Tài liệu Đề tài Phân tích và chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Câu 1: Phân tích và chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Bài làm
A. Bối cảnh lịch sử :
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn xâm lược vũ trang, thực dân Pháp đã thi hành nhiều chính sách thống trị nô dịch và bóc lột nhân dân ta rất tàn bạo. Đất nước Việt Nam biến đổi từ một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc địa, mất hẳn quyền độc lập, chủ quyền trở thành một dân tộc bị nô lệ, mất nước.
Các giai cấp xã hội bị biến, xã hội Việt Nam hình thành 2 mâu thuẫn cơ bản là : mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và bọn tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nhân dân Việt Nam đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống Pháp dưới nhiều ngọn cờ, tư tưởng khác nhau, hình thức và phương pháp đấu tranh khác nhau, nhưng các phong trào yêu nước này đều thất bại, chứng tỏ CMVN đang thực sự lâm vào tình trạ...
33 trang |
Chia sẻ: ntt139 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích và chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1: Phân tích và chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Bài làm
A. Bối cảnh lịch sử :
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn xâm lược vũ trang, thực dân Pháp đã thi hành nhiều chính sách thống trị nô dịch và bóc lột nhân dân ta rất tàn bạo. Đất nước Việt Nam biến đổi từ một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc địa, mất hẳn quyền độc lập, chủ quyền trở thành một dân tộc bị nô lệ, mất nước.
Các giai cấp xã hội bị biến, xã hội Việt Nam hình thành 2 mâu thuẫn cơ bản là : mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và bọn tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nhân dân Việt Nam đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống Pháp dưới nhiều ngọn cờ, tư tưởng khác nhau, hình thức và phương pháp đấu tranh khác nhau, nhưng các phong trào yêu nước này đều thất bại, chứng tỏ CMVN đang thực sự lâm vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng. Từ đó nảy sinh yêu cầu khách quan là cần có một đường hướng cứu nước mới cho CMVN.
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm con đường cứu nước theo phương hướng mới. Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại, Người nghiên cứu nhiều loại hình chủ nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người đã hướng đến cách mạng tháng Mười và chịu ảnh hưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó, Người gia nhập Đảng cộng sản Pháp và trở thành người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và và dân tộc Việt Nam.
Từ khi trở thành người cộng sản, Người thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, thông qua tổ chức này và các báo : Người cùng khổ, Nhân đạo, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnhtruyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin về Việt Nam và đã trở thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức Đảng cộng sản ở Việt Nam là : Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Được giao nhiệm vụ của Quốc tế cộng sản, đ/c Nguyễn Ái Quốc chịu trách nhiệm hợp nhất các phần tử chân chính lại để thành lập một Đảng duy nhất. Hội nghị hợp nhất được tiến hành từ 3/2 đến 7/2/1930 (hội nghị tháng Hai) tại Hương Cảng và thống nhất hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua 4 văn kiện do Nguyễn Ái Quốc dự thảo : Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt và lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Bốn văn kiện này được coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
Tuy bị Hội nghị BCH.TW Đảng tháng 10/1930 phê phán Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của hội nghị tháng Hai có nhiều sai lầm, thậm chí còn cho rằng sai phạm chính trị rất nguy hiểm nên quyết định thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và điều lệ của Đảng; thay đổi bằng luận cương : (Tư sản dân quyền cách mạng( do Trần Phú soạn thảo và đổi tên Đảng là : (Đảng cộng sản Đông Dương(. Nhưng thực tiễn quá trình lãnh đạo CMVN đã chứng minh sự sáng tạo, tính đúng đắn của cương lĩnh đầu tiên về quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến lược và sách lược của Đảng, phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân. Tính đúng đắn của cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta được thể hiện ở nội dung cơ bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng như sau :
B. Tính đúng đắn của cương lĩnh tháng Hai
1)- Đảng ta chủ trương thực hiện đường lối chiến lược cách mạng trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế, thành phần giai cấp, xã hội nước ta, Cương lĩnh viết : ( Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản(. Thực chất chủ trương cuộc cách mạng có 2 giai đoạn : đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai giành độc lập cho dân tộc là làm cho nước Việt Nam được độc lập, tự do; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, phong kiến để làm của công chia cho dân nghèo; chuẩn bị và lãnh đạo nông dân nghèo làm cách mạng ruộng đất, quốc hữu hóa toàn bộ xí nghiệp của bọn đế quốc; thiết lập chính phủ công, nông, binh và tổ chức quân đội công nông.
Các nhiệm vụ trên bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến. Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng thành công CNXH, CNCS ở Việt Nam. Song, nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Vì thế, giữa hai giai đoạn cách mạng : Giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH không có bức tường ngăn cách (cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi), không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lần thứ hai để giải quyết vấn đề chính quyền như cách mạng Nga và Trung Quốc.
Nhận thức của Đảng là do những yêu cầu khách quan của CMVN, với chính sách thống trị của thực dân Pháp biến Việt Nam từ xã hội phong kiến thành xã hội thuộc địa nữa phong kiến với nhiều mâu thuẫn tồn tại là : mâu thuẫn giữa nhân dân Việt nam với đế quốc Pháp xâm lược về độc lập dân tộc; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà đa số là nông dân mâu thuẫn với chế độ phong kiến chung quanh vấn đề dân chủ mà chủ yếu ruộng đất và dân cày, dân cày hoàn toàn phụ thuộc vào địa chủ, bị trói chặt vào mảnh ruộng của giai cấp địa chủ với tô thuế nặng nề. Theo tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc thì nhiệm vụ cách mạng sẽ tiến hành đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn được độc lập, tổ chức ra quân đội công, nông, binh, thâu hết ruộng đất của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
So với nhận thức của Nguyễn Ái Quốc đã nêu trong Cương lĩnh tháng 2/1930, Luận cương chánh trị của Đảng cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo là : chủ trương đánh đổ đế quốc và phong kiến phải thực hiện đồng thời và ngang nhau, không có nhiệm vụ nào hơn nhiệm vụ nào. Về vấn đề này, là do sự nhận thức và giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, lại mang khuynh hướng (tả( của quốc tế cộng sản trong bối cảnh thời gian lúc đó, cho nên BCHTW Đảng mà đứng đầu là Trần Phú đã không vạch rõ được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp cùng bọn tay sai của chúng, nên không nêu toát lên được vấn đề dân tộc lên hàng đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Về cách mạng ruộng đất, Luận cương không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai. Luận cương đánh giá không đúng mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của giai cấp tư sản dân tộc, cường điệu mặt tiêu cực của giai cấp này, không thấy được khả năng phân hóa và lôi kéo một bộ phận giai cấp địa chủ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
2)- Đảng chủ trương đề cao nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu; nhiệm vụ chống phong kiến được thực hiện ở mức độ thấp hơn. Song, ở đây ngoài 2 mâu thuẫn giữa nông dân và chế độ phong kiến, nhân dân Việt Nam và đế quốc Pháp còn có mâu thuẫn giữa dân tộc Việt nam với liên minh đế quốc và bọn tay sai. Vì vậy, mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi trong khi đồng thời chống đế quốc và phong kiến phải ưu tiên đặt nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến), nhằm giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. Vì có giành được độc lập, dân tộc mới có thể tiến hành cuộc cách mạng XHCN và đi lên CNXH.
3)- Về lực lượng cách mạng :
Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước nhằm tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là CNĐQ Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. Về lực lượng CM Đảng ta xác định : (Mọi người Việt Nam đều là con Lạc, cháu Hồng. Ai cũng chịu cái khổ, cái nhục của họa mất nước. Vì vậy, việc cứu nước là việc của mọi người, không phụ thuộc vào địa vị xã hội, vào hoàn cảnh kinh tế, vào năng lực cá nhân(. Trong đó xác định giai cấp công nông là động lực chính của CMVN.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ :(công nông là gốc cách mệnh còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ chỉ là bầu bạn của cách mệnh công nông(. Đảng phải thu phục cho được công nông và làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được đông đảo quần chúng; ngoài lực lượng công nông là chính, phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông để kéo họ về phía vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ. Trong khi liên lạc tạm thời với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của giai cấp công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp. Tư tưởng này của Nguyễn Ái Quốc khác với luận cương 10/30 là : Luận cương tư sản dân quyền cách mạng tháng 10/1930 chưa xác định đầy đủ tính chất giai cấp của xã hội đương thời, lực lượng cách mạng chỉ dựa vào công nông và thành phần lao khổ thành phố (như là bọn bán rao ngoài đường, bọn thủ công nghiệp nhỏ không mướn thợ, bọn trí thức thất nghiệp,), phủ nhận và phủ định những mặt tích cực của các thành phần yêu nước khác (thành phần tiểu tư sản, trí thức, trung nông, tư sản dân tộc) và chủ trương không thành lập mặt trận, nên không lợi dụng và huy động được sức mạnh của cả dân tộc tham gia cách mạng.
Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng cho rằng tất cả những người yêu nước Việt Nam đều có khả năng trở thành cộng sản, và người cộng sản chân chính là người có tinh thần yêu nước triệt để. Chính sách Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, là nhân tố cơ bản và quyết định thắng lợi của CMVN. Chính sách Đại đoàn kết là truyền thống yêu nước của dân tộc ta đã thực hiện trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc như : Hội nghị Diên Hồng, Hội nghị Bình Than thời nhà Trần đã tập hợp được lòng yêu nước của nhân dân đánh bại quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được mọi tầng lớp quần chúng nhân dân lao động đánh đuổi đế quốc Pháp xâm lược với cách mạng 8/1945 thành công xây dựng nên Nước VNDCCH, chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm 1954, miền Bắc hoàn thành cuộc cách mạng DTDC tiến lên CNXH. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thống nhất nước nhà, hoàn thành CMDTDCND ở miền Nam, cả nước cùng tiến lên xây dựng CNXH.
4)- Xác định giai cấp lãnh đạo CMVN là giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiền phong của họ là Đảng cộng sản Việt Nam, và khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, cho nên Đảng có trách nhiệm thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày (lúc này Việt Nam trên 90% là nông dân) và phải dựa chắc vào dân cày nghèo, phải liên lạc với các giai cấp cách mạng và các tầng lớp yêu nước để đoàn kết họ lại. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. đảng viên phải : hăng hái tranh đấu cẩn thận và dám hi sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng.
Từ thực tiễn các phong trào đấu tranh từ năm 1919-1925, đã có nhiều cuộc đấu tranh của phong trào công nhân như : 8/3/1920 226 thủy thủ ở Sài Gòn bãi công đòi phụ cấp đắt đỏ, 1924 thợ nhuộm Sài Gòn - Chợ Lớn bãi công, 27/2/1924 công nhân nhà máy dệt Nam Định bãi công nhưng các cuộc bãi công này vẫn mang tính chất tự phát, chỉ đưa yêu sách kinh tế chứ chưa có tổ chức chỉ đạo chặt chẽ và chưa nêu được khẩu hiệu chính trị (chưa giác ngộ chính trị, chưa có ý thức tổ chức kỷ luật). Từ 1926, khi tổ chức VNTN phát triển mạnh ở trong và ngoài nước, thì giai cấp công nhân được nhận thức chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời khi có Đảng tiền phong của GCCN ra đời đã kết thúc giai đoạn đấu tranh tự phát, đạt đến trình độ đấu tranh tự giác ngày càng cao đưa cuộc đấu tranh dân tộc kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh giai cấp tiến lên giành thắng lợi. Chính vì vậy, GCCN Việt Nam đã đảm nhận được vai trò lịch sử, thông qua đội tiền phong của họ là Đảng CSVN (Đảng lấy chủ nghĩa Lênin làm kim chỉ nam, Đảng có vững cách mạng mới thành công) và trở thành giai cấp lãnh đạo CMVN.
5)- Đảng chủ trương giành chính quyền bằng phương pháp bạo lực cách mạng, thiết lập chính quyền mới của GCCN. Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định CMVN phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến làm cho nước nam hoàn toàn được độc lập, rồi dựng nên chính quyền công, nông, binh chứ không phải bằng con đường cải lương, thỏa hiệp. Kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười Nga, sau cách mạng DCTS tháng 2/1917, tồn tại song song hai chính quyền : Chính phủ tư sản lâm thời và chính quyền Xô viết, hai nền chuyên chính với hai bản chất giai cấp đối lập nhau không thể cùng tồn tại trong một nước. Lênin chủ trương thực hiện 2 phương án hòa bình & vũ trang. Phương án đấu tranh hòa bị thất bại, Đảng cộng sản Bônsêvích phải rút vào hoạt động bí mật và Đảng đã tổ chức lãnh đạo hoạt động cách mạng bằng phương pháp đấu tranh vũ trang và đã giành được thắng lợi. Vì vậy, Đảng ta đã rút ra kinh nghiệm là do bản chất của CNĐQ và giai cấp tư sản với hai bản chất giai cấp hoàn toàn đối lập, là một cuộc chiến đấu không khoan nhượng; phải dùng bạo lực cách mạng đánh đổ bạo lực phản cách mạng mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh trong quá trình dựng nước và giữ nước; cách mạng tháng 8/1945 thành lập nước VN.DCCH, trận Điện Biên Phủ 1954 buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị ký kết hiệp định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, và 30/4/1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất tổ quốc; Đảng ta đã dùng bạo lực cách mạng đánh đuổi lần lượt đế quốc Pháp, Nhật, Mỹ và tay sai hoàn thành cuộc cách mạng DTDC nhân dân, cả nước cùng tiến lên xây dựng chế độ CNXH.
6)- Dùng chủ trương liên minh - đoàn kết với giai cấp vô sản bị áp bức của các dân tộc thuộc địa trên thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của Việt Nam trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh cho rằng : (Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính(. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn sống của bọn tư bản mà còn là cái (nền móng( của CNĐQ. Do đó, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc không những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc cách mạng vô sản mang tính toàn cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ này. Vì thế phải CMVN phải đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản quốc tế, nhất là giai cấp công nhân Pháp. Cách mạng giải phóng dân tộc không tách rời cách mạng vô sản nhưng chỉ có thể thực hiện bằng nỗ lực của bản thân các dân tộc thuộc địa; và Người cho rằng CMVN phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam mới mang đến thắng lợi hoàn toàn. Thực tế đã chứng minh rằng, phong trào vô sản thế giới đã giành được nhiều thắng lợi; sau chiến tranh thế giới II hệ thống XHCN hình thành, và thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong đó có sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các nước XHCN và phong trào liên minh - đoàn kết với giai cấp vô sản bị áp bức của các dân tộc thuộc địa trên thế giới chống lại chủ nghĩa đế quốc.
Ngoài ra, theo quan điểm Hội nghị tháng 10/1930 việc đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương là bao gồm được Cao Miên và Lào. Việt Nam, Cao Miên, Lào tuy tiếng nói, phong tục và nòi giống khác nhau nhưng về mặt chính trị và kinh tế thì phải liên hệ mật thiết với nhau; xứ Đông Dương là một xứ thuộc địa để khai khẩn của đế quốc chủ nghĩa Pháp. Bởi vậy kinh tế Đông Dương bị phụ thuộc vào kinh tế của đế quốc chủ nghĩa Pháp; xứ Đông Dương cần phải phát triển độc lập, nhưng vì là thuộc địa nên không phát triển độc lập được; các mâu thuẫn về giai cấp và kinh tế ở các nước Đông Dương đều giống nhau việc đặt tên Đảng cộng sản Việt Nam bỏ qua Ai Lao và Cao Miên là không đúng.
Về việc đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông Dương của Luận cương tháng 10/1930 nhìn ở một khía cạnh nào đó thì phản ánh đúng. Tuy nhiên, theo quan điểm của Nguyễn Ái Quốc, việc đặt tên Đảng cộng sản Việt Nam là đúng hơn. Đó là do sự hiểu biết đúng đắn về tình hình, đặc điểm, tâm lí dân tộc của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên, Lào), việc đặt tên Đảng còn mang tính khoa học của chủ nghĩa Mác-Lenin. Những căn cứ đúng đắn để đặt tên Đảng cộng sản Việt Nam được thể hiện ở các đặc điểm sau :
. Theo LêNin, các dân tộc bị lệ thuộc sau khi độc lập được tách ra để xây dựng độc lập dân tộc và có quyền tự quyết.
. Cách mạng ba nước Việt Nam, Cao Miên, Lào sông liền sông - núi liền núi, không nhất thiết phải thành lập Liên bang Đông Dương.
. Xuất phát từ tư tưởng, tâm lí dân tộc đã hình thành và ăn sâu vào tư tưởng nhận thức của từng con người ở từng quốc gia về lãnh thổ và ranh giới. Khi đã giành được độc lập thì tùy theo yêu cầu cụ thể mà có thể liên hiệp thành Liên bang Đông Dương.
Cương lĩnh chính trị của Đảng ta ra đời sau Nghị quyết đại hội quốc tế cộng sản lần thứ VI khoảng một năm rưỡi. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu nhiều tư tưởng đúng đắn, đồng thời đã không chịu ảnh hưởng một số quan điểm (tả( của quốc tế cộng sản. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lenin, đường lối của quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng XHCN ở nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sở dĩ có những vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Ngyễn Ái Quốc soạn thảo và Chính cương 10/1930 là vì không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà còn do xác định đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn các yếu tố dân tộc trong CMVN. Tuy bị phê phán, nhưng thực tiễn CMVN đã chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết (Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử CMVN. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng(.
Sau đại hội VII quốc tế cộng sản, 7/1936, tại Hương Cảng, đ/c Lê Hồng Phong chủ trì hội nghị BCHTW đã vạch ra những chủ trương mới về CMVN. Đặc biệt là bắt đầu xem xét lại quan điểm chỉ đạo chiến lược của hội nghị 10/1930 và đưa ra những quan điểm mới đúng đắn, phù hợp với tư tưởng chiến lược của cương lĩnh 2/1930, và nó mở đường cho chiến lược của Đảng ta về sau này.
Hội nghị BCHTW 5/1941 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo đã đi đến quyết định điều chỉnh lớn về chiến lược (Cách mạng tư sản dân quyền( mà nội dung là nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng Đông Dương, xác định cách mạng Đông Dương trong giai đoạn đầu là cách mạng giải phóng dân tộc. Đây chính là sự kế tục và phát triển hoàn chỉnh hơn nữa tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã vạch ra trong cương lĩnh 2/1930, là một bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về lãnh đạo chính trị, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, có ý nghĩa quyết định thành công của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8/1945
C. Tóm lại :
Thắng lợi của CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN là bằng chứng không thể bác bỏ tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp bằng con đường đi lên CNXH. Đó là cương lĩnh đúng đắn của Đảng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước của CMVN, mở ra giai đoạn mới, giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc. Chúng ta cũng không thể phủ nhận được rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã như một thứ động lực tinh thần hợp lòng người nhất, để trên nền móng đó phát huy sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Câu 2: Phân tích quá trình nhận thức của Đảng cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng ta từ năm 1930 – 1954.
BÀI LÀM
I. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
Trước yêu cầu của lịch sử, Nguyễn Ái Quốc được sự phân công của quốc tế cộng sản, nhận trách nhiệm thống nhất các tổ chức cộng sản để lập ra một Đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Hội nghị thống nhất lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua chánh cương vắn tắt, điều lệ vắn tắt, chương trình tóm tắt, sách lược vắn tắt của Đảng và điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng do Nguyễn Ái Quốc Soạn thảo.
Hội nghị hợp nhất mang ý nghĩa lịch sử là đại hội thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã xác định một cách tóm gọn những nét chính về các vấn đề chiến lược và sách lược của CMVN. Tuy còn sơ lược, nhưng đã vạch ra đường lối cơ bản, đúng đắn cho CMVN, là cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Nội dung cương lĩnh tóm tắt :
- Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng, tức là làm cuộc CMDTDCND để đi tới xã hội cộng sản.
- Nhiệm vụ của cuộc cách mạng là : Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công nông; thủ tiêu các quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn của bọn đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất, miễn thuế cho dân nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa
Các nhiệm vụ trên bao hàm cả hai nội dung : dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, trong đó nổi bật lên là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phong kiến, giành độc lập và tự do cho toàn thể dân tộc.
- Đảng phải vận động thu phục cho được đông đảo công nhân, làm cho GCCN lãnh đạo dân chúng, phải thu phục cho được đông đảo nông dân và dựa vững vào nông dân nghèo, lãnh đạo họ làm cách mạng ruộng đất. Đảng phải hết sức lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi về phía giai cấp vô sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung và tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải cẩn thận không được đi vào đường lối thỏa hiệp.
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, tổ chức lãnh đạo CMVN đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể đồng bào bị áp bức bóc lột. Đảng phải liên kết với các dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo là cương lĩnh đầu tiên của Đảng CSVN, đó là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp xu thế phát triển của thời đại mới, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc. Độc lập tự do gắn liền với định hướng tiến lên CNXH, là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh.
II. Quá trình nhận thức đường lối cách mạng dân tộc dân chủ từ 1930-1954
1)- Thời kì 1930-1945 :
Sau hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ của Đảng được các cơ sở Đảng bí mật đưa vào quần chúng. Phong trào cách mạng rộng lớn của quần chúng diễn ra ngày càng sôi nổi và trên đà phát triển mạnh mẽ. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ phác ra những nét cơ bản nhất về đường lối CMVN. yêu cầu khách quan đòi hỏi Đảng phải có một cương lĩnh đầu đủ, toàn diện hơn.
Trần phú sau một thời gian dài học ở Liên Xô, được quốc tế cộng sản cử về nước hoạt động và bổ sung vào BCHTW Đảng, được giao nhiệm vụ soạn thảo (Luận cương chính trị(. Hội nghị lần thứ nhất BCHTW Đảng họp 10/1930, thống nhất đổi tên Đảng thành Đảng cộng sản Đông Dương, thông qua Luận cương chính trị, điều lệ Đảng, cử BCHTW chính thức BCHTW Đảng đã đánh giá rằng Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Hội nghị hợp nhất tháng 2/1930 đã phạm sai lầm chính trị rất (nguy hiểm( vì (chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu(. Vì vậy đã quyết định thủ tiêu (Chánh cương, Sách lược vắn tắt của Đảng( và phải dựa vào Nghị quyết của quốc tế cộng sản, chính sách và kế hoạch của Đảng theo tinh thần hội nghị tháng 10/1930. Luận cương chính trị 10/1930 xác định :
- Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào, Cao Miên là : (một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa(.
- Tính chất cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc (cách mạng tư sản dân quyền(, (có tính chất thổ địa và phản đế(, (Tư sản dân quyền cách mạng là thời kì dự bị để làm xã hội cách mạng(. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục (phát triển bỏ qua thời kì tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường XHCN~.
- Sự cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất cho triệt để và tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu đó liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ ĐQCN mới phá được giai cấp địa chủ, tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi và có phá tan được chế độ phong kiến mới đánh đổ được ĐQCN. Luận cương coi (vấn đề thổ địa cách mạng là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền(, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
- Xác định giai cấp vô sản (GCVS) và nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền. Trong đó GCVS là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Tư sản thương nghiệp chỉ đứng về phía đế quốc chống cách mạng, tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo phe đế quốc. Giai cấp tiểu tư sản, bộ phận tiểu thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia cách mạng và chỉ có thể hăng hái chống đế quốc trong thời kì đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị mới đi theo cách mạng mà thôi.
- Sự lãnh đạo Đảng là điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng. Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, tập trung gắn bó quần chúng, lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là đội tiên phong của GCCN, đại biểu cho chính quyền lợi của GCCN, đấu tranh cho mục tiêu CSCN.
+ Đảng phải liên lạc mật thiết với vô sản và các dân tộc thuộc địa, nhất là vô sản Pháp.
+ Đảng phải lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến lên võ trang, bạo động để giành chính quyền, phải coi võ trang là một nghệ thuật, phải theo (khuôn phép nhà binh(.
Nhìn chung, qua những nội dung cơ bản nêu trên của luận cương tháng 10/1930, đã thấy rõ là luận cương chính trị đã khẳng định lại nhiều vấn đề cơ bản thuộc về đường lối chiến lược cách mạng nước ta mà Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã nêu.
Tuy có mang tính kế thừa Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của hội nghị tháng 2/1930, nhưng do nhận thức giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, hiểu biết không đầy đủ về tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, đồng thời lại chịu ảnh hưởng khuynh hướng (tả( của quốc tế cộng sản, cho nên BCHTW Đảng do Trần Phú đứng đầu đã không vạch rõ được mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược Pháp cùng bọn tay sai của chúng, nên không nêu toát lên được vấn đề dân tộc lên hàng đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Về cách mạng ruộng đất : không đề ra được chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai. Từ đó đã phê phán gay gắt quan điểm đúng đắn của Hội nghị hợp nhất là đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu và đã quyết định thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Song, ngay từ đầu, thực tiễn cách mạng đã khẳng định tính chất khoa học, cách mạng và vị trí lịch sử của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Cao trào cách mạng của quần chúng với đỉnh cao là cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng quyết liệt thì Ban thường vụ TW Đảng ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh, trong đó nêu lên tư tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn đã được nêu trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, coi việc đoàn kết toàn dân thành một tổ chức rộng rãi, lấy công nông là động lực chính quyết định thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc. Chỉ thị cũng phê phán những nhận thức sai lầm trong Đảng là tách rời vấn đề dân tộc và giai cấp, nhận thức không đúng về vai trò đoàn kết dân tộc, về vai trò Hội phản đế đồng minh trong cách mạng thuộc địa. Hậu quả là làm cho tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần mầu sắc công nông, thiếu một tổ chức thật quãng đại quần chúng trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp.
Tuy nội dung của bản chỉ thị phù hợp với tư tưởng đoàn kết dân tộc đã được nêu trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Song quan điểm và chủ trương đúng đắn về vấn đề quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, vấn đề đoàn kết dân tộc vẫn chưa trở thành tư tưởng chủ đạo của BCHTW lúc đó.
Từ tháng 10/1930 cho đến đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ I (3/1935), nhiều chương trình hành động và Nghị quyết của Đảng đều tiếp tục đứng trên quan điểm tư tưởng sai lầm của Hội nghị tháng 10/1930. Nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan về chủ trương của Hội nghị BCHTW Đảng lúc bấy giờ về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, giữa liên minh công nông và đoàn kết với các lực lượng yêu nước trong dân tộc thì thấy có nhiều quan điểm, nhận thức mâu thuẫn nhau. Bệnh ấu trĩ về chính trị, khuynh hướng (tả(, biệt phái và giáo điều rập khuôn vẫn còn là khuynh hướng chi phối trong các chủ trương và chính sách của Đảng.
Trước những chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt là chủ trương chiến lược của đại hội lần thứ VII quốc tế cộng sản. Tháng 7/1936, đ/c Lê Hồng Phong chủ trì hội nghị đã vạch ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và đấu tranh; xác định chiến lược cách mạng ở Đông Dương vẫn là (cách mệnh tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền công nông bằng hình thức Xô Viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mệnh XHCN(. Trung ương Đảng nêu rõ, tạm thời không nêu khẩu hiệu độc lập dân tộc và ruộng đất cho người cày; mục tiêu trước mắt và trực tiếp là : (nhiệm vụ lập mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc Đông Dương cùng đấu tranh đòi những điều kiện dân chủ, dân sinh cho nhân dân lao động và chống hoạt động thuộc địa. Trung ương còn chủ trương đổi mới về tổ chức và đấu tranh, chuyển từ hình thức tổ chức đấu tranh bí mật, không hợp pháp sang các hình thức công khai, và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp.
Điều đáng chú ý là trong khi đề ra chủ trương mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi các quyền về dân chủ dân sinh. Trung ương Đảng đã bắt đầu chú ý và xem xét lại quan điểm chỉ đạo chiến lược chống đế quốc và phong kiến của hội nghị tháng 10/1930 và đi đến kết luận : không nhất thiết phải thực hiện ngang bằng nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến mà tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tùy vào tương quan so sánh lực lượng giữa hai bên mà đề cao nhiệm vụ này hay nhiệm vụ kia. Và cho rằng, nhiệm vụ đấu tranh chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước hết tập trung đánh đổ đế quốc rồi giải quyết vấn đề điền địa sau; nhưng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. Nghĩa là cuộc phản đế phát triển tới trình độ võ trang tranh đấu kịch liệt, đồng thời vì muốn tăng thêm lực lượng tranh đấu chống đế quốc cần phải phát triển cuộc cách mạng điền địa. Đây là tư duy mới, là một quan điểm đúng đắn phù hợp với tư tưởng chiến lược của Cương lĩnh tháng 2/1930, và nó mở đường cho chiến lược của Đảng ta từ năm 1939 về sau này.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thống trị thời chiến. Phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, từ đó nhân dân ta một cổ hai tròng áp bức Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta và Pháp - Nhật gay gắt hơn bao giờ hết. Hội nghị TW6 (11/1939) do đ/c Nguyễn Văn Cừ chủ trì và đặc biệt là hội nghị BCHTW lần thứ 8 (5/1941) do Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo đã đề ra những thay đổi mới về đường lối, chủ trương (cách mạng tư sản dân quyền( ở Đông Dương.
Hội nghị 5/1941 nhận định : (bước đường sinh tồn của các dân tộc ở Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận là da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc(. BCHTW Đảng khẳng định : tập hợp toàn dân tộc, đề cao khẩu hiệu đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc, đề cao khẩu hiệu dân tộc trên hết, nhiệm vụ chống phong kiến rải ra nhiều bước; trung ương Đảng chủ trương đấu tranh để xây dựng các quốc gia riêng biệt : Việt Nam, Cao Miên, Lào theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự quyết, không tổ chức thành Liên bang Đông Dương; chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh để tập hợp toàn dân tộc chống Pháp - Nhật, và chỉ ra con đường đấu tranh giành chính quyền là khởi nghĩa võ trang với hình thức khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Trong thư gửi đồng bào 6/1941, Người viết :( Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, chúng ta hãy đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng(, (Việc cứu nước là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm : người có tiền góp tiền, người có của góp của... Riêng phần tôi, tôi xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hi sinh tính mệnh cũng không nề(.
Các Nghị quyết trên và sự điều chỉnh chiến lược của BCHTW chính là sự kế tục và phát triển những quan điểm, tư tưởng đúng đắn của Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt 2/1930 và là nguồn gốc quyết định thắng lợi của tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 sau này.
1)- Thời kì 1945 - 1954 :
a)- Bối cảnh lịch sử :
Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Kết thúc chiến tranh TG II, tương quan lực lượng trên thế giới có nhiều thay đổi, hệ thống các nước XHCN hình thành tạo một dòng thác cách mạng phối hợp phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh vì hòa bình tiến bộ trên thế giới tiến công đẩy lùi CNĐQ. Chủ nghĩa thực dân cũ thất bại, Pháp suy yếu do chiến tranh TG II và lệ thuộc Mĩ về nhiều phương diện. CNĐQ dưới sự điều khiển của Mĩ coi Việt Nam là trọng điểm, thỏa thuận với nhau về quan điểm bao vây tiêu diệt CMVN.
Ở trong nước, lực lượng mọi mặt của Nhà nước còn non yếu, các nước đế quốc và các thế lực phản động quốc tế và trong nước liên kết bao vây chống phá quyết liệt. Miền Bắc, quân Tưởng kéo vào với danh nghĩa quân đồng minh tước vũ khí quân Nhật, nhưng thực chất là âm mưu (Cầm Hồ, diệt cộng( tạo lập một Chính phủ tay sai tranh giành quyền lực gây khó khăn cho cách mạng. Ngoài ra còn có 2 vạn quân Anh dưới danh nghĩa đồng minh dọn đường cho Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam. Ngày 23/8/1945, quân Pháp đã nổ súng đánh chiếm : Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn. Bên cạnh đó, Chính phủ cách mạng phải đương đầu với nhiều tổ chức và giáo phái phản động ở miền Nam do Pháp viện trợ để tranh giành quyền lực với Việt Minh Mặt khác, Chính quyền cách mạng phải đương đầu với nền kinh tế nghèo nàn, các di sản văn hóa nô dịch nặng nề Đất nước lâm vào tình thế : (nghìn cân treo sợi tóc(.
Trước tình thế khó khăn, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, huy động mọi sức mạnh của cả dân tộc, dùng sách lược đấu tranh linh hoạt và khôn khéo với địch, từng bước vượt qua mọi hiểm nguy, chủ động trước mọi tình thế để giữ vững chính quyền, đưa cách mạng tiến lên. Lúc này, Ban thường vụ TW Đảng ta xác định : (Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng(. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập. Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Đảng ta nêu rõ : (Kẻ thù chính của dân tộc lúc này là thực dân Pháp xâm lăng(, (phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng(. Vì vậy, phải (lập mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược, mở rộng Việt Minh Kiên quyết giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, độc lập về chính trị, thực hiện chế độ dân chủ cộng hòa, cải thiện đời sống nhân dân(.
Những chủ trương trên của Ban thường vụ TW Đảng được nêu trong chỉ thị (Kháng chiến kiến quốc(. Ngoài ra, Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc Đảng cũng nêu rõ : cách mạng muốn đứng vững phải biết tự bảo vệ, phải đồng thời thực hiện hai mặt song song :
- Kiến quốc để phát triển thực lực cách mạng nhằm đủ mạnh để thắng kẻ thù
- Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng kẻ thù để nhằm hòa hoãn những kẻ có thể hòa hoãn được để tập trung lực lượng chống Pháp.
* Về tổ chức thực hiện chỉ thị kháng chiến kiến quốc :
- Về xây dựng và phát triển thực lực cách mạng : ta tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng chính quyền cách mạng, ban hành Hiến pháp (1946) tạo tính hợp hiến, hợp pháp của Chính phủ Hồ Chí Minh. Tích cực xây dựng lực lượng vũ trang : Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, diệt nạn đói, giặc dốt.
- Về thực hiện chính sách hòa hoãn : thực hiện thành 2 giai đoạn
+ Giai đoạn I (9/1945-2/1946) : chủ trương hòa với Tưởng để tập trung lực lượng đánh Pháp ở Nam Bộ, tranh thủ hòa hoãn để tập trung phát triển lực lượng cách mạng
+ Giai đoạn II (3/1946-12/1946) : kí kết với Pháp Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, đặt cơ sở đi đến đàm phán để kí một Hiệp định chính thức. Cuộc đàm phán chính thức giữa ta và Pháp tại Phông-ten-nơ-bơ-lo không đi đến kết quả. Nhằm tranh thủ kéo dài thời gian cho việc tiếp tục xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với Chính phủ Pháp bản tạm ước 14/9/1946 : chấp nhận cho Pháp mang 15 vạn quân ra miền Bắc, Việt Nam là quốc gia nằm trong sự bảo hộ của Pháp. Phía Pháp phải chấp nhận Bắc kì trải qua cuộc trưng cầu dân ý, công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là quốc gia tự do nằm trong Liên hiệp Pháp... Với kết quả đàm phán và thương lượng : 20 vạn quân Tưởng, 6 vạn quân Nhật, 2 vạn quân Anh phải rút về nước.
Nhìn chung, từ 9/1945-12/1946, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giữ vững được Chính quyền cách mạng, đẩy mạnh kháng chiến ở miền Nam, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước. Thực tiễn lịch sử của thời kì này đã đem lại cho Đảng ta nhiều bài học quý báu, nhất là bài học về phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, chống chia rẽ, đối lập, về lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và về sự nhân nhượng có nguyên tắc.
* Phát động toàn quốc kháng chiến; đường lối kháng chiến của Đảng
Sau kí Hiệp định sơ bộ, thực dân Pháp đem quân ra miền Bắc liên tục khiêu khích và lấn chiếm, gửi tối hậu thư Chính phủ ta đòi tước vũ khí lực lượng tự vệ Hà Nội, kiểm soát an ninh thủ đô. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế không thể nhân nhượng. Lịch sử dân tộc đã đặt trước một sự lựa chọn mới : phải đứng lên kháng chiến trong toàn quốc để bảo vệ nền độc lập. Đêm 19/12/1946, Ban thường vụ TW Đảng đã quyết định phát động cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước, là lời hịch làm thấu động tình cảm sâu xa và cao đẹp nhất trong mỗi lòng người dân Việt anh hùng bất khuất, làm cho cả nước sôi sục đứng lên chiến đấu bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, với ý chí (cảm tử cho tổ quốc quyết sinh(, với một thái độ chính trị dứt khoát và kiên định, vì độc lập tự do của tổ quốc. Lời kêu gọi đó là một cương lĩnh kháng chiến, khái quát ở trình độ cao, chứa đựng những tư tưởng, quan điểm và đường lối chiến tranh nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng. Ngày 22/12/1946, Ban thường vụ TW Đảng ra bảng chỉ thị toàn dân kháng chiến. Tóm tắt những nội dung cơ bản đường lối kháng chiến của Đảng như sau :
- Về tính chất và mục tiêu của cuộc kháng chiến : nhân dân Việt Nam xác định cuộc chiến tranh chính nghĩa chống chiến tranh phi nghĩa xâm lược của thực dân Pháp; chiến tranh chống Pháp là sự tiếp tục của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, giành ruộng đất cho người cày và xây dựng cơ sở đi lên CNXH.
- Về xác định phương châm kháng chiến : kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng chiến trên tinh thần tự lực cánh sinh, kháng chiến lâu dài và trải qua ba giai đoạn : cầm cự, phòng ngự và tổng phản công. Đảng ta xác định kháng chiến nhất định thắng lợi.
Về mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ trong giai đoạn này, tác phẩm : (Kháng chiến nhất định thắng lợi( của Trường Chinh đã nêu rõ quan điểm của Đảng là : (cuộc kháng chiến chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, củng cố và mở rộng chế độ Cộng hòa dân chủ. Nó không tịch thu ruộng đất của địa chủ phong kiến chia cho dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất và các hạng tài sản khác của Việt gian phản động để bổ sung ngân quỹ kháng chiến hay ủng hộ các gia đình chiến sĩ hi sinh(.
* Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II triệu tập từ ngày 11 đến 19/2/1951 tại Tuyên Quang. Đại hội quyết định tách ba Đảng bộ Đảng cộng sản ở Đông Dương để lập ra mỗi nước một Đảng cách mạng riêng. Đảng cộng sản Đông Dương được đổi tên là Đảng lao động Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng, báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh đã vạch rõ khẩu hiệu chính của ta là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mĩ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên Đảng là Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo chính trị Bàn về cách mạng Việt Nam của Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối CMVN. Đó là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CNXH ở Việt Nam. Nội dung cốt lõi của bản báo cáo bàn về CMVN là Cương lĩnh chính trị thứ ba của Đảng ta.
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản hiện nay của CMVN là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH. Ba nhiệm vụ đó khắng khích với nhau, song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Đại hội xác định lực lượng CMDTDCND ở Việt Nam là : GCCN, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc. Ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó hợp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là GCCN
Đảng lãnh đạo thực hiện cải cách ruộng đất trong vùng tự do. Đầu 1953, Hội nghị TW lần 3,4 của Đảng chủ trương tổ chức cải cách ruộng đất, xóa bỏ giai cấp địa chủ, chia ruộng đất cho nông dân ở vùng tự do. Kết quả : trong một thời gian ngắn đã xóa bỏ hoàn toàn giai cấp địa chủ, chia ruộng đất (đất địa chủ và đất làng xã) cho nông dân. Đây là cuộc cách mạng đổi đời của nông dân, lúc này nông dân chỉ có đóng một sắc thuế duy nhất là thuế kháng chiến, không còn phải nộp tô thuế cho địa chủ.
III. Đảng lãnh đạo đường lối, xây dựng thực lực kháng chiến về mọi mặt
Do tương quan lực lượng giữa ta và địch, phương châm chiến lược của ta là đánh lâu dài. Là một quá trình vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, từng bước làm biến đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta. Vì thế phải đánh địch trên tất cả các lĩnh vực : quân sự, kinh tế, chính trị văn hóa, trong đó Đảng xác định quân sự là mặt trận hàng đầu, nhằm tiêu diệt lực lượng địch trên toàn bộ đất nước.
- Về chính trị : Đảng chủ trương tiếp tục củng cố chính quyền dân chủ nhân dân ở vùng tự do, mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc chống Pháp bằng việc duy trì mặt trận Việt Minh và xây dựng thêm mặt trận Liên Việt để thu hút mọi lực lượng chống Pháp; tuyên truyền tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến để cô lập và hạn chế tối đa những hoạt động của bọn Việt gian.
- Về kinh tế : xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp ở vùng tự do, đảm bảo đời sống nhân dân và nuôi quân đánh Pháp, thực hiện sách lược tiêu thổ kháng chiến ở vùng tự do. xây dựng các nhà máy quốc phòng, chế tạo vũ khí với phương châm phục vụ trước mắt cho kháng chiến và khi kháng chiến thành công sẽ phục vụ chuyển sang xây dựng CNXH. Ở vùng tạm chiếm : đưa lực lượng phá hoại nền kinh tế bằng lực lượng du kích, đặc công, đẩy mạnh sách lược làm chảy máu nền kinh tế của Pháp.
- Mặt trận tư tưởng văn hóa : tuyên truyền đấu tranh xóa bỏ những tàn dư phong kiến lạc hậu, tư tưởng thực dân, xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa khoa học đại chúng.
- Về quân sự : Dựa vào thực lực kháng chiến ngày càng tăng cường, nhất là sự phát triển của ba thứ quân, Đảng chỉ đạo đấu tranh đi từ đánh nhỏ đến đánh lớn, từ chiến tranh du kích phát triển lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Đảng chủ trương dẫn dắt cuộc kháng chiến qua ba giai đoạn :
+ Giai đoạn 1 (9/1945 đến cuối 1947) : chủ động tiến hành cuộc kháng chiến cục bộ ở miền Nam và sau đó phát động kháng chiến trong cả nước. Ta đã đánh bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp (kế hoạch một tuần dạo mát ở Việt Nam). Đỉnh cao của giai đoạn này là ta đã đánh bại cuộc hành quân Thu Đông 1947 của Pháp ra miền Bắc.
+ Giai đoạn 2 (1948 đến 1950) : trên cơ sở chiến tranh du kích được mở rộng, ta đã liên tiếp mở nhiều chiến dịch nhỏ hạ hàng loạt đồn bót, tiêu diệt nhiều sinh lực của địch, thu hẹp vùng chiếm đóng của chúng ở nhiều nơi. Kết hợp một số chiến dịch nhỏ ta đã đánh bại kế hoạch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của thực dân Pháp. Năm 1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới, một chiến dịch tấn công lớn đầu tiên của quân đội ta. Chiến dịch Biên giới thắng lợi đánh dấu một bước trưởng thành của về trình độ tác chiến và nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch của quân đội ta.
+ Giai đoạn 3 (1951 đến 7/1954) : chủ động mở nhiều chiến dịch ở vùng đồng bằng Bắc bộ, sau đó là chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. với chiến dịch Điện Biên Phủ ta đã đánh bại mọi cố gắng quân sự cao nhất của quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương và buộc Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị kí Hiệp định Giơnevơ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi to lớn nhất trong cuộc đọ sức toàn diện và quyết liệt nhất của quân đội nhân dân Việt Nam với quân đội xâm lược Pháp. Chiến công đó mãi mãi được ghi nhớ vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỉ XX và đi sâu vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, một sự kiện báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân
Câu 3 : Phân tích bối cảnh lịch sử của chỉ thị toàn quốc kháng chiến (22.12.1946) và kết quả của chủ trương ấy.
BÀI LÀM
I. Phân tích bối cảnh lịch sử :
Từ tháng 9/1945 đến 12/1946, vượt qua muôn vàn thử thách sóng gió do thù trong giặc ngoài gây ra, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giữ vững được chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng đã biết chắc là không thể nào tránh khỏi.
Mặc dù đã cùng ta kí Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946, song với bản chất ngoan cố và phản động của chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân Pháp đã ráo riết thực hiện âm mưu đặt lại nền thống trị trên toàn bộ đất nước ta. Trước tình hình đó, Đảng ta thấy rõ “Nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Đầu 11/1946, Hồ Chí Minh ra chỉ thị “Công việc khẩn cấp bây giờ” người nêu lên kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc, vạch ra những công việc về quân sự , chính trị, kinh tế. Người nhấn mạnh cần phải hiểu và làm cho dân hiểu cuộc kháng chiến của ta rất gay go, gian khổ, phải kháng chiến lâu dài để chống lại chiến tranh “chớp nhoáng” của địch. Muốn kháng chiến lâu dài và thắng lợi phải có quyết tâm “Cố gắng sức qua khỏi mùa lạnh lẽo, thì ta sẽ gặp mùa xuân”
Đúng như nhận định của Đảng, thực dân Pháp hoàn toàn bội ước cố ý gây cuộc chiến tranh xâm lược toàn bộ nước ta, Đảng phải lãnh đạo nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến trong một bối cảnh một là khoanh tay, cúi đầu trở lại làm nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giữ lấy độc lập và tự do.
A- Thuận lợi :
( Trong nước :
Trước ngày kháng chiến toàn quốc nổ ra, Đảng ta đã có những chủ trương quan trọng kịp thời chỉ đạo kháng chiến ở miền Nam và chuẩn bị cho cả nước kháng chiến.
* Nội dung chỉ thị “Kháng chiến toàn quốc” (25 tháng 11 năm 1945)
* Nghị quyết hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng (19/10/1946) và văn kiện “Công việc khẩn cấp bây giờ” đã đặt nền móng cho đường lối kháng chiến của Đảng ta.
- Từ tháng 2 năm 1946, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì đấu tranh với Pháp, liên tiếp nhân nhượng Pháp những quyền lợi quan trọng để bày tỏ thiện chí hòa bình của nhân dân Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện chuẩn bị cho cuộc kháng chiến mà ta biết khó có thể tránh khỏi.
- Tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến cùng những thành quả đạt được từ sau khi giành chính quyền đến ngày kháng chiến toàn quốc đã tạo nên những thuận lợi mới, căn bản có thể phát huy lâu dài, bảo đảm thắng lợi cho nhân dân ta trong cuộc kháng chiến. Như : tổ chức tổng tuyển cử, bầu Quốc hội (06/01/1946), ban hành hiến pháp Nhà nước (11/1946) đã tạo tính hợp hiến, hợp pháp của chính phủ Hồ Chí Minh. tích cực xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm : Quân đội và Công an nhân dân. Thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (5/1946) thu hút sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Phát động “tuần lễ vàng”, xây dựng “quỹ độc lập”, diệt giặc đói, khai hoang phục hóa, phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát hành tiền tệ đã ngăn chặn được nạn đói, cải thiện đời sống nhân dân. Tổ chức phong trào bình dân học vụ, kêu gọi “chống nạn thất học”, xây dựng nếp sống văn hóa mới cho xã hội, xóa bỏ các hủ tục
( Thế giới :
- Cuộc kháng chiến của nhân dân ta diễn ra khi chủ nghĩa tư bản thế giới, đặc biệt là nước Pháp bị suy yếu nghiêm trọng sau chiến tranh thế giới thứ hai, lệ thuộc vào Mỹ trên nhiều Phương diện.
- Hệ thống XHCN đang hình thành, phong trào giải phóng dân tộc phát triển rất mạnh mẽ đã cổ vũ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để nhân dân ta góp phần quan trọng cùng nhân dân các nước thuộc địa đánh thắng chủ nghĩa thực dân (Liên Xô và các nước Đông Âu).
B- Khó khăn :
( Trong nước :
- Đối tượng của ta là quân đội nhà nghề của thực dân Pháp, có trình độ tác chiến phương pháp chiến tranh hiện đại, được sự hậu thuẫn bởi một nền sản xuất TBCN phát triển. Thực dân Pháp lại có kinh nghiệm trong chiến tranh xâm lược và thống trị ở Việt Nam gần một thế kỉ, đã từng xây dựng ở Việt Nam những cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị nhất là làm cơ sở cho chiến tranh và chính sách thống trị thuộc địa. Tính đến thời điểm 12/1946 quân đội Pháp đã có gần 10 vạn người đóng tại những vị trí trọng yếu trên khắp Việt Nam, trong khi đó lực lượng vũ trang của ta chỉ có trên 8 vạn người với trang bị còn thô sơ, lại chưa được huấn luyện kĩ càng
- Nền kinh tế của nước ta lúc đó còn rất lạc hậu và kém phát triển chưa thể đáp ứng đủ và kịp thời cho nhu cầu của cuộc chiến tranh quy mô to lớn hiện đại.
( Thế giới :
- Hành động đánh chiến Việt Nam của thực dân Pháp lần này xuất phát từ chiến lược phản kích toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc sau chiến tranh thế giới lần thứ II để chống lại chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc. Chính vì vậy, các nước đế quốc tiêu biểu đặc biệt là Mĩ đã ủng hộ và tạo nhiều điều kiện cho cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Việt Nam, và thông qua đó nhằm từng bước chi phối, gây ảnh hưởng trong khu vực.
- Chủ nghĩa đế quốc bao vây nước ta từ bốn phía, trong khi đó chúng ta chưa có điều kiện liên lạc, trao đổi kinh nghiệm và nhận sự giúp đỡ trực tiếp từ các nước anh em.
Từ bối cảnh trên, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ trong điều kiện so sánh lực lượng không có lợi cho nhân dân ta. Nhưng Đảng và nhân dân ta vẫn dám đánh và quyết thắng thực dân Pháp xâm lược, vì độc lập dân tộc, vì sự tồn vong của đất nước. Để phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, chiến thắng thực dân Pháp đòi hỏi Đảng, Chính phủ phải kịp thời đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, phù hợp vì nó sẽ đóng vai trò quyết định, vạch đường đi đến thắng lợi.
II. Diễn biến tình hình
Với dã tâm thôn tính nước ta một lần nữa, thực dân Pháp chẳng những không đình chỉ chiến sự ở miền Nam mà còn gây ra nhiều vụ khiêu khích, lấn chiếm và sau khi đưa quân đội vào miền Bắc, lại được thêm viện binh chúng trắng trợn đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn (20/11/1946). Tiếp đó, từ ngày 07 đến 15/12/1946, Pháp tấn công ta ở Tiên Yên, Đình Lập tăng quân trái phép ở Hải Dương, Đà Nẵng, Hà Nội . Đặc biệt nghiêm trọng là 18/12/1946, ở Thủ đô Hà Nội sau khi liên tiếp gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún đánh chiếm trụ sở Bộ tài chính, Bộ giao thông công chánh, thực dân Pháp gởi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước vũ khí tự vệ, đòi để cho chúng giữ trật tự ở Hà Nội. Với lực lượng gần 10 vạn quân được trang bị vũ khí hiện đại, đang đứng trấn ở nhiều vị trí chiến lược trên đất nước ta, bọn thực dân Pháp quyết lấn chiếm toàn bộ nước ta một lần nữa, buộc chúng ta phải đầu hàng chúng.
A. Chủ trương của Đảng : Ta không thể nhân nhượng với thực dân Pháp được nữa và thực chất mọi khả năng duy trì hòa hoãn với thực dân Pháp không còn nữa, chúng ta càng nhân nhượng, chúng càng lấn tới và vì nhân nhượng nữa thì mất nước hóa thành nô lệ, Nhân dân Việt Nam chỉ còn một con đường duy nhất là đứng lên cầm vũ khí đánh thực dân Pháp bảo vệ tổ quốc, giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình.
18/12/1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị triển khai khẩn cấp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ tọa của Hồ Chí Minh trên cơ sở đánh giá một cách khoa học ý đồ chiến lược của thực dân Pháp và so sánh lực lượng giữa ta và địch, Hội Nghị quyết định phát động cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước và vạch ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến.
Đêm 19/12/1946, Ban thường vụ TW Đảng đã quyết định phát động cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Sáng 20/12/1946 lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ Tịch qua làn sóng điện được truyền đi khắp nơi, lời kêu gọi đó chính là tiếng gọi của non sông đất nước, thấu động những niềm sâu xa và cao đẹp nhất trong lòng mỗi người dân Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ lòng tự hào dân tộc, truyền thống anh hùng bất khuất, làm cho cả nước sôi sục đứng lên, bình tĩnh chiến đấu bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, với một ý chí cảm tử cho tổ quốc quyết sinh, với một thái độ chính trị dứt khoát và kiên định vì độc lập tự do của tổ quốc. Lời kêu gọi đó là một cương lĩnh kháng chiến, khái quát ở trình độ cao, chứa đụng những tư tưởng, quan điểm và đường lối chiến tranh nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
Ngày 22/12/1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến, bản chỉ thị nêu một cách khái quát những nội dung cơ bản đường lối của cuộc trường kì kháng chiến của Đảng như :
- Về tính chất và mục tiêu của cuộc kháng chiến : nhân dân Việt Nam xác định cuộc chiến tranh chính nghĩa chống chiến tranh phi nghĩa xâm lược của thực dân Pháp; chiến tranh chống Pháp là sự tiếp tục của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, giành ruộng đất cho người cày và xây dựng cơ sở đi lên CNXH.
- Về xác định phương châm kháng chiến : kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng chiến trên tinh thần tự lực cánh sinh, kháng chiến lâu dài và trải qua ba giai đoạn : cầm cự, phòng ngự và tổng phản công. Đảng ta xác định kháng chiến nhất định thắng lợi.
Về mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ trong giai đoạn này, tác phẩm : (Kháng chiến nhất định thắng lợi( của Trường Chinh đã nêu rõ quan điểm của Đảng là : (cuộc kháng chiến chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, củng cố và mở rộng chế độ Cộng hòa dân chủ. Nó không tịch thu ruộng đất của địa chủ phong kiến chia cho dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất và các hạng tài sản khác của Việt gian phản động để bổ sung ngân quỹ kháng chiến hay ủng hộ các gia đình chiến sĩ hi sinh(.
B. Nhận xét và đánh giá : Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng (từ 11 đến 19/2/1951) đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối kháng chiến được nêu trong các văn kiện trước đây, đồng thời tiếp tục bổ sung, cụ thể hóa cho phù hợp trong giai đoạn còn lại của cuộc kháng chiến. Như vậy đường lối của Đảng về kháng chiến được hình thành ngay từ đầu cuộc kháng chiến và tiếp tục được hoàn thiện cụ thể hóa trong một quá trình liên tục, bám sát và đáp ứng kịp thời cuộc kháng chiến của toàn dân ta.
Cuộc kháng chiến của chúng ta chỉ có thắng lợi với điều kiện căn bản là : Đường lối chính trị và quân sự đúng, đoàn kết chặt chẽ toàn dân, hậu phương được củng cố, quân và dân ta chiến đấu anh dũng, chỉ huy của ta có tài.
( Đường lối : Đảng chỉ rõ đối tượng của cuộc kháng chiến là bọn thực dân Pháp phản động đang dùng vũ lực cướp nước ta, đây là một cuộc chiến tranh cách mạng của dân tộc, là chiến tranh chính nghĩa, tiến bộ vì tự do độc lập, vì dân chủ và hòa bình chống lại cuộc đấu tranh phi nghĩa xâm lược của bọn thực dân phản động. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là sự tiếp tục triển khai sự nghiệp của cuộc cách mạng tháng tám, CMDTDCND bằng nhiều hình thức chiến tranh cách mạng, nhằm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc, giành ruộng đất cho người cày và xây dựng cơ sở đi lên CNXH. Ở đây Đảng đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng, kháng chiến chống Pháp về hình thức là sự đối đầu quân sự giữa cách mạng và phản cách mạng nhưng nội dung bên trong thực chất là giải quyết những mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc này. Đảng chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt, cấp bách là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược giành độc lập và thống nhất cho đất nước, đồng thời trong quá trình kháng chiến phải thực hành cải cách dân chủ, giải quyết từng bước vấn đề ruộng đất để bồi dưỡng sức dân. Cuộc kháng chiến này là một cuộc kháng chiến nhân dân với phương châm “kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng chiến tự lực cánh sinh (dựa vào sức mình) kháng chiến lâu dài”, với đường lối này Đảng ta chủ trương “kháng chiến nhất định thắng lợi”.
( Kết quả của chủ trương “toàn dân kháng chiến”, “toàn diện kháng chiến”
- Thực dân Pháp xâm lược nước ta thì toàn dân ta phải nhất tề đứng lên chống giặc. Đảng ta đánh giá cao vai trò của quần chúng nhân dân trong chiến tranh cách mạng, tin tưởng vững chắc khả năng vô tận, sức mạnh vô địch của nhân dân, với chiến lược toàn dân kháng chiến, ta đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn đối trọng với bộ phận phản động xâm lược Pháp, toàn dân kháng chiến, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, ta có thể kháng chiến khắp nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ”, “mỗi phố là một mặt trận”, “mỗi làng là một pháo đài”, toàn dân kháng chiến là nội dung trọng yếu và xuyên suốt toàn bộ quá trình kháng chiến.
- Chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến “toàn dân kháng chiến” đi liền với “kháng chiến toàn diện”, nhờ kháng chiến toàn diện mới phát huy cao nhất sức mạnh toàn dân đánh bại chiến tranh tổng lực của kẻ thù. Đảng ta lãnh đạo tổ chức cuộc chiến tranh toàn dân đánh giặc trên mọi mặt trận, mọi phương diện, quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế, tư tưởng, ngoại giao .
(Về chính trị : Ta tiếp tục củng cố phát triển chính quyền dân chủ nhân dân ở vùng tự do, ta đã mở rộng được mặt trận đoàn kết dân tộc chống Pháp xâm lược bằng việc duy trì Mặt trận Việt minh và xây dựng thêm Mặt trận Liên Việt đã thu hút được mọi lực lượng đoàn kết chống Pháp. Chúng ta tuyên truyền tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến diễn ra ngay tại trên đất nước mình trước sự phi nghĩa của kẻ thù xâm lược từ xa đến nhằm cô lập và hạn chế được tối đa những hoạt động của bọn Việt gian.
( Về kinh tế :
- Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến bùng nổ ta bị kẻ thù bao vây bốn phía chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của nhân dân các nước anh em, nên ngay từ đầu Đảng đã xác định đường lối kháng chiến là “phải tự lực cánh sinh”, Đảng chủ trương “phải tự ta giúp ta rồi người mới giúp ta”. Dựa vào sức mình là dựa vào sức lực của toàn dân, vào sự lãnh đạo của Đảng, vào các điều kiện nhân hòa, địa lợi thiên thời của đất nước, “tự lực cánh sinh” không có nghĩa là không đồng thời ra sức tranh thủ ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để nhanh chóng chiến thắng kẻ thù.
- Ta xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp ở vùng tự do với mục tiêu đảm bảo ổn định đời sống nhân dân lao động để nuôi binh đánh Pháp, phối hợp với hoạt động gia tăng sản xuất là thực hiện sách lược “tiêu thổ kháng chiến”. Còn ở vùng địch tạm chiếm ta đã đưa lực lượng tấn công đánh phá kho tàng, bến bãi, cầu cống của địch để tiêu diệt lực lượng vật chất của chúng, đồng thời thực hiện chiến lược “làm chảy máu” nền kinh tế của chúng như thu gom như yếu phẩm, mua thuốc điều trị bệnh, mua vũ khí , đạn dược trang bị cho ta
( Về văn hóa tư tưởng : tuyên truyền vận động nhân dân ta đấu tranh xóa bỏ những tàn dư phong kiến lạc hậu, tư tưởng thực dân, ra sức xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa khoa học đại chúng. Trên mặt trận này, nhân dân ta cũng giành được những thành tựu quan trọng, nhất là sau Hội nghị văn hóa toàn quốc (7/1948) và chủ trương bổ túc văn hóa cho cán bộ, phong trào xóa nạn mù chữ tiếp tục phát triển mạnh, động viên mọi lực lượng văn hóa, văn học nghệ thuật bám sát nhu cầu kháng chiến, lấy đối tượng là quần chúng công, nông, binh
( Về quân sự : Được xem là mặt trận có vị trí quan trọng nhất, quyết định sự thành bại của hai bên, trên cơ sở đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và tương quan lực lượng giữa ta và địch, đồng thời nắm chắc qui luật chuyển hóa của tương quan đó, Đảng ta khẳng định phương châm chiến lược của chúng ta là đánh lâu dài, qui luật chiến tranh xâm lược buộc địch phải đánh nhanh, thắng nhanh. Ta chủ trương đánh lâu dài làm cho những chỗ yếu cơ bản của chúng bộc lộ rõ, chỗ mạnh của chúng ngày càng hạn chế, chỗ yếu của ta dần dần được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy, từng bước chuyển hóa lực lượng có lợi cho ta, không có lợi cho địch. Đó là quá trình vừa đánh, vừa xây dựng lực lượng, nhưng không có nghĩa là đánh kéo dài mà Đảng ta chủ động dẫn dắt cuộc kháng chiến qua 3 giai đoạn :
- Giai đoạn 1 (từ 9/1945 đến cuối 1947)
Ta chủ động tiến hành cuộc kháng chiến cục bộ ở miền Nam và sau đó phát động cuộc kháng chiến trong cả nước, đánh bại kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của giặc Pháp, đỉnh cao của giai đoạn này là ta đã đánh bại cuộc hành quân thu đông 1947 của thực dân Pháp.
- Giai đoạn 2 (từ 1948 đến cuối 1950)
- Hoạt động quân sự của ta tập trung 2 vấn đề lớn. Một là : thúc đẩy hoạt động chiến tranh du kích ở vùng địch tạm chiếm kết hợp với một vài chiến dịch nhỏ, đánh bại chiến lược “dùng người Việt đánh người Việt”, “Lấy chiến tranh, nuôi chiến tranh”. Hai là : vào năm 1950 ta chủ động mở chiến dịch biên giới giải phóng các tỉnh Biên giới Việt Trung nối hành lang chiến khu Việt Bắc của ta với các nước xã hội chủ nghĩa (lúc này Trung Hoa lục địa đã được giải phóng vào tháng 10/1946).
- Chiến dịch biên giới thắng lợi, kết thúc giai đoạn 2; các nước Liên Xô, Trung Quốc công nhận Việt Nam và tích cực viện trợ cho ta.
- Giai đoạn 3 (từ 1951 đến 7/1954)
Ta chủ động mở nhiều chiến dịch ở vùng đồng bằng Bắc bộ, sau đó là chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã đánh bại mọi cố gắng quân sự cao nhất của quân đội Pháp ở Đông Dương, buộc Pháp phải kí Hiệp định Giơne vơ cam kết tôn trọng nền độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam
III. Đánh giá và kết luận :
A- Đánh giá
Những thành tựu kể trên là thể hiện sinh động của đường lối triển khai trong thực tiễn, đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh” do Đảng đề ra ngay từ đầu cuộc kháng chiến, là sự vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác LêNin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, đồng thời là sự kế thừa khoa học truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam trong liïch sử, là một bộ phận trong đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến sớm được vạch ra đúng đắn, khoa học là vấn đề đầu tiên có ý nghĩa quyết định của cuộc kháng chiến.
B- Kết luận
Phân tích bối cảnh lịch sử của chỉ thị toàn quốc kháng chiến và kết quả của chủ trương ấy cho thấy trên cơ sở nhận thức rõ bản chất và âm mưu của kẻ thù, nên trong thời kì đấu tranh hòa bình với Pháp, Đảng vẫn luôn quan tâm tăng cường công tác chuẩn bị kháng chiến, ta chủ động bước vào kháng chiến chống Pháp là sự lựa chọn sáng suốt, thể hiện ý chí quyết tâm, tư tưởng cách mạng tiến công, ý thức tự chủ của Đảng ta và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến ngay sau mệnh lệnh kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được ban hành đã mang lại nhiều ý nghĩa và bài học sâu sắc.
- Đảng và nhân dân ta đã biết mở đầu đúng lúc cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp, quân và dân ta không những ít tiêu hao, mà còn làm tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch. Điều quan trọng là đã cầm chân địch, tạo thời cơ chiến lược chuyển đất nước sang chiến tranh, xây dựng, bảo tồn và củng cố được lực lượng, đẩy lùi âm mưu chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh của địch, chuyển đất nước vào thời chiến mới và bước đầu xác lập thế trận chiến tranh nhân dân tạo tiền đề quan trọng để nhân dân ta đánh bại âm mưu mới của địch
Câu 4a : Phân tích quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ 1954 - 1968. Qua đó rút ra nhận xét.
BÀI LÀM
I. Bối cảnh lịch sử
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ trở thành cường quốc số một trên thế giới. Mĩ có âm mưu làm bá chủ thế giới, để thực hiện âm mưu này, Mĩ luôn luôn thực hiện chiến lược toàn cầu, xâm lược Việt Nam nhằm đạt 3 mục tiêu chủ yếu sau :
1)- Tiêu diệt phong trào cách mạng, thôn tính miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng.
2)- Biến miền Nam Việt Nam thành một phòng tuyến ngăn chặn sự phát triển của CNXH xuống vùng này.
3)- Xây dựng miền Nam Việt Nam thành một căn cứ quân sự, làm bàn đạp tiến công miền Bắc và hệ thống XHCN từ phía Đông - Nam Á.
Qúa trình Đảng chỉ đạo cuộc cách mạng miền Nam là quá trình phân tích âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, so sánh lực lượng giữa ta và địch để đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp đánh bại chúng. Là quá trình biết giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Quá trình đó diễn ra qua nhiều thời kì kế tiếp theo.
II. Đảng lãnh đạo các giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước
* Giai đoạn (Từ năm 1954 đến năm 1960) :
Là giai đoạn Đảng lãnh đạo nhân dân miền Nam đánh bại chiến lược tố cộng, diệt cộng của Mĩ Diệm. Những hoạt động của địch trong thời gian này là : Ngô Đình Diệm dựa vào sức mạnh của Mĩ gạt Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, Diệm hô khẩu hiệu “đã thực, bài phong”, xây dựng chính thể Việt Nam cộng hòa hợp hiến, hợp pháp, xây dựng quân đội hùng mạnh, tiến hành cuộc cách mạng điền địa lần nhất mà thực chất là tước đoạt lại những ruộng đất cách mạng đã chia cho nông dân trả về cho địa chủ, khôi phục giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản phát triển thành chỗ dựa giai cấp cho Việt Nam cộng hòa, lập đảng cần lao nhân vị và các tổ chức quần chúng thuộc đảng này để làm chỗ dựa. Tiến hành chính sách tố cộng, diệt cộng kết hợp với việc không chịu thi hành Hiệp định Giơnevre chia cắt lâu dài hai miền Nam, Bắc, những hoạt động của địch trong thời gian này đã gây cho ta nhiều tổn thất lớn.
Trong thời kì này, chủ trương đấu tranh của Đảng ta là : chuyển hình thức, phương pháp và tổ chức đấu tranh của CMMN yừ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị là chủ yếu, thực hiện thế giữ gìn lực lượng rồi chuyển dần sanh thế tiến công, đánh bại “Chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mĩ.
* Thời kì một (từ 7/1954 đến 7/1956) : Đảng ta chủ trương chuyển CMMN từ đấu tranh bạo lực vũ trang kháng chiến chống Pháp sang đấu tranh chính trị là chủ yếu để củng cố hòa bình, đòi tổng tuyển cử thống nhất đất nước, chống khủng bố và giữ gìn, bảo toàn lực lượng.
* Thời kì hai (từ 7/1956 đến cuối 1958) : đấu tranh chính trị là chính, xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, lập các chiến khu, đấu tranh vũ trang ở mức độ thích hợp để bảo vệ cách mạng, chuẩn bị chuyển lên giai đoạn mới. Xác định mối quan hệ chiến lược giữa hai miền và khẳng định cách mạng miền Nam phải phát triển trên cơ sở là một căn cứ vững mạnh của hậu phương miền Bắc; hai là xác định nhân dân miền Nam không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng.
* Thời kì ba (từ 1/1959 đến 1960) : nổi dậy khởi nghĩa vũ trang đồng loạt bằng cả lực lượng chính trị và vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh đổ chính quyền địch ở cơ sở, giành quyền làm chủ, hình thành vùng giải phóng rộng lớn, lập mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. CMMN phát triển nhảy vọt, chuyển hẳn từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, đồng thời chấm dứt thời kì tạm ổn định của địch, cuộc “Chiến tranh đơn phương” của địch bị thất bại.
Đặc biệt trong thời kì này, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng thể hiện sự chỉ đạo đúng đắn về tình hình, nhiệm vụ của CMMN đã châm ngòi nổ cho phong trào đồng khởi ở miền Nam đánh bại chiến lược tố cộng, diệt cộng của Mĩ - Diệm.
* Giai đoạn (Từ năm 1960 đến năm 1965) : là giai đoạn Đảng lãnh đạo nhân dân đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mĩ. chiến lược chiến tranh đặc biệt là một hình thức chiến tranh thực dân mới trong chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt của Mĩ” sử dụng 3 hình thức : Chiến tranh tổng lực, chiến tranh hạn chế, chiến tranh dưới mức hạn chế. Với các thủ đoạn của Mĩ - Diệm như : tổ chức dồn dân, lập ấp chiến lược “tát nước bắt cá” được coi là quốc sách. Xây dựng quân đội Ngụy theo hình thức 3 thứ quân : chủ lực, địa phương quân và tự vệ, phong tỏa chặt chẽ biên giới trên bộ và trên biển để ngăn chặn miền Bắc chi viện cho miền Nam
Đảng ta chủ trương tại Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ III (9/1960) quyết định thành lập mặt trận giải phóng ở miền nam làm ngọn cờ chính trị thu hút tất cả các lực lượng yêu nước tiến bộ ở miền Nam đối lập với chính quyền Ngô Đình Diệm. Quyết định thành lập TW cục miền Nam, cơ quan lãnh đạo cao nhất ở miền Nam thay mặt TW Đảng trực tiếp chỉ đạo CMMN. Quyết định thành lập quân giải phóng miền Nam với hai lực lượng : Động viên lực lượng thanh niên yêu nước tại chỗ và chi viện quân từ miền Bắc vào Nam.
- Tiếp theo Nghị quyết Bộ chính trị (1/1961) và Nghị quyết TW lần 9 (12/1963) xác định : Trọng tâm của CMMN lúc này là chống quốc sách ấp chiến lược, đấu tranh chống dồn dân lập ấp, tiếp tục phát triển lực lượng giải phóng và mở các trận đánh từ cỡ tiểu đoàn lên cấp trung đoàn, song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng ba mũi giáp công : chính trị, quân sự, binh vận; đánh địch ở cả ba vùng chiến lược : rừng núi, đồng bằng và đô thị. CMMN đi từ khởi nghĩa chuyển lên thành chiến tranh cách mạng, từng bước đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
* Về quân sự : giành được thắng lợi Ấp Bắc (cỡ tiểu đoàn), Đồng Xoài, Ba Gia, Bình Giả điều này chứng tỏ quân Ngụy có khả năng thua quân giải phóng.
* Về chính trị : ta phát động phong trào đấu tranh chính trị ở thành phố lớn như phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên, phong trào đấu tranh của Phật tử Góp phần làm khủng hoảng bộ máy cầm quyền của VNCH, dẫn đến cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu vào tháng 11/1963 và tiếp theo có hơn 12 cuộc đảo chính lớn, nhỏ. Chứng tỏ ngụy quyền Sài Gòn có khả năng bị sụp đổ, ta đã làm phá sản hoàn toàn kế hoạch quốc sách ấp chiến lược của địch.
* Giai đoạn (Từ năm 1965 đến năm 1968) : để cứu vãn tình hình, đế quốc Mĩ đã ngoan cố và liều lĩnh thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc. Đảng phát động toàn dân đánh Mĩ, cứu nước, đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ ở miền Nam.
Mĩ đưa chiến lược “chiến tranh cục bộ” xuất phát từ : Do tương quan lực lượng ở chiến trường miền Nam lúc này quân đội Ngụy đã thua nhưng chưa thua hẳn, quân Giải phóng đã thắng nhưng chưa thắng hẳn, nên Mĩ đưa 700.000 quân Mĩ và 700.000 quân ngụy để tạo cán cân lực lượng nghiêng về phía Mĩ - Ngụy nhằm áp đảo quân giải phóng thực hiện chiến lược ”tìm diệt” quân Giải phóng kết hợp với “bình định” nông thôn và mở rộng ném bom, bắn phá miền Bắc ngăn chặn không cho miền Bắc chi viện cho miền Nam.
Từ năm 1965, đế quốc Mĩ đã tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam; đồng thời gây ra chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Âm mưu của Mĩ là 1. Chặn đứng sự phát triển của CMMN, cứu nguy cho chế độ Sài Gòn, tìm diệt chủ lực quân Giải phóng, giành lại thế chủ động trên chiến trường; 2. Bình định lại miền Nam, củng cố hậu phương của chúng, ổn định Ngụy quyền, đồng thời phá hoại hậu phương miền Bắc XHCN, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mĩ của dân tộc ta , buộc ta phải kết thúc chiến tranh theo điều kiện của Mĩ.
Hội nghị TW Đảng lần thứ 11 (3/1965) đã đề ra quyết tâm chiến lược đánh Mĩ và thắng Mĩ, phát động toàn dân tiến hành chống Mĩ cứu nước.
Đảng ta đã chỉ đạo quân và dân miền Nam liên tiếp bẽ gãy các cuộc hành quân “Tìm diệt” và “Bình định” của Mĩ-Ngụy. Sau trận đọ sức trực tiếp đầu tiên với quân Mĩ ở Núi Thành (Quảng Nam) 5/1965, Vạn Tường (Quảng Ngãi) 8/1965 thắng lợi, một cao trào đánh Mĩ diệt Ngụy đã dấy lên mạnh mẽ khắp chiến trường miền Nam. Mọi cố gắng điên cuồng của Mĩ trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) và thứ hai (1966-1967) d0ều bị thất bại. Mùa mưa 1967 buộc Mĩ - Ngụy phải chuyển sang chiến lược phòng ngự. Lúc này 80% đất đai miền Nam thuộc quyền kiểm soát của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển quyết liệt ở hầu hết thành thị.
12/1967, Bộ chính trị đã chủ trương chuyển cuộc chiến tranh CMMN sang thời kì mới, tiến lên giành thắng lợi bằng quyết định tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã nổ ra vào dịp tết mậu thân (1968) ở Sài Gòn và 64 thành phố, thị xã, thị trấn khác trên toàn miền Nam. Cuộc tập kích chiến lược này làm cho thế chiến lợc của Mĩ bị đảo lộn, ý chí xâm lược bị lung lay và phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt không điều kiện ném bom miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Pari. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của CMMN, song về sau ta cũng bị những tổn thất về địa bàn và lực lượng do có sai lầm trong đánh giá tình hình, chỉ đạo, xác định mục tiêu và chỉ đạo thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa.
III. Nhận xét và đánh giá chung
Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 8 (khóa II tháng 8 năm 1955) đã xác định “đường lối xây dựng miền Bắc và củng cố, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên XHCN” Đảng ta đã dựa trên các cơ sở lí luận và thực tiễn như sau :
* Về lí luận : Một là đưa miền Bắc tiến lên là xuất phát từ xu thế thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH được mở đầu từ cách mạng tháng 10 Nga. Hai là vận dụng sáng tạo lí luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác Lênin. Ba là đưa miền Bắc lên CNXH từng bước giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của GCCN. Về mặt thực tiễn của cách mạng đã đặt ra giải quyết mâu thuẩn cơ bản của xã hội miềm Bắc đó là “ai thắng ai” giữa hai con đường CNXH và CNTB, đồng thời từ yêu cầu của CMMN và cách mạng cả nước phù hợp với nguyện vọng của nhân dân ta, có điều kiện to lớn do một Đảng CSVN lãnh đạo, chính quyền dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, có thể chuyển sang làm nhiệm vụ cách mạng XHCN, có khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng liên minh công nông trí thức, được sự giúp đỡ của các nước XHCN anh em.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiển trên, Đảng ta quyết định đưa miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan. Song miền Bắc xây dựng CNXH trong một hoàn cảnh đặc biệt, có thuận lợi và khó khăn : đất nước còn bị tạm chia cắt làm hai miền, miền Bắc cuộc cách mạng DTDC đã cơ bản hoàn thành và bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Miền Nam tiếp tục làm cuộc cách mạng DTDC. Do đó Đảng ta cùng một lúc phải thực hiện hai quy luật cách mạng XHCN và CMDTDC, và đề ra đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc có tính đến tác động cách mạng ở miền Nam. Song ở miền Bắc di lên CNXH từ một nền nông nghiệp phổ biến là sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề và do hậu quả của chính sách vơ vét của thực dân Pháp để lại. Về công nghiệp nhỏ bé với trình độ kỹ thuật lạc hậu, mất cân đối. Về văn hóa trình độ dân trí thấp, những tập tục phong kiến vẫn tồn tại và phát triển
Đứng trước tình hình đó, hội nghị Bộ chính trị tháng 9/1954 đã chỉ rõ công việc trước mắt là ổn định đời sống nhân, chống chính sách cưỡng ép di cư vào Nam của địch, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân. Trong đó phục hồi và phát triển nông nghiệp là vấn đề trọng tâm. Đây là một chủ trương đúng đắn, hơn nữa chỉ có thể khôi phục kinh tế mà trọng tâm là nông nghiệp mới có thể tạo tiền đề cho công cuôïc cải tạo nông nghiệp. Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp có liên quan mật thiết với việc giải quyết vấn đề ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” đã nêu trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Do vậy việc cải cách ruộng đất tiến hành đồng thời với cuộc khôi phục kinh tế và là nhiệm vụ cấp thiết của cách mạng. Về chính sách cải cách ruộng đất ở vùng tự do đánh dấu sự kết thúc của cách mạng DTDC để chuyển sang cách mạng XHCN, nhằm tăng cường củng cố khối liên minh công nông, xóa bỏ quan hệ sản xuất bóc lột phong kiến, giải phóng nguồn lực sản xuất nông nghiệp nông thôn, cũng chính là góp phần khôi phục kinh tế và ổn định đời sống cho nhân dân. Đảng ta chủ trương về đường lối : dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tiêu diệt chế độ phong kiến, từng bước có phân biệt; về phương châm : trên cơ sở thỏa mãn nhu cầu về ruộng đất của nông dân cần chú trọng phân biệt đối đãi với các hạng địa chủ, chiếu cố địa chủ kháng chiến một cách đích đáng nhằm thêm bạn bớt thù.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đảng ta đã thẳng thắn đánh giá sai lầm nghiêm trọng kéo dài trong tổ chức, chỉ đạo thực hiện cải cách ruộng đất, cường điệu tính chất đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng quá mức đối tượng đấu tranh, gây ra tình trạng đánh nhầm vào nội bộ nông dân, nhất là trung nông lớp trên, phương pháp đấu tranh mang tính chất trừng trị, nhẹ tính chất giáo dục. Một số nơi quán triệt đường lối và phương châm chỉ đạo không đúng, vị phạm nguyên tắc tập trung dân chủ lãnh đạo, để cho đội cải cách quá nhiều quyền lực, vai trò cấp ủy Đảng lu mờ. Nguồn gốc của sai lầm là do không xuất phát từ thực tiễn nước ta, đánh giá không sát đúng những diễn biến của nông dân miền Bắc nhất là chế độ sở hữu ruộng đất. Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 10 (khóa II 9/1956) đã nghiêm khắc kiểm điểm và kiên quyết sửa chữa sai lầm. Đến cuối năm 1957 công tác sữa sai đã đem lại kết quả tốt, nông thôn dần dần ổn định, nội bộ Đảng đoàn kết, lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng được khôi phục, sản xuất nông nghiệp đẩy mạnh, khối liên minh công nông được củng cố.
Tiếp theo công cuộc cải tạo XHCN ở miền Bắc từ 1958 - 1960, Hội nghị lần thứ 14 của BCH TW Đảng (khóa II 1/1958) xác định “nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân là ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH”, trọng tâm trước mắt là đầy mạnh cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời phải ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Về cải tạo nông nghiệp Đảng chú trọng dựa trên 3 nguyên tắc : Tự nguyện, nhận thức đựơc sự cần thiết tham gia vào hợp tác xã, quản lí dân chủ, là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động kết hợp hài hòa các lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội. Hình thức bước đi tốc độ của quá trình cải tạo XHCN phải phù hợp, từ thấp đến cao, tập dượt cho nông dân và thợ thủ công quen dần với cung cách làm ăn tập thể, từ dần đổi công, hợp tác xã bậc thấp đến hợp tác xã bạâc cao. Qui mô từ nhỏ đến lớn, tiến hành cải tạo hòa bình đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh vì : Xuất phát từ so sánh lực lượng giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam rất nhỏ bé về kinh tế, bạc nhược về chính trị, giai cấp tư sản dân tộc từng là bạn đồng minh của gai cấp công nông trong CMDTDC. Nhằm lôi kéo giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam đi theo cách mạng liên minh chống đến quốc, cho phép ta sử dụng kinh nghiệm quản lí trình độ chuyên môn, vốn thị trường của giai cấp tư sản để khôi phục chủ trương chính sách của Đảng.
Đến cuối năm 1960 miền Bắc cơ bản đã hoàn thành cải tạo XHCN, Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng (khóa III) đã ghi nhận “phong trào hợp tác hóa nông nghiệp đã phát triển nhanh và lành mạnh, nói chung là tốt”. Bên cạnh những ưu điểm, phong trào hợp tác hóa cũng bộc lộ những khuyết điểm và yếu kém : Các nguyên tắc và phương châm chỉ đạo trong cải taọ không được tôn trọng triệt để, công tác quản lí còn nhiều yếu kém, sai sót, một số cán bộ đảng viên, xã viên vi phạm kỉ luật .
Tháng 11/1960 đã cải tạo 2.097 cơ sở thương nghiệp tư bản tư doanh, giải phóng được hơn 1 vạn lực lượng lao động công nhân khỏi ách bóc lột của giai cấp tư sản, song cũng cần nhận thức rằng việc sớm xóa bỏ nền kinh tế nhiều thành phần và “trong sản xuất kinh doanh không áp dụng những quy luật của sản xuất hàng hóa đã tác dụng tiêu cực không ít đến đời sống kinh tế, hạn chế việc phát triển LLSX”.
Về cải tạo XHCN đối với thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ, đến cuối năm 1960 có 88% thợ thủ công gia nhập các HTX tiểu thủ công nghiệp bậc thấp và bậc cao, 45% người buôn bán nhỏ được tổ chức vào hợp tác xã mua bán . Khuyết điểm của cải tạo thự thủ công và người buôn bán nhỏ là mang tư tưởng nóng vội, mệnh lệnh, gò ép, không tính đến yêu cầu xã hội và hiệu quả thực tế, dẫn đến không ít hợp tác xã làm ăn thua lỗ, tan rã.
Qua công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rút ra các kết quả và sai lầm như sau :
- Kết quả đạt được : Trước hết thông qua cải tạo xã hội chủ nghĩa xóa bỏ quan hệ sản xuất bóc lột và từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thứ hai làm thay đổi kết cấu gai cấp trong xã hội, thay đổi quan hệ giữa con người với nhau theo hướng tiến bộ. Thứ ba là góp phần hình thành nền văn hóa mới và con người mới XHCN. Thứ tư là góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, động viên được sức của, sức người cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Những sai lầm : Nhận thức và vận dụng lí luận của Đảng ta không thừa nhận CNXH còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận dụng không đúng luật QHSX, cho rằng QHSX đi trước nhằm chủ động kéo theo LLSX (coi quan hệ sản xuất qui định lực lượng sản xuất) dẫn đến QHSX kiềm hãm LLSX. Trong QHSX đồng nhất sở hữu, đưa mở rộng sở hữu mà không là rõ được trình độ LLSX đến đâu, không phát huy được dân chủ trong quản lí, sản xuất, kinh doanh, không quan tâm đúng mức lơị ích của người lao động dẫn đến càng mở rộng QHSX càng triệt tiêu sức sản xuất xã hội, sai lầm trong chỉ đạo là nóng vội và chủ quan.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) được triệu tập tại Hà Nội, là “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất thống nhất nước nhà. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ chiến lược cho hai miền Nam, Bắc : “Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ quyết định nhất đối với toàn bộ tiến trình cách mạng Việt nam. Miền Nam tiến hành CMDTDC là trực tiếp đánh đổ đế quốc và tay sai giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc thống nhất nước nhà. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khắng khít với nhau và hỗ trợ cho nhau phát triển. Đại hội nêu 3 đặc điểm cần quán triệt trong quá trình cải tạo và xạy dựng CNXH ở miền Bắc là : nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ; nước nhà tạm chi làm 2 miền; có sự giúp đỡ của các nước XHCN. Để triển khai chỉ đạo thực hiện Nghị quyết đại hội III của Đảng, Ban chấp hành TW Đảng (khóa III) đã tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, về lưu thông phân phối... Đại hội III đã ra kế hoạch phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội từ 1961 đến 1965, trong kế hoạch này chỉ có được 4 năm hòa bình để thực hiện (từ ngày 5 tháng 8 năm 1964 đế quốc Mĩ đã huy động không quân, hải quân đánh phá miền Bắc) nhưng kế hoạch cũng đã đạt được một số thành tích quan trọng : bộ mặt xã hội miền Bắc có những thay đổi về đời sống vật cất, tinh thần, bình quân thu nhập quốc dân tăng 6,1%, thu nhập đầu người tăng 3,4%...
Đồng thời, Đảng cũng đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo quá trình tiếp tục xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm tròn trách nhiệm hậu phương cùng miền Nam đánh thắng đế quốc Mĩ xâm lược và tay sai (1965 -1968)
IV. Tóm lại : Việc Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc vào thời kì quá độ lên CNXH đồng thời với việc tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam là sự tìm tòi, sáng tạo đầy tinh thần dũng cảm, quyết đoán và độc lập suy nghĩ. thắng lợi xây dựng CNXH ở miền Bắc đã xoá bỏ căn bản chế độ người bóc lột người, sản xuất XHCN bước đầu được xác lập, đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, làm tròn nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia; sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế phát trển mạnh mẽ, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Thành tựu nêu trên tuy còn thấp so với mục tiêu của CNXH, nhưng trong hòan cảnh lúc đó thì nó đã đưa lại những biến đổi lớn ở miền Bắc, đã tỏ rõ tính ưu việt của chế độ XHCN trước cuộc chiến tranh tàn khốc.
Tuy vậy, nền kinh tế miền Bắc vẫn mang tính sản xuất nhỏm cơ sở vật chất, kĩ thuật còn thấp kém. Các ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé, chưa đủ sức làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân. Quan hệ sản xuất mới chưa được củng cố vững chắc, còn bộc lộ nhiều hạn chế, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công nghiệp. Lao động thủ công còn chiếm 80% lực lượng lao động xã hội, năng suất lao động xã hội chưa bảo đảm được các nhu cầu của nhân dân.
Nguyên nhân trên có nhiều lí do bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan :
* Về khách quan : Miền Bắc đi lên xây dựng CNXH trong điều kiện xuất phát điểm nền kinh tế yếu kém, do chính sách bóc lột của thực dân Pháp. Mặt khác chúng ta tiến hành xây dựng kinh tế trong điều kiện đất nước có chiến tranh, phải tập trung sức người, sức của cho giải phóng miền Nam và chống chiến tranh phá hoại miền Bắc.
* Về chủ quan : Đảng và Nhà nước ta đã mắc một số sai lầm, khuyết điểm, nghiêm trọng như chính sách cải cách ruộng đất, là bắt nguồn từ những nhận thức còn đơn giản, duy ý, chí chưa nắm đúng qui luật vận động đi lên CNXH ở một nước vốn là thuộc địa, nền sản xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp. Nó còn phản ánh phương pháp tư duy giáo điều, rập khuôn mô hình xây dựng CNXH của Liên Xô, chưa xuất phát đầy đủ từ hoàn cảnh điều kiện cụ thể của thực tiễn đất nước ta.
Những thành công và chưa thành công trên đều là những bài học và kinh nghiệm quí báu cho quá trình đổi mới hiện nay vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh tiến lên CNXH
Câu 5 : Quá trình nhận thức con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của Đảng ta từ 1975 đến nay.
Bài làm
A. Đặc điểm tình hình của cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội :
1)- Hoàn cảnh lịch sử :
Đại thắng chiến dịch mùa xuân năm 1975 đã tạo ra bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại, mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc : Đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, đi lên Chủ nghĩa xã hội (CNXH). Trong thời kì mới, đất nước chúng ta có nhiều thuận lợi, song cũng có không ít khó khăn và thách thức mới.
* Thuận lợi :
- Tổ quốc thống nhất là điều kiện thuận lợi quan trọng để huy động các tiềm năng, sức mạnh của thiên nhiên và con người (rừng và đất rừng, bờ biển, lực lượng lao động) trong công cuộc xây dựng đất nước.
- Cơ sở vật chất kiõ thuật của chính quyền chế độ cũ miền Nam hầu như còn nguyên vẹn được chính quyền cách mạng tiếp thu đã tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn mới.
- Uy tín của Nhà nước Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Sự ra đời của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã làm cho cục diện bán đảo Đông Dương có nhiều thay đổi, tạo những bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam - Lào.
- Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật (KHKT) của thế giới trong những năm qua như vũ bão đã đạt nhiều thành tựu to lớn mở ra thời cơ cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn qúa trình tiến triển của mình từ hàng trăm năm xuống còn vài chục năm.
- Xu thế toàn cầu hóa, công nghiệp hóa nền kinh tế thế giới ngày càng sâu sắc mở ra khả năng hợp tác toàn diện giữa các nước (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội), là thời cơ hội nhập cho các nước đang phát triển trong công cuộc xây dựng kinh tế đất nước.
- Bài học kinh nghiệm của nước ta rút ra được từ sự sụp đổ của các nước Đông Âu và Liên Xô là những bài học kinh nghiệm xương máu, bổ ích cho việc xây dựng đất nước và đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội.
* Những khó khăn :
- Việt Nam với 30 năm liên tục tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc đã để lại hậu qủa tàn dư chiến tranh rất nặng nề.
- Xu thế toàn cầu hóa, công nghiệp hóa nền kinh tế thế giới vừa tạo thuận lợi cũng vừa là thách thức lớn cho hội nhập, cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong khi nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu chậm phát triển so thế giới và khu vực.
- Là một nước vừa thoát khỏi chiến tranh thống nhất hai miền Nam, Bắc lại tiếp tục đương đầu hai cuộc chiến tranh biên giới phía Nam và phía Bắc đã hạn chế nguồn tài lực, vật lực cho qúa trình xây dựng cả nước đi lên CNXH. Từ những đặc điểm lịch sử nêu trên đã đặt ra cho nước ta những yêu cầu mới là :
- Tiếp tục hoàn thành những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ.
- Giải quyết những hậu qủa nặng nề của chiến tranh, khôi phục kinh tế, từng bước ổn định đời sống nhân dân.
- Đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, toàn Đảng, toàn dân quyết tâm xây dựng thành công CNXH. Đi lên CNXH trong điều kiện quốc tế có những thận lợi và khó khăn mới; do vậy, con đường đi như thế nào là phù hợp với Việt Nam là một nhiệm vụ phải tập trung giải quyết hàng đầu của Đảng ta.
Với trách nhiệm là đại biểu tiên phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của dân tộc; Đảng ta đảm đương sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân Việt Nam giải quyết kịp thời những yêu cầu thực tiễn của cách mạng nước ta trong thời kì mới.
B. Qúa trình nhận thức con đường đi lên CNXH của Đảng ta :
1)- Qúa trình bổ sung, hoàn chỉnh đường lối CM XHCN là qúa trình khách quan :
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ thống nhất tổ quốc, hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành TW Đảng đã khẳng định : (Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH(, hội nghị để ra công tác chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội và Chính phủ trong cả nước. Sau khi hoàn thành cơ bản những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (CMDTDCND), cách mạng Việt Nam (CMVN) đã từng bước chuyển sang thời kì qúa độ tiến lên xây dựng CNXH với đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Vì thế Đảng ta cần và có thể tìm ra những nội dung, cách thức và biện pháp thích hợp với tinh thần nổ lực và sáng tạo cao nhất.
Quá trình đổi mới là cả qúa trình nhận thức bổ sung dần về lượng, biến đổi về chất, biết cách tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi nhân tố, mọi lực lượng kinh tế - xã hội tham gia vào tiến trình CMXHCN ở nước ta. Đây không chỉ là sự kế thừa và phát triển bài học kinh nghiệm thành công của cách mạng nước ta trong thời kì trước, mà còn là yêu cầu cấp thiết mang tính tất yếu, hợp quy luật trên bước đường đi lên của nước ta trong thời kì mới. Trải qua nhiều năm, với thực tế : biết bao khó khăn, phức tạp, cùng với những thành tựu bước đầu và những sai lầm, khuyết điểm về một số đường lối, chủ trương và cơ chế, chính sách cụ thể Đảng ta đã từng bước nhận thức rõ hơn về nội dung và hình thức, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng phù hợp lí luận nhận thức, đi từ thấp đến cao từ việc chưa hoàn thiện đi đến hoàn thiện; phù hợp quan hệ về lí luận và thực tiễn, tạo ra những (Nấc thang mới( cho bước đi của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Đây là qúa trình phản ánh khách quan trong quy trình bổ sung, hoàn chỉnh cách mạng XHCN của nước ta.
2)- Nội dung của đường lối trong qúa trình nhận thức của Đảng ta :
Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, thứ IV và thứ V đến đại hội lần thứ VI và thứ VIII của Đảng với chủ trương đổi mới và thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì qúa độ đi lên CNXH ở nước ta, những vấn đề cơ bản trên đây ngày được nhận thức rõ hơn và những nội dung, nhiệm vụ kinh tế - xã hội (KTXH) mới dần dần được cụ thể hóa sát đúng với thực tiễn cách mạng nước ta trong chặng đường đầu của thời kì qúa độ.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng lao động Việt Nam (9/1960) :
Đã nêu lên đường lối chung của cách mạng cả nước là tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (CM) : cách mạng XHCN ở miền Bắc, CMDTDCND ở miền Nam. Về đường lối cách mạng XHCN ở miền Bắc : sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để : thực hiện cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh. Xây dựng lực lượng sản xuất (LLSX), cơ sở vật chất, kĩ thuật cho CNXH, phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đẩy mạnh cách mạng XHCN về quan hệ sản xuất (QHSX), tư tưởng văn hóa và khoa học kĩ thuật, những mục tiêu phải đạt được là : đưa đất nước ta có nền công nông nghiệp hiện đại, văn hóa, khoa học tiên tiến; đồng thời kết hợp kinh tế và quốc phòng toàn dân.
Cách mạng XHCN (CMXHCN) ở miền Bắc là một qúa trình cải biến cách mạng về mọi mặt, nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về TLSX, tiến lên nền kinh tế XHCN dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn XHCN, từ tình trạng kinh tế rời rạc, lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm cho miền Bắc mau chóng thành cơ sở vững mạnh, là hậu phương vững chắc của miền Nam cho sự nghiệp thống nhất tổ quốc.
Thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm (1961-1965) đã giải quyết được căn bản tình hình lương thực cho miền Bắc, công nghiệp năm 1965 tăng 1,8 lần so năm 1960, giáo dục - y tế - văn hóa xã hội có bước phát triển vượt bậc.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) :
Đại hội đã tổng kết qúa trình xây dựng CNXH ở miền Bắc, sự đấu tranh anh dũng, bền bỉ và thắng lợi vẽ vang của quân và dân ta chống lại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ. Thắng lợi của sự nghiệp chống Mĩ, cứu nước đã để lại cho nhân dân ta những bài học lịch sử có gía trị. Kế thừa tư tưởng của đại hội III. Báo cáo chính trị đại hội IV đã nêu lên ba đặc điểm của nước ta trong giai đoạn cách mạng mới là : nước ta đang trong qúa trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN; tổ quốc thống nhất, độc lập, hòa bình đi lên xây dựng CNXH có nhiều thuận lợi song, hậu qủa của 30 năm chiến tranh cũng gây nhiều khó khăn trở ngại; hoàn cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi, nhưng cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới còn nhiều gay go, phức tạp. Từ 3 đặc điểm trên, báo cáo đã xác định đường lối chung và đường lối kinh tế của cách mạng XHCN.
* Về đường lối chung của CMXHCN trong giai đoạn mới ở nước ya là : (Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng : cách mạng về QHSX, cách mạng KHKT, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng KHKT là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì qúa độ lên CNXH; xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới XHCN(.
* Về đường lối xây dựng kinh tế Đảng ta xác định : (đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN, xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ(. Ý nghĩa lịch sử của đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đại hội thống nhất nước nhà và cả nước cùng tiến lên CNXH.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết đại hội IV, Ban chấp hành TW (khóa IV) đã có nhiều hội nghị chuyên đề như hội nghị TW2, TW3, TW5 về kinh tế , xã hội và ổn định đời sống nhân dân. Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm 1976-1980, đại hội đã đề ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 1980 hoàn thành cơ bản cải tạo XHCN đối với các tỉnh phía Nam. Ở miền Bắc, Nghị quyết nêu rõ :(Trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN, tiếp tục củng cố và hoàn thiện QHSX mới, xây dựng và cải tiến chế độ quản lí, chế độ phân phối. Mở rộng thành phần quốc doanh, củng cố các cơ sở quốc doanh về mọi mặt(.
Song, thực tiễn đã chứng tỏ công tác cải tạo nông nghiệp (nhiều nới đã làm thí điểm đưa mô hình hợp tác xã ở miền Bắc vào miền Nam) với cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam là nóng vội, chủ quan, đi ngược lại chủ trương của Đảng. Ở miền Bắc, các hợp tác xã mở rộng quy mô, tổ chức theo hướng tập trung, chuyên môn hóa, cơ giới hóa. Kết qủa là hợp tác xã ngày càng có quy mô lớn, tính chất tập trung ngày càng cao thì năng suất lao động càng giảm, sản xuất không phát triển mà ruộng đất bị bỏ hoang rất lớn, ngày công xã viên giảm, đời sống xã viên ngày càng khó khăn. Từ cuối năm 1970, ở một số địa phương xé rào bằng hình thức (khoán chui(. Nhìn chung, qúa trình thí điểm hợp tác xã ở miền Trung và Tây Nguyên diễn ra thuận lợi, nhưng thiếu vững chắc, ở Nam Bộ diễn ra phức tạp và lúng túng.
Trên phạm vi cả nước từ 1976-1980 đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp không ngừng tăng, nhưng năng suất và sản lượng lương thực lại giảm đến mức thấp nhất (274,4 kg/ người năm 1976 xuống 268,2 kg/ người năm 1980). Về phát triển công nghiệp, thời kì 1976 tốc độ tăng bình quân là 0,6%. Các chỉ tiêu đại hội IV đề ra đều không đạt (điện 78%, than 52%, vải 39%, giấy 37%), tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4% năm, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4% trong khi đó dân số tăng 2,24%. Lưu thông phân phối rối ren, cán cân thương mại chênh lệch lớn, gía cả tăng vọt : 1976 tăng 126%; 1980 tăng 189,5%; 1981 tăng 313,7%. Đời sống nhân dân và CB.CNVC, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Nhiều nhu cầu tối thiểu như lương thực hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu gay gắt; nạn đói diễn ra nhiều nơi. Vấn đề công ăn việc làm, tệ nạn xã hội trở nên nhức nhối.
* Qúa trình đổi mới : Nghị quyết hội nghị BCHTW lần thứ 6 (khóa IV) 9/1979 được cả nước đón nhận đi vào cuộc sống nhanh chóng đem lại những chuyển biến tích cực trong sản xuất và đời sống xã hội. Đây là sự mở đầu cho việc tìm tòi, tháo gỡ khó khăn dẫn đến sự ra đời của chỉ thị 100 và Nghị quyết 25-CP sau này. Nghị quyết BCH TW lần thứ 6 triển khai, được Chính phủ ra quyết định tận dụng đất nông nghiệp, quy định rõ mức được hưởng đối với tập thể và người lao động có công tận dụng đất hoang hóa, xóa bỏ các trạm kiểm soát kiểu ngăn sông cấm chợ, bảo đảm lưu thông hàng hóa ngoài thị trường không phải nộp thuế sau khi làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nghị quyết công nhận dưới CNXH vẫn còn tồn tại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tailieu.doc