Tài liệu Đề tài Phân tích vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996 – 2000 và dự đoán cho những năm gần đây: Lời mở đầu
Nhờ có đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước mà trong những năm qua hoạt động đầu tư đă và đang phát triển mạnh mẽ về quy mô, đa dạng về nguồn vốn, ngành nghề và hình thức sở hữu, rộng rãi trên phạm vi cả nước. Trong thời gian qua, chúng ta đã có những cơ chế, chính sách và giải pháp tương đối phù hợp nên đã huy động được các nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước để làm tăng nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội. Sự phát triển của hoạt động đầu tư là một trong những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân và giải quyết nhiều vấn đề xã hội của nước nhà.
Các thông tin về hoạt động đầu tư, nhất là thông tin về vốn đầu tư phát triển, đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý kinh tế đất nước. Cùng với các chỉ tiêu tổng hợp quan trọng khác, chỉ tiêu tổng số vốn đầu tư phát triển được các nhà quản lý sử dụng để tính toán chỉ tiêu GDP trong từng quý hoặc từng năm. Chỉ tiêu này cũng giúp cho các nhà hoạch định chính sách quản lý vĩ mô ph...
75 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996 – 2000 và dự đoán cho những năm gần đây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Nhờ có đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước mà trong những năm qua hoạt động đầu tư đă và đang phát triển mạnh mẽ về quy mô, đa dạng về nguồn vốn, ngành nghề và hình thức sở hữu, rộng rãi trên phạm vi cả nước. Trong thời gian qua, chúng ta đã có những cơ chế, chính sách và giải pháp tương đối phù hợp nên đã huy động được các nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước để làm tăng nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội. Sự phát triển của hoạt động đầu tư là một trong những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân và giải quyết nhiều vấn đề xã hội của nước nhà.
Các thông tin về hoạt động đầu tư, nhất là thông tin về vốn đầu tư phát triển, đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý kinh tế đất nước. Cùng với các chỉ tiêu tổng hợp quan trọng khác, chỉ tiêu tổng số vốn đầu tư phát triển được các nhà quản lý sử dụng để tính toán chỉ tiêu GDP trong từng quý hoặc từng năm. Chỉ tiêu này cũng giúp cho các nhà hoạch định chính sách quản lý vĩ mô phù hợp ( về huy động nguồn vốn, về điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo vùng, khu vực đầu tư và ngành… ) trong từng giai đoạn phát triển kinh tế đất nước. Hơn thế nữa các thông tin về hoạt động đầu tư còn được dùng vào các nghiên cứu chuyên đề về kinh tế, tài chính, ngân hàng. Cuối cùng là một số chỉ tiêu về đầu tư có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng của một số tổ chức quốc tế cũng như các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến thị trường Việt Nam.
Qua những thực tế đó, và qua thời gian thực tập tại Tổng cục thống kê, em mạnh dạn nghiên cứu vấn đề về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội với đề tài nghiên cứu là: “ Phân tích vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996 – 2000 và dự đoán cho những năm gần đây ”.
Đề tài này gồm 3 chương chính:
Chương I: Cung cấp những khái niệm và thuật ngữ có liên quan đến hoạt động đầu tư và phát triển toàn xã hội.
Chương II: Là một số biện pháp thống kê cần dùng để phân tích việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Chương III: Là vận dụng các chỉ tiêu phân tích ở chương II nhằm phân tích tình hình thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội và dự đoán cho những năm sau.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa thống kê và các bác, các cô chú làm việc tại vụ Xây dựng, giao thông vận tải và bưu điện của Tổng cục thống kê. Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Phạm Ngọc Kiểm. Do trình độ và thời gian nghiên cứu còn hạn chế cho nên chuyên đề còn có nhiều thiếu sót và tồn tại. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô để bài viết của em được tốt hơn
Hà Nội 5-2002
Chương I
Khái quát chung về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
I. Một số khái niệm chủ yếu
Để có cơ sở phân tích tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển trước hết chúng ta phải tìm hiểu một số khái niệm, thuật ngữ sẽ được sử dụng trong đề tài này.
1. Đầu tư phát triển, vốn đầu tư phát triển, dự án đầu tư và các thuật ngữ có liên quan
Trước đây, hai thuật ngữ “đầu tư “và “đầu tư xây dựng cơ bản” thường được sử dụng và chúng thường được đi cùng với nhau để tạo thành một khái niệm “đầu tư xây dựng cơ bản “. Trong những năm gần đây ở nước ta mới là “đầu tư phát triển” và cũng tương tự như vậy đối với khái niệm “vốn đầu tư phát triển”. Các thuật ngữ này ngày càng thường xuyên xuất hiện trong các tài liệu, sách báo và trong một số trường hợp chúng được dùng thay thế cho thuật ngữ đầu tư và đầu tư XDCB.
Thực tế cho thấy rằng, có một mối quan hệ rất gần gũi giữa sự phát triển của nền kinh tế ( thể hiện ở mức tăng trưởng ) và vốn đầu tư. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao cần một nguồn vốn đầu tư lớn và ngược lại một tốc độ đầu tư cao chỉ có thể duy trì được trong một thời kì dài nhờ vào tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Có thể đây là một trong những lý do chủ yếu để hai thuật ngữ “vốn đầu tư” và “phát triển” được ghép lại với nhau để hình thành một thuật ngữ mới là “vốn đầu tư phát triển” và “vốn đầu tư phát triển toàn xã hội”.
1.1. Đầu tư
Đi vào nội dung của thuật ngữ mới này, để thuận tiện, trước tiên hãy xem xét thế nào là “đầu tư” và “vốn đầu tư”? Hai học giả người Mỹ Paul A.Samuelson và William D.Nordhaus đã định nghĩa về Đầu tư gồm 2 khái niệm hoàn toàn khác nhau như sau:
(1) Đầu tư là một hoạt động kinh tế để dành hoặc tiết kiệm tiêu dùng hiện tại nhằm tăng thêm nhiều sản lượng trong tương lai. Nó bao gồm các khoản vốn, tư liệu sản xuất hữu hình (công trình xây dựng, vật kiến trúc, máy móc và hàng tồn kho) và các khoản vốn đầu tư vô hình (giáo dục hoặc “vốn đầu tư con người”, nghiên cứu và phát triển, sức khoẻ)
(2). Theo thuật ngữ tài chính, đầu tư có một nghĩa hoàn toàn khác là bao hàm một khoản chi phí về chứng khoán, chẳng hạn như cổ phần hoặc cổ phiếu.
Hai ông cho rằng cần phân biệt rõ hai khái niệm đầu tư trên. Đối với các nhà kinh tế học, đầu tư là việc sản suất ra các tư liệu sản xuất lâu bền. Nhưng trong đời sống thì đầu tư lại thường bao hàm tiền để mua cổ phiếu hoặc mở một tài khoản tiết kiệm. Nếu một người dùng 5 triệu đồng tiền gửi tiết kiệm được để mua trái phiếu của chính phủ hoặc mua trái phiếu của ngân hàng, theo thuật ngữ kinh tế, sẽ không có hoạt động đầu tư nào xảy ra .Tất cả chẳng qua chỉ chuyển đổi một hình thái tài sản tài chính từ dạng này sang dạng khác. Chỉ khi một tư liệu sản xuất vật chất được tạo ra là lúc mà các nhà kinh tế gọi là đầu tư.
Trong qui chế đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của chính phủ cũng như trong các văn bản có liên quan của các chức năng, tuy thuật ngữ đầu tư và đầu phát triển có được sử dụng, nhưng không có một định nghĩa hoặc sự giải thích cụ thể nào về hai khái niệm này, mà chỉ đưa ra một số thuật ngữ liên quan về đầu tư và xây dựng như sau:
(1) “Dự án đầu tư” là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, hoặc duy trì, cải tiến nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định (chỉ bao gồm hoạt động đầu tư trực tiếp)
Trong thực tế quá trình thực hiện hầu hết các dự án đầu tư đều thường phải thông qua hoạt động xây dựng cơ bản, nhưng về mặt lý thuyết thì thực hiện một dự án đầu tư không nhất thiết phải bao gồm hoạt động xây dựng cơ bản.
(2) “Tổng dự toán” là tổng chi phí cần thiết cho việc đầu tư xây dựng ( chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư kể cả mua sắm thiết bị, các chi phí khác của dự án) được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật xây dựng, không vượt quá tổng mức đầu tư được duyệt.
(3) “Vốn đầu tư được quyết toán” là toàn bộ chi phí hợp pháp đã được thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác. Chi phí hợp pháp là chi phí theo đúng hợp đồng đã kí kết và thiết kế dự toán đã được duyệt, đảm bảo đúng qui chuẩn, định mức, đơn giá, chế độ tài chính – kế toán và những quy định hiện hành của Nhà nước có liên quan. Vốn đầu tư được quyết toán trong giới hạn tổng mức đầu tư đã được duyệt hoặc đã được điều chỉnh (nếu có)
1. 2 Đầu tư phát triển toàn xã hội.
“Đầu tư phát triển” là quá trình bỏ vốn để tạo ra hoặc duy trì một tài sản vật chất và phi vật chất với hi vọng nhận được lợi ích trong tương lai. Nói cách khác, đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế để dành (tiết kiệm) tiêu dùng hiện tại nhằm tăng thêm nhiều sản phẩm trong tương lai. Nó bao gồm các khoản vốn, tư liệu sản xuất hữu hình ( công trình xây dựng, vật kiến trúc, máy móc và hàng tồn kho) và các khoản vốn đầu tư vô hình (giáo dục, nghiên cứu và phát triển, sức khoẻ). Đầu tư phát triển không bao hàm các hoạt động mua bán chứng khoán, gửi tiền tiết kiệm.
Như vậy vốn đầu tư phát triển sẽ có nội dung rộng hơn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại và khôi phục tài sản trong nền kinh tế, về thực chất chỉ gồm những chi phí trực tiếp làm tăng tài sản cố định. Trong khi đó, vốn đầu tư phát triển ngoài vai trò làm tăng tài sản cố định còn làm tăng tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư và mặt bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái, hỗ trợ các chương trình mục tiêu quốc gia, hỗ trợ các hoạt động đầu tư ngắn hạn, trung hạn và dài hạn khác mà những chi phí này không thuộc vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, trong cấu thành vốn đầu tư phát triển thì vốn đầu tư XDCB vẫn là một bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Ta có thể chia vốn đầu tư phát triển làm hai phần như sau:
-Vốn đầu tư phát triển muốn phát huy tác dụng trước hết phải thông qua hoạt động xây dựng (bao gồm cả hoạt động xây dựng, lắp đặt thiết bị và mua sắm thiết bị). Như vậy, các dự án phải tiến hành hoạt động xây dựng thì vốn đầu tư của dự án sẽ thuộc nhóm này (gọi là dự án đầu tư xây dựng ).
- Vốn đầu tư phát triển muốn phát huy hết tác dụng không phải thông qua hoạt động xây dựng. Như vậy, các dự án không có hoạt động xây dựng thì vốn đầu tư của dự án sẽ thuộc nhóm này (các dự án đầu tư không thuộc xây dựng).
ở đây, chúng ta cần chú ý phân biệt tài nguyên thiên nhiên như đất đai, hầm mỏ... không được liệt vào phạm trù vốn đầu tư phát triển vì nó không được tạo ra từ các hoạt động đầu tư. Còn các khoản hoạt động đầu tư dưới dạng thiết bị máy móc, nhà xưởng, vật kiến trúc hay một số vật liệu khác cần cho quá trình khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên thì lại được xếp vào vốn đầu tư phát triển sản xuất.
Các tài sản vật chất trong quá trình sử dụng hao mòn theo thời gian và do nhu cầu sử dụng các tài sản vật chất ngày càng tăng cho nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn và tăng thêm khối lượng các tài sản vật chất mới. Quá trình này được thực hiện bởi hoạt động đầu tư nhờ vào vốn đầu tư phát triển.
“Đầu tư phát triển toàn xã hội” là những chi phí bỏ ra gắn liền với việc làm tăng thêm tài sản cho toàn xã hội
1. 3 Tổng mức vốn đầu tư
“Tổng mức vốn đầu tư” là giới hạn chi phí tối đa mà người có thẩm quyền quyết định đầu tư cho phép chủ đầu tư lựa chọn các phương án thực hiện dự án đầu tư. Tổng mức vốn đầu tư bao gồm những chi phí cho việc chuẩn bị đầu tư (điều tra khảo sát, lập và thẩm định dự án), chi phí chuẩn bị thực hiện đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư và xây dựng, chi phí chuẩn bị sản xuất, nghiệm thu, lãi vay ngân hàng của chủ đầu tư trong thời gian thực hiện dự án, vốn lưu động ban đầu cho sản xuất (đối với dự án sản xuất), chi phí bảo hiểm công trình, chi phí quản lý dự án, các khoản thuế theo qui định, chi phí cho thẩm định phê duyệt quyết toán và chi phí dự phòng.
Tổng số vốn đầu tư phát triển để tích luỹ còn được gọi là tài sản quốc gia. Về phương diện vật chất, tài sản quốc gia như là một kết quả của quá trình đầu tư bao gồm các loại: công xưởng, nhà máy, các trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các cơ sở hạ tầng, hàng hoá tồn kho các loại, các công trình công cộng và nhà ở....
Thành phần chi tiết của tổng mức vốn đầu tư của các dự án đầu tư có xây dựng cơ bản bao gồm:
* Vốn chuẩn bị đầu tư gồm các khoản chi phí:
- Điều tra, khảo sát, nghiên cứu phục vụ cho lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi.
- Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi (kể cả tư vấn) hoặc lập báo cáo đầu tư.
- Phí thẩm định dự án.
* Vốn chuẩn bị thực hiện dự án đầu tư gồm các khoản chi phí:
- Dàn xếp về vốn (trong trường hợp vay vốn nước ngoài được ngân hàng Nhà nước chấp nhận).
- Đấu thầu thực hiện dự án và xét thầu.
- Các dịch vụ tư vấn kĩ thuật, tư vấn hỗ trợ quản lý, giám sát, tư vấn xây dựng.
- Chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kĩ thuật ban đầu.
- Khảo sát thiết kế xây dựng.
- Thiết kế, thẩm định thiết kế.
- Lập và thẩm định tổng dự toán, dự toán công trình.
- Đền bù giải phóng mặt bằng.
- Thực hiện tái định cư có liên quan đến đền bù giải phóng mặt bằng của dự án (nếu có).
- Chuẩn bị mặt bằng.
* Vốn thực hiện đầu tư gồm:
- Chi phí thiết bị.
- Chi phí xây dựng và lắp đặt thiết bị.
- Các chi phí khác:
+ Sử dụng mặt đất, mặt nước.
+ Đào tạo.
+ Lập phương án phòng chống cháy, nổ theo qui định về phòng cháy, chữa cháy.
* Chi phí chuẩn bị sản xuất: chi phí nguyên, nhiên vật liệu, nhân công để chạy thử không tải và có tải trừ đi giá sản phẩm thu hồi được.
* Nghiệm thu.
* Lãi vay của chủ đầu tư trong thời gian thực hiện đầu tư được xác định thông qua hợp đồng tín dụng.
* Vốn lưu động ban đầu cho sản xuất ( đối với dự án sản xuất ) do Bộ Tài chính qui định.
* Dự phòng.
* Quản lý dự án.
* Các khoản thuế theo quy định.
Thẩm định phê duyệt quyết toán
2. Phân loại vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Để dễ dàng cho việc nghiên cứu người ta phân loại vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo nhiều tiêu thức khác nhau
2.1.Phân loại vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo thành phần kinh tế.
Theo quyết định số 147-TCTK-PPCĐ ngày 27/12/1993 của Tổng cục trưởng tổng cục thống kê, chia các khu vực và thành phần kinh tế ở Việt Nam như sau:
A Khu vực kinh tế trong nước
1. Thành phần kinh tế Nhà nước
2. Thành phần kinh tế tập thể
3. Thành phần kinh tế tư nhân
4. Thành phần kinh tế cá thể
5. Thành phần kinh tế hỗn hợp
B – Khu vực có vốn đầu tư nước noài
1. 100% vốn nước ngoài
2. Liên doanh với thành phần kinh tế Nhà nước
3. Liên doanh với thành phần kinh tế tập thể
4. Liên doanh với thành phần kinh tếtư nhân
5. Liên doanh với thành phần kinh tế cá thể
6. Liên doanh với thành phần kinh tế hỗn hợp
C – Khu vực kinh tế đầu tư ra nước ngoài
1. Thành phần kinh tế Nhà nước
2. Thành phần kinh tế tập thể
3. Thành phần kinh tế tư nhân
4. Thành phần kinh tế cá thể
5. Thành phần kinh tế hỗn hợp
Đề tài này chỉ nghiên cứu đối với hai khu vực kinh tế đầu tiên, do khu vực kinh tế thứ ba ở nước ta hiện nay chưa phát triển là bao, nếu không muốn nói là hầu như không có.
Thành phần kinh tế Nhà nước
Thành phần kinh tế Nhà nước là các đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm tỉ lệ khống chế.
Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước (kinh tế quốc doanh), các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước (đất đai, tài nguyên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia…)
Như vậy, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất của kinh tế Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước trước hết là các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp cổ phần được hình thành trên cơ sở:
- Nhà nước đầu tư xây dựng.
- Quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư bản tư nhân.
- Góp cổ phần khống chế đối với các doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra, với bản chất Nhà nước XHCN, Nhà nước xác định đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài chính, ngân hàng… do Nhà nước nắm giữ, chi phối để điều tiết, định hướng sự phát triển kinh tế – xã hội.
Kinh tế Nhà nước sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo chủ trương của Đảng ta, kinh tế Nhà nước cần tập trung vào các ngành, lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, những cơ sở sản xuất kinh doanh, thương mại, dịch vụ quan trọng, những cơ sở kinh tế phục vụ an ninh quốc phòng và vấn đề xã hội, để đảm bảo những cân đối lớn, chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường.
Thành phần kinh tế tập thể
Thành phần kinh tế tập thể bao gồm các tổ chức kinh tế (thường được gọi là hợp tác xã) được hình thành phải trên cơ sở tự nguyện, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Mô hình của hợp tác xã phải phù hợp với quy mô sản xuất kinh doanh, trình độ trang bị kỹ thuật, lao động, vốn và khả năng quản lý. Hiện ở nước ta có các loại hình hợp tác xã sau đây: Hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã ngư nghiệp, hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã vận tải, hợp tác xã xây dựng, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã dịch vụ tổng hợp ...
Thành phần kinh tế tư nhân
Thành phần kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân là do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh.
Thành phần kinh tế cá thể
Thành phần kinh tế cá thể bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh nhỏ trực tiếp tham gia nhưng chưa đủ điều kiện thành lập công ty tư nhân. Nhóm này hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực nông nghiệp xây dựng, vận tải, thương mại, dịch vụ, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Chủ hộ chịu trách nhiệm về vốn và kết quả hoạt động kinh doanh của mình.
Chú ý rằng liên quan đến đầu tư phát triển, hàng năm các hộ dân cư (bao gồm cả các hộ kinh doanh cá thể ) còn bỏ ra một lượng rất lớn vốn đầu tư xây dựng vào các công trình phục vụ sinh hoạt cho họ, nhất là đầu tư vào nhà ở. Như vậy trong đề tài này vốn đầu tư của dân sẽ được bao gồm trong vốn đầu tư phát triển của thành phần kinh tế cá thể.
Thành phần kinh tế hỗn hợp
Thành phần kinh tế hỗn hợp bao gồm các đơn vị kinh tế được thành lập trên cơ sở liên doanh của các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và dẫn đến việc thành lập các doanh nghiệp theo Luật công ty. Thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp gồm có công ty trách nhiệm hữu hạn (TNNH), công ty cổ phần (CP) và công ty hợp danh (HD), gọi chung là công ty.
Công ty là dạng doanh nghiệp có tư cách pháp nhân trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình. Công ty được quyền tự do lựa chọn loại hình kinh doanh, mặt hàng kinh doanh.
2.2. Phân loại vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo nguồn vốn đầu tư.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước nhà, vốn đầu tư toàn xã hội ngày nay rất đa dạng, được hình thành từ nhiều nguồn vốn, có thể được phân loại chi tiết như sau:
* Vốn ngân sách Nhà nước: (bao gồm ngân sách trung ương và địa phương).Vốn ngân sách được hình thành từ tích luỹ của nền kinh tế dùng để đầu tư theo kế hoạch Nhà nước, đối với những cơ sở hạ tầng kinh tế, các dự án trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, các dự án xây dựng công trình phúc lợi công cộng, quản lý Nhà nước, công trình khoa học kĩ thuật an ninh quốc phòng và các dự án trọng điểm của Nhà nước do Chính phủ quyết định và không có khả năng trực tiếp thu hồi vốn.
* Vốn tín dụng ưu đãi thuộc ngân sách Nhà nước.
Dùng để đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo việc làm, các dự án đầu tư của các ngành có khả năng thu hồi vốn được xác định trong cơ cấu kế hoạch của Nhà nước. Vốn tín dụng ưu đãi thuộc ngân sách Nhà nước hình thành từ ngân sách Nhà nước, vốn thu hồi nợ từ các năm trước, vốn Chính phủ vay nợ nước ngoài theo mục tiêu dự án thoả thuận với nước ngoài. Việc bố trí đầu tư do Chính phủ quyết định cụ thể cho từng đối tượng trong thời kì kế hoạch. Vốn vay này được hưởng lãi suất ưu đãi hoặc không có lãi theo dự án công trình do Chính phủ quyết định.
* Vốn tín dụng thương mại
Dùng để đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng đổi mới kĩ thuật, và công nghệ các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ có quả, có khả năng thu hồi vốn và có đủ điều kiện vay vốn theo qui định hiện hành. Vốn tín dụng thương mại được áp dụng theo cơ chế tự vay tự trả và thực hiện đầy đủ các thủ tục vào đầu tư và điều kiện vay trả vốn. Vốn tín dụng thương mại được ngân hàng Nhà nước cho vay trực tiếp các chủ đầu tư, theo hình thức vay ngắn hạn, dài hạn với lãi suất bình thường.
* Vốn tự huy động của các doanh nghiệp Nhà nước:
Dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm; doanh nghiệp phải sử dụng theo đúng chế độ quản lí vốn đầu tư hiện hành, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Vốn này hình thành từ lợi nhuận để lại, sau khi đã nộp đủ thuế cho Nhà nước, tiền từ thanh lí tài sản, từ vốn khấu hao được Nhà nước cho để lại, từ vốn cổ phần, vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác và từ quỹ của doanh nghiệp có thể huy động được, cũng như các khoản tự vay khác mà doanh nghiệp tự có.
* Vốn hợp tác với các liên doanh nước ngoài của doanh nghiệp Nhà nước theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:
Vốn này là của các tổ chức cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam bằng tiền nước ngoài hoặc tài sản thiết bị máy móc kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
* Vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh
Là vốn của chủ đầu tư vào các đơn vị tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như các hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần dùng vào đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn này gồm vốn tự có và vốn vay của các tổ chức nói trên để đầu tư cho các công trình của mình. Riêng vốn đầu tư của các hộ cá thể dân cư khi cần Nhà nước sẽ tổ chức điều tra sau (đây là khoản vốn đầu tư của các hộ cá thể vào các công trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các công trình phục vụ sinh hoạt). (Lưu ý rằng: đối với các dự án đầu tư có nguồn vốn của tư nhân hoặc hộ cá thể thì chủ đầu tư cũng đồng thời là chủ sở hữu vốn đầu tư; đối với các dự án đầu tư của các công ty và các hợp tác xã thì chủ đầu tư là người đại diện theo pháp luật của công ty hoặc hợp tác xã đó).
* Vốn góp của nhân dân
Là huy động nhân dân đóng góp bằng tiền, bằng hiện vật hoặc công lao động của các dự án đầu tư chủ yếu sử dụng vào xây dựng công trình phúc lợi công cộng phục vụ trực tiếp cho người đóng góp vốn theo các điều kiện cam kết khi huy động vốn.
* Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI):
Là phần vốn đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư liên doanh một phần hoặc đầu tư 100% vốn tại Việt Nam. Đối với các dự án liên doanh với nước ngoài, vốn này không bao gồm phần Việt Nam đóng góp. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi).
* Những nguồn vốn khác:
Ngoài những nguồn vốn nói trên, còn có vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và các cơ quan nước ngoài được phép xây dựng trên nước ta, sẽ được quản lí theo hiệp định hoặc thoả thuận đã đưọac kí kết của Chính phủ với các tổ chức cơ quan đó.
2.3. Phân loại vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo vùng và lãnh thổ.
Nước ta bao gồm 8 vùng địa lý như sau:
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
2.4. Phân loại vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo ngành kinh tế.
Nước ta có những ngành kinh tế như sau:
Nông nghiệp và lâm nghiệp
Thuỷ sản
Công nghiệp khai thác mỏ
Công nghiệp chế biến
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
Xây dựng
Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô...
Khách sạn và nhà hàng
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc.
Tài chính, tín dụng.
Hoạt động khoa học và công nghệ.
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản.
Quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng.
Giáo dục và đào tạo.
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội.
Hoạt động văn hoá và thể thao.
Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội.
Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng.
Hoạt động làm thuê công việc gia đình...
Hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế.
II. Vai trò của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong nền kinh tế quốc dân.
Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm tổng cầu tăng. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Việc tăng tiêu dùng lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mọi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng ( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư ) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư (như Việt Nam thời kỳ 1982 – 1989) cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu phát huy tác động tích cực, duy trì được sử ổn định kinh tế của toàn bộ nền kinh tế.
Đầu tư tác động tăng trưởng và phát triển kinh tế
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15% - 25% so với GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.
Vốn đầu tư
ICOR =
Mức tăng GDP
Từ đó suy ra:
Vốn đầu tư
Mức tăng GDP =
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 – 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 – 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách kinh tế trong nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng thấp.
Bảng 1: Tỷ lệ đầu tư và tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người của một số nước phát triển.
Các nước
Đầu tư/GDP ( % )
Tăng trưởng (Lần)
1965 – 1989
1965
1989
Mỹ
Anh
Tây Đức
Pháp
Nhật
Thụy Sỹ
12
13
24
21
28
30
15
21
19
21
33
30
1.6
2.0
2.4
2.3
4.3
4.6
Nguồn: Báo cáo của ngân hàng thế giới
Các nước Nhật và Thụy Sỹ có tỷ lệ đầu tư/GDP lớn lên tốc độ tăng trưởng cao.
Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực vậy, ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một: “ cú hích ban đầu ”, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế ( các nước NICs, các nước Đông Nam á ).
Đối với Việt Nam, để đạt được mục tiêu đến năm 2000 tăng gấp đôi tổng sản phẩm quốc nội theo dự tính của các nhà kinh tế cần một khối lượng đầu tư gấp 3,5 lần so với năm 1992, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP đạt 24,7%.
Bảng 2: Các chỉ tiêu kinh tế từ 1992 - 2000.
Chỉ tiêu
1992
1995
2000
GDP ( Tỷ USD )
Tốc độ tăng GDP ( % )
Hệ số ICOR
Đầu tư ( tỷ USD )
Tỷ lệ đầu tư/ GDP ( % )
11.8
8.3
2.0
1.8
12
18.2
8.0
2.5
3.6
20.5
26.8
8.0
3.0
6.4
24.7
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư.
Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 – 10%) là tăng cường đầu tư tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 – 6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị, … cũng như những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị, máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất – kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là các hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất và kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất – kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất – kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất – kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động chi phí đầu tư
chương II
hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
I. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
Hệ thống chỉ tiêu phản ánh quy mô đầu tư.
- Tổng mức vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo:
Phân theo cấu thành.
Phân theo nguồn vốn.
Phân theo ngành kinh tế quốc dân.
2. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh kết quả đầu tư.
Hệ thống chỉ tiêu này bao gồm tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm.
Tài sản cố định huy động: Là từng công trình hoặc hạng công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập, làm ra sản phẩm hàng hóa hoặc tiến hành các sản phẩm dịch vụ cho xã hội dược ghi trong dự án đầu tư, đã kết thúc quá trình xây lắp, đã làm xong thủ tục nghiệm thu, sử dụng và có thể đưa vào hoạt được ngay.
Các tài sản cố được định huy động toàn bộ hay huy động bộ phận:
+ Huy động toàn bộ là huy động cùng một lúc tất cả các đối tượng hạng mực không có khả năng phát huy tác dụng độc lập trong dự án, không có dự kiến cho phát huy tác dụng độc lập, đã kết thúc quá trình xây dựng và sẵn sàng có thể huy động được ngay.
+ Huy động bộ phận là huy động từng đối tượng, hạng mục xây dựng của công trình và hoạt động ở những thời điểm khác nhau do thiết kế quy định.
Nói chung, đối với công cuộc đầu tư quy mô lớn, có nhiều đối tượng, hạng mục xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập thì được áp dụng hình thức huy dộng bộ phận sau cho từng đối tượng, hạng mục đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, lắp đặt: Còn đối với các công cuộc đâùu tư quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn thì áp dụng hình thức huy động toàn bộ khi tất cả các đối tượng, hạng mục công trình đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm và lắp đặt.
Năng lực mới tăng: (hay còn gọi là công suất mới huy động) là khả năng sản xuất ( hoặc phục vụ ) tính theo thiết kế đã được phê chuẩn của công trình hoàn thành đã bàn giao cho đơn vị sử dụng theo đúng chế độ nghiệm thu bàn giao công trình.
Năng lực sản xuất mới tăng bao gồm: năng lực sản xuất và phục vụ sản xuất của công trình tính theo thiết kế. Trường hợp mở rộng, đổi mới thiết bị hoặc khôi phục từng phần của công trình thì chỉ tính phần năng lực mới tăng thêm do đầu tư xây dựng cơ bản mới tạo ra.
Cơ sở xác định năng lực mới tăng dựa vào :
+ Biên bản nghiệm thu công trình.
+ Bản thiết kế xây dựng công trình
Sản phẩm xây dựng cơ bản nào cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng như bất kỳ một loại hàng hoá nào khác, nó được sản xuất ra để thoả mãn nhu cầu nào đó của sản xuất hoặc tiêu dùng với tư cách là một loại hàng hoá thông thường được đem trao đổi trên thị trường. Khối lượng sản phẩm hàng hoá mà ngành xây dựng đã tạo ra cho xã hội được xem xét về mặt số lượng, chất lượng về chủng loại. Các đối tượng xây dựng có tác dụng trực tiếp như một định hướng cụ thể để hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung và đổi mới trong từng ngành kinh tế nói riêng.
Các tài sản cố định hoạt được huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là sản phẩm cuối cùng của công cuộc đầu tư, chúng được thể hiện bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Các chỉ tiêu biểu hiện bằng hiện vật như số lượng các tài sản cố định hoạt động (số lượng nhà ở, bệnh viện, cửa hàng, trường học, nhà máy…). Công suất hay năng lực phát huy tác dụng của tài sản cố định được huy động (như số căn hộ, số mét vuông diện tích nhà ở, số chỗ ngồi ở rạp hát, trưòng học, số giường nằm của bệnh viện, số KW giờ của nhà máy điện, số tấn than khai thác hàng năm của các mỏ than, số mét vải dệt hàng năm của các nhà máy dệt…), mức tiêu dùng nguyên vật liệu trong một đơn vị thời gian( số tấn mía chế biến trong một ngày đêm của các nhà máy làm đường…)
Chỉ tiêu giá trị các tài sản cố định huy động được tính theo giá dự toán hoặc giá trị thực tế tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng chúng trong công tác nghiên cứu kinh tế hoặc quản lý hoạt động đầu tư . Cụ thể giá dự toán được sử dụng làm cơ sở để tính giá trị thực tế của tài sản cố định, để lập kế hoạch về vốn đầu tư và tính khối lượng đầu tư thực hiện. Giá trị dự toán là cơ sở để tiến hành thanh quyết toán giữa chủ đầu tư và các đơn vị nhận thầu. Còn giá trị thực tế của các tài sản cố định huy động được sử dụng để kiểm tra việc thực hiện kỷ luật tài chính, dự toán đối với các công cuộc đầu tư từ nguồn vốn ngân sách cấp, để ghi vào bảng cân đối tài sản cố định của cơ sở, làm một cơ sở để tính khấu hao hàng năm, phục vụ công tác hạch toán của cơ sở, đánh giá kết quả hoạt động tài chính của cơ sở.
Sử dụng chỉ tiêu giá trị cho phép xác định toàn bộ khối lượng các tài sản cố định được huy động của tất cả các ngành, đánh giá tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch và sự biến động của chỉ tiêu này ở mọi cấp độ quản lý khác nhau.
Giá trị tài sản cố định được huy động:
Công thức:
Trong đó
F: Giá trị tài sản được cố định được huy động trong kỳ
:Vốn đầu tư được thực hiện ở các thời kỳ trước chưa được huy động chuyển sang kỳ nghiên cứu (xây dựng dở dang đầu kỳ)
:Vốn đầu tư thực hiện kỳ nghiên cứu
C: Chi phí trong kỳ không làm tăng gía trị tài sản cố định
: Vốn đầu tư chưa được huy động chuyển sang kỳ sau (xây dựng cơ bản dở dang cuối kỳ)
Đối với từng dự án đầu tư, giá trị tài sản cố định huy động chính là những đối tượng, hạng mục công trình có khả năng phát huy tác dụng độc lập của dự án đã hoàn thành bàn giao đưa vào hoạt động theo công thức :
Trong đó
Ivo: Vốn đầu tư đã thực hiện của đối tượng đã được huy động
C: Chi phí không làm tăng giá trị tài sản cố định ( như lương chuyên gia, chi phí khánh thành, đền bù hoa màu…)
3. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư.
3.1. Hiệu quả sử dụng vốn.
Công thức:
Kết quả thu được do thực hiện đầu tư
Hv =
Số vốn đầu tư đã thực hiện để tạo ra kết quả trên
Hv được coi là có hiệu quả khi Hv >Hv0
Hv0: Là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn định mức, hoặc của các kỳ khác được chọn làm cơ sở so sánh, hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩn hiệu quả.
3.2.Hệ số ICOR
Là đại lượng phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư , đánh giá nhu cầu về vốn tư để đảm bảo cho GDP tăng trưởng. Hệ số ICOR cao hay thấp thể hiện số vốn cần nhiều hay ít cho sự tăng trưởng. Hệ số ICOR thay đổi tuỳ theo điều kiện xã hội của mỗi nước, tuỳ theo từng thời kỳ khác nhau, tuỳ thuộc vào bố trí cơ cấu kinh tế, hiệu quả sử dụng các sản phẩm dịch vụ.
Có 3 phương pháp tính hệ số ICOR.
Phương pháp thứ nhất được tính bằng công thức:
IV(%)
ICOR =
(lần) IG(%)
Trong đó: IV : tỷ lệ giữa vốn đầu tư phát triển so với GDP
IG : tốc độ tăng GDP (tính theo giá so sánh)
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: Để GDP tăng 1% đòi hỏi tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP phải đạt bao nhiêu %?
Phương pháp thứ 2 được tính bằng công thức:
Vt1
ICOR =
(lần) Gt1 – Gt0
Trong đó: Vt1: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của năm báo cáo
Gt1: GDP tính theo giá thực tế của năm báo cáo
Gto: GDP tính theo giá thực tế của năm trước
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: Để tính GDP theo giá thực tế tăng 1 đồng đòi hỏi phải có bao nhiêu đồng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ?
Phương pháp thứ 3 được tính bằng công thức:
VS1
ICOR =
(lần) GS1 – GS0
Trong đó: VS1: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của năm báo cáo theo giá so sánh
GS1: GDP tính theo giá so sánh của năm báo cáo
GSo: GDP tính theo giá so sánh của năm trước
Hệ số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: Để tính GDP theo giá so sánh tăng 1 đồng đòi hỏi phải có bao nhiêu đồng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tính theo giá so sánh?
Ba phương pháp tính trên đã đưa ra những kết quả khác nhau nhưng trên thực tế người ta thường sử dụng phương pháp thứ 3.
II. Hệ thống chỉ tiêu phân tích và dự doán vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Phân tích và dự đoán thống kê là nêu một cách tổng hợp và bản chất cụ thể và tính quy luật của hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội số lớn trong điều kiện lịch sử nhất định, qua biểu hiện bằng số lượng và tính toán các mức độ của hiện tượng trong tương lai nhằm đưa ra những căn cứ cho quyết định quản lý
1. Hệ thống chỉ tiêu phân tích vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
1.1. Các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian.
Để phản ánh sự biến động của vốn đầu tư phát triển qua các năm, chúng ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian thông dụng trong khoa học thống kê.
Dãy số thơì gian (DSTG) là một dãy các chỉ số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian
Ví dụ:
Năm
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
Thực hiện vốn đầu tư phát triển
79367.4
96870.4
97336.1
105204.1
120600.0
499378.0
- Cấu tạo của DSTG bao gồm hai phần :
* Thời gian (ngày, tháng, quý, năm)
* Chỉ tiêu về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội (các trị có thể biểu hiện bằng số tuyệt đối,số tương đối hoặc số trung bình )
1.1.1. Mức độ trung bình qua thời gian.
Chỉ tiêu này nói lên mức độ đại diện của vốn đầutư phát triển toàn xã hội hội trong suốt thời gian nghiên cứu
Công thức:
Với (i=1-n) là các mức độ của dãy số
1.1.2. Lưọng tăng (giảm) tuyệt đối.
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức tuyệt đối về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giữa hai thời gian nghiên cứu (thường là giữa các năm).Tuỳ theo mục đích mà chúng ta sử dụng lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn, lượng tăng (giảm) tuyệt đối định gốc hay lượng tăng (giảm) tuyệt đối trung bình
+ Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn năm thứ i so với năm thứ i-1.
Chỉ tiêu này nói lên sự thay đổi của hiện tượng ở hai thời gian liền nhau.
- Ký hiệu:
- Công thức :
(i=2,3,…,n)
Trong đó:
* Vi: vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm thứ i.
* Vi-1: vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm thứ i-1.
+ Lượng tăng (giảm) tuyệt đối định gốc: Phản ánh sự thay đổi quy mô của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong thời gian dài.
- Ký hiệu:
- Công thức :
, (i=2,3…,n)
Trong đó:
- ViS: Vốn đầu tư phát triển năm thứ tính theo giá so sánh (giá năm gốc).
- Vi: vốn đầu tư phát triển năm thứ i.
+ .Lượng tăng (giảm ) tuyệt đối trung bình: Đó là mức độ đại diện hay đại biểu của các lượng tăng (giảm) tuyệt đối từng kỳ.
- Ký hiệu: .
- Công thức:
1.1.3. Tốc độ phát triển của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Tốc độ phát triển là một số tương đối (số lần hoặc %) phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của vốn đầu tư phát triển qua các năm. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu ta có các tốc độ phát triển liên hoàn, tốc độ phát triển định gốc và tốc độ phát triển bình quân. Để thuận tiện, ta coi năm đầu tiên là năm gốc.
+ Tốc độ phát triển liên hoàn năm thứ i so với năm thứ 1.
- Ký hiệu:
- Công thức:
(lần,%) (i=)
Trong đó:
- Vi : vốn đầu tư phát triển năm thứ i
- Vi-1 : vốn đầu tư phát triển năm thứ i-1
+ Tốc độ phát triển định gốc: Phản ánh sự phát triển của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong thời gian dài.
- Ký hiệu:
- Công thức:
(lần,%) (i=)
Trong đó:
- ViS : vốn đầu tư phát triển năm thứ i tính theo giá so sánh ( giá năm gốc)
- V1 : vốn đầu tư phát triển năm thứ 1
+ Tốc độ phát triển trung bình:
Là mức độ đại diện của các tốc độ phát triển liên hoàn hay nhịp điệu phát triển điển hình của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong suốt thời gian nghiên cứu.
- Ký hiệu :
- Công thức:
1.1.4.Tốc độ tăng hoặc giảm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Tốc độ tăng hoặc giảm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phản ánh mức độ của vốn đầu tư phát triển giữa hai năm đã tăng (+) hoặc giảm (-) bao nhiêu lần hoặc bao nhiêu %. Tương ứng với tốc độ phát triển chúng ta có các tốc độ tăng hoặc giảm liên hoàn, tốc độ tăng hoặc giảm định gốc, hay tốc độ tăng hoặc giảm bình quân
+ Tốc độ tăng hoặc giảm liên hoàn, là tỷ số giữa lượng tăng giảm liên hoàn năm thứ i so với vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ở năm thứ i-1.
- Ký hiệu:
- Công thức
(lần) (i=)
Nếu tính bằng % thì
at = ti –100 (%)
+ Tốc độ tăng/ giảm định gốc của vốn đầu tư phát triển của năm thứ i so với năm gốc, là tỷ số giữa lượng tăng / giảm định gốc năm thứ i so với vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm thứ 1.
- Ký hiệu:
- Công thức:
(lần) (i=)
Nếu Ti tính bằng % thì
Ri=Ti-100 (%)
+ Tốc độ tăng giảm trung bình.
- Ký hiệu:
- Công thức:
2. Phương pháp biểu hiện xu thế biến động cơ bản của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Dãy số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội qua thời gian có ưu điểm là phản ánh mức độ cụ thể, thực tế của hiện tượng trong suốt quá trình biến động .Tuy nhiên, nó lại bị tác động của các yếu tố ngẫu nhiên khách quan, nên thông thường dãy số không vạch rõ được xu hướng, tính quy luật của bản thân hiện tượng. Ta phải điều chỉnh dãy số biến động sao cho có thể xoá bỏ đến mức cao nhất ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên nói trên, để cho xu hướng, quy luật được bộc lộ một cách rõ ràng
Phương pháp hồi quy theo thời gian
Trên cơ sở DSTG, phương pháp phân tích hồi quy theo thời gian là sử dụng mô hình toán học nào đó (gọi là phương trình hồi quy) nhằm mô tả quy luật phát triển và cấu trúc của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội .Trên cơ sở đó ước lượng các thông số của mô hình và cắt nghĩa kinh tế xã hội của mô hình đó.
Với biến thời gian là t, dạng tổng quát của phương trình hồi quy có thể được biểu diễn như sau:
Trong đó :
: Mức độ của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội được tính toán toàn diện dựa theo mẫu cụ thể.
: Thứ tự thời gian.
: Các tham số
Sau khi đã xác định dạng của phương trình hồi quy thì phải đi tìm giá trị cụ thể của các tham số a,b,..k. Thông thường, giá trị cụ thể này được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Một số dạng cụ thể:
* Phương trình tuyến tính
Các tham số a, b được xác định như sau:
* Phương trình parabol bậc hai
Các tham số a, b, c, được xác định bởi công thức
* Phương trình hàm mũ.
Phương trình hàm mũ được sử dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ nhau.
Các tham số a, b, được xác định bởi hệ phương trình sau :
* Phương trình hàm hypebol
Phương pháp biểu hiện biến động thời vụ
Sự biến động của một số hiện tượng kinh tế xã hội thường có tính thời vụ, nghĩa là hàng năm trong từng thời gian nhất định, sự biến động thường được lặp đi lặp lại. Nguyên nhân xảy ra biến động thời vụ là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên như thời tiết, khí hậu, động đất …và phong tục tập quán của dân cư. Nghiên cứu biến động thời vụ nhằm hạn chế những ảnh hưởng của biến động thời vụ đối với sản xuất lúc thì căng thẳng, khẩn trương lúc thì nhàn rỗi bị thu hẹp lại.
Xác định tính chất và mức độ biến động của thời vụ thường dùng phương pháp tính các chỉ số thời vụ:
Trong đó :
: Chỉ số thời vụ của thời gian i
: Số trung bình của các mức độ ttrong dãy số
: Số trung bình của các mức độ của các thời gian cùng tên i
1.2. Mô tả thống kê.
Các kỹ thuật thống kê mô tả có thể được vận dụng vào bước phân tích số liệu. Chúng ta có thể áp dụng các kỹ thuật của thống kê mô tả như bảng biểu, đồ thị, để tình bày một cách xúc tích và trực giác các chỉ tiêu được tính toán ở phần trên. qua đó các đặc trưng về xu hướng và biến động qua các năm của vốn đầu tư phát triển được bộc lộ một cách rõ ràng.
Chúng ta có thể lập các bảng biểu, vẽ đồ thị sử dụng một số phân tổ chính phục vụ cho mục đích nghiên cứu của chúng ta. Một số tiêu chí phân tổ chính có thể là:
- 8 vùng lãnh thổ và 61 tỉnh/ thành phố trực thuộc trung ương.
- 20 nghành kinh tế cấp 1.
- Cáckhu vực kinh tế
Căn cứ vào các phân bộ chính nêu trên, chúng ta có thể sử dụng kết hợp một số tiêu chí tạo ra một loạt bảng tổng hợp tuỳ theo mục đích nghiên cứu của mình.
Bảng thống kê là một hình thức trình bày các tài liệu thống kê một cách có hệ thống, hợp lí và rõ ràng. Nếu biết trình bày và sử dụng thích đáng các bảng thống kê thì việc chứng minh mọi vấn đề sẽ trở nên rất sinh động, có sức thuyết phục hơn cả những bài văn dài.
Bảng thống kê bao gồm các hàng ngang và cột dọc, các tiêu đề và các số liệu.
Các hàng ngang và cột dọc phản ánh qui mô của bảng. Số hàng ngang, cột dọc càng nhiều thì bảng thống kê càng lớn và phức tạp. Các hàng ngang, cột dọc cắt nhau tạo thành các ô dùng để điền các số liệu thống kê vào đó. Các hàng ngang, cột dọc thường được đánh số thứ tự để tiện cho việc sử dụng và trình bày vấn đề.
Tiêu đề của bảng phản ánh nội dung của bảng và của từng chi tiết trong bảng. Trước hết có tiêu đề chung là tên gọi chung của bảng, thường viết ngắn, gọn, dễ hiểu và đặt ở phía trên đầu của bảng. Các tiêu đề nhỏ (còn gọi là tiêu mục) là tên riêng của mỗi hàng và cột phản ánh nội dung các hàng và cột đó.
Các số liệu được ghi vào các ô của bảng, mỗi con số phản ánh một đặc trưng về mặt lượng của hiện tượng nghiên cứu.
Cấu thành của bảng thống kê có thể biểu hiện bằng sơ đồ sau:
Tên bảng tống kê
(tiêu đề chung)
Phần giải thích
Chỉ tiêu giả thích (tên cột)
Tổng số
Phần chủ đề
1
2
3
…..
n
Tên chủ đề( tên hàng)
Tổng số
Có thể chia làm ba loại bảng thống kê: giản đơn, phân tổ và kết hợp.
+Bảng giản đơn: Là loại bảng mà phần chủ đề không phân tổ, chỉ sắp xếp các đơn vị tổng thể theo tên gọi, theo địa phương hoặc theo thời gian nghiên cứu.
Ví dụ:
Thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội từ năm 1996 đến năm 2000
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Vốn ngân sách nhà nước
12120,6
14068,2
16819,0
17244,8
20785,5
21315,1
Trung ương
6989,3
7626,4
8062,9
7824.2
9658,1
9896,3
Địa phương
5131,3
6441,8
8756,1
9420,6
11127,4
11418,8
+ Bảng phân tổ: Là loại bảng trong đó đối tượng nghiên cứu ghi trong phần chủ đề được phân chia thành các tổ theo một tiêu thức nào đó.
+ Bảng kết hợp: Là loại bảng thống kê trong đó đối tượng nghiên cứu ghi ở phần chủ đề được phân tổ theo hai, ba tiêu thức kết hợp với nhau. Nó dùng để biểu diễn kết quả của việc phân tổ theo nhiều tiêu thức.
Đồ thị thống kê: Là các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để miêu tả có tính chất qui ước các tài liệu thống kê khác. Khác với các bảng thống kê chỉ dùng con số, các đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với hình vẽ, đường nét và màu sắc để trình bày các đặc điểm số lượng của hiện tượng. Chính vì vậy, đồ thị thu hút sự chú ý của người đọc, nó giúp ta nhận thức được những đặc điểm cơ bản của hiện tượng một cách dễ dàng, nhanh chóng. Đồ thị còn giúp ta kiểm tra bằng hình ảnh độ chính xác của những thông tin. Đồ thị thống kê có thể biểu thị:
- Kết cấu của hiện tượng theo tiêu thức nào đó và sự biến đổi của kết cấu.
- Sự phát triển của hiện tượng theo thời gian.
- Tình hình thực hiện kế hoạch.
- Mối liên hệ giữa các hiện tượng.
- Sự so sánh giữa các mức độ của hiện tượng
- ….
Căn cứ theo nội dung phản ánh có thể phân chia đồ thị thống kê thành nhiều loại khác nhau:
2. Các chỉ tiêu dự đoán thống kê ngắn hạn.
2.1. Dự đoán thống kê ngắn theo thời gian.
2.1.1. Dự doán dựa vào hàm xu thế
Hàm xu thế :
Dự đoán ở thời gian t+l:
với l=1,2,3…
2.1.2 Dự doán dựa vào lượng tăng giảm tuyệt đối trung bình.
Công thức :
Dự báo
với l=1,2,3…
2.1.3Dự đoán dựa vào tốc độ phát triển trung bình.
Công thức :
Dự báo
- Dự đoán cho khoảng thời gian dưới 1 năm (quý ,tháng)
Công thức :
Với : Mức độ dự đoán cho thời gian j(j=1,2,3..),của năm i(i=1,2)
: Tổng các mức độ của thời gian j
2.2. Dự đoán dùng hàm xu thế kết hợp với thành phần thời vụ.
Các thành phần của DSTG t có thể được giả thiết gồm ba thành phần:
Xu thế () phản ánh xu hướng phát triển của hiện tượng nói lên tính quy luật của hiện tượng kéo dài theo thời gian.
Biến động thời vụ có tính chất lặp đi lặp lại trong thời gian nhất định của năm.
Ngẫu nhiên xuất hiện ở những thời gian khác nhau với những mức độ khác nhau, xu hướng khác nhau làm sự vật hiện tượng lệch khỏi xu hướng của nó.
Kết hợp cộng :
Kết hợp nhân:
Mô hình hoá :
Mô hình tuyến tính.
Ta xét trường hợp kết hợp đơn giản nhất dùng để phân tích các thành phần DSTG, đó là:
+ Xu thế tuyến tính : .
+ Kết hợp cộng.
Từ đó ta có :
(*)
Trong thực tế tính toán dựa vào bảng Buys Ballot (B.B)
j
Năm
1
J
1
i
j
n
`
trong đó
Tìm được a, b, Cj, ta bắt đầu dự đoán bằng cách thay các giá trị t lần lượt vào phương trình (*) với các Cj tuơng ứng.
Chương III
Vận dụng một số chỉ tiêu phân tích thống kê để phân tích tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996-2000 và dự đoán cho những năm tới
I. Phân tích tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển thời kì 1996-2000.
1.Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996-2000.
Trong những năm vừa qua, Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương: Giải phóng sức lao động, động viên tối đa mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh. Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế....Để phát huy và tận dụng tối đa mọi nguồn lực sẵn có của mọi thành phần kinh tế trong nước nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế của đất nước.Với chủ trương đúng đắn đó, Đảng và nhà nước ta đã thực sự thay đổi về cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh, thay đổi trên khắp các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, ở hầu khắp các ngành nghề, các vùng và lãnh thổ của đất nước. Chúng ta đã tận dụng khai thác tối đa có kết quả các nguồn vốn đầu tư phát triển trên toàn xã hội.
Để nghiên cứu tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ta xét các bảng sau:
Bảng 1: Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996-2000 ( theo giá so sánh)
Vốn đầu tư thực hiện ( tỷ đồng)
Lượng tăng/ giảm tuyệt đối liên hoàn (tỷ đồng)
Lượng tăng/ giảm tuyệt đối định gốc (tỷ đồng)
Tốc độ phát triển liên hoàn (%)
Tốc độ phát triển định gốc (%)
1995
1996
1997
1998
1999
2000
60757,0
67489,0
79204,5
75579,7
80087,4
91807,3
-
6732,3
11715,2
-3624,8
4507,7
11719,9
-
6732,3
18447,5
14822,7
19330,4
31050,3
-
111,08
117,35
95,42
105,96
114,63
-
111,08
130,06
124,39
131,82
151,10
Trung bình
59335,609
6210,06
18076,64
108,88
129,75
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 2: Thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo nguồn vốn từ năm 1996-2000
1995
1996
1997
1998
1999
2000
5 Năm
1996-2000.
Bình quân 5 năm 1996-2000
Tổng số
60757
67489.3
79204,5
75579,7
80087,4
918707,
394168,2
78833,6
I/ Vốn nhà nước
23257,0
,30522,5
38077,5
40793,3
49713,3
56865,7
215972,3
43194,5
1. Vốn ngân sách nhà nước
1210,6
14068,2
16819,0
17244,8
20785,5
21315,1
90232,6
18046,5
Trung ương
6989,3
7626,4
8062,9
7824,2
9658,1
9896,3
43067,9
8613,6
Địa phương
65131,3
6441,8
8756,1
9402,6
11127,4
11418,8
47164,7
9432,9
2. Vốn tín dụng ưu đãi
2735,7
7041,0
10384,0
7931,6
14463,9
18803,0
58623,5
11724,7
3.Vốn của các DNNN
8400,7
9413,3
10874,5
15616,9
14463,9
16747,6
67116,2
13423,2
II/ Vốn ngoài quốc doanh
17857,1
17664,1
16352,7
15917,9
15986,4
17889,5
83810,6
16762,1
III/ Vốn đầu tư trực tiếp của NN
19642,9
19302,7
24774,3
18868,5
14387,7
17052,1
94385,3
18877,1
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 3: Cơ cấu tỷ trọng cácnguồn vốn thực hiện vốn đầu tưphát triển toàn xã hội (1996-200)
Đơn vị %
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
I/ Vốn nhà nước
38,3
45,2
48,1
54,0
62,1
61,9
1. Vốn ngân sách nhà nước
19,9
20,8
21,3
22,9
26,0
23,2
Trung ương
11,5
11,3
10,2
10,4
12,1
10,8
Địa phương
8,4
9,5
11,1
12,5
13,9
12,4
2. Vốn tín dụng ưu đãi
4,5
10,4
13,1
10,4
18,1
20,5
3.Vốn của các DNNN
13,9
14,0
13,7
20,7
18,1
18,2
II/ Vốn ngoài quốc doanh
29,4
26,2
20,6
21,0
20,0
19,5
III/ Vốn đầu tư trực tiếp của NN
32,3
28,6
31,3
25,0
18,0
18,6
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 4: Tốc độ phát triển định gốc vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 19962000
Đơn vị: %
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
100
111,1
130,4
124,4
131,8
151,1
I/ Vốn nhà nước
100
131,2
163,7
175,4
231,8
244,5
1. Vốn ngân sách nhà nước
100
116,1
138,8
142,3
171,5
175,9
Trung ương
100
109,1
115,4
111,9
138,2
141,6
Địa phương
100
125,5
170,6
183,6
216,9
222,5
2. Vốn tín dụng ưu đãi
100
257,4
379,6
289,9
528,9
687,3
3.Vốn của các doanh nghiệp nhà nước
100
112,1
129,4
185,9
172,2
199,4
II/ Vốn ngoài quốc doanh
100
98,9
91,6
89,1
89,5
100,2
III/ Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
100
98,3
126,1
96,1
73,2
86,8
Nguồn: Tổng cục thống kê
Từ những bảng trên ta thấykết quả thực hiện vốn đầu tưphát triển toàn xã hội tăng liên tục qua các năm và tăng với tốc độ khá cao, trừ năm 1998 có giảm chút ítso với năm 1997.
Cụ thể ở bảng1, năm 1998, Tổng vốn đầu tư phát triển giảm 4,6% tức là giảm 3624,8 tỷ năm 1999, tổng mức vốn đầu tư tăng lên rất ít,chỉ tăng 6% so với năm 1998, tương đương là tăng 4507,7 tỷ so với năm 1998. Với nguyên nhân chủ yếu là do nguồn vốn ngoài nước đã giảm: cụ thể nguồn vốn ngoài nước giảm như sau, năm 1996 vốn ngoài quốc doanh chiếm 26,2% trong tổng số vốn đâu tư và vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm 28,6% trong tổng số. Nhưng đến năm 1998 thì vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài chỉ còn chiếm là 25% và đến năm 2000 thì chiếm 18,6% trong tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Về số tuyệt đối thì ta thấy: năm 1998 giảm 5905,8 tỷ so với năm 1997, năm 1999 giảm 10368,8 tỷ so với năm 1997 và giảm 4480,8 tỷ so với năm 1998, còn năm 2000 thì giảm 7722,2 tỷ so với năm 1997 và tăng 2664,4 tỷ so với năm 1999. Như chúng ta đã biết, nguyên nhân chủ yếu là do cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á trong thời gian vừa qua. Nó làm giảm lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, do vậy đã làm cho tổng nguồn vốn giảm. Hiện nay cuộc khủng hoảng kinh tế đã tạm thời lắng xuống, nền kinh tế Châu á đang được phục hồi. Chúng ta phải có những biện pháp cụ thể để thu hút vốn đầu tư từ nứơc ngoài, do đó thúc đẩyquá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Từ bảng cơ cấu tỷ trọng các nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tỷ trọng vốn đầu tư trong nước so với tổng số vốn ngày càng tăng. Nguồn vốn nhà nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, năm1996, chiếm 42,5% trong tổng số nhưng đến năm 1999 đã chiếm 62,1% và năm 2000 chiếm 62% trong tổng số các nguồn vốn. Các nguồn vốn thuộc vốn nhà nước đều có tốc độ tăng nhanh, đặc biệt là vốn tín dụng ưu đãi là tăng nhanh hơn cả. Năm 1996, vốn tín dụng ưu đãi chiếm 10,4% trong tổng số vốn, tăng157,4% so với năm 1995. Năm 1999 chiếm 18,1% trong tổng số vốn và tăng 428,9% so với năm 1997 và năm 2000 vốn tín dụng ưu đãi chiếm 20,5% trong tổng số vốn và tăng 587,3% so với năm 1997. Tỷ trọng vốn đầu tư trong nước tăng nhanh là một điều đáng mừng, nó cho thấy chủ trương phát huy, khai thác nội lực, tranh thủ ngoại nhập của Đảng và nhà nước ta đã đi đúng hướng và đạt được kết quả bước đầu. Hơn nữa điều đó còn tạo cho nước ta thế chủ động trong chiến lược phát triển kinh tế. Nhưng để tạo điều kiện thuận lợi có chiến lược phát triển kinh tế toàn xã hội, một mặt phải tăng tỷ trọng đầu tư từ ngân sách, đồng thời phải có chính sách ưu đãi, khuyến khích từ dân, từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, dặc biệt là đầu tư từ nước ngoài.
Cũng vẫn trong bảng tỷ trọng này, ta thấy nguồn vốn ngoài quốc doanh có xu hướng giảm đi. Năm 1995 nguồn vốn ngoài quốc doanh chiếm 29,4% trong tổng số các nguồn vốn, năm 1996 giảm xuống chỉ còn chiếm 26,2%. Năm 1998 chiếm 21%, năm 1999 chiếm 20% và năm 2000 chỉ chiếm 19,5% trong tổng số các nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Điều này làm cho chúng ta phải đặt ra một câu hỏi:Tại sao nguồn vốn ngoài quốc doanh lại giảm? Bởi vì, trong những năm vừa qua, nhà nước ta đã có những chính sách khuyến khích thực hiện vốn đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và trên thực tế, lực lượng sản xuất của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển nhanh chóng cả về phạm vi quy mô hoạt động. Và hơn nữa, từ khi có luật doanh nghiệp ra đời, rất nhiều các công ty ngoài quốc doanh được thành lập, nhất là công ty trách nhiện hữu hạn và công ty tư nhân. Như thế ta thấy vốn đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên thực tế là tăng nhanh. Có sự sai lệch đáng kể về số liệu như đã thấy là do công tác thống kê kinh tế xã hội của nước ta chưa được hoàn thiện, hiện nay, chúng ta mới chỉ nắm được một cách tương đối có hệ thống về vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách quản lý, vốn tín dụng ưu đãi thuộc ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng thương mại, vốn tự huy động của các doanh nghiệp nhà nước, vốn hợp tác liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước. Còn các nguồn vốn thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, vốn huy động trong nhân dân, chúng ta chưa có một hệ thống chỉ tiêu báo cáo và điều tra định kỳ hàng năm.
Để thấy rõ sự thay đổi về cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ta có hai biểu đồ sau.
Biểu đồ1: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 1995 (%)
Biểu đồ2: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 2000 (%)
2. Thực trạng thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của nước ta.
Trong những năm vừa qua, nhà nước đã có sự đầu tư đúng đắn vào các ngành nghề cho nên việc sản xuất, tiêu thụ hàng hoá của các thành phần kinh tế phát triển mạnh, bước đầu rút ngắn khoảng cách về đời sống văn hóa giữa thành thị và nông thôn. Hàng hoá tiêu dùng thiết yếu đã có mặt trên thị trường và trên khắp mọi miền của đất nước, kể cả các vùng sâu vùng xa, không còn cảnh khan hiếm hàng hoá như trước nữa. Chúng ta đã tận dụng được nguyên liệu tại chỗ, lao động tại chỗ và tiêu thụ các loại sản phẩm làm ra tại chỗ, đồng thời còn dư thừa để giao lưu hàng hoá đến khắp các vùng trong cả nước và thậm chí còn xuất khẩu.
Để thấy rõ hơn nữa những mặt tích cực cũng như những mặt hạn chế trong việc thực hiện vốn đầu tư phát triển xã hội ta xét các bảng sau:
Bảng 5: Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo giá so sánh 1994 phân theo ngành kinh tế. (Đơn vị: tỷ đồng)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng số
60757
67489
79204
75579
78997
Nông nghiệp và Lâm nghiệp 120,1 113,3 118.6
Thuỷ sản
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp khai thác 116,2 88,8 92,9 Sản xuất và phân phối điện, 0,7 135,4 169,2 175,9
Sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước
Xây dựng
Thương nghiệp, sửa chữa xe máy, đồ dùng cá nhân 123,3 138,3 146,6 153,4
Khách sạn, nhà hàng
Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc
Tài chính, tín dụng
Hoạt động khoa học và công nghệ
Hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản dịch vụ, tư vấn
Quản lý Nhà nước, ANQP và
đảm bảo xã hội bắt buộc
Giáo dục và đào tạo
Y tế và hoạt động cứu trợ Xã hội
Hoạt động văn hoá thể thao
Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
Hoạt động phục vụ cá nhân cộng
đồng
4212
443
3005
9226
8740
1363
193
3463
11029
77
149
1874
1676
1152
486
837
208
11841
4371
496
3112
11841
10548
2034
854
3928
11054
87
170
2112
1984
1248
695
826
248
11867
5061
731
3492
11241
11835
2282
959
4407
14165
98
197
2370
2256
1402
1008
927
278
16486
4774
851
2667
11393
14787
2153
1016
3343
12680
71
132
2689
1812
1579
894
1146
109
13475
4996
891
2791
11926
15377
2253
1064
3498
19269
75
136
2815
1896
1652
935
1199
114
14105
Bảng 6: Tốc độ phát triển vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo giá so sánh 1994 phân theo ngành kinh tế. (Đơn vị: %)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng số
100.0
111.1
130.4
124.4
130.0
Nông nghiệp và Lâm nghiệp 120,1 113,3 118.6
Thuỷ sản
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp khai thác 116,2 88,8 92,9 Sản xuất và phân phối điện, 0,7 135,4 169,2 175,9
Sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước
Xây dựng
Thương nghiệp, sửa chữa xe máy, đồ dùng cá nhân 123,3 138,3 146,6 153,4
Khách sạn, nhà hàng
Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc
Tài chính, tín dụng
Hoạt động khoa học và công nghệ
Hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản dịch vụ, tư vấn
Quản lý Nhà nước, ANQP và
đảm bảo xã hội bắt buộc
Giáo dục và đào tạo
Y tế và hoạt động cứu trợ XH
Hoạt động văn hoá thể thao
Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
Hoạt động phục vụ cá nhân cộng
đồng
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
103.8
111.8
103.6
128.3
120.7
124.4
123.3
113.4
100.2
113.1
117.9
112.2
118.4
108.3
143.1
98.7
119.3
100.2
120.1
164.8
116.2
121.8
135.4
139.5
138.3
127.2
128.4
126.9
132.3
126.5
134.6
121.6
207.6
110.7
133.6
139.2
113.3
191.9
88.8
123.5
169.2
131.6
146.6
96.5
115.0
92.8
88.4
143.5
108.1
137.0
184.0
136.8
52.8
113.8
118.6
200.8
92.9
129.2
175.6
137.7
153.4
101.0
120.3
97.2
95.6
150.2
113.1
143.3
192.5
143.2
55.2
119.1
Bảng 7: Cơ cấu tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội theo giá so sánh 1994 phân theo ngành kinh tế. (Đơn vị: %)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng số
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
Nông nghiệp và Lâm nghiệp 120,1 113,3 118.6
Thuỷ sản
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp khai thác 116,2 88,8 92,9 Sản xuất và phân phối điện, 0,7 135,4 169,2 175,9
Sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước
Xây dựng
Thương nghiệp, sửa chữa xe máy, đồ dùng cá nhân 123,3 138,3 146,6 153,4
Khách sạn, nhà hàng
Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc
Tài chính, tín dụng
Hoạt động khoa học và công nghệ
Hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản dịch vụ, tư vấn
Quản lý Nhà nước, ANQP và
đảm bảo xã hội bắt buộc
Giáo dục và đào tạo
Y tế và hoạt động cứu trợ XH
Hoạt động văn hoá thể thao
Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
Hoạt động phục vụ cá nhân cộng
đồng
6.93
0.7
4.9
15.2
14.4
2.7
1.1
5.7
18.1
-
0.2
3.0
2.7
1.9
0.8
1.4
0.3
19.5
6.5
0.73
4.6
17.5
15.6
3.0
1.3
5.8
16.4
-
0.26
3.2
2.9
1.8
1.0
1.2
0.36
17.6
6.4
0.9
4.4
14.2
14.9
2.9
1.2
5.5
17.9
-
0.24
3.0
2.8
1.7
1.3
1.1
0.35
20.8
6.3
1.1
3.5
15.0
19.5
2.8
1.3
4.4
16.7
-
0.2
3.5
2.4
2.0
1.2
1.5
0.1
17.8
6.3
1.1
3.5
15.1
19.6
2.8
1.3
4.4
16.8
-
0.29
3.5
2.4
2.1
1.2
1.5
0.11
17.8
Qua các bảng trên ta thấy cơ cấu vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo ngành kinh tế đã có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
Ngành nông lâm nghiệp có tốc độ phát triển ngày càng tăng. Năm 1996 tăng 3,8% so với năm 1995 tương đương với tăng 159 tỷ đồng nhưng năm 1997 đã tăng 20,1% so với năm1995 tức là tương đương tăng 849 tỷ ( tăng 690 tỷ so với năm 1996). Năm 1998 mặc dù vốn đầu tư vào ngành nông lâm nghiệp có giảm so với năm 1997 nhưng so với năm 1996, 1995 thì vẫn tăng khá nhiều, năm1998 tăng 13,3% so với năm 1995 và năm1999, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội vào ngành nông lâm nghiệp tăng 19,6% so với năm 1995. Điều này vẫn phù hợp với chủ trương của Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển liên tục, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, xuất khẩu lương thực từ 3 đến 4 triệu tấn/ năm. Vốn đầu tư phát triển trong ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn giai đoạn 1996-2000, bình quân mỗi năm chiếm tỷ trọng từ 37% đến 39% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, góp phần tích cực làm tăng trưởng kinh tế.Trong ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tích cực. Vốn đầu tư vào sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng số vốn đầu tư, cụ thể năm 1996 chiếm 15,6% tổng số vốn đầu tư nhưng đến năm 1998 đã chiếm 19,5% và năm 2000 chiếm 19,6% trong tổng nguồn vốn đầu tư. Vốn đầu tư vào công nghiệp chế biến cũng có tỷ trọng ngày càng tăng năm 1997 chiếm 14,2%, năm 1998 chiếm 15,07% và năm 1999 chiếm 15,1% trong tổng số vốn đầu tư. Nhưng đầu tư vào công nghiệp khai thác lại có xu hướng giảm, năm 1996, vốn đầu tư vào công nghiệp khai thác chiếm 4,6% trong tổng số vốn nhưng năm 1997 chiếm 4,4% và năm 1998, 1999 chỉ chiếm tỷ trọng 3,5% trong tổng số vốn.điều này cũng phù hợp với chủ trương của Đảng và nhà nước ta đó là: Ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển có chọn lọc nột số ngành công nghiệp nặng mà chúng ta có nhu cầu và có khả năng. Để ngành công nghiệp phát triển hơn nữa chúng ta cần phải chú trọng đầu tư vào một số ngành mũi nhọn mang tính chiến lược có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế như: dầu khí, da giầy….
Vấn đề đặt ra là phải gắn sản xuất nông lâm nghiệp thuỷ sản với công nghiệp chế biến. Mặc dù đầu tư vào công nghiệp chế biến có tăng nhưng cũng chưa tăng đáng kể lắm.Do vậy tăng đầu tư vào cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị cho công nghiệp chế biến. Hơn nữa để làm tăng giá trị mặt hàng xuất khẩu, tránh thất thoát lãng phí nâng cao chất lượng hàng tiêu dùng và xấát khẩu thị trường khu vực.
Vốn đầu tư cho ngành giao thông vận tải, bưu điện cũng được chú trọng trọng, giai đoạn 1996-2000 vốn đầu tư cho ngành này bình quân ở mức 16% đến 17% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Như vậy mà kết cấu hạ tầng phát triển mạnh nhất nhất là hệ thống đường giao thông cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống đường giao thông nông thôn được cải tạo nâng cấp hàng chục vạn km đường,95% số xã có đường ô tô vào đến trung tâm, hệ thống thông tin liên lạc được thông suốt. Những kết quả trên đây có tác dụng đẩy nhanh phát triển kinh tế xã hội,nâng cao đời sống vật chất tinh thần văn hoá cho nhân dân tạo môi trường tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Vốn đầu tư vào các ngành giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế xã hội, văn hoá thể thao nhìn chung đều tăng lên. Ngành giáo dục và đào tạo năm 1997 chiếm tỷ trọng về vốn đầu tư trong tổng số vốn là 1,7%, năm 1998 chiếm 2,0% và năm 1999 chiếm 2,1% trong tổng số vốn. Ngành hoạt động văn hoá thể thao năm 1996 chiếm 1,2% vốn đầu tư trong tổng nguồn vốn, đến năm 1998 và năm 1999 thì chiếm 1,5% trong tổng số vốn đầu tư phát triển. Đầu tư cho khoa học công nghệ năm 1997 chiếm 0,24% trong tổng số vốn, năm1998 chiếm 0,2% và năm 1999 chiếm 0,29% trong tổng số vốn.
Ngành hoạt động phục vụ cá nhân cộng đồng có quy mô vốn đầu tư phát triển lớn nhất. Năm1996 là 11867 tỷ, chiếm 20,8% và tổng nguồn vốn đầu tư, năm1997đạt 16486 tỷ, chiếm 20,85 và năm 1998 là 13467 tỷ, năm 1999 là 14103 tỷ đều chiếm 17,8% trong tổng nguồn vốn. Từ năm 1997 đến năm 2000, tốc độ phát triển của đầu tư vào ngành này có giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn đầu tư phát triển. Điều này chứng tỏ sự quan tâm đúng mức của Nhà nước đến đời sống tinh thần của nhân dân.
3.Kết quả hoạt động đầu tư phát triển toàn xã hội.
Kết quả cuối cùng của hoạt động đầu tư phát triển toàn xã hội là tài sản cố định mới và năng lực sản xuất tăng thêm. Những kết quả này đóng góp trực tiếp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó chính là cơ sở để phát huy tác dụng của vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Tài sản cố định mới tăng thêm là tài sản cuối cùng biểu hiện dưới dạng hiện vật. Năng lực sản xuất mới tăng thêm phản ánh khả năng phát huy tác dụng của các tài sản mới tăng thêm để tạo ra sản phẩm cho ngành sản xuất dịch vụ.
Bảng 8: Giá trị tài sản cố định mới tăng thuộc vốn đầu tư toàn xã hội theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế (đơn vị: tỷ đồng)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng số
57777.7
62305.9
74894.0
50265.3
73109.2
Nông nghiệp và Lâm nghiệp 120,1 113,3 118.6
Thuỷ sản
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp khai thác 116,2 88,8 92,9 Sản xuất và phân phối điện, 0,7 135,4 169,2 175,9
Sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước
Xây dựng
Thương nghiệp, sửa chữa xe máy, đồ dùng cá nhân 123,3 138,3 146,6 153,4
Khách sạn, nhà hàng
Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc
Tài chính, tín dụng
Hoạt động khoa học và công nghệ
Hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản dịch vụ, tư vấn
Quản lý Nhà nước, ANQP và
đảm bảo xã hội bắt buộc
Giáo dục và đào tạo
Y tế và hoạt động cứu trợ XH
Hoạt động văn hoá thể thao
Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
Hoạt động phục vụ cá nhân cộng
đồng
3664.9
392.4
3692.3
8371.1
9264.7
1398.6
443.3
3328.8
9757.9
73.7
150.3
1780.3
1585.6
961.9
397.3
667.1
184.5
11662.5
3409.4
434.1
2735.8
9522.2
8529.3
1764.5
398.6
3224.2
12958.4
66.9
119.9
1812.3
1602.9
963.3
474.3
603.9
123.8
13562.0
3909.3
691.5
3467.9
13315.3
8678.8
2465.0
861.2
5206.9
17155.9
82.9
42.7
2529.1
1147.0
1739.9
981.8
572.3
81.0
11965.5
3498.6
901.9
226.1
7719.1
4321.4
1374.4
1231.9
1338.5
10982.2
10.2
101.2
945.4
1547.3
2046.0
970.7
1249.2
95.3
11678.2
4263.8
741.4
233.5
11065.9
9432.6
2490.3
1689.6
440.3
15334.7
589.2
98.3
728.3
2383.9
3078.7
1242.8
1574.5
1993.2
13586.4
Bảng 9: Cơ cấu giá trị tài sản cố định mới tăng thuộc vốn đầu tư toàn xã hội theo giá hiện hành phân theo ngành kinh tế (Đơn vị: %)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng số
100
100
100
100
100
Nông nghiệp và Lâm nghiệp 120,1 113,3 118.6
Thuỷ sản
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp khai thác 116,2 88,8 92,9 Sản xuất và phân phối điện, 0,7 135,4 169,2 175,9
Sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước
Xây dựng
Thương nghiệp, sửa chữa xe máy, đồ dùng cá nhân 123,3 138,3 146,6 153,4
Khách sạn, nhà hàng
Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc
Tài chính, tín dụng
Hoạt động khoa học và công nghệ
Hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản dịch vụ, tư vấn
Quản lý Nhà nước, ANQP và
đảm bảo xã hội bắt buộc
Giáo dục và đào tạo
Y tế và hoạt động cứu trợ XH
Hoạt động văn hoá thể thao
Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội
Hoạt động phục vụ cá nhân cộng đồng
6.3
0.7
6.4
14.5
16.0
2.4
0.8
5.8
16.9
0.1
0.3
3.1
2.7
1.7
0.7
1.2
0.3
20.2
5.5
0.7
4.4
15.3
13.7
2.8
0.6
5.2
20.8
0.1
0.2
2.9
2.6
1.5
0.8
1.0
0.2
21.8
5.2
0.9
4.6
17.8
11.6
3.3
1.1
7.0
22.9
0.1
0.1
3.4
1.5
2.3
1.3
0.8
0.1
16.0
7.0
1.8
0.4
15.4
8.6
2.7
2.5
2.7
21.8
0.0
0.2
1.9
3.1
4.1
1.9
2.5
0.2
23.2
5.8
0.1
3.2
15.1
12.9
3.4
2.3
0.6
20.9
0.8
0.1
1.0
3.2
4.2
1.7
2.1
2.7
18.5
Qua bảng ta thấy quy mô giá trị tài sản cố định mới tăng của các ngành kinh tế năm 1996, 1997 tăng lên nhưng đến năm 1998 lại giảm đi vào năm 1999 giá trị tài sản cố định mới tăng một cách đáng kể so với năm 1998 tuy nhiên vẫn kém so với năm 1997. Cụ thể năm 1996 giá trị tài sản cố định mới tăng thuộc nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội vơí năm 1996, năm 1998 giá trị tài sản mới tăng thêm chỉ đạt 50623.3 tỷ, giảm 24603,7 tỷ so với năm 1997.Tuy nhiên đến năm 1999, giá trị tài sản cố định mới lại tăng lên, đạt được 73109,2 tỷ, tăng 22843.9 tỷ so với năm 1998 nhưng vẫn giảm 1784,8 tỷ so với năm 1997.
Về tỷ trọng giá trị tài sản cố định mới tăng thuộc vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân theo ngành thì có 3 ngành thì ta thấy chiếm tỷ trọng cao trong tổng số ngành là ngành công nghiệp, ngành giao thông vận tảivà bưu điện và ngành phục vụ cá nhân và cộng đồng. Do tài sản cố định chỉ được tính khi đã hoàn thành công trình, bàn giao và đưa vào sử dụng. Nên một số ngành tuy có vốn đầu tư lớn nhưng giá trị tài sản cố định mới tăng thấp do chưa hoàn thành công trình, vốn đầu tư thực hiện còn dở dang. Chẳng hạn, như ngành công nghiệp. Năm 1996 giá trị tài sản cố định mới đạt 20787,3 tỷ đồng tăng , chiếm tỷ trọng là 33,4%, năm1997 đạt 25462 tỷ chiếm tỷ trọng là 34% năm 1998 chỉ đạt 12266,6 tỷ đồng, chiếm 24,4%, giảm cả về quy mô tỷ trọng so với năm 1997. Năm1999, đạt 22834 tỷ, giảm so với năm1997 là 2628 tỷ, chỉ chiếm 31,2% trong tổng số, giảm 2,8% so với tỷ trọng năm 1997.
Ngành giao thông vận tải và bưu điện cũng gặp phải tình trạng tương tự với tỷ trọng giá trị tài sản cố định mới tăng giảm dần qua các năm. Năm 1997 đạt 17155,9 tỷ chiếm tỷ trọng là 22,9%, năm 1998 chỉ đạt 10982,2 tỷ giảm 6173,7 tỷ chiếm 21,85, năm 1999 đạt 15334,7 tỷ giảm so với năm 1997 là 1821 tỷ chiếm 20,9%.
Ngành thứ 3 có giá trị tài sản cố định mới tăng chiếm tỷ trọng cao sau 2 ngành trên đó là ngành hoạt động phục vụ cá nhân cộng đồng. Ngành này, năm 1996 có giá trị tài sản cố định mới tăng là13562tỷ chiếm 21,8% trong tổng số giá trị tài sản cố định mới tăng thuộc vốn đầu tư toàn xã hội. Năm1997, giá trị tài sản cố định mới tăng có giảm so với năm 1996 đạt 11965,5tỷ chiếm 16% trong tổng số. Năm1998, giá trị này về quy mô thì giảm chỉ đạt 11678,2 tỷ nhưng lại bị chiếm tỷ trọng cao nhất đó là 23,2% trong tổng số. Đến năm 1999, quy mô về giá trị tài sản cố định mới có tăng so với năm 1998, chỉ chiếm 18,5%. Mặc dù về quy mô và tỷ trọng, giá trị tài sản cố định mới tăng của ngành phục vụ cá nhân và cộng đồng có tăng, có giảm nhưng vẫn là cao so với các ngành khác. Điều đó nơi nên rằng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến đời sống tinh thần của nhân dân và sự quan tâm đó đã đạt được những kết quả như mong muốn.Ngoài 3 ngành trên có quy mô giá trị tài sản cố định mới tăng là lớn nhất các ngành giáo dục và đào tạo, ngành hoạt động văn hoá thể thao, ngành y tế hoạt động cứu trợ cũng có giá trị tài sản cố định mới tăng khá đều qua các năm qua. Ngành giáo dục và đào tạo có giá trị mới tăng 936,3 tỷ đồng năm 1996 lên 1739,9 tỷ năm 1997 là 2046 tỷ đồng vào năm 1998 và đạt 3078,7tỷ vào năm 1999. Sự gia tăng này khẳng định chủ trương của xã hội hoá giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước bằng cách cao hơn nữa cơ sở vật chất của ngành này. Ngành nông nghiệp có giá trị tài sản cố định mới tăng vào năm 1998 giảm 410,7 tỷ giảm 10,5% so với năm 1997 nhưng lại tăng dần qua các năm sau do một số công trình được xây dựng vào những năm trước nhưng lại bắt đầu đưa vào dụng từ năm 1998.
Xét giá trị tài sản cố định mới tăng là ta đã xét đến chỉ tiêu hiện vật, để phản ánh khả năng phát huy tác dụng của các giá trị tài sản cố định mới tăng trên ta xem xét năng lực sản xuất tăng thêm trong một số lĩnh vực.
Trong năm năm vừa qua nước ta đã hoàn thành và đưa vào sử dụng hàng trăm công trình lớn nhỏ nhằm phát triển cơ sở hạ tầng đất nước. Do đó năng lực sản xuất cuả các ngành kinh tế cũng như chất lượng sinh hoạt đời sống của nhân dân được cải thiện một cách đáng kể….Một số ngành đã đáp ứng được gần sát với thực tế nhu cầu của thành phố như điện, nước, giao thông vận tải.
Chỉ tiêugiá trị tài sản cố định mới tăng thêm và năng lực sản xuất mới tăng chỉ phản ánh được mặt lượng, để nghiên cứu mặt chất của quá trình đầu tư phát triển toàn xã hội ta sẽ nghiên cứu hệ số ICOR
4.Hệ số ICOR.
Vốn đầu tư phát triển là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng tăng trưởng kinh tế không chỉ dựa vào lượng vốn đầu tư nhiều hay ít mà quan trọng hơn cả là dựa vào hiệu quả sử dụng của lượng vốn này cao hay thấp. Phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư có nhiều chỉ tiêu nhưng tổng hợp nhất vẫn là hệ số ICOR, hệ số giữa vốn đầu tư và phát triển toàn xã hội với sự tăng lên của GDP tính theo giá so sánh.
Ta có công thức hay được dùng nhất của hệ số ICOR đó là:
VS1
ICOR = ------------
GS1 – GS0
Trong đó:
Vs1: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tính theo giá so sánh
Gs1 và Gs0: GDP tính theo giá so sánh của năm báo cáo và năm trước.
Hệ số ICOR của nước ta các năm như sau (đơn vị lần).
1996
1997
1998
1999
2000
Ước tính cho 2001
3,7
4,5
5,7
6,9
5,3
5,6
Điều đó có nghĩa là tính theo giá so sánh, để GDP tăng lên 1 đồng năm 1996 chỉ cần đầu tư 3,6 đồng, năm 1997 đầu tư 4,5 đồng, năm 1998 đầu tư 5,6 đồng, năm 1999 cần phải đầu tư 6,9 đồng, năm 2000 đầu tư 5,3 đồng. Ta thấy hiệu quả đầu tư giảm nhanh từ năm 1996, đạt mức thấp nhất trong năm 1999 và năm 2000 đã khá hơn nhưng vẫn chưa đạt mức 1997 trở về trước.Tình hình trên do nhiều nguyên nhân gây ra, nhưng nguyên nhân cốt yếu vẫn liên quan đến vốn đầu tư.
Trước hết là căn cứ vào điểm xuất phát, là mục tiêu đầu tư. Vẫn còn trang đầu tư chủ yếu xuất phát từ khả năng có thể làm được gì, mà chưa căn cứ vào nhu cầu thị trường cần cần gì kéo dài trong nhiều năm. Đã đầu tư những công trình làm ra sản phẩm cung đã vượt cầu, làm ra sản phẩm thay thế nhập khẩu hơn là xuất khẩu, đầu tư vào những công trình cần nhiều vốn hơn là cần nhiều lao động. Kết quả sản xuất tăng nhưng tiêu thụ lại chậm. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vào công sở…. Rất quan trọng nhưng lại là lĩnhvực không tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ nên không trực tiếp thu hồi vốn và có lãi, trong khi đó có một bộ phận quan trọng còn phải vay dân, vay nước ngoài, còn phải trả cả vốn lẫn lãi. Đầu tư còn dàn trải vào thi công lại kéo dài làm cho vốn bị “chôn” vào nhiều công trình bị phân tán, nhiều công trình dở dang tình trạng này bắt nguồn từ sự co kéo nguồn vốn ngân sách hay ODA. Ngoài lý do trên tình trạng thi công còn kéo dài còn do các khâu quy hoạch, đấu thầu làm chưa tốt, khoản đền bù giải phóng mặt bằng còn kéo dài….Kết quả vốn đầu tư thì lớn, nhưng tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế thì ít. Tình trạng đầu tư vào “vỏ” vẫn được quan tâm nhiều hơn “ruột”, trong khi đó “ruột” chưa phải là công nghệ nguồn, công nghệ hiện đại. Tình trạng thất thoát trong đầu tư thì lớn, nên cùng một lượng vốn đầu tư, nhưng số tiền trực tiếp vào công trình ít hơn ảnh hưởng đến khối lượng và chất lượng công trình, vì thế mà kinh tế cũng tăng trưởng chậm.
Ngoài nguyên nhân liên quan đến vốn đầu tư còn có những nguyên nhân khác như: Do khâu tiêu thụ trong nuớc tăng chậm, tốc độ tăng xuất khẩu còn giảm mạnh. Ngoài ra nhập siêu còn lớn, năm 2000 tăng so với năm 1999. Nhập lậu trốn thuế chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển, cần đưa hệ số ICOR trở về mức bình quân (5 lần), chí ít cũng phải về mức 5,3 lần của năm 2000 thì mới có thể đạt được tốc độ tăng GDP 7-7,3% (mục tiêu phấn đấu)
II.Xu hướng biến động của vốn đầu tư vàphát triển toàn xã hội.
Từ số liệu về vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996-2000 ta có đồ thị.
Vốn
Năm
Nhìn vào đồ thị chúng ta thấy đồ thị có xu hướng đi lên và khá ổn định. Vì vậy trong trường hợp này để phân tích xu hướng biến động cơ bản của việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996-2000 ta xử dụng hàm xu thế dạng tuyến tính.
Hàm xu thế dạng tuyến tính có dạng như sau:
= a + bt.
Các tham số a,b, được xác định nư sau:
ồy = na + ồt
ồty = aồt + bồt
Từ số liệu của năm đầu tư toàn xã hội ta có bảng tính toán sau;
Năm
T
Yi
Ty
t
1995
1996
1997
1998
1999
2000
1
2
3
4
5
6
60757,0
67489,3
79204,5
75579,7
80087,4
91807,3
60757,0
134978,6
237613,5
302318,8
400437,0
550843,8
1
4
9
16
25
36
Tổng
21
454925,2
1686948,7
91
Vậy các tham số a, b được xác định bởi phương trình.
454925,2 = 6a+21b
1686948,7= 21a +91b
ị a = 56878,3
ị b = 5412,14
Do đó phương trình được xác định như sau:
= 56878,3 + 5412,14t
Vậy qua phương trình ta thấy mỗi năm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng thêm 5412,14 tỷ đồng.
Dự đoán cho năm 2001(t=7)
= 56878,3 +5412,14 ´ 7 = 94763,28 (tỷ đồng)
III.Vận dụng một số chỉ tiêu dự đoán thống kê ngắn hạn để dự đoán vốn đầu tư phát triển cho những năm tới.
1. Dự đoán thống kê ngăn hạn theo thời gian.
Dự đoán dựa vào lượng tăng giảm tuyệt đối trung bình và tốc độ tăng trung bình.
Ta có lượng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng giảm trung bình từ năm 1996-2000 như sau:
- 91807,3-,60757,0
= ----------- = ------------------- = 6210,06(tỷ)
n-1 6-1
Dự đoán tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2001 và năm 2002.
= +´l
= 91807,3 +6210,06 ´1 = 98017,36 tỷ
= 91807,3+ 6210,06 ´2 = 104227,42 tỷ đồng
Có tốc độ phát triển trung bình trong năm năm 1996-2002.
= = = 1,08
Dự đoán vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2001 và năm 2002 sẽ đạt
= ´ = 91807,3 ´1,08 = 99148,8 tỷ
= ´= 91807,3´= 107080,78tỷ
2. Dự đoán vốn Nhà nước thuộc vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng cách dùng hàm xu thế kết hợp với thành phần thời vụ.
Quý
Năm
i
I
II
III
IV
Tổng năm Ti
i´Ti
1999
2000
2001
1
2
3
3626,18
3658,29
4072,56
4937,87
4869,37
5494,43
6017,31
6085,39
8279,88
6260,31
6980,61
8907,9
20841.77
21593.66
26754.77
20841.77
43187.32
80264.31
Tổng Tj
4
11357,03
15301,67
20382.58
22148.92
69190.2
144293.4
=
3785,67
5100,56
6794,19
7382.97
Mức độ trung bình của NSNN tập trung vào mỗi quý.
= = 5765,85
b = ´
Trong đó:
T: Tổng vốn NSNN tập trung qua các năm
m: Số quý trong một năm
n: Số năm nghiên cứu
b= ´ = 184,78
a=
(j = 1,2,3,4)
= - 1703,01
(j = 2)
(j = 3)
9 (j = 4)
Phươngtrình hàm xu thế:
với , ,,
Từ kết quả tính toán ta thấy mang giá trị âm chứng tỏ vốn NSNN tập trung bị thu hẹp lại vào quý I, II, giá trị ,, mang giá trị dương nên vốn NSNN tập trung được mở rộng vào quý III và IV.
Dự đoán cho năm 2002.
t = m (i-1) + j với (j= 1,2,3,4; i=4)
Quý I (t=13):
(tỷ đồng)
Tương tự lần lượt ta có:
Quý II ( t=14) = 6578,8 tỷ đồng
Quý III ( t=15) = 8272,43 tỷ đồng
Quý IV( t=16) = 8861,21 tỷ đồng
IV. Kiến nghị định hướng về các giải pháp nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam.
1. Những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong thời gian qua.
Trong thời gian qua, việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Do tăng cường đầu tư nên năng lực của một số ngành đã tăng lên khá rõ rệt. Giai đoạn 1996 – 2000 đã làm mới 1200 km và nâng cấp được 3790 km đường quốc lộ, làm mới 11500 m cầu đường bộ, nâng cấp 200 km đường sắt, khôi phục 2600 m cầu đường sắt, mở rộng cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn, Cửa Lò, Đà Nẵng…Nâng cấp sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng…Hệ thống bưui chính viễn thông phát triển khá, tất cả các tỉnh, thành phố và các huyện đều có tổng đài điện tử, tuyến cáp quang và vi ba số. Mật độ điện thoại đến nay đạt 4,2 máy 100 dân. hệ thống thuỷ lợi được nâng cấp, đặc biệt là vùng đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng. Diện tích được tưới nước và tạo nguồn nước tăng thêm 82 vạn ha, tiêu úng tăng 43,2 vạn ha. Kết cấu hạ tầng ở các thành phố, đô thị và nông thôn được nâng cấp rõ rệt. Đến nay 85,8% số xã đã có điện, trên 92,9% số xã có đường ô tô vào đến trung tâm. Cơ sở vật chất ngành giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá xã hội, du lịch, thể dục thể thao và các ngành dịch vụ khác đều được tăng cường mạnh. Giai đoạn 1996-2000 giá trị tài sản cố định mới tăng chiếm gần 79% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tập trung vào một số ngành chủ chốt như công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước, vận tải kho bãi và thông tin liên lạc.
Trong số các nguồn vốn cấu thành nên tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội thì nguồn vốn Nhà nước năm 2000 đã gấp 6,4 lần năm 1990, vốn tín dụng của Nhà nước gấp 8,2 lần, vốn của các doanh nghiệp Nhà nước gấp 44.9 lần, vốn của khu vực ngoài quốc doanh gấp 1,4 lần, vốn đầu tư của nước ngoài gấp 5,9 lần.
Do có sự đầu tư đúng đắn vào các ngành nghề cho nên một phần giúp cho kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao nên đời sống dân cư ở cả thành thị và nông thôn được cải thiện một cách rõ rệt.
Tuy nhiên, việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong giai đoạn 1996-2000 còn bộc lộ một số tồn tại, yếu kém có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh
2. Những tồn tại yếu kếm trong việc thực hiện huy động và quản lý sử dụng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội .
-Huy động chưa hết tiềm năng và khả năng về vốn của nền kinh tế. Tuy Nhà nước ta đã ban hành sửa đổi bổ sung nhiều cơ chế và chính sách kịp thời, thông thoáng, nhưng tỷ lệ huy động vốn đầu tư trong thời gian vừa qua còn thấp. Nguồn vốn trong nước của khu vực dân cư mới huy động được khoảng 50% số tiết kiệm có được. Vốn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh giai đoạn 1996-2000 có xu hướng giảm và không đạt bằng mức 1995. Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng thấp 20% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
-Nguồn vốn ODA giải ngân chậm. Tuy quy mô và tỷ lệ giải ngân, sử dụng nguồn vốn ODA mấy năm nayđã cao dần lên, nhưng nhìn chung thực hiện mấy năm qua còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu hiệu quả đầu tư và chất lượng công trình trong một số dự án chưa cao. Việc phân bổ nguồn vốn ODA còn dàn trải và trùng lặp với các nguồn lực khác, làm lãng phí nguồn lực và làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Những tồn tại trên do nhiều nguyên nhân. Trong đó nguyên nhân do công tác quy hoạch còn thiếu, năng lực trình độ điều phối quản lý các dự án thuộc nguồn vốn ODA của các Bộ ngành và các địa phương còn nhiều hạn chế, việc đền bù giải phóng mặt bằng của một số dự án xây dựng còn chậm vv…
-Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) cũng có xu hướng giảm dần, từ chỗ có tỷ trọng là 32,7% của năm 1999 xuống còn 18,9% năm 2000 so với tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Năm 2000 tuy có tăng hơn năm 1999 nhưng nhìn chung vẫn còn ở mức thấp so với các năm trước. Đầu tư chỉ tập trung ở một số lĩnh vực và tập trung vào một số ít tỉnh thành phố có cơ sở hạ tầng tốt, nhằm nhanh chóng thu lợi nhuận.
-Cơ cấu đầu tư có mặt chưa hợp lý cụ thể là:
+ Trong nông nghiệp ít chú ý đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, chưa đầu tư thoả đáng cho khâu nghiên cứu khoa học phục vụ nông nghiệp, công nghệ sinh học hệ thống cây giống, hệ thống con giống, công nghệ chế biến nông sản, mạng lưới dịch vụ hạ tầng nông nghiệp. Chưa chú trọng đầu tư công nghệ sau thu hoạch, sơ chế bảo quản hàng hoá, phát triển các nghành nghề ở nông thôn, phát triển hệ thống trang trại. Chất lượng sản phẩm hàng hoá nông nghiệp nhìn chung còn thấp, giá thành cao, hạn chế khả năng tiêu thụ trong nước và nước ngoài một số sản phẩm có quy mô sản xuất lớn nhưng lãi suất thấp, thậm chí lỗ như gạo, mía đường. đánh bắt cá sa bờ do thiếu triển khai giữa trang thiết bị, các dịch vụ và nguồn nhân lực nên dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Công tác điều tra quy hoạch nguồn nhân lực (tài nguyên, đất đai…) chuyển bị chưa tốt.
+ Đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nhìn chung còn thấp, chưa đủ sức cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng tăng khả năng cạnh tranh. Qúa chú trọng vào việc đầu tư dể tăng năng suất, đầu tư ồ ạt vào một số ngành, dẫn đến việc cung vượt quá cầu như thép xây dựng, mía đường, xi măng, ôtô, rượu, bia, nước ngọt…
+ Sản xuất công nghiệp thiếu ổn định, chất lượng hiệu quả thấp. Công tác quy hoạch dự báo về nhu cầu thiếu chính xác, còn có khoảng cách lớn với sức mua thực tế trong nước và khả năng xuất khẩu dẫn đến hàng hoá ứ đọng, dẫn đến lãng phí, kém hiệu quả.
+ Đầu tư vào lĩnh vực giao thông, vận tải, bưu điện: Còn dàn trải, chưa tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, để hoàn thành dứt điểm đúng tiến độ thi công. nguyên nhân có nhiều, xong nổi lên là công tác giải phóng mặt bằng vẫn còn là một vấn đề khó khăn, phức tạp cả về cơ chế chính sách, cả về tổ chức thực hiện, thiếu các biện pháp hữu hiệu và đây là nguyên nhân quan trọng kéo dài tiến độ thực hiện dự án, gây thiệt hại, lãng phí trong thời gian chờ đợi mặt bằng thi công. công tác đấu thầu thủ tục còn phức tạp, thời gian tiến hành dài, vốn bố trí không đủ để thanh toán theo tiến độ. ở một số nơi, một số dự án chất lượng thiết kế chưa đảm bảo, chưa tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn đã có, cá biệt có những công trình vẫn phải thay đổi thiết kế và sử lý sự cố do thiết kế trong quá trình thi công dẫn đến kéo dài tiến độ, lãng phí vốn đầu tư. Sự phù hợp của thiết kế kỹ thuật với thiết kế sơ bộ về quy mô công suất, kiến trúc, quy hoạch…Trong dự án khả thi thường rất sơ sài, chưa được chuẩn mực.
ở một số nơi do cơ quan kiểm định thiết kế không đủ năng lực nên việc thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật – tổng dự toán, chỉ thiên về phê duyệt tổng dự toán, dẫn đến chất lượng không đảm bảo.
Từ những tồn tại nêu trên dẫn đến có những công trình xây dựng chưa đảm bảo chất lượng, thậm chí có những bộ phận công trình phải phá đi làm lại. Một số công trình kể cả công trình trọng điểm Nhà nước không thực hiện đúng trình tự xây dựng cơ bản, thí dụ: vừa khảo sát vừa thiết kế, vừa thi công hoặc chưa có thiết kế kỹ thuật dược duyệt đã tiến hành thi công, những sai phạm đó đã phải trả giá, gây thiệt hại cho Nhà nước. Trình độ khảo sát chưa cao, thiết bị thi công còn thiếu, lạc hậu chưa đáp ứng với các công trình đòi hỏi chất lượng cao. ở một số nơi chủ đầu tư, bản quản lý dự án các công trình xây dựng có nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, năng lực quản lý yếu, không đủ trình độ chuyên môn về xây dựng, dẫn đến lúng túng trong việc triển khai dự án, quản lý chất lượng công trình còn lỏng lẻo, gây thất thoát vốn của Nhà nước.
-Vốn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, y tế xã hội còn ở mức thấp so với nhu cầu và so với mức đầu tư của các nước trong khu vực. Vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển và nâng cao chất lượng phục vụ các ngành này.
-Thực hiện cơ cấu vốn đầu tư theo vùng và lãnh thổ còn mang tính dàn trải, chưa chú trọng tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm: Vùng đồng bằng sông Hồng, vùng duyên hải miền Trung, vùng Đông Nam Bộ giai đoạn 1996-2000 không tăng mà còn giảm sút so với mức đầu tư của giai đoạn 1991-1995 (xem bảng dưới đây)
Tỷ trọng đầu tư trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
Giai đoạn 1991-1995
Giai đoạn 1996-2000
Vùng đồng bằng sông Hồng
Vùng duyên hải miền Trung
Vùng Đông Nam Bộ
26.9%
11.9%
28.3%
25.5%
11.6%
28.0%
Việc chuẩn bị các dự án đầu tư nhìn chung còn chậm, chất lượng của các dự án đầu tư chưa cao. có nhiều dự án lập sơ sài, còn thiếu hoặc tính toán sai nhiều nội dung của một dự án đầu tư, căn cứ lập thiếu vững chắc, đặt biệt là các vấn đề liên quan đến thị trường, giá cả sản phẩm, thiết bị công nghệ, định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu hao nguyên vật liệu, xuất vốn đầu tư, nguồn vốn đầu tư, hiệu quả kinh tế, khả năng thu hồi vốn, và chưa xuất phát từ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội ngành, địa phương và lãnh thổ, nhiều dự án khâu chuẩn bị còn chậm vượt quá thời hạn quy định, ảnh hưởng tới thời hạn triển khai thực hiện dự án làm giảm cơ hội đầu tư.
Người có thẩm quyền quyết định đầu tư có lúc quyết định đầu tư vội vàng, khi chưa có đầy đủ ý kiến của các ngành có liên quan. Ví dụ chưa có ý kiến của các nhà khoa học và công nghệ về thiết bị, của quỹ hỗ trợ phát triển về phương án tài chính, phương án trả nợ đối với các dự án sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, dẫn đến dự án đầu tư có trình độ công nghệ thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, khó tiêu thụ, hiệu quả kinh tế thấp, thậm chí khó thu hồi vốn.
Phần lớn các dự án thuộc chương trình như đánh cá xa bờ, mía đường, cơ khí đầu tư có tính phong trào, ồ ạt không tính toán cân nhắc giữa chi phí bỏ ra và hiệu quả đạt được, chưa chú ý đến tính đồng bộ của từng dự án, cũng như từng chương trình. Do vậy khi đầu tư xong dự án phát huy hiệu quả kém, hầu hết các chủ đầu tư không trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký, buộc Nhà nước phải tiếp tục xử lý nhiều biện pháp tài chính, tín dụng để giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn như giảm thuế, giảm lãi vốn vay, khoanh nợ hoặc kéo dài thời gian trả nợ.
Nhìn chung các chủ đầu tư là doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan chủ quản vẫn còn mang nặng tư tưởng bao cấp, vẫn coi tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là nguồn vốn bao cấp, không tính toán hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của các dự án vay vốn đầu tư của Nhà nước.
Thủ tục đầu tư đối với kinh tế tư nhân, tổ chức kinh tế không phải doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chưa được quy định rõ ràng, cản trở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận với nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước.
Việc triển khai thực hiện các bước tiếp theo sau khi dự án được cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư như: Lập và phê duyệt thiết kế, tổng dự toán, công tác đấu thầu, đền bù và giải phóng mặt bằng nhìn chung còn rất chậm, làm chậm thời gian thực hiện đầu tư, chậm đưa dự án vào khai thác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đầu tư , giảm tính thời cơ của dự án. Sau khi dự án được đầu tư xong, việc quyết toán cũng không được các cấp các ngành thực hiện nghiêm chỉnh, thiếu cơ sở để tính toán và phân bổ giá trị TSCĐ mới tăng trong giá thành sản phẩm.
Tóm lại: Trong công tác huy động, quản lý và sử dụng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 đã bộc lộ ra nhiều tồn tại yếu kém thể hiện ở cả khâu hoàn thiện cơ chế chính sách và biện pháp huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong nước, cũng như của các nhà đầu tư nước ngoài, của các thành phần kinh tế, nhất là trong khu vực dân cư, làm cho tiềm năng huy động chưa cao, mà nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của đất nước lúc nào cũng khan hiếm.
Việc sử dụng vốn đầu tư phát triển nhiều nơi, nhiều lúc chưa phù hợp, chưa tập trung, chưa phát huy được hiệu quả cao nhất của đồng vốn đầu tư. Đầu tư vào các ngành kinh tế, cũng như vào các vùng lãnh thổ nhiều công trình, nhiều dự án chưa hợp lý, chưa thoả đáng, gây lãng phí vốn đầu tư.
Công tác quản lý các nguồn vốn đầu tư ở một số địa phương, ở một số ngành, một số công trình còn lỏng lẻo, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát không làm đến nơi, đến chốn và không kịp thời gây thất thoát không ít vốn đầu tư của Nhà nước.
3.Kiến nghị định hướng về các giải pháp nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Để khắc phục tình trạng yếu kém trong việc huy động, quản lý vốn đầu tư phát triển nêu trên nhằm huy động, sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển đạt hiệu quả cao nhất trong những năm tới, chúng ta cần phải:
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách, hệ thống văn bản pháp quy phải chặt chẽ, đầy đủ, xác định rõ các chức trách, quyền hạn của các cấp, các ngành, từ trung ương đến địa phương trong việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
Triển khai thực hiện tốt các luật doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư trong nướcđể huy động tối đa các nguồn vốn trong dân cư.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, giải quyết nhanh gọn, giảm bớt các phiền hà, trùng chéo của các cơ quan chức năng, của các cấp các ngành về thực hiện công tác đầu tư, nhằm cải thiện môi trường thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Phải nâng cao chất lượng các dự án đầu tư, công tác thẩm định, kiểm tra, kiểm soát và giám sát đầu tư nhằm làm cho các dự án đầu tư thực hiện có hiệu quả cao.
Phải kết hợp chặt chẽ công tác quy hoạch phát triển đầu tư giữa các bộ ngành, địa phuơng và vùng lãnh thổ. Thực hiện có hiệu quả lồng ghép các chương trình dự án trên địa bàn, tránh trùng lặp lãng phí.
Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư cho giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm, để khai thác được các thế mạnh của vùng này và làm đầu tầu để thúc đẩy sự phát triển của các vùng lân cận, góp phần làm tăng trưởng kinh tế chung của cả nước.
Phải có chính sách đào tạo nâng cao năng lực quản lý đối với những cán bộ thuộc ban quản lý dự án lớn, nhằm quản lý và sử dụng vốn đầu tư phát triển có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, từng bước nâng hiệu quả kinh tế của các dự án, các ngành các cấp cần quan tâm chỉ đạo một cách sát sao, cụ thể và đồng bộ các vấn đề có liên quan để khắc phục dần các vấn đề còn yếu kém trong lĩnh vực đầu tư từ khâu quy hoạch, chuẩn bị dự án, thẩm định và quyết định đầu tư, đến việc phân phối bố trí vốn đầu tư cho từng dự án, tổ chức đấu thầu, giải phóng mặt bằng, tổ chức thực hiện dự án, quản lý vốn đầu tư và quyết toán các dự án đầu tư hoàn thành, tổ chức quản lý khai thác dự án đầu tư v..v.
Đối với các dự án sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau đây:
Phải nâng cao chất lượng công tác lập và thẩm định các dự án đầu tư, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan chủ dự án, công ty tư vấn, người có thẩm quyền quyết định dự án đầu tư. nội dung báo cáo khả thi nhất thiết phải đảm bảo đầy đủ theo quy định. Người có thẩm quyền quyết định đầu tư không nên phê duyệt dự án khi dự án chưa được thành lập và thẩm định theo đúng quy định.
Thủ tục đầu tư đối với cac doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cần phải nghiên cứu để quy định rõ theo hướng tinh giảm tối đa các thủ tục hành chính không cần thiết. Nhà nước chỉ nên quản lý đối với các dự án về mặt quy hoạch, đất đai và môi truờng, còn giao toàn bộ quyền hạn và trách nhiệm cho chủ dự án đối với các vấn đề có liên quan đến dự án. Để góp phần tháo gỡ khó khăn cho các chủ dự án không phải là doanh nghiệp Nhà nước có điều kiện sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Trong quá trình chuẩn bị đầu tư cũng như lựa chọn các dự án đầu tư phải hết sức lưu ý tính khả thi của dự án về mọi phương diện, đặc biệt là các vấn đề: công nghệ và thiết bị, nguồn vốn tham gia đầu tư phải đảm bảo để hoàn thành tiến độ, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm về chất lượng và giá cả. tính toán kỹ hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ.
Phải nâng cao chất lượng công tác kế hoạch đầu tư, đảm bảo cho các dự án thực hiện đúng quy định, và đảm bảo phù hợp với quy hoạch của ngành, địa phương và vùng lãnh thổ, cố thiết kế và tổng dự toán được duyệt v..v…phải hết sức tập trung vốn để sớm đưa dự án vào sản xuất, khai thác và sử dụng.
Kết luận
Thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là một hoạt động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12070.DOC