Tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình: PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta từ một nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao, dựa vào nền tảng của nền kinh tế tri thức và xu hướng gắn với nền kinh tế toàn cầu. Chính sự chuyển dịch này đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho nhiều ngành kinh tế phát triển. Song cũng làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đặt ra cho các doanh nghiệp những yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự vận động, vươn lên để vượt qua những thách thức, tránh nguy cơ bị đào thải bởi quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải kinh doanh có hiệu quả. Điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải luôn nâng cao tính cạnh tranh và phải có chiến lược phát triển không ngừng. Việc quản trị và điều hành doanh nghiệp luôn đặt ra những vấn đề tài chính mang tính sống còn....
112 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta từ một nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao, dựa vào nền tảng của nền kinh tế tri thức và xu hướng gắn với nền kinh tế toàn cầu. Chính sự chuyển dịch này đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho nhiều ngành kinh tế phát triển. Song cũng làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đặt ra cho các doanh nghiệp những yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự vận động, vươn lên để vượt qua những thách thức, tránh nguy cơ bị đào thải bởi quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải kinh doanh có hiệu quả. Điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải luôn nâng cao tính cạnh tranh và phải có chiến lược phát triển không ngừng. Việc quản trị và điều hành doanh nghiệp luôn đặt ra những vấn đề tài chính mang tính sống còn. Để giải quyết tốt những vấn đề này, nhà quản trị cần nắm rõ thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong điều kiện tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay, thông tin tài chính không chỉ là đối tượng quan tâm của nhà quản lý doanh nghiệp, của Nhà nước trên phương diện vĩ mô mà còn là đối tượng quan tâm của nhà đầu tư, ngân hàng, cổ đông, nhà cung cấp. Chính vì vậy, vấn đề lành mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp hiện đang là đối tượng quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp dưới mọi hình thức sở hữu.
Việc thường xuyên phân tích tình hình tài chính sẽ giúp nhà quản lý doanh nghiệp thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, từ đó có thể nhận ra những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp nhằm làm căn cứ để hoạch định phương án hành động phù hợp cho tương lai và đồng thời đề xuất những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.
Xuất phát từ thực tế đó tôi chọn đề tài : Phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn "Phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình". Được lựa chọn nhằm giải quyết các mục tiêu cơ bản sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp
- Phân tích đánh giá thực trạng tài chính của Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng tình hình tài chính của Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến tình trạng tài chính của Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình.
3.2. Phạm vi và nội dung nghiên cứu
Dựa vào các báo cáo tài chính: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, các báo biểu kế toán chúng ta sẽ tiến hành:
+ Phân tích khái quát tình hình tài chính
+ Phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
+ Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp
+ Phân tích hiệu quả kinh doanh
+ Phân tích hệ số lãi ròng (ROS )
+ Phân tích suất sinh lời của tài sản (ROA)
+ Phân tích khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)
+ Phân tích đòn bẩy tài chính (FL)
+ Dự báo nhu cầu tài chính.
Từ đó ta có thể đánh giá được thực trạng tài chính của Công ty.
Phạm vi không gian: Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình.
Phạm vi thời gian: Đánh giá thực trạng tài chính của Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình trong giai đoạn từ năm 2006 – 2008 và đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao khả năng tài chính đến năm 2010.
4. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Về mặt lý luận: Vận dụng hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp trong lĩnh vực nghiên cứu.
Về mặt thực tiễn: Đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng tài chính tại Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn "Phân tích tình hình tài chính tại Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình"
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Cơ sở khoa học của phân tích tài chính trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Chương 2: Tình hình tài chính tại Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao khả năng tài chính tại Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1.1. Bản chất của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị (quan hệ kinh tế) phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ quá trình tái sản xuất trong mỗi doanh nghiệp và góp phần tích luỹ vốn.
Nội dung của những quan hệ kinh tế thuộc phạm vi tài chính doanh nghiệp bao gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước: Mối quan hệ kinh tế này được thể hiện trong quá trình hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp phải có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước theo luật định và ngược lại nhà nước cũng có sự tài trợ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp để thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của mình.
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và thị trường: Kinh tế thị trường có đặc trưng cơ bản là các mối quan hệ kinh tế đều được thực thi thông qua hệ thống thị trường. Thị trường hàng hoá tiêu dùng, thị trường hàng hoá tư liệu sản xuất, thị trường tài chính... và do đó, với tư cách là người kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp không thể tách rời hoạt động của thị trường, các doanh nghiệp vừa là người mua các yếu tố của hoạt động kinh doanh, người bán các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, đồng thời vừa là người tham gia huy động và mua bán các nguồn tài chính nhàn rỗi của xã hội.
- Quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp gồm: Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các phòng ban, phân xưởng, tổ, đội sản xuất trong việc tạm ứng, thanh toán. Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong quá trình phân phối thu nhập cho người lao động dưới hình thức tiền lương, tiền thưởng, tiền phạt, lãi cổ phần...
Quan hệ thanh toán, cấp phát và điều hoà vốn giữa các đơn vị trực thuộc trong nội bộ doanh nghiệp, với tổng công ty.
1.1.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
- Vai trò huy động, khai thác nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp và tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cáo nhất: Để có đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính doanh nghiệp phải thanh toán nhu cầu vốn, lựa chọn nguồn vốn, bên cạnh đó phải tổ chức huy động và sử dụng đúng đắn nhằm duy trì và thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp - đây là vấn đề có tính quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh " khắc nghiệt" theo cơ chế thị trường.
- Vai trò đòn bẩy kích thích và điều tiết hoạt động kinh doanh: Thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp được tài chính doanh nghiệp phân phối. Thu nhập bằng tiền mà doanh nghiệp đạt được do thu nhập bán hàng trước tiên phải bù đắp hao mòn máy móc thiết bị, trả lương cho người lao động và để mua nguyên vật liệu để tiếp tục chu kỳ sản xuất mới, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Phần còn lại doanh nghiệp hình thành các quỹ của doanh nghiệp, thực hiện bảo toàn vốn, hoặc trả lợi tức cổ phần. Chức năng phân phối tài chính doanh nghiệp là quá trình phân phối thu nhập bằng tiền của doanh nghiệp và quá trình phân phối đó luôn gắn liền với những đặc điểm vốn có của hoạt động sản xuất kinh doanh và hình thức sở hữu doanh nghiệp.
Ngoài ra, nếu người quản lý biết vận dụng sáng tạo các chức năng phân phối của tài chính doanh nghiệp phù hợp với quy luật sẽ làm cho tài chính doanh nghiệp trở thành đòn bẩy kinh tế có tác dụng trong việc tạo ra những động lực kinh tế tác động tới tăng năng suất, kích thích tăng cường tích tụ và thu hút vốn, thúc đẩy tăng vòng quay vốn, kích thích tiêu dùng xã hội.
- Vai trò là công cụ kiểm tra các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Tài chính doanh nghiệp thực hiện việc kiểm tra bằng đồng tiền và tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua phân tích các chỉ tiêu tài chính. Cụ thể các chỉ tiêu đó là: chỉ tiêu về kết cấu tài chính, chỉ tiêu về khả năng thanh toán, chỉ tiêu đặc trưng về hoạt động, sử dụng các nguồn lực tài chính; chỉ tiêu đặc trưng về khả năng sinh lời...Bằng việc phân tích các chỉ tiêu tài chính cho phép doanh nghiệp có căn cứ quan trọng để đề ra kịp thời các giải pháp tối ưu làm lành mạnh hoá tình hình tài chính - kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm
Phân tích tài chính là quá trình tìm hiểu các kết quả của sự quản lý và điều hành tài chính ở doanh nghiệp được phản ánh trên các báo cáo tài chính đồng thời đánh giá những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra trên cơ sở đó kiến nghị những biện pháp để tận dụng triệt để những điểm mạnh, khắc phục các điểm yếu.
Hay nói cách khác, phân tích tài chính doanh nghiệp là làm sao cho các con số trên báo cáo tài chính " biết nói" để người sử dụng chúng có thể hiểu rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp và các mục tiêu, các phương pháp hành động của những người quản lý doanh nghiệp đó.
1.2.2. Mục tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là tổng thể các phương pháp được sử dụng để đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện nay, giúp cho nhà quản lý đưa ra được quyết định quản lý chuẩn xác và đánh giá được doanh nghiệp, từ đó giúp những đối tượng quan tâm đi tới những dự đoán chính xác về mặt tài chính của doanh nghiệp, qua đó có các quyết định phù hợp với lợi ích của chính họ. Có rất nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Mỗi đối tượng lại quan tâm theo giác độ và với mục tiêu khác nhau. Do nhu cầu về thông tin tài chính doanh nghiệp rất đa dạng, đòi hỏi phân tích tài chính phải được tiến hành bằng nhiều phương pháp khác nhau để từ đó đáp ứng nhu cầu của các đối tượng quan tâm. Chính điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho phân tích tài chính ra đời, ngày càng hoàn thiện và phát triển, đồng thời cũng tạo ra sự phức tạp của phân tích tài chính.
1.2.3. Chức năng của phân tích tài chính doanh nghiệp
- Chức năng đánh giá: Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch, các luồng vận động của những nguồn lực tài chính trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ hoặc vốn hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật. Các luồng chuyển dịch giá trị, sự vận động của các nguồn tài chính nảy sinh và diễn ra như thế nào, nó tác động ra sao đến quá trình kinh doanh, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, có yếu tố mang tính môi trường, có yếu tố bên trong, có yếu tố bên ngoài cụ thể là những yếu tố nào, tác động đến sự vận động và chuyển dịch ra sao, gần với mục tiêu hay ngày càng xa rời mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp, có phù hợp với cơ chế chính sách và pháp luật hay không là những vấn đề mà phân tích tài chính doanh nghiệp phải đưa ra câu trả lời.
- Chức năng dự đoán: Mọi quyết định của con người đều hướng vào thực hiện những mục tiêu nhất định. Mục tiêu là đích hướng tới bằng những hành động cụ thể trong tương lai. Những mục tiêu này có thể là ngắn hạn có thể là mục tiêu dài hạn. Nhưng nếu liên quan đến đời sống kinh tế của doanh nghiệp thì cần nhận thấy tiềm lực tài chính, diễn biến luồng chuyển dịch giá trị, sự vận động của vốn hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp. Những quyết định và hành động trong tương lai phụ thuộc vào diễn biến kinh tế xã hội và hoạt động của doanh nghiệp sẽ diễn ra trong tương lai. Bản thân doanh nghiệp cho dù đang giai đoạn nào trong chu kỳ phát triển thì các hoạt động cũng đều hướng tới mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này được hình thành từ nhận thức về điều kiện, năng lực của bản thân cũng như những diễn biến của tình hình kinh tế quốc tế, trong nước, ngành nghề và các doanh nghiệp khác cùng loại, sự tác động của các yếu tố kinh tế xã hội trong tương lai. Vì vậy, để có những quyết định phù hợp và tổ chức thực hiện hợp lý, đáp ứng được mục tiêu mong muốn của các đối tượng quan tâm cần thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp trong tương lai.
- Chức năng điều chỉnh: Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế tài chính dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động. Hệ thống các quan hệ đó bao gồm nhiều loại khác nhau, rất đa dạng, phong phú và phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân và nhân tố cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp. Hệ thống các quan hệ kinh tế tài chính đó sẽ là bình thường nếu tất cả các mắt xích trong hệ thống đều diễn ra bình thường và đó là sự kết hợp hài hoà các mối quan hệ. Tuy nhiên, những mối quan hệ kinh tế ngoại sinh, bản thân doanh nghiệp cũng như các đối tượng quan tâm không thể kiểm soát và chi phối toàn bộ. Vì vậy, để kết hợp hài hoà các mối quan hệ, doanh nghiệp, các đối tượng có liên quan phải điều chỉnh các mối quan hệ và nghiệp vụ kinh tế nội sinh.[6]
1.2.4. Ý nghĩa và vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình xem xét, kiểm tra đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện tại và quá khứ. Qua đó, sử dụng thông tin đánh giá đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp, nắm vững tiềm năng, dự báo xác định chính xác hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp.
Thông qua phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng, các thông tin về mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước, với thị trường và với nội bộ doanh nghiệp, phân tích tài chính cho thấy những điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhờ đó, những người quan tâm đến hoạt động của công ty sẽ có các biện pháp và quyết định phù hợp.
Phân tích tài chính cung cấp những thông tin hữu ích giúp kiểm tra phân tích một cách tổng hợp, toàn diện, có hệ thống về tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Những người quản lý tài chính khi phân tích tài chính cần cân nhắc tính toán tới mức rủi ro và tác động của nó tới doanh nghiệp mà biểu hiện chính là khả năng thanh toán, đánh giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các dự đoán về kết quả hoạt động kinh doanh nói chung, mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Ngoài ra, phân tích tài chính còn cung cấp những thông tin số liệu để kiểm tra giám sát tình hình hạch toán kinh doanh, tình hình chấp hành các chính sách chế độ kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của xã hội thì việc phân tích tài chính càng trở nên quan trọng, bởi công tác phân tích tài chính ngày càng cho thấy sự cần thiết của nó đối với sự phát triển doanh nghiệp. Phân tích tài chính cho thấy khả năng và tiềm năng kinh tế tài chính của doanh nghiệp, do đó sẽ giúp cho công tác dự báo, lập kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn, dễ dàng đưa ra các chính sách tạo điều kiện cho công ty hoạt động.
Trước đây, việc phân tích tài chính chỉ để phục vụ cho nhu cầu cho các nhà đầu tư và các ngân hàng. Hiện nay việc phân tích tài chính được rất nhiều đối tượng quan tâm. Tùy theo mục đích khác nhau của người sử dụng mà phân tích tài chính sẽ có những vai trò khác nhau:
Đối với những người quản lý doanh nghiệp
Hoạt động phân tích tài chính của những người quản lý doanh nghiệp được gọi là phân tích tài chính nội bộ. Do ở doanh nghiệp họ nắm được đầy đủ và chính xác các thông tin, kèm theo sự hiểu rõ về doanh nghiệp nên họ có lợi thế để phân tích tài chính một cách tốt nhất. Phân tích tài chính có ý nghĩa để dự báo tài chính và là cơ sở cho các nhà quản lý đưa ra quyết định phù hợp không chỉ trong vấn đề tài chính mà còn nhiều vấn đề khác. Phân tích tài chính nội bộ thực sự cần thiết để xác định giá trị kinh tế, các mặt mạnh, yếu và đưa ra những quyết định đúng đắn cho sự phát triển của một doanh nghiệp.
Đối với các cơ quan chức năng, cơ quan Nhà nước có liên quan
Dựa vào các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để phân tích đánh giá, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước hay không, có tuân theo pháp luật hay không đồng thời sự giám sát này giúp cơ quan thẩm quyền có thể hoạch định chính sách một cách phù hợp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả. Giúp Nhà nước đưa những kế hoạnh phát triển ở tầm vĩ mô sao cho mang lại lợi ích thiết thực nhất.
Đối với các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư là các doanh nghiệp và cá nhân quan tâm trực tiếp đến các giá trị của doanh nghiệp vì họ là người đã giao vốn cho doanh nghiệp và có thể phải chịu rủi ro. Thu nhập của họ là tiền chia lợi tức và giá trị gia tăng thêm của vốn đầu tư. Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư thường không hài lòng với lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được theo tính toán trên sổ sách. Dự kiến trước lợi nhuận sẽ đạt được là mối quan tâm thực sự của nhà đầu tư. Thông qua sự phân tích dựa trên các báo cáo tài chính, phân tích khả năng sinh lời, mức độ rủi ro và sự phân tích diễn biến giá cả, các nhà đầu tư sẽ đưa ra các quyết định của chính mình.
Đối với ngân hàng, các nhà cho vay tín dụng, các đối tác kinh doanh và các tổ chức khác
Những đối tượng này quan tâm đến khả năng thanh toán công nợ, khả năng hợp tác liên doanh của doanh nghiệp, cho nên cũng cần phân tích và đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các chủ nợ, họ quan tâm tới khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp nếu đó là các khoản vay ngắn hạn, đối với khoản vay dài hạn họ phải tin chắc khả năng hoàn trả khi xem xét khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Song quan trọng nhất đó là cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của doanh nghiệp đi vay. Các đối tác kinh doanh còn xem xét đến khả năng hợp tác của doanh nghiệp thông qua tình hình chấp hành các chế độ, khả năng, tiềm năng kinh tế tài chính của doanh nghiệp.
Đối với những người hưởng lương trong doanh nghiệp
Những người hưởng lương trong doanh nghiệp cũng quan tâm đến tình hình tài chính, bởi lợi ích của họ gắn liền với hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Người lao động quan tâm đến các thông tin và số liệu tài chính để đánh giá, xem xét triển vọng của nó trong tương lai. Những người đi tìm việc đều có nguyện vọng được vào làm việc trong các công ty có triển vọng với tương lai lâu dài để hy vọng có mức lương xứng đáng và chỗ làm việc ổn định.
Những nhà phân tích tài chính nghiên cứu và đưa ra các dự đoán về kết quả của hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng trong tương lai. Phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính. Ngoài ra phân tích tài chính được ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau: Đưa ra quyết định phục vụ nghiên cứu hay để kiểm tra giám sát chặt chẽ hơn. Hiện nay với sự phát triển lớn mạnh của doanh nghiệp cùng với quá trình cạnh tranh khốc liệt thì phải có chiến lược kinh doanh cụ thể hợp lý và chính xác. Phân tích tài chính sẽ có tác dụng to lớn trong việc thực hiện điều đó.
Như vậy, có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới những gốc độ khác nhau. Song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra các dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa, Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu nhất định:
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp cho các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin khác trong việc đánh giá khả năng và tính chắc chắn của dòng tiền mặt vào, ra và tình hình sử dụng có hiệu quả nhất vốn kinh doanh, tình hình khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp phải cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sự kiện và các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của công ty.
1.2.5. Nhiệm vụ của phân tích tài chính doanh nghiệp
- Đánh giá tình hình sử dụng vốn, nguồn vốn như: xem xét việc phân bổ vốn, nguồn vốn có hợp lý hay không? Xem xét mức độ đảm bảo vốn cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, phát hiện những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thừa, thiếu vốn.
- Đánh giá tình hình thanh toán, khả năng thanh toán của doanh nghiệp, tình hình chấp hành các chế độ, chính sách tài chính, tín dụng của Nhà nước.
- Đánh giá hiệu quả việc sử dụng vốn.
- Phát hiện khả năng tiềm tàng, đề ra các biện pháp động viên, khai thác khả năng tiềm tàng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.3. NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.3.1. Khái quát về nội dung phân tích
Từ khi nước ta chuyển qua nền kinh tế thị trường phân tích tài chính doanh nghiệp được nghiên cứu từ rất nhiều nhà lý luận cũng như các nhà quản lý. Nội dung chính của các nhà nghiên cứu đều xuất phát từ mục tiêu của phân tích tài chính là giúp người sử dụng thông tin có căn cứ để lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu nhất, tuy nhiên quan điểm về nội dung phân tích tài chính còn nhiều quan điểm khác nhau. Có thể nêu ra một số quan điểm sau:
* Quan điểm thứ nhất: Trong cuốn “Phân tích hoạt động doanh nghiệp’’ (Nhà xuất bản thống kê năm 2005) tác giả Nguyễn Tấn Bình cho rằng phân tích tài chính có thể xem gần như phân tích báo cáo tài chính. Phân tích báo cáo tài chính thông qua các thông tin được thiết kế sẳn cũng như thông qua hệ thống chỉ tiêu được xây dựng dựa trên các báo cáo tài chính để đánh giá tình hình tài chính (phân tích các nhóm chỉ tiêu chủ yếu (nhóm chỉ tiêu thanh toán, nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, nhóm chỉ tiêu lợi nhuận, và nhóm chỉ tiêu cơ cấu tài chính) và phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ [1, 205-206]
* Quan điểm thứ hai: TS Phạm Thị Gái - Nhà khoa học của khoa kế toán - Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội đã cụ thể nội dung phân tích bao gồm: [6,246-247]
+ Đánh giá khái quát tình hình tài chính
+ Phân tích cơ cấu nguồn vốn và tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Phân tích tình hình khả năng thanh toán
+ Phân tích hiệu quả sử dụng vốn
+ Dự báo nhu cầu tài chính
* Quan điểm thứ ba: Quan điểm của các chuyên viên Vụ chế độ kế toán và kiểm toán - Bộ tài chính cho rằng phân tích tài chính gồm những nội dung không khác nhiều so với các nhà khoa học của khoa kế toán - Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội [ 16,425], cụ thể phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm:
+ Đánh giá khái quát tình hình tài chính
+ Phân tích nguồn vốn và chính sách huy động vốn
+ Phân tích tình hình khả năng thanh toán
+ Phân tích hiệu quả kinh doanh
+ Dự báo nhu cầu tài chính.
* Quan điểm thứ tư: Các nhà khoa học viện đại học mở Hà nội, đánh giá tình hình tài chính nhằm giúp người sử dụng thông tin đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, nội dung cơ bản của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp gồm [26, 249 - 250]
+ Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp
+ Phân tích các tỷ suất hay cơ cấu tài chính
+ Phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
+ Phân tích khả năng thanh toán nợ phải thu
+ Phân tích tốc độ chu chuyển vốn hàng hoá
+ Phân tích mức độ sinh lời của hoạt động kinh doanh.
* Quan điểm thứ năm: Quan điểm của đại học kinh tế quản trị kinh doanh Đà Nẵng phân tích tài chính gồm [12,14-16]
+ Phân tích cấu trúc tài chính và cân bằng tài chính
+ Phân tích hiệu quả hoạt động doanh nghiệp
+ Phân tích rủi ro doanh nghiệp
+ Phân tích giá trị doanh nghiệp
Như vậy, qua năm quan điểm đã trình bày, nội dung phân tích tài chính theo quan điểm của đại học kinh tế quản trị kinh doanh Đà Nẵng phân tích tài chính không có nội dung đánh giá khái quát tình hình tài chính nhưng lại có nội dung: Phân tích rủi ro doanh nghiệp và Phân tích giá trị doanh nghiệp.
Theo tôi, mục đích quan trọng nhất của phân tích tài chính là giúp các nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp đánh giá được chính xác tình hình tài chính doanh nghiệp, nắm vững tiềm năng, xác định khả năng thanh toán và hiệu quả kinh doanh, và rủi ro trong tương lai, dự báo được tình hình tài chính đề ra quyết định chính xác, vì vậy phù hợp với nội dung phân tích tình hình tài chính sử dụng trong luận văn này bao gồm:
(1) Phân tích khái quát tình hình tài chính
(2) Phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
(3) Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
(4) Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp
(5) Phân tích hiệu quả kinh doanh
(6) Phân tích hệ số lãi ròng (ROS )
(7) Phân tích suất sinh lời của tài sản (ROA)
(8) Phân tích khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)
(9) Phân tích đòn bẩy tài chính (FL)
(10) Dự báo nhu cầu tài chính.
1.3.2. Đánh giá khái quát tình hình tài chính
Đánh giá khái quát tình hình tài chính. Là việc xem xét, nhận định sơ bộ bước đầu về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Việc đánh giá này cung cấp thông tin một cách tổng quát về thực trạng và sức mạnh tài chính của doanh nghiệp, từ đó biết được mức độ độc lập về mặt tài chính và những khó khăn mà doanh nghiệp đang phải đương đầu.
Đánh giá khái quát tình hình tài chính được thực hiện bằng cách tính ra và so sánh giữa kỳ phân tích và kỳ gốc các chỉ tiêu sau:
+ Tổng số nguồn vốn
Tổng nguồn vốn phản ánh toàn bộ nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán, nó cho biết khả năng huy động vốn từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào sự tăng lên hay giảm đi của tổng nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu kỳ thì chưa thể đánh giá sâu sắc và toàn diện tình hình tài chính của doanh nghiệp được.
+ Hệ số tài trợ
Đây là chỉ tiêu phản ánh mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp, nó cho biết trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu phần. Các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp để thực hiện mức độ tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro xảy ra trong sản xuất kinh doanh chủ yếu có các chủ nợ gánh chịu. Do vậy, trị số của chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+ Hệ số tự tài trợ
Chỉ tiêu này cho biết mức độ đầu tư vốn chủ sở hữu vào tài sản dài hạn là bao nhiêu. Trị số của chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ tài sản dài hạn chủ yếu được đầu tư bằng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Tuy nhiên chỉ tiêu này quá cao cũng là không tốt vì khi đó, do vốn đầu tư chủ yếu vào tài sản dài hạn, ít sử dụng vào kinh doanh quay vòng để sinh lợi nên hiệu quả kinh doanh không cao.
+ Hệ số khả năng thanh toán hiện hành
Hệ số khả năng thanh toán hiện hành là một chỉ số tổng quát về khả năng chi trả nợ của một doanh nghiệp, nó cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng tài sản để đảm bảo cho một đồng nợ phải trả. Hệ số khả năng thanh toán hiện hành càng cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng được tin tưởng và ngược lại. Trị số của chỉ tiêu này thông thường được chấp nhận là 1, nghĩa là, nếu lớn hơn 1 thì doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán, còn nếu càng nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán.
+ Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn là tiền mặt và các dạng tài sản có tính thanh khoản cao (dễ chuyển thành tiền). Nợ ngắn hạn là những khoản nợ cần phải thanh toán trong thời gian ngắn. Một doanh nghiệp sáng suốt cần phải duy trì đủ tài sản ngắn hạn để đảm bảo thanh toán kịp thời các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn chính là thước đo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của Nhà nước với tổng số tài sản ngắn hạn hiện có. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao và tình hình tài chính là bình thường hay khả quan; ngược lại, nếu nhỏ hơn 1 thì khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là thấp.
+ Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Tài sản ngắn hạn không phải lúc nào cũng dễ dàng chuyển đổi thành tiền, khả năng thanh toán của doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng nhiều nếu giá trị hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn và nhiều khả năng không thể bán lấy tiền mặt hoặc tỷ lệ khoản phải thu cao. Do đó, để kiểm tra khả năng thanh toán một cách chặt chẽ hơn, các nhà phân tích thường dùng chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh toán nhanh”. Chỉ tiêu này cho biết với số vốn bằng tiền hiện có (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng...) và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn 0,5 thì doanh nghiệp được coi là đủ khả năng thanh toán. Nếu trị số của chỉ tiêu này nhỏ, thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ.
+ Hệ số khả năng thanh toán của tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản ngắn hạn, từ đó biết được doanh nghiệp có đủ tiền để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của mình hay không.
Nói chung, chỉ tiêu này quá cao hay quá thấp cũng đều không tốt vì nếu quá cao, tiền và các khoản tương đương tiền quá nhiều, doanh nghiệp thừa khả năng thanh toán nhưng gây ứ đọng vốn, và ngược lại, nếu quá thấp sẽ không đảm bảo khả năng thanh toán.
+ Tỷ suất đầu tư
Tỷ suất đầu tư phản ánh tỷ trọng của tài sản dài hạn chiếm trong tổng số tài sản, nó phản ánh cấu trúc tài sản của doanh nghiệp. Tỷ suất này cao hay thấp là phụ thuộc chủ yếu vào ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn với ngành công nghiệp thăm dò và khai thác dầu khí hay ngành luyện kim thì tỷ suất này tương đối lớn trong khi đó, ở ngành công nghiệp chế biến thực phẩm tỷ suất này thấp hơn rất nhiều.
+ Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định đầu tư vào doanh nghiệp, nó cho biết một đơn vị vốn chủ sở hữu đầu tư vào kinh doanh thì đem lại mấy đơn vị lợi nhuận sau thuế. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng.
Khi tính chỉ tiêu này, nhà phân tích sử dụng vốn chủ sở hữu bình quân chứ không phải là vốn chủ sở hữu vì đây là kết quả của một kỳ kinh doanh nên không thể lấy trị số của vốn chủ sở hữu tại một thời điểm mà phải sử dụng trị số bình quân của kỳ.
1.3.3. Phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và mối quan hệ giữa tài sản với nguồn vốn
* Phân tích cơ cấu tài sản
Phân tích cơ cấu tài sản giúp người phân tích tìm hiểu sự thay đổi về giá trị, tỷ trọng của tài sản qua các thời kỳ như thế nào, sự thay đổi này bắt nguồn từ những dấu hiệu tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất kinh doanh, có phù hợp với việc nâng cao năng lực kinh tế để phục vụ cho chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không. Ngoài ra, việc phân tích này còn cung cấp cho nhà phân tích nhìn về quá khứ tìm kiếm một xu hướng, bản chất sự biến động tài sản của doanh nghiệp.
Khi phân tích cơ cấu tài sản, ngoài việc so sánh sự biến động trên tổng số tài sản và từng loại tài sản (tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn, các khoản phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho,...) giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, các nhà phân tích còn tính ra và so sánh tỷ trọng của từng loại tài sản chiếm trong tổng số, từ đó thấy được xu hướng biến động và mức độ hợp lý của việc phân bổ.
* Phân tích cơ cấu nguồn vốn
Phân tích cơ cấu nguồn vốn nhằm giúp nhà phân tích tìm hiểu được sự thay đổi về giá trị, tỷ trọng của nguồn vốn qua các thời kỳ. Sự thay đổi này bắt nguồn từ những dấu hiệu tích cực hay thụ động trong quá trình sản xuất kinh doanh, có phù hợp với việc nâng cao năng lực tài chính, tính tự chủ tài chính, khả năng tận dụng, khai thác nguồn vốn trên thị trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay không cũng như có phù hợp với chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không ? Phân tích cơ cấu nguồn vốn cung cấp thông tin cho người phân tích sự thay đổi nguồn vốn, một xu hướng cơ cấu nguồn vốn hợp lý trong tương lai.
Việc phân tích cơ cấu nguồn vốn cũng được tiến hành tương tự như việc phân tích cơ cấu tài sản. Cùng với việc so sánh tổng nguồn vốn cũng như từng loại nguồn vốn giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, các nhà phân tích còn tính ra và so sánh tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số, từ đó thấy được xu hướng biến động, mức độ hợp lý và tính tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
* Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn.
Mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn thể hiện sự tương quan về giá trị tài sản và cơ cấu vốn của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Phân tích mối quan hệ này giúp nhà phân tích phần nào nhận thức được sự hợp lý giữa nguồn vốn doanh nghiệp huy động và sử dụng cùng trong đầu tư, mua sắm, dự trữ, và sử dụng có hợp lý, hiệu quả hay không.
Khi phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn, nhà phân tích cần tính ra và so sánh các chỉ tiêu sau:
+ Hệ số nợ so với tài sản
Chỉ tiêu này cho biết mức độ doanh nghiệp dùng các khoản nợ đầu tư cho tài sản là bao nhiêu. Thông thường các chủ nợ thích hệ số này vừa phải vì khi đó các khoản nợ của họ được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích hệ số nợ cao vì họ muốn gia tăng lợi nhuận nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Hệ số nợ cao, mức độ an toàn tài chính giảm đi, mức độ rủi ro cao hơn và có thể doanh nghiệp sẽ bị lỗ nặng nếu hoạt động sản xuất kinh doanh không ổn định, nhưng doanh nghiệp cũng có khả năng thu lợi nhuận cao khi điều kiện kinh tế thuận lợi. Dù vậy, nếu hệ số này quá cao thì doanh nghiệp sẽ dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và không thể kiểm soát được hoạt động của mình. Vì vậy, để vừa đảm bảo khả năng gia tăng lợi nhuận cao vừa giảm thiểu rủi ro khi đưa ra các quyết định tài chính, doanh nghiệp cần xem xét mức độ cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận.
+ Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu
Đây là chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư tài sản của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1, chứng tỏ tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu càng ít làm cho khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng kém và ngược lại.
1.3.4. Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh
Bất kỳ một doanh nghiệp nào để đi vào hoạt động thì cũng phải huy động được một lượng vốn chủ sở hữu đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu về tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Quá trình hoạt động của doanh nghiệp sẽ tiếp tục hình thành nên các khoản chiếm dụng vốn tạm thời, vốn vay ngắn hạn, vốn vay dài hạn đồng thời với sự tích luỹ dần về vốn chủ sở hữu. Thực chất của phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh là việc xem xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản, nói cách khác là việc phân tích cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
* Phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Nguồn tài trợ tương ứng cho hai loại tài sản này là nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn trong doanh nghiệp bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, còn nguồn vốn dài hạn bao gồm nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành tài sản dài hạn, nguồn vốn ngắn hạn và phần dư của nguồn vốn dài hạn được đầu tư vào tài sản ngắn hạn.
Trong mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, sẽ là hợp lý nếu tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn vì điều này chứng tỏ doanh nghiệp giữ vững mối quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, sử dụng đúng mục đích nợ ngắn hạn. Đồng thời nó cũng chỉ ra một sự hợp lý trong chu kỳ luân chuyển tài sản ngắn hạn với chu kỳ thanh toán nợ ngắn hạn. Ngược lại, nếu tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ ngắn hạn thì đây là dấu hiệu cho thấy một phần nguồn vốn ngắn hạn đã được đầu tư vào tài sản dài hạn. Khi đó, chu kỳ luân chuyển tài sản khác với chu kỳ thanh toán nên dễ dẫn đến những vi phạm nguyên tắc tín dụng và có thể đưa đến một hệ quả tài chính không tốt.
Trong mối quan hệ giữa tài sản dài hạn với nợ dài hạn, nếu tài sản dài hạn lớn hơn nợ dài hạn và phần thiếu hụt được bù đắp từ vốn chủ sở hữu thì là điều hợp lý vì khi đó doanh nghiệp đã sử dụng đúng mục đích nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, nếu phần thiếu hụt được bù đắp bằng nợ ngắn hạn thì lại bất hợp lý vì nó làm mất cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Nếu tài sản dài hạn nhỏ hơn nợ dài hạn thì chứng tỏ một phần nợ dài hạn đã được chuyển vào tài trợ tài sản ngắn hạn. Điều này vừa làm lãng phí chi phí lãi vay nợ dài hạn vừa thể hiện sử dụng sai mục đích nợ dài hạn.
Ngoài ra, khi phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, người phân tích cũng cần chú trọng đến vốn hoạt động thuần (còn gọi là vốn ngắn hạn thường xuyên) là số vốn mà doanh nghiệp không cần phải vay mượn hay đi chiếm dụng, được sử dụng để duy trì những hoạt động bình thường, diễn ra thường xuyên tại doanh nghiệp. Vốn hoạt động thuần có thể tính theo một trong hai cách sau: [2,202 - 205].
Vốn hoạt động thuần = Tài sản ngắn hạn - Nợ ngắn hạn
Hoặc :
=
Vốn hoạt
động thuần
-
Nguồn tài trợ
thường xuyên
Tài sản
dài hạn
Trong đó, nguồn tài trợ thường xuyên là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng thường xuyên lâu dài, bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay, nợ dài hạn, trung hạn.
Nếu vốn hoạt động thuần lớn hơn 0 thì đây là dấu hiệu tài chính bình thường hay khả quan, thể hiện sự cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nguồn vốn ngắn hạn hoặc cân đối giữa nguồn vốn dài hạn với tài sản dài hạn. Cân bằng tài chính trong trường hợp này gọi là cân bằng tốt.
Ngược lại nhỏ hơn 0 sẽ thể hiện một sự mất cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn và mất cân đối giữa nguồn tài trợ thường xuyên với tài sản dài hạn. Điều này chỉ ra rằng doanh nghiệp dùng nguồn tài trợ tạm thời cho cả tài sản dài hạn và nếu tình trạng này kéo dài thì có thể dẫn đến tình trạng tài chính của doanh nghiệp có thể mất dần và đi đến bờ vực phá sản. Và tất nhiên, cân bằng tài chính trong trường hợp này là cân bằng xấu.
* Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh.
Để phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh, nhà phân tích cần tính ra và so sánh các chỉ tiêu sau:
+ Hệ số tài trợ thường xuyên
Hệ số này cho biết, so với tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn tài trợ thường xuyên chiếm mấy phần. Trị số này càng lớn chứng tỏ tính ổn định về tài chính càng cao và ngược lạị
+ Hệ số tài trợ tạm thời
Nguồn tài trợ tạm thời là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong một thời gian ngắn. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay nợ ngắn hạn, vay nợ quá hạn và các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, người mua, người lao động (mua hàng mà không có thanh toán, bán hàng mà không giao hàng, thuê công nhân mà không trả lương...).
Tương tự như hệ số tài trợ thường xuyên, hệ số tài trợ tạm thời cho biết, so với tổng nguồn tài trợ, nguồn tài trợ tạm thời chiếm mấy phần. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ tính ổn định về mặt tài chính của doanh nghiệp càng thấp và ngược lại.
+ Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thưòng xuyên
Thông qua chỉ tiêu này, nhà phân tích thấy được trong tổng số nguồn tài trợ thường xuyên, số vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn thì tính tự chủ và độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
+Hệ số tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn
Với chỉ tiêu này người phân tích biết mức độ tài trợ tài sản ngắn hạn bằng nợ ngắn hạn là cao hay thấp. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1 thì tính ổn định và bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
1.3.5. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
* Phân tích tình hình thanh toán
Chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu phụ thuộc chủ yếu vào tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Nếu hoạt động tốt, doanh nghiệp sẽ có ít công nợ, ít bị chiếm dụng vốn và cũng ít đi chiếm dụng vốn. Ngược lại, nếu hoạt động tài chính kém, doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với các khoản công nợ kéo dài. Phân tích tình hình thanh toán là việc xem xét tình hình thanh toán các khoản phải thu, phải trả của doanh nghiệp, qua đó có thể đánh giá được chất lượng và hiệu quả hoạt động tài chính.
Để phân tích tình hình thanh toán các khoản phải thu, nhà phân tích trước tiên cần xem xét sự biến động các khoản nợ phải thu trên tổng số cũng như trên từng khoản nợ phải thu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc nhằm đánh giá chung tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Sau đó tính ra tỷ lệ các khoản phải thu so với tổng số các khoản nợ phải thu, phải trả.
Đây là chỉ tiêu nhằm đánh giá mối quan hệ giữa các khoản nợ phải thu với tổng số các khoản nợ phải thu, phải trả. Nó cho biết, trong tổng số các khoản nợ phải thu, phải trả thì nợ phải thu chiếm bao nhiêu %. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 50%, nghĩa là các khoản phải thu lớn hơn các khoản phải trả thì doanh nghiệp đang bị chiếm dụng vốn. Ngược lại thì doanh nghiệp đang chiếm dụng vốn của người khác. Chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn trong hoạt động kinh doanh là điều bình thường, tuy nhiên cần xem xét tính hợp lý để có biện pháp quản lý công nợ tốt hơn.
Để phân tích tình hình thanh toán các khoản nợ phải trả, nhà phân tích cần so sánh các khoản nợ phải trả trên tổng số cũng như trên từng khoản nợ phải trả kỳ phân tích so với kỳ gốc cả về số tuyệt đối và số tương đối, đồng thời phân tích thời hạn của các khoản nợ. Trên có sở đó, xác định nguyên nhân làm khê đọng các khoản công nợ và kiến nghị các giải pháp thiết thực nhằm giải quyết. Sau đó, tính ra tỷ lệ các khoản phải trả so với tổng số các khoản phải thu, phải trả.
Thực chất, chỉ tiêu này là nghịch đảo của chỉ tiêu “tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với tổng số các khoản nợ phải thu, phải trả”, nó phản ánh so với tổng số các khoản nợ phải thu, phải trả thì các khoản nợ phải trả chiếm bao nhiêu %.
Việc tiến hành phân tích đồng thời các khoản phải thu, phải trả sẽ giúp doanh nghiệp cân đối công nợ, tiến tới làm chủ tình hình tài chính của mình.
* Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Phân tích các khả năng thanh toán giúp nhà quản lý biết được sức mạnh tài chính hiện tại, tương lai, cũng như dự đoán được tiềm lực trong thanh toán và an ninh tài chính của doanh nghiệp. Tình hình tài chính lành mạnh có nghĩa doanh nghiệp có khả năng thanh toán được các khoản nợ ngắn hạn, các khoản nợ đến hạn và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp tốt. Việc không đảm bảo khả năng thanh toán có thể dẫn đến việc doanh nghiệp phải ngừng hoạt động hoặc gặp những vấn đề khó khăn như: hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp, không tận dụng được các cơ hội tốt và có thể bị mất quyền kiểm soát; mất lòng tin với các chủ nợ, và có thể phải đối mặt với các vấn đề pháp lý; khi lâm vào tình trạng thiếu khả năng thanh toán, doanh nghiệp có thể phải thay đổi các chính sách và điều kiện tín dụng thương mại làm ảnh hưởng đến doanh thu và thị phần...
Như vậy, việc duy trì và đảm bảo khả năng thanh toán là cơ sở để doanh nghiệp tăng thêm uy tín đối với các chủ nợ ngắn hạn (ngân hàng, nhà cung cấp...) đảm bảo các nhu cầu thanh toán, các cam kết trả nợ khi đến hạn, giảm chi phí tài chính khi có nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, việc duy trì mức thanh toán cao sẽ làm giảm khả năng sinh lời, do đó doanh nghiệp cần xác định một định mức thanh toán hợp lý để vừa bảo đảm được khả năng thanh toán vừa đạt tỷ lệ sinh lời cao nhất. Điều đó phụ thuộc vào hoạt động phân tích tài chính trong doanh nghiệp. Các hệ số thanh toán sẽ cung cấp cho nhà phân tích về khả năng thanh toán của doanh nghiệp ở một thời kỳ. Để phân tích khả năng thanh toán, ngoài các hệ số thanh toán như: hệ số khả năng thanh toán hiện hành, hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, hệ số khả năng thanh toán nhanh các nhà phân tích còn sử dụng hệ số khả năng thanh toán:
“Khả năng thanh toán” là số tiền có thể dùng để thanh toán; còn “Nhu cầu thanh toán” là số tiền phải thanh toán. Hệ số khả năng thanh toán phản ánh mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp. Hệ số khả năng thanh toán là cơ sở để đánh giá khả năng thanh toán và tình hình thanh toán của doanh nghiệp.
Nếu hệ số này lớn hơn 1, chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng trang trải hết công nợ, tình hình tài chính là ổn định khả quan. Ngược lại, nếu nhỏ hơn 1, doanh nghiệp không có khả năng trang trải hết công nợ, thực trạng tài chính của doanh nghiệp là không bình thường, tình hình tài chính của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và hoạt động tài chính bắt đầu có những dấu hiệu không lành mạnh. Trị số của chỉ tiêu càng nhỏ hơn 1, doanh nghiệp càng gặp nhiều khó khăn mất dần khả năng thanh toán và thậm chí có nguy cơ phá sản.
Để đánh giá khả năng thanh toán sử dụng các chỉ tiêu: Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn và hệ số thanh toán nhanh.
1.3.6. Phân tích hiệu quả kinh doanh
* Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn vốn của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Phân tích hiệu quả kinh doanh giúp các nhà quản lý có thể đánh giá được chính xác khả năng sinh lời và thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Để phân tích hiệu quả kinh doanh, ngoài việc xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về kết quả kinh doanh hiện hành với quá khứ, nhà phân tích còn phải sử dụng hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh doanh cho phù hợp. Về mặt tổng quát, các nhà phân tích thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
+ Sức sản xuất: Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị yếu tố đầu vào thì đem lại mấy đơn vị kết quả sản xuất đầu ra. Trị số của chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
Đầu ra phản ánh kết quả sản xuất có thể là: Tổng giá trị sản xuất, doanh thu thuần từ hoạt động bán hàng, tổng số luân chuyển thuần...; còn Yếu tố đầu vào bao gồm lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu, vốn vay... Việc sử dụng chỉ tiêu nào là tuỳ thuộc vào mục đích các nhà phân tích.
+ Sức sinh lợi: Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị yếu tố đầu vào đem lại mấy đơn vị lợi nhuận. Trị số của chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ khả năng sinh lời càng cao, từ đó kéo theo hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
+ Suất hao phí: Đây là chỉ tiêu cho biết để có một đơn vị đầu ra phản ánh kết quả sản xuất hay đầu ra phản ánh lợi nhuận thì cần mấy đơn vị yếu tố đầu vào. Trị số của chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh doanh càng thấp và ngược lại.
Trên cơ sở các chỉ tiêu tổng quát trên, nhà phân tích có thể xây dựng được hệ thống chỉ tiêu chi tiết phản ánh hiệu quả sử dụng từng yếu tố, từng loại tài sản cũng như từng loại vốn.
Từ chỉ tiêu tổng quát “Sức sản xuất”, nhà phân tích có thể tính được các chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất của các yếu tố đầu vào như: sức sản xuất của tổng tài sản, sức sản xuất của tài sản dài hạn, sức sản xuất của tài sản cố định, sức sản xuất của tài sản ngắn hạn, sức sản xuất của vốn chủ sở hữu, sức sản xuất của vốn vay...
Tuỳ thuộc vào nguồn tài liệu và mục đích phân tích, nhà phân tích sẽ xác định những chỉ tiêu cần thiết phục vụ cho việc phân tích.
Tương tự như vậy, từ chỉ tiêu tổng “Sức sinh lợi”, nhà phân tích cũng tính được các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của các yếu tố đầu vào như: sức sinh lời của tổng tài sản, sức sinh lời của tài sản dài hạn, sức sinh lời của tài sản cố định, sức sinh lời của tài sản ngắn hạn, sức sinh lời của vốn chủ sở hữu, sức sinh lời của vốn vay...
Cuối cùng, từ chỉ tiêu tổng quát “Suất hao phí”, nhà phân tích tính được các chỉ tiêu phản ánh về sức hao phí của các yếu tố đầu vào như: sức hao phí của tổng tài sản, suất hao phí của tài sản dài hạn, suất hao phí của tài sản cố định, suất hao phí của tài sản ngắn hạn, suất hao phí vốn chủ sở hữu, suất hao phí của vốn vay ... Ngoài việc xem xét các chỉ tiêu chủ yếu trên phần I Báo cáo kết quả kinh doanh, khi phân tích hiệu quả kinh doanh, chúng ta cần phân tích tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản.
* Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản
Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản là một nội dung quan trọng trong phân tích hiệu quả kinh doanh nói riêng và phân tích tài chính nói chung. Căn cứ vào phần lý luận về phân tích hiệu quả kinh doanh kết hợp với đặc điểm kinh doanh của Công ty, nên phân tích hiệu quả sử dụng tài sản trên cơ sở các chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất của tổng tài sản cũng như của từng thành phần tài sản như: số vòng quay của tổng tài sản, thời gian một vòng quay tổng tài sản...
Nếu số vòng quay của tổng tài sản càng lớn và số ngày một vòng quay càng nhỏ thể hiện khả năng thu hồi vốn của Công ty càng nhanh. Điều này tạo điều kiện giúp Công ty hạn chế bớt vốn dự trữ cũng như ít bị chiếm dụng vốn. Ngược lại nếu số vòng quay của tài sản càng nhỏ hoặc số ngày một vòng quay càng lớn thì khả năng thu hồi vốn của Công ty càng chậm, dẫn đến việc Công ty bị chiếm dụng, khó thu hồi vốn và khó có điều kiện tích luỹ.
1.3.7. Hệ số lãi ròng
Lãi ròng ở đây được hiểu là lợi nhuận sau thuế, hệ số lãi ròng hay còn gọi là suất sinh lời của doanh thu ( ROS) thể hiện một đồng doanh thu có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.
* Hệ số chi trả lãi vay
Hệ số này cho biết mức độ lợi nhuận của doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc doanh nghiệp không trả được các khoản nợ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Nếu hệ số này nhỏ hơn 1, nghĩa là tử số nhỏ hơn mẫu số thì khi đó, lợi nhuận trước thuế nhỏ hơn 0, doanh nghiệp kinh doanh bị lỗ, lợi nhuận thu được không đủ chi trả lãi vay.
Nếu hệ số này bằng 1, tuy doanh nghiệp chỉ trả được lãi vay nhưng không còn để nộp Ngân sách và chia cho các thành viên nữa. Cuối cùng, nếu hệ số này lớn hơn 1, doanh nghiệp kinh doanh có lãi, lợi nhuận thu được bù đắp được lãi vay, vừa còn để nộp ngân sách, có thể còn dôi ra để tích luỹ và chia cho các thành viên.
1.3.8. Phân tích khả năng suất sinh lời của tài sản (ROA)
Hệ số suất sinh lời của tài sản - ROA: Cho chúng ta biết một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Hệ số này càng cao thể hiện sự sắp xếp, phân bổ và quản lý tài sản càng hợp lý và hiệu quả.
1.3.9. Phân tích khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE)
Khi phân tích khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, cho biết cứ một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao thường giúp cho các nhà quản trị có thể đi huy động vốn mới trên thị trường tài chính để tài trợ cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Ngược lại nếu chỉ tiêu này nhỏ và vốn chủ sở hữu dưới mức vốn điều lệ thì hiệu quả kinh doanh thấp, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thu hút vốn. Tuy nhiên sức sinh lời của vốn chủ sở hữu cao không phải lúc nào cũng thuận lợi vì có thể là do ảnh hưởng của vốn chủ sở hữu nhỏ mà vốn chủ sở hữu nhỏ mà vốn chủ sở hữu càng nhỏ thì mức độ mạo hiểm càng lớn.
1.3.10. Đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính hay đòn cân tài chính hay đòn cân nợ (FL) là chỉ tiêu thể hiện cơ cấu tài chính của Công ty. Đòn bẩy tài chính càng lớn càng có sức mạnh làm cho suất sinh lời của vốn chủ sở hữu tăng cao khi hoạt động hiệu quả, ngược lại chính đòn bẩy tài chính lớn sẽ là động lực làm giảm mạnh suất sinh lời của vốn chủ sở hữu khi khối lượng hoạt động giảm.
1.3.11. Dự báo nhu cầu tài chính
Dự báo nhu cầu tài chính về thực chất là dự báo nhu cầu về vốn để định hướng cho việc lập kế hoạch kinh doanh cũng như hoạch định chiến lược kinh doanh.
Khi lập kế hoạch kinh doanh, nhà phân tích cần dự kiến được mức doanh thu tiêu thụ, và để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có một số vốn nhất định. Nhu cầu về vốn mà doanh nghiệp có khả năng sử dụng nhiều hay ít phụ thuộc vào mức doanh thu tiêu thụ lớn hay nhỏ. Vì vậy, để dự báo nhu cầu về vốn nhà phân tích có thể dựa vào số liệu thống kê của các năm trước để dự đoán nhu cầu tài chính của kỳ tiếp theo. Trên cơ sở đó tiến hành ước tính số vốn mà doanh nghiệp có thể tự trang trãi hay tìm cách huy động từ bên ngoài [20, 311, - 313].
- Phân tích tài chính với việc lập kế hoạch kinh doanh và dự đoán nhu cầu tài chính
Tùy theo mục đích của nhà phân tích, các chỉ tiêu sẽ được lựa chọn sắp xếp tính toán theo góc độ phân tích của họ. Việc xác định các chỉ tiêu này chỉ mang lại cho ta những nhận xét sơ bộ và đơn lẽ. Vì vậy để thực hiện tốt mục tiêu phân tích đòi hỏi các nhà phân tích phải đưa ra được sự tổng hợp các chỉ tiêu tài chính. Công việc này giúp cho các nhà phân tích tài chính đưa ra những nhận xét đúng đắn và hợp lí.
Để đánh giá tổng hợp quá trình phân tích, sau khi phân tích các chỉ tiêu tài chính chủ yếu, nhà phân tích tiến hành lựa chọn và sắp sếp các chỉ tiêu để lập bảng so sánh, đánh giá tùy theo mục đích nghiên cứu của mình. Nhìn chung, đối với những người phân tích tài chính.
Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, cổ đông, đối với các cơ quan quản lý cấp trên... phân tích tài chính làm sáng tỏ tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, trên cơ sở đó đưa ra những dự báo về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong tương lai. Các dự báo tài chính sẽ giúp các nhà phân tích tài chính đưa ra được những kế hoạch trong chiến lược kinh doanh như: Hoạch định chiến lược dài hạn bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: hoạch định chiến thuật đề ra những kế hoạch trong ngắn hạn và trung hạn triển khai các kế hoạch dài hạn, hoạch định tài chính cho các hoạt động hằng ngày.
Ngày nay như chúng ta đã biết cạnh tranh xảy ra rất quyết liệt trong mọi lĩnh vực kinh doanh. Để chiến thắng trong các cuộc cạnh tranh hoặc tạo ra lợi thế trên thị trường thì doanh nghiệp phải thu thập, cập nhật thông tin và đặc biệt phải có mối quan hệ rộng rãi. Bù lại chi phí dành cho thu thập và cập nhật thông tin, một nguồn thông tin hiệu quả có thể mang lại một hiệu quả kinh tế rất cao cho một doanh nghiệp chính vì vậy mà một doanh nghiệp lớn thì chi phí cho thu thập và cập nhật thông tin cao nhưng chính những doanh nghiệp đó lại có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.
Tóm lại, công tác phân tích tài chính đóng một vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp. Công tác phân tích tài chính giúp cho doanh nghiệp định ra các kế hoạch cho doanh nghiệp trong tương lai gần cũng như lâu dài. Việc dự báo tài chính thông qua công tác phân tích tài chính còn cho doanh nghiệp có khả năng ra các quyết định tài chính như quyết định đầu tư, nhận tài trợ, chiến lược kinh doanh...
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.4.1. Nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.4.1.1. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp
Con người vừa với tư cách là chủ thể của quá trình sản xuất vừa là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, luôn là yếu tố quan trọng bậc nhất và có tính quyết định đến hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Mặc dầu ngày nay kỹ thuật và công nghệ đã can thiệp hoặc thay thế được lao động của con người trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, dù công nghệ, dù kỹ thuật có tân tiến đến đâu thì nó cũng chỉ là công cụ, là phương tiện để giúp con người trong hoạt động. Yếu tố con người quyết định mọi thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Sự phát triển nền kinh tế tri thức, đòi hỏi lực lượng lao động phải có hàm lượng khoa học, kỹ thuật và công nghệ rất cao. Điều này một lần nữa khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của lực lượng lao động trong việc hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4.1.2. Trình độ về công nghệ - kỹ thuật của doanh nghiệp
Công nghệ là yếu tố cơ bản đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp một cách vững chắc. Các doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật công nghệ cao thường có lợi thế to lớn trong cạnh tranh, mở rộng thị phần và nâng cao năng lực tài chính. Các doanh nghiệp cần phải nắm bắt những thông tin liên quan đến sự biến đổi đang diễn ra của yếu tố kỹ thuật - công nghệ để có chiến lược ứng dụng vào hoạt động SXKD của doanh nghiệp mình một cách có hiệu quả nhất.
1.4.1.3. Hệ thống thông tin
Thông tin được coi là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh, nền kinh tế thị trường hiện nay là nền kinh tế thông tin hoá. Để kinh doanh thành công trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp rất cần nhiều thông tin chính xác về thị trường, về công nghệ, về người mua và người bán, thông tin của các đối thủ cạnh tranh, thông tin về môi trường kinh doanh,... Không những thế, các doanh nghiệp còn phải biết về kinh nghiệm thành công, thất bại của các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, biết được thông tin về những thay đổi chính sách kinh tế của Nhà nước và của các nước có liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
Thông tin kịp thời và chính xác sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng kế hoạch kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định kinh doanh ngắn hạn. Vì vậy, không còn cách nào khác ngoài việc phải có đủ thông tin, đặc biệt là thông tin kinh tế, bởi nó được coi như huyết mạch của các doanh nghiệp và của các tổ chức kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế mở hiện nay, cùng với xu thế toàn cầu hoá thì việc nắm bắt kịp thời, đầy đủ và chính xác những thông tin về nhu cầu thị trường, kỹ thuật công nghệ, về chính sách đường lối của Nhà nước, các thông tin về đối thủ cạnh tranh,...là rất cần thiết. Có như vậy thì doanh nghiệp sẽ nắm bắt thời cơ kinh doanh, hạn chế những rủi ro, chủ động trước mọi tình huống có thể xảy ra.
1.4.1.4. Đặc điểm của ngành sản xuất vật liệu
Đặc trưng của ngành sản xuất vật liệu xây dựng là một ngành kinh tế thâm dụng vốn, các tài sản của nó là những tài sản nặng vốn và chi phí cố định của ngành khá cao.
Đặc tính nổi bật của ngành là nhạy cảm với chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế tăng trưởng, doanh số và lợi nhuận của các công ty trong ngành sẽ tăng cao. Sở dĩ như vậy vì ngành vật liệu xây dựng là đầu vào của các ngành khác. Chẳng hạn, sắt thép, xi măng là đầu vào cho các công trình như cầu cống, nhà cửa, cao ốc... của ngành xây dựng. Khi ngành xây dựng làm ăn phát đạt thì ngành vật liệu xây dựng cũng có cơ hội để tăng trưởng. Ngược lại tình hình sẽ tồi tệ hơn khi nền kinh tế suy thoái, các công trình xây dựng sẽ bị trì trệ vì người dân không bỏ nhiều tiền ra để xây dựng nhà cửa, chính phủ không mở rộng đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng. Điều này làm cho doanh số, lợi nhuận của các công ty vật liệu sụt giảm nhanh chóng.
Một lý do khác để giải thích cho sự nhạy cảm của ngành xây dựng đối với chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế là do cách thức tăng lợi nhuận của các công ty trong ngành dựa chủ yếu vào tăng trưởng doanh số và các công ty thường sử dụng đòn bẩy hoạt động để tăng lợi nhuận, bởi có rất ít "độc quyền giá" và lợi nhuận biên tế ở mức thấp. Theo Morningstar thì lợi nhuận biên tế của ngành vật liệu xây dựng chỉ ở mức 5%, do đó để gia tăng lợi nhuận, các công ty thực hiện bằng cách đẩy mạnh doanh số bán. Nhưng khi thực hiện điều này thì cũng có nghĩa rằng, các công ty vật liệu xây dựng sẽ phải sản xuất ở quy mô lớn và do đó chi phí cố định sẽ bị đẩy lên cao. Lúc này, chi phí cố định cao trở thành vấn đề sống còn đối với các công ty. Chỉ công ty nào có chi phí cố định thấp hơn so với đối thủ ở cùng một quy mô sản xuất thì mới có thể gia tăng lợi nhuận và vượt qua khó khăn trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái. Chi phí thấp sẽ là thế mạnh kinh tế của ngành, công ty nào có chi phí thấp sẽ tạo được ưu thế cạnh tranh bền vững.
Đứng trên góc độ của người sử dụng khi mua vật liệu xây dựng, đa số họ có tâm lý quan tâm nhiều đến giá cả. Bởi lẽ, họ thường mua với khối lượng lớn, nhất là đối với các công trình xây dựng như bến cảng, nhà xưởng cầu cống hay các cao ốc. Do vậy, một biến động nhỏ về giá có thể làm cho chi phí mua của khách hàng thay đổi đáng kể. Tất nhiên, cũng phải nới rằng, thương hiệu, chất lượng và mẫu mã cũng có ảnh hưởng đến quyết định mua của khách hàng. Nhưng sự sai khác về chất lượng, mẫu mã của các sản phẩm trong ngành này là không nhiều. Chính vì thế, nhu cầu hay khách hàng trong ngành này rất nhạy cảm với các biến động giá cả. Do vậy, khi phân tích đặc điểm này chúng ta cần xem xét các yếu tố sau:
- Công ty có đạt được vị thế nhà sản xuất có chi phí thấp nhờ gia tăng quy mô. Việc gia tăng quy mô sản xuất sẽ giúp công ty có được hiệu quả kinh tế theo quy mô, chi phí sản xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm của họ sẽ thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh.
- Xem xét công nghệ sản xuất: Công nghệ là yếu tố đóng vai trò then chốt để tạo nên thế mạnh kinh tế của công ty. Đầu tư vào công nghệ làm giảm giá thành sản phẩm, từ đó hạ giá bán, tăng tính cạnh tranh về giá. Mặt khác, đầu tư vào công nghệ giúp công ty tái chế các nguyên vật liệu dư thừa thành các sản phẩm có giá trị kinh tế. Với vị thế của nhà sản xuất có chi phí thấp, một công ty có thể tính giá thành thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh mà vẫn duy trì được lợi nhuận. Như vậy, công ty nào có được vị thế này sẽ có được lợi nhuận vững chắc trong dài hạn.
Một mặt khác của ngành vật liệu xây dựng là có mối tương quan rõ rệt với thị trường bất động sản, khi thị trường bất động sản đóng băng thì ngành vật liệu xây dựng gặp khó khăn và ngược lại. Lý do đơn giản là thị trường bất động sản phản ánh nhu cầu cho ngành.
Ngoài ra, các chuyên gia tài chính cho rằng, tín hiệu để nhận ra một công ty thành công trong ngành vật liệu xây dựng chính là hiệu quả sử dụng tài sản của nó. Bởi nhìn chung thì có hai cách để có lợi nhuận cao, đó là: Có lợi nhuận biên tế cao hoặc có vòng quay tài sản cao. Do đó, các công ty có kết quả hoạt động tốt thường là những công ty tạo ra doanh số cao từ tài sản của chúng. Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của công ty trong ngành này chúng ta nên phân tích các chỉ số tài chính sau:
Thứ nhất, tỷ số vòng quay tổng tài sản: Đây là một trong những thước đo được sử dụng phổ biến nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động. Theo các nhà nghiên cứu tài chính của Morningstar thì tỷ số này lớn hơn 1 được xem là hiệu quả.
Thứ hai, tỷ số vòng quay tài sản cố định: Tỷ số này thường được nói đến nhiều hơn vì ngành vật liệu xây dựng phụ thuộc vào nhiều tài sản cố định hữu hình, như nhà máy, thiết bị... để sản xuất hàng hoá và tạo ra doanh số. Theo các nhà nghiên cứu tài chính, tỷ số này xấp xỉ bằng 2 là hiệu quả.
Bên cạnh tài sản cố định, công ty sản xuất vật liệu xây dựng cần quản lý vốn luân chuyển một cách có hiệu quả. Do công ty thường dự trữ hàng tồn kho ở một mức nhất định nên quan sát xu hướng biến động của giá trị hàng tồn kho hoặc theo dõi thời gian thu hồi các khoản phải thu có thể biết được nhiều điều về hoạt động kinh doanh của một công ty. Chẳng hạn, hàng tồn kho tăng nhanh cho thấy công ty đang sản xuất nhiều hơn so với mức nó có thể bán chỉ để duy trì hoạt động bình thường của nhà máy. Điều này có thể tạo ra các cú sốc cho các công ty khi phải bán hàng bằng cách hạ giá đến mức thấp nhất. Tương tự, một công ty có thời gian thu hồi các khoản phải thu cao có thể chỉ ra rằng công ty đang đẩy hàng tồn kho về phía khách hàng để nguỵ trang cho sự giảm sút trong nhu cầu. Tức là thay vì tồn kho, công ty bán chịu cho khách hàng, chấp nhận thời gian thu nợ chậm hơn để níu kéo khách hàng.
Hầu hết các công ty trong ngành có đòn bẩy hoạt động cao, điều này có nghĩa là tất cả các chi phí của chúng là cố định, bất kể công ty đang sản xuất ở quy mô và doanh số nào. Nếu một công ty có thể gia tăng được doanh số bán cao hơn, thì lợi nhuận biên tế của công ty sẽ gia tăng. Và ngược lại, khi doanh số giảm thì lợi nhuận biên tế của nó cũng giảm đi rất nhanh. Một tín hiệu thành công khác là chi trả cổ tức nhanh và đều đặn cho cổ đông. Ngành vật liệu xây dựng không bao giờ ra khỏi quy tắc này. Cổ tức không chỉ thể hiện một tín hiệu đáng tin cậy cho sức khoẻ tài chính của một công ty là tốt mà còn thể hiện biến động tương ứng với chu kỳ của chứng khoán. Bên cạnh đó, một tín hiệu hữu ích về mức nợ của công ty là tỷ số nợ trên tổng tài sản. Tỷ số này cao có nghĩa là công ty đang ở trong tình thế có nhiều rủi ro, các nhà phân tích tài chính cho rằng, đối với ngành này, một công ty có tỷ số nợ trên tổng tài sản hơn 40% là có xuất hiện vài rủi ro, và nếu một công ty có tỷ số này trên 70% thì đó thực sự là một tín hiệu xấu.
1.4.2. Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
1.4.2.1. Nhân tố môi trường kinh tế
Thực trạng nền kinh tế và xu hướng trong tương lai có ảnh hưởng vô cùng lớn đến các doanh nghiệp. Nhân tố chủ yếu mà các doanh nghiệp thường phân tích là: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát, chu kỳ kinh tế, dân số, tỷ lệ thất nghiệp,...Vì các yếu tố này tương đối rộng và mức độ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp cũng khác nhau nên các doanh nghiệp cũng phải dự kiến, đánh giá được mức độ tác động cũng như xu hướng tác động (xấu, tốt) của từng yếu tố đến doanh nghiệp mình. Mỗi yếu tố có thể là cơ hội, có thể là nguy cơ nên doanh nghiệp phải có phương án chủ động đối phó khi tình huống xảy ra.
1.4.2.2. Môi trường chính trị, luật pháp
Hoạt động ở bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng đều chịu ảnh hưởng bởi thể chế chính trị và hệ thống luật pháp. Sự ổn định chính trị được xác định là một trong những tiền đề quan trọng cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Hệ thống luật pháp hoàn thiện là một chổ dựa vững chắc tạo sự an toàn cho các doanh nghiệp hoạt động.
Mọi doanh nghiệp hoạt động đều phải tuân thủ pháp luật, đây là môi trường pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động. Nó thường xuyên tác động lên kết quả và hiệu quả SXKD của doanh nghiệp, đồng thời môi trường pháp lý còn là trọng tài khi cần thiết xử lý tranh chấp giữa các doanh nghiệp. Môi trường pháp lý quy định hành vi của doanh nghiệp hoạt động trong môi trường đó, có thể khai thác, tận dụng những thuận lợi, thời cơ của môi trường này để nâng cao hiệu quả SXKD và tránh được những rủi ro đối với doanh nghiệp. Hoạt động của các doanh nghiệp cũng phụ thuộc rất lớn vào chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ.
1.4.2.3. Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh trong ngành gồm các doanh nghiệp hiện có mặt trong ngành và các doanh nghiệp tiềm ẩn có khả năng tham gia vào ngành trong tương lai. Số lượng các đối thủ, đặc biệt các đối thủ có quy mô lớn trong ngành càng nhiều thì mức độ cạnh tranh trong ngành ngày càng gay gắt. Cạnh tranh là quá trình đấu tranh giữa các doanh nghiệp khác nhau nhằm đứng vững được trên thị trường và tăng lợi nhuận, trên cơ sở tạo ra và sử dụng ưu thế của mình về giá trị sử dụng của sản phẩm. Sự cạnh tranh một mặt trừng phạt các doanh nghiệp có chi phí cao bằng các hình thức như loại doanh nghiệp đó ra khỏi thị trường hoặc doanh nghiệp chỉ thu được lợi nhuận thấp, mặt khác sẽ khuyến khích các doanh nghiệp có chi phí thấp bằng cách doanh nghiệp càng có chi phí thấp càng thu được lợi nhuận cao. Chính nguyên tắc trừng phạt và khuyến khích của cạnh tranh đã tạo áp lực bắt buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh, vì đó là cơ sở cho sự tồn tại hay phá sản của doanh nghiệp. Phân tích các đối thủ cạnh tranh trong ngành nhằm nắm được các điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ để từ đó xác định đối sách của mình tạo được thế đứng vững mạnh trong môi trường ngành.
1.4.2.4. Thị trường
Thị trường ở đây bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp.
Thị trường đầu vào cung cấp các yếu tố cho quá trình SXKD như thị trường cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lao động,… Thị trường đầu vào tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và tính liên tục của quá trình SXKD, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Thị trường đầu ra liên quan trực tiếp đến người tiêu dùng những hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, nó tác động đến tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tốc độ vòng quay của vốn, doanh thu bán hàng, mức độ chấp nhận và tín nhiệm giá trị sử dụng của sản phẩm,…Như vậy, thị trường đầu ra quyết định quá trình tái sản xuất mở rộng và hiệu quả kinh doanh. Việc tạo lập và mở rộng thị trường đầu ra có ý nghĩa sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
1.4.2.5. Môi trường khu vực và quốc tế
Xu thế hội nhập quốc tế đang là xu thế tất yếu của mọi quốc gia, mọi doanh nghiệp. Hội nhập quốc tế vừa tạo ra những cơ hội vừa tạo ra những thách thức to lớn cho các chủ thể kinh doanh. Nước ta đã chính thức gia nhập WTO đang mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, điều mà các doanh nghiệp không thể tránh khỏi là sự cạnh tranh quốc tế sẽ diễn ra hết sức gay gắt.
Các doanh nghiệp nước ta đang đối mặt với việc phân chia và giảm sút thị phần do sự thâm nhập thị trường của các tập đoàn lớn đến từ Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Trung Quốc,…Trong khi đó việc mở rộng thị trường ra nước ngoài đối với doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn bởi do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta còn ở mức rất thấp.
1.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.5.1. Phương pháp thu thập số liệu
Việc điều tra và thu thập số liệu được tiến hành theo phương pháp điều tra thu thập các số liệu thứ cấp về tình hình sản xuất kinh của Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevo I Quảng Bình và một số đơn vị có liên quan. Chọn lọc tổng hợp từ các tài liệu sau:
Các báo cáo tài chính, các bảng cân đối kế toán, các báo cáo về tình hình hoạt động SXKD hàng năm của Công ty;
Các báo cáo quyết toán định kỳ của các đơn vị thành viên trong Công ty;
Các báo cáo của Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Quảng Bình;
Các báo cáo tổng kết năm của Cục Thuế Quảng Bình, Sở Tài chính Quảng Bình.
1.5.2. Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các nguồn dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp có rất nhiều phương pháp .
1.5.2.1. Phương pháp chi tiết
Mọi kết quả hoạt động tài chính doanh nghiệp đều có thể chi tiết theo những tiêu thức khác nhau:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành các chỉ tiêu: Chi tiết theo các bộ phận cấu thành nhằm giúp cho việc đánh giá chính xác và cụ thể, qua đó xác định nguyên nhân và trọng điểm trong công tác quản lý.
- Chi tiết theo thời gian: Kết quả hoạt động tài chính bao giờ cũng là kết quả của một quá trình. Chi tiết theo thời gian sẽ giúp cho việc đánh giá kết quả hoạt động tài chính một cách chính xác theo những thời gian khác nhau.
- Chi tiết theo địa điểm: Chi tiết theo địa điểm phát sinh nhằm phát hiện hình thành chúng, có như vậy mới xác định được trọng điểm trong công tác quản lý tài chính.
1.5.2.2. Phương pháp so sánh
Nếu có sự thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán của các chỉ tiêu tài chính và theo mục đích phân tích thì mới xác định gốc so sánh. Đây cũng chính là điều kiện để áp dụng phương pháp so sánh. Gốc so sánh được được chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không gian, kì phân tích được chọn là kì báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân.
Nội dung so sánh bao gồm:
- So sánh giữa các số hiện thực kỳ này với số hiện thực kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- So sánh giữa số liệu doanh nghiệp giữa số liệu trung bình của nghành, của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp tốt hay xấu.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể.
- So sánh theo chiều ngang với nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và tuyệt đối của một số chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
1.5.2.3. Phương pháp liên hệ
Các chỉ tiêu có quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy trong phân tích có thể kết hợp các chỉ tiêu khác nhau để đưa ra một chỉ tiêu tổng hợp khác. Có các mối quan hệ phổ biến như:
- Liên hệ cân đối: Có cơ sở là cân bằng về lượng giữa nguồn thu, huy động và tình hình các quỹ, các loại vốn; giữa tổng số và tổng nguồn vốn; giữa nhu cầu và khả năng thanh toán; giữa thu với chi và kết quả kinh doanh...
- Liên hệ trực tuyến: Là mối liên hệ theo một hướng xác định giữa các chỉ tiêu phân tích. Trong mối liên hệ trực tuyến này, theo mức phụ thuộc giữa các chỉ tiêu có thể phân thành hai loại chính: Liên hệ trực tiếp và liên hệ gián tiếp. Liên hệ trực tiếp giữa các chỉ tiêu như giữa lợi nhuận với giá bán, giá thành, tiền thuế... trong những trường hợp này các mối liên hệ không qua một chỉ tiêu liên quan nào: giá bán tăng (hoặc giá thành giảm) sẽ làm lợi nhuận tăng... liên hệ gián tiếp là quan hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức độ phụ thuộc giữa chúng được xác định bằng một hệ số riêng.
- Liên hệ phi tuyến: Là mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức độ liên hệ không được xác định theo tỉ lệ và chiều hướng liên hệ luôn biến đổi
1.5.2.4. Phương pháp kết hợp: Là phương pháp khi sử dụng, các nhà phân tích phải sử dụng kết hợp một số phưong pháp phân tích với nhau, ví dụ: kết hợp so sánh với phưong pháp đồ thị, kết hợp loại trừ với liên hệ cân đối, kết hợp so sánh với loại trừ... Việc kết hợp nhiều phương pháp phân tích với nhau sẽ làm nỗi bật đặc trưng của đối tượng phân tích.
1.5.2.5. Phương pháp loại trừ: Là phương pháp dùng để xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích. Để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó, nhà phân tích phải loại trừ ảnh hưởng của nhân tố còn lại đặc điểm nỗi bật của phương pháp loại trừ luôn đặt đối tượng phân tích vào các trường hợp giả định khác nhau để xác định ảnh hưởng các nhân tố đến biến động của chỉ tiêu nghiên cứu.
1.6. YÊU CẦU THÔNG TIN
1.6.1. Thông tin bên ngoài
Là những thông tin bao gồm thông tin liên quan đến trạng thái kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất ngân hàng, thông tin về ngành kinh doanh thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu nghành, tình trạng công nghệ, thị phần... và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp. Nguồn thông tin này được phản ánh trong các văn bản pháp quy của Nhà nước, các số liệu thống kê, tin tức hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc các tài liệu ấn phẩm của từng cơ quan, từng ngành.
Nhân tố bên ngoài còn ảnh hưởng tới tình hình sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động của doanh nghiệp. Thường là các thông tin về tình hình kinh tế xã hội, về sự tăng trưởng hoặc suy thoái kinh tế trong nước cũng như trên thế giới. Những thông tin này đều góp phần xây dựng các dự báo kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn cho doanh nghiệp, góp phần tạo điều kiện cho doanh nghiệp cũng như những đối tượng quan tâm khác đến doanh nghiệp đưa ra quyết định phù hợp và đúng đắn.
1.6.2. Thông tin bên trong
Thông tin bên trong của một doanh nghiệp là mọi nguồn thông tin liên quan đến doanh nghiệp đó, thí dụ: Thông tin về thị trường của doanh nghiệp, thông tin về nhân sự.. Trong đó hệ thống báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp, sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán thông tin về kế toán là nguồn thông tin đặc biệt cần thiết, mang tính bắt buộc. Thông tin kế toán phản ánh một cách hệ thống tình hình tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình sử dụng vốn trong những thời điểm nhất định. Thông tin kế toán cũng giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận biết đựợc thực trạng tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó ra quyết định phù hợp. Sản phẩm cuối cùng của chu trình kế toán số liệu là hệ thống báo cáo kế toán của doanh nghiệp. Bởi vậy, thông tin kế toán được phản ánh đầy đủ trong hệ thống báo cáo kế toán của doanh nghiệp. Vì vậy phân tích tài chính tức là phân tích hệ thống báo cáo kế toán doanh nghiệp.
Hệ thống báo cáo tài chính được Nhà nước quy định có tính chất bắt buộc về biểu mẫu, phương pháp lập, đối tượng và phạm vi áp dụng cũng như thời gian nộp báo cáo.
Hệ thống báo cáo tài chính được quy định trong chế độ tại quyết định số 15/2006 QĐ- BTC ngày 20/3/2006 của bộ trưởng bộ tài chính. Để tiến hành hội nhập với kế toán quốc tế, phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế, hệ thống báo cáo tài chính Việt nam đã được sửa đổi tại các thông tư.
Bảng cân đối kế toán ( mẫu số B01a- DN)
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Mẫu B02-DN)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ( mẫu B 03- DN)
Thuyết minh báo cáo tài chính (mẫu B09 - DN)
Bên cạnh hệ thống báo cáo tài chính, các báo cáo của kế toán quản trị cũng được coi là tài liệu không thể thiếu được trong phân tích tài chính. Báo cáo kế toán quản trị đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp. Báo cáo kế toán quản trị thay đổi theo quyết định của người quản lý doanh nghiệp và được lập một cách thường xuyên theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Hệ thống báo cáo kế toán quản trị của một doanh nghiệp bao gồm: Báo cáo tổng hợp giá thành sản phẩm, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh từng bộ phận, mặt hàng, báo cáo khối lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành; báo cáo khối lượng sản phẩm dịch vụ tiêu thụ, báo cáo tình hình sử dụng lao động và năng suất lao động. Báo cáo một số chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, báo cáo về sử dụng vật tư....
Thông tin của các báo cáo quản trị mang lại là cơ sở quan trọng để cho các nhà quản lý ra quyết định kinh doanh ở khâu như lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá... mặt khác chúng giúp nhà quản trị trong quá trình xử lý, phân tích thông tin lựa chọn phương án và ra quyết định kinh doanh phù hợp. Kết hợp báo cáo tài chính và báo cáo quản trị làm thành một hệ thống thông tin tương đối đầy đủ và đáng tin cậy để doanh nghiệp có thể tiến hành phân tích tài chính đạt hiệu quả chính xác.
1.7. TỔ CHỨC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Công tác phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp thường phụ thuộc vào công tác tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính của doanh nghiệp đó. Công tác tổ chức hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính lại phụ thuộc vào loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể từng doanh nghiệp. Đặc điểm và điều kiện sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp lại khác nhau, do vậy công tác tổ chức phân tích tình hình tài chính nói riêng và phân tích hoạt động kinh tế nói chung cũng phải đặt ra như thế nào đó để phù hợp với hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
- Phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp là một trong những nhu cầu của quản lý. Do vậy, việc phân tích phải được tổ chức chu đáo. Tại các doanh nghiệp quy mô lớn, hoạt động này do bộ phận tài chính đảm nhiệm. Tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công việc này có thể do phòng tài chính kế toán thực hiện kết hợp với các nghiệp vụ kế toán. Tuy nhiên, công tác phân tích hoạt động tài chính phải bao gồm các giai đoạn sau:
- Xác định mục tiêu phân tích: Căn cứ vào yêu cầu công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp để xác định được mục tiêu phân tích về tài chính cần đạt được.
- Lập kế hoạch phân tích: bao gồm về kế hoạch thời gian, không gian và nhân sự thực hiện. Các bước tiếp theo phải tuân thủ nghiêm túc kế hoạch đặt ra.
- Thu nhập thông tin và kiểm tra thông tin: Trên cơ sở mục tiêu phân tích để xem xét, nghiên cứu các tài liệu kế hoạch và hạch toán có liên quan, đặc biệt là báo cáo tài chính.
- Báo cáo phân tích: Dựa vào các tài liệu đã nghiên cứu và các chỉ tiêu kinh tế tài chính để đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp. Báo cáo phân tích phải đạt được mục tiêu đặt trong mục tiêu phân tích.
Tại Việt Nam, bộ phận chuyên trách trong vấn đề tài chính và kinh tế có sự kết hợp cho nên chưa có sự phân hoá sâu sắc. Tại một số nước phát triển, công tác phân tích tình hình tài chính thường được thực hiện bởi một bộ phân chuyên trách về phân tích và kiểm tra tài chính. Bộ phận này được lãnh đạo bởi giám đốc phụ trách tài chính và hay trưởng phòng tài chính và bao gồm các nhân viên có trình độ chuyên môn tốt, giàu kinh nghiệm về tài chính và phân tích tài chính. Các nhân viên thực hiện về tài chính và phân tích tài chính tách rời với các nhân viên thực hiện công việc về kế toán, do đó có sự chuyên môn hoá cao. Giám đốc tài chính có vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định tài chính. Những người phân tích tài chính có trình độ chuyên môn rất cao, nhiều kinh nghiệm, do đó có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng trong công tác phân tích tài chính. Chất lượng cán bộ đối với doanh nghiệp là một yếu tố cạnh tranh, cho nên các doanh nghiệp rất chú trọng đến vấn đề này.
Như đã nói trong phần trước, trình tự và phân tích tài chính các doanh nghiệp như nhau, chúng chỉ khác nhau ở phương pháp phân tích. Các bước tiến hành đều đi từ thu nhập thông tin cho đến xử lý thông tin và đưa ra các dự đoán, quyết định. Song, cũng cần phải nói thêm rằng với các bước tiến hành và trình tự phân tích như đã nói trên, các quy định về công tác phân tích tình hình tài chính cũng là yếu tố thành công mà một công ty đạt được. Bởi vậy, trong việc tổ chức thực hiện phân tích tình hình tài chính phải rất chú ý trình tự và các quy định của doanh nghiệp. Các thông tin thu thập phải mang tính chuẩn xác cao bởi nó gắn với cạnh tranh, với thị trường, với sự sống còn của doanh nghiệp.
Để hoàn thành các công tác tổ chức thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp cần phải cần phải nắm vững cơ cấu trình độ nhân sự cũng như các quy định, quy trình các phương pháp nội dung. Có như vậy công tác phân tích tài chính mới mang lại hiệu quả cao.
Chương 2
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT VẬT LIỆU VÀ XÂY DỰNG COSEVCO I QUẢNG BÌNH
2.1. TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT
VẬT LIỆU VÀ XÂY DỰNG COSEVCO I QUẢNG BÌNH
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Công ty cổ phần sản xuất vật liệu xây dựng và xây dựng Cosevco I Quảng Bình được thành lập theo quyết định số: 692/QD-BXD, ngày 26/4/2006 của Bộ trưởng Bộ xây dựng chuyển đổi từ Doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần. Trên cơ sở sáp nhập hai Công ty trực thuộc Tổng công ty Miền trung là Công ty xi măng Cosevco I và Công ty sản xuất vật liệu xây dựng 74. Là một doanh nghiệp lớn nằm trên quê hương Quảng Bình hai giỏi. Công ty nằm phía Bắc Tỉnh Quảng Bình, khu phố III, Thị trấn Ba Đồn - Quảng Trạch - Quảng Bình. Từ lâu, Công ty Cosevco I đã nổi tiếng với việc cung ứng vật liệu xây dựng, phát triển nhiều dự án lớn có hiệu quả kinh tế. Chất lượng sản phẩm của công ty đã đạt được nhiều giải thưởng uy tín. Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I luôn coi sự tín nhiệm của khách hàng là niềm tin để đảm bảo cho phát triển bền vững. Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I đã phát đi những thông tin phát triển bền vững của đơn vị trong nhiều năm qua và định hướng phát triển trong thời gian tới. Sau khi cổ phần hoá, Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I liên tục đạt bước tăng trưởng cao và bền vững. Nếu tính từ ngày được thành lập năm 2002 cho đến nay. Công ty cổ phần SXVL&XD Cosevco I đã có chặng đường 8 năm. Thời gian chưa phải là dài, song trên cơ sở lực lượng cũ và ngay khi bước vào hoạt động, Công ty tăng cường quản lý, cũng cố lại đơn vị. Qua 8 năm hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty đã đạt được những kết quả thật ấn tượng; Tổng trị giá sản lượng trên 2.157.014 tỷ đồng, doanh thu 1.879.720 tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 77,60 tỷ đồng, lợi nhuận 53,70 tỷ đồng, thu nhập bình quân 1,5 triệu đồng/người/tháng, tạo công ăn việc làm thường xuyên cho gần 2.000 lao động địa phương.
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty
Chức năng chủ yếu của Công ty là sản xuất vật liệu xây dựng, thi công xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng trên địa bàn Tỉnh Quảng Bình và các tỉnh lân cận.
Tổ chức quản lý sản xuất và phát triển sản xuất theo nghị quyết Đại Hội cổ đông, đúng với ngành nghề đăng ký kinh doanh, từng bước tạo được mặt hàng nội địa đa dạng phong phú, đắp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Công ty là một trong những đơn vị chủ lực được Tổng công ty xây dựng miền trung giao nhiệm vụ:
- Sản xuất các loại vật liệu mũi nhọn như: Xi măng, gạch, đá các loại, bêtông thương phẩm, tấm lợp Fibrocement, thi công xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng, giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện.
- Xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất trên cơ sở đánh giá nhu cầu thị trường và nâng cao năng lực sản xuất của công ty, bảo toàn và phát triển vốn, sử dụng vốn hợp lý đúng chế độ có hiệu quả và hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước và các chỉ tiêu mà Đại Hội cổ đông đưa ra.
- Tăng cường công tác quản lý và tập trung chỉ đạo hoạt động của các dây chuyền sản xuất để phát huy tối đa công suất thiết bị, các dây chuyền sản xuất tấm lợp, gạch tuynel, dây chuyền khai thác đá, đạt 150 - 200% công suất. Cải tiến, lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống lọc bụi khói qua nước, thay toàn bộ lọc bụi tĩnh điện giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Mở rộng công tác xây lắp trên nhiều lĩnh vực, chú trọng trình độ chuyên về xây lắp. Công ty hiện có đội ngũ cán bộ nghiệp vụ giỏi và công nhân xây lắp lành nghề đa dạng phục vụ những công trình lớn kỹ thuật phức tạp. Mục tiêu quan trọng hàng đầu để phấn đấu của công ty trong xây lắp là: Chất lượng - hiệu quả - an toàn lao động, kỹ - mỹ thuật của sản phẩm và công trình.
- Quan tâm thường xuyên và đẩy mạnh phong trào thi đua qua các năm như: Phong trào phát huy cải tiến kỹ thuật. Triển khai và tổ chức tham gia các hoạt động của Bộ xây dựng, Công Đoàn ngành xây dựng, của Tổng công ty và Công ty; tham gia cuộc vận động "tổ chức tốt điều kiện sống và làm việc của cán bộ công nhân viên chức lao động trong ngành xây dựng" do công đoàn ngành phát động. Tham gia chỉ đạo các đơn vị trực thuộc gắn với nâng cao chất lượng công trình để rèn luyện thợ giỏi, thực hiện tốt tổ chức thi nâng bậc, nâng lương cho công nhân hàng năm.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty
2.1.3.1. Nguyên tắc đối với cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty
- Cơ cấu tổ chức quản lý phải gắn với phương hướng, mục đích hoạt động của Công ty.
- Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty phải tuân thủ nguyên tắc chuyên môn hoá và cân đối: Đòi hỏi sự phân công, phân nhiệm đối với các bộ phận trong Công ty theo các nhóm chuyên ngành, với những con người được đào tạo tương ứng và có đủ quyền hạn.
- Nguyên tắc linh hoạt và thích nghi với môi trường: Việc hình thành cơ cấu tổ chức phải đảm bảo cho mỗi bộ phận có một mức độ tự do sáng tạo tương xứng để mọi cấp quản lý phát triển được tài năng, có cơ hội phát triển.
- Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty phải đảm bảo nguyên tắc hiệu lực và hiệu quả.
2.1.3.2. Bộ máy quản lý của Công ty
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp là tổng hợp các bộ phận cấu thành nên bộ máy quản trị và mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận đó. Mọi quá trình lãnh đạo, mọi quyết định, các kế hoạch và vấn đề kiểm soát sẽ không thành hiện thực hoặc sẽ không hiệu quả nếu không biết cách tổ chức khoa học, có sự cộng tác và phát huy được hết năng lực sở trường của mỗi cá nhân và mỗi bộ phận trong đơn vị. Có thể thấy rằng, bộ máy quản lý của Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevo I Quảng Bình được xây dựng dựa trên các yêu cầu, nguyên tắc và điều kiện cụ thể của Công ty, nên sự hoạt động của nó đã đạt được kết quả nhất định. Cơ cấu tổ chức bộ máy được tổ chức theo mô hình trực tuyến - chức năng và được thể hiện cụ thể qua sơ đồ dưới đây.
Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Công ty
Đại hội đồng cổ đông
Ban kiểm soát
kÕ ho¹ch thÞ trêng
Hội đồng quản trị
kÕ ho¹ch thÞ trêng
Ban giám đốcêng
Phòng
Dự án đầu tư
Văn
Phòng Công ty
Phòng
Tài chính - Kế toán
Phòng đầu tư
Tài chính & C.khoán
Phòng
kế hoạch thị trường
Phòng
Tổ chức lao động
Phòng
Kỹ thuật thi công
Phòng QLTB xe máy và công nghệ
Văn phòng Đảng uỷ
Ban quản lý dự án
Văn phòng công đoàn
Xưởng sửa chữa thiết bị COSEVCO
Ban
An toàn lao động
Ban dự án thuỷ điện
Văn phòng đoàn thanh niên
Các đơn vị trực thuộc
Các đơn vị liên kết
Quan hệ trực tuyến:
Quan hệ giám sát:
Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các phòng ban trong Công ty
- Đại hội cổ đông: Mỗi năm họp một lần vào cuối năm để biểu quyết các vấn đề liên quan đến sản xuất kinh doanh, đề ra phương hướng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của những năm sắp tới và bầu ra Hội đồng quản trị khi hết nhiệm kỳ (5 năm).
- Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị là cơ quan thường trực của đại hội cổ đông, do đại hội cổ đông bầu ra và được đại hội cổ đông ủy quyền quản lý toàn bộ tài sản và hoạt động kinh doanh của Công ty trong phạm vi chức năng quyền hạn của mình. Chức năng của Hội đồng quản trị là chuẩn bị dự thảo và xem xét tất cả các văn bản, nghị quyết thuộc thẩm quyền quyết định của đại hội cổ đông. Duyệt kế hoạch, báo cáo của ban Giám đốc, đưa ra những quyết định có tính chiến lược, điều chỉnh phương hướng sản xuất kinh doanh của Công ty...
- Ban kiểm soát: Ban kiểm soát do Đại hội cổ đông bầu ra có nhiệm vụ giám sát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty theo nội quy, điều lệ, quyết định của Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị. Cùng Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước cổ đông.
- Giám đốc: Do Hội đồng quản trị bổ nhiệm. Có nhiệm vụ quản lý và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
- Phòng dự án đầu tư: Tham mưu cho ban giám đốc, lập kế hoạch đầu tư, đấu thầu các dự án, công trình giao thông, thuỷ lợi, theo dõi triển khai tiến độ thực hiện dự án.
- Phòng đầu tư Tài chính - Chứng khoán: Lập kế hoach đầu tư kinh doanh chứng khoán, phối hợp với các công ty chứng khoán để tiến tới đưa chứng khoán Công ty lên sàn giao dịch.
- Phòng kỹ thuật thi công: Quản lý, giám sát các công trình thi công xây dựng do công ty triển khai, hoặc bên đối tác thuê.
- Ban quản lý dự án xi măng: Quản lý dự án, đầu tư chuyển đổi công nghệ nhà máy xi măng lò đứng Thanh Trường sang lò quay công suất 1.200 tấn Cilenke/ngày. Tham gia quản lý các gói thầu liên quan đến quá trình thực thi dự án. Lập kế hoạch đấu thầu, phân tích lựa chọn nhà thầu.
- Ban dự án thuỷ điện: Tham gia dự thầu và quản lý thi công các dự án thuỷ điện của Công ty.
- Văn phòng Công ty: Triển khai các công việc liên quan đến toàn bộ công ty như hội họp, học tập, đại hội cổ đông.
- Phòng kế hoạch thị trường: Tham mưu cho ban lãnh đạo Công ty trong việc hoạt động sản xuất kinh doanh. Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, giá thành sản phẩm.
- Phòng quản lý thiết bị xe máy: Quản lý tình hình sử dụng và lập kế hoach sữa chữa thiết bị xe máy của toàn Công ty.
- Xưởng sửa chữa: Tiến hành sữa chữa, bảo hành, bảo trì các máy móc thiết bị của công ty và các đối tác liên quan.
- Ban an toàn lao động: Chăm lo đến công tác vệ sinh - an toàn lao động của toàn thể người lao động trong Công ty.
- Phòng Tài chính - Kế toán: Tập hợp, phân tích và lập các báo cáo tài chính và báo cáo quản trị phục vụ cho công tác quản lý của Công ty.
- Phòng tổ chức lao động: Tham mưu nhân sự cho ban lãnh đạo Công ty, tham gia tuyển dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân có trình độ và năng lực công tác.
- Văn phòng Đảng uỷ: Chăm lo công tác Đảng uỷ Công ty, theo dõi bồi dưỡng cán bộ có lập trường, tư tưởng chính trị vững vàng.
2.1.4. Đặc điểm tổ chức sản xuất và tiêu thụ
Đặc điểm sản phẩm: do lĩnh vực kinh doanh rộng nên, sản phẩm hàng hoá của Công ty là rất đa dạng và phức tạp. Công ty sản xuất, kinh doanh xi măng, các loại vật tư, thiết bị, vật liệu xây dựng (vỏ bao xi măng, tấm lợp Fibrocement, gạch tuynel, đá xây dựng); Khai thác, chế biến và kinh doanh khoáng sản; Thi công xây dựng các công trình: Dân dụng, công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi..Với đặc điểm này việc tổ chức SXKD của Công ty được chia thành các đơn vị hoạt động tương đối độc lập. Sản phẩm được sản xuất, kinh doanh ở nhiều địa điểm. Do đó, trong quá trình SXKD cơ sở VCKT, lao động của Công ty phải có sự điều chuyển giữa các đơn vị.
Với đặc điểm sản phẩm của Công ty mang tính chất đa dạng hoá, Công ty phải sử dụng nhiều loại dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị, vật tư và lao động đòi hỏi phải được đào tạo theo yêu cầu tương ứng. Đây là một vấn đề cần được quan tâm và quản lý chặt chẽ, góp phần hạ thấp chi phí nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD cho Công ty.
Các đặc điểm này chi phối rất lớn đến hiệu quả SXKD của Công ty thể hiện ở một số điểm sau:
- Các đơn vị nằm trên địa bàn rộng phi tập trung hoá, điều kiện giao thông đi lại khó khăn do vậy nếu quản lý về tài sản cũng như về nhân lực không chặt chẽ sẽ mang lại năng suất lao động thấp, dễ thất thoát tài sản, vật tư và tiền vốn dẫn đến thua lỗ, hoạt động kém hiệu quả.
- Sản phẩm của Công ty đa dạng hoá, do đó Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh, nhất là các chiến lược kinh doanh dài hạn, mở rộng thị phần. Để khắc phục khó khăn này Công ty phải không ngừng hoàn thiện mình, tạo ra uy tín trên thương trường, nâng cao vị thế của Công ty.
2.1.5. Đặc điểm về cơ chế quản lý tài chính
Công ty cổ phần sản xuất vật liệu và xây dựng Cosevco I Quảng Bình là doanh nghiệp cổ phần hoá, hạch toán độc lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ một công ty cổ phần, có trách nhiệm hoạt động SXKD có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm và từ đặc thù về tổ chức sản xuất- kinh doanh, Công ty đã xây dựng cơ chế quản lý theo hướng tập trung - linh hoạt - công khai, nhằm lành mạnh hoá và tăng năng lực tài chính cho đơn vị.
- Tính tập trung được biểu hiện: Phòng Tài chính - Kế toán của Công ty nghiên cứu và tham mưu cho lãnh đạo trong công tác quản lý, sử dụng và điều tiết nguồn vốn của toàn bộ công ty; cân đối các nguồn để lập kế hoạch tài chính, kế hoạch vay vốn và điều chuyển vốn cho các đơn vị theo kế hoạch sản xuất kinh doanh đã xác định; kiểm nợ, thanh quyết toán công nợ. Kịp thời phát hiện các đơn vị SXKD kém hiệu quả để đề xuất lãnh đạo có biện pháp xử lý.
- Tính linh hoạt được thể hiện: Công ty giao trực tiếp cho các đơn vị trực thuộc lập kế hoạch nhu cầu vốn trên cơ sở kế hoạch tài chính của toàn Công ty. Các đơn vị này lập kế hoạch vốn, đề nghị và được Công ty điều chuyển vốn theo kế hoạch sản xuất, kinh doanh đúng tiến độ mục tiêu kế hoạch đề ra. Các đơn vị trực thuộc thực hiện chế độ hạch toán nội bộ bằng hình thức báo sổ, tự mua vật tư và trả lương cho người lao động và tự chịu trách nhiệm về kết quả SXKD của mình: lãi hưởng, lỗ chịu. Với cơ chế này thực sự phát huy được tính chủ động sáng tạo của các đơn vị trực thuộc, tiết kiệm được chi phí sản xuất, đồng vốn được sử dụng hợp lý và có hiệu quả hơn.
- Tính công khai tài chính thể hiện qua việc công khai minh bạch về tình hình tài chính của các đơn vị trực thuộc và của Công ty trong các dịp Đại hội cổ đông thường niên.
Đặc điểm về cơ chế quản lý tài chính nội bộ của Công ty sẽ có những ảnh hưởng tích cực trong việc quản lý điều hành nói chung và quản lý chi phí SXKD nói riêng. Nếu các đơn vị thực hiện đúng theo định mức kinh tế kỹ thuật và theo phương hướng hạ thấp giá thành của Công ty thì nhất định sẽ tăng được năng lực cạnh tranh và tăng lợi nhuận, ngược lại sẽ gây ra các tổn thất, mất mát và lãng phí vốn làm tăng giá thành bất hợp lý.
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
SẢN XUẤT VẬT LIỆU VÀ XÂY DỰNG COSEVCO I QUẢNG BÌNH
2.2.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính Công ty
Hoạt động tài chính là những hoạt động gắn liền với sự vận động và chuyển hoá các nguồn lực tài chính, tạo ra sự chuyển dịch giá trị trong quá trình kinh doanh và làm biến động vốn cũng như thay đổi cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Nói cách khác, hoạt động tài chính là những hoạt động gắn với việc xác định nhu cầu, tạo lập, tìm kiếm, tổ chức, huy động và sử dụng vốn một cách hợp lý, có hiệu quả.
Qua bảng 2.1: Cho thấy tổng nguồn vốn của Công ty năm 2007 so với năm 2006 giảm 56.320 triệu đồng, tương ứng với tốc độ giảm 14,55%, điều này thể hiện quy mô vốn của Công ty có xu hướng giảm so với năm 2006. Tuy nhiên cơ cấu vốn đã có sự thay đổi đáng kể, năm 2006 vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng 36,24% trong tổng nguồn vốn, thì cuối năm 2007 là 40,08%, chứng tỏ năm 2007 quy mô của công ty giảm nhưng Công ty đã có nhiều cố gắng trong sản xuất kinh doanh để đem lại hiệu quả thể hiện ở việc vốn chủ sở hữu tăng lên.
Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn của Công ty qua các năm
TT TÀI SẢN Msố
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2007 - 2006 Năm 2008 - 2007
Số tiền
(triệu đồng)
Tỷ
trọng ( %)
Số tiền
(triệu đồng)
Tỷ
trọng ( %)
Số tiền
(triệu đồng)
Tỷ
trọng ( %)
( + / - )
(triệu đồng)
Tốc độ tăng giảm (%)
( + / - )
(triệu đồng)
Tốc độ tăng giảm (%)
A
NỢ PHẢI TRẢ
100
246.804
63,76
198.204
59,92
136.396
47,02
-48.600
-19,69
-61.808
-31,18
1
Nợ ngắn hạn
110
156.914
40,53
147.878
44,71
95.594
32,95
-9.036
-5,76
-52.284
-35,35
2
Nợ dài hạn
120
89.890
23,23
50.326
15,21
40.802
14,06
-39.564
-44,01
-9.524
-18,92
B
VỐN CHỦ SỞ HỮU
200
140.270
36,24
132.550
40,08
153.677
52,98
-7.720
8,75
21.127
15,94
1
Nguồn vốn kinh doanh
210
117.916
30,47
130.000
39,31
150.387
51,85
12.083
10,25
20.378
15,68
2
Nguồn kinh phí và quỹ
220
22.354
5,77
2.550
0,77
3.289
1,13
-19.803
-88,59
739
29.00
Tổng cộng nguồn vốn
270
387.074.
100
330.754
100
290.073
100
-56.320
-14,55
-40.681
-12,30
Nguồn: Số liệu báo cáo tài chính của Công ty
50
Nguồn vốn năm 2008 so với năm 2007 giảm 40.681 triệu đồng, tương ứng với tốc độ giảm 12,3%, do Công ty điều chuyển vốn cho các đơn vị trực thuộc, mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên cơ cấu vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng trong tổng nguồn vốn năm 2007 là 40,08% và năm 2008 là 52,98%. Qua số liệu phân tích ta thấy cơ cấu nguồn vốn có những biến đổi theo chiều hướng thuận lợi, vốn chủ sở
hữu của Công ty tăng lên qua các năm thể hiện Công ty có nhiều cố gắng huy động vốn để phát triển sản xuất và mặc dù vậy vốn chủ sở hữu không đủ tài trợ cho việc gia tăng tài sản, Công ty phải đi huy động vốn từ bên ngoài, có thể là nguồn nợ ngắn hạn hoặc nợ dài hạn, điều đó thể hiện năm 2006 nợ phải trả chiếm trong tổng nguồn vốn là 246.804 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 63,76%, năm 2007 là 198.204 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 59,92% và con số này năm 2008 là 136.396 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 47,02%. Việc Công ty đi huy động các nguồn vốn từ bên ngoài là bình thường thể hiện Công ty đang mở rộng quy mô sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường. Nguồn vốn chủ sở hữu tăng, Công ty giảm được các khoản nợ cả ngắn hạn và dài hạn. Năm 2007 nợ ngắn hạn giảm so với năm 2006 là 9.036 triệu đồng với tỷ lệ giảm 5,76%, năm 2008 giảm so với năm 2007 là 52.284 triệu đồng với tỷ lệ giảm 35,35%. Nợ dài hạn năm 2007 giảm so với năm 2006 là 39.564 triệu đồng với tỷ lệ giảm 44,01%, năm 2008 giảm so với năm 2007 là 9.524 triệu đồng với tỷ lệ giảm 18,92%. Như vậy, nếu không có khoản nợ phải trả nào quá hạn thanh toán thì điều đó cho thấy Công ty đã chấp hành tốt kỷ luật thanh toán, kỷ luật tín dụng, quan tâm đến việc gìn giữ uy tín.
Qua phân tích cho thấy tỷ trọng của vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn tăng và tỷ trọng các khoản nợ có chiều hướng giảm thể hiện mức độ tự chủ của Công ty trong kinh doanh ngày càng tăng.
Bảng 2.2: Ta thấy hệ số tài trợ của Công ty năm 2008 tăng lên so với năm 2007 một lượng là 0,13 và năm 2006 là 0,17. Điều này chứng tỏ khả năng độc lập về mặt tài chính của Công ty tăng lên. Tuy nhiên hệ số này chưa phải là cao do vậy công ty vẫn bị phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay từ bên ngoài. Bên cạnh đó hệ số tự tài trợ của Công ty năm 2008 đạt 1,59 lần tăng so với năm 2007 là 0,5 lần và năm 2006 là 0,61 lần điều này chứng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp có chiều hướng tốt, thể hiện qua tỷ lệ đầu tư tài sản cố định bằng nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên. Mặc dù hệ số này còn thấp nhưng đã thể hiện được s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 08 Phn tch tnh hnh ti chnh t7841i Cng ty c7893 p.doc