Tài liệu Đề tài Phân tích vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường: Mục lục
Trang
Lời mở đầu
3
Phần I: Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường
4
I. Ưu thế và khuyết tật của thị trường
4
1. Khái niệm cơ chế thị trường
4
2. Ưu thế của thị trường
5
3. Những khuyết tật của cơ chế thị trường
6
II. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường
6
1. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô
7
2. Chức năng kinh tế của chính phủ
7
3. Các công cụ điều tiết của chính phủ
12
Phần II: Vị trí kinh tế của chính phủ ở nước CHXHCN Việt Nam trong giai
đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “đất nước
17
I. Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế
17
II. Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong giai đoạn “từng bước công
nghiệp hóa và hiện đại hóa “đất nước
20
1. Công nghiệp hóa và hiện đạI hóa ở Việt Nam
20
2. Vai trò của chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
ở nước ta
22
3. Các chính sách kinh tế mà chính phủ áp dụng trong giai đoạn
“công nghiệp hó...
36 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 2519 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Lời mở đầu
3
Phần I: Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường
4
I. Ưu thế và khuyết tật của thị trường
4
1. Khái niệm cơ chế thị trường
4
2. Ưu thế của thị trường
5
3. Những khuyết tật của cơ chế thị trường
6
II. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường
6
1. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô
7
2. Chức năng kinh tế của chính phủ
7
3. Các công cụ điều tiết của chính phủ
12
Phần II: Vị trí kinh tế của chính phủ ở nước CHXHCN Việt Nam trong giai
đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “đất nước
17
I. Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế
17
II. Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong giai đoạn “từng bước công
nghiệp hóa và hiện đại hóa “đất nước
20
1. Công nghiệp hóa và hiện đạI hóa ở Việt Nam
20
2. Vai trò của chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
ở nước ta
22
3. Các chính sách kinh tế mà chính phủ áp dụng trong giai đoạn
“công nghiệp hóa và hiện đại hóa “
26
4. Những vấn đề chính phủ phải giải quyết trong giai đoạn
“công nghiệp hóa và hiện đại hóa “
31
Phần III: Thực trạng và giải pháp cho nền kinh tế Việt Nam và vai trò của
chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay
33
I. Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền
kinh tế
33
1. Thực trạng của nền kinh tế
33
2. Thực trạng quản lý kinh tế của nhà nước ta
34
II. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của chính phủ
35
Kết luận
37
Danh mục tài liệu tham khảo
38
lời mở đầu
Kinh tế thị trường từng là động lực thúc đẩy nền kinh tế tư bản phát triển vô cùng nhanh chóng từ khi nó ra đời.Thực tế đã chứng minh cơ chế thị trường làm cho nền kinh tế trở nên năng động và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nền kinh tế thị trường luôn là sự cạnh tranh giữa các hãng sản suất với nhau do đó họ phải luôn tìm tòi,sáng tạo các phương thức sản suất mới để mang lại lợi nhuận cao trong kinh doanh. Chính vì thế nó làm cho nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển và phồn thịnh.Tuy nhiên cơ chế thị trường không phải là một hoạt động kinh tế hoàn hảo mà nó mang trên mình mặt trái của nó như:sự cạnh tranh không hoàn hảo; vấn đề ngoại ứng; sự phân hoá giàu nghèo...và các vấn đề xã hội khác. Chính vì vậy, nhà nước đã tham gia vào quá trình hoạt động của nền kinh tế để giảm nhẹ hoặc khắc phục những hậu quả của nó. Nhưng trên thực tế không thể tồn tại một nền kinh tế chỉ được điều hành bằng mệnh lệnh và cũng không có nền kinh tế nào hoạt động trên cơ sở tự nguyện mà không có sự điều tiết của nhà nước. Chính phủ ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong quá trình hoạt động của nền kinh tế. Đặc biệt là đối với Việt Nam-một nước mới chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nên còn có nhiều điều mới mẻ và bỡ ngỡ nên chính phủ Việt Nam lại càng có vai trò to lớn trong việc hướng nền kinh tế đi theo đúng mục tiêu đã chọn.Với hiểu biết của một sinh viên mới được hướng dẫn học tập môn học này, em xin được trình bày những hiểu biết của mình về vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đồng thời liên hệ đến vị trí kinh tế của chính phủ ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá” đất nước.
phần I : vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường
I.Ưu thế và khuyết tật của thị trường:
Để hiểu rõ vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường, trước hết ta phải hiểu khái niệm về thị trường và cơ chế thị trường.
1.Khái niệm cơ chế thị trường:
a.Thị trường: Có rất nhiều khái niệm về thị trường tuỳ theo mỗi quan điểm,mỗi góc độ khác nhau song một khái niệm tương đối khái quát nhất là: “Thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng hàng “(Paul A.Samuelson).
Thị trường là yếu tố cơ bản của môi trường kinh doanh, là nơi hình thành các quan hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế này là cơ sở quan trọng để hình thành cơ cấu kinh tế. Thông qua thị trường các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các khu vực kinh tế mới được biểu hiên. Thị trường có khả năng dự báo và hướng dẫn ngưới sản suất và tiêu dùng trong hành vi kinh tế. Nói một cách khác,trong nền kinh tế hàng hoá tất nhiên tồn tại một cơ chế thị trường.
b.Cơ chế thị trường (Sự vận động của thị trường ): “Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế “(Paul A. Samuelson ). Ba vấn đề trung tâm đó là: sản xuất ra cái gì; sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
Sản xuất cái gì: Nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và còn do khả năng kỹ thuật và chi phí sản xuất quyết định. Trong nền kinh tế thị trường,việc sản xuất ra cái gì khác so với nền kinh tế tự nhiên ở chỗ:trong nền kinh tế tự nhiên họ sản xuất ra những gì mà họ cần để phục vụ cho mục đích tiêu dùng trực tiếp của mình, còn trong nền kinh tế thị trường các nhà doanh nghiệp sản xuất ra những mặt hàng mà thị trường cần. Cho nên giá cả chính là tín hiệu tập trung nhất mách bảo cho người ta sản xuất ra cái gì. Người tiêu dùng sẽ bỏ phiếu bằng tiền cho những gì cần sản xuất
Sản xuất như thế nào: Là do cạnh tranh giữa những người sản xuất quyết định. Để có sự cạnh tranh về giá cả và lợi nhuận thì các nhà doanh nghiệp phải biết sử dụng hợp lý nguồn lực mà mình có để tạo ra chi phí đầu vào thấp và chi phí đầu ra hợp lý mà thị trường chấp nhận được
Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế thị trường, các hãng sản xuất ra những loại hàng hoá và dịch vụ cho những người có nhu cầu và có khả năng thanh toán cho những nhu cầu đó. Đối với người tiêu dùng, giá cả quyết định quy mô tiêu dùng và do đó quyết định mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trong xã hội.
Tóm lại, cơ chế thị trường là một loại cơ chế kinh tế lấy sự vận động của thị trường để biểu hiện, mà sự vận động của thị trường lại cực kỳ phức tạp, nó bị chi phối, ảnh hưởng, tác động qua lại của vô vàn yếu tố. Cơ chế thị trường có những ưu thế và khuyết tật của nó mà ta phải nắm được để có biện pháp phát huy những ưu điểm của nó đồng thời khắc phục những khuyết tật đó .
2.Ưu thế của thị trường:
Nền kinh tế thị trường ra đời là một tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Nó mang trên mình những ưu thế mà không một nền kinh tế nào sánh được với nó.
Thứ 1:Đó là sự tự do về các hoạt động kinh tế. Có nghĩa là có sự đa dạng hoá các thành phần kinh tế để phát huy được hết năng lực tìm tòi và sáng tạo của mỗi doanh nghiệp nhằm tạo ra được lợi nhuận cao nhất góp phần làm đất nước giàu mạnh.
Thứ 2:Trong nền kinh tế thị trường thì kinh tế tư nhân chiếm ưu thế bởi vì đại đa số các loại hình hoạt động kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ với khả năng thích ứng nhanh, nhạy trước những thay đổi của thực tế. Mặt khác, họ không phải chi trả lương cho bộ máy viên chức cồng kềnh như trong quản lý kinh tế quốc doanh, vì thế thu được lợi nhuận lớn hơn.
Thứ 3:Phi tập trung hoá các quyền lực kinh tế có nghĩa là sự vận động của nền kinh tế thị trường gắn liền với việc tồn tại các loại hình sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, với quy luật canh tranh đã làm phân tán quyền lực về mặt kinh tế trong từng ngành cũng như trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua cạnh tranh thị trường dẫn dắt người sản xuất-kinh doanh vào nơi đầu tư có lợi nhất. Điều này làm cho cơ cấu sản xuất xã hội,ngành cũng có sự thay đổi theo yêu cầu của thị trường.
Thứ 4:Lợi nhuận là động lực cao nhất để thúc đẩy quá trình sản xuất. Từ đó nó trả lời các câu hỏi sản suất ra cái gì,sản suất như thế nào và sản xuất cho ai. Nó biết kết hợp các nguồn lực một cách hợp lýnhất để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm lớn nhất với chi phí thấp nhất,từ đó tối đa hoá được lợi nhuận. Nền kinh tế thị trường vận dụng được năng lực tối đa của nền kinh tế về vốn, kinh nghiệm lao động.
Thứ 5:Trong nền kinh tế thị trường, tất cả các ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau thì yếu tố chung duy nhất tác động đến doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận. Các doanh nghiệp chỉ khác nhau ở hình thái quy mô tổ chức. Nhưng chúng có điểm giống nhau là hoạt động trực tiếp với thị trường. Do đó họ là những người dám chịu trách nhiệm trước các quyết định của mình, từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trình độ,năng lực tổ chức kinh doanh.
3.Những khuyết tật của cơ chế thị trường :
Bên cạnh những ưu điểm có thể nói là tuyệt vời của nền kinh tế thị trường thì trong quá trình vận động thì nó nảy sinh các nhược điểm sau:
Thứ 1:Sự tác động, điều khiển của bàn tay vô hình mang tính chất tự phát, mù quáng vì không ai biết trước được cung cầu của xã hội.
Thứ 2:Thị trường mang trên mình những thông tin không đầy đủ nên dễ dẫn đến mất cân đối trong nền kinh tế.
Thứ 3:Sự vận động của cơ chế thị trường dẫn đến sự phân hóa sâu sắc giữa giàu và nghèo bởi trên thương trường chỉ tồn tại những “kẻ mạnh “,từ đó có sự mất bình đẳng về kinh tế-xã hội.
Thứ 4:Thị trường phát triển dẫn đến độc quyền do đó làm giảm động lực phát triển.
Thứ 5:Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nó gây ra những tệ nạn xã hội như: hàng giả, buôn lậu, tham nhũng, hối lộ ...
Thứ 6:Thị trường trong nhiều trường hợp là kìm hãm chứ không phải là thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Thứ 7:Hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường tàn phá môi sinh một cách ghê gớm, tình trạng ô nhiễm môi trường đang ở mức báo động ở nhiều quốc gia.
Chính những khiếm khuyết đó đã gây ra sự lãng phí của cải xã hội, do sự nhận thức nhu của cầu thị trường của từng đơn vị là độc lập, là riêng lẻ dẫn đến đầu tư trùng lặp, gây lãng phí. Đồng thời do sự cạnh tranh giành giật lợi nhuận dẫn đến việc chi phí cho quảng cáo là quá mức cần thiết. Mặt khác, các lĩnh vực thu được ít lợi nhuận hoặc không có lợi nhuận lại không được các doanh nghiệp chú ý, mà chính những hàng hoá đó lại là những cơ sở, tiền đề cho nền kinh tế phát triển, đó chính là cơ sở hạ tầng của xã hội, mạng lưới giao thông,môi trường sinh thái... Chính vì vậy, phải có sự can thiệp hữu hiệu của nhà nước để đảm bảo sự công bằng, hiệu quả và ổn định cho nền kinh tế, xã hội .
II.Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường:
Ta đã xem xét những ưu, nhược điểm của cơ chế thị trường. Tuy cơ chế thị trường vẫn tồn tại tính hai mặt nhưng hiện nay vẫn được tất cả các quốc gia trên thế giới tiến hành. Tại sao vậy? Bởi vì không một quốc gia nàolà không có sự điều tiết của chính phủ đối với nền kinh tế. Chính sự điều tiết đó đã làm giảm bớt hoặc khắc phục những hậu quả của cơ chế thị trường làm cho cơ chế thị trường ưu việt hơn hẳn so với các cơ chế kinh tế khác và chính phủ dễ dàng hơn trong việc hướng nền kinh tế đi đúng mục tiêu mà mình đã đề ra.
1.Mục tiêu của kinh tế vĩ mô:
Các quốc gia đều luôn luôn hướng về mục tiêu chính là: sản lượng cao, công ăn việc làm đầy đủ, ổn định giá cả và cán cân ngoại thương
Mục tiêu thứ 1:là sản lượng cao cả trên thực tế lẫn tiềm năng. “Ngày nay, thước đo cuối cùng để đánh giá thành công kinh tế, là khả năng của một nước để tạo ra sản lượng cao và tăng nhanh được sản lượng hàng hoá và dịch vụ kinh tế” .Có nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao.
Mục tiêu thứ 2:là công ăn việc làm ở mức cao và thất nghiệp thấp ở mức thất nghiệp tự nhiên. Bởi vì một quốc gia càng tạo ra được nhiều công ăn việc làm thì nền kinh tế đó đang ở trong thời kỳ phát triển cao.
Mục tiêu thứ 3:là ổn định giá cả và tỷ lệ lạm phát thấp. Ôn định giá cả là làm cho sự biến động của giá cả là không lớnvà không đột ngột để giới kinh doanh có thể đoán được nhằm định hướng đầu tư cho mình. Khi giá cả của tất cả hàng hoá đồng loạt tăng lên thì người ta gọi là lạm phát. Các quốc gia luôn muố duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức một con số hoặc hai con số ở mức thấp có thể chấp nhận được, các chính phủ tìm mọi cách để giữ tỷ lệ lạm phát dao động quanh tỷ lệ lạm phát nói trên.
Mục tiêu thứ 4: Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn địn tỷ giá hối đoái. Hầu hết nền kinh tế của các nước đều là nền kinh tế mở cửa, buôn bán với nước ngoài do đó luôn tồn tại việc xuất-nhập khẩu hàng hoá hoặc vay mượn giữa các nước... Cân bằng cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái nhằm làm cho cán cân hương mại không có những “cú sốc “lớn .
2.Chức năng kinh tế của chính phủ:
Khi thảo luận vai trò của chính phủ, chúng ta thường đương chấp nhận rằng chính phủ là người đề ra luật lệ đi đường. Để khẳng định vai trò của mình chính phủ thực hiện các chức năng của mình.
Hiệu quả,như đã nói ở trên, các nền kinh tế trên thực tế đôi khi chịu thất bại thị trường. Ơ hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn giản không biết kỹ thuật sản xuất rẻ nhất, và chi phí sản xuất không hạ xuống mức tối thiểu được. Trên thị trường thực tế, một doanh nghiệp có thể có lãi bằng cách giữ giá cao cũng như bằng cách giữ mức sản xuất cao. Trong nhiều lĩnh vực khác có rất nhiều tác động bên ngoài, vì ô nhiễm độc hại hoặc vì kiến thức quí giá, đối với các nhà doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Trong mỗi một trường hợp này, một thất bại thị trường dẫn đến sản xuất không hiệu quả hoặc tiêu dùng không hiệu quả, và ở đây, chính phủ có thể đóng vai trò chữa bệnh. Nhưng trong khi đánh giá vai trò của chính phủ chữa bệnh kinh tế, chúng ta cũng phải cảnh giác với “ những thất bại của chính phủ “- đó là tình huống chính phủ gây thêm bệnh hoặc làm cho bệnh trầm trọng thêm.
Cạnh tranh không hoàn hảo. Một sai lệch nghiêm trọng của cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh không hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ định nghĩa chinnhs xác của nhà kinh tế về “người cạnh tranh hoàn hảo “. Mới chỉ có một vài địch thủ chưa đủ hco cạnh tranh hoàn hảo. Định nghĩa kinh tế về cạnh tranh hoàn hảo trên một thị trường là có đủ một số lượng doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh đến mức không có một doanh nghiệp nào có thể ảnh hưởng đến giá cả của hàng hoá đó. Một “ người cạnh tranh không hoàn hảo “ là một người mà hành động có thể ảnh hưởng đến giá của một mặt hàng. Thực tế, điều này có nghĩa là hầu hết các ông chủ doanh nghiệp, có lẽ trừ số hàng triệu nhà nông mà từng người một sản xuất ra một phần không đáng kể trong toàn bộ thu hoạch, đều là những người cạnh tranh không hoàn hảo. Ơ đầu cực cạnh tranh không hoàn hảo là nhà độc quyền, người duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể.
Toàn bộ sinh hoạt kinh tế là sự kết hợp giữa các nhân tố độc quyền và cạnh tranh. Cạnh tranh không hoàn hảo chứ không phải cạnh tranh hoàn hảo là hình thái chính. Nhưng nói rằng, Một doanh nghiệp có thể tác động tới giá cả sản phẩm của mình không có nghĩa là “ độc tài “. Phần sau chúng ta sẽ thấy rõ, một doanh nghiệp không thể định giá hàng hoàn toàn theo ý muốn riêng mà vẫn có lãi. Doanh nghiệp đó phải tính đến giá của các hàng có thể thay thế cho hàng của mình. Thậm chí nếu doanh nghiệp đó sản xuất ra một loại dầu đốt đã có mác với những đặc tính độc đáo, họ vẫn phải tính đến giá của các loại dầu đốt khác cũng như giá của củi, khí đốt và chất cách nhiệt. Như vậy, sức mạnh kinh tế của những người cạnh tranh không hoàn hảo luôn bị kiềm chế phần nào.
Các ông chủ doanh nghiệp và công nhân vừa ưa vừa ghét cạnh tranh khi nó giúp chúng ta mở rộng thị trường. Nhưng chúng ta gọi nó là “ có tính chất đục đẽo”, “ không công bằng “ hoặc “ tai hại “ khi đối thủ cạnh tranh của ta làm chúng ta chúnh ta mất lợi nhuận. Những công nhân sống phụ thuộc vào giá bán sức lao động của mình trên thị trường có thể là những người đầu tiên la ó khi cạnh tranh nước ngoài đe doạ tiền lương của họ ở trong nước.
Khi sức mạnh độc quyền- tức là khi một doanh nghiệp lớn có khả năng tác động đến giá cả ở một thị trường nào đó- thực sự trở thành quan trọng về kinh tế, chúng ta sẽ thấy giá cả cao hơn mức hiệu quả, kiểu mẫu méo mó về cầu và sản xuất, và lợi nhuận siêu thường. Những lợi nhuận này có thể bị biến thành điều quảng cáo lừa dối hoặc là thậm chí có thể mua ảnh hưởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp.
Chính phủ không coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Từ những năm 1890 chính phủ Liên bang đã ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để tăng hiệu lực của hệ thống thị trường cạnh tranh không hoàn hảo của chúng ta.
Tác động bên ngoài. Một cách thứ hai để cơ chế thị trường không bị kiềm chế có thể dẫn đến kết quả không có hiệu quả xuất khẩu khi có nhân tố tác động bên ngoài.
Nhưng trên thực tế, nhiều tác động qua lại diễn ra bên ngoài các thị trường. Doanh nghiệp sử dụng tài nguyên hiếm như không khí hoặc nước sạch mà không trả tiền cho những người phải sống trong bầu không khí bị ô nhiễm hoặc nước bị bẩn. Doanh nghiệpB, đóng ở giữa một khu vực dân cư thuê một người bảo vệ mặt mũi dữ tợn canh giữ nhà máy của mình;như vậy làm cho bọn lưu manh vì sợ cũng tránh hành nghề ở các nhà dân lân cận. Trong những trường hợp đó, một cái xấu về kinh tế và một cái tốt về kinh tế đã được chuyển giao tới những đối tượng bên ngoài các thị trường. Tác động bên ngoài xảy ra khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp khác hoặc nguời khác mà những doanh nghiệp hoặc con người nào không được nhận đúng số tiền cần được trả hoặc không phải trả đúng số chi phí phải trả.
Vì xã hội chúng ta đã trở nên đông dân hơn xưa, vì sản xuất ngày càng dựa trên những quy trình sử dụng chất độc tác động bên ngoài đã từ những phiền toái nhỏ mà trở thành những mối đe doạ lớn. Kết quả là chính phủ đã sử dụnh đến luật lệ điều tiết hành vi kinh tế như là một cách để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngoài như ô nhiễm nước và không khí, khai thác đến cạn khoáng sản, chất thải-gây nguy hiểm thức ăn, uống thiếu an toàn và các chất phóng xạ...
Những người phê phán việc quy định luật lệ than phiền rằng hoạt động kinh tế của chính phủ có tính chất cưỡng bức không cần thiết. Chính phủ giống như cha
mẹ, luôn nói không được: Không được bán thiếu cân, không được sử dụng lao động trẻ em, không được để ống khói nhà máy nhả khói ra bầu trời, không được bán hoặc hút Cocaine.v.v...
Mặt khác, khi kinh doanh, các nhà sản xuất luôn muốn thu được lợi nhuận cao nhất, nguồn vốn quay vòng nhanh... Do đó, một số loại hàng hoá quan trọng cho việc phát triển kinh tế, cho sự bảo đảm an ninh trật tự cho nền kinh tế lại không được đầu tư vì nó không mang lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá ít. Vì thế chính phủ pnải đầu tư vào các loại hàng hoá này. “Sự can thiệp của chính phủ vào thị trường để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế chứng tỏ những việc làm như thế không phải do ý thích “.(Paul A.Samuel).
Công bằng. Cho đến nay chúng ta đã tập trung vào các thiếu sót trong vai trò chỉ đạo của bàn tay vô hình-những sự thiếu hoàn hảo có lẽ có thể sửa chữa được bằng sự can thiệp đúng đắn. Nhưng hãy tạm cho rằng nền kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu quả-luôn ở trên ranh giới khả năng sản xuất và không bao giờ ở bên trong ranh giới này cả, luôn chọn đúng số lượng hàng hoá công cộng so với hàng hoá tư nhân.v.v... Nhưng thậm chí nếu hệ thống thị trường hoạt động hoàn hảo như vừa mô tả thì nhiều người vẫn không cho nó là lý tưởng. Tại sao vậy?
Thứ nhất, hàng hoá đi theo số phiếu bằng đồng đô la chứ không phải là theo nhu cầu lớn nhất. Một con mèo của người giàu có thể được nhận số sữa mà một đứa trẻ nghèo cần có để được khoẻ mạnh. Có phsải là do cung cầu hoạt động kém không? Hoàn toàn không vì cơ chế thị trường đang làm đúng chức năng-nó đặt hàng vào tay người có thể trả tiền nhiều nhất, người có nhiều phiếu bằng tiền nhất. Những người bảo vệ cơ chế giá cả và những người phê phán nó cần thừa nhận rằng một hệ thống thị trường có hiệu quả có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Nếu một nước chi tiêu về thức ăn cho súc vật làm cảnh nuôi trong nhà nhiều hơn là về giáo dục đại học cho người nghèo thì đó là một khuyết điểm của việc phân phối thu nhập, chứ không phải là của thị trường. Nhưng, một kết quả như vậy có thể không chấp nhận được về mặt chính trị hoặc đạo lý. Một xã hội không cần chấp nhận kết quả của những thị trường có tính cạnh tranh-sự sống còn của những kẻ sống sót-coi đó là quyền thiêng liêng hoặc công lý trên đời. Bàn tay vô hình có thể dẫn chúng ta đến giới hạn bên ngoài của ranh giới khả năng sản xuất nhưng không nhất thiết nó phân phối sản lượng đó một cách có thể chấp nhận được. Và một khi xã hội dân chủ không thích sự phân phối phiếu đô-la trong mức hệ thống thị trường “thả lỏng “thì nó có biện pháp thay đổi kết quả thông qua những chính sách phân phối lại.
Thứ hai, do tỉ suất thuế thấp không thể giúp gì cho những người hoàn toàn không có thu nhập.trong những thập kỷ gần đây chính phủ đã xây dựng một hệ thống hỗ trợ thu nhập: Giúp đỡ cho người già, người mù, người bị tàn tật, cũng như bảo hiểm thất nghiệp cho những người không có công ăn việc làm. Hệ thống trả tiền chuyển dịch này tạo ra một “mạng lưới an toàn “bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Cuối cùng, chính phủ đôi khi trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu nhập thấp. Nhờ quá trình tăng trưởng kinh tế và những chương trình phúc lợi tạo ra mức sống tối thiểu, phần lớn cảnh túng quẫn ghê gớm và dễ nhìn thấy của chủ nghĩa tư bản thế kỷ 19 đã bị xoá bỏ, một kiểu nghèo đói dai dẳng hơn của thế kỷ 20 còn tồn tại .
Ôn định. Ngoài vai trò thúc đẩy hiệu quả và công bằng, chính phủ cũng tham gia vào chức năng kinh tế vĩ mô là thúc đẩy sự ổn định kinh tế. Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã từng gặp phải những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả lên) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tượng này rất dữ dội, như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức trong những năm 1920, đến mức tiếp sau đó là rối loạn xã hội, cách mạng và chiến tranh. Đôi lúc, như thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ trong những năm 1930, khó khăn gian khó kéo dài một thập kỷ vì các nhà lãnh đạo chính trị không có đủ hiểu biết kinh tế để có biện pháp phục hồi kinh tế. Gần đây hơn, đầu những năm 1980, chính phủ Mỹ và các nước khác đã có biện pháp nhằm giảm tỷ lệ lạm phát cao. Những biện pháp này đã dẫn đến thất nghiệp cao và lạm phát thì giảm. Nhưng trong thành công lại có hạt giống của thất bại. Bằng cách bảo đảm một thời kỳ nhiều công ăn việc làm và tăng trưởng nhanh, nhiều nước đã vô tình nuôi dưỡng một nền kinh tế trong đó nhân dân bắt đầu cho rằng phồn vinh là lẽ đương nhiên. Nhiều nước đảm bảo cho công nhân và người hưởng thu nhập định kỳ mức sống trong điều kiện thời tiết xấu như mức sống chỉ có thể có được với thời tiết tốt. Trong các hệ thống giá cả, tiền lương và hỗ trợ thu nhập có những điểm cứng nhắc. Khi những rối loạn của những năm 1970 xảy ra sau hai lần tăng mạnh giá dầu lửa, mất mùa ngô, trục trặc trong hệ thống tài chính quốc tế-người ta đã không giữ được lời hứa. Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, không có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều luôn ổn định mà nó luôn có sự biến động. Có những thời kỳ nền kinh tế cực kỳ phồn thịnh nhưng cũng có lúc nền kinh tế nằm trong vùng đại suy thoái do nhiều nguyên nhân: do lạm phát cao, những thay đổi của nền kinh tế thế giới... Do đó chính phủ góp phần làm cho nền kinh tế dần dần ổn định bằng cách đưa ra những chính sách hợp lý. Các mục tiêu của đời sống kinh tế vĩ mô không phải là vấn đề để bàn cãi gay gắt nữa. Nhưng các nước có thể đạt được các mục tiêu đó một tốt nhất như thế nào? Một nước muốn cải tiến thành tựu của mình có thể có những sự lựa chọn gì? Trả lời cho câu hỏi này nằm một phần trong các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô .
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trường-nhóm yếu tố chịu sự chi phối của “bàn tay vô hình “ tức các quy luật kinh tế thị trường . Nhóm yếu tố này mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là sự quản lý của chính phủ ở tầm vĩ mô, nhóm này gắn liền với “bàn tay hữu hình “, tức các công cụ quản lý của nhà nước như: pháp luật, chính sách, kế hoạch... Như vậy không thể điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường khi chỉ có một trong hai yếu tố trên, điều đó giống như người ta định “vỗ tay bằng một tay “
Tóm lại, chính phủ có vai trò thúc đẩy nền kinh tế hướng tới sự công bằng, hiệu quả và ổn định. Tuy nhiên chính phủ không thể hô hào nhân dân là phải làm thế này hay thế kia thì mới đạt được hiệu quả mà chính phủ phải sử dụng các công cụ của kinh tế vĩ mô đang có trong tay một cách hữu hiệu nhất để thực hiện vai trò không thể thiếu được đối với nền kinh tế đất nước .
3.Các công cụ điều tiết của chính phủ :
Trong nhiều trường hợp chính phủ không thể ngồi chờ cơ chế tự ổn định của kinh tế thị trường được mà phải nhanh chóng, trực tiếp sử dụng các cộng cụ của kinh tế vĩ mô để điều tiết nền kinh tế. Một công cụ chính sách là một biến số kinh tế chịu sự quản lý trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ , thay đổi công cụ chính sách này sẽ có tác động đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô .
a.Hệ thống luật pháp :
Nó là hành lang an toàn cho các hoạt động kinh tế, đến mọi thành phần kinh tế ...nhằm tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu tư đồng thời đảm bảo trật tự kinh tế cũng như đảm bảo trật tự xã hội để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh. Bằng cách đưa ra các đạo luật, chính phủ đã buộc mọi người dân hay mọi tổ chức kinh tế phải tuân theo. Hệ thống luật pháp xuyên suốt quá trình phát triển của xã hội và trong các hoạt động kinh tế. Nó đưa xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng vào khuôn khổ theo ý muốn chủ quan của chính phủ. Hệ thống luật pháp ở mỗi nước là có thể khác nhau và có thể sửa đổi, bổ sung ở mọi thời điểm để phù hợp với từng giai đoạn của mỗi nước.
b.Chính sách tài khoá:
Chính sách tài khoá bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế.
.Chi tiêu của chính phủ:
Các chính phủ không thể không chi tiêu bởi vì để tạo hiệu quả cho nền kinh tế thì chính phủ phải bỏ tiền ra để xây dựng đường xá, các ngành công nghiệp quan trọng như điện..., đồng thời phải chi trả lương cho cán bộ viên chức, quân đội. cảnh sát, trợ cấp... Chi tiêu của chính phủ cũng tương tự như việc đầu tư của các doanh nhgiệp nhưng khác ở chỗ là chính phủ không thu được lợi nhuận trong cuộc đầu tư này. Nhưng bù lại nó nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, làm cho xã hội có sự công bằng hơn. Bởi vì chi tiêu của chính phủ là một bộ phận của tổng cầu do đó nó làm cho tổng sản phẩm quốc dân thay đổi. Trong trường hợp sản lượng của nền kinh tế còn dưới mức sản lượnh tiềm năng thì chính phủ tăng cường chi tiêu đẻ làm tăng tổnh cầu từ đó làm cho sản lượng tiến gần sản lượng tiềm năng. Trong trường hợp ngược lại, sản lượng vượt qua sản lượng tiềm năng hay trong thời kì lạm phát cao, chính phủ cắt giảm chi tiêu của mình để cùng với các công cụ vĩ mô khác làm giảm lạm phát. Điều đó chứng tỏ chính phủ không thể chi tiêu một cách lãng phí nguồn ngân sách mà vấn đề là chi tiêu thế nào cho hợp lí trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, chính phủ cần phải kiểm soát chặt chẽ nhu cầu chi tiêu của mình để hạn chế tối đa việc thâm hụt ngân sách. Trong trường hợp thiếu hụt ngân sách chính phủ phải vay tiền dân chúng hoặc vay nước ngoài để bù đắp ngân sách.
Tóm lại, tất cả các chính phủ ở các quốc gia đều phải chi tiêu nhưng không phải tự nhiên có tiền để chi tiêu mà phải có nguồn thu. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là thuế, còn các nguồn thu khác là không đáng kể.
.Thuế khoá :
Thuế khoá là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh mà nhà nước bắt buộc mỗi công dân và các tổ chức kinh tế phải nộp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tất cả các quốc gia đều quy định mức thuế suất với mỗi loại thuế và buộc mọi người phải tuân theo. Các loại thuế đều làm giảm thu nhập của người dân dẫn tới mức chi tiêu cho tiêu dùng của các hộ gia đình giảm. Thuế còn ảnh hưởng đến việc đầu tư của mỗi doanh nghiệp, nếu thuế cao sẽ không khuyến khích đầu tư, việc giảm các sắc thuế đánh vào các khoản bổ sung cho đầu tư hoặc kinh doanh máy móc thiết bị mới sẽ kích thích đầu tư ở nhiều ngành từ đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế dẫn đến GDP sẽ tăng lên trong tương lai. Ngoài ra, thuế còn ảnh hưởng đến việc xuất-nhập khẩu ở mỗi nước. Nếu các sắc thuế đánh vào các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ hạn chế được việc nhập khẩu các mặt hàng đó, tương tự đối với xuất khẩu, từ đó chính phủ điều tiết được lượng hàng hoá nội địa và nhập ngoại. Như vậy, khi chính phủ muốn bảo hộ một loại mặt hàng nào đó ở trong nước thì chỉ cần tăng thuế xuất-nhập khẩu của mặt hàng đó lên cao đến mức các doanh nghiệp không muốn nhập khẩu loại mặt hàng đó nữa.
Như vậy, để ổn định sản lượng gần với sản lượng tiềm năng thì chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của tổng cầu hạ thấp một cách không bình thường thì chính phủ phải kích thích nhu cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách. Trong trường hợp các bộ phận của tổng cầu cao hơn mức bình thường thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả hai cách.
c.Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô được dùng tương đối phổ biến của chính phủ. Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lượng cung về tiền và lãi suất. Thực chất của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng trung ương kiểm soát việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Ngân hàng trung ương kiểm soát bằng cách tăng hoặc giảm lượng cung ứng tiền trong lưu thông thông qua lãi suất hoặc chứng khoán... Thông thường trong những thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng lãi suất lên cao(chính sách thắt chặt tiền tệ)để thu hút một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng làm cholượng tiền trong lưu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền tệ,ngân hàng trung ương giảm lãi suất hay mua chứng khoán của dân chúng để tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Như vậy, bằng cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến đầu tư,từ đó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế về mặt ngắn hạn. Song do tác động đến đầu tư, nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt dài hạn.
d.Chính sách thu nhập:
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả... để kìm chế lạm pháp.
Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn như:đồng lương,đồng giá; những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lương-tiền..., đến các biện pháp linh hoạt như:việc hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập...
Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát cao. Thực chất của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lương-tiền. Trong thời kỳ lạm phát cao chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và đông tiền lương, tức là cố định giá cả và tiền công trong một thời gian nhất định nhằm giảm bớt lượng tiền.
e.Chính sách kinh tế đối ngoại:
Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế đối ngoại để sự trao đổi mua bán giữa các nước được thuận lợi. Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm nhiều loại công cụ như: quản lý tỷ giá hối đoái, chính sách ngoại thương, trợ giá, hàng rào thuế quan, hạn nghạch. Việc tác động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào giá cả hàng hoá đó đều thông qua các công cụ này.Chẳng hạn như để khuyến khích xuất khẩu thì chính phủ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống làm cho giá ngoại tệ giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác động bằng cách hạ thuế suất các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá... làm cho chi phí xuất khẩu hạ xuống từ đó làm giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh với các hãng sản xuất cùng loại mặt hàng ở các nước khác. Như vậy, những biện pháp này nhằm duy trì sự cân bằng trên thị trường ngoại hối và giữ cho xuất-nhập khẩu theo như mong muốn của chính phủ .
Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ, ngoài ra còn có các công cụ khác như các kế hoạch, các chương trình phát triển...Việc sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở mỗi quốc gia là không giống nhau. Vì vậy, khi sử dụng chúng cần phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở quốc gia mình .
Sự khác biệt giữa điều tiết của nhà nước trongnền kinh tế chỉ huy và nền kinh tế thị trường ở chỗ :
Nền kinh tế là nền kinh tế mà chính phủ ở nước đó trực tiếp giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Còn trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước (nền kinh tế hỗn hợp)thì cả chính phủ và thị trường đều tham gia giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế, có ngiã là kết hợp cả hai yếu tố là sự dung hoà của nhà nước và thị trường. Cách giải quyết đó là :
Sản xuất ra cái gì: Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nước trực tiếp phân bố các nguồn lực (đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật...)cho các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế (các xí nghiệp, các công ty...), chính phủ quyết định cho công ty này sản xuất ra cái gì và bao nhiêu. Còn trong nền kinh tế thị trường, chính phủ để tự các doanh nghiệp sản xuất ra những mặt hàng gì mang lại lợi nhuận cho họ, chính phủ tham gia sản xuất ra những hàng công cộng hay còn gọi là xây dựng hạ tầng cơ sở để phục vụ cho nền kinh tế, đồng thời nhà nước kiểm soát một tỷ phần đáng kể của sản lượng thông qua việc đánh thuế, tham gia vào việc định giá..., chính phủ cũng tham gia vào việc sản xuất ra hàng tư nhân: sắt, thép ...
Sản xuất như thế nào: Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nước quy định công nghệ, kỹ thuật sản xuất, quyết định mô hình và cách thức sản xuất. Việc thay đổi cũng phải được sự đồng ý của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường chính phủ vì lợi ích chung của toàn xã hội mà sẵn sàng nhập những công nghệ tốt và can thiệp những tổ chức, những công ty... nhập những công nghệ có hại cho cộng đồng.
Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế chỉ huy, nhà nước quyết định phân chia tổng sản phẩm quốc dân cho từng ngành, từng gia đìnhvà từng cá nhân. Có nghĩa là các đơn vị sản xuất giao nộp hàng hoá đã sản xuất cho chính phủ, từ đó chính phủ phân phối đều các mặt hàn đến các ngành, các gia đình thông qua tem phiếu. Trong nền kinh tế thị trường thì cả nhà nước và thị trường tham gia vào việc phân phối. Nhà nước thực hiện chế độ trợ cấp cho những người nghèo, người về hưu..., trợ cấp cho những vùng bị thiên tai. Đối với một số hàng hoá nhà nước khuyến khích bằng cách giảm thuế, trợ cấp theo giá cả (trợ giá) .
Qua đây ta thấy, nền kinh tế chỉ huy hoạt động kém hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ do chỉ được điều hành bằng mệnh lệnh, sản xuất không thông qua cung- cầu trên thị trường, bên cạnh đó hệ thống cơ quan nhà nước rất đồ sộ làm cho nhà nước phải có chi phí quá lớn vào hẹe thống này. Trên thực tế cơ chế kinh tế chỉ huy này đã được áp dụng ở các nước XHCN trước đây và nó đã bị tan rã .
Tuy nhiên, sự điều tiết của chính phủ trong nền kinh tế thị trường không phải là không có mặt trái của nó. Chẳng hạn như: Đối với thuế quan, nó có tác động làm giảm lượng hàng nhập khẩu và chính phủ thu được một khoản tiền từ loại thuế này, tăng lượng hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, nó sinh ra chi phí ròng mà xã hội phải chịu để bù đắp cho doanh nghiệp sản xuất thêm đồng thời người tiêu dùng phải cắt giảm tiêu dùng khi có thuế quan hay nói cách khác nó là phần thiệt hại do người tiêu dùng phải cắt giảm tiêu dùng. Hơn nữa, chính phủ dùng thuế quan để bảo vệ một số ngành trong nướcbằng cách định mức thuế xuất-nhập khẩu hàng hoá nào đó cao đến mức chấm dứt việc nhập khẩu hàng hoá đó, do vậy ngành sản xuất loại hàng hoá tương tự ở nội địa được bảo hộ. Điều này làm cho ngành đó không có tính cạnh tranh, không tìm kiếm những phương thức sản xuất mới để giảm chi phí dẫn đến hiệu quả sản xuất giảm .
Về hạn ngạch (quota) là giới hạn số lượng hàng nhập khẩu quota do chính phủ cấp và tuỳ từng tình hình mà chính phủ cho phép nhập khẩu từng loại hàng hoá là bao nhiêu. Tác động của quota cũng giống như của thuế quan nhưng khác một điều là phần thuộc về chính phủ khi có thuế quan thì bây giờ lại thuộc về những người có quota. Do vậy có sự tranh giành nhau để có quota nhập khẩu dẫn đến xuất hiện các tệ nạn xã hội như tham nhũng, hối lộ...
Về chính sách tiền tệ có tỷ giá hối đoái thả nổi: Khi chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ (để chống lạm phát) làm cho lãi suất tăng lên, do đó việc đầu tư vào nước này là rất hấp dẫn dẫn đến mức cầu về đồng tiền đó tăng, nên làm cho xuất khẩu giảm, hàng nhập khẩu rẻ hơn (do giá trị đồng tiền nước đó cao), làm cho xuất khẩu ròng giảm từ đó tổng cầu (AD) giảm nên công ăn việc làm giảm, cán cân thương mại bị thâm hụt. Việc định giá đồng tiền quá cao cùng với tỷ giá hối đoái thả nổi làm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. (Điều này thực tế đã xảy ra ở Mỹ và Nhật đầu những năm 80). Chính phủ quy định mức lương tối thiểu cao hơn mức lương bình quân nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động, hạn chế sự bóc lột của người thuê công nhân. Mức lương tối thiểu có thể đảm bảo lợi ích trước mắt cho một bộ phận công nhân nhưng xét về mặt dài hạn nó làm thệt hại đến lợi ích của toàn bộ lực lượng lao động ở chỗ làm tăng đội quân thất nghiệp. Như thế nó đã ảnh hưởng không tốt đến việc sử dụng một nguồn lực quan trọng của xã hội. Tương tự, trên thị trường hàng hóa, việc quy định mức giá tối thiểu cao hơn giá trị cân bằng của thị trường có thể đảm bảo lợi ích trước mắt cho người bán nhưbg trong dài hạn giá tối thiểu không khuyến khích đổi mới kỹ thuật và hạ thấp chi phí do đó sẽ gây thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế. Chính phủ quy định chính sách giá tối đa tức là bằng cách ban hành đạo luật quy định một mức giá thấp hơn giá trị cân bằng của thị trường buộc người mua phải thanh toán theo giá đó. Nó được sử dụng khi ở trên thị trường nào đó hàng hoá trở nên khan hiếm và có xu hướng tăng giá mạnh ảnh hưởng xấu đến lợi ích kinh tế của những người tiêu dùng. Việc quy định giá hàng hoá đó thấp hơn giá trị cân bằng của thị trường sẽ dẫn đến việc giảm sản lượng của các doanh nghiệp trong nước và ngược lại làm tăng cầu của người tiêu dùng. Tình trạng khan hiếm hàng hóa đó xuất hiện và người mua sẽ phải cạnh tranh một cách quyết liệt với nhau để mua được một lượng hàng hạn chế với mức giá thấp. Chính phủ có thể dùng biện pháp tem phiếu để cung cấp lượng hàng hóa có hạn với mức giá mà chính phủ mong muốn. Việc phát hành tem phiếu này lại gắn liền với việc xuất hiện thị trường chợ đen buôn bán tem phiếu hoặc hàng hóa với giá cao, thêm vào đó là những người không có nhu cầu về hàng hóa đó song vẫn được cung cấp tem phiếu sẽ sử dụng nó một cách lãng phí làm thiệt hại đến hiệu quả chung của nền kinh tế .
Tuy trong quá trình chính phủ can thiệp vào thị trường gặp phải nhiều mâu thuẫn giữa hiệu quả, công bằng và ổn định, giữa dài hạn và ngắn hạn, nhưng cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ có sự ưu việt hơn cả và được tất cả các quốc gia trên thế giới áp dụng .
phần II : vị trí kinh tế của chính phủ ơ nước cộng hòa
xhcn việt nam trong giai đoạn “từng bước
công nghiệp hóa và hiện đại hóa “đất nước
Đất nước ta đang tự khẳng định mình bằng công cuộc “Công nghiệp hóa và hiện đại hóa “. Mặc dù chúng ta mới đang lẫm chẫm từng bước nhưng có sự điều tiết của chính phủ ở tầm vĩ mô thì cái đích trước mắt nhất định chúng ta sẽ sớm đạt được. Để có được những thành tựu đáng kể của ngày hôm nay, chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã bao phen phải đương đầu với những khó khăn thử thách. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của chính phủ Việt Nam trong quản lý nền kinh tế của đất nước nói chung và nhất là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiệh đại hóa “đất nước. Thực tế chứng minh rằng: Chính phủ Việt Nam luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước .
I.Vị trí kinh tế của chính phủ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 được thông qua tại Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định sự lựa chọn phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Sự lựa chọn đó bắt nguồn từ nhận thức rõ những sai lầm trong việc xây dựng thể chế kinh tế theo mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính và cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu. Mô hình này quá đề cao vai trò thúc đẩy và mở đường của quan hệ sản xuất, mà không tính đến quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đem chủ nghĩa xã hội đối lập với thị trường. Kết quả của mô hình đó là nền kinh tế kém phát triển, thị trường hạn hẹp và dẫn đến tình trạng khủng hoảng thiếu .
Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhận thức mới của Đảng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là chế độ kinh tế, trong đó mọi năng lực sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân, tập thể và cộng đồng dân tộc được khai thác nhằm mục đích là phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại đi liền với tự do, dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội .
Từ những thất bại phổ biến về mặt phát triển kinh tế ở hàng loạt nước lựa chọn mô hình kinh tế hiện vật, có thể rút ra kết luận: không phải chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa thua kém chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa, mà là kinh tế hiện vật thua kém kinh tế hàng hóa. Phủ định thị trường và quan hệ thị trường, chủ nghĩa xã hội trước đây đã phải trả giá quá đắt cho cuộc thử nghiệm của mình. Mô hình kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý hành chinh tập trung quan liêu và bao cấp đã kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và làm biến dạng chủ nghĩa xã hội .
Cần nhận thức rõ rằng, quan hệ hàng hóa-tiền tệ, quan hệ thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà chúng ta đã có từ lâu trước chủ nghĩa tư bản. Các quan hệ ấy sẽ còn tồn tại, phát triển trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội trong sự tác động qua lại với tất cả các quá trình kinhtế khách quan khác .
Có thể nói, kinh tế hàng hóa với hình thức phát triển của nó là kinhtế thị trường, là loại hình kinh tế- xã hội được tổ chức thông qua thị trường trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội. Nó đã tồn tại với tư cách là hình thái kinh tế mang tính thích ứng rất mạnh, có thể gắn với chế độ tư hữu, và cũng có thể gắn với chế độ công hữu. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh rằng, cho đến nay chưa có một hình thái kinh tế nào hoạt động có hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường, vì thế không có lý do gì mà chủ nghĩa xã hội lại không sử dụng nó nhằm mục đích phục vụ cho mục tiêu phát triển của mình .
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo mô hình nào ? Trên thế giới có nhiều loại mô hình kinh tế thị trường :
-Kinh tế thị trường xã hội của Cộng hòa liên bang Đức hoặc Thụy Điển .
-Kinh tế thị trường kiểu Nhật Bản .
-Kinh tế thị truyền thống Tây Âu .
-Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc .
Mỗi loại hình đều có những ưu điểm, nhược điểm và những nét độc đáo riêng. Vì thế, chúng ta cần khai thác những đặc trưng phổ biến và những ưu điểm của các mô hình kinh tế thị trường ,nhưng chắc chắn không có khuôn mẫu vạch sẵn cho mọi nước. Đối với từng nước, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của nước mình, cũng như hoàn cảnh quốc tế mà vạch ra những nét lớn của thể chế kinh tế thị trường ,lộ trình tổng quát của bước chuyển từ nền kinh tế hiện vật , với cơ chế quản lý tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước .
Phải nói rằng chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là bước chuyển biến rất phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Mấy năm qua, bên cạnh những thành tựu lớn của đổi mới, chúng ta cũng đã thấm thía những hậu quả tiêu cực mà kinh tế thị trường mang lại, chúng ta cũng gặp nhiều thiếu xót, phạm nhiều sai lầm, lệch lạc trong các chính sách xã hội, thậm chí không những chúng ta đã không phát huy, không nhân lên, mà còn đánh mất một số thành quả đã đạt được trong các lĩnh vực giáo dục, ytế, văn hóa, trong chính sách đối với nông dân, với đồng bào miền núi, với các gia đình có công với cách mạng .
Tóm lại, lựa chọn mô hình kinh tế thị trường và phát triển nền kinh tế thị trường không hề làm phương hại đến chủ nghĩa xã hội, mà bằng các chính sách, biện pháp và công cụ quản lý điều tiết, nhà nước phục vụ các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, lợi dụng cơ chế cạnh tranh của thị trường để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất .
Trước đây, mọi hoạt động của nền kinh tế đều do nhà nước chỉ huy.Bây giờ, nền kinh tế vận hành thông qua hai yếu tố cơ chế tự do của thị trường và sự điều tiết vĩ mô của chính phủ. Nhưng không vì thế mà vai trò của chính phủ giảm đi mà trái lại chính phủ ngày càng cho thấy tầm quan trọng của mình để đạt được mục tiêu chung mà mọi nền kinh tế cùng mơ ước, đó là: sản lượng cao, công ăn việc làm đầy đủ, ổn định giá cả và cán cân ngoại thương .
Chính phát huy cao độ mặt, mặt tích cực của cơ chế cạnh tranh và tự do hóa sản xuất-kinh doanh, đồng thời thông qua chính sách và luật pháp giảm đến mức thấp nhất mặt tiêu cực và hậu quả kinh tế-xã hội do cạnh tranh đem lại, nhằm đảm bảo phúc lợi công cộng cũng như công bằng xã hội, bảo vệ môi sinh, môi trường. Trong bước quá độ, khi các “luật chơi “của thị trường chưa được thiết lập ổn định, thì không thể thả nổi cho thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà cần “bắc những chiếc cầu nhỏ “giữa kế hoạch vĩ mô định hướng và kế hoạch vĩ mô của các doanh nghiệp lớn (sau này có thể là một số tập đoàn kinh doanh). Đề ra những nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh và đầu tư trọng điểm nhằm bảo đảm những cân đối chủ yếu của nền kinh tế, giữ thị trường ổn định, từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế theo thị trường hiện đại, còn các nhu cầu thông thường hàng ngày chủ yếu để thị trường tự điều tiết .
Xây dựng thị trường thống nhất trong cả nước, có tính đến đặc thù và trình độ phát triển không đồng đều của các vùng, lãnh thổ và đặc điểm của ngành hàng . Từng bước, nhưng tích cực xây dựng hệ thống thị trường đồng bộ (thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản, lao động cộng nghệ, thông tin ...), nhanh chóng tiếp cận thị trường quốc tế .
Chính phủ quản lý thị trường bằng pháp luật, chính sách và các công cụ kinh tế , gắn kế hoạch vĩ mô định hướng với các chính sách và chương trình kinh tế, tạo môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Đồng thời, sử dụng những biện pháp hành chính cần thiết để hạn chế những mặt trái và tiêu cực của thị trường. Nhà nước phải làm sao có thực lực kinh tế làm chỗ dựa để ổn định kinh tế và định hướng thị trường. Chính phủ quản lý chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc công bằng và hiệu quả. Bên cạnh các yếu tố sản xuất khác như đất đai, vốn, trang bị công nghệ mới, tài năng kinh doanh, chính phủ thực hiện sự điều tiết để tái phân phối, nhằm sử lý hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội .
Cần khẳng định vai trò của chính phủ trong mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, khác với vai trò của chính phủ dưới chủ nghĩa tư bản. Nếu mô hình kế hoạch hóa tập trung quan liêu hạn chế sự tăng trưởng, nhưng phần nào giải quyết được yêu cầu cân bằng, thì mô hình kinh tế thị trường nếu không có sự điều tiết của nhà nước, chắc chắn sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa tăng trưởng và cân bằng, giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những mục tiêu quan trọng mà chế độ xã hội chủ nghĩa phải đạt được .
Vị trí kinh tế của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiệh đại hóa “đất nước :
1.Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam :
Công nghiệp hóa , hiện đại hóa hiểu theo nghĩa chung và khái quát là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp . Đối với nước ta, công nghiệp hóa là quá trình chuyển tưd một nước sản xuất nhỏ công nghiệp lạc hậu , công nghệ và năng suất lao động thấp thành một nước có cơ cấu công-nông nghiệp và dịch vụ hiện đại , khoa học và công nghệ tiên tiến , năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân .
Cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền sản xuất lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý , có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ khoa học công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân .Do đó công nghiệp hóa hiện đại hóa là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến . Ơ các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội , cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản dù có tiến bộ đến đâu , nó chỉ mới là tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH được . Đối với những nước này, thực hiện quy luật chung nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về mặt quan hệ sản xuất và vận dụng những thành tựu khoa học-công nghệ mới của cách mạng khoa học-kỹ thuật, biến tiền đề vật chất của chủ nghĩa tư bản tạo thành cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phân bố lại một cách đồng đều trong cả nướcvà tiếp tục hiện đại hoá ở trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Tại những nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như ở nước ta, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội được thực hiện bằng cách công nghiệp hoá. Do vậy, những gì nói về tính tất yếu khác quan của việc xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội cũng có giá trị để nói về tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá.
Công nghiệp hóa và xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật có quan hệ chặt chẽ với nhau , song không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Công nghiệp hoá chỉ là cách thức tiến hành, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật là mục đích phải đạt, công nghiệp hoá hiểu theo nghĩa hẹp nó mang tính lịch sử, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật lại là mục tiêu và công việc phải tiếp tục qua các giai đoạn phát triển của phương thức sản xuất mới-cộng sản chủ nghĩa.
Thực hiện đúng đắn quá trình công nghiệp hoá có những tác dụng to lớn về
nhiều mặt.
-Tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng xuất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
-Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích lũy, tăng công ăn việc làm nhờ đó làm tăng sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người-nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội.
-Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh và quốc phòng
-Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ , đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa công nghiệp hoá với lực lượng sản xuất. Công ngiệp hoá là để thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế, kỹ thuật theo hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng, ý nghĩa quan trọng và toàn diện. Do vậy, Đảng ta cho rằng: “ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước... là nhiệm vụ trung tâm “ của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Vai trò chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta :
Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây, chính phủ quyết định tất cả. Có người đã lầm tưởng rằng trong một nền kinh tế thị trường, chính phủ không có vai trò đáng kể, mọi hoạt động sẽ chỉ do thị trường quyết định. Đúng là đã từng có những nền kinh tế thị trường như vậy, nhưng đó là những nền kinh tế thị trường tồn tại cách đây nhiều thế kỷ trước khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện. Kể từ khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện, thì chính các độc quyền đã tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính hpủ tham gia điều tiết các hoạt động và mức độ tham gia ngày càng nhiều tới mức ngày nay ở nhiều nước phương Tây người ta phải chủ trương giảm bớt sự điều tiết của chính phủ, phi nhà nước hóa. Như vậy, cho đến nay tồn tại song hành hai cơ chế, cơ chế thị trường (bàn tay vô hình), và cơ chế điều tiết của chính phủ (bàn tay hữu hình). Gọi là hai cơ chế nếu chúng ta muốn tách để xem xét chúng một cách tương đối độc lập. Trên thực tế, chúng có quuan hệ với nhau rất chặt chẽ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh và độc quyền là hai yếu tố chủ yếu chi phối. Cạnh tranh là một động lực phát triển của kinh tế thị trường nhưng cũng có những khuynh hướng cạnh tranh phi kinh tế, dùng những thủ đoạn bẩn thỉu để bóp chết lẫn nhau. Những khuynh hướng cạnh tranh không lành mạnh như vậy phải được ngăn chặn. Độc quyền đã có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, nhưng độc quyền có mặt thối nát của nó là bóp chết các sáng kiến. Nếu để cho thị trường tự do tác động, thì các khuynh hướng tích cực và tiêu cực cùng tác động, do vậy đã gây ra các tác động không tốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh thế giới diễn ra vào năm 1929-1933 là một ví dụ nổi bật. Sự can thiệp của chính phủ chính là nhằm hạn chế những tác động tiêu cực đó và hướng nền kinh phát triển có hiệu quả.Từ đó liên hệ tới vai trò của chính phủ Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “.
Ai cũng thấy số nước đạt được các thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế không nhiều. Đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự “thần kỳ kinh tế “của Nhật Bản, về các thành tựu kinh tế của NIEs. Có người đã nhấn mạnh đến yếu tố về sự kết hợp giữa công nghệ phương Tây và truyền thống của Nhật Bản.Có người nhấn mạnh đến tinh thần lao động cần cù, miệt mài, sáng tạo của người Nhật. Cũng có người đã nhấn mạnh tới tài ba của những nhà quản lý Nhật Bản. Nhưng trong đó, nguyên nhân của những thành công về kinh tế của các quốc gia trước hết phải nói tới vai trò của chính phủ với tư cách là người lãnh đạo quản lý nền kinh tế quốc dân. Nếu chính phủ không mạnh, nghĩa là không có khả năng vạch ra được các chiến lược phát triển, các chính sách kinh tế, luật pháp đúng đắn, không có khả năng thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả các chiến lược, chính sách và luật pháp đó, thì nền kinh tế không thể nào phát triển có hiệu quả và thu được những thành tựu nổi bật được.
Một nhà kinh tế học nổi tiếng đã nhận xét: “Chính phủ tồi đã làm tàn lụi cả một châu lục “. Một ví dụ thực tế: Sự suy giảm của nền kinh tế Ghana ở châu Phi da đen trong hai thập kỷ 60 và 70. Năm 1957 Ghana được xem là nước giầu nhất châu Phi da đen với bình quân đầu người 490 đô la Mỹ, nhưng đến đầu những năm 80 thu nhập quốc dân đầu người đã giảm xuống còn 400 đôla Mỹ, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm. Các quốc gia châu Phi da đen khác cũng ở trong tình trạng tương tự. Cả một châu lục tàn lụi. Lý do chính là sự lãnh đạo yếu kém của các chính phủ ở các quốc gia này. Những yếu kém này đã thể hiện ở chỗ xác định chiến lược, chính sách, pháp luật không đúng; họ càng thực thi các chính sách sai lầm đó tích cực và nghiêm túc thì tai hoạ suy thoái càng lớn. Do vậy đã có câu “Nền kinh tế chỉ tăng trưởng vào ban đêm khi chính phủ ngủ say “.
Các quốc gia như Nhật Bản và các NIEs, sự thành công của họ gắn chặt với vai trò to lớn của chính phủ. Nhật Bản đã tạo dựng được một nhà nước mạnh, nhà nước này đã kết hợp được kỹ thuật phương Tây và truyền thống Nhật Bản, khuyến khích và phát triển được tài năng quản lý của các xí nghiệp, động viên được nhân dân Nhật Bản làm việc hết mình. Đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vai trò quan trọng nhất của chính phủ là vai trò định hướng nền kinh tế thông qua việc hoạch định các chiến lược, chính sách, luật pháp,v.v...
Thực tế ở Việt Nam cho thẩy trong nhiều năm trước Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam, chính phủ đã định hướng nền kinh tế không đúng, dường như chỉ phát triển hướng nội xem nhẹ các ngành hướng vào xuất khẩu; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng kém hiệu quả, không chú trọng tới các ngành có khả năng tăng trưởng nhanh, hiệu quả lớn; chỉ chú trọng phát triển mở rộng khu vực kinh tế nhà nước, tập thể, xoá bỏ kinh tế tư nhân, cá thể; phát triển kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường,v.v...Với một hướng đi lệch lạc như vậy, kinh tế Việt Nam đã hoạt động kém hiệu quả và rơi vào tình trạng lạm phát phi mã và khủng hoảng sâu sắc. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam mới bước đầu nắn lại hướng đi của nền kinh tế: Chuyển hướng thực hiện 3 chương trình kinh tế: sản xuất lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; chuyển mạnh sang kinh tế thị trường trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu, xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp,v.v...Nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang một hướng đúng, ta đã thấy xuất hiện các yếu tố năng động tích cực và thấy rõ hướng đi lênthoát khỏi khủng hoảng của nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vai trò của chính phủ đặc biệt quan trọng. Chính phủ không đơn thuần là người trọng tài, người định hướng, định luật chơi mà mức độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của chính phủ là mạnh, và rộng hơn. Trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “này, điều kiện quan trọng cho những thành công kinh tế của Việt Nam là Việt Nam phải có một chính phủ mạnh về trí tuệ có khả năng định hướng đúng đắn sự phát triển của nền kinh tế đất nước .
Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan trọng của chính phủ trong quản lý kinh tế, chúng ta không chỉ khẳng định sự can thiệp của chính phủ đối với các quá trình kinh tế, mà phải xác định rõ chính phủ thực hiện vai trò quản lý của mình như thế nào, bằng cách thức nào để nhận thức rõ ranh giới quyền lực của mình, không xâm phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tức là đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp .
Điều đó liên quan đến việc xác định những chức năng cũng như nội dung quản lý mà chính phủ phải đảm nhiệm thực hiện. Trong giai đoạn hiện nay chính phủ thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua ba chức năng cơ bản sau :
-Điều khiển vĩ mô nền kinh tế .
-Quản lý ngân sách nhà nước .
-Hoạt động kinh tế .
Trong số các chức năng trên thì chức năng đầu là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định phát triển kinh tế, đặc biệt trong cơ chế thị trường .
Nghiên cứu về vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp ở các nước đang phát triển, hai nhà nghiên cứu người Anh là Helen Shapiro
Lance Taylor đã khái quát chiến lược quản lý của chính phủ đối với công nghiệp trong 11 điểm như sau :
.Trong mọi trường hợp, chính phủ chỉ nên định hướng chung mà không trực tiếp tham gia vào các quyết định của các doanh nghiệp.
.Chính phủ tập trung thông tin và chia sẻ một cách có chọn lọc cho các doanh nghiệp.
.Chính phủ cung cấp vốn liên doanh cho các xí nghiệp mới, thường là ở các lãi suất thuận lợi đối với họ.
.Chính phủ hỗ trợ cho “các ngành công nghiệp đột phá “.
.Sự hỗ trợ cần phải được cân nhắc và xử lý cụ thể từng trường hợp. Chính phủ phải có quyền lực (và cả ý chí) cắt bỏ sự ưu đãi nếu như doanh nghiệp không đáp ứng được những tiêu chuẩn đã đề ra.
.Bản thân các tiêu chuẩn phải rõ ràng và không phức tạp.
.Lợi ích của những người gánh chịu các khoản chi phí do thực hiện các chính sách cần phải được chú ý.
.Có sự phân công sản xuất giữa xí nghiệp công cộng, xí nghiệp tư nhân và cá thể các công ty xuyên quốc gia. Xí nghiệp công cộng tốt nhất là hoạt động trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, các ngành công nghiệp “ cơ sở “ và các lĩnh vực có những đặc biệt trong thực hiện.
.Chú ý tới đào tạo và y tế.
.Có sự liên kết hỗ trợ về vốn giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Các chương trình đầu tư của nhà nước phải được thiết kế nhằm tăng hiệu quả của cả hai khu vực nhà nước và tư nhân.
.Tránh mọi sự không rõ ràng.
Chính phủ tạo điều kiện để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá được phát triển nhanh chóng bằng cách:
Chính phủ tạo chỗ làm việc, giải toả sức ép về công ăn việc làm, lao động đang có xu hướng tăng lên trong nền kinh tế. Công nghiệp hoá như là một phương thức làm thay đổi cơ cấu kinh tế của đất nước có một sứ mạng hết sức quan trọng trong việc phát huy nguồn nhân lực rất tiềm tàng hiện còn chưa được toàn dụng và đang trở thành một sức ép lớn đối với nền kinh tế. Trong điều kiện cụ thể của nước ta trong những năm đầu của quá trình công nghiệp hoá, sự chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hướng mạnh vào những ngành sản xuất và dịch vụ cần nhiều lao động để có thể thu hút và giải toả sức ép về công ăn việc làm đang căng thẳng trong xã hội, để rồi khi sức ép này không còn gay gắt nữa, trọng tâm của chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ chuyển hướng mạnh vào các ngành khác, loại công nghệ khác. Quan điểm như vậy sẽ tác động trực tiếp tới việc hoạch định chính sách công nghệ trong lĩnh vực sản xuất.
Chính phủ hướng vào cơ cấu công nghệ nhiều tầng với sự định hướng vào những công nghệ mũi nhọn, tiên tiến một cách hiệu quả. Qúa trình cộng nghiệp hoá đất nước một mặt hướng vào giải quyết những vấn đề nóng bỏng, cấp bách hiện tại, nhưng đồng thời cũng phải hướng tới và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho tương lai gần ( 10-20 năm ) và tương lai xa (20-30 năm ). Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá bao gồm xây dựng cơ cấu công nghệ nhiều quy mô, nhiều trình độ, hướng hiện đại. Cơ cấu xã hội, phân công lao động xã hội không chỉ là chất kết dính các ngành kinh tế với nhau, mà còn cả các tầng công nghệ với tư cách là một bộ phận cấu thành quan trọng của cơ cấu ngành kinh tế. Về phần mình, sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ tiên tiến sẽ có tác dụng thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội. Trình độ phân công lao động xã hội có ảnh hưởng quyết định đối với sự hình thành và định hướng phát triển cơ cấu công nghệ. Do thực trạng sản xuất còn nhỏ, phân tán, lao động chủ yếu còn thủ công, thiếu thốn nghiêm trọng, 75 % lực lượng lao động xã hội tập chung ở nông thôn và mức độ trang bị công cụ lao động, trình độ tay nghề còn thấp, sự tích luỹ vốn trong các hộ gia đình còn ít ỏi thì nhìn chung, trong những năm trước mắt vẫn cần phát triển những cộng nghệ đơn giản, dễ tiếp thu và rẻ, mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội nhanh. Những công nghệ như vậy được kết hợp với nguồn lao động xã hội còn đang dư thừa lớn sẽ tạo ra công ăn việc làm, làm những sản phẩm đáp ứng ngay chính những nhu cầu đơn giản của thị trường trong nước.
Chính phủ đã phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phàn kinh tế. Khác với trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp với sự hiện diện về cơ bản chỉ một thành phần kinh tế, hiện nay công nghiệp hoá ở nước ta được tiến hành dưới tác động của cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nền kinh tế mở đang thu hút ngày càng nhiều sự tham gai của các nhà đầu tư cước ngoài. Trong nhiều năm tới, chúng ta vẫn chủ yếu phải dựa vào nguồn cung cấp các công nghệ tiên tiến bên ngoài thì một môi trường đầu tư phát triẻn công nghệ hấp dẫn và thuận lợi cho cả các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài là một yếu tố quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Điều cần chú ý ở đây không chỉ ở sự khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư của nước ngoài. Kinh nghiệm quốc tế và nước ta cho thấy rằng, một đồng vốn ngoại tệ đầu tư bao giờ cũng đòi hỏi một lượng tương đương tiền trong nước đi kèm
Chính phủ có biện pháp nhằm thống nhất hiệu quả kinh tế và hhiệu quả xã hội. Công nghiệp hoá trong điều kiện kinh tế thị trường đặt ra một loạt vấn đề xã hội cần được xử lý giải quyết. Công nghiệp hoá là phương thức để phát triển kinh tế. Sự phát triển có thể có một mục tiêu cơ bản là nâng cao mức sống cho mọi người trong xã hội nhất là những người nghèo. Vấn đề lớn nhất đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá là phân phối kết quả của phát triển kinh tế thông qua công nghiệp hoá đến được với mọi người dân trong xã hội, mọi vùng, mọi khu vực của đất nước. Quan điểm về sự thống nhất giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội đồng thời cũng nhấn mạnh sự cần thiết tất yếu nâng cao vai trò tích cực của nhà nước trong việc điều tiết quá trình công nghiệp hóa.
3.Các chính sách kinh tế mà chính phủ áp dụng trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá:
Các chính sách quản lý kinh tế của chính phủ theo các mục tiêu sau:
-Kích thích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất.
-Tạo công ăn việc làm, sử dụng tiềm năng lao động xã hội và chuyển biến cơ cấu lao động.
-Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế.
.Kích thiích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất:
Có thể nêu những tác dụng tích cực của các quy định trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đã ban hành ở nước ta có liên quan tới kích thích đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, đó là:
+Tạo quyền chủ động cho chủ thể sử dụng ( các doanh nghiệp ) quyết định lựa chọn, mau bán công nghệ, kể cả việc trực tiếp quan hệ với bạn hàng nước ngoài.
+Tạo nhu cầu bức thiết đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Cơ chế thị trường buộc các cơ sở sản xuất tìm mọi cách để tồn tại và thu lợi nhuận tối đa. Cuộc cạnh tranh thực sự để tiêu thụ sản phẩm trong những năm 1989-1990-1991 khi một loạt chính sách và quyết định quản lý kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị trường được đưa vào thực tế ( cải cách giá, lương, thả nổi đồng tiền, mở cửa nền kinh tế...) đã cho thấy, trong điều kiện như vậy sản phẩm muốn tiêu thụ được, nhất là khi có những hàng ngoại, cùng giá trị sử dụng, không phải chỉ có giá rẻ mà chất lượng phải tốt, hình dáng, mẫu mã phải đẹp, thuận tiện cho sử dụng. Muốn được mhư vậy thì chỉ có một con đường duy nhất là đổi mới và nâng cao công nghệ sản xuất.
Sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và có lãi cao là những yếu tố quan trọng bậc nhất đối với uy tín và sự phát triển của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Muốn làm được điều đó thì trước hết phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào sản xuất. Các quy định của nhà nước trong các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế hiện hành đang được đổi mới và hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, chủ động sử dụng có hiệu quả hơn các yếu tố đầu vào này.
Mở ra những hình thức mới trong tiếp cận và trong thu hút công nghệ tiên tiến của thế giới. Chính sách mở cửa có những điều kiện ưu đãi trong việc đầu tư của nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tìm đến hợp tác kinh doanh. Các hình thức hợp tác kinh doanh có thể đa dạng ( xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài... ),nhưng có điểm chung là vốn liên doanh của bên nước ngoài góp thường là dưới dạng máy móc,thiết bị,phụ tùng, nguyên vật liệu,chuyên gia kỹ thuật,quản lý,thậm chí cả mô hình tổ chức và quản lý xí nghiệp, công ty. Lẽ đương nhiên trong lĩnh vực này còn có nhiều vấn đề phải bàn, nhưng thực tế các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài trong thời gian qua đã cho thấy cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước nhanh chóng tiếp cận và tiếp nhận công nghệ tiên tiến hơn nhiều so với công nghệ trước đây.
Đồng thời, bên cạnh những mặt tích cực thúc đẩy của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đối với việc đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất, cũng có thể thấy những mặt hạn chế, tồn tại, đó là:
-Thiếu sự an tâm, tin tưởng từ phía người đầu tư cho phát triển công nghệ đối với tính ổn định, nhất quán của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của chính phủ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự tin tưởng, an tâm từ phía người đầu tư phát triển ( cả ở trong nước và nước ngoài ) là một yêu cầu rất quan trọng đối với các chính sách có liên quan tới quá trình công nghiệp hoá đất nước. Những đổi mới trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế thời gian qua vẫn nchưa đáp ứng được yêu cầu này. Sự thiếu tin tưởng, an tâm để đầu tư phát triển công nghệ được thể hiện ở hiện tượng:
+ Đầu tư công nghệ chủ yếu thường là cho những sản phẩm, những lĩnh vực hoặc ngành mà thời gian hoàn vốn nhanh để tránh rủi ro.
+ Số lượng vốn bỏ ra đầu tư cho phát triển công nghệ còn quá ít ỏi. Sau 5 năm thực hiện các chhính sách và cơ chế quản lý kinh tế mới ( từ 1988 sau khi ban hành Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài, Pháp lẹnh chuyển giao công nghệ,... ) thì nhìn chung thực trạng công nghệ trong nền kinh tế chưa có chuyển biến đáng kể. Thực trạng nói trên cho thấy, các chính sách kinh tế cần phải được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa, có như vậy mới tạo ra được niềm tin cho các hành động đầu tư phát triển công nghệ hướng vào làm ăn lâu dài, với quy mô lớn và hiện đại, liên tiếp phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã họi đất nước.
-Thị trường tiêu thụ sản phẩm của công nghệ sản xuất ra vừa nhỏ, vừa không chắc chắn. Do vậy khó lựa chọn và quyết định phương án phát triển công nghệ. Điều này có liên quan cả ở tầm vi mô ( các doanh nghiệp ) và cả ở tàm vĩ mô ( toàn nền kinh tế quốc dân ).
-Thiếu những chính sách hướng vào khuyến khích phát triển dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng đảm bảo tiếp nhận và khai thác có hiệu quả công nghệ mới và hoàn thiện chúng. Sự yếu kém về đảm bảo hàng hoá , dịch vụ công cộng và kết cấu hạ tầng ở nước ta đang là một trong những cản trở lớn nhất trong chuyển giao công nghệ. Nó đã và đang làm nản lòng và để tuột nhiều dự án đầu tư, mặc dù đã có những ưu đãi rộng rãi, thậm chí những ưu đãi đặc biệt so với thông lệ quốc tế chung.
-Thiếu động lực kích thích đối với các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Sự phát triển công nghệ vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện của quá trình công nghiệp hoá. Con người là yếu tố quan trọng của sự phát triển ấy. Đây là yếu tố năng động của sự phát triển công nghệ.Hiện tại, lao động của những cán bộ làm việc trong lĩnh vực khoa học và công nghệ đang thiếu những kích thích cần thiết, thậm chí có những chính sách, chế độ đối với cán bộ làm công tác nghiên cứu và triển khai khoa học kỹ thuật dẫn đến lãng phí chất xám, lãng phí tiền của vào những công nghệ nhập mà khả năng khoa học của đất nước có thể giải quyết, xử lý được.
.Tạo công ăn viêc làm, sử dụng tiềm năng lao động xã hội và chuyển biến cơ cấu lao động xã hội.
Tạo công ăn việc làm, sử dụng tiềm năng lao động xã hội và làm chuyển biến cơ cấu lao động xã hội là những nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hoá. Các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế mới được ban hành thời gian qua đã đã đem lại những kết quả tích cực, đó là:
- Trong khu vực kinh tế quốc doanh đã giảm bớt được tình trạng người chờ việc. Các quyết định về quản lý đối với kinh tế quốc doanh đã tạo môi trường pháp lý cho việc tổ chức lại các xí nghiệp loại này, bố trí lại dây chuyền sản xuất, bố trí lại lực lượng lao động.
- Sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua đã mở ra những cơ hội tìm kiếm việc làm không chỉ cho số lao động dôi ra từ việc tổ chức lại kinh tế quốc doanh, mà còn thu hút cả lực lượng lao động mới trong nền kinh tế.
- Tay nghề của lực lượng lao động xã hội do cơ chế cạnh tranh trong tìm kiếm việc làm và quyền tự do lựa chọn ngành học phù hợp với khả năng và sở thích của mình nên có phần đa dạng hơn và thích ứng hơn với đòi hỏi của sự phong phú, đa dạng hoá các ngành nghề và hàng hoá, dịch vụ trong xã hội.
Những điều trình bày ở trên còn nói lên một điều rằng tiềm năng lao động xã hội được phát huy không chỉ bằng con đường đầu tư của nhà nước ( con đường này trong thời gian qua có nhiều hạn chế do những khó khăn chung của nền kinh tế ), mà còn bằng con đường đầu tư tư nhân. Con đường này với chính sách cởi mở và mở cửa hiện nay ngày càng trở nên thuận lợi và hấp dẫn. Hiện tại tiềm năng lao động xã hội chủ yếu mới được phát huy rõ nhất trong sản xuất nông, lâm nghiệp.
Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, trên lĩnh vực việc làm và lao động, các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý có liên quan đến công nghiệp hoá chưa thực sự tạo ra những chuyển biến căn bản. Về cơ bản vấn đề việc làm và lao động như Đại hội VII của Đảng đã nhận định, hiện vẫn “ đặc biệt gay gắt “ mà một nguyên nhân quan trọng là “ các chính sách và biện pháp giải quyết việc làm còn bị động, chắp vá “. Điều đó có liên quan trước hết tới các mặt và các khía cạnh sau đây:
- Hiện tại, các chính sách mới kích thích tạo công ăn việc làm, giảm áp lực của nạn thất nghiệp mà chưa tạo ra được sự chuyển biến cơ cấu lao động xã hội.
- Mức độ trang bị kỹ thuật của lao động xã hội đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân chưa có sự cải thiện đáng kể. Điều đó có liên quan tới những chính sách và cơ chế quản lý tạo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, bảo toàn vốn đối với xí nghiệp quốc doanh, thuế suất, mức trích nộp khấu hao, lãi suất ngân hàng, ... cùng với những khó khăn kinh tế - xã hội chung của nền kinh tế ( lạm phát, tham nhũng, buôn lậu,... ), vừa không đồng bộ, chắp vá, vừa có nhiều điểm bất hợp lý, không phù hợp đã không khuyến khích đổi mới và tạo điều kiện cho việc đổi mới, trang bị kỹ thuật, làm nản lòng nhiều dự án đầu tư có liên quan tới đổi mới công nghệ.
.Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế :
Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang chế độ tự chủ kinh doanh đã có tác dụng lớn thay đổi trong cơ cấu các ngành kinh tế. Trong sản xuất nông nghiệp, hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế cơ bản, còn trong công nghiệp thì các doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trách nhiệm vế toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình theo luật định, trở thành tế bào cơ sở của hệ thống tổ chức sản xuất công nghiệp. Sự thay đổi có tính chất nền tảng đó so với hệ thống tổ chức sản xuất cũ dẫn đến những thay đổi cơ cấu trong toàn cục các ngành trong nền kinh tế. Những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế ban hành trong thời gian qua hướng vào đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, đã tạo những điều kiện thuận lợi ban đầu trong quá trình cộng nghiệp hóa ở nước ta diễn ra trong mối quan hệ gắn bó với chủ trương xây dựng nền kinh tế mở và hoạt động theo cơ chế thị trường. Điểm khác căn bản trong chính sách và quản lý kinh tế tạo môi trường kinh tế ở nước ta so với thơì gian trước đây là thực hiện công nghiệp hóa theo cơ chế thị trường. Điều đó có nghĩa là những thay đổi chuyển dịch cơ cấu các ngành trong nền kinh tế quốc dân phải được đặt dưới sự tác động trực tiếp và chi phối của cơ chế thị trường, trong đó các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước phải nhằm tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho những thay đổi ấy hướng theo những mục tiêu chiến lược kinh tế-xã hội của mình.Hãy còn sớm để khẳng định tác động của các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế mới được ban hành và thực hiện trong vài năm qua đối với những thay đổi trong chuyển dịch cơ cấu các ngành trong nền kinh tế quốc dân, nhưng điều dễ nhận thấy là cơ chế thị trường đã bắt đầu có tác dụng đối với sự phát triển các ngành nghề và các dịch vụ công nghiệp. Ơ nông thôn, cơ chế thị trường đã làm sống lại không chỉ những ngành nghề truyền thống, mà còn hình thành và phát triển các ngành nghề và các nghề mới. Đó là thực trạng mà cơ chế quản lý tập trung bao cấp trước đây không thể có.
Tuy vậy, xét về tổng thể, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm qua ở nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá. Tỷ trọng của nhiều ngành công nghiệp và xây dựng trong tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong thời gian 1985-1992 không tăng, mà lại còn giảm đi.
Mặt khác, trong công cuộc công nghiệp hoá ở nước ta, giải quyết việc làm, giảm bớt sức ép của nạn thất nghiệp troing quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý là một trong những yêu cầu quan trọng. Thế nhưng, trong sự chuyển dịch cơ cấu các ngành mà sản phẩm đòi hỏi nhiều lao động trong những năm qua lại có ít đóng góp vào thực hiện yêu cầu này. Tỷ trọng của những ngành này trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng công nghiệp có xu hướng giảm đi.
Nguyên nhân của thực trạng kể trên là:
- Thiếu sự định hướng chiến lược chung đối với phát triển ngành công nghiệp.
- Thiếu chính sách rõ ràng với sự phát triển ngành nghề công nghiệp ở nông thôn.
- Thiếu chính sách bảo hộ rõ ràng và hiệu lực thực thi pháp luật để bảo hộ đối với sản xuất trong nước còn thấp.
4.Những vấn đề chính phủ phải giải quyết trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “:
Sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa mà sự thắng lợi của nó phụ thuộc vào vấn đề chính phủ giải quyết ra sao những điều kiện tiền đề cần thiết của công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhất là ở những nước có nền kinh tế kém phát triển như ở nước ta. Chính phủ phải giải quyết 4 yêu cầu chủ yếu sau:
.Tạo nguồn vốn tích luỹ để công nghiệp hoá :
Công nghiệp hóa là để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật ngày một hiện đại, nên đòi hỏi nhiều vốn. nguồn gốc của tích luỹ vốn là lao động thặng dư mà cơ sở tự nhiên và cũng là biện pháp cơ bản là tăng năng suất lao động. Cơ cấu vốn tích luỹ để công nghiệp hóa bao gồm: tích luỹ vốn từ nguồn trong nước và tích luỹ vốn từ nguồn bên ngoài.
Ơ nước ta nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp, cũng như nhiều nước kém hoặc đang phát triển, thời kỳ đầu đều phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài, nước ta không thể là ngoại lệ. Tất nhiên phải rất coi trọng tạo ra chính sách đối ngoại hữu hiệu và việc sử dụng vốn vay có hiêụ quả, có khả năng hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
.Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ .
Vị trí then chốt của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta đòi hỏi phải đặt khoa học- công nghệ như một “quốc sách “, một “động lực “. Chính nó đã góp phần đưa kinh tế hàng hóa ở nước ta phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nhất là chiều sâu; góp phần nâng cao năng lực tích luỹ vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
.Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất .
Công nghiệp hóa mới chỉ bắt đầu ở nước ta, tài nguyên khoáng sản tương đối nhiều, nhưng chưa được khai thác. Hơn nữa không thể “đẩy mạnh... chế biến dầu khí và một số loại khoáng sản “, nếu không có bản đồ địa chất, công trình. Thiếu nó không thể phân bố xí nghiệp, xác định quy mô, trình độ kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của việc khai thác. Do vậy, điều tra cơ bản thăm dò địa chất là điều kiện tiền đề không thể thiếu được của công nghiệp hóa. Cần chú ý rằng, việc thăm dò địa chất và điều tra cơ bản không chỉ cần thiết cho công nghiệp hóa, mà còn cho phép khai thác lợi thế so sánh về tài nguyên giữa các nước nếu khai thác kịp thời. Sẽ mất thế lợi nếu khai thác chậm trước sự bùng nổ của vật liệu mới do cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật tác động và tạo ra khả năng thay thế nguyên liệu tự nhiên trong thế kỷ 21 và tiếp theo .
.Đào tạo cán bộ khoa học-kỹ thuật, khoa học quản lý và công nhân lành nghề cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa .
Sự nghiệp công nghiệp hóa là sự nghiệp của quần chúng lao động xây dựng nên, trong đó cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý và công nhân có tay nghề cao có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Muốn vậy, phải làm cho họ có tri thức-phải đào tạo họ. Đảng ta đặt “con người vào vị trí trung tâm “trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Do vậy: “đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển “.
Thực hiện sự đổi mới nhanh cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo theo hướng: “Phải phổ cập cấp I, nâng cao dân trí, đào tạo nghề cho phần lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo cán bộ nhiều trình độ, đặc biệt là cán bộ quản lý,nhà kinh doanh, chuyên gia khoa học và công nghệ; chú ý phát hiện bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài “.
Những điều kiện tiền đề nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Với tư cách là tiền đề, nó đòi hỏi phải có, mới tiến hành công nghiệp hóa được. Muốn vậy, nước ta không thể không hòa nhập với các nước trong cộng đồng quốc tế, không thể không nắm bắt những lý thiết hiện đại có thể ứng dụng cho các nước kém phát triển.Chẳng hạn:
-Lý thuyết về lợi thế so sánh .
-Lý thuyết về “vòng luẩn quẩn “và “cú huých “từ bên ngoài .
-Lý thuyết “cất cánh “.
-Lý thuyết cânbằng ...
Mỗi lý thuyết về nội dung của nó đều có mặt tích cực và mặt hạn chế, do vậy việc vận dụng, phải biết phối hợp và phải biết phát huy mặt tích cực, khắc phục một cách có hiệu quả những hạn chế của nó. Bằng cách đó, sớm tạo ra những điều kiện tiền đề đưa sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta nhanh đến thắng lợi .
Phần III: THựC TRạNG và giải pháp cho nền kinh tế việt
nam và vai trò của chính phủ trong điều tiết
vĩ mô nền kinh tế ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
I. Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế :
1.Thực trạng của của nền kinh tế:
Từ năm 1986 trở về trước, nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế mang nặng tính tự túc, tự cấp, các yếu tố sản xuất hàng hóa chưa phát triển, các yếu tố thị trường mới sơ khai, thiếu đồng bộ, lại quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, cứng nhắc nên tăng trưởng chậm và đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế. Những mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế của nước ta đòi hỏi phải đòi hỏi phải đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và giải phóng các yếu tố sản xuất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là phù hợp với quy luật khách quan và điều kiện của nước ta, vì rằng:
-Kinh tế thị trường là sự phát triển tất yếu của sản xuất hàng hóa. Thị trường đã có trước chủ nghĩa tư bản, đến chủ nghĩa tư bản thì thị trường phát triển đạt trình độ cao .
-Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc, bao gồm nhiều thành phần: kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác xã và kinh tế nhà nước .
Trong nền kinh tế bao cấp trước đây, kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã tuy đã huy động được một bộ phận nguồn lực cho phát triển ban đầu, nhưng theo mô hình khép kín, nên phát triển chậm và rất kém hiệu quả. Do đó đòi hỏi phải chuyển sang cơ chế thị trườngcho phù hợp với quy luật kinh tế và điều kiện cuả nước ta .
Sự phát triển phân công lao động quốc tế cùng với thành quả tiến bộ khoa học-kỹ thuật của thế giới về quản lý, về chất lượng và phát triển môi trường cũng đòi hỏi phải chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường. Tuy mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhưng đã hình thành các yếu tố cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, cần thấy rõ những khó khăn, phức tạp của nền kinh tế thị trường ở nước ta để có biện pháp và phương thức quản lý thích hợp.
Do nước ta từ một xuất phát điểm rất thấp, nghèo nàn, lạc hậu hơn rất nhiều so với các nước phát triển. Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi chính phủ phải có những biện pháp kịp thời, hiệu quả nhằm sử dụng và phát huy nguồn lực sẵn có. Đây là một bài toán khó cho chính phủ Việt Nam bởi vì hiện nay việc quản lý kinh tế của chính phủ còn có rất nhiều vấn đề cần xem xét .
2. Thực trạng quản lý kinh tế của nhà nước ta:
Ngày nay, quản lý kinh tế đã trở thành chức năng không thẻ thiêu của các nhà nước hiện đại. Thị trường luôn luôn thể hiện hai mặt: một mặt là động lực của sự phát triển, và mặt khác là khuyết tật về phân phối, môi trường và xã hội. Từ tính chất hai mặt của thị trường, trong các mô hình kinh tế ở tất cảcác nước trên thế giới đều thừa nhận: Chính phủ đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng và điều tiết nền kinh tế thị trường để chống lại các cuộc khủng hoảng chu kỳ, nhằm ổn định và tăng trưởng kinh tế. Có ba mức độ can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế thị trường là “điều tiết “, “điều khiển “và “quản lý “. Rõ ràng ở đây phải có sự lựa chọn của chính phủ trong việc can thiệp vào nền kinh tế theo các liều lượng khác nhau, phù hợp với từng thời kỳ .
Trước đây chúng ta theo cách quản lý cũ, chính phủ dựa vào các công cụ hành chính, mệnh lệnh, nay chuyển sang kinh tế thị trường cần phải thay đổi, sử dụng luật pháp, kế hoạch định hướng và các công cụ kinh tế theo cơ chế thị trường là tất yếu. Toàn bộ luật lệ, công cụ, chính sách của chính phutrong hệ thống kinh tế mà ta gọi là cơ chế quản lý kinh tế cần được đổi mới và hoàn thiện. Điều đáng quan tâm là sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của chính phủ ta hiện nay còn chắp vá, chưa đáp ứng những sự thay đổi có tính chiến lược đang diễn ra ở nước ta. Do chưa có kinh nghiệm, trình độ quản lý lại yếu kém, do dự trong nhận thức và trong hành động, có sự chồng chéo giữa hai cơ chế cũ với mới, nên đã phát sinh những tiêu cực trong xã hội (buôn lậu, tham nhũng, làm hàng giả v.v...). Bởi vậy, vấn đề cấp bách hiện nay trong quản lý kinh tế của chính phủ là cần sớm khắc phục tình trạng đó, nhanh chóng chuyển sang cơ chế mới. Nếu không tập trung giải quyết thì nó sẽ cản trở sự đổi mới ở nước ta và có hậu quả lớn trong tương lai .
Muốn vậy, chính phủ cần khẳng định những việc cấp bách hiện nay là đào tạo công ăn việc làm cho người lao động, giáo dục xã hội, hướng dẫn tác dụng tích cực của thị trường .
Để có thể cung cấp việc làm, cần quy định rõ quyền sở hữu đích thực các nguồn lực xã hội, phải thừa nhận có một bộ phận lao động làm thuê và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các ngành nghề có khả năng thu hút lao động hiện nay .
Về giáo dục xã hội, chính phủ cần mở rộng đào tạo ngành nghề theo yêu cầu thực tế và tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục và y tế, có khuyến khích tài năng và người nghèo trong học tập .
Để hướng dẫn tác dụng tích cực của thị trường, chính phủ cần phát huy chức năng của thị trường. Cái gì thị trường điều tiết tốt thì để cho thị trường tự điều chỉnh. Cái gì thị trường làm không tốt thì chính phủ làm và điều tiết bằng các công cụ của mình .
II. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của chính phủ :
Sự phát triển kinh tế ở nước ta theo hướng nào, thành công hay thất bại chủ yếu là do sự hướng dẫn của chính phủ. Mục tiêu của mọi nền kinh tế là hiệu quả, ổn định và tăng trưởng. Mục tiêu của nền kinh tế thị trường mà chúng ta cần hướng tới phải có bản sắc dân tộc gắn với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Nền kinh tế thị trường ấy chỉ có thể phát triển trong điều kiện môi trường kinh tế-xã hội và chính trị ổn định. Để đảm bảo mục tiêu trên, chính phủ cần hướng:
. Nền kinh tế nhiều thành phần phát triển đạt được trình độ xã hội hóa cao. Ngoài sở hữu về lao động, mọi người dân còn có sở hữu về tài sản, về vốn, có công ăn việc làm, phát huy dân chủ và tự do trong lao động sáng tạo. Phân phối thu nhập của người lao động không phải chỉ có tiềncông, mà còn được bù đắp từ nguồn tài sản đích thực của mình. Các hình thức sở hữu đan xen trong các tổ chức sản xuất-kinh doanh. Kinh tế quốc doanh nắm giữ những lĩnh vực sản xuất và dịch vụ có thể giúp chính phủ điều tiết thị trường và được xem như một công cụ cùng với các công cụ khác (tài chính, tiền tệ, luật pháp...) trong hệ thống công cụ quản lý của chính phủ. Kinh tế tập thể được đổi mới theo nguyên tắc tự nguyện, thích ứng với các tổ chức kinh doanh như cổ phần, liên doanh, hợp tác theo từng khâu công nghệ, từng công đoạn sản xuất v.v...Kinh tế tư nhân phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Ban đầu tất cả các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh nàyphát triển tự nguyện chủ yếu ở quy mô nhỏ và vừa. Dần dần qua quá trình lựa chọn, chúng sẽ liên kết chặt chẽ trong từng doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp, tạo nên sự phát triển ổn định, có khả năng liên kết và cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
. Nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở của tính cộng đồng dân tộc. Khi thị trường được khai thác đầy đủ, tính chất cạnh tranh sẽ tăng dần và càng gay gắt. Với xu hướng phát triển của nền kinh tế mở, tính cạnh tranh lại tăng lên theo mức độ và phạm vi lớn hơn. Cạnh tranh là yếu tố tự nhiên của sự phát triển, nhưng cạnh tranh riêng lẻ sẽ gây ra những tổn hại chung cho nền kinh tế. Do vậy, tính xã hội còn thể hiện ở tính cộng đồng dân tộc trong mọi hoạt động kinh tế-xã hội. Một hệ thống kinh tế nhiều tầng, nhiều hình thức sở hữu đan xen, nhiều loại hình kinh doanh đa dạng rất cần thiết phải được tổ chức có trật tự bằng tính cộng đồngtừ thấp đến cao: làng xã, doanh nghiệp, hiệp hội, dân tộc và cộng đồng người Việt. Mọi tri thức khoa học, mọi phát minh sáng kiến cá nhân cần được phát huy và sử dụng vì lợi ích của cả cộng đồng và của cả dân tộc
. Nhân tố xã hội phải được coi là động lực của sự phát triển. Muốn vậy, cần phải nâng cao chất lượng cuộc sống, bao gồm các chỉ tiêu như: số dinh dưỡng, trình độ giáo dục, sức khoẻ, tuổi thọ v.v...Trình độ văn minh của một dân tộc được thể hiện ở trình độ giáo dục, sức khoẻ, tuổi thọ và môi trường sống của mọi người dân. Các vấn đề xã hội cần được giải quyết bằng sự đầu tư và quản lý của chính phủ. Ban đầu là lựa chọn đầu tư phát triển nhân tài và việc chống nghèo đói. Phải xem việc đầu tư cho giáo dục, y tế là đầu tư cho phát triển. Khi đời sống dân cư tăng lên, việc đầu tư cho phát triển xã hội sẽ trở thành nhu cầu chung cho từng gia đình xã hội .
- Định hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội .
- Tạo ra khuôn khổ pháp lý của nhà nước pháp quyền .
- Tạo ra môi trường thuận lợi (chính trị, kinh tế cân đối, kết cấu hạ tầng phát
triển...) .
- Khuyến khích, giúp đỡ vật chất, kỹ thuật, nhân lực để phát triển nhanh, mạnh
và đúng hướng .
- Huy động các nguồn lực và phối hợp giữa các ngành, các lĩnh vực, điều tiết thu
nhập bằng các chính sách chống tiêu cực, bảo vệ công bằng xã hội .
- Bảo vệ quyền lợi của quốc gia .
- Trực tiếp quản lý điều hành (và là chủ sở hữu) một số cơ sở hoặc ngành kinh tế
then chốt có ảnh hưởng lớn đến lợi ích quốc gia .
. Cải cách bộ máy Nhà nước, trọng tâm là nền kinh tế hành chính Nhà nước, đi đôi với cải cách kinh tế bằng cách Nhà nước đề xướng và nền hành chính thực hiện bằng các nhiệm vụ như: đề ra các chiến lược, chính sách, kế hoạch định hướng phát triển kinh tế, xã hội đi lên chủ nghĩa xã hội; ổn định nền tài chính tiền tệ, thị trường, xây dựng kết cấu hạ tầng (đây là khu vực đầu tư vào rất tốn kém và không có lãi, hoặc nếu có thì thời gian thu hồi vốn rất dài nên các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư vào rất ít ); huy động các nguồn lực và phân phối cho sự phát triển các ngành, các địa phương, đào tạo công nhân, cán bộ; cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động.
Kết luận
Qua khuôn khổ bài bài viết này, với kiến thức còn hạn chế em mạo muội trình bày sự cần thiết phải có sự điều tiết của chính phủ để hướng nền kinh tế đạt được những mục tiêu mà mọi nền kinh tế luôn theo đuổi là: hiệu quả, ổn định và tăng trưởng. Đặc biệt đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường và cơ chế thị trường đòi hỏi phải tăng cường chứ không phải giảm nhẹ vai trò và chức năng quản lý của chính phủ. Bởi vì chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ quốc tế, đi sâu vào thị trường thế giới không phân biệt chế độ chính trị-kinh tế thì càng đòi hỏi sự quản lý của chính phủ càng chặt chẽ và sát sao hơn nữa. Vấn đề then chốt ở đâylà ở chỗ phương thức quản lý như thế nào để vận dụng đầy đủ các yêu cầu, quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường nhưng lại đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa, không để cho nền kinh tế vận động theo con đường tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, đất nước ta đang trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “thì sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế của chính phủ là quan trọng hơn bao giờ hết. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của nền kinh tế nước ta.
Trên đây là những hiểu biết của em về vai trò của chính phủ trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế nói chung và cụ thể ở Việt Nam nói riêng. Với vốn kiến thức còn hạn hẹp, em mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô .
Danh mục tài liệu tham khảo
Kinh tế học. Paul A.Samuelson.
Kinh tế học. David Begg.
Kinh tế vĩ mô. Nguyễn Văn Luân.
Kinh tế vĩ mô.Đại học Kinh tế quốc dân.
Kinh tế vĩ mô.Đại học TC-KT Hà nội.
Đại cương về Kinh tế học.Lê Vinh Danh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50124.DOC