Tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty vận tải thủy: LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp khá phức tạp với nhiều quan hệ nảy sinh. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường kinh doanh, trình độ của các nhà quản lý doanh nghiệp, trình độ quản lý tài chính. Trước sự cạnh tranh quyết liệt giữa các thành phần kinh tế gây ra những khó khăn thử thách cho các doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, để khẳng định được mình, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững tình hình cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến tình hình tài chính vì nó có quan hệ trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Từ đó, doanh nghiệp có thể xác định được một cá...
77 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty vận tải thủy, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp khá phức tạp với nhiều quan hệ nảy sinh. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường kinh doanh, trình độ của các nhà quản lý doanh nghiệp, trình độ quản lý tài chính. Trước sự cạnh tranh quyết liệt giữa các thành phần kinh tế gây ra những khó khăn thử thách cho các doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, để khẳng định được mình, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững tình hình cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến tình hình tài chính vì nó có quan hệ trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Từ đó, doanh nghiệp có thể xác định được một cách đầy đủ, đúng đắn nguyên nhân để có thể đưa ra những giải pháp hữu hiệu, những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tổng công ty vận tải thủy là một trong những đơn vị đi đầu trong lĩnh vực vận tải thủy. Sau hơn 13 năm ra đời Tổng công ty vận tải thủy đã có những bước phát triển vượt bậc về quy mô cũng như chất lượng. Qua quá trình thực tập và tìm hiểu tình hình tài chính tại Tổng công ty, em đã quyết định lựa chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp " Phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty vận tải thủy "
Ngoài các phần: Lời mở đầu; mục lục; danh mục các chữ viết tắt; danh mục bảng, biểu; kết luận; danh mục tài liệu tham khảo; nội dung chính của chuyên đề tốt nghiệp gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính tại Tổng công ty vận tải thủy
Chương 3: Giải pháp cải thiện tình hình tài chính của Tổng công ty vận tải thủy.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Tài chính doanh nghiệp
Doanh nghiệp và phân loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải các cá nhân.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản , có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh – tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Có các cách phân loại doanh nghiệp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Căn cứ vào tính chất sở hữu và mục đích hoạt động của doanh nghiệp, doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp công.
Thứ hai: Căn cứ vào tư cách pháp lý của doanh nghiệp, doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân.
Thứ ba: Căn cứ vào chế độ trách nhiệm tài sản (mức độ chịu trách nhiệm tài sản trong hoạt động kinh doanh của chủ sở hữu doanh nghiệp), doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn về tài sản và doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn về tài sản.
Thứ tư: Căn cứ vào cơ cấu chủ sở hữu và phương thức góp vốn vào doanh nghiệp, doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty TNHH, công ty cổ phần và nhóm công ty.
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Mỗi cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên là sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung( gọi là thành viên hợp danh ). Ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào.
Công ty TNHH là doanh nghiệp trong đó: thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên của công ty không vượt quá 50. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Phần vốn của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của Luật doanh nghiệp. Công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty TNHH không được quyền phát hành cổ phần.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó: vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ một số trường hợp quy định tại Luật doanh nghiệp. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm công ty gồm các hình thức: Công ty mẹ - công ty con; Tập đoàn kinh tế và các hình thức khác.
Khái quát về tài chính doanh nghiệp
Tài chính là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Nó có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế khác. Mối quan hệ tác động qua lại này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó thường xuyên giữa phân phối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Phân phối vừa phản ánh kết quả sản xuất và trao đổi, lại vừa là điều kiện cho sản xuất và trao đổi có thể tiến hành bình thường và liên tục.
Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính. Vì vậy, tại đây diễn ra quá trình tạo lập và chu chuyển vốn gắn liền với quá trình sản xuất, đầu tư, tiêu thụ và phân phối.
Tài chính – thoạt nhìn chúng ta lại hiểu là tiền tệ; như một doanh nghiệp sẽ phải trích một khoản tiền lương để trả cho cán bộ công nhân viên. Khi tiền lương tham gia phân phối giữa các loại lao động có trình độ, nghề nghiệp và điều kiện làm việc khác nhau. Tài chính tham gia phân phối sản phẩm quốc dân cho người lao động thông qua quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền lương và các quỹ phúc lợi công cộng khác. Do vậy, giữa tài chính và tiền là hai phạm trù kinh tế khác nhau.
Tài chính cũng không phải là tiền tệ và cũng không phải là quỹ tiền tệ. Nhưng thực chất tiền tệ và quỹ tiền tệ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn bên trong nó là những quan hệ kinh tế đa dạng. Nhân loại đã có những phát minh vĩ đại. Trong đó, phải kể đến việc phát minh ra tiền. Nhờ đó, người ta có thể quy mọi hoạt động khác nhau về đơn vị đo thống nhất. Trên cơ sở đó, ta có thể tính toán, so sánh được với nhau. Như vậy, tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài chính nói chung và hoạt động tài chính của doanh nghiệp nói riêng. Thông qua phương tiện này, các doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều hoạt động khác nhau trong mọi lĩnh vực. Nếu như chúng ta chỉ nhìn bề ngoài thì chỉ thấy các hoạt động đó hoạt động tách riêng với nhau, nhưng thật ra chúng lại gắn bó với nhau trong sự vận động và chu chuyển vốn, chúng được tính toán, so sánh với nhau bằng tiền.
Do vậy, tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính chủ yếu bao gồm:
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước
Phản ánh quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, giữa ngân sách Nhà nước và các doanh nghiệp thể hiện thông qua các khoản thuế mà doanh nghiệp nộp vào ngân sách Nhà nước theo luật định hay các khoản vốn kinh doanh mà Nhà nước góp vào doanh nghiệp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
Mối quan hệ này được thể hiện thông qua việc tài trợ các nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Với thị trường tiền tệ: Thông qua hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp nhận những khoản tiền vay để tài trợ cho các nhu cầu vốn ngắn hạn, đồng thời phải hoàn trả vốn vay và tiền lãi trong thời hạn nhất định.
Với thị trường vốn: Thông qua các tổ chức tài chính trung gian khác, doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn bằng cách phát hành chứng khoán như: Cổ phiếu, trái phiếu. Ngược lại doanh nghiệp cũng phải hoàn trả một khoản lãi cho các chủ thể tham gia đầu tư vào doanh nghiệp bằng một khoản tiền cố định hay phụ thuộc vào khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua thị trường tài chính, doanh nghiệp cũng có thể tận dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mình bằng cách gửi ngân hàng hay đầu tư vào chứng khoán....
Quan hệ giữa doanh nghiệp và các thị trường khác
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động... Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu hàng hóa, dịch vụ cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường.
Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
Đây là mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thể hiện thông qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp như: chính sách cổ tức, chính sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí...
Phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để chứng tỏ phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết.
1.2.1 .Ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là một hệ thống các phương pháp nhằm đánh giá tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian hoạt động nhất định. Trên cơ sở đó, giúp các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định chuẩn xác trong quá trình kinh doanh.
Bởi vậy, việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy được bức tranh về thực trạng hoạt động tài chính, xác định đầy đủ và đúng đắn những nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Từ đó có những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: các nhà đầu tư, các nhà cho vay, nhà cung cấp, khách hàng... Mỗi đối tượng này đều quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới những góc độ khác nhau.
Các đối tượng quan tâm đến thông tin của doanh nghiệp có thể được chia thành 2 nhóm: nhóm có quyền lợi trực tiếp và nhóm có quyền lợi gián tiếp.
Nhóm có quyền lợi trực tiếp bao gồm: các cổ đông, các nhà đầu tư tương lai, các chủ ngân hàng, các nhà cung cấp tín dụng, các nhà quản lý trong nội bộ doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư:
Mục đích của các nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc đầu tư vào mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Do vậy, họ luôn mong đợi tìm kiếm cơ hội đầu tư vào doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, các nhà đầu tư phải tìm cách bảo vệ cho đồng vốn đầu tư của họ. Vì lý do đó mà bên cạnh việc quan tâm đến mức sinh lời, thời gian hoàn vốn, mức độ thu hồi vốn, các nhà đầu tư còn quan tâm nhiều đến các thông tin về mức độ rủi ro, các dự án đầu tư. Trên các thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư sử dụng rất nhiều đến các chỉ số tài chính để đánh giá giá trị và khả năng sinh lãi của cổ phiếu cũng như các thông tin về xu hướng thị trường trước khi đưa ra các quyết định đầu tư.
Các cổ đông
Các cổ đông với mục tiêu đầu tư vào doanh nghiệp để tìm kiếm lợi nhuận nên quan tâm nhiều đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Họ chính là các chủ sở hữu doanh nghiệp nên sử dụng các thông tin kế toán để theo dõi tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích bảo vệ tài sản của mình đã đầu tư vào doanh nghiệp. Tình trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến giá cả cổ phiếu do doanh nghiệp cổ phần đã phát hành. Để bảo vệ tài sản của mình, các cổ đông phải thường xuyên phân tích tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp mà họ đầu tư để quyết định có tiếp tục nắm giữ cổ phiếu của các doanh nghiệp này nữa hay không.
Các chủ ngân hàng và nhà cung cấp tín dụng
Các chủ ngân hàng và nhà cung cấp tín dụng quan tâm đến khả năng sinh lợi và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ngoài ra, các ngân hàng còn quan tâm đến vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và coi đó như nguồn đảm bảo cho ngân hàng có thể thu hồi nợ khi doanh nghiệp bị thua lỗ và phá sản.
Ngoài ra, các cơ quan thuế cũng cần các thông tin từ phân tích BCTC để xác định số thuế mà doanh nghiệp phải nộp.
Nhóm có quyền lợi gián tiếp bao gồm: các cơ quan quản lý Nhà nước khác ngoài cơ quan thuế, các viện nghiên cứu kinh tế, các sinh viên, người lao động...
Các cơ quan quản lý khác của Chính phủ
Các cơ quan này cần các thông tin từ phân tích BCTC để kiểm tra tình hình tài chính, kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xây dựng các kế hoạch vĩ mô.
Người lao động
Người lao động cũng quan tâm đến các thông tin từ phân tích BCTC của doanh nghiệp để đánh giá triển vọng của nó trong tương lai. Những người đi tìm việc đều có nguyện vọng được làm việc ở những doanh nghiệp có triển vọng sáng sủa với tương lai lâu dài để hy vọng có mức lương xứng đáng và chỗ làm việc ổn định.
Các đối thủ cạnh tranh
Các đối thủ cạnh tranh cũng quan tâm đến khả năng sinh lợi, doanh thu bán hàng và các chỉ tiêu tài chính khác trong điều kiện có thể để tìm các biện pháp cạnh tranh với doanh nghiệp.
Các nhà nghiên cứu, các sinh viên kinh tế
Các nhà nghiên cứu và sinh viên kinh tế cũng quan tâm đến các thông tin từ phân tích BCTC của doanh nghiệp để phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập của họ.
Tuy các đối tượng quan tâm đến các thông tin từ phân tích BCTC của doanh nghiệp dưới các góc độ khác nhau, nhưng nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt , khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức độ lợi nhuận tối đa. Bởi vậy, việc phân tích BCTC của doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của phân tích .
1.2.2 Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1 Thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Việc phân tích tài chính không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những báo cáo tài chính mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, như các thông tin về kinh tế, tiền tệ, thuế khóa của quốc gia và quốc tế, các thông tin về kinh tế, các thông tin về pháp lý, về kinh tế đối với doanh nghiệp. Việc quyết định đều gắn với môi trường xung quanh. Chúng ta có thể kể tới một số yếu tố khách quan tác động tới doanh nghiệp và những thông tin liên quan đến các yếu tố này cũng luôn được thường xuyên cập nhật:
+ Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ góp phần thay đổi phương thức sản xuất, góp phần làm thay đổi trong quản lý doanh nghiệp dẫn tới các quyết định tài chính cũng phải thay đổi theo.
+ Doanh nghiệp luôn là đối tượng quản lý của các cơ quan Nhà nước. Mọi hoạt động của doanh nghiệp bị điều tiết và chi phối bởi cơ chế quản lý tài chính, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một sự thay đổi nhỏ về chính sách, chuẩn mực đều có thể dẫn đến quyết định đầu tư tài chính đúng đắn hay sai lầm.
+ Kinh doanh luôn gắn liền với rủi ro. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính luôn tiềm ẩn. Rủi ro rất đa dạng và phức tạp đòi hỏi các doanh nghiệp dự tính mức rủi ro có thể chấp nhận được, nó có thể làm cho doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể.
+ Doanh nghiệp với sức ép của thị trường cạnh tranh, những đòi hỏi về chất lượng, mẫu mã, chủng loại, giá cả hàng hóa, chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn, tinh tế hơn của khách hàng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần có những thông tin nắm bắt thị hiếu của khách hàng để thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nâng cao năng lực tài chính
1.2.1.2 Thông tin nội bộ doanh nghiệp
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính doanh nghiệp, chúng ta có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính. Vả lại, các doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các BCTC. Hệ thống BCTC bao gồm:
Bảng cân đối kế toán ( BCĐKT )
BCĐKT là một BCTC mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một BCTC có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Thông thường BCĐKT được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: Một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Các khoản mục được sắp xếp theo khả năng chuyển hóa thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Phần tài sản: Bao gồm tài sản ngắn hạn (TSLĐ và đầu tư ngắn hạn) và tài sản dài hạn (TSCĐvà đầu tư dài hạn). TSLĐ như: Tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán, các khoản phải thu, hàng tồn kho... TSCĐ bao gồm: TSCĐ hữu hình như nhà xưởng, máy móc...; TSCĐ vô hình như quyền sử dụng đất, quyền phát minh, sáng chế...
Phần nguồn vốn: Bao gồm nợ phải trả và VCSH.
Nợ phải trả được chia thành 2 loại: Nợ ngắn hạn (Vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác; nợ phải trả các nhà cung cấp; các khoản phải trả, phải nộp khác...) Nợ dài hạn (Nợ vay dài hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát hành trái phiếu...)
VCSH bao gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới...
Bên tài sản và nguồn vốn của BCĐKT đều có các cột chỉ tiêu: Số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong nội bảng còn có một số khoản mục ngoài BCĐKT như: Một số tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hóa nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hóa nhận bán hộ, ngoại tệ các loại...
Nhìn vào BCĐKT, các nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. BCĐKT một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp.
Báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD)
Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong BCKQKD. Khác với BCĐKT, BCKQKD cho biết sự dịch chuyển tiền trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. BCKQKD cũng giúp nhà phân tich so sánh doanh thu với số tiền thực tế nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất – kinh doanh: lãi lỗ trong năm. Như vậy, BCKQKD phản ánh hoạt động sản xuất – kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên BCKQKD: Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chinh; doanh thu từ hoạt động kinh doanh bất thường và chi phí tương ứng với từng hoạt động đó.
Những loại thuế như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất, không phải là doanh thu và không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không được phản ánh trên BCKQKD. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp và các khoản nộp khác được phản ánh trong phần: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT)
Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được chi trả hay không, cần tìm hiểu tình hình Ngân quỹ của doanh nghiệp. BCLCTT thường được xác định trong thời hạn ngắn (thường là từng tháng)
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ (thu ngân quỹ), bao gồm: Dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh ( từ bán hàng hóa hoặc dịch vụ); dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường.
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao gồm: Dòng tiền xuất quỹ xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống các BCTC, đồng thời giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các BCTC chưa được trình bày, giải thích một cách rõ ràng và cụ thể.
Mẫu thuyết minh BCTC có thể do Nhà nước quy định, có thể một phần do doanh nghiệp lập để tiện cho công tác quản lý và phân tích TCDN.
1.2.3 Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1 Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến ở trong phân tích để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.
Điều kiện so sánh
Tồn tại ít nhất hai đại lượng hoặc hai chỉ tiêu.
Để áp dụng phương pháp so sánh và phân tích các BCTC của doanh nghiệp, trước hết phải xác định số gốc để so sánh. Gốc để so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian và không gian.
Về mặt thời gian: Có thể lựa chọn kỳ kế hoạch, kỳ trước, cùng kỳ này năm trước hay lựa chọn các thời điểm thời gian ( năm, tháng, ngày, tuần...)
Về mặt không gian: Có thể lựa chọn tổng thể hay các bộ phận của cùng một tổng thể, lựa chọn các đơn vị khác cùng điều kiện tương đương... làm gốc so sánh.
Quy trình phân tích theo phương pháp so sánh có thể thực hiện bằng
hình thức:
So sánh ngang: là việc so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số tương đối và số tương đối trên từng chi tiết của BCTC.
So sánh dọc: là việc sử dụng các tỷ suất, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong từng BCTC và giữa các báo cáo để rút ra kết luận.
So sánh bằng số tuyệt đối: cung cấp thông tin về mức độ biến động của chỉ tiêu nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc và cho kết quả là số tuyệt đối, phản ánh quy mô của các hiện tượng, sự vật, hoạt động...
So sánh bằng số tương đối: Cung cấp thông tin về mức độ biến động của chi tiêu nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc và kết quả được biểu hiện bằng con số dưới dạng tỷ lệ % phản ánh xu hướng biến động của các chỉ tiêu.
1.2.3.2 Phương pháp tỷ số
Đây là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính.
Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để phân tích. Đó là tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác.
Trong phân tích TCDN, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về cơ cấu vốn, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động, nhóm tỷ số về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ số bao gồm nhiều tỷ số phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ:
Thứ nhất: Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp
Thứ hai: Việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số.
Thứ ba: Phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
1.2.3.3 Mô hình Dupont
Mô hình Dupont được vận dụng để phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các chỉ tiêu mà người ta có thể phát hiện được ra những nhân tố đã ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích theo một trình tự logic chặt chẽ.
Mô hình Dupont thường được vận dụng trong phân tích tài chính, có dạng:
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
LNST
Doanh thu thuần
LNST
Tổng tài sản
ROA(Doanh lợi trên tổng tài sản)
*
=
=
Từ mô hình phân tích trên cho thấy, để nâng cao khả năng sinh lời của một đồng tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng, quản trị doanh nghiệp phải nghiên cứu và xem xét có những biện pháp gì cho việc nâng cao không ngừng khả năng sinh lời của quá trình sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Phân tích BCTC dựa vào mô hình Dupont có ý nghĩa rất lớn đối với quản trị doanh nghiệp. Điều đó không chỉ biểu hiện ở chỗ: có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, đề ra được một hệ thống các biện pháp tỉ mỉ và xác thực nhằm tăng cường công tác cải tiến tổ chức quản lý doanh nghiệp, góp phần không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ở các kỳ kinh doanh tiếp theo.
1.2.4 Nội dung của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
1.2.4.1 Phân tích cấu trúc tài chính
Phân tích cấu trúc tài chính là việc phân tích tình hình huy động với tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp. Qua đó, giúp các nhà quản lý nắm được tình hình phân bổ tài sản và các nguồn tài trợ tài sản, biết được nguyên nhân cũng như các dấu hiệu ảnh hưởng đến cân bằng tài chính. Những thông tin này sẽ là căn cứ quan trọng để các nhà quản lý ra các quyết định điều chỉnh chính sách huy động và sử dụng vốn của mình, bảo đảm cho doanh nghiệp có được một cấu trúc tài chính lành mạnh, và tránh được những rủi ro trong kinh doanh. Đồng thời nội dung phân tích này còn góp phần củng cố các nhận định đã rút ra khi đánh giá khái quát tình hình tài chính.
Như vậy, về thực chất, phân tích cấu trúc tài chính của doanh nghiệp bao gồm những nội dung: phân tích cơ cấu tài sản, phân tích cơ cấu vốn, phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn.
Phân tích cơ cấu tài sản
Giá trị của từng bộ phận tài sản
Tổng tài sản
Tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản
Phân tích cơ cấu tài sản của doanh nghiệp được thực hiện bằng cách tính ra và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản.
=
*
100
Phân tích cơ cấu vốn
Phân tích cơ cấu vốn cũng tiến hành tương tự như phân tích cơ cấu tài sản:
Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn
Giá trị của từng bộ phận nguồn vốn
Tổng nguồn vốn
=
*
100
Việc xem xét tình hình biến động về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản (nguồn vốn) chiếm trong tổng tài sản (nguồn vốn) cho phép các nhà quản lý đánh giá khái quát tình hình phân bổ ( sử dụng) vốn và tình hình huy động vốn, mức độ hợp lý của việc phân bổ nhưng lại không cho biết các nhân tố tác động đến sự thay đổi cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn. Vì vậy, để phân tích tình hình huy động và sử dụng vốn được chính xác, nắm được các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn, cần kết hợp cả việc phân tích ngang, tức là so sánh sự biến động giữa kỳ biến động với kỳ gốc (cả về số tuyệt đối và tương đối) theo từng loại tài sản và nguồn vốn.
Phân tích mối liên hệ giữa tài sản và nguồn vốn
Phân tích cấu trúc tài chính của một doanh nghiệp nếu chỉ dừng ở việc phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu vốn sẽ không bao giờ thể hiện được chính sách huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chính sách huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp không chỉ phản ánh nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh mà còn có quan hệ trực tiếp đến an ninh tài chính, đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và do vậy, tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp. Để phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn , các nhà phân tích thường sử dụng chỉ tiêu:
1-
=
=
Hệ số nợ
VCSH
Nguồn vốn
Nợ phải trả
Tổng tài sản
1-
=
Hệ số tài trợ
Hệ số nợ so với tài sản ( hệ số nợ): là chỉ tiêu phản ánh mức độ tài trợ tài sản của doanh nghiệp bằng các khoản nợ. Hệ số này càng cao chứng tỏ mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp và chủ nợ càng lớn, mức độ độc lập về tài chính càng thấp. Do vậy, doanh nghiệp càng ít có cơ hội và khả năng tiếp cận với các khoản vay do các nhà đầu tư tín dụng không mấy mặn mà với các doanh nghiệp có hệ số nợ so với tài sản cao. Trong khi đó các chủ doanh nghiệp lại ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
1.2.4.2 Phân tích khả năng thanh toán
Chỉ số khả năng thanh toán hiện hành (Current ratio)
TSNH
Nợ NH
CR
=
Trong đó:
Tài sản ngắn hạn (Current Assets): gồm tiền và các khoản tương đương tiền; các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn; các khoản phải thu; hàng tồn kho và các tài sản ngắn hạn khác.
Nợ ngắn hạn (Current liabilitiest): gồm các khoản vay ngắn hạn; phải trả người bán; người mua trả tiền trước; thuế và các khoản phải nộp Nhà nước; phải trả công nhân viên; chi phí phải trả; phải trả nội bộ.
Hệ số này được sử dụng để đo lường khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bao gồm vay ngắn hạn và các khoản phải trả ngắn hạn bằng các tài sản của doanh nghiệp ( như tiền mặt, các khoản phải thu, hàng tồn kho...).
Tỷ số này càng lớn thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng cao và nên đạt giá trị từ 1 trở lên. Khi đó, doanh nghiệp mới đáp ứng được các khoản nợ phải trả ngắn hạn. Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu, tỷ số này ở mức 1,7-1,8 có thể được xem là tốt và tùy thuộc vào mỗi ngành công nghiệp và loại hình công ty.
Nếu hệ số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp không có khả năng hoàn thành được nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Trường hợp chỉ tiêu này thấp kéo dài ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và có thể doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản.
Nói chung, hệ số thanh toán hiện hành càng cao thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên, nếu hệ số này cao (lớn hơn 3) cũng không phải là dấu hiệu tốt. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; doanh nghiệp nên xem xét tận dụng thêm việc sử dụng nợ.
Chỉ số khả năng thanh toán nhanh (Quick ratio)
Chỉ số này được tính bằng cách loại bỏ dự trữ trong tổng tài sản ngắn hạn và đem phần chênh lệch còn lại (gọi là tài sản nhanh) chia cho tổng nợ ngắn hạn.
TSNH – Dự trữ
Nợ NH
Tài sản nhanh
Nợ NH
=
QR
=
Tài sản nhanh là những tài sản ngắn hạn có thể chuyển đổi nhanh chóng và dễ dàng thành tiền mặt (tiền, chứng khoán có tính thanh khoản, các khoản phải thu...) Chỉ số này khắc phục được những hạn chế của chỉ số khả năng thanh toán hiện hành., loại bỏ tác động của chỉ tiêu dự trữ vì dự trữ là tài sản có khả năng chuyển đổi sang tiền mặt thấp nhất.
Đa số người phân tích tài chính đều coi trọng khả năng thanh toán của doanh nghiệp với các khoản nợ ngắn hạn dựa trên tổng tài sản nhanh. Chỉ số này cao chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp dồi dào. Tuy nhiên, chỉ tiêu này quá cao sẽ dẫn tới vốn bằng tiền của doanh nghiệp nhàn rỗi, ứ đọng, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. Ở Việt Nam chưa có chưa có chuẩn về thanh toán nhanh, nhưng trên thế giới hệ số này trên 0,8 được cho là tốt. Tuy nhiên, chỉ số này cũng còn tùy theo từng ngành; các ngành nghề khác nhau thì yêu cầu đối với chỉ số thanh toán nhanh cũng khác nhau. Ví dụ: các ngành dịch vụ thì cần tiêu thụ nhiều tiền mặt, các khoản phải thu lại tương đối ít, do đó cho phép duy trì tỷ số này thấp hơn 1
Vốn lưu động ròng (Net working capital)
Để đánh giá khả năng thanh toán của các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng (hay vốn lưu động thường xuyên) của doanh nghiệp.
Vốn lưu động ròng = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn
= Tài sản dài hạn – Nợ dài hạn
Nếu vốn lưu động ròng >0
Nghĩa là tài sản ngắn hạn nhiều hơn nợ ngắn hạn. Khi đó một phần tài sản ngắn hạn sẽ được tài trợ bằng vốn dài hạn ( nợ dài hạn và VCSH). Do lấy vốn dài hạn tài trợ cho tài sản dài hạn nên khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là tốt. Bởi vì, một doanh nghiệp muốn hoạt động không bị gián đoạn thì cần thiết phải duy trì một mức vốn lưu động ròng hợp lý để thỏa mãn việc thanh toán của các khoản nợ ngắn hạn và dự trữ hàng tồn kho. Vốn lưu động ròng của doanh nghiệp càng lớn thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao. Tuy nhiên, khả năng sinh lời của doanh nghiêp không cao do chi phí sử dụng vốn dài hạn cao hơn so với sử dụng vốn ngắn hạn.
Nếu vốn lưu động ròng<0
Nghĩa là tài sản ngắn hạn ít hơn nợ ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn không đủ đáp ứng nhu cầu cho thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp bị mất cân bằng. Khi đó một phần nợ ngắn hạn sẽ được dùng tài trợ cho tài sản dài hạn. Vì thế, doanh nghiệp phải dùng một phần tài sản dài hạn để thanh toán nợ ngắn hạn khi đến hạn trả.
Vốn lưu động ròng = 0
Nghĩa là tài sản ngắn hạn được tài trợ vừa đủ bởi nợ ngắn hạn. Như vậy, tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp vừa đủ để trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn. Vì vậy cân bằng tài chính trong trường hợp này là tương đối bền vững; tuy nhiên, tính ổn định vẫn chưa cao, có nguy cơ xảy ra mất cân bằng tài chính.
Phân tích hiệu quả hoạt động
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, tài chính của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất.
Nâng cao hiệu quả hoạt động là một trong những biện pháp cực kỳ quan trọng của các doanh nghiệp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao một cách bền vững.Do vậy, phân tích hiệu quả hoạt động là một nội dung cơ bản của phân tích tài chính.
Đánh giá hiệu quả hoạt động nhằm biết được hiệu quả hoạt động kinh doanh ở mức nào, xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng. Thông qua việc đánh giá nhằm đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi đánh giá khái quát hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp , cần phải nghiên cứu một cách toàn diện về thời gian, không gian, môi trường kinh doanh và đồng thời đặt nó vào mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn xã hội.
Phân tích khái quát báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là một BCTC tổng hợp, phản ánh tình hình doanh thu, chi phí và kết quả của các hoạt động kinh doanh sau một kỳ hoạt động.
Thông qua chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, tăng, giảm giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí tài chính, chi phí khác, doanh thu bán hàng và cung cấp hàng hóa dịch vụ, doanh thu tài chính, thu nhập khác và kết quả kinh doanh sau một kỳ hoạt động, đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp qua các thời kỳ khác nhau.
Khi phân tích báo cáo kết quả kinh doanh cần phân tích:
Phân tích sự biến động của từng chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Việc phân tích bằng cách so sánh trị số của từng chỉ tiêu giữa kỳ này với kỳ trước hoặc thực hiện với kế hoạch cả về số tuyệt đối và số tương đối.
Khi đó, biết được sự tác động của các chỉ tiêu và nguyên nhân ảnh hưởng đến lợi nhuận phân tích về mặt định lượng. Đồng thời, so sánh tốc độ tăng giảm của các chỉ tiêu trên BCKQKD để biết được mức tiết kiệm của các khoản chi phí, sự gia tăng của các khoản doanh thu, nhằm khai thác các điểm mạnh, khắc phục các điểm yếu trong hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, việc phân tích còn xác định các nhân tố định tính để thấy sự ảnh hưởng của các nguyên nhân khách quan và chủ quan tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
b) Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản
Các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn quan tâm tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (Vòng quay tổng tài sản)
Trong một doanh nghiệp kinh doanh, các doanh nghiệp mong muốn tài sản vận động không ngừng, để đẩy mạnh tăng doanh thu, là nhân tố góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
=
Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích các tài sản quay được bao nhiêu vòng.
Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ các tài sản vận động nhanh, góp phần tăng doanh thu và là điều kiện để nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu này thấp, chứng tỏ các tài sản vận động chậm làm cho doanh thu của doanh nghiệp giảm. Tuy nhiên, chỉ tiêu này phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh, đặc điểm cụ thể của tài sản trong doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế
Tổng TS bình quân
Sức sinh lời của tài sản (Return on access)
ROA
=
Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản bằng mô hình Dupont
DT
Tổng TS
LNST
DT
LNST
Tổng TS
*
=
ROA
=
LNST
DT
Trong đó:
=
ROS
(Return on sales)
DT
Tổng TS
DT
Tổng TS
Hiệu suất sử dụng tổng TS
=
Chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế của tài sản mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh. Trong một kỳ phân tích, doanh nghiệp đầu tư một đồng tài sản thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định (Vòng quay vốn cố định)
Trong tài sản dài hạn, tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng cao do vậy hiệu quả của tài sản dài hạn thường do hiệu quả của tài sản cố định quyết định.
Doanh thu
TSCĐ bình quân
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
=
Chỉ tiêu này cho biết trung bình cứ một năm, một đồng vốn đầu tư vào TSCĐ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
Chỉ tiêu này thể hiện sức sản xuất của TSCĐ, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ TSCĐ hoạt động tốt. Đó là nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Lợi nhuận sau thuế
TSCĐ bình quân
Sức sinh lời của TSCĐ
Sức sinh lời của
TSCĐ
=
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng giá trị TSCĐ sử dụng trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp là tốt.
Doanh thu thuần
TSNH bình quân
Sức sản xuất của tài sản ngắn hạn
Sức sản xuất của TSNH
TSNH
=
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ tài sản ngắn hạn quay được bao nhiêu vòng. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao và ngược lại.
Sức sinh lời của tài sản ngắn hạn
Sức sinh lời của TSNH
TSNH
=
Lợi nhuận sau thuế
TSNH bình quân
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư một đồng TSNH thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là tốt góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Phân tích tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn
Doanh thu
Tiền và tương đương tiền bình quân
Vòng quay tiền
Vòng quay tiền
=
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích tiền và tương đương tiền của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng.
Tiền là tài sản có tính thanh khoản cao nhất trong tất cả các tài sản của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có lượng tiền mặt trong ngân quỹ càng lớn thì khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của doanh nghiệp càng cao. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp đều chỉ duy trì một lượng tiền mặt vừa phải trong ngân quỹ đủ để đảm bảo mức an toàn tối thiểu. Lượng tiền nhàn rỗi thường được dùng để đầu tư sinh lời.
Trong hoạt động của doanh nghiệp luôn tồn tại hình thức mua bán chịu. Vì vậy, lượng tiền tồn tại trong ngân quỹ có thời điểm rất lớn ( do khách hàng thanh toán hàng loạt) nhưng cũng có thời điểm còn lại rất hạn chế (do các đơn vị mua chịu hàng tăng). Vòng quay tiền năm sau cao hơn năm trước chưa chứng tỏ được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là tốt mà phải kết hợp phân tích một số chỉ tiêu khác.
Số ngày của một vòng quay tiền
Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay tiền sẽ kéo dài bao nhiêu ngày. Chỉ tiêu này thấp chứng tỏ doanh nghiệp tích trữ tiền mặt ít hoặc là do tiền mặt của doanh nghiệp quay vòng nhanh.
Số ngày của 1 vòng quay tiền
=
Tiền và tương đương tiền * 360
Doanh thu thuần
Vòng quay dự trữ
Giá vốn hàng bán
Dự trữ bình quân
Cho phép xem xét hiệu quả trong việc quản lý dự trữ nhằm đánh giá tính thanh khoản của hàng hóa dự trữ trong doanh nghiệp. Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Vòng quay dự trữ
=
Chỉ tiêu này cho biết trong một năm thì hàng hóa dự trữ của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng.
Đối với các chỉ tiêu về vòng quay thì càng cao càng tốt. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn đầu tư vào hàng hóa dự trữ vận động không ngừng. Đó là nhân tố để tăng doanh thu, góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất – kinh doanh được tiến hành liên tục, không bị gián đoạn đòi hỏi doanh nghiệp phải dự trữ hàng hóa hợp lý, tức là vừa đáp ứng nhu cầu kinh doanh liên tục, vừa không làm gia tăng chi phí tồn kho gâu ứ đọng vốn. Lượng dự trữ hợp lý phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu vào quy mô sản xuất – tiêu thụ, mức độ chuyên môn hóa, hệ thống cung cấp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, tính thời vụ, định mức tiêu hao vật tư...
Vòng quay dự trữ là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đã quản lý có hiệu quả hàng hóa dự trữ, hàng hóa dự trữ được bán càng nhanh thì vốn lưu trong kho càng thấp. Tuy nhiên, nếu vòng quay này quá cao cũng có nghĩa là doanh nghiệp đang bị mất đi các đơn đặt hàng, thiếu nguyên vật liệu hoặc giá trị hàng hóa dự trữ đang giảm. Ngược lại, nếu vòng quay dự trữ quá thấp là dấu hiệu doanh nghiệp đang bị ứ đọng hàng trong kho do chưa bán được vì hàng kém chất lượng hay nhu cầu sản xuất tăng cao.
Một lưu ý quan trọng: khi xem xét vòng quay dự trữ cần liên hệ với ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, chính sách dự trữ, tính thời vụ với chu kỳ sống của sản phẩm, hàng hóa. Chẳng hạn, đối với những doanh nghiệp bán lẻ nông sản, thực phẩm, vòng quay dự trữ thường cao vì họ phải đối mặt với những sản phẩm dễ hỏng; đối với những doanh nghiệp bán đồ trang sức hay thiết bị, vòng quay dự trữ có thể thấp.
Số ngày của một vòng quay dự trữ
Số ngày của một vòng quay dự trữ
Dự trữ bình quân * 360
Giá vốn hàng bán
=
Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay dự trữ kéo dài bao nhiêu ngày.
Chỉ tiêu này cao chứng tỏ lượng hàng hóa tồn đọng của doanh nghiệp nhiều gây ứ đọng vốn.
Vòng quay khoản phải thu
Vòng quay khoản phải thu = Doanh thu / khoản phải thu bình quân
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích khoản phải thu quay được bao nhiêu vòng.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp thu hồi tiền hàng kịp thời, ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, chỉ tiêu này cao quá có thể phương thức thanh toán của doanh nghiệp quá chặt chẽ, khi đó sẽ ảnh hưởng đến khối lượng tiêu thụ.
KPT bình quân * 360
Doanh thu thuần
Số ngày thu tiền (Kỳ thu tiền bình quân)
=
Số ngày thu tiền
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp mất bao nhiêu ngày để thu được các khoản phải thu.
Khi xem xét chỉ tiêu này cũng cần quan tâm tới yếu tố sức mạnh của doanh nghiệp trong ngành. Với những doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, họ hoàn toàn có thể cho phép thởi hạn thu hồi các khoản phải thu dài hơn so với các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính yếu hơn.
c) Phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Vòng quay của vốn chủ sở hữu
Doanh thu thuần
VCSH bình quân
=
Vòng quay của vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, vốn chủ sở hữu quay được bao nhiêu vòng.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ sự vận động của vốn chủ sở hữu nhanh, góp phần nâng cao lợi nhuận và hiệu quả của hoạt động kinh doanh.
EBIT
Lãi vay
Khả năng thanh toán lãi vay (Time interest earned ratio)
TIE
=
Trong đó: EBIT (Earnings Before Interest & Tax): Lợi nhuận trước thuế và
lãi vay.
Lãi vay là một khoản chi phí cố định. Chỉ số khả năng thanh toán lãi vay cho biết doanh nghiệp sẵn sàng trả lãi đến mức nào; liệu số vốn đi vay có được sử dụng hiệu quả đến mức có thể đem lại những khoản lợi nhuận cao đủ để bù đắp những chi phí về tiền lãi hay không. Nếu doanh nghiệp không trả được các khoản nợ vay, doanh nghiệp có nguy cơ phá sản. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng sinh lợi của vốn vay càng tốt.
LNST
VCSH bình quân
Sức sinh lời của vốn chủ sở hữu (Return on equity)
ROE
=
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng VCSH tạo ra được bao nhiêu đồng LNST. Chỉ tiêu này càng cao, càng biểu hiện xu hướng tích cực.
Chỉ tiêu này cao thường giúp các nhà quản lý có thể đi huy động vốn trên thị trường tài chính để tài trợ cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sức sinh lời của VCSH cao không phải lúc nào cũng thuận lợi vì có thể là do ảnh hưởng của VCSH nhỏ, mà VCSH nhỏ thì mức độ mạo hiểm càng lớn. Do đó, khi phân tích chỉ tiêu này cần kết hợp với cơ cấu của VCSH trong từng doanh nghiệp cụ thể.
Sức sinh lời của nguồn vốn
=
EBIT
Tổng nguồn vốn
Sức sinh lời của nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp sử dụng 1 đồng vốn vào phục vụ cho hoạt động kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tổng vốn tốt, khi đó ta so sánh với lãi suất tiền vay ngân hàng
Chỉ tiêu này cao hơn lãi suất tiền vay ngân hàng thì đó là động lực giúp các nhà quản trị kinh doanh đưa ra quyết định vay tiền đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chỉ tiêu này thấp hơn lãi suất tiền vay ngân hàng thìdoanh nghiệp cần thu hẹp phạm vi vay tiền nhằm đảm bảo an toàn và phát triển vốn cho hoạt động kinh doanh.
∑TS
VCSH
DT
∑TS
LNST
DT
LNST
VCSHbq
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn thông qua mô hình Dupont
*
*
=
=
ROE
ROE là một chỉ tiêu tổng hợp về hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, nó chịu ảnh hưởng của các chỉ tiêu ROS (return on sales); hiệu suất sử dụng tổng tài sản; hệ số nhân vốn. Muốn tăng ROE doanh nghiệp cần phải có chính sách tốt cho tất cả các chỉ tiêu chứ không phải chỉ tốt cho một chỉ tiêu nào đó. Đồng thời, dựa vào phương pháp phân tích Dupont, các nhà quản lý có thể nhanh chóng điều chỉnh những thay đổi không tốt cho ROE của doanh nghiệp vì đã biết được nguyên nhân là do đâu.
Theo đó, để tăng ROS doanh nghiệp cần quan tâm LNST và doanh thu, đó là một đồng doanh thu thì có bao nhiêu thu nhập thực sự cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện chính sách sản xuất mà doanh thu tăng nhiều hơn so với chi phí, có như thế thì doanh nghiệp mới tăng được lợi nhuận, từ đó tăng thu nhập sau thuế, tăng ROE.
Doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến hiệu quả sử dụng tài sản, xem xét một đồng đầu tư vào tài sản thu được bao nhiêu đồng doanh thu để từ đó có chính sách quản lý đối với tài sản, chính sách bán hàng và cung cấp dịch vụ tốt hơn.
Đối với hệ số nhân vốn, doanh nghiệp cần có chính sách để tăng hệ số này nhưng vẫn đảm bảo được tính tự chủ của doanh nghiệp. Vì hệ số này tăng có nghĩa là tài sản hình thành từ nguồn VCSH giảm và tài sản hình thành từ nguồn vốn đi vay tăng. Điều này làm giảm tính tự chủ của doanh nghiệp và tăng rủi ro tài chính cho doanh nghiệp. Nhưng điều này có thể góp phần tăng lợi nhuận sau thuế do tổng thuế giảm.
1.2.5. Những nhân tố có thể làm sai lệch kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp
Những hạn chế tiềm ẩn trong phân tích tài chính doanh nghiệp tập trung ở những điểm cần quan tâm như:
Phân tích báo cáo tài chính thường chỉ có ý nghĩa trong những công ty nhỏ và không hoạt động đa ngành.
Có nhiều công ty quy mô rất lớn và hoạt động đa ngành thậm chí hoạt động trong những ngành nghề rất khác nhau, nên rất khó xây dựng và ứng dụng hệ thống các tỷ số bình quân ngành có ý nghĩa đối với những công ty này. Do đó, phân tích báo cáo tài chính thường chỉ có ý nghĩa trong những công ty nhỏ và không hoạt động đa ngành.
Ảnh hưởng của lạm phát
Lạm phát có thể ảnh hưởng xấu và làm sai lệch thông tin tài chính được ghi nhận trên các BCTC khiến cho việc tính toán các tỷ số phân tích tài chính trở nên sai lệch.
Ảnh hưởng của yếu tố thời vụ
Các yếu tố thời vụ cũng làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của công ty và khiến cho các tỷ số tài chính có khuynh hướng thay đổi bất thường. Chẳng hạn vào mùa vụ tồn kho tăng lên cao hơn bình thường, nếu sử dụng tỷ số vòng quay hàng tồn kho sẽ thấy công ty có vẻ hoạt động có vẻ kém hiệu quả.
Độ tin cậy của các BCTC không cao
Các tỷ số tài chính được xây dựng và tính toán từ các BCTC nên mức độ chính xác của nó phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của các BCTC. BCTC lại chịu ảnh hưởng nặng nề bởi phương pháp kế toán hay nguyên tắc thực hành kế toán. Thế nhưng, nguyên tắc thực hành kế toán lại có thể khác nhau giữa các công ty, các ngành và các quốc gia khác nhau. Do đó, nguyên tắc thực hành kế toán có thể làm sai lệch đi các chỉ số tài chính.
Các nhà quản lý có thể lợi dụng các nguyên tắc thực hành kế toán để chủ động tạo ra các BCTC và qua đó tạo ra các tỷ số tài chính như ý muốn của mình khiến cho việc phân tích BCTC không còn là công cụ đánh giá khách quan. Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp như: giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn kho, giảm dự phòng nợ khó đòi, không ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá xuống dưới giá trị thuần, vốn hóa các khoản chi phí không đủ điều kiện. Những thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận dựa trên các nguyên tắc thực hành kế toán thực chất không làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại.
Đôi khi công ty có vài tỷ số rất tốt nhưng vài tỷ số khác lại rất xấu làm cho việc đánh giá chung tình hình tài chính của công ty trở nên thật khó khăn để nói được đó là một công ty mạnh hay yếu.
Bảng 1.1: Tóm tắt các chỉ số tài chính
Nhóm các chỉ số về khả năng thanh toán
Chỉ số khả năng thanh toán hiện hành
TSNH / Nợ NH
Chỉ số khả năng thanh toán nhanh
(TSNH – Dự trữ ) / Nợ NH
Vốn lưu động ròng
TSNH – Nợ NH
Nhóm các chỉ số về hiệu quả sử dụng TS
Hiệu quả sử dụng tổng TS
DT / Tổng TS bq
Sức sinh lời của TS (ROA)
LNST / Tổng TS bq
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
DT / TSCĐ bq
Sức sinh lời của TSCĐ
LNST / TSCĐ bq
Sức sản xuất của TSNH
DT / TSNH bq
Sức sinh lời của TSNH
LNST / TSNH bq
Chỉ tiêu về tốc độ luân chuyển TSNH
Vòng quay tiền
DT / Tiền và tương đương tiền bq
vòng quay dự trữ
Giá vốn hàng bán / Dự trữ bq
Vòng quay khoản phải thu
DT / khoản phải thu bq
Nhóm chỉ số về hiệu quả sử dụng vốn
Vòng quay của VCSH
DT / VCSH bq
Sức sinh lời của VCSH (ROE)
LNST / VCSH bq
Khả năng thanh toán lãi vay
EBIT / lãi vay
Sức sinh lời của nguồn vốn
EBIT/ Tổng nguồn vốn
Chỉ số về mối liên hệ giữa TS và NV
Hệ số nợ so với tài sản (hệ số nợ)
Nợ phải trả / Tổng TS
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI
TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI THỦY
2.1 Giới thiệu chung về Tổng công ty vận tải thủy
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngày 13/8/1996 Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải có quyết định số 2125QĐ/TCCB-LĐ thành lập doanh nghiệp nhà nước- Tổng công ty Đường sông miền Bắc (Tổng công ty 90) trực thuộc Bộ Giao thông vận tải trên cơ sở tách một số đơn vị sản xuất kinh doanh trực thuộc Cục Đường sông Việt Nam và nhận thêm một số doanh nghiệp của địa phương và đơn vị khác. Thực hiện chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng chính phủ có quyết định số 12/2007/QĐ-TTG ngày 24/01/2007 phê duyệt đề án chuyển Tổng công ty Đường sông miền Bắc sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải có quyết định số 388/QĐ-BGTVT ngày 27/02/2007 về việc thành lập Công ty mẹ - Tổng công ty Vận tải thủy, trực thuộc Bộ Giao thông vận tải.
Ngay sau hơn một năm thành lập, những định hướng phát triển Tổng Công ty do HĐQT và TGĐ đặt ra ngay từ khi thành lập dần dần đưa vào thực tế cuộc sống trên sông nước đã đặt nền móng cho sự tăng trưởng nhanh và vững chắc trong tương lai của toàn TCT.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức và quản lý sản xuất, TCT phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp trên thương trường vận tải lẫn quan điểm chưa thống nhất ngay trong nội bộ TCT và các doanh nghiệp. Hơn nữa, suốt hơn mười năm qua, cơ chế thị trường đã tác động mạnh đến hoạt động vận tải sông , nhiều doanh nghiệp tư nhân ra đời đầu tư vốn liếng, đóng mới nhiều loại phương tiện cạnh tranh quyết liệt với đội tàu sông của TCT. Trong lúc khối lượng hàng hóa vận chuyển giảm sút thì từ đầu năm 1999, Nhà nước áp dụng luật thuế giá trị gia tăng. Tám tháng đầu năm, vận tải phải chịu thuế suất 10%, đến tháng 9 năm 1999 mới giảm còn 5%. Điều này gây cú sốc đối với cả chủ hàng lẫn người vận tải nhưng thua thiệt nhất vẫn là người vận tải vì giá cước không tăng. Có thể nhận định rằng, đây là những thời điểm khó khăn tác động xấu đến quá trình sản xuất, khai thác đội tàu của toàn TCT. Trước xu thế giành lại ảnh hưởng trên thị trường vận tải sông thể hiện rõ rệt ở khâu vận chuyển than, TCT nỗ lực tập trung sức lực và trí tuệ để tìm cách tháo gỡ khó khăn cho các thành viên. Đồng thời, thêm quyết tâm đa dạng hóa đội hình vận tải, bến bãi,đa dạng hóa mặt hàng vận chuyển, đáp ứng các yêu cầu của chủ hàng về phương thức giao nhận hàng, đảm bảo an toàn giao thông và kiên quyết loại bỏ hiện tượng tiêu cực trong vận tải.
Những cố gắng của toàn TCT đã mang lại hiệu quả đáng mừng là năm 2000, 2001 và 2002, sản lượng vận tải ổn định trong mấy năm liền, ở mức bình quân 3.65 triệu tấn/năm rồi tăng vụt lên từ năm 2003 với sản lượng hơn 4,1 triệu tấn, năm 2004 lại tăng lên 6,18 triệu tấn và năm 2005 đạt hơn 7,0 triệu tấn.
Ngoài mặt hàng than, điện, đạm, các đơn vị vận tải chủ động khai thác và tổ chức vận chuyển các mặt hàng khác như than chuyển tải từ mỏ ra khu vực Hòn Nét (Hạ Long) xuất khẩu, khai thác các loại hàng clinke, hàng bao, hàng nặng, hàng cồng kềnh và vật liệu xây dựng. Nhưng riêng mặt hàng container tuyến ngắn từ Cửa Dứa – Hạ Long về cảng Cảng Cái Lân, cảng Hải Phòng do hai công ty vận tải 1 và 4 khai thác, tổ chức thực hiện đã tăng sản lượng vận tải rất lớn. Năm 2004, hai công ty đạt 1,5 triệu tấn tăng 134% so với năm 2003. Nhiều đoàn tàu đạt 3-4 chuyến/ tháng. Đến năm 2005 , TCT tiếp tục thực hiện các hợp đồng kết với các ngành than, điện với nhu cầu tăng so với năm 2004. Ngoài ra các doanh nghiệp vận tải cũng tăng cường khai thác và vận chuyển nhiều loại hàng với tổng số đạt 3,7 triệu tấn. Khối lượng này bằng sản lượng hàng hóa cả TCT vận chuyển trong năm 1997, hơn hẳn các năm 1998,1999. Nhờ các đơn vị vận tải đạt sản lượng và doanh thu tăng so với năm 2004 nên toàn TCT đã vận chuyển được 7 triệu tấn hàng.
Năm 2006, tất cả các công ty vận tải thủy đã chính thức hoạt động theo mô hình công ty mẹ - Công ty con, TCT có những bước chuyển mạnh về cơ cấu tổ chức giữa lúc thị trường có nhiều diễn biến phức tạp nhưng các chỉ tiêu về kinh tế kỹ thuật vẫn tăng lên.
Thành tích vượt bậc đạt được trong vận tải từ năm 2000 trở lại đây cho thấy sự thống nhất đường lối và cách tiến hành phù hợp với từng giai đoạn đã tạo cho các doanh nghiệp vận tải thành viên khả năng tổ chức sản xuất, phát huy hết năng lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn để từng bước ổn định sản xuất kinh doanh, sau đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng bằng các loại hình kinh doanh đa dạng, đa sản phẩm.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức
2.1.2.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Tổng công ty vận tải thủy có 4 phòng ban chức năng, 12 đơn vị trực thuộc, 6 công ty con và 3 công ty liên kết.
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ mô hình tổ chức của Tổng công ty vận tải thủy
Hội đồng quản trị
4 phòng ban chức năng
12 đơn vị trực thuộc công ty mẹ
6 công ty con
3 công ty liên kết
Tổng giám đốc
Ban kiểm soát
Bốn phòng ban chức năng của công ty gồm có:
Phòng Kinh doanh
Phòng Tài chính kế toán
Phòng Khoa học kỹ thuật và hợp tác quốc tế
Văn phòng tổng hợp
Mười hai đơn vị trực thuộc công ty mẹ gồm có:
Cảng Hà Nội
Cảng Việt Trì
Công ty Xây lắp và tư vấn thiết kế
Công ty Nhân lực và thương mại quốc tế
Công ty Đầu tư và Xây dựng Hồng Hà
Trung tâm vận tải – đại lý dịch vụ và vận tải
Chi nhánh TCT Vận tải thủy tại Quảng Ninh
Chi nhánh TCT Vận tải thủy tại Hòa Bình – Cảng Bích Hạ
Trường dạy nghề GTVT thủy
Công ty đóng tàu và vận tải Kim Sơn
Chi nhánh TCT Vận tải thủy tại TP Hồ Chí Minh
Công ty vật tư kỹ thuật và xây dựng công trình đường thủy
Các công ty con:
Công ty CP Vận tải thủy 1
Công ty CP Vận tải thủy 2
Công ty CP Vận tải thủy 3
Công ty CP Vận tải thủy 4
Công ty CP Cảng Hà Bắc
Công ty CP VTT Thái Bình
Các công ty liên kết:
Công ty CP vận tải thủy Nam Định
Công ty CP cơ khí 75
Công ty vận tải và cơ khí đường thủy
2.1.3 Hoạt động sản xuất kinh doanh chính của Tổng công ty vận tải thủy
a) Sản xuất vận tải: Duy trì mối quan hệ với các bạn hàng truyền thống theo phương châm hợp tác – tin tưởng – đôi bên cùng có lợi, chấp nhận cạnh tranh bằng việc nâng cao chất lượng phục vụ, giá cả phù hợp, tích cực khai thác thêm các mặt hàng mới, tuyến mới như hàng nặng, container tuyến ngắn, clanke, hàng qua Cảng Hải Phòng, vật liệu xây dựng phục vụ nhà máy thủy điện Sơn La… Để hạn chế ách tắc phương tiện tại các đầu bến, nâng cao năng suất phương tiện, hạ giá thành vận tải, TCT đã xây dựng phương án vận chuyển, điều hành phương tiện hợp lý, chạy tàu nhanh, tiết kiệm chi phí và giảm hao hụt hàng hóa. Do tổ chức sản xuất có hiệu quả nên từ năm 2000 đến nay liên tục được Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam tín nhiệm ủy quyền cho TCT tổ chức điều hành vận chuyển than điện, than đạm, than xi măng. Do được chủ động điều hành, tổ chức phối kết hợp tốt với chủ hàng trong giao nhận và xếp dỡ hàng ở hai đầu bến, điều tiết phương tiện vận tải hợp lý – duy trì kỷ cương điều hành chung nen năng suất vận tải nói chung và năng suất than điện, than đạm nói riêng tăng khá cao, năng suất bình quân đạt trên 2 chuyến/tháng, có nhiều đoàn tàu đã đạt năng suất 3-4 chuyến/tháng. Điều này khẳng định việc điều hành phương tiện tập trung của TCT và các đơn vị thành viên là hoàn toàn đúng đắn và hợp với quy luật phát triển.
b) Sản xuất cảng sông: Ngoài việc nâng cao chất lượng phục vụ, cân đối giảm giá thành, bốc xếp hợp lý, tận dụng lợi thế mở thêm các dịch vụ kinh doanh, xăng dầu, than, khai thác hiệu quả kho bãi để giải quyết việc làm tăng thu. Các Cảng còn mở thêm các điểm bốc xếp vệ tinh, đầu tư, nâng cấp kho, bãi, do đó thu hút được nhiều mặt hàng mới như: Sô đa của Cảng Hà Bắc, Xỉ pirit, đá trắng xuất khẩu của Cảng Việt Trì, Vật liệu xây dựng phục vụ xây dựng Nhà máy thủy điện Sơn La của Cảng Hòa Bình…Vì vậy, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng các đơn vị Cảng vẫn lo đủ hàng bốc xếp có doanh thu năm sau cao hơn năm trước, các đơn vị thực sự khó khăn đã ổn định sản xuất và có tăng trưởng.
c) Sản xuất cơ khí: Thời gian qua là sự thử thách lớn đối với các đơn vị cơ khí, do nhu cầu sản xuất thấp nhưng đòi hỏi công nghệ cao, trong khi đó hầu hết các đơn vị cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, chưa tìm được đầu ra cho các sản phẩm. Trước tình hình đó các đơn vị đã mở rộng thị trường, làm tốt công tác tiếp thị, nâng cao chất lượng, có cơ chế hợp lý, tìm mua vật tư giá rẻ để hạ giá thành sản phẩm, đầu tư đúng hướng, có hiệu quả. Kết qủa là đã tìm được sản phẩm thích hợp, tạo được việc làm, doanh thu tăng cao. Công ty cơ khí 75, Công ty vật tư kỹ thuật và công trình đường thủy, các nhà máy sửa chữa phương tiện thủy có thời điểm phải tăng ca và thuê lao động ở các đơn vị khác mới đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, đời sống được cải thiện, mua sắm thêm phương tiện, thiết bị và nâng cấp cơ sở vật chất, tạo được lòng tin trong CBCNV và khẳng định được thương hiệu của mình trên thương trường.
d) Sản xuất xây dựng cơ bản: Đây là nghề mới, được mở ra từ năm 2002 để thực hiện chiến lược đa ngành – đa nghề của Tổng công ty, trong khi các đơn vị xây dựng cơ bản trong ngành đang gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, việc làm thì các đơn vị của TCT đã có tư duy mới trong việc mở rộng thị trường – quy mô sản xuất – đa dạng hóa ngành nghề tạo ra sự đột biến trong sản xuất kinh doanh. Ngoài việc thực hiện các phần việc trong nội bộ TCT đã vươn ra thị trường các tỉnh trong cả nước – tham gia đấu thầu và đã trúng thầu nhiều công trình có giá trị lớn, khẳng định vị thế của mình trên thương trường.
e) Sản xuất dịch vụ: Không chỉ quan tâm chỉ đạo các mặt sản xuất chính, các đơn vị thành viên còn chú trọng đến việc mở rộng các ngành nghề dịch vụ để tăng thêm việc làm, tăng thu như: kinh doanh xi măng, xăng dầu, than, xây dựng cơ bản, xuất khẩu lao động, kinh doanh bến xe… Doanh thu từ các dịch vụ này trong những năm đầu chỉ chiếm 15 -20% đến nay đã tăng lên 40 – 45% tổng doanh thu toàn TCT hàng năm.
2.2 Phân tích tình hình tài chính tại Tổng công ty vận tải thủy
2.2.1 Phân tích cấu trúc tài chính
Phân tích cơ cấu tài sản
Căn cứ vào bảng cân đối kế toán, ta lập bảng phân tích cơ cấu tài sản của TCT. Trong đó, cột “ số tiền” phản ánh trị số của từng chỉ tiêu ( của từng loại tài sản và tổng tài sản ở thời điểm tương ứng). Cột “ tỷ trọng” phản ánh tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản.
Bảng 2.1 Cơ cấu tài sản của TCT
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2007
Năm 2006
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
A. Tài sản ngắn hạn
293438
31,9
248719
32,9
268992
37,4
1. Tiền và tương đương tiền
32035
3,49
33099
4,37
30547
4,25
2. Đầu tư tài chính ngắn hạn
532
0,06
545
0,07
497
0,07
3. Phải thu ngắn hạn
149261
16,2
118094
15,6
112045
15,6
4. Hàng tồn kho
100167
10,9
85692
11,3
114573
15,9
5. Tài sản ngắn hạn khác
11443
1,25
11291
1,49
11330
1,58
B. Tài sản dài hạn
625452
68,1
508380
67,1
449706
62,6
1..Tài sản cố định
539069
58,7
498461
65,8
443258
61,7
2.. Đầu tư tài chính dài hạn
79579
8,66
2820
0,37
2463
0,34
3. Tài sản dài hạn khác
5035
0,55
4711
0,62
3985
0,55
Tổng tài sản
918890
100
757099
100
718698
100
Nguồn: Báo cáo tài chính của TCT
Tổng tài sản trung bình của ngành vận tải thủy năm 2006, 2007, 2008 của các công ty trong ngành vận tải thủy lần lượt là: 251159; 723742; 919333 triệu đồng. Như vậy, so về quy mô tổng tài sản thì Tổng công ty vận tải thủy nằm ở mức trung bình so với các công ty cùng ngành.
Ta kết hợp so sánh tỷ trọng tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn của TCT với 2 công ty cùng ngành vận tải thủy đó là “ Tổng công ty cổ phần vận tải dầu khí” và “ Công ty cổ phần vận tải xăng dầu”. ( Biểu đồ 2.1; 2.2; 2.3)
Qua bảng phân tích cơ cấu tài sản kết hợp với biểu đồ so sánh tỷ trọng tài sản với 2 công ty trong cùng ngành, ta có thể thấy tỷ trọng tài sản ngắn hạn của TCT cao hơn so với 2 công ty cùng ngành. Tỷ trọng này tương đối ổn định qua các năm. Tuy nhiên, tỷ trọng tài sản ngắn hạn có xu hướng giảm dần từ năm 2006 đến 2008. Dựa vào bảng ta có thể thấy tỷ trọng là tài sản ngắn hạn giảm phần lớn là do hàng tồn kho. Hàng tồn kho chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng TSNH và tỷ trọng của nó giảm khá rõ từ năm 2006 đến năm 2007. Điều này là một tín hiệu tốt chứng tỏ lượng hàng ứ đọng của TCT đã giảm. Tuy nhiên, trong TSNH, các khoản phải thu của TCT chiếm tỷ trọng cao nhất và có xu hướng tăng nhẹ qua các năm. Điều này lại không phải là dấu hiệu tốt vì nó sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp. Khoản mục “Đầu tư tài chính ngắn hạn” của TCT chiếm tỷ trọng rất thấp chứng tỏ công ty tập trung cho sản xuất kinh doanh mà ít quan tâm đến việc đầu tư tài chính ngắn hạn. Trong tương lai, TCT cũng nên xem xét đến việc đầu tư tài chính. Bởi vì, đầu tư tài chính cũng là một hoạt động quan trọng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nhằm phát huy hết tiềm năng sẵn có cũng như lợi thế của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Lượng tiền mặt của TCT chiếm tỷ trọng vừa phải và tương đối ít biến động qua các năm. Trên thực tế, vốn bằng tiền là tài sản linh hoạt nhất nên việc dự trữ một lượng tiền nhất định giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán.
Tài sản dài hạn của TCT và 2 công ty cùng ngành đều chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản. Điều này cũng là dễ hiểu vì đây đều là các doanh nghiệp trong lĩnh vực vận tải nên tài sản cố định chiếm tỷ trọng cao. Đặc biệt, thực hiện chủ trương đổi mới TSCĐ của Hội đồng quản trị Tổng công ty, các doanh nghiệp vận tải trong TCT đã tập trung các nguồn vốn trung và dài hạn để đổi mới đầu tư TSCĐ. Tài sản dài hạn có xu hướng tăng dần về tỷ trọng qua các năm. Nhưng tỷ trọng tài sản cố định lại giảm tỷ trọng tương đối so với năm 2007. Tuy nhiên, nếu xét thêm cả bảng xu hướng biến động theo thời gian thì về số tuyệt đối tài sản cố định vẫn tăng 8,1% so với năm 2007. Điều này cho thấy cơ sở vật chất kỹ thuật của TCT vẫn được tăng cường đầu tư để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT. Nguyên nhân của giảm tỷ trọng này chính là do phần tăng đột biến của đầu tư tài chính dài hạn mà cụ thể chủ yếu là do đầu tư vào các công ty con. Ngoài ra, các tài sản dài hạn khác chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ và ổn định qua các năm.
Biểu đồ 2.1 Cơ cấu tài sản của TCT vận tải thủy
Biểu đồ 2.2 Cơ cấu tài sản của Công ty cổ phần vận tải xăng dầu VIPCO (VIP)
Biểu đồ 2.3 Cơ cấu tài sản của TCT cổ phần vận tải dầu khí (PVT)
Bảng 2.2 Xu hướng biến động của tài sản
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2007
Năm 2006
Số tiền
Tỷ lệ (%)
Số tiền
Tỷ lệ (%)
Số tiền
A. Tài sản ngắn hạn
293438
18
248719
-7,5
268992
1. Tiền và tương đương tiền
32035
-3,21
33099
8,4
30547
2. Đầu tư tài chính ngắn hạn
532
-2,4
545
9,7
497
3. Phải thu ngắn hạn
149261
26,4
118094
5,4
112045
4. Hàng tồn kho
100167
16,9
85692
-25,2
114573
5. Tài sản ngắn hạn khác
11443
1,3
11291
0,34
11330
B. Tài sản dài hạn
625452
23
508380
13,05
449706
1..Tài sản cố định
539069
8,1
498461
12,25
443258
2.. Đầu tư tài chính dài hạn
79579
2722
2820
14,5
2463
3. Tài sản dài hạn khác
5035
6,87
4711
18,2
3985
Tổng tài sản
918890
21,4
757099
5,3
718698
Nguồn: Báo cáo tài chính của TCT
Ngoài bảng phân tích tỷ trọng tài sản, thì để thấy được mức độ tăng trưởng và xu hướng biến động theo thời gian của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản. Chúng ta xem xét đến bảng 2.2 xu hướng biến động theo thời gian.
Như vậy, xét về biến động thời gian thì tổng tài sản của TCT có xu hướng tăng dần qua các năm và tương đối ổn định so với 2 công ty cùng ngành. Đặc biệt, năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên nền kinh tế nước ta cũng chịu ảnh hưởng khá rõ rệt. Tuy vậy, tổng tài sản của TCT vẫn tăng đáng kể so với năm 2007 (21,4%). Điều này chứng tỏ nỗ lực rất lớn của TCT trong việc vượt qua khó khăn.
Đặc biệt, nhìn vào bảng xu hướng biến động theo thời gian, ta thấy khoản mục đầu tư tài chính dài hạn 2008 tăng 2722% so với năm 2007. Trong đó sự gia tăng này chủ yếu là do khoản đầu tư vào công ty con 97,7% của khoản đầu tư tài chính dài hạn. Thực hiện chủ trương sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, Thủ tướng chính phủ có quyết định sơ 12/2007/ QĐ-TTG phê duyệt đề án chuyển Tổng công ty đường sông miền Bắc sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. Do đó, năm 2008 TCT đã đầu tư một phần lớn tài sản vào các công ty con. Phần còn lại là đầu tư vào các công ty liên kết, liên doanh.
Phân tích cơ cấu vốn
Bảng 2.3 Cơ cấu vốn
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2007
Năm 2006
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
Số tiền
Tỷ
trọng
(%)
A. Nợ phải trả
517676
56,3
444035
58,6
424032
59
1. Nợ ngắn hạn
325522
35,4
281935
37,2
309186
43
2. Nợ dài hạn
192155
20,9
162101
21,4
114846
16
B. Vốn chủ sở hữu
401214
43,7
313064
41,4
294666
41
1. Vốn chủ sở hữu
397367
43,2
307946
40,7
291306
40,5
2. Nguồn kinh phí và
quỹ khác
3846
0,42
5118
0,67
3360
0,5
Tổng nguồn vốn
918890
100
757099
100
718698
100
Nguồn: Báo cáo tài chính của TCT
Bảng 2.4 Xu hướng biến động của cơ cấu vốn
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2007
Năm 2006
Số tiền
Tỷ lệ
(%)
Số tiền
Tỷ Lệ
(%)
Số tiền
A. Nợ phải trả
517676
16,58
444035
4,71
424032
1. Nợ ngắn hạn
325522
15,5
281935
-8,8
309186
2. Nợ dài hạn
192155
18,6
162101
41,1
114846
B. Vốn chủ sở hữu
401214
28,1
313064
6,24
294666
1. Vốn chủ sở hữu
397367
29,1
307946
5,71
291306
2. Nguồn kinh phí và
quỹ khác
3846
-24,8
5118
52,32
3360
Tổng nguồn vốn
918890
21,37
757099
5,3
718698
Nguồn: Báo cáo tài chính của TCT
Nguồn vốn chủ sở hữu trung bình ngành các năm 2006, 2007, 2008 lần lượt là:92.546; 238.407; 353.844 triệu đồng. Như vậy, ta thấy vốn chủ sở hữu của tổng công ty cao hơn so với các công ty trong ngành. Điều này chứng tỏ tổng công ty khá độc lập về mặt tài chính.
Dựa vào bảng phân tích cơ cấu vốn của TCT vận tải thủy theo tỷ trọng kết hợp so sánh với 2 công ty cùng ngành vận tải thủy, ta thấy tổng vốn của TCT tương đối ổn định so với 2 công ty cùng ngành. Cả 2 công ty này đều có tổng vốn tăng đột biến sau khi cổ phần hóa. TCT cổ phần vận tải dầu khí cổ phần hóa năm 2007 và tổng vốn năm 2008 tăng 3,3 lần so với năm 2007. Công ty cổ phần vận tải dầu khí VIPCO cổ phần hóa năm 2006 và tổng vốn của công ty năm 2007 tăng 2,25 lần. TCT
Nợ dài hạn của TCT chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng vốn( khoảng 20%) và nhỏ hơn so với 2 công ty cùng ngành. Như đã phân tích trong phần cơ cấu tài sản thì tỷ trọng TSCĐ chiếm tỷ trọng cao trong tổng TS (cả 3 năm đều xấp xỉ 60%). Như vậy, TSCĐ của TCT được tài trợ chủ yếu bằng VCSH và một phần nợ ngắn hạn. Điều này không phải là tốt vì nợ ngắn hạn là những khoản nợ trong vòng một năm. Nếu Tổng công ty dùng các khoản nợ này tài trợ cho TSDH thì rất có thể sẽ bị mất khả năng thanh toán. Tổng công ty nên có những biện pháp để tăng tỷ trọng nợ dài hạn và VCSH để đảm bảo tự chủ về mặt tài chính.
Biểu đồ 2.4 Cơ cấu vốn của TCT vận tải thủy
Đơn vị: tỷ đồng.
Biểu đồ 2.5 Cơ cấu vốn của TCT cổ phần vận tải dầu khí (PVT)
Đơn vị: tỷ đồng
Biểu đồ 2.6 Cơ cấu vốn của Công ty cổ phần vận tải xăng dầu VIPCO (VIP)
Đơn vị: tỷ đồng
Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn
Để phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn ta sử dụng “ Hệ số nợ so với tài sản”.
VCSH
Nguồn vốn
Nợ phải trả
Tổng tài sản
Hệ số tài trợ
1-
=
1-
=
=
Hệ số nợ
Dựa vào biểu đồ 2.4 ta cũng có thể thấy được tỷ trọng nợ qua các năm của TCT ít biến động qua các năm. Điều này thể hiện chính sách tài chính của TCT tương đối ổn định.
Ta tiến hành so sánh hệ số nợ của các công ty cùng ngành vận tải đường thủy
Biểu đồ 2.7 Hệ số nợ của TCT so với ngành
Đơn vị: lần
Qua bảng so sánh hệ số nợ của TCT so với các công ty cùng ngành, ta thấy hệ số nợ của TCT thấp hơn mức trung bình ngành trong cả 3 năm. Tuy vậy, chênh lệch này là không lớn, cũng có thể nói hệ số nợ của TCT xấp xỉ mức trung bình ngành. Như vậy, có thể nói mức độ tài trợ tài sản của TCT bằng nợ là hợp lý, phù hợp với lĩnh vực kinh doanh. Điều này càng khẳng định chính sách tài chính đúng đắn của TCT trong việc sử dụng nợ. Nếu hệ số này quá thấp thì chứng tỏ khả năng độc lập tài chính của TCT nhưng sẽ không đạt được hiệu quả trong kinh doanh. Còn nếu hệ số này quá cao thì TCT sẽ dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tuy chỉ số nợ là hợp lý nhưng cơ cấu nợ dài hạn và nợ ngắn hạn trong tổng nợ lại chưa hợp lý. Tỷ trọng nợ dài hạn quá nhỏ trong tổng nợ cũng khiến cho công ty có thể lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Do đó xác định được một cơ cấu vốn hợp lý là rất quan trọng vừa giúp TCT có đủ khả năng thanh toán, vừa đạt được hiệu quả trong kinh doanh.
2.2.2 Phân tích khả năng thanh toán
Bảng 2.5 Chỉ số khả năng thanh toán của TCT
Đơn vị: lần
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2007
Năm 2006
CR
0,9
0,88
0,87
QR
0,59
0,58
0,5
Vốn lưu động ròng
(32084)
(33216)
(40194)
Nguồn Báo cáo tài chính TCT
Bảng 2.6 Chỉ số khả năng thanh toán của ngành vận tải thủy
Đơn vị: lần
Chỉ tiêu
2008
2007
2006
CR ngành
1,6
1,3
1,4
QR ngành
1,5
1,2
1,2
Nguồn Báo cáo chỉ số ngành vận tải thủy
Khả năng thanh toán hiện hành(CR):chỉ số này lớn hơn 1 chứng tỏ công ty có đủ khả năng trang trải các khoản nợ,chỉ số này ở vào khoảng 1,7-1,8 là lý tưởng nhưng cũng tùy theo từng ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Để đánh giá khả năng thanh toán hiện hành của TCT ta cũng tiến hành so sánh chỉ số này với 2 công ty cùng ngành. Qua bảng các chỉ số về khả năng thanh toán của TCT ta thấy các chỉ số này đều không biến động nhiều qua các năm. Điều này thể hiện sự ổn định về mặt tài chính của TCT. Tuy nhiên, các chỉ số khả năng thanh toán hiện hành mới chỉ gần bằng 1 chứng tỏ các TSNH của TCT vẫn chưa đủ khả năng đáp ứng việc chi trả cho các khoản nợ ngắn hạn. Điều này một phần cũng là do TCT là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải cho nên tỷ trọng TSNH của doanh nghiệp thấp như đã phân tích trong phần cơ cấu tài sản. Dẫn đến chỉ số này không cao. Do vậy, khả năng thanh toán hiện hành của TCT chưa phải là tốt nhưng cũng tương đối ổn định và có xu hướng tăng dần
Còn về khả năng thanh toán nhanh chỉ số này khoảng trên 0,8 được cho là tốt. Tuy nhiên chỉ số này của TCT cũng không được cao do tỷ trọng hàng tồn kho chiếm trong tổng TSNH cũng khá cao. Do vậy, TCT cần tiến hành dự trữ hàng hợp lý vừa đáp ứng nhu cầu kinh doanh liên tục, vừa không gây ứ đọng vốn đảm bảo khả năng thanh toán nhanh cho TCT.
Ta tiến hành so sánh các chỉ số về khả năng thanh toán của Tổng công ty so với các công ty trong cùng ngành vận tải. Ta thấy, chỉ số khả năng thanh toán hiện hành và chỉ số khả năng thanh toán nhanh của Tổng công ty là thấp. Đặc biệt, chỉ số khả năng thanh toán nhanh của Tổng công ty rất thấp so với các công ty trong cùng ngành. Dựa vào bảng các chỉ số khả năng thanh toán của ngành vận tải thủy, ta thấy chỉ số khả năng thanh toán hiện hành và chỉ số khả năng thanh toán nhanh không chênh lệch nhau nhiều. Điều này chứng tỏ các công ty trong ngành không dự trữ hàng tồn kho nhiều. Trong khi đó Tổng công ty có chỉ số khả năng thanh toán nhanh nhỏ hơn chỉ số khả năng thanh toán hiện hành nhiều, điều này là do Tổng công ty dự trữ hàng hóa nhiều.
Vốn lưu động ròng trong cả 3 năm đều âm. Điều này cho thấy tài sản ngắn hạn của TCT không đủ để đảm bảo cho các khoản nợ ngắn hạn. Do đó khả năng thanh toán của TCT chưa thực sự tốt.
2.2.3 Phân tích hiệu quả hoạt động
Phân tích khái quát báo cáo kết quả kinh doanh
Bảng 2.7 Một số chỉ tiêu quan trọng trong báo cáo kết quả kinh doanh
Chỉ tiêu
2008
Tỷ lệ(%)
2007
Tỷ lệ(%)
2006
Doanh thu thuần
1173136
33,65
877728
7,63
815446
Giá vốn hàng bán
1060264
31,4
806954
6,9
754637
Chi phí quản lý DN
81325
46,1
55658
56,3
35599
Chi phí tài chính
38858
47,7
26315
13,8
23122
Lợi nhuận sau thuế
13175
33,1
9895
55,8
6348
Đơn vị: triệu đồng
Nguồn Báo cáo tài chính TCT
Bảng 2.8 Tăng trưởng doanh thu và LNST ngành vận tải thủy
Đơn vị:phần trăm
2008
2007
2006
Tăng trưởng doanh thu
44,5
33,3
47,3
Tăng trưởng LNST
140,36
117,2
191,1
Nguồn Báo cáo chỉ số ngành vận tải thủy
Thông qua bảng tóm tắt tình hình doanh thu, chi phí, lợi nhuận của TCT qua 3 năm 2006, 2007, 2008. Ta thấy doanh thu của TCT năm 2007 chỉ tăng 7,63% so với năm 2006 nhưng lợi nhuận lại tăng những 55,8%. Như vậy, tốc độ Trong khi năm 2008 doanh thu tăng 33,65% nhưng lợi nhuận chỉ tăng 33,1% so với năm 2007. Điều này là do trong năm 2008 có sự biến động giá rất lớn đặc biệt là giá tol, sắt thép; giá nhiên liệu, những khoản chi phí này là những khoản chi phí chiếm tỷ trọng nhiều trong giá thành vận tải, xây dựng. Do đó, TCT phải đặc biệt chú trọng tăng cường quản lý giá mua, khối lượng sử dụng những khoản chi phí tol, sắt thép, nhiên liệu đảm bảo hợp lý, tiết kiệm để giảm giá vốn hàng bán. Ta có thể thấy trên bảng số liệu giá vốn hàng bán năm 2008 tăng đáng kể so với năm 2007. Năm 2008 chi phí tài chính cũng tăng mạnh so với năm 2007. Điều này cũng dễ hiểu vì trong chi phí tài chính thì chi phí lãi vay chiếm tỷ trọng rất cao.Trong năm 2008 lãi suất ngân hàng tăng lên rất cao do ảnh hưởng của lạm phát và khủng hoảng kinh tế.
So sánh tốc độ tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của TCT với các công ty trong ngành vận tải thủy thì ta thấy tuy năm 2007 tăng trưởng doanh thu của TCT rất thấp so với ngành. Nhưng đến năm 2008 TCT đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ. Lợi nhuận sau thuế của TCT có sự tăng trưởng qua các năm. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này so với chỉ số trung bình của ngành là còn thấp. Do vậy, TCT cần có những biện pháp để thúc đẩy lợi nhuận thì mới có thể theo kịp với các công ty cùng ngành.
Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản
Bảng 2.9 Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng tài sản TCT
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Hiệu quả sử dụng Tổng TS (lần)
1,13
1,19
1,4
Hiệu quả sử dụng TSCĐ (lần)
1,84
1,86
2,26
Sức sản xuất của TSNH (lần)
3,03
3,39
4,33
Vòng quay tiền (vòng)
26,2
26,6
36,65
Vòng quay dự trữ (vòng)
6,58
8,05
11,4
Vòng quay khoản phải thu (vòng)
7,27
7,62
8,77
Số ngày một vòng quay tiền (ngày)
13,49
13,57
9,83
Số ngày một vòng quay (ngày)
dự trữ
54,66
44,67
31,55
Kỳ thu tiền bình quân (ngày)
49,47
47,2
41,02
ROA
0,88%
1,34%
1,57%
ROS
0,77%
1,13%
1,12%
Nguồn Báo cáo tài chính TCT
Bảng 2.10 Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngành vận tải thủy
Nguồn Báo cáo chỉ số ngành vận tải thủy
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Hiệu quả sử dụng tổng TS (lần)
1,3
0,6
N/A
Hiệu quả sử dụng TSCĐ (lần)
2,9
1,0
N/A
Suất sinh lời của TSNH (lần)
10
10
N/A
Vòng quay tiền ( vòng)
10
3,3
N/A
Vòng quay dự trữ ( vòng)
16,36
21,2
20
Số ngày 1 vòng quay tiền ( ngày)
36
12
N/A
Số ngày 1 vòng quay dự trữ(ngày)
22
17
18
Kỳ thu tiền bình quân (ngày)
55,6
76,7
82,3
ROA (%)
6,3
5,9
N/A
ROS (%)
4,8
10
12,7
Hiệu quả sử dụng Tổng tài sản của tổng công ty tương đối tốt và có xu hướng tăng dần qua các năm. Đặc biệt, năm 2007 hiệu quả sử dụng tổng tài sản và tài sản cố định của các công ty trong ngành giảm mạnh thì chỉ số này của tổng công ty vẫn ổn định thậm chí còn tăng nhẹ so với năm 2006. Tuy nhiên, hiệu suất sử dụng tổng tài sản và tài sản cố định đều tính dựa vào doanh thu. Trong khi mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp vẫn là lợi nhuận. Dựa vào bảng số liệu ta có thể thấy ROA của tổng công ty rất thấp so với các công ty cùng ngành. Điều này xuất phát từ việc sử dụng chi phí của Tổng công ty. Các khoản chi phí của TCT chiếm tỷ trọng cao nên mặc dù doanh thu cao nhưng lợi nhuận sau thuế thấp dẫn đến ROA thấp. TCT cần chú trọng việc quản lý giá mua, khối lượng sử dụng những khoản chi phí đảm bảo hợp lý tiết kiệm để nâng cao lợi nhuận.
Sức sinh lời TSNH của Tổng công ty thấp hơn nhiều so với ngành. Dựa vào các chỉ tiêu tốc độ luân chuyển TSNH, ta có thể thấy lượng dự trữ hàng hóa của TCT thấp hơn nhiều so với các công ty trong cùng ngành. Điều này có thể là do lượng hàng chưa tiêu thụ được tồn đọng, gây ứ đọng vốn của TCT.
Qua so sánh kỳ thu tiền bình quân và vòng quay các khoản phải thu của TCT so với ngành. Ta thấy, kỳ thu tiền bình quân của TCT thấp hơn nhiều so với ngành. Điều này thể hiện chính sách tín dụng của TCT có thể còn hơi chặt chẽ. Đây cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng là hàng hóa ứ đọng nhiều. Do vậy, TCT nên nới lỏng chính sách tín dụng để có thể đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa.
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Bảng 2.11 Chỉ số về hiệu quả sử dụng vốn
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Vòng quay VCSH (vòng)
3,07
2,88
3,28
TIE (lần)
1,39
1,49
1,41
TIE ngành (lần)
3,2
3,5
3,3
Sức sinh lời của nguồn vốn (%)
4,04
5,19
6,36
ROE (%)
2,39
3,25
3,69
ROE ngành (%)
10,8
10,2
N/A
Nguồn Báo cáo tài chính TCT
Chỉ tiêu vòng quay vốn chủ sở hữu cho biết trong kỳ vốn chủ sở hữu quay được bao nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ sự vận động của vốn chủ sở hữu càng nhanh góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Qua bảng số liệu ta thấy vòng quay vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tăng giảm không nhiều qua các năm. Năm 2008 vốn chủ sở hữu được sử dụng hiệu quả hơn cả. Chỉ tiêu ROE qua các năm của Tổng công ty đều tăng qua các năm. Điều này chứng tỏ Tổng công ty có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện hiệu quả sử dụng vốn của mình. Tuy nhiên, nếu đem so sánh với ngành thì ta thấy chỉ số này rất thấp so với các công ty cùng ngành do lợi nhuận của Tổng công ty không cao, không tương xứng với quy mô tài sản của Tổng công ty.
Chỉ số khả năng thanh toán lãi vay của Tổng công ty tuy lớn hơn 1 chứng tỏ Tổng công ty có khả năng chi trả lãi vay. Tuy nhiên, nếu so với các công ty trong cùng ngành thì có thể nói TIE của Tổng công ty là thấp. Trong khi đó hệ số nợ của Tổng công ty lại thấp hơn so với các công ty cùng ngành như đã phân tích ở trên. Vì vậy, hệ số này thấp là do EBIT của Tổng công ty chưa cao, TCT nên có những biện pháp để thúc đẩy lợi nhuận của mình.
Để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ROE của TCT, ta sử dụng phương pháp phân tích Dupont:
ROE = ROS * Hiệu suất sử dụng tổng TS * Hệ số tổng TS trên VCSH
Bảng 2.12 Chỉ số sử dụng trong phân tích Dupont
2006
2007
2008
ROS (lần)
0,77
1,13
1,12
ROS ngành (lần)
4,8
10
12,7
Hiệu suất sử dụng tổng TS (%)
1,13
1,19
1,4
Hiệu suất sử dụng tổng TS ngành (%)
1,3
0,6
N/A
Hệ số tổng TS/VCSH (lần)
2,44
2,42
2,29
Hệ số tổng TS/ VCSH ngành (lần)
2,71
3,04
2,7
Nguồn Báo cáo chỉ số ngành vận tải thủy
Qua phân tích Dupont, ta có thể thấy nguyên nhân chủ yếu làm cho ROE của TCT thấp là do ROS của TCT thấp hơn rất nhiều so với ROS của ngành. ROS thấp
do lợi nhuận sau thuế của TCT rất thấp. Trong khi đó doanh thu của TCT lại tương đối cao.
2.3 Đánh giá thực trạng tài chính của Tổng công ty vận tải thủy
2.3.1 Điểm mạnh
Thứ nhất: Tình hình tài chính của Tổng công ty tương đối ổn định và có xu hướng tích cực hơn qua các năm.
Trước tình hình khó khăn chung của nền kinh tế nói chung và ngành vận tải thủy nói riêng do tình hình trong nước và thế giới thường xuyên biến động, giá nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất tăng cao gây khó khăn rất nhiều cho các doanh nghiệp. Việc huy động vốn cũng gặp nhiều khó khăn, năm 2008 lãi suất vay ngân hàng rất cao. Mặc dù vậy, Tổng công ty và các đơn vị thành viên vẫn nỗ lực không ngừng vượt qua khó khăn nên kết quả đạt được là các chỉ tiêu như tổng tài sản, doanh thu, lợi nhuận của Tổng công ty đều tăng qua các năm. Tình hình thanh toán và tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn của TCT cũng đều có xu hướng tích cực qua các năm. Tình hình tài chính của Tổng công ty tương đối ổn định, rất ít biến động. Hàng năm, với mức doanh thu và lợi nhuận thu được, Tổng công ty luôn đảm bảo việc nộp ngân sách đầy đủ và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Thứ hai: Tổng công ty cùng các đơn vị thành viên đã có nỗ lực lớn trong việc đầu tư đổi mới máy móc trang thiết bị.
Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương đổi mới tài sản cố định của Hội đồng quản trị Tổng công ty, các doanh nghiệp (các công ty vận tải) đã tập trung đầu tư đổi mới tài sản cố định. Qua phân tích, ta cũng thấy được tỷ trọng tài sản cố định của Tổng công ty chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản và tăng đều qua các năm. Gần 15 năm hoạt động trong ngành vận tải thủy, Tổng công ty bứt phá ngoạn mục, chấp nhận cạnh tranh quyết liệt để mở rộng nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh song song với chiến lược phát triển đội tàu và đóng thêm nhiều loại phương tiện phù hợp với yêu cầu vận chuyển hàng container, hàng siêu trường, siêu trọng và vận chuyển ven biển.
Thứ ba: Chính sách phân phối thu nhập trong công ty được tiến hành hiệu quả, đảm bảo lợi ích của nhà quản lý và lợi ích của công nhân viên. Do tổ chức sản xuất ở địa bàn ngoại thành Hà Nội và nhiều công ty con ở các tỉnh thành lân cận nên nguồn nhân công của Tổng công ty khá dồi dào và chi phí nhân công rẻ. Lãnh đạo công ty đã chú ý đến việc củng cố khối đại đoàn kết trong toàn Tổng công ty; tạo bầu không khí vui vẻ giữa cán bộ và công nhân viên; sự hòa đồng tin tưởng, cởi mở, thân thiện giữa các nhân viên. Xây dựng môi trường Tổng công ty trong sạch, lành mạnh tạo động lực tinh thần cho nhân viên lao động tốt.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Khả năng thanh toán hiện hành và khả năng thanh toán nhanh của TCT tuy không phải là yếu nhưng thấp so với các công ty trong cùng ngành vận tải thủy. Chỉ số này không đồng đều trong các đơn vị thành viên. Công ty vận tải thủy số 2 có khả năng thanh toán tốt nhất (chỉ số thanh toán lớn hơn 2). Trong khi công ty vân tải và cơ khí đường thủy lại có khả năng thanh toán rất thấp (chỉ số này ở mức 0,191)
Khả năng thanh toán lãi vay của TCT tuy lớn hơn 1 nhưng so với các công ty trong cùng ngành cũng là rất thấp.
Doanh thu của TCT cao và tăng đều qua các năm, tuy nhiên lợi nhuận sau thuế lại không cao. Nếu so sánh với ngành thì tốc độ tăng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của Tổng công ty đều thấp, dẫn đến ROA, ROE của TCT không cao.
Tốc độ tăng của tổng vốn qua các năm tương đối thấp. TCT chưa đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ
Do đặc thù ngành nghề nên tài sản cố định của TCT chiếm tỷ trọng cao nhưng tỷ trọng nợ dài hạn của TCT lại thấp. Một số công ty con đã sử dụng nợ ngắn hạn để mua sắm tài sản cố định, những đơn vị này có tình hình tài chính khó khăn và khả năng thanh toán yếu.
Nguyên nhân
a) Nguyên nhân chủ quan
Công tác quản lý dự trữ còn chưa tốt
Tổng công ty có công tác quản lý dự trữ chưa tốt. Tiền và các khoản tương đương tiền được tổng công ty duy trì ở mức thấp. Lượng hàng dự trữ nhiều gây ứ đọng vốn và hạn chế khả năng thanh toán của Tổng công ty. Một số công ty con trong TCT có tình hình tiêu thụ yếu dẫn tới ứ đọng hàng hóa như: Công ty vận tải và cơ khí đường thủy; Công ty cổ phần cơ khí 75.
Công tác quản lý doanh thu, chi phí của Tổng công ty chưa hiệu quả
Công tác quản lý doanh thu, chi phí của Tổng công ty chưa thực sự hiệu quả. Trong bối cảnh khó khăn, lạm phát tăng cao, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao dẫn đến giá thành sản xuất tăng cao. Tổng công ty chưa có biện pháp giảm thiểu được chi phí dẫn đến giá vốn hàng bán tăng với tốc độ cao hơn doanh thu, lợi nhuận sau thuế thấp. TCT chưa có đội ngũ chuyên tìm hiểu nghiên cứu thị trường để có thể lựa chọn nguồn cung cấp tốt nhất với giá cả và chất lượng phù hợp.
Quá trình cổ phần hóa còn nhiều vướng mắc
Tổng công ty đã tiến hành cổ phần được 10 trên 12 đơn vị thành viên. Hai đơn vị còn lại là: Công ty vận tải và cơ khí đường thủy; Công ty vật tư kỹ thuật xây dựng công trình thủy. Hai đơn vị này cũng đang trong kế hoạch cổ phần hóa nhưng do nhiều nguyên nhân vẫn chưa tiến hành cổ phần hóa được.
Do không xác định được giá trị lợi thế vị trí địa lý của lô đất mà doanh nghiệp sử dụng làm trụ sở nên tiến trình cổ phần hóa Công ty Vận tải và Cơ khí đường thủy đến nay vẫn không thực hiện được. Chính việc cổ phần hóa chậm (xấp xỉ 5 năm) ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, tư tưởng của cán bộ công nhân viên dao động (nhiều cán bộ đã xin chuyển công tác…).
Đối với Công ty Vật tư kỹ thuật xây dựng công trình thủy, do phương án cổ phần hóa không thực hiện được Tổng công ty đã đề nghị và được Chính phủ, Bộ GTVT chấp thuận sáp nhập vào làm đơn vị trực thuộc Công ty mẹ - Tổng công ty Vận tải thủy.
b)Nguyên nhân khách quan
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Hiện nay, hầu hết các ngành nghề nói chung và ngành vận tải thủy nói riêng đang đứng trước thách thức vô cùng to lớn đó là khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu. Bắt đầu là khủng hoảng tài chính Mỹ, đến nay đó là khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu và Việt Nam không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. TCT là một trong những DN Nhà nước kinh doanh vận tải và dịch vụ cũng bị ảnh hưởng về lượng hàng hóa vận chuyển, bốc xếp, việc làm cho khối công nghiệp.
Chiến lược phát triển vận tải, đa dạng hóa mặt hàng vận chuyển chưa phải đã đạt được kết quả tối ưu cho công tác đầu tư đóng mới phương tiện, thiết bị nhằm đổi mới và hiện đại hóa đội tàu gặp nhiều biến động do giá vật tư sắt thép, nhiên liệu tăng mạnh, lão vay thương mại quá cao, cơ chế vay ngày một khắt khe trong lúc nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động từ cổ đông còn rất ít ỏi nên kế hoạnh đầu tư hàng năm chưa đạt được mục tiêu vì thế tuy sản lượng vận tải tăng nhanh nhưng chưa khai thác hết tiềm năng to lớn của thị trường vận tải sông khu vực phía Bắc.
Cũng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, trong năm 2008 lãi suất vay ngân hàng rất cao. Điều này dẫn đến việc huy động nợ dài hạn của TCT gặp rất nhiều khó khăn.
Sự cạnh tranh với các doanh nghiệp trong cùng ngành vận tải thủy
Hiện nay, với xu hướng phát triển vận tải đường thủy, ngày càng nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Điều này tạo nên sự cạnh tranh quyết liệt và TCT cũng không nằm ngoài sự cạnh tranh đó. Các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, quảng bá, cạnh tranh bằng giá cước vận tải…
Sự thay đổi chính sách của Nhà nước trong quá trình cổ phần hóa
Công ty Vận tải và Cơ khí đường thủy đã có kế hoạch CPH từ năm 2005 nhưng đến nay chưa thể cổ phần hóa được. Nguyên nhân chính của sự chậm trễ này là do có sự thay đổi chính sách của nhà nước trong quá trình cổ phần hóa. Sau khi Tổng công ty Vận tải thủy cùng với doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ cổ phần hoá của Công ty Vận tải và Cơ khí đường thủy trình Bộ GTVT phê duyệt giá trị doanh nghiệp thì lại được yêu cầu đơn vị phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa lý đối với lô đất đang sử dụng của Công ty thuộc loại đất đô thị thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh theo Thông tư số 146/2007/TT-BTC ngày 6/12/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành CTCP quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA TỔNG CÔNG TY VẬN TẢI THỦY
3.1 Định hướng phát triển của Tổng công ty vận tải thủy
3.2.1. Chiến lược khai thác phát triển lực lượng phương tiện vận tải
Qua số liệu điều tra nguồn hàng có nhu cầu vận chuyển phát triển đến năm 2015 thì nhóm hàng than phát triển nhiều nhất, chủ yếu than do sản xuất điện, cụ thể:
Than do sản xuất điện năm 2009 tổng nhu cầu tiêu thụ mới 6.500.000T đến 2015 là 65.700.000 gấp 10 lần. Trong đó, vận tải thủy đảm nhiệm trong năm 2009 mới 4 triệu tấn bằng 61,5%, năm 2015 là 46,7 triệu tấn bằng 71% ( trong đó 21,6 triệu tấn vận chuyển bằng đường biển, 25,1 triệu tấn vận chuyển bằng đường sông, như vậy đường sông tăng 6,3 lần)
Than sản xuất XM, phân bón và ngành công nghiệp khác đều tăng từ 1,5 lần – 2 lần.
Than xuất khẩu có xu hướng giảm nhiều, năm 2009 ngành than ký hợp đồng xuất khẩu 21 triệu tấn thì lượng truyền tải khoảng 10 – 11 triệu tấn, đến 2015 lượng xuất khẩu chỉ còn khoảng 5 triệu tấn, giảm 4 lần.
Ngoài hàng than, các loại hàng hóa vận chuyển bằng đường thủy đều có nhu cầu tăng nhưng biến động không lớn như: Hàng Container, thiết bị, sắt thép, XM, vật liệu xây dựng… Năm 2009 nhu cầu khoảng 28 triệu tấn nhưng đến 2015 khoảng 35 triệu tấn tăng 1,25 lần.
Theo số liệu điều tra nguồn hàng và khả năng phát triển ta có thể định hướng phát triển vận tải của Tổng công ty đến năm 2015 như sau:
Tổng khối lượng do Tổng công ty vận chuyển là 17 triệu tấn hàng hóa tăng 2,1 lần so với năm 2009. Trong đó:
Than sản xuất điện: 13,6 triệu tấn tăng 3,4 lần so với năm 2009 bằng 28,6% nhu cầu vận chuyển đường thủy.
Vận tải bằng đường sông: 10 triệu tấn tăng 2,5 lần so với năm 2009 bằng sấp xỉ 45% nhu cầu vận chuyển đường sông.
Vận tải bằng đường biển: 3,6 triệu tấn bằng 17% nhu cầu vận chuyển đường biển.
Tổng cộng than là: 15,7 triệu tấn.
Hàng khác khoảng: 1,3 triệu tấn.
Như vậy từ 2010 – 2015 sản lượng vân tải tăng bình quân mỗi năm xấp xir15%/ năm. Để đạt được mục tiêu trên thì chiến lược của Tổng công ty như sau:
Xác định nguồn hàng chính của TCT là hàng than và trọng tâm là than cho sản xuất điện.
Khách hàng chiến lược là Tập đoàn công nghiệp Than – khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các Công ty sản xuất phân bón, các Công ty sản xuất Xi măng…
Ngoài mặt hàng chủ lực khách hàng chiến lược thì quan tâm đến những hàng hóa thế mạnh như: Container, hàng siêu trường, siêu trọng, thiết bị, sắt, thép và vật liệu xây dựng.
3.3.2. Định hướng phát triển cảng sông
3.3.2.1 Dự báo nguồn hàng và đặc điểm bốc xếp kinh doanh của cảng sông
Đặc điểm: Hệ thống cảng sông của TCT quản lý khi chuyển sang cơ chế thị trường, xu thế các khách hàng khép kín nên lượng hàng hóa về cảng phân tán, một số cảng khối lượng bốc xếp giảm hẳn như: Cảng Nam Định, Hà Bắc, Hòa Bình và kể cả Cảng Hà Nội, chỉ có duy nhất Cảng Việt Trì lượng hàng thông qua cảng ngày càng tăng. Mặt khác, hầu hết khối lượng do TCT vận chuyển lại bốc xếp các cảng chuyên dụng của khách hàng nên sự hỗ trợ giữa vận tải và bốc xếp khó khăn. Các cảng đều được xây dựng từ thập kỷ 60 -70 của thế kỷ 20 do đó hiện nay hạ tầng xuống cấp, thiết bị lạc hậu. mặt khác sự phát triển của xã hội, đô thị phát triển các cảng trong thành phố và khu dân cư nên môi trường không đảm bảo khả năng phải di dời hoặc chuyển đổi công năng như cảng Hà Nội, Nam Định, Hà Bắc.
Dự báo nguồn hàng bốc xếp kinh doanh của cảng: do đặc điểm trên dự báo hàng hóa thông qua cảng tăng không nhiều, thậm chí có một số cảng có nguy cơ giảm. Các cảng có lượng hàng hóa thông qua năm tới tăng là Cảng Việt Trì, Bích Hạ, Ba Cấp, Hòa Bình, Mường la. Tiềm năng lượng hàng xuất nhập vừa qua tăng nhiều nhất là cảng Việt Trì khả năng đến năm 2015 lượng hàng thông qua gấp 2 lần năm 2009 đạt khoảng trên 2 triệu tấn.
Chiến lược khai thác và định hướng kinh doanh sản xuất cảng
Chiến lược khai thác: Từ đặc điểm và dự báo nguồn hàng qua các các cảng sông có thể định hướng chiến lược khai thác:
Căn cứ vào vị trí địa lý, lợi thế về đất đai của từng cảng để làm công tác Marketing, thu hút nguồn hàng, chính sách hậu mãi phục vụ khách hàng.
Nghiên cứu thị trường để chuyển công năng một số cảng từ bốc xếp là chính chuyển sang dịch vụ khác lợi thế hơn.
Đổi mới tư duy theo cơ chế thị trường, xóa bỏ hoàn toàn nếp nghĩ trước đây là các khách hàng, các đơn vị vận tải cần Cảng và nay phải ngược lại.
Định hướng phát triển sản xuất Cảng:
Các Cảng như Hà Nội, Hà Bắc, Nam Định phải chuyển kinh doanh theo hướng Cảng sạch, bốc xếp hàng hóa bao kiện, giá trị hàng hóa cao, không ô nhiễm. Chuyển từ bốc xếp chính sang các dịch vụ khác như: Thuê kho bãi, du lịch, giao thông tĩnh, đặc biệt Hà Nội trở thành cảng xanh – sạch – đẹp của Thủ đô.
Cảng Việt Trì phải phát triển đều các mặt nhưng kinh doanh, bốc xếp vẫn là trọng tâm phấn đấu đến năm 2025 sản lượng thông qua cảng đạt 2,2 triệu tấn. Các dịch vụ khác như vận tải thủy – bộ, kho bãi nhẵn phục vụ phát triển kinh doanh bốc xếp.
Các Cảng Hòa Bình, Ba Cấp, Bích Hạ, Mường La trong những năm tới lấy mục tiêu bốc xếp kết hợp vận tải phục vụ các công trình thủy điện là chính. Song từ 2012 – 2015 phải tập trung phát triển các dịch vụ khác như: Du lịch, giao thông tĩnh, kinh doanh kho bãi…
3.2 Giải pháp cải thiện tình hình tài chính của Tổng công ty vận tải thủy
Để cải thiện tình hình tài chính của một doanh nghiệp, theo lý thuyết, các nhà lãnh đạo cần có chính sách thực hiện nâng cao khả năng tài chính của doanh nghiệp: khả năng thanh toán, cơ cấu vốn hợp lý, khả năng hoạt động, khả năng sinh lời. Từ thực tế kinh tế xã hội trên thế giới, của Việt Nam và xu thế phát triển của ngành vận tải thủy nói chung và TCT vận tải thủy nói riêng, có thể đưa ra một số biện pháp cải thiện tình hình tài chính của TCT vận tải thủy:
3.2.1 Cải thiện khả năng thanh toán của Tổng công ty
Khả năng thanh toán của TCT là khả năng trả được nợ khi đáo hạn của các khoản nợ của TCT, đây là một tiêu chí quan trọng phản ánh tình hình tài chính và năng lực kinh doanh của TCT, đánh giá một mặt quan trọng về hiệu quả tài chính. Đồng thời, thông qua đó có thể thấy rõ được những rủi ro tài chính của TCT như: không thanh toán được nợ khi đến hạn, có thể dẫn đến phá sản.
Khả năng thanh toán của TCT gồm thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và thanh toán các khoản nợ trung và dài hạn. Trong đó, các khoản nợ trung và dài hạn chủ yếu là sử dụng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh để thanh toán. Thanh toán nợ ngắn hạn dựa chủ yếu vào tài sản ngắn hạn (hay tài sản lưu động) của TCT để đảm bảo. Các khoản nợ ngắn hạn được gọi là các khoản nợ lưu động, tức là các khoản nợ có thời hạn trong vòng một năm. Loại nợ này phải thanh toán bằng tiền mặt hoặc các tài sản ngắn hạn khác. Các khoản nợ này có rủi ro cao đối với tình hình tài chính của TCT. Nếu không thanh toán đúng hạn thì sẽ làm cho TCT phải đứng trước nguy cơ vỡ nợ. Do đó, trong bảng cân đối tài sản, các nhà quản lý luôn phải quan tâm đến mối quan hệ đối ứng của các khoản nợ và tài sản ngắn hạn, phải dùng tài sản ngắn hạn để đảm bảo cho các khoản nợ ngắn hạn. Như đã phân tích ở chương 2 thì khả năng thanh toán của TCT chưa thật sự tốt vì các chỉ số khả năng thanh toán hiện hành của TCT trong 3 năm tuy có xu hướng tăng dần nhưng đều nhỏ hơn 1. Tài sản ngắn hạn của TCT chưa đủ để đảm bảo cho các khoản nợ ngắn hạn. Do đó, TCT nên có một cơ chế quản lý tài sản ngắn hạn một cách hợp lý.
Thứ nhất: Tổng công ty nên tăng tỷ trọng của tiền và các khoản tương đương tiền.
Như đã phân tích thì tỷ trọng tiền và các khoản tương đương tiền của TCT là chưa cao nên dẫn đến khả năng thanh toán nhanh của TCT tuy chưa đến mức yếu kém nhưng vẫn còn khá thấp. Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc giữ đủ tiền cho kinh doanh có những lợi thế sau:
+ Khi mua các hàng hóa dịch vụ nếu có đủ tiền mặt, công ty có thể được hưởng lợi thế chiết khấu.
+ Giữ đủ tiền mặt, duy trì tốt khả năng thanh toán ngắn hạn và khả năng thanh toán nhanh giúp doanh nghiệp tạo được uy tín với ngân hàng và nhà cung cấp. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và được hưởng mức tín dụng rộng rãi.
+ Giữ đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán chi trả.
+ Khi có đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong trường hợp khẩn cấp như đình công, hỏa hoạn, vượt qua khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh.
Đảm bảo một lượng tiền mặt nhất định để thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn khi gần đến hạn để tránh rủi ro từ phía chủ nợ. Có thể vì một lý do nào đó chủ nợ đòi yêu cầu thanh toán ngay. Ngoài ra, TCT cũng nên dự trữ một số chứng khoán có tính thanh khoản cao như: trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc Nhà nước và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_20cao_20tong_20hop1_1__7841.doc