho các doanh nghiệp, đảm bảo hoàn trả tiền vay ngân hàng.
3.7. Tín dụng góp phần đảm bảo hiệu qủa xã hội, nâng cao cuộc sống tinh thần vật chất cho người nông dân.
Hoạt động tín dụng thực hiện tốt sẽ góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi trong nông thôn. Trước đây chính sách đầu tư tín dụng không được quan tâm thích đáng nên vốn cho nông dân được cung cấp chủ yếu thông qua thị trường tài chính không chính thức. Việc cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng cho những hộ sản xuất thiếu vốn, kể cả hộ giàu và hộ nghèo, đều đòi hỏi phải có tài sản thế chấp, đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích. Như vậy đồng vốn của ngân hàng đã đi sâu vào tận cùng thôn ấp, thúc đẩy nông thôn phát triển, làm cho hộ nghèo trở nên khá hơn, hộ khá trở nên giàu hơn, đời sống các tầng lớp dân cư trong nông thôn được nâng cao.
Tóm lại, tín dụng có vai trò quan trọng trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội nông thôn. Để phát huy vai trò to lớn đó, nên sử dụng tín dụng như một công cụ đắc lực để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nông thôn.
GIẢI PHÁP VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH.
Chính sách của chính phủ
Chính phủ đã có nhiếu chính sách khuyến khích phát triển tín dụng ở nông thôn cụ thể là nghị định 41/2010/NĐ-CP
1.1. Những mặt tích cực của nghị định 41/2010/NĐ-CP
Nghị định đã đưa ra các chính sách thông thoáng, phù hợp và linh hoạt hơn rất nhiều so với các chính sách tín dụng dành cho nông nghiệp, nông thôn trước đó. Mức cho vay không thế chấp đã tăng lên theo đó đối với hộ sản xuất được vay tối đa đến 50 triệu đồng (gấp 5 lần quy định cũ), đối với kinh tế hợp tác xã có thể được vay tối đa 300 triệu đồng. Với kinh tế trang trại, ngân hàng có thể xem xét cho vay tối đa đến 500 triệu đồng. Trong trường hợp phát sinh rủi ro trên diện rộng, tổ chức tín dụng (TCTD) có thể kéo dài thời gian khoanh nợ cho người vay tới 2 năm.
Đối tượng cho vay mở rộng nếu trước đây chỉ có Ngân hàng NN và PTNT là kênh dẫn vốn chủ yếu, giờ tất cả các ngân hàng và tổ chức tín dụng đều có thể tham gia
Quy định rõ vấn đề xử lý rủi ro, cơ cấu nợ và cho vay mới... Đặc biệt, Nghị định lần này đã xác định rõ việc đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn không còn là việc riêng của ngành Ngân hàng mà còn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, xã hội.
Chính phủ có chính sách khuyến khích, hỗ trợ việc cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, chính sách xử lý rủi ro phát sinh trên diện rộng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và các chính sách cụ thể khác trong từng thời kỳ.
Đối tượng được vay và lĩnh vực cho vay thông thoáng hơn so với trước đây.
1.2. Hạn chế còn vướng mắc.
Nghị định 41 mới chỉ nói triển khai cho vay mà chưa đề cập nếu nợ xấu xảy ra trong các khoản vay. Nông dân vay vốn nằm trong hạn mức tín chấp sẽ không phải đăng ký giao dịch đảm bảo, công chứng giấy tờ như vay thông thường. Thế nhưng, ngân hàng vẫn giữ sổ đỏ của người dân vay vốn tín chấp.
Việc khai thông kênh tín dụng ở nông thôn sẽ không đơn giản như nội dung chính sách của chính phủ. Nông dân Việt Nam vẫn làm ăn canh tác nhỏ lẻ, các dự án tập trung chiếm tỷ lệ không đáng kể. Các ngân hàng thương mại của Việt Nam luôn dè dặt với những khoản cho vay bấp bênh, những ngân hàng có vốn nhà nước cũng không có đủ vốn để gia tăng tín dụng nông thôn, dù có ý định như vậy. Thủ tục cho vay cấp tín dụng khá phức tạp, không chỉ gây khó khăn cho nông dân mà ngay trong những trường hợp chính phủ cấp vốn cho doanh nghiệp để mua tạm trữ nông sản, việc triển khai đã luôn chậm trễ.
- Cho đến giờ, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và Ngân hàng chính sách Việt Nam vẫn là 2 đơn vị có tỷ trọng dư nợ vay nông nghiệp – nông thôn lớn nhất nhưng vẫn chấp nhận một thực tế là “đói” vốn đầu vào so với nhu cầu ngày càng tăng mạnh của khu vực sản xuất này. Chính vì thế, đảm bảo nguồn vốn vay cho khu vực nông nghiệp-nông thôn đang thực sự là một thách thức không hề nhỏ. tăng trưởng của ngành nông nghiệp có liên hệ mật thiết với tốc độ tăng trưởng tín dụng. So sánh cho thấy, nông nghiệp cần có 6% tăng trưởng tín dụng để được mức tăng trưởng 1%. Như vậy, đảm bảo tăng trưởng 4% hàng năm cho sản xuất nông nghiệp, tăng trưởng tín dụng phải đạt mức 24%/năm. Chưa nói đến trình độ của cán bộ ngân hàng địa phương vẫn còn hạn chế.
- Bản chất hoạt động của hầu hết các ngân hàng là “tìm kiếm lợi nhuận”, sở dĩ lâu nay dòng vốn tín dụng cho tam nông vẫn còn “chưa như ý” là do hiệu quả kinh tế không cao. Với hàng loạt món vay nhỏ lẻ, chi phí vốn cao trong khi rủi ro thiên tai, dịch bệnh rình rập, nên nhiều ngân hàng cũng vì thế mà không mặn mà mở rộng tín dụng. Người dân vay tín chấp nhưng phải nộp giấy chứng nhận sử dụng đất thì cũng khác gì thế chấp. Giấy tờ về đất cũng có nhiều loại song phổ biến ở nông thôn là loại đất sản xuất thời hạn đến năm 2013. Hết hạn đất trên giấy tờ đồng nghĩa với việc người dân không thể tiếp cận được vốn. Chưa kể tại khu vực nông thôn, tỉ lệ cấp giấy chứng nhận thổ cư hay đất ở so với giấy phép cho đất sản xuất còn hạn chế.
- Với nhóm các HTX và chủ trang trại, dù được vay tối đa 500 triệu đồng, song tiêu chí như thế nào để xác định chủ trang trại đủ điều kiện vay cũng như cấp nào chứng nhận các điều kiện này theo như một số ý kiến vẫn chưa được hướng dẫn. Các HTX lấy chứng nhận đất nào để có thể vay được 500 triệu đồng cũng là một câu hỏi.
Một số gợi ý chính sách của nhóm.
2.1. Giảm rủi ro trong nông nghiệp
Đặc điểm người sản xuất nông sản trong điều kiện của kinh tế thị trường và nhất là hội nhập với thị trường nông sản thế giới.
Rủi ro trong nông nghiệp phân làm 2 loại: rủi ro công nghệ và rủi ro giá cả.
Rủi ro công nghệ và thiên nhiên xảy ra do thời tiết thay đổi bất lợi, dịch bệnh hay sâu bệnh phá hoại mùa màng. Loại rủi ro này thường làm giảm sản lượng trong nông nghiệp.
Rủi ro giá cả do giá cả thay đổi thất thường trên thị trường quốc tế. Giá cả được quyết định bởi cung và cầu trên thị trường, tỷ giá hối đoái.
Chính sách đầu tư vào khoa học - công nghệ, hệ thống thủy lợi thuận tiện cho việc tưới tiêu nước, tăng năng suất trong nông nghiệp để hạn chế những rủi ro về điều kiện tự nhiên cho nông dân. Đồng nhất chất lượng nông sản đầu ra.
Sử dụng các công cụ của thị trường để chuyển loại rủi ro do thị trường gây ra từ người sản xuất sang người kinh doanh. Hay nói cách khác, chuyển rủi ro từ thị trường cho thị trường. Quy hoạch vùng sản phẩm nông nghiệp tập trung gắn các vùng này với công nghiệp chế biến và thương mại, tạo nên các “cụm sản xuất” bảo đảm toàn bộ chuỗi giá trị của sản phẩm. Gia tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp.
Nâng cao vai trò của dự báo thị trường nông sản và tạo mạng lưới cung cấp thông tin tới người nông dân.
Phát triển bảo hiểm trong nông nghiệp, làm cho người sản xuất thấy được những lợi ích trong bảo hiểm cho những sản phẩm trong nông nghiệp. Chính sách thu hút các công ty bảo hiểm trong lĩnh vực nông nghiệp.
Như vậy là phải đảm bảo cho người sản xuất nông nghiệp có lợi nhuận ổn định , để thu hút nguồn vốn tự đến với khu vực nông nghiệp.
2.2. Giảm chi phí giao dịch và khắc phục thông tin không hoàn hảo
Kêu gọi các tổ chức phi chính phủ kết hợp với các chính sách đầu tư vốn cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng giao thông, viễn thông ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa tạo điều kiện thuận lợi có điều kiện tiệp cận nguồn vốn ngân hàng và tiếp cận với sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Tạo ra mối quan hệ tin cậy giữa người cho vay và người vay. Cần đào tạo cán bộ cho các tổ chức tín dụng và tạo thành mạng lưới, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức cho vay lưu động ở tận thôn xã, nắm bắt các thông tin thường trực khu vực mình quản lý.
Ngân hàng cần đưa ra những phương án trả nợ thích hợp cho người dân chọn lựa, như trả nợ theo định kỳ , có những ưu đãi khi trả nợ sớm,đúng hạn…
2.3. Chương trình giúp người nông dân và doanh nghiệp nông thôn sử dụng , quản lý tốt đồng vốn.
Theo khảo sát của VCCI (phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam) năm 2008, trên 70% ý kiến cho rằng người dân và doanh nghiệp còn rất yếu trong khả năng xây dựng và thuyết minh phương án sử dụng vốn vay.
Với quy mô nhỏ và đặc thù sản xuất nông nghiệp – sử dụng phần lớn tiền vốn vốn cho lao động, vật tư và đầu vào khác, DNNVV trong NN-NT hầu như không có tài sản để thế chấp hoặc nếu có thì giá trị cũng rất thấp. Vay vốn ngân hàng bằng tín chấp, do vậy, là yêu cầu khách quan và mong muốn chính đáng.
Ngân hàng là đơn vị kinh doanh, có nhiệm vụ phát triển đồng vốn. Nghiệp vụ cho vay vốn cùng lúc vận hành theo nguyên lý tìm kiếm lợi nhuận thị trường và tuân thủ chặt chẽ các quy chế quản trị rủi ro tín dụng. DN NN-NT thường có lịch sử kinh doanh và giao dịch ngân hàng ngắn. Bởi thế, căn cứ thuyết phục tốt nhất, đáng tin cây nhất với ngân hàng là con số lợi nhuận được tính toán hợp lý và khả thi trên cơ sở hiệu suất sử dụng vốn vay của chính DN.
Việc xây dựng kế hoạch kinh doanh, tính toán khả thi và đo lường hiệu suất thương mại là đòi hỏi tính chuyên môn cao, nhất là khi cần đáp ứng các tiêu chuẩn thẩm định tín dụng. Trong điều kiện hạn chế về nguồn nhân lực, tự triển khai có chi phí quá cao, thậm chí là không thể cả cho người đi vay lẫn tổ chức cấp vốn. Các chương trình hỗ trợ kỹ thuật là giải pháp giảm nhẹ chi phí từ phát huy lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Hoạt động này giúp DNNVV về các mặt chuyên môn như viết dự án, hoạch định tài chính, quy chuẩn quản trị - điều hành, hay lên phương án marketing, bán hàng và khai thác thị trường.
Hiệp hội ngành nghề và tổ chức xã hội nông thôn không chỉ chủ động tham gia quá trình xây dựng năng lực địa phương mà còn giữ vai trò quyết định thành công với hai ưu thế quan trọng. Trước tiên, những đơn vị này có con người và mạng lưới hoạt động bao phủ rộng khắp, tới từng đơn vị nhỏ nhất của cộng đồng nông thôn như thôn, xóm. Lợi thế thứ hai, như hệ quả tất yếu, là hiểu biết sâu sát và nắm vững hiện trạng. Tùy thuộc vào điều kiện thực tế, từng cán bộ khuyến nông, hội phụ nữ, hội nông dân, đoàn thanh niên, cựu chiến binh... đều có thể trở thành một chuyên gia tư vấn cho hộ kinh doanh và DN tại khu vực cư trú.
2.4. Mô hình thu hút nguồn tiết kiệm và cho vay:
- Trong khu vực nông thôn thường có những khoản tiền nhàn rỗi nhỏ nhưng số lượng thì rất nhiều nếu như có những chính sách thu hút tiết kiệm đến được tận những thôn xóm biết thì sẽ huy động được lượng vốn này, để dùy trì sự phát triển bền vững của ngân hàng.
- Đối tượng huy động vốn là thành viên của tổ với nguyên tắc gửi tiền tiết kiệm thực hiện theo quy ước đã cam kết, đặc biệt người gửi tiền được gửi và rút tiền tiết kiệm theo nhu cầu. Hình thức gửi tiền tiết kiệm không kỳ hạn bao gồm 2 loại: tiết kiệm ban đầu và tiết kiệm định kỳ. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm áp dụng không kỳ hạn, mức lãi suất được thỏa thuận theo từng thời kỳ cụ thể. Để huy động tiết kiệm người nghèo đạt hiệu quả cao, hàng tháng Chi nhánh NH tỉnh đều mở lớp tập huấn nghiệp vụ về tiền gửi tiết kiệm người nghèo thông qua tổ tiết kiệm và vay vốn tại các xã, thị trấn với đối tượng là trưởng ban xóa đói, giảm nghèo, trưởng các hội đoàn thể nhận ủy thác với NH, tổ trưởng các tổ ở các thôn, xóm.
- Bên cạnh đó, các địa phương đã tăng cường công tác tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức lồng ghép ở các hội nghị tập huấn kỹ thuật sản xuất, trên hệ thống phát thanh cơ sở để mọi người dân hiểu rõ về mục đích, ý nghĩa của mô hình huy động tiết kiệm người nghèo. Từ đó người dân và nhất là các hộ nghèo hiểu được ý nghĩa tạo thêm nguồn vốn mới, xây dựng ý thức tiết kiệm.
- Trước hết để giải ngân một chương trình tín dụng là phải có xác nhận của các tổ chức hội, đoàn thể ở cơ sở và chính quyền địa phương. Sau khi ngân hàng giải ngân, từ theo dõi quá trình sử dụng nguồn vốn vay, thu lãi, thu hồi vốn đến xử lý nợ quá hạn, nợ rủi ro cũng đều có sự tham gia của chính quyền và các hội, đoàn thể ở cơ sở.
- Bên cạnh tập huấn cho các hội, đoàn thể, ngân hàng thường xuyên củng cố các điểm giao dịch tại xã. Những chính sách ưu đãi, lãi suất, các văn bản liên quan, danh sách dư nợ… theo đó được cập nhật mới, niêm yết với mục đích thông báo, dân chủ và thông tin tuyên truyền kịp thời đến các đối tượng vay. Hàng tháng, ngân hàng giao dịch đúng theo lịch định kì, giải ngân vốn, thu nợ, thu lãi... Các buổi giao dịch tại xã giúp tiết giảm được thời gian cho ngân hàng và khách hàng, mặt khác nâng cao hiệu quả các chương trình vay thông qua giải đáp những thắc mắc, khó khăn cho khách hàng trong khi giải ngân cũng như đưa ra những giải pháp về giải quyết nợ ngay sau buổi giao dịch.
TRƯỞNG BAN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
NGÂN HÀNG CẤP HUYỆN, XÃ
NGÂN HÀNG CẤP TỈNH
TẬP HUẤN NGHIỆP VỤ
ỦY THÁC
TUYÊNTRUYỀN
VẬN ĐỘNG
HỘI NGHỊ TẬP HUẤN KTSX
PHÁT THANH
NGƯỜI DÂN
TÍNH DỤNG
TỔ
VAY VỐN
TỔ
TIẾT KIỆM
TRƯỞNG HỘI ĐOÀN
TỔ TRƯỞNG CÁC TỔ
TIẾT KIỆM
2.5. Chính sách mở rộng qui mô hoạt động của các tổ chức tín dụng hoạt đông hiệu quả, tạo cầu nối giữa tín dụng chính thức và tín dụng phi chính thức
Nếu biết khai thác và phối hợp được thế mạnh của hai khu vực sẽ đảm bảo có được nhiều dòng tín dụng và có chất lượng cao hơn cho người dân nông thôn, nhất là người nghèo. Khu vực chính thức (hệ thống ngân hàng, QTDND, các tổ chức tài chính vi mô) có nguồn vốn dồi dào hơn và có thể cho vay với lãi suất thấp; còn khu vực phi chính thức (người cho vay chuyên nghiệp, bạn bè, người thân, hội, hụi…) có cơ chế hoạt động linh hoạt, nhanh nhạy.
Mô hình các hội, nhóm như hội phụ nữ hoạt động hiệu quả trong việc quản lý sử dụng hiệu quả đồng vốn và khi cho các hội và nhóm vay với các khoản vay lớn giảm được chi phí giao dịch khi cho từng hộ dân vay. Nên có những chính sách khuyến kích thành lập các hội trong khu vực thôn xã và tạo mối gắn kết giữa các hội viên giúp nhau làm kinh tế. Qua những hội đó ngân hàng cho vay và có sự quản lý dễ hơn. Giúp cho các hội hoạt động hiệu quả thì sự thu hồi các khoản nợ cũng nhanh hơn.
Để có hiệu quả trong đồng vốn vay và tạo niềm tin giữa ngân hàng và người dân trong khu vực nông thôn thì:
Chính sách của nhà nước không phải là cấp những khoản cho vay với lãi suất thấp cho các ngân hàng hoạt động trong khu vực nông thôn mà phải đầu tư vào đội ngũ khuyến nông giúp cho hoạt động khuyến nông hoạt động hiệu quả. Đội ngũ khuyến nông không chỉ cung cấp kỹ thuật trồng trọt mà có thể kim cả cung cấp thông tin thị trường .
Sự liết kết và chia sẽ thông tin giữa nhà khoa học và các phòng khuyến nông có thể giúp cho tăng hiệu quả trong sản xuất. Qua đó ngân hàng thấy tiềm năng thu hồi vốn cao, tạo niềm tin đối với người dân, thu hút được được các ngân hàng đến với khu vực này.
KẾT LUẬN
Qua mô hình Harrod-Domar nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế chính là lượng vốn sản xuât tăng thêm có được từ đầu tư và tiết kiệm của quốc gia. Từ mô hình ta cũng lý giải thêm một lý do tại sao mà khu vực nông thôn vần còn chậm phát triển so với khu vực khác. Khi mà lượng vốn đưa vào vẫn chưa đáp ứng đủ so với nhu cầu thì sự tăng trưởng chậm cũng là điều dễ hiểu. Với một lưới rộng khắp cả nước các ngân hàng nhà nước đối tượng là khu vực nông thôn thì hiệu quả hoạt động cho vay cũng chưa hiệu quả, người dân khu vực nông thôn với khó khăn về giao thông và trình độ phát triển thì các điều kiện và quy định cho vay đối với họ là còn khá phực tạp, đôi khi còn nản lòng người đi vay, do vậy mà sự tiếp cận vốn để phát triển sản xuất là vấn đề cần giải quyết.
Do các đặc điểm của sản xuất nông nghiệp còn nhiều rủi ro mà lợi nhuận khu vực này còn thấp nên chưa thu hút lượng vốn lớn đầu tư và cho vay. Giảm rủi ro trong sản xuất nông nghiệp cũng sẽ thu hút các định chế tài chính đầu tư vào khu vực này.
Các mô hình thành công trên thế giới và qua thực tế tại Việt Nam thì để cho vay không thê chấp thì phải có các mối quan hệ rằng buộc trong xã hội, tập thế , nhóm, để cho các hộ sử dụng vốn hiệu quả. Cần khuyến khích thành lập các mô hình này và qua đó ngân hàng cho vay thông qua các hội này, sự quản lý với vốn cho vay của ngân hàng cũng dễ dàng hơn.
Nâng cao vai trò của khuyến nông trong phát triển sản xuất, có hệ thống thông tin thị trường đến từng, thôn xã.
Có thể nói phát triển thị trường tín dụng khu vực nông thôn là điều kiện tiên quyết cho sự tăng trưởng và phát triển khu vực này. Đánh thức những tiềm năng và phát huy những lợi thế để nông thôn Việt Nam đứng vững và phát triển trong kinh tế thị trường.
Tài liệu tham khảo:
1. PGS-TS Đinh Phi Hổ (2008), kinh tế học nông nghiệp bền vững, nhà xuất bản Phương Đông.
2. Nguyễn Kim Anh (2010) , “ phát triển thị trường tài chính khu vực nông thôn” tạp chí nghiên cứu kinh tế số 5
3. VIỆN CHIẾN LƯỢC NGÂN HÀNG – NHNN (2009) , “Tín dụng nông nghiệp –nông thôn Việt Nam thực trạng và định hướng phát triển sau khi gia nhập WTO” tạp chí ngân hàng số 3/2009.
4. Báo Saigontime, bài báo “Bỏ quên nông dân và người nghèo”:
5. Báo điện tử của Báo kinh tế nông thôn, bài báo “Agribank: khơi thông ngồn vốn cho nông nghiệp nông thôn” :
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kilo36 .doc