Đề tài Phân tích tình hình tài chính Công ty xây lắp 665

Tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính Công ty xây lắp 665: Mở đầu Xây dựng cơ bản là ngành tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Đây là ngành mũi nhọn trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Thành công của ngành xây dựng cơ bản trong những năm qua là điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để đầu tư xây dựng cơ bản đạt được hiệu quả cao doanh nghiệp phải có biện pháp thích hợp quản lý nguồn vốn, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát trong sản xuất, quá trình xây dựng cơ bản bao gồm nhiều khâu ( thiết kế, lập dự án, thi công, nghiệm thu ...) do địa bàn thi công luôn thay đổi, thời gian thi công kéo dài nên công tác quản lý tài chính thường phức tạp, có nhiều điểm khác biệt so với các ngành kinh doanh khác. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường nhà nước đã trao quyền tự chủ cho các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp phải thực sự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình, cụ thể là phải tự hạch toán lỗ lãi. Phân tích tài chính nhằm...

doc60 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1107 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính Công ty xây lắp 665, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Xây dựng cơ bản là ngành tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Đây là ngành mũi nhọn trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước. Thành công của ngành xây dựng cơ bản trong những năm qua là điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để đầu tư xây dựng cơ bản đạt được hiệu quả cao doanh nghiệp phải có biện pháp thích hợp quản lý nguồn vốn, khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát trong sản xuất, quá trình xây dựng cơ bản bao gồm nhiều khâu ( thiết kế, lập dự án, thi công, nghiệm thu ...) do địa bàn thi công luôn thay đổi, thời gian thi công kéo dài nên công tác quản lý tài chính thường phức tạp, có nhiều điểm khác biệt so với các ngành kinh doanh khác. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường nhà nước đã trao quyền tự chủ cho các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp phải thực sự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình, cụ thể là phải tự hạch toán lỗ lãi. Phân tích tài chính nhằm mục đích cung cấp thông tin về thực trạng tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn. Phân tích tài chính trở thành công cụ hết sức quan trọng trong quản lý kinh tế. Phân tích tài chính cung cấp cho nhà quản lý cái nhìn tổng quát về thực trạng của doanh nghiệp hiện tại, dự báo các vấn đề tài chính trong tương lai, cung cấp cho các nhà đầu tư tình hình phát triển và hiệu quả hoạt động, giúp các nhà chính sách đưa ra biện pháp quản lý hữu hiệu. Hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng là nội dung quan trọng trong phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế mở muốn khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, muốn chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh phần lớn phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh sẽ được đánh giá qua phân tích tài chính, các chỉ tiêu phân tích sẽ cho biết bức tranh về hoạt động của doanh nghiệp giúp tìm ra hướng đi đúng đắn, có các chiến lược và các quyêt định kịp thời nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. Trong khoá luận với đề tài “Phân tích tình hình tài chính Công ty xây lắp 665” tôi muốn đề cập tới một số vấn đề mang tíng lý thuyết về việc phân tích tình hình tài chính của Công ty xây lắp 665. Khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp . Chương 2: Phân tích tình hình tài chính của Công ty xây lắp 665 Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính Do thiếu kinh nghiệm thực tế và hiểu biết về đề tài còn mang nặng tính lý thuyết nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót.Tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn Công ty Công ty xây lắp 665 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong thời gian tôi thực tập tại công ty. Xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Anh Đào, các thầy cô và các bạn giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Chương I Một số vấn đề lý luận chung về phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp 1.1. Tài chính doanh nghiệp và các mối quan hệ của tài chính doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của tài chính doanh nghiệp Tài chính được đặc trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng là tiền tệ thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế – xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế trong việc phân phối các nguồn lực hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng yêu cầu tích luỹ hay tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội. Tài chính doanh nghiệp là khâu quan trọng trong hệ thống tài chính của nền kinh tế thị trường. Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Sự tồn tại, tính chất, mức độ phát triển của tài chính doanh nghiệp phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Khi nền kinh tế thị trường xuất hiện đã làm xuất hiện hàng loạt quan hệ tài chính mới. Do vậy mà tính chất và phạm vi hoạt động của tài chính doanh nghiệp cũng có những thay đổi đáng kể. Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động của những nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ, vốn của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu doanh lợi trong khuôn khổ pháp luật. Tài chính doanh nghiệp phản ánh các quan hệ kinh tế đa dạng trong các quá trình đó của hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp có những đặc trưng sau: - Tài chính doanh nghiệp phản ánh những luồng dịch chuyển giá trị trong nền kinh tế, đó chính là sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Nó thể hiện sự vận động của các nguồn tài chính được diễn ra giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước thông qua nộp thuế và tài trợ chính giữa các doanh nghiệp với thị trường hàng hoá, sức lao động, tài chính , thông tin, dịch vụ trong việc cung ứng các yếu tố sản xuất ( đầu vào) cũng như bán hàng hoá, dịch vụ ( đầu ra) của quá trình kinh doanh. - Sự vận động của các nguồn tài chính doanh nghiệp không phải diễn ra một cách hỗn loạn mà nó được hoà nhập vào chu trình kinh tế của nền kinh tế thị trường. Đó là sự vận động chuyển hoá từ các nguồn tài chính thành các quỹ hoặc vốn kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại. Sự chuyển hoá qua lại được điều chỉnh bằng hệ thống các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị để tạo lập hoặc sử dụng tiền tệ; phục vụ cho các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . 1.1.2. Chức năng và vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1.2.1. Chức năng Chức năng của tài chính biểu hiện khả năng khách quan vốn có của phạm trù tài chính . Tài chính doanh nghiệp có hai chức năng: - Phân phối dưới hình thức giá trị xã hội. - Giám đốc bằng đồng tiền hoạt động kinh doanh. a.Chức năng phân phối: chức năng này giúp doanh nghiệp có khả năng khai thác, thu hút các nguồn tài chính trong nền kinh tế để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp . Trong quá trình sử dụng vốn cũng sử dụng chức năng phân phối, đó là việc cung ứng vốn cho các nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp hay cung ứng vốn cho thị trường vốn. Lợi nhuận thu được là mục đích của doanh nghiệp và cũng là yếu tố quan trọng nhất quyết định phương hướng và cách thức đầu tư, phân phối của doanh nghiệp. b.Chức năng giám đốc: Bằng việc đo lường, cân nhắc giữa những chi phí bỏ ra và hiệu quả thu được, chức năng giám đốc có khả năng phát hiện các khuyết tật trong khâu phân phối để từ đó điều chỉnh quá trình phân phối nói riêng và phương hướng, chiến lược sản xuất kinh doanh nói chung. Chức năng phân phối và chức năng giám đốc có quan hệ hữu cơ rất mật thiết với nhau. Nhờ có phân phối mà tài chính có khả năng giám đốc. Và ngược lại, nhờ có giám đốc mà phân phối mới hiệu quả và lành mạnh được. 1.1.2.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Nếu như trong nền kinh tế chỉ huy bao cấp của nước ta trước đây, vai trò của tài chính doanh nghiệp luôn thụ động, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh một cách hạn chế do sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào nền kinh tế thì khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với chính sách đổi mới và cơ chế năng động, cởi mở trong khuôn khổ pháp luật, vai trò của tài chính doanh nghiệp được đề cao và phát huy trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: -Tài chính doanh nghiệp là công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư, phát triển của doanh nghiệp : Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vai trò này không được đặt ra là nhu cầu cấp bách do có sự bảo hộ từ ngân sách nhà nước và các ngân hàng với lãi suất ưu đãi. Khi sang nền kinh tế thị trường vốn luôn là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp nhu cầu đầu tư và được đầu tư ngày càng tăng, thị trường vốn hoạt động sôi nổi, thị trường chứng khoán ra đời. Đây là môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau chủ động khai thác thu hút các nguồn vốn trong xã hội, từ nước ngoài. -Tài chính doanh nghiệp có vai trò sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Đây là vai trò không kém phần quan trọng, được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp . Trước sức ép từ nhiều phía của thị trường, sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả luôn mang lại lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp . -Tài chính doanh nghiệp được sử dụng như một công cụ để kích thích, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Nhằm thúc đẩy tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ tài chính như đầu tư, lãi suất, dịch vụ, tiền lương, thưởng…để kích thích tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích thu hút vốn…. - Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra các hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp . Tình hình tài chính doanh nghiệp phản ánh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một giai đoạn. Thông qua số liệu kế toán, các chỉ tiêu tài chính có thể đánh giá được thực trạng của doanh nghiệp từ đó tìm ra nguyên nhân và khắc phục, điều chỉnh quá trình kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu dự định. 1.1.3.Nguyên tắc tổ chức tài chính doanh nghiệp Để đảm bảo thực hiện được các chức năng của mình tài chính doanh nghiệp cần được thực hiện đảm bảo các nguyên tắc sau: - Tôn trọng pháp luật - Tôn trọng nguyên tắc hạch toán kinh doanh - Công tác tổ chức tài chính phải luôn giữ được chữ tín - Tổ chức phải đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro bất trắc 1.1.4. Các mối quan hệ trong tài chính doanh nghiệp chủ yếu 1.1.4.1. Xét trong phạm vi hoạt động - Quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với nhà nước: Quan hệ này thể hiện trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa ngân sách nhà nước với các doanh nghiệp thông qua hình thức doanh nghiệp nộp thuế vào ngân sách theo luật định. Nhà nước cũng tham gia cấp phát vốn đối với các doanh nghiệp nhà nước hoặc tham gia với tư cách người góp vốn trong các doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp. - Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và thị trường (thị trường hàng hoá, thị trường lao động, thị trường tài chính) ….Đây là những quan hệ về mua bán, trao đổi các yếu tố phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp . Khác hẳn với thời kỳ bao cấp, trong cơ chế thị trường các quan hệ này được phát triển mạnh mẽ. - Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp: là những quan hệ về phân phối, điều hoà cơ cấu kinh doanh, phân phối thu nhập giữa các thành viên (hoặc cổ đông) trong nội bộ doanh nghiệp và các quan hệ thanh toán hợp đồng lao động giữa doanh nghiệp và công nhân viên chức. 1.1.4.2 Xét theo nội dung kinh tế Xét về nội dung kinh tế, các quan hệ tài chính doanh nghiệp chia làm ba nhóm sau: - Các quan hệ tài chính nhằm mục đích khai thác, thu hút vốn: Đó là những quan hệ về vay vốn, phát hành trái phiếu, cổ phiếu…nhằm tạo lập vốn kinh doanh của doanh nghiệp ở cơ chế thị trường hiện nay, hình thức huy động vốn rất phong phú. Cũng nhờ vào các mối quan hệ tài chính việc khai thác, thu hút vốn sẽ hiệu quả hơn. - Các quan hệ tài chính về phân phối thu nhập và lợi nhuận: Những quan hệ này có liên quan đến nhiều đối tượng, chủ thể phân phối, như: liên quan đến nhà nước trong việc nộp thuế, liên quan đến ngân hàng trong thanh toán lãi, tín dụng, liên quan đến cổ đông trong việc thanh toán cổ tức, liên quan đến nội bộ doanh nghiệp trong việc bù đắp các chi phí của yếu tố đầu vào, việc phân bổ các quỹ của doanh nghiệp . Mục đích cao nhất và quan trọng nhất của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là giúp cho những người ra quyết định lựa chọn được phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp. Cũng giống mục đích trên, khi nghiên cứu tình hình tài chính, khi xem xét các mối quan hệ của tài chính doanh nghiệp có những điểm chung: + Phản ánh luồng vận động, chuyển dịch giá trị, sự vận động của các nguồn tài chính nảy sinh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . + Sự vận động, chuyển hoá của các nguồn tài lực trong kinh doanh không phải là hỗn loạn mà được điều chỉnh bằng hệ thống quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị thông qua việc tạo lập và sử dụng các loại quỹ tiền tệ, vốn kinh doanh của doanh nghiệp. + Động lực của sự vận động và chuyển hoá các nguồn tài lực là nhằm mục tiêu doanh lợi trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. 1.2. Phân tích tài chính doanh nghiệp: 1.2.1. Khái niệm - ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp 1.2.1.1. Khái niệm Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Đây cũng là quá trình xem xét, kiểm tra đối chiếu và so sánh về các số liệu tài chính hiện hành với quá khứ, thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp .Từ đó Có thể đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định quản lý và tài chính phù hợp. 1.2.1.2. ý nghĩa Trong cơ chế mở các doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong giới hạn pháp luật cho phép. Do đó rất nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động và đầu chú trọng đến tình hình tài chính: chủ sở hữu của các doanh nghiệp, các cổ đông, nhà đầu tư, nhà tài trợ, nhà cung ứng, khách hàng, các cơ quan nhà nước, các công nhân viên…Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính dưới các góc độ khác nhau: - Với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp: mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận, khả năng phát triển, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra các nhà quản trị còn quan tâm đến nhiều mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín, mở rộng thị trường, đóng phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường…Do đó họ quan tâm trước hết đến lĩnh vực đầu tư và tài trợ, đó chính là lượng thông tin doanh nghiệp cần để đánh giávà cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, sinh lợi, rủi ro và dự đoán tình hình tài chính nhằm đưa ra quyết định, kế hoạch đúng đắn. - Với ngân hàng và các chủ nợ khác: Mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó người cho vay cũng quan tâm đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp vì nó là cơ sở của việc và lãi cho vay dài hạn. - Với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ nhờ vào tình hình tài chính họ sẽ quyết định được vấn đề bán chịu và cho trả chậm. Cũng như chủ ngân hàng và những người cho vay tín dụng, nhóm người này cũng cần phải biết được khả năng thanh toán hiện tại và tương lai của khách hàng. - Với các nhà đầu tư: quan tâm nhiều đến yếu tố rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lời và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Vì vậy họ cần thông tin về tình hình tài chính, hoạt động của vốn, kết quả sản xuất kinh doanh, tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp và tính hiệu quả của công tác quản lý. Những mối quan tâm trên nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả do dòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư. - Với các đối tượng khác: Cơ quan tài chính, thuế, nhà phân tích, khách hàng…cũng có nhu cầu về thông tin cơ bản giống nhóm trên bởi nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ. Phân tích tài chính doanh nghiệp mà chủ yếu là phân tích báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc trưng tài chính thông qua hệ thống các phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ những góc độ khác nhau có thể đánh giá toàn diện, tổng quát, vừa xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Từ đó có thể nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, tài trợ và đầu tư phù hợp. 1.2.2. Mục tiêu của phân tích tài chính Căn cứ trên các nguyên tác về tài chính của doanh nghiệp, đánh giá khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, thực trạng và triển vọng của hoạt động tài chính, vạch ra những mặt tích cực và những mặt tiêu cực và tồn tại của việc thu chi tiền tệ, xác định nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố.Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tích cực nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh, hướng tới 3 mục tiêu cơ bản sau: - Nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các chủ nợ và các người sử dụng thông tin khác để cho họ có thể ra quyết định phương hướng và quy mô đầu tư, tín dụng và các quyết định khác.Thông tin phải dễ hiểu đối với người có trình độ tương đối về kinh doanh và về hoạt động kinh tế muốn nghiên cứu các thông tin này. - Cung cấp thông tin giúp người sử dụng có thể đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của những khoản thu bằng tiền từ cổ tức hoặc tiền lãi. Vì các dòng tiền của nhà đầu tư liên quan với các dòng tiền của doanh nghiệp nên quá trình phân tích phải cung cấp thông tin để giúp họ đánh giá số lượng, thời gian và rủi ro của các đồng tiền thuần dự kiến thu được của doanh nghiệp . - Cung cấp thông tin về các nguồn lực kinh tế của doanh nghiệp, nghĩa vụ của doanh nghiệp tới các nguồn lực này và tác động của những nghiệp vụ kinh tế; những sự kiện và những tình huống mà tác động làm thay đổi các nguồn lực cũng như nghĩa vụ đó. 1.2.4. Đối tượng phân tích tài chính doanh nghiệp Để tiến hành phân tích tình hình tài chính, người phân tích phải sử dụng rất nhều tài liệu khác nhau, trong đó chủ yếu là các báo cáo tài chính. Vì vậy căn cứ để phân tích là dựa vào các báo cáo tài chính. Vai trò của các báo cáo tài chính trong doanh nghiệp: + Cung cấp những chỉ tiêu kinh tế – tài chính cần thiết, giúp kiểm tra, phân tích một cách tổng hợp, toàn diện, có hệ thống, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính chủ yếu của doanh nghiệp. + Cung cấp những thông tin, số liệu để kiểm tra, giám sát tình hình hạch toán kinh doanh, tình hình chấp hành các chính sách, các chế độ kinh tế – tài chính của doanh nghiệp. + Cung cấp những thông tin và số liệu cần thiết để phân tích, đánh giá những khả năng và tiềm năng kinh tế – tài chính của doanh nghiệp, giúp công tác dự báo và lập các kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn cho doanh nghiệp. 1.2.4.1. Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp và nguồn tài trợ cho những tài sản đó tại một thời điểm cụ thể, dưới hình thái tiền tệ. Về bản chất bản cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với nguồn vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả. Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng để nghiên cứu, đánh giá tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp . Kết cấu của bảng gồm hai phần: Phần tài sản và phần nguồn vốn. - Phần tài sản phản ánh toàn bộ tài sản hiện có tại thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và dụng của doanh nghiệp . + Về mặt kinh tế: Thông qua phần tài sản có thể đánh giá tổng quát quy mô về tài sản, tính chất hoạt động, năng lực và trình độ sử dụng vốn. + Về mặt pháp lý: Số liệu ở phần tài sản thể hiện tiềm lực về số vốn mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai. - Phần nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. + Về mặt kinh tế: Phần nguồn vốn cho phép người sử dụng thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp. + Về mặt pháp lý: cho biết trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với nhà nước, về số tài sản đã hình thành bằng các loại vốn vay cũng như trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ với người lao động, với cổ đông, với nhà cung cấp, với nhà nước. Đặc trưng cơ bản của bảng là mỗi phần đều có số tổng cộng và tổng cộng của hai phần luôn bằng nhau: Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn Trong đó: Tài sản = Vốn chủ sở hữu + Công nợ phải trả Vốn chủ sở hữu = Tài sản - Công nợ phải trả 1.2.4.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp (cụ thể cho từng loại hoạt động), đồng thời phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác. Có thể hiểu báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh là một bảng tóm lược các khoản phải thu, chi phí và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó được sử dụng như một bảng hướng dẫn để dự tính xem doanh nghiệp sẽ hoạt động ra sao trong tương lai. Báo cáo gồm 2 phần: -Phần I: Lãi,lỗ phản ánh tình hình và kết quả kinh doanh gồm các chỉ tiêu: (1) Doanh thu thuần (2) Gía vốn hàng bán (3) Lãi gộp (4) Chi phí bán hàng và chi phí quản lý (5) Lãi thuần từ hoạt động kinh doanh (6) Kết quả hoạt động khác ( hoạt động tài chính và hoạt động bất thường) (7) Tổng lãi từ các hoạt động của doanh nghiệp (8) Thuế thu nhập phải nộp (9) Lợi tức sau thuế Tất cả các chỉ tiêu đều trình bày số liệu kỳ trước, tổng số phát sinh trong kỳ báo cáo và số luỹ kế từ đầu năm đến cuối kỳ của báo cáo. -Phần II: Phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước gồm các khoản mục: (1) Thuế các loại (2) Bảo hiểm xã hội (3) Các khoản phải nộp khác Các mục này trình bày theo các chỉ tiêu: số còn phải nộp kỳ trước chuyển sang, só phát sinh trong kỳ báo cáo, số đã nộp trong kỳ báo cáo, số còn phải nộp đến cuối kỳ báo cáo. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được lập theo quý và năm ( không phân biệt doanh nghiệp lớn hay nhỏ). 1.2.4.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh việc hình thành và dụng quỹ tiền tệ hiện có của doanh nghiệp. Dựa vào báo cáo này có thể phân tích được khả năng kinh doanh để tạo ra tiền của doanh nghiệp. Các khoản mục chủ yếu phát sinh ảnh hưởng tới khả năng thanh toán và nhu cầu tài chính bình thường cho kỳ tiếp theo. Kết cấu của báo cáo gồm 3 phần: - Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư: phản ánh toàn bộ dòng tiền chi ra trực tiếp liên quan đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp . Các hoạt động đầu tư bao gồm: + Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho doanh nghiệp + Đầu tư cho các đơn vị khác - Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính: phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp tới hoạt động tài chính của doanh nghiệp . Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập theo quý và năm (không phân biệt doanh nghiệp lớn hay nhỏ) 1.2.4.4. Thuyết minh báo cáo tài chính Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Bản thuyết minh này được lập ra để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp mà chưa được chi tiết ở các báo cáo khác. Nội dung của báo cáo này trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa chọn áp dụng, tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản, nguồn vốn quan trọng. Đồng thời phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và đưa kiến nghị của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải trình bày đầy đủ các chỉ tiêu theo nội dung đã quy định trong thuyết minh báo cáo tài chính. Ngoài ra theo yêu cầu quản lý của bản thân doanh nghiệp, cơ quan quản lý cấp trên mà có thể quy định thêm nội dung cần thuyết minh. 1.2.4. Phương pháp phân tích 1.2.4.1. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích kinh tế. Khi sử dụng phương pháp này cần nắm chắc các nguyên tắc sau: - Chọn tiêu chuẩn so sánh: tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu được lựa chọn làm căn cứ để so sánh, được gọi là gốc so sánh. Tuỳ theo mục đích của nghiên cứu mà lựa chọn gốc so sánh thích hợp. Các gốc so sánh có thể là: + Số liệu kỳ trước: nhằm đánh giá xu hướng phát triển của các chỉ tiêu. Kỳ được chọn phải là kỳ bình thường, không có sự kiện đặc biệt. + Các mục tiêu đã dự kiến( kế hoạch, dự toán, định mức) nhằm đánh giá tình hình thực hiện so sánh với kế hoạch, dự toán, định mức. + Các chỉ tiêu trung bình của ngành, khu vực kinh doanh…nhằm hiểu rõ mặt mạnh, yếu của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp cạnh tranh trong cùng ngành hoặc khẳng định vị trí của doanh nghiệp trong ngành và trong khu vực kinh doanh … - Điều kiện so sánh được: để tránh sự khập khiễng trong quá trình so sánh cần chú ý một số điểm sau: + Các số liệu phản ánh cùng một nội dung kinh tế. + Các số liệu phải có cùng phương pháp tính toán + Các số liệu phải tính toán theo cùng đơn vị đo + Số liệu thu thập phải ở cùng phạm vi không gian và thời gian. - Kỹ thuật so sánh: để đáp ứng các mục tiêu nghiên cứu thường người ta sử dụng các kỹ thuật so sánh sau + So sánh bằng số tuyệt đối: để thấy được sự biến động về khối lượng, quy mô của các hiện tượng kinh tế. + So sánh bằng số tương đối: thấy được kết cấu của các mối quan hệ, tốc độ phát triển, mức độ biến đổi của các hiện tượng kinh tế. + So sánh bằng số bình quân: phản ánh đặc điểm chung của một đơn vị, một bộ phận hay một tổng thể chung có cùng tính chất. + So sánh bằng mức biến động tương đối: mức biến động tương đối là chênh lệch giữa trị số của kỳ phân tích với trị số của kỳ gốc nhưng đã điều chỉnh theo quy mô kỳ phân tích. Trị số kỳ gốc phải được điều chỉnh mới đảm bảo điều kiện so sánh. + So sánh theo chiều dọc: là quá trình so sánh nhằm xác định tỷ lệ tương quan giữa các chỉ tiêu trong một kỳ của từng báo cáo tài chính. + So sánh theo chiều ngang: nhằm xác định, đánh giá chiều hướng biến động của từng chỉ tiêu trên báo cáo nhiều kỳ 1.2.4.2. Phương pháp phân tích nhân tố Phương pháp phân tích nhân tố là phân tích các chỉ tiêu tổng hợp và phân tích các nhân tố tác động lên các chỉ tiêu đó. Đây là phương pháp được phát triển lên từ phương pháp loại trừ thường dùng trước đây. Phân tích nhân tố chia làm hai dạng - Phân tích nhân tố thuận: là phân tích các chỉ tiêu tổng hợp sau đó phân tích các nhân tố tác động tới nó. - Phân tích nhân tố nghịch: trước hết phân tích từng nhân tố của chỉ tiêu rồi trên cơ sở đó tiến hành phân tích chỉ tiêu tổng hợp. Trong đó phân tích nhân tố thuận mang tính xác định và phân tích trong không gian tĩnh- không xét các vấn đề về biến động. Còn phân tích nhân tố nghịch là phân tích mối quan hệ mang tính sác xuất và xem xét biến động của các nhân tố theo thời gian. Phân tích thuận là việc tiến hành phân tích các hiện tượng đã diễn ra trong quá khứ tại thời điểm hiện tại, còn phân tích nghịch là tại thời điểm hiện tại nghiên cứu cho tương lai. 1.2.4.3.Phương pháp cân đối Phương pháp cân đối được sử dụng nhiều trong hoạch định cho quá trình sản xuất kinh doanh, lập kế hoạch tài chính và được sử dụng ngay cả trong công tác kế toán để kiểm soát tình hình, xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố. Qua bảng cân đối kế toán cho phép ta có thể đánh giá mối quan hệ của các yếu tố ảnh hưởng lên tính cân đối, đến tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp. 1.2.4.4.Phương pháp chi tiết Mọi quá trình và kết quả kinh doanh đều có thể và cần thiết chi tiết theo nhiều hướng khác nhau nhằm mục đích đánh giá chính xác kết quả đạt đựơc. Phương pháp chi tiết được cụ thể bằng nhiều cách khác nhau: - Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu: Việc nghiên cứu cho ta biết chỉ tiêu được cấu thành từ những yếu tố nào? Đóng góp của từng yếu tố tới kết quả chung ra sao? Từ đó các biện pháp đưa ra mới có tính sát thực cao. - Chi tiết theo thời gian: các kết quả kinh doanh thường là kết quả của một quá trình trong từng khoảng thời gian nhất định. Nếu kết quả đó được chi tiết theo thời gian thì mới có thể xem xét về mặt tiến độ thực hiện chỉ tiêu, nhịp độ công việc diễn ra, tính chất thời vụ của công việc… - Chi tiết theo thời điểm và phạm vi kinh doanh: Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là kết quả của nhiều phân xưởng, bộ phận, tổ đội…tạo nên. Do vậy, chi tiết theo địa điểm và phạm vi hoạt động để đánh giá kết quả của từng bộ phận, chỉ ra những tồn tại và khai thác khả năng phát triển cũng như tính toán các chỉ tiêu khác của doanh nghiệp. Ngoài ra các phương pháp trên, trong phân tích còn sử dụng thêm nhiều phương pháp của thống kê: phương pháp phân tổ, phương pháp chỉ số, phương pháp xác suất… Các phương pháp phân tích rất quan trọng. Nếu ta nắm vững các phương pháp phân tích kinh tế thì chúng ta mới có thể đánh giá một cách khách quan kết quả của quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đề ra các giải pháp và có những quyết định đúng đắn, kịp thời trong quá trình điều hành hoạt động ở doanh nghiệp . 1.2.5. Nội dung phân tích 1.2.5.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính Đánh giá khái quát tình hình tài chính là việc xem xét, nhận định về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Công việc này sẽ cung cấp cho người sử dụng thông tin cách nhìn tổng quát nhất tình hình tài chính trong kỳ kinh doanh là khả quan hay không; Điều đó cho phép chủ doanh nghiệp thấy rõ thực chất của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và dự doán được khả năng phát triển hay chiều hướng suy thoái của doanh nghiệp.Từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu để quản lý doanh nghiệp. Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp trước hết căn cứ vào các số liệu đã phản ánh trên bảng cân đối kế toán để so sánh tổng số tài sản và nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu năm để thấy quy mô vốn và đơn vị sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào sự tăng giảm của tổng tài sản và tổng nguồn vốn của doanh nghiệp thì chưa thể thấy rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Do vậy, cần phải phân tích mối quan hệ giữa các khoản mục của bảng cân đối kế toán. Đánh giá khái quát gồm các nội dung chủ yếu: - Xem xét tăng trưởng vốn kinh doanh - Phân tích tình hình phân bổ vốn - Phân tích cơ cấu nguồn vốn 1.2.5.2. Phân tích nguồn vốn kinh doanh và tình hình sử dụng nguồn vốn kinh doanh Nguồn vốn kinh doanh là các nguồn hình thành nên vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: Nguồn vốn cố định và nguồn vốn lưu động. Các nguồn này được hình thành từ các chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các cổ đông. Ngoài ra còn có thể hình thành từ phần lợi tức của doanh nghiệp bổ sung cho nguồn vốn. Nguồn vốn cố định được sử dụng chủ yếu để đầu tư, trang trải cho các loại tài sản cố định, mua sắm tài sản cố định, đầu tư xây dựng cơ bản… Nguồn vốn lưu động chủ yếu sử dụng để đảm bảo cho tài sản lưu động: nguyên liệu, công cụ lao động, đồ dùng, hàng hoá… Để phân tích nguồn vốn kinh doanh và tình hình sử dụng nguồn vốn kinh doanh ngoài việc sử dụng các số liệu của bảng cân đối kế toán còn phải sử dụng các tài liệu chi tiêt khác: Bảng thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu số B04-DN), báo cáo tài sản cố định, báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Khi phân tích doanh nghiệp cần nắm được rằng nhu cầu về vốn kinh doanh (chủ yếu là vốn lưu động) được xác định phù hợp với tính chất, quy mô kinh doanh và thường được thể hiện qua kế hoạch dự trữ tài sản lưu động. Khi nguồn vốn chủ sở hữu không đáp ứng đủ yêu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, trước hết doanh nghiệp phải huy động từ các nguồn vay ngắn hạn, các khoản vay đến hạn chưa trả, vay dài hạn. Ngoài việc phân tích tình hình tăng giảm của từng nguồn vốn, người phân tích còn phải tiến hành nghiên cứa mức độ bảo đảm các nguồn vốn lưu động với các loại tài sản dự trữ thực tế phục vụ cho việc đảm bảo các điều kiện của sản xuất kinh doanh . 1.2.5.3. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán Tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh chất lượng công tác tài chính. Khi nguồn bù đắp dự trữ thiếu, doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn. Ngược lại khi nguồn vốn bù đắp tài sản dự trữ bị thừa, doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn. Nếu phần vốn đi chiếm dụng nhỏ hơn phần vốn bị chiếm dụng doanh nghiệp có thêm một phần vốn để đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh. Ngược lại doanh nghiệp sẽ bị giảm bớt vốn. Qúa trình phân tích phải chỉ ra được các khoản đi chiếm dụng và bị chiếm dụng hợp lý. - Những khoản đi chiếm dụng hợp lý là những khoản còn đang trong hạn trả: Khoản phải trả cho người bán chưa hết hạn thanh toán, phải nộp ngân sách chưa hết hạn nộp… - Những khoản bị chiếm dụng hợp lý là những khoản chưa đến hạn thanh toán: khoản bán chịu cho khách đang trong hạn thanh toán, khoản phải thu của đơn vị trực thuộc và phải thu khác… Trong quan hệ thanh toán, doanh nghiệp phải chủ động giải quyết vấn đề chiếm dụng và đi chiếm dụng trên cơ sở tôn trọng kỷ luật tài chính, kỷ luật thanh toán. Phân tích khả năng thanh toán cho biết tình hình tài chính là tốt hay xấu. Nếu tình hình tài chính tốt, doanh nghiệp có ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng. Vì vậy sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động về vốn đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh thuận lợi. Ngược lại, tình hình tài chính gặp khó khăn, doanh nghiệp nợ nần dây dưa kéo dài mất tính chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đôi khi dẫn tới tình trạng phá sản. Tuy nhiên, ngoài việc sử dụng bảng cân đối để đánh giá còn phải sử dụng các tài liệu hạch toán hàng ngày và một số tài liệu thực tế liên quan để có kết luận chính xác. Cần đi sâu phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu cần xắp xếp theo trình tự nhất định. Trình tự đó thể hiện nhu cầu thanh toán ngay cũng như khả năng huy động ngay và thanh toán trong thời gian tới. 1.2.5.4. Phân tích hiệu quả kinh doanh Phân tích hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài vật lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Đây là vấn đề phức tạp và có quan hệ tới nhiều yếu tố: lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động… Vì vậy, khi phân tích cần phải xem xét qua nhiều chỉ tiêu: hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh , sức sinh lời của vốn … Chỉ tiêu tổng quát để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh thường sử dụng trong phân tích được tính bằng công thức: Kết quả đầu ra Chi phí đầu vào Hiệu quả kinh doanh = Trong đó chi phí đầu ra được đo bằng chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng, doanh thu, lợi tức…còn chi phí đầu vào cơ bản của một doanh nghiệp bao gồm: vốn, nhân lực, các loại tư liệu sản xuất… Công thức này phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để đạt được một khối lượng kết quả đầu ra doanh nghiệp đã phải bỏ ra một lượng các yếu tố đầu vào (tiền vốn, đất đai,công nghệ – kỹ thuật, nguyên liệu, nhân sự, năng lượng, thông tin) như thế nào, tổ chức sử dụng các nguồn lực đó ra sao để đạt được kết quả đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế so sánh tương đối. Nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế nó được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá trình độ và chất lượng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Bên cạnh việc phân tích chỉ tiêu tổng quát, cần phải tiến hành phân tích một số chỉ tiêu chi tiết: hiệu quả sử dụng tài sản cố định (sức sản xuất, sức hao phí, sức sinh lợi…)và hiệu quả sử dụng vốn lưu động sức sản xuất, sức sinh lợi, tốc độ chu chuyển vốn) 1.3. Một số vấn đề trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp Việt Nam hiện nay Trong cơ chế cũ, các doanh nghiệp nhà nước đều được cấp vốn dễ dàng, được giao các chỉ tiêu cần hoàn thành trong kỳ. Doanh nghiệp chỉ cần tiến hành sản xuất kinh doanh một cách máy móc, không chú trọng đến hiệu quả của công việc mà chỉ lo đáp ứng được chỉ tiêu đã được giao, chạy theo thành tích. Hoạt động mang nhiều tính thụ động, phụ thuộc. Đó chính là nguyên nhân tạo ra sự kém hiệu quả tronh hệ thống các doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ đó và sự trì trệ, kém năng động trong tổ chức sản xuất kinh doanh đó vẫn còn ảnh hưởng không ít tới cung cách làm ăn của nhiều doanh nghiệp hiện nay. Từ khi đổi mới, nền kinh tế nước ta chuyển sang một hình thái mới, đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp phải tự mình tổ chức sản xuất kinh doanh theo phương thức hạch toán mới: lời ăn, lỗ chịu. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành vấn đề cấp bách sống còn của các doanh nghiệp đi đòi với nó là nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính. Doanh nghiệp cũng từ đó thấy được tầm quan trọng của việc phân tích hoạt động tài chính, tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp khi phân tích hoạt động tài chính có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn. 1.3.1. Thuận lợi Trong nền kinh tế thị trường để đứng vững trong môi trường cạnh tranh gay gắt bắt buộc doanh nghiệp phải chú trọng tới tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh trong đơn vị mình. Công tác phân tích tài chính đã khẳng định được vai trò của mình và mang tính thực tiển cao hơn. Các doanh nghiệp được phép chủ động tổ chức phân tích theo hướng dẫn chung của nhà nước và sử dụng các nguồn vốn theo cách thức phù hợp nhằm đạt kết quả cao nhất. Nhà nước cũng đã chú trọng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, đã có nhiều thông tư, quy định mang tính chất hướng dẫn, tư vấn cho các doanh nghiệp nhằm xử lý các vấn đề khó khăn thường gặp phải trong việc phân tích tài chính. Quy điịnh chế độ báo cáo thường niên, tổ chức kiểm tra các báo cáo tài chính doanh nghiệp nhằm tạo ra những căn cứ trung thực cho công tác này. Nhà nước cũng đã có sự quan tâm tới công tác thống kê theo ngành dọc để hình thành những số liệu thống kê của từng ngành, từng lĩnh vực giúp cho việc so sánh, làm căn cứ cho doanh nghiệp trong hoạt động phân tích. 1.3.2. Khó khăn Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp chủ yếu dựa trên các báo cáo tài chính nhưng khó có thể đảm bảo rằng các số liêụ là hoàn toàn phản ánh đầy đủ, trung thực các nghiệp vụ kinh tế thực tế phát sinh tại doanh nghiệp. Các báo cáo tài chính thường phản ánh con số không thực về tình hình hoạt động kinh doanh của mình để giảm bớt số thuế phải nộp nhà nước theo quy định, nhằm hợp lý hoá những khoản chi không hợp lý và tránh được sự rò rỉ thông tin cho các đối thủ cạnh tranh. Điều này đã phần nào giải thích được nguyên nhân dẫn đến tình trạng chung của các doanh nghiệp là: công tác phân tích tài chính đạt hiệu quả thấp và kém mang tính thực tiễn. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thường quan tâm tới chỉ tiêu kế hoạch, các doanh nghiệp thường đề ra kế hoạch thấp hơn năng lực thực tế của mình để doanh nghiệp không bị sức ép quá lớn khi hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm tài chính. Vì vậy công tác phân tích, dự báo, lập kế hoạch thường được sử dụng sai mục đích. Đây là mục tiêu không có ý nghĩa về mặt hiệu quả, là hậu quả để lại của thời kỳ tập trung bao cấp trước đây. Trong doanh nghiệp vấn đề nhân sự cũng cần xem xét lại khi thiếu cán bộ quản lý có năng lực, hiểu biết về tình hình tài chính của doanh nghiệp chưa cao, phần đông chưa có trình độ đại học. Hầu như công tác tài chính còn rập khuôn, máy móc theo mẫu có sẵn, không hiểu bản chất của chỉ tiêu kinh tế, không linh hoạt trong xử lý số liệu. Do vậy để công tác phân tích tài chính đạt hiệu quả thực tế còn là vấn đề khó khăn. Một khó khăn nữa trong phân tích tài chính doanh nghiệp là thông tin. Trong điều kiện hiện nay thông tin chính thức và thông tin đã được kiểm chứng còn thiếu nhiều, trong khi lượng thông tin thiếu chính xác, truyền miệng lại tràn lan. Điều này gây khó khăn lớn cho doanh nghiệp trong công tác phân tích, dự báo và hoạch định kế hoạch. Nước ta những năm gần đây công tác phân tích tài chính đã đạt được một phần tuy còn thấp và gặp không ít khó khăn nên mặc dù đã tiến bộ nhưng các doanh nghiệp cần quan tâm, chú trọng hơn để khắc phục những vướng mắc của phân tích tài chính nhằm đạt được mục tiêu đã định. Chương II Phân tích tình hình tài chính của công ty Xây lắp 665 2.1. Tổng quan về công ty 2.1.1. Qúa trình ra đời và phát triển Công ty xây lắp 665 là một doanh nghiệp nhà nước thuộc tổng công ty Thành An-Bộ quốc phòng, được thành lập theo quyết định 461/QĐQP ngày 17/04/1996 của bộ trưởng Bộ quốc phòng trên cơ sở sát nhập hai đơn vị: -Công ty xây dựng 665 -Công ty xây lắp 87 Giấy phép hành nghề số193 cấp ngày 28/04/1996 với các ngành nghề kinh doanh chủ yếu: -Xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp từ quy mô vừa đến quy mô lớn -Xây dựng đường giao thông, bến cảng đến cấp 3 -Xây dựng công trình thuỷ lợi:kênh mương,đê, kè, cống, trạm bơm đến quy mô vừa -Hoàn thiện, trang trí nội thất, lắp đặt cơ điện nước công trình, lắp đặt máy móc thiết bị sản xuất vật liệu phục vụ xây dựng Công ty là đơn vị sản xuất kinh doanh với phương thức hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại ngân hàng, được sử dụng con đấu riêng. Hiện nay, trụ sở chính của công ty tại Nhân Chính- Thanh Xuân – Hà Nội Trong hơn năm năm qua công ty đã từng bước trưởng thành về mọi mặt. Công ty đã tham gia thi công nhiều công trình trong và ngoài quân đội, được nghiệm thu đánh giá tốt về chất lượng, nhanh về tiến độ, được khách hàng tín nhiệm. Như vậy đã phần nào khẳng định được việc sản xuất kinh doanh đang dần ổn định, tạo ra vị thế tương đối tương đối trên thị trường, góp phần giải quyết công ăn việc làm, cải tạo xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Để đạt được điều đó công ty đã phải điều hành sản xuất kinh doanh hợp lý, khoa học để phát huy tối đa hiệu quả sản xuất kinh doanh đặc biệt là kế hoạch lập dự án đấu thầu. Bên cạnh đó là sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận và sự phấn đấu không ngừng của cán bộ công nhân viên trong công ty. 2.1.2. Một số đặc điểm của công ty 2.1.2.1. Đặc điểm quy trình công nghệ Công ty xây lắp 665 là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Do vậy về cơ bản, điều kiện tổ chức hoạt động sản xuất cũng như sản phẩm của công ty có sự khác biệt rất lớn so vơí các ngành sản xuất vật chất khác. Sự khác biệt này qui định đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty. - Tổ chức mặt bằng thi công: Mặt bằng thi công của công ty thường được bên chủ đầu tư giao cho. Tuy nhiên để quá trình sản xuất diễn ra thuận lợi công ty phải giải phóng mặt bằng và xác định mức độ thuận lợi, khó khăn trong quá trình tập kết và vận chuyển vật liệu để có biện pháp tổ chức cho phù hợp. Tổ chức các yếu tố sản xuất: + Về nguồn nhân lực: Sau khi ký kết hợp đồng giao nhận thầu, công ty giao nhiệm vụ thi công công trình cho các xí nghiệp, các đội trực thuộc. Giám đốc xí nghiệp hoặc đội trưởng các đội trực thuộc chịu trách nhiệm điều động nhân công để tiến hành sản xuất. Lực lượng lao động của công ty bao gồm cả công nhân trong biên chế và lao động thuê ngoài. + Về nguồn nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là yếu tố cơ bản của quá trình xây lắp, tạo nên thực thể công trình. Trong các doanh nghiệp xây dựng nói chung và công ty xây lắp 665 nói riêng yếu tố nguyên vật liêụ bao gồm nhiều chủng loại phức tạp với khối lượng lớn. Do vậy tổ chức cung ứng kịp thời và quản lý chặt chẽ các yếu tố này có ý nghĩa kinh tế quan trọng đối với hiệu quả sản xuất. Thông thường, khi nhu cầu nguyên vật liệu cho sản xuất phát sinh, chủ nhiệm công trình báo cáo tình hình với giám đốc công ty và phòng kế hoạch. Trên cơ sở khả năng cung ứng của công ty, chủ nhiệm công trình có thể lĩnh nguyên vật liệu tại kho hoặc tiến hành xin tạm ứng và chủ động mua nguyên vật liệu tập kết tại chân công trình. Như vậy, một yêu cầu đặt ra là phải dự trữ đầy đủ và phải cung ứng kịp thời nguyên vật liệu cho sản xuất, tránh thiệt hại về ngừng sản xuất gây ra. + Về việc huy động máy thi công: Trên cơ sở biện pháp thi công đã được nêu ra trong luận chứng kinh tế kỹ thuật, chủ nhiệm công trình xác định chủng loại và số lượng máy thi công cần thiết. Khi nhu cầu sử dụng máy thi công phát sinh, chủ nhiệm công trình có thể thuê ngoài hoặc điều động máy thi công tại đội máy thi công công ty. 2.1.2.2. Đặc điểm về vốn Tại thời điểm năm 2000 cơ cấu vốn của doanh nghiệp bao gồm 3 loại chính: -Vốn ngân sách cấp, tổng cục hậu cần và tổng công ty cấp: 9.606 triệu đồng -Vốn doanh nghiệp tự bổ sung: 2.224 triệu đồng -Vốn vay : 14.676 triệu đồng Tổng vốn kinh doanh là:26.506 triệu đồng Hơn 4 năm hoạt động tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể , đã hình thành cơ chế quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả. 2.1.2.3. Đặc điểm bộ máy quản lý Bộ máy quản lý của công ty xây lắp 665 được xây dựng trên mô hình quản lý tập trung được áp dụng rộng rãi trong các công ty trực thuộc tổng công ty, kết hợp với điều kiện tổ chức sản xuất của đơn vị, bộ máy quản lý kinh doanh của công ty bao gồm: Giám đốc, các phó giám đốc, kế toán trưởng và các phòng quản lý nghiệp vụ: phòng kế hoạch, phòng tài chính, phòng dự án đấu thầu,phòng chính trị, văn phòng, các xí nghiệp và các đội trực thuộc công ty Giám đốc công ty: Là người đứng đầu công ty, điều hành mọi hoạt động của công ty, quyết định và chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trước pháp luật và trước tập thể công nhân viên về mọi hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Các phó giám đốc: Là người giúp việc cho giám đốc - điều hành một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật. Công ty có 4 phó giám đốc - Phó giám đốc phụ trách kế hoạch - Phó giám đốc phụ trách dự án đấu thầu - Phó giám đốc quản lý kinh tế - Phó giám đốc phụ trách chính trị Phòng kế hoạch tổng hợp: Tham mưu về công tác kê hoạch, lập - giao kế hoạch sản xuất cho các đơn vị, kiểm tra đôn đốc thực hiện kế hoạch sản xuất, tổng hợp báo cáo thực hiện kế hoạch sản xuất của công ty cho ban giám đốc và tổng công ty, kiểm tra, quản lý chất lượng - kỹ thuật các công trình, quản lý hồ sơ và quyết toán công trình, quản lý lao động - tiền lương, đầu tư trang thiết bị xây dựng cơ bản. Phòng dự án đấu thầu: Lập hồ sơ đấu thầu, quản lý hồ sơ đấu thầu và tham gia đấu thầu các công trình. Phòng tài chính: Có nhiêm vụ tổ chức hạch toán quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, đảm bảo tài chính cho toàn công ty đồng thời thực hiện công tác kế toán thống nhất theo qui định hiện hành. Sơ đồ cơ cấu bộ máy kế toán Kế toán trưởng Kế toán thanh toán Kế toán giá thành Kế toán tổng hợp Thủ quĩ kiêm kế toán ngân hàng Kế toán xí nghiệp 37 Kế toán xí nghiệp 51 Kế toán xí nghiệp 61 Phòng chính trị: Căn cứ vào nhiệm vụ sản xuât kinh doanh, chủ trương chính sách của Đảng – Nhà nước xác định cơ cấu tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng, giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng của đơn vị. Văn phòng: Tiếp nhận các chủ trương, chính sách, nghị quyết, lãnh đạo và tổ chức triển khai thực hiện; giám sát, quản lý về chuyên môn ở các bộ phận liên quan.Văn phòng có nhiệm vụ giao dịch- đối nội - đối ngoại, thực hiện công tác hành chính, văn thư, y tế và quản trị văn phòng. 2.2. Phân tích tình hình tài chính của công ty 2.2.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính Việc đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp giúp cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ là khả quan hay không khả quan cho phép ta có cái nhìn khái quát về thực trạng tài chính của công ty. Dựa chủ yếu vào bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp làm tài liệu để phân tích, xem xét các mối quan hệ biến động của các chỉ tiêu. Để đơn giản ta quy ước đơn vị trong phân tích là nghìn đồng (1000 đồng). Qúa trình đánh giá khái quát thực hiện qua 3 bước: 2.2.1.1 Xem xét sự tăng trưởng về vốn kinh doanh đầu kỳ và cuối kỳ Muốn xem xét được sự tăng trưởng về vốn kinh doanh ta tập trung phân tích ba mối quan hệ cân đối lớn trên bảng cân đối kế toán: Mối quan hệ đầu tiên cần phải phân tích là mối quan hệ giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản. Theo quan điểm luôn chuyển vốn, tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định, mối quan hệ này được thể hiện ở cân đối 1. - Cân đối 1: [I(A)+IV(A)+I(B)] Tài sản=[B] nguồn vốn (Hay: Tiền + Hàng tồn kho + TSCĐ = Nguồn vốn chủ sở hữu) Nghĩa là: Nguồn vốn chủ sở hữu phải đủ để bù đắp cho các loại tài sản chủ yếu của doanh nghiệp để doanh nghiệp không phải đi vay hay chiếm dụng vốn của đơn vị khác, cá nhân khác. Tuy nhiên cân đối này chỉ tồn tại trên lý thuyết, thực tế xảy ra 2 trường hợp: + Trường hợp 1: [I(A) + IV(A) + I(B)] Tài sản > [B] Nguồn vốn Phương trình này thể hiện doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu vốn để trang trải (hay nguồn vốn chủ sở hữu không đủ bù đắp cho các loại tài sản chủ yếu của doanh nghiệp ). Do vậy, để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được bình thường doanh nghiệp phải huy động thêm vốn từ bên ngoài thông qua các khoản vay hoặc đi chiếm dụng dưới các hình thức: Mua trả chậm hay thanh toán chậm hơn thời hạn thanh toán. Việc đi vay hoặc đi chiếm dụng ở mức độ vừa phải trong thời gian hợp lý theo quy định tín dụng thì được coi là hợp pháp. + Trường hợp 2: [I(A) + IV(A) +I(B)] Tài sản < [B] Nguồn vốn Nguồn vốn chủ hữu trang trải không hết cho các loại tài sản của doanh nghiệp ( doanh nghiệp thừa vốn) nên bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng dưới các hình thức: Mua chịu hàng hoá, ứng trước cho bên bán, các khoản thế chấp, ký cược, các khoản nợ chưa thanh toán… Căn cứ vào số liệu trên Bảng cân đối kế toán năm 2000 của công ty ta thấy: Đầu năm: VT = [I(A) +IV(A) + I(B)] Tài sản = 6.323.501 + 18.546.667 + 10.648.465 = 35.518.633 VP = [B] Nguồn vốn = 9.689.922 Chênh lệch = VT- VP = 35.518.633 – 9.689.922 = 25.828.711 Cuối kỳ: VT = [I(A) + IV(A) + I(B)] Tài sản = 10.884.007 + 31.211.033 + 10.545.766 = 52.640.291 VP = [B] Nguồn vốn = 12.500.515 Chênh lệch = VT-VP = 40.139.776 Qua thực tế tài chính của công ty cho thấy cả đầu năm và cuối kỳ doanh nghiệp đều ở tình trạng thiếu vốn. Số vốn đầu kỳ thiếu: 25.828.711 Số vốn cuối kỳ thiếu: 40.139.776 Chênh lệch giữa số thiếu đầu năm và cuối kỳ là : 40.139.276 – 25.282.711=14.857.065 Như vậy, công ty không thể tài trợ cho tất cả tài sản của mình bằng nguồn vốn chủ sở hữu mà phải đi vay hoặc đi chiếm dụng vốn để tài trợ. ở cuối năm so với đầu năm tăng lên 14.857,065 triệu đồng cho thấy mức chiếm dụng vốn của doanh nghiệp ngày càng tăng. - Cân đối 2: [I(A) + II(A) + IV(A) + (B)] Tài sản = [B + Vay] Nguồn vốn (Hay: Tiền + Hàng tồn kho + Đầu tư ngắn hạn và dài hạn = Nguồn vốn chủ sở hữu + Các khoản vay) Nghĩa là: Nguồn vốn chủ sở hữu cộng với các khoản vay phải bù đắp đầy đủ cho các loại tài sản và các khoản đầu tư của doanh nghiệp (cả ngắn hạn và dài hạn) Khi kinh doanh đã phát triển lên thì ngoài nhu cầu đầu tư vốn cho các loại tài sản chủ yếu doanh nghiệp còn có nhu cầu đầu tư cho các hoạt động khác để thu thêm lợi nhuận. Lúc này, nếu vốn chủ sở hữu không đủ để bù đắp cho kinh doanh mở rộng thì doanh nghiệp phải huy động linh hoạt một cách hợp lý và hợp pháp. Cân đối này cũng hầu như không xảy ra trên thực tế, nó mang tính chất giả định. Thực tế thường xảy ra 2 trường hợp: + Trường hợp 1: [I(A) + II(A) + IV(A) + (B)]Tài sản > [B + Vay] Nguồn vốn Trong trường hợp này doanh nghiệp đang bị thiếu vốn để trang trải cho các loại tài sản và các khoản đầu tư cuả doanh nghiệp. Để đảm bảo hoạt động của mình doanh nghiệp phải đi chiếm dụng vốn dưới nhiều hình thức: Nhận tiền trước của người mua, nợ tiền nhà cung cấp, nợ lương… + Trường hợp 2: [I(A) + II(A) + IV(A) + (B)}Tài sản < [B + Vay] Nguồn vốn Phương trình này thể hiện đang dư thừa vốn. Nguồn vốn của doanh nghiệp sẽ bị các doanh nghiệp và các đối tượng khác chiếm dụng dưới dạng: Khách hàng nợ, tài sản sử dụng để thế chấp, ký quỹ… Đầu năm: VT = [I(A) + II(A) + IV(A) + (B)}Tài sản = 35.528.633 VP = [B + Vay] Nguồn vốn = 30.805.168 Chênh lệch = VT – VP = 35.528.633 – 30.805.168 = 4.723.465 Cuối kỳ: VT = [I(A) + II(A) + IV(A) + (B)}Tài sản = 52.677.779 VP = [B + Vay] Nguồn vốn = 31.176.702 Chênh lệch = VT – VP = 52.677.779 – 31.176.702 = 21.501.077 Cân đối này thể hiện công ty đang làm ăn phát đạt, hoạt động sản xuất kinh doanh được phát triển mở rộng nhưng doanh nghiệp thiếu vốn để kinh doanh mở rộng phải đi vay thêm vì nguồn vốn chủ sở hữu của công ty đã không đủ bù đắp cho tài sản cố địnhvà tài sản lưu động hiện có của mình như phân tích ở cân đối 1 cả đầu năm và cuối kỳ. Nhưng do lượng vốn đi vay cũng không đáp ứng nổi mức vốn thiếu nên cả hai thời điểm doanh nghiệp đều đi chiếm dụng vốn. Số vốn đi chiếm dụng ở đầu năm là: 4.723.465 nghìn đồng và ở cuối kỳ là: 21.501.077 nghìn đồng, số ở cuối kỳ đã tăng lên so với đầu kỳ là 16.777.612 nghìn đồng, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến các khoản phải trả của công ty trong thời gian tới. - Cân đối 3: [III(A) + V(A)] Tài sản = [A – Vay] Nguồn vốn Cân đối này thực chất được rút ra từ cân đối 2 và phương trình cơ bản của kế toán: Phương trình cơ bản của kế toán : Tài sản = nguồn vốn (1) Cân đối 2: [I(A) + II(A) + IV(A) + (B)] Tài sản = [B + Vay] Nguồn vốn (2) Trừ vế cho vế của phương trình (1) cho (2) ta sẽ có cân đối 3 [III(A) + V(A)] Tài sản = [A – Vay] Nguồn vốn Trong thực tế cân đối này ra cũng xảy ra 2 trường hợp: + Trường hợp 1: [III(A) + V(A)] Tài sản > [A – Vay] Nguồn vốn Trường hợp này tức nợ phải thu lớn hơn nợ phải trả: doanh nghiệp đi vay vốn nhưng sử dụng không hết nên bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng. + Trường hợp 2: [III(A) + V(A)] Tài sản < [A – Vay] Nguồn vốn Tức nợ phải thu nhỏ hơn nợ phải trả, doanh nghiệp đi vay vốn nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu kinh doanh nên đi chiếm dụng vốn của các đối tượng khác. Mức vốn doanh nghiệp đi chiếm dụng hay bị chiếm dụng đúng bằng chênh lệch giữa vế trái và vế phải của cân đối 3 Tình hình thực tế của công ty: - Đầu năm: VT = [III(A) + V(A)] Tài sản = 60.181.276 VP = [ A – Vay ] Nguồn vốn = 64.905.103 Chênh lệch : VP – VT = 4.723.827 - Cuối năm: VT = [III(A) + V(A)] Tài sản =65.613.615 VP = [ A – Vay ] Nguồn vốn = 87.114.695 Chênh lệch: VP – VT = 21.501.080 Như ở cân đối 2 cho thấy công ty ngoài việc đi vay vốn đã đi chiếm dụng vốn của đối tượng khác, số vốn đi chiếm dụng ở cuối kỳ gấp 4,5 lần số vốn đi chiếm dụng ở đầu kỳ. Điều này ảnh hưởng không có lợi tới mối quan hệ giữa công ty với các đơn vị bị chiếm dụng vốn nếu các khoản vay là là quá hạn, không hợp pháp… Chính vì vậy công ty nên xem xét lại những khoản chiếm dụng này để thực hiện thanh toán đúng thời hạn, đảm bảo chấp hành kỷ luật tài chính , kỷ luật thanh toán, lấy lại uy tín cho công ty và cân đối lại hoạt động kinh doanh của mình. Công ty đi chiếm dụng nhiều một phần do đặc thù của ngành nghề kinh doanh, các công trình có giá trị lớn, thời gian hoàn thành lâu, vốn đầu tư cho thi công một công trình nhiều, để nghiệm thu một công trình và hạch toán có thể kéo dài 2 đến 3 năm. Vì vậy khi kết thúc mỗi kỳ kế toán con số doanh nghiệp còn nợ của nhà cung ứng nhiều, phải vay nắn hạn lớn… Như vậy, khi phân tích tình hình tài chính của Công ty xây lắp 665 đã chuyển biến nhưng không khả quan lắm vì số nợ vay và số đi chiếm dụng ngày càng nhiều. Để cụ thể hơn tình hình này, bên cạnh việc so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn đầu năm với cuối kỳ cần tiến hành phân tích cơ cấu tài sản và nguồn hình thành tài sản cũng như tình hình biến động của các chỉ tiêu trong bảng cân đối tài sản. Tổng tài sản thể hiện quy mô kinh doanh, cơ sở vật chất của doanh nghiệp, đặc biệt là cơ cấu tài sản thể hiện trình độ quản lý và ảnh hưởng của nó đến hiệu quả kinh doanh. 2.2.1.2. Phân tích tình hình phân bổ vốn Để đáp ứng đủ yêu cầu kinh doanh , phù hợp khả năng huy động vốn và đầu tư gấp đôi đòi hỏi phải xem xét kết cấu và nguồn vốn căn cứ vào bảng cân đối kế toán. Qúa trình phân tích kết cấu vốn không chỉ so sánh lượng vốn đầu kỳ và cuối kỳ mà còn phải xem xét từng khoản vốn chiếm tỷ lệ cao hay thấp trong tổng số để thấy được mức độ đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc đánh giá tỷ trọng đó cao hay thấp tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh: việc dự trữ nguyên vật liệu phải đầy đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh .Nếu là doanh nghiệp thương mại: phải có lượng hàng hoá dự trữ cung cấp đủ cho nhu cầu mua của khách hàng trong kỳ kinh doanh tới. Xem xét cơ cấu tài sản sẽ thấy sự hợp lý trong việc phân bổ vốn. Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với Công ty xây lắp 665 – là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh công ty phải chủ động tính toán và dự báo nhu cầu của doanh nghiệp về vốn, các loại nguyên vật liệu cho kỳ kinh doanh tiếp theo, các khoản phải thu, mua sắm thiết bị mới phục vụ cho quá trình thi công công trình… nhằm giữ vị trí chủ động, đảm bảo thực hiện tốt tiến độ và chất lượng công trình được giao. Bảng1: Bảng phân tích tình hình phân bổ vốn năm 2000 Đơn vị: Nghìn đồng Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch Số tiền % Số tiền % Số tiền % A. TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 1. Tiền 2. Các khoản phải thu 3. Hàng tồn kho 4. TSLĐ khác B. TSCĐ và đầu tư dài hạn 1. Tài sản cố định 2. Các khoản đầu tư tài chính 3.Chi phí XDCB dở dang 85051806 6323501 28100789 18546667 32080847 10658465 10648465 10000 - 88,86 6,61 29,36 19,38 24,12 11,14 11,13 0,01 - 107708657 10884007 25818031 31211033 39795584 10582739 10545766 10000 26973 91,05 9,2 21,83 26,38 33,64 8,95 8,92 0,008 0,023 22656851 4560506 -2282758 12664366 7714737 -75727 -102699 0 26973 2,19 2,59 -7,53 7 9,52 -2,19 -2,21 -0,002 0,023 Tổng cộng 95710271 100 118291397 100 22581126 - Tổng số vốn cuối năm so với đầu kỳ đã tăng lên: + Tăng về số tuyệt đối: 118.291.397 – 95.710.826 = 22.656.851 + Tăng về tương đối: 23,67% = 100 x 22.656.851 95.710.271 Tổng số vốn cuối năm tăng 23,67%, chứng tỏ quy mô về vốn tăng tương đối, kéo theo cơ cấu tài sản có sự thay đổi: Tài sản cố định giảm 2,19%, tài sản lưu động tăng 2,19%. Tài sản lưu động tăng gần 22.656 triệu tương ứng với tỷ lệ tăng là 2,19% so với đầu năm: + Mức tăng tuyệt đối là: 107.708.657 – 85.051.806 = 22.656.851 x 100 = 26,67% 22.656.851 85.051.806 + Mức tăng tương đối : Trong tài sản lưu động thì các khoản phải thu chiếm tỷ trọng thấp nhất, đã giảm 2.282.758 nghìn với tỷ lệ tương ứng là 7,53% chứng tỏ đồng vốn của doanh nghiệp đang sử dụng hiệu quả hơn và hoạt động thu hồi nợ của công ty đang tích cực. Bên cạnh đó, tỷ lệ tài sản lưu động trong tổng số đã tăng 2,19% trong đó: +Tiền tăng: 2,59% + Hàng tồn kho tăng: 7% + Tài sản lưu động khác tăng: 9,52% Doanh nghiệp hầu như không đầu tư trang bị tài sản cố định bởi trong phân tích tình hình phân bổ vốn, tài sản cố định cuối năm giảm so với đầu năm nên tổng tài sản cố định trong tổng vốn giảm 2,19%. Tỷ trọng đầu tư tài sản cố định giảm đồng nghĩa với tỷ suất đầu tư giảm. Tỷ suất đầu tư phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, thể hiện năng lực sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. x 100 = 11,14% 10.657.465 95.710.271 Đầu năm 2000: Tỷ suất đầu tư = x 100 = 8,95% 10.581.739 118.291.397 Cuối năm 2000: Tỷ suất đầu tư = Ta thấy tỷ suất đầu tư giảm 2,19% thể hiện hướng đầu tư đúng đắn của doanh nghiệp trong cơ chế mới, công ty đã sắp xếp hợp lý được việc gì đầu tư trước, việc gì nên đầu tư sau. Những năm công ty mới thành lập, công ty luôn trong tình trạng thiếu việc làm, máy móc hoạt động công suất thấp, không hiệu quả nên không trích đủ khấu hao cho máy. Gần đây, tuy có tăng về quy mô sản xuất kinh doanh nhưng chưa đạt đến mức cần thiết để đầu tư quá nhiều vào tài sản cố định mà trước mắt hãy tìm mọi cách tận dụng hết cách sản xuất, quản lý và tổ chức một cách hiệu quả nhất trang thiết bị hiện có. Do đó, công ty đã tập trung theo kịp yêu cầu của sự đổi mới, nhu cầu của khách hàng, tăng cường huy động vốn để nhằm mục đích thu hút khách hàng, tạo ra nhiều công ăn việc làm trước mắt. Việc tăng tài sản lưu động được cụ thể bằng: - Vốn bằng tiền tăng 4.560.506 nghìn đồng trong đó tiền mặt tăng 704.612, tiền gửi ngân hàng tăng 4.164.921 và tiền đang chuyển giảm 309.028 nghìn đồng. Tiền có tính lỏng cao nhất, khi tiền tăng nghĩa là tăng khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Góp phần tạo uy tín và niềm tin cho các nhà đầu tư và khách hàng. - Hàng tồn kho tăng mạnh: 12.664.366 trong đó: +Nguyên liệu, vật lệu tồn kho tăng: 72.860 +Công cụ, dụng cụ trong kho: 1.273.712 +Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang: 9.317.795 Công cụ, dụng cụ trong kho và chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang tăng đáng kể, tức công ty chưa có kế hoạch phân bổ hợp lý công cụ, dụng cụ cho các tổ đội trực tiếp quản lý và sử dụng, chưa chú ý tới công tác kế toán, chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang chiếm tỷ lệ cao gây ứ đọng vốn. Với đặc thù sản phẩm của công ty các công trình chưa hoàn thành để kịp đưa vào hạch toán trong kỳ kế toán nên lượng chi phí sản xuất, kinh doanh dở dantài chính còn nhiều là hợp lý. Cũng hình thức kinh doanh này vấn đề hàng tồn kho không thể hiện hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh vì công ty không có thành phẩm tồn kho. -Tài sản lưu động khác tăng 7.714.737 nghìn đồng chủ yếu tăng từ khoản tạm ứng: 9.581.614 còn các khoản khác hầu như giảm nhẹ. Tăng tài sản lưu động khác đã góp phần tăng thêm khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 2.2.1.3. Phân tích cơ cấu nguồn vốn Ngoài việc phân tích tình hình phân bổ vốn cần piải phân tích cơ cấu nguồn vốn nhằm đánh giá khả năng tự tài trợ về mặt tài chính cũng như mức độ tự chủ, chủ động trong sản xuất kinh doanh hay những vướng mắc phát sinh mà doanh nghiệp gặp phải. Dựa vào phần nguồn vốn trên bảng cân đối kế toán của công ty ta lập được bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn. Bảng 2: Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch Số tiền % Số tiền % Số tiền % A.Nợ phải trả 86020349 89,9 105790882 89,43 19770533 -0,47 I.Nợ ngắn hạn 84420349 88,2 105269482 88,99 20849133 0,79 1.Vay ngắn hạn 19515246 20,39 18676187 15,79 - 839059 -4,6 2.Phải trả người bán 15566379 16,26 22422365 18,96 6855986 2,7 3.Người mua trả trước 39087626 40,84 58892895 49,79 19505269 8,95 4.Thuế và các khoản nộp ngân sách 873298 0,91 (130510) -0,11 -1003801 -1,02 5.Phải trả nội bộ 7530961 7,87 4763540 4,03 -2767421 -3,84 6.Phải trả phải nộp khác 1846836 1,93 945003 0,8 -901833 -1,13 II.Nợ dài hạn 1600000 1,67 - - -1600000 -1,67 1.Vay dài hạn 1600000 1,67 - - -1600000 -1,67 III.Nợ khác - - 521400 0,44 521400 0,44 B.Nguồn vốn chủ sở hữu 9689922 10,1 12500515 10,57 2810593 0,47 I.Nguồn vốn - quỹ 9689922 10,1 12500515 10,57 2810593 0,47 1.Nguồn vốn kinh doanh 9278922 9,69 11832767 10 2554659 0,31 2.Chênh lệch tỷ giá - - 2010 0,002 2010 0,002 3.Quỹ đầu tư phát triển 198957 0,21 351136 0,3 152179 0,07 4.Quỹ dự phòng tài chính 168854 0,18 236684 0,2 67830 0,02 5.Quỹ hỗ trợ mất việc làm 44001 0,046 77915 0,067 33914 0,021 Tổng nguồn vốn 95710271 100 118291397 100 22581126 - (Nguồn: Bảng cân đối kế toán của công ty năm 2000) Từ bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu cuối năm tăng so với đầu năm là 2810593 chứng tỏ doanh nghiệp đã nâng cao tính chủ động trong sản xuất kinh doanh. Xét về tổng thể thì khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp tăng, điều đó thể hiện qua tỷ suất tài trợ: (B) Nguồn vốn (A + B) Nguồn vốn x 100 Đầu năm: Tỷ suất tài trợ = x 100 = 10,1% 9689922 95710271 = Cuối kỳ: Tỷ suất tài trợ = 10,57% Khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp đã tăng 0,47%. Chỉ tiêu này chứng tỏ doanh nghiệp đã có sự độc lập về mặt tài chính bởi một phần tài sản của doanh nghiệp hiện có được đầu tư bằng vốn của mình. Các khoản nợ, vay, nộp ngân sách đã giảm thể hiện tính chủ động, linh hoạt trong công tác quản lý và sử dụng vốn. Quy mô của vốn tăng tỷ lệ thuận với sự giảm xuống của các khoản vay, nộp. Tuy nhiên nợ ngắn hạn vẫn tăng 20.849.133 chủ yếu do phải trả người bán tăng 6.855.986 và người mua trả tiền trước tăng 19.505.269. Điều này thể hiên tình hình tài chính của doanh nghiệp đã có phần khả quan và đang từng bước ổn định. Xuất phát từ nguồn vốn dần hợp lý hình thức phân bổ, sử dụng. Qua việc phân tích khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp có thể đưa ra nhận xét: - Tình hình tài chính của công ty không mấy khả quan: cơ cấu vốn phân bổ chưa hợp lý mặc dù các khoản nợ phải thu giảm. - Nguồn vốn chủ sở hữu tăng, các khoản phải trả trước người bán và người mua trả tiền trước tăng dẫn tới làm tăng tỷ suất tự tài trợ. Đây là khởi đầu của sự thuận lợi trong công tác hoạt động tài chính của doanh nghiệp. 2.2.2. Phân tích nguồn vốn kinh doanh và tình hình sử dụng nguồn vốn kinh doanh 2.2.2.1. Phân tích nguồn vốn kinh doanh Nguồn vốn kinh doanh là nguồn hình thành nên vốn kinh doanh của doanh nghiệp .Vốn kinh doanh là giá trị của những tài sản mà doanh nghiệp dùng vào kinh doanh. Nguồn vốn kinh doanh được tính theo công thức: -Nguồn vốn kinh doanh = Nguồn vốn cố định + Nguồn vốn lưu động - Nguồn vốn kinh doanh thực tế = Nguồn vốn kinh doanh + Vay + Nguồn vốn cố định thực tế = Nguồn vốn cố định + Vay dài hạn + Nguồn vốn lưu động thực tế = Nguồn vốn lưu động + Vay ngắn hạn Dựa trên bảng cân đối kế toán và các báo cáo thuyêt minh của công ty ta lập được bảng phân tích nguồn vốn kinh doanh. Bảng 3: Bảng phân tích nguồn vốn kinh doanh Chỉ tiêu Số tiền Chênh lệch Đầu năm Cuối kỳ Số tiền % I. NVLĐ thực tế 22.193.870 22.854.811 660.941 2,98 1. NVLĐ 2.678.624 4.178.624 1.500.000 56 2. Vay ngắn hạn 19.515.246 18.676.187 -839.059 -4,3 II. NVCĐ thực tế 8.199.484 7.654.143 -545341 -6,65 1. NVCĐ 6.599.484 7.654.143 1.054.659 15,98 2. Vay dài hạn 1.600.000 - -1.600.000 -100 NVKD thực tế 30.393.354 30.508.954 115.600 0,38 So với đầu năm nguồn vốn kinh doanh thực tế của doanh nghiệp tăng 115.600 nghìn đồng chiếm 0,38%: Nguồn vốn cố định giảm 545.341, nguồn vốn lưu động tăng 660.941. Nhìn vào bảng trên ta thấy quy mô về vốn tăng đáng kể trong đó khoản vay ngắn hạn và vay dài hạn đều giảm thể hiện khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp có tăng trong năm vừa qua. Đây là một bước phát triển của công ty về nguồn vốn kinh doanh, nó đang và sẽ giúp doanh nghiệp làm ăn tốt hơn nếu tình hình sử dụng nguồn vốn hợp lý và hiệu quả. 2.2.2.2. Phân tích tình hình sử dụng nguồn vốn kinh doanh Phân tích tình hình sử dụng vốn kinh doanh là xem xét mức độ đảm bảo về vốn lưu động và tình hình sử dụng nguồn vốn lưu động cũng như tình hình sử dụng vốn cố định. Muốn biết mức độ đảm bảo về vốn lưu động là đủ, thừa hay thiếu thì phải so sánh nguồn vốn lưu động thực tế với tài sản dự trữ thực tế: - Nếu nguồn vốn lưu động thực tế lớn hơn tài sản dự trữ thực tế thì doanh nghiệp đang ở tình trạng thừa vốn và dễ bị chiếm dụng vốn. - Nếu nguồn vốn lưu động thực tế lớn hơn, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng thiếu vốn lưu động và phải đi chiếm dụng vốn. Trong thực tế thường xảy ra hiện tượng chiếm dụng vốn lẫn nhau chủ yếu giữa doanh nghiệp với các đối tượng. + Khách hàng: Doanh nghiệp bị chiếm dụng do bán chịu (các khoản phải thu) về các loại hàng hoá, dịch vụ. Doanh nghiệp sẽ là người đi chiếm dụng khi khách hàng trả trước mà chưa nhận được hàng. + Nhà cung ứng: Doanh nghiệp là người chiếm dụng vốn khi mua chịu và bị chiếm dụng vốn khi trả trước cho người bán. +Với cán bộ công nhân viên: Về nguyên tắc, người lao động được hưởng lương theo ngày nhưng hầu hết các doanh nghiệp chỉ trả lương sau một thời gian nhất định. Vì thế, lương và các khoản trích vào lương: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… chậm trả là một khoản chiếm dụng của doanh nghiệp. + Với ngân sách nhà nước: Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ với nhà nước thông qua: thuế doanh thu,thuế thu nhập doanh nghiệp, các loại phí và lệ phí…Nếu số thực nộp lớn hơn số phải nộp thì doanh nghiệp bị chiếm dụng( trường hợp này hiếm khi xảy ra).Thông thường các doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn bằng cách nộp ít hơn số phải nộp. + Với các đơn vị phụ thuộc: Trong quan hệ thanh toán, các doanh nghiệp trong cùng một tổng thể thường phát sinh các khoản phải thu (bị chiếm dụng) và các khoản phải trả (đi chiếm dụng). Ngoài ra, một số khoản tài sản thừa, tài sản thiếu, tạm ứng, chi phí phải trả…Cũng được coi là các khoản đi chiếm dụng hay là bị chiếm dụng. Thực tế doanh nghiệp thể hiện qua bảng: Bảng 4: So sánh nguồn vốn lưu động thực tế và tài sản dự trữ thực tế Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch Tăng(%) I. NVLĐ thực tế (1+2) 22.193.870 22.854.811 660.941 2,98 1.NVLĐ 2.678.624 4.178.624 1.500.000 56 2.Vay ngắn hạn 19.515.246 18.676.187 -839.059 -4,3 II. Tài sản dự trữ thực tế 18.546.667 31.211.033 12.664.366 68,28 Mức đảm bảo (I – II) -880.915 -9.273.122 -8.392.207 Cả đầu năm và cuối kỳ nguồn vốn lưu động thực tế đều nhỏ hơn tài sản dự trữ thực tế của doanh nghiệp chứng tỏ doanh nghiệp bị rơi vào tình trạng thiếu vốn lưu động và đã đi chiếm dụng vốn. Trong đó lượng vốn vay ngắn hạn chiếm số lớn trong nguồn vốn lưu động nên doanh nghiệp cần giảm các khoản đi chiếm dụng bằng thực hiện kỷ luật trong mua bán, tổ chức sản xuất kinh doanh, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn vốn…để đảm bảo khả năng thanh toán khi đến hạn. Sản phẩm của công ty có tính chất chuyên biệt, thường có giá trị lớn và thời gian sản xuất, thi công kéo dài. Do vậy vấn đề quản lý gặp nhiều khó khăn. Để đảm bảo tiến độ thi công và hiệu quả của công trình cần phải có biện pháp quản lý chặt chẽ về mọi mặt đặc biệt là tài sản lưu động, có kế hoạch phù hợp, chi tiết cho từng công việc cụ thể…Tìm các biện pháp làm giảm lượng vốn đi chiếm dụng, nâng cao trình độ quản lý và sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Cần phải xem xét, nắm chắc được các khoản đi chiếm dụng nào là hợp pháp, hợp lý và khoản nào là không. Từ đó cụ thể hóa thành kế hoạch thực hiện việc trả nợ và thu hồi nợ cho công ty trong thời gian tới. 2.2.3. Phân tích tình hình sử dụng vốn cố định Vốn cố định là loại vốn nằm trong giá trị còn lại của tài sản cố định. Phân tích tình hình sử dụng vốn cố định phải xem xét các vấn đề sau: - Xem xét sự biến động về cơ cấu tài sản cố định - Phân tích các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tình trạng của tài sản cố định - Phân tích một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định 2.2.3.1. Phân tích sự biến động về cơ cấu tài sản cố định Ta xem xét qua bảng sau: Bảng 5: Bảng phân tích cơ cấu tài sản cố định Loại tài sản Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch GTCL % GTCL % GTCL % I.Tài sản cố định hữu hình 10648464 100 10545764 100 -102700 -0,96 1. Nhà cửa, vật kiến trúc 2974329 27,93 3049526 28,91 75197 2,53 2. Máy móc, thiết bị 4566497 42,88 4529748 42,95 -36749 -0,8 3.Phương tiện vận tải 3107638 29,18 2966490 28,13 -141148 -4,5 Do tính chất đặc biệt của sản phẩm kinh doanh nên tài sản cố định tại doanh nghiệp chỉ bao gồm tài sản cố định hữu hình tức công ty cần nhiều máy móc thiết bị. 2.2.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh tình trạng của tài sản cố định Khi đề cập đến tài sản cố định thường đề cập đến hai thông số cơ bản sau: Gía trị hao mòn Nguyên giá -Hệ số hao mòn: Hệ số hao mòn = 3.221.598 13.870.064 x 23,23% = 100 + Đầu năm: Hệ số hao mòn = 28,72% 100 = x 4.249.321 14.795.087 + Cuối kỳ: : Hệ số hao mòn = Nhìn vào kết quả của hệ số hao mòn cuối năm đã tăng lên so với đầu năm 5,49%, cả đầu năm và cuối năm hệ số hao mòn đều nhỏ hơn 50% chứng tỏ các tài sản của công ty còn mới, thời gian sử dụng còn ít, cần có kế hoạch khấu hao, bảo dưỡng để đảm bảo thời gian hoạt động cho máy có hiệu quả trong sản xuất, chú trọng khai thác công suất, hiện đại hoá từng bộ phận của tài sản cố định để theo kịp với công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu của công trình và chủ đầu tư. -Hệ số hữu ích của tài sản: Gía trị còn lại Nguyên giá + Hệ số hữu ích = Hay: Hệ số hữu ích = 1- Hệ số hao mòn Đánh giá tình trạng của tài sản cố định chỉ cần thông qua một trong hai chỉ tiêu trên. Một chỉ tiêu cho biết phần giá trị tài sản cố định (hao mòn), một chỉ tiêu đánh giá phần hữu ích của tài sản (giá trị còn lại). Khi chỉ tiêu chỉ hệ số hao mòn quá cao (hay hệ số hữu ích quá thấp) cần phải chú trọng đầu tư để giảm hệ số hao mòn và tăng hệ số hữu ích của tài sản. Thực tế ở công ty cơ cấu tài sản cố định hầu như hợp lý, giá trị còn lại của tài sản nhiều, trước mắt chỉ sử dụng hết năng suất sử dụng của tài sản cố định. 2.2.4. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán Tình hình và khả năng thanh toán phản ánh rõ nét chất lượng của công tác tài chính -Nếu hoạt động tài chính tốt thì doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn, cũng như ít bị chiếm dụng vốn. - Nếu hoạt động tài chính kém sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau , các khoản phải thu, phải trả dây dưa kéo dài làm mất tính chủ động trong sản xuất kinh doanh và có thể dẫn tới phá sản. 2.2.4.1. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán Tình hình thanh toán của doanh nghiệp được đánh giá dựa trên các khoản phải thu và các khoản phải trả, sự biến động của chúng giữa đầu kỳ và cuối kỳ. Căn cứ số liệu trong bảng cân đối kế toán ta có các số liệu phản ánh tình hình thanh toán của doanh nghiệp : Bảng 6: Các khoản phải thu của doanh nghiệp năm 2000 Các khoản phải thu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch 1. Phải thu của khách hàng 20.730.747 18.797.019 -1.933.728 2. Trả trước cho người bán 6.696.628 - -6.696.628 3. Phải thu tạm ứng 27.181.039 36.762.653 9.581.614 4. Phải thu nội bộ 5.316.749 2.251.736 -3.065.013 5. Phải thu khác 2.044.742 4.769.276 2.724.534 Tổng 61.969.905 62.580.684 610.779 (Nguồn: Bảng cân đối kế toán của Công ty xây lắp 665 năm 2000) Qua bảng trên các khoản phải thu tăng 610.779 nghìn so với đầu năm chủ yếu tăng từ khoản phải thu tạm ứng. Chứng tỏ doanh nghiệp chưa tích cực thu hồi lại vốn trong quá trình thi công trình, các công trình hạch toán chậm. Mặc dù các khoản khác trong các khoản phải thu đã thu được đáng kể nhưng lượng phải thu tạm ứng tăng nhiều nênvẫn tồn tại lượng phải thu và khoản này dễ bị chiếm dụng vốn. Để xem xét ảnh hưởng của các khoản phải thu tới tài chính doanh nghiệp ta phải so sánh tổng phải thu với tổng tài sản lưu động của doanh nghiệp. Các khoản phải thu Tài sản lưu động Đầu năm: 72,84% = 100 x Cuối kỳ: 58,1% = 100 x Các khoản phải thu Tổng tài sản lưu động Tỷ lệ này cho thấy tình hình tài chính phần nào đã được cải thiện, tình hình thanh toán của công ty có chiều hướng tốt hơn do tổng thu trên tài sản lưu động đã giảm ở đầu năm so với cuối năm. Bảng 7 : Các khoản phải trả của doanh nghiệp năm 2000 Các khoản phải trả Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch 1. Vay ngắn hạn 2. Phải trả người bán 3. người mua trả tiền trước 4. Thuế và các khoản phải nộp 5. Phải trả cho các đơn vị nội bộ 6. Phải trả khác Tổng cộng: 19.515.246 15.566.379 39.087.626 837.298 7.530.961 1.846.836 84.420.349 18.676.187 22.422.365 58.592.895 (130.510) 4.763.540 945.003 105.269.482 -8.839.059 6.855.986 19.502.269 -1.003.808 -2.767.421 -901.833 12.849.133 Số phải trả cũng tăng 12.849.133 nghìn đồng trong đó tăng chủ yếu do phải rả người bán: 6.855.986 nghìn và người mua trả tiền trước 19.505.269 nghìn đồng chứng tỏ doanh nghiệp vẫn đi chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác. Nếu xét trong tỷ lệ các khoản phải trả với tài sản cố định. 84.420.349 85.051.806 Các khoản phải trả Tài sản lưu động = 99,26 % x 100 = Đầu năm 105.269.482 105.708657 Các khoản phải trả Tài sản lưu động Cuối kỳ x 100 =97,73% x100 = Chỉ tiêu trên phản ánh tình hình tài chính đang có dấu hiệu tốt do cuối kỳ giảm 1,53% so với đầu kỳ. Chứng tỏ yêu cầu thanh toán của doanh nghiệp ngày càng dễ chịu hơn, tạo ra triển vọng tốt hơn. Tuy nhiên ta mới thấy được phần nào xu hướng chung của tình hình thanh toán và mức độ ảnh hưởng của tình hình thanh toán đến hoạt động kinh doanh. Cụ thể hơn tan so sánh tổng khoản thu với tổng khoản phải trả: Đầu kỳ: xxx 100 = 73,4% Tổng các khoản phải thu Tổng các khoản phải trả Cuối năm: 100 = 54,45% x Tổng các khoản phải thu Tổng các khoản phải trả Cả đầu năm và cuối năm các khoản phải thu đều nhỏ hơn các khoản phải trả, chứng tỏ công ty đang chiếm dụng vốn. Việc đi chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn là một tất yếu xảy ra đối với công ty nhưng công ty cần tuân thủ đúng luật thanh toán, kỷ luật tín dụng để dảm bảo được uy tín của mình trên thương trường. Để đánh giá tình hình rủi ro về tài chính của doanh nghiệp cũng như tình hình tài chính nói chung ở trước mắt và triển vọng trong thời gian tới cần phải dựa vào các tài liệu hạch toán hàng ngày và một số tài liệu khác để có kết luận chính xác. Như vậy việc cần xác định tính chất, thời gian và nguyên nhân phất sinh các khoản phải thu và các khoản phải trả cũng như các biện pháp mà doanh nghiệp áp dụng để thu hồi nợ và trả nợ. Muốn đạt được ta phải phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán: 2.2.4.2. Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán Để có cơ sở đánh giá tình hình tài chính trong thời gian hiện tại và khoảng thời gian tới ta cần xem xét nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tiến hành theo hai bước sau: Bước 1: Lập bảng cân đối nhu cầu và khả năng thanh toán.Bảng gồm hai phần: Phần I. Nhu cầu thanh toán trong đó liệt kê các khoản doanh nghiệp mắc nợ theo thứ tự ưu tiên trả trước, trả sau (theo mức độ khẩn trương của từng khoản nợ) Phần II. Phản ánh khả năng thanh toán trong đó liệt kê các khoản tài sản mà doanh nghiệp sử dụng để trả nợ theo thứ tự biến đổi thành tiền nhanh hay chậm, tức là theo khả năng huy động. Bảng 8: Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán Nhu cầu thanh toán Số tiền Khả năng thanh toán Số tiền A.Thanh toán ngay 23.161.932 A.Thanh toán ngay 10.884.007 I. Quá hạn 10.014.654 1.Tiền mặt 833.174 1.Nợ ngân sách 342.363 2.Tiền gửi 9.959.780 2.Nợ ngân hàng 533.320 3.Tiền đang chuyển 91.052 3.Nợ người bán 7.474.122 4.Phải trả nội bộ 1.387.847 B. Trong thời gian tới 25.818.031 5.Phải trả khác 277.002 1.Phải thu của khách hàng 18.797.019 II. Đến hạn 13.147.278 2.Phải thu nội bộ 2.251.736 1.Nợ ngân sách 1.123.184 3.Phải thu khác 4.769.276 2.Nợ ngân hàng 1.060.700 3.Nợ người bán 8.975.658 4.Phải trả nội bộ 1.787.847 5.Phải trả khác 199.889 B. Trong thời gian tới 8.028.543 1.Nợ người bán 5.972.585 2.Phải trả nội bộ 1.587.846 3. Phải trả khác 468.112 Tổng cộng 31.190.475 Tổng cộng 36.702.037 Qua bảng trên ta thấy khả năng thanh toán của công ty luôn thừa, tức khả năng thanh toán luôn lớn hơn nhu cầu thanh toán. Bước 2: Tính một số chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của công ty . Để đánh giá chính xác cụ thể hơn cần tiến hành xem xét một số chỉ tiêu: - Tỷ suất thanh toán tức thời: là tỷ suất các khoản có thể sử dụng thanh toán ngay với số cần phải thanh toán ( các khoản nợ ngắn hạn) = 63% x100 Vốn bằng tiền Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán = Hệ số thanh toán ngay = 63% > 50% thể hiện khả năng thanh toán dồi dàocủa doanh nghiệp nhưng do lượng tiền mặt đang giữ không đủ trang trải hết cho nợ ngắn hạn. - Tỷ số về khả năng thanh toán vốn lưu động: là tỷ số giữa vốn bằng tiền và đầu tư ngắn hạn với tổng tài sản lưu động của doanh nghiệp. Vốn bằng tiền + đầu tư ngắn hạn Tài sản lưu động = 0,103 Hệ số thanh toán bằng vốn lưu động = Tỷ số này nằm trong khoảng (0,1 – 0,5) cho thấy doanh nghiệp đang giữ tiền ở mức độ vừa phải. - Tỷ số về khả năng thanh toán: phản ánh mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng thanh toán. = 1,176 Khả năng thanh toán Nhu cầu thanh toán Tỷ số về khả năng thanh toán = Tỷ số này có giá trị lớn hơn 1 chứng tỏ doanh nghiệp đang thuận lợi trong thanh toán. Ngoài việc xem xét các chỉ tiêu trên, ta phải xem xét tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền (xác định vòng quay của các khoanr phải thu): = 1,29 Lần Doanh thu thuần Số dư bình quân cuối kỳ Vòng quay các khoản phải thu = 2.2.5. Phân tích hiệu quả kinh doanh 2.2.5.1. Phân tích hệ thống các chỉ tiêu tổng quát Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh tình hình sử dụng các nguồn nhân tài vật lực của doanh nghệp, là sự so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra( so sánh dưới dạng thương số). Vì chi phí đạt được và chi phí bỏ ra đều có thể phản ánh bằng nhiều loại chỉ tiêu khác nhau do đó phân tích và đánh giá kết quả kinh doanh là một vấn đề phức tạp. Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp. Các chỉ tiêu đó phản ánh được sức sản xuất, suất hao phí cũng như sức sinh lợi của từng yếu tố, từng loại vốn. Công thức tổng quát để xác định hiệu quả kinh doanh: + Chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất, sức sinh lời: Kết quả đầu ra Chi phí đầu vào Hiệu quả kinh doanh = + Chỉ tiêu phản ánh suất hao phí (hao phí chi phí cho một đơn vị kết quả) Chi phí đầu vào Kết quả đầu ra Hiệu quả kinh doanh = Để đánh giá về hiệu quả ta xem xét 3 chỉ tiêu cơ bản: - Tỷ suất lợi tức thuần trên doanh thu Lợi tức thuần Doanh thu x 1000 = 12,64 TS1 = ý nghĩa của tỷ suất này: Cứ thu được 1000 đồng doanh thu thì sẽ có 12,64 đồng lãi. Tỷ suất càng cao phản ánh lợi nhuận sinh ra từ hoạt động kinh doanh càng lớn, tỷ lệ lãi trong doanh thu có tỷ trọng lớn làm tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động có hiệu quả. -Tỷ suất lãi trên vốn: Lãi Vốn bình quân x 1000 =146 TS2 = ý nghĩa:Từ tỷ suất này ta thấy cứ bỏ ra 1000 đồng vốn vào sản xuất kinh doanh sẽ thu được 146 đồng tiền lãi. -Tỷ suất chu chuyển tổng tài sản: = 0,76 Doanh thu Vốn bình quân TS3 = Số vòng chu chuyển của tổng tài sản là 0,76 cho thấy cứ bỏ 1000 đồng vốn vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra 760 đồng doanh thu trong kỳ hay một kỳ kế toán tổng vốn quay được 0,76 vòng. 2.2.5.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định Vốn cố định là loại vốn nằm trong giá trị còn lại của tài sản cố định, hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể đánh giá bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau: -Chỉ tiêu tính chung cho tài sản cố định: + Tính theo tổng sản lượng: 1000 x Gía trị tổng sản lượng Nguyên giá bình quân của TSCĐ Hiệu quả sử dụng TSCĐ = Tại công ty năm 2000: 5340 = 1000 x 76.542.452 14.332.545,5 Hiệu quả sử dụng TSCĐ = Điều này cho thấy cứ sử dụng một 1000 đồng tài sản cố định sẽ tạo ra được 5340 đồng giá trị tổng sản lượng. 1000 x Doanh thu Nguyên giá bình quân của TSCĐ + Tính hiệu quả theo doanh thu: Hiệu quả sử dụng TSCĐ = 5642 x 80.863.441 14.332.545,5 = 1000 = 1000 x Lãi Nguyên giá bình quân của TSCĐ +Tính theo lãi: Hiệu quả sử dụng TSCĐ = 861.693 14.332.545,5 60,12 = 1000 x = Bảng 9 : So sánh các chỉ tiêu này với năm 1998 và năm 1999: Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Theo tổng sản lượng 5014 5115 5340 Theo doanh thu 5190 4794 5642 Theo lãi 39,4 14,9 60,12 So với năm 1998 và năm 1999 hiệu quả sử dụng năm 2000 đã tăng lên rõ rệt tính theo cả 3 chỉ tiêu: Gía trị tổng sản lượng, doanh thu và lãi. Điều này cho thấy tài sản cố định mấy năm trước vẫn sử dụng chưa hợp lý, chưa sử dụng công suất tối đa cho các tài sản để lãng phí nguồn lực của công ty . -Ngoài việc tính chung còn có thể tính riêng các chỉ tiêu hiệu quả cho từng loại ở từng bộ phận: Doanh thu ( hoặc lãi) Nguyên giá BQTSCĐ Trong sản xuất + Tài sản cố định dùng trong sản xuất: 1000 x Hiệu quả sử dụng TSCĐ trong sản xuất = + Tài sản cố định dùng trong quản lý: Doanh thu ( hoặc lãi) Nguyên giá BQTSCĐ Trong sản xuất 1000 x Hiệu quả sử dụng TSCĐ trong quản lý = Vốn cố định là loại vốn nằm trong giá trị còn lại của tài sản cố định, hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể đánh giá bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau: = 5,64 Gía trị sản xuất (doanh thu) Nguyên giá bình quân của TSCĐ - Sức sản xuất của tài sản cố định = Cuối năm 2000 tỷ số này là 5,64 cho thấy: với mỗi đồng tài sản cố định tạo ra 5.64 đồng doanh thu. So với năm 1999 tỷ số này là 3,6 thì năm 2000 tài sản cố định của công ty đã có sức sản xuất phát triển vượt bậc. Lãi Nguyên giá bình quân = 0,06 -- Sức sinh lời của tài sản cố định = Với mỗi đồng tài sản cố định đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ thu được 0,06 đồng lãi (hay 6%). = 0,19 Nguyên giá bình quân Gía trị tổng sản lượng - Suất hao phí của tài sản cố định = Để tạo ra một đồng giá trị tổng sản lượng cần đến 0,19 đồng tài sản cố định. So với nhiều doanh nghiệp trong ngành suất hao phí là thấp chứng tỏ sản xuất có hiệu quả hơn. = 0,082 Lãi Gía trị còn lại - Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Với mỗi đồng giá trị còn lại của tài sản cố định sẽ tạo ra được 0,082 đồng doanh thu. 2.2.5.3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động * Phân tích chung: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được tính bằng các chỉ tiêu sau: Vốn lưu động bình quân Gía trị tổng sản lượng x 1000 - Suất hao phí của vốn lưu động = 2.928.624 76.542.462 x 1000 = 38,26 = Tạo ra 1000 đồng giá trị tổng sản lượng cần hao phí 38,26 đồng vốn lưu động. So với năm 1999 thì suất hao phí của vốn cố định giảm. Lợi nhuận ròng Vốn lưu động bình quân x 1000 = 294 - Sức sinh lợi của vốn lưu động = Chỉ tiêu này phản ánh 1000 đồng vốn lưu động bình quân làm ra 294 đồng lợi nhuận trong kỳ. x 1000 = 28,26 Vốn lưu động bình quân Gía trị tổng sản lượng - Suất hao của vốn lưu động = Để tạo ra 1000 đồng doanh thu, giá trị tổng sản lượng, lợi nhuận thì phải có 28,26 đồng vốn lưu động bình quân. * Phân tích tốc độ chu chuyển của vốn lưu động Chu chuyển của vốn lưu động là việc luân chuyển vốn lưu động một cách liên tục qua các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh lặp đi lặp lại. Thời gian để vốn lưu động chu chuyển được một vòng hay số vòng chu chuyển vốn lưu động trong một năm gọi là tốc độ chu chuyển vốn lưu động. Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả vốn lưu động nói riêng và vốn nói chung. Việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn có ý nghĩa rất lớn: giúp doanh nghiệp tiết kiệm được vốn lưu động, giảm bớt hao phí nhưng vẫn đạt được kết quả kinh doanh như kỳ gốc và giúp doanh nghiệp tăng sức sinh lời của vốn lưu động. Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động không ngừng vận động và không ngừng luân chuyển trong một chu kỳ sản xuất. Để xác định được tốc độ luân chuyển của đồng vốn lưu động thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Các chỉ tiêu phản ánh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động: (1) TSV: Hệ số chu chuyển vốn lưu động (tính theo số vòng chu chuyển của vốn lưu động trong một năm) hay gọi là hệ số vòng. = 1,68 C D TSV = Trong đó: C – Doanh thu kỳ phân tích D – Số dư bình quân vốn lưu động. T.D C T TSV = = 214,3 (2) TSN: Hệ số chu chuyển vốn lưu động (tính theo số ngày của một vòng chu chuyển) hay gọi là hệ số ngày. TSN = Trong đó: T- Số ngày của kỳ phân tích = 0,6 D C (3) Hệ số đảm nhận vốn lưu động: Hệ số đảm nhận vốn lưu động = Để tạo ra một đồng doanh thu cần 0,6 đồng vốn lưu động. Nếu sản lượng sản xuất không đổi (doanh thu không đổi là C): Khi tốc độ chu chuyển vốn lưu động tăng lên, lượng vốn cần đưa vào sản xuất sẽ giảm đi. C T Mức tiết kiệm = (TSN1 – TSN0) x 63.65.893 360 = 22.279.563 x ) ( 360 1,68 - 360 1,06 = C0 T - Nếu vẫn đưa vào lượng vốn lưu động như cũ, sản lượng kỳ phân tích sẽ tăng lên, doanh thu đạt được là C0. Khi tốc độ chu chuyển vốn như cũ để được C0 phải đưa vào lượng vốn lưu động nhiều hơn. Do đó, tăng tốc độ chu chuyển sẽ tiết kiệm cho doanh nghiệp một lượng vốn. Mức vốn tiết kiệm = (TSN1 – TSN0) x = 28.148944 80.425.553 360 x ) 360 1,68 - 360 1,06 ( = 2.3. Đánh giá chung về tình hình tài chính của doanh nghiệp Sau khi phân tích các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của Công ty xây lắp 665 ta thấy công ty có nhiều lợi thế nhưng cũng có một số tồn tại, khó khăn. 2.3.1. Thuận lợi -Trong cơ chế thị trường, từ một đơn vị đơn thuần chỉ thi công các công trình quân đội là chủ yếu, đến nay đã mở rộng thị phần ra nhà nước, nâng thi phần từ 4% năm 1996 lên 50-60% năm 2000. Chính việc này rất có ý nghĩa cho kết quả hoạt động của công ty, tạo công ăn việc làm, tăng doanh thu từ các công trình giúp hoạt động tài chính giảm bớt những khó khăn. -Là một thành viên trong tổng công ty Thành An, công ty đã từng bước trưởng thành, khẳng định được vị thế của mình trên thị trường xây dựng Việt Nam và nước Cộng hoà dân chủ Lào. Điều này giúp tạo uy tín cho công ty, công ty chủ động sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, ổn định đời sống cho người lao động cũng như việc cải tạo tình hình tài chính cho công ty. -Mấy năm trở lại đây, quy mô về vốn của công ty đã tăng, cơ cấu tài sản thay đổi theo hướng ngày càng hiện đại, giá trị sản lượng, doanh thu tăng nhanh, thực hiện được làm ăn có lãi. Để đạt được như thế một phần nhờ vào đầu tư cho cơ sở hạ tầng đang được chú trọng và công ty đã đề ra nhiều giải pháp cải thiện tình hình: Giảm bớt lao động dư thừa, chú ý tuyển chọn người có năng lực và sử dụng đúng người đúng việc. Công tác tài chính được quan tâm đặc biệt. Đề ra những cách thức về quản lý và sử dụng vốn, tổ chức thu hồi các khoản nợ, quản lý chặt chẽ hàng tồn kho… Bên cạnh đó công ty còn được cấp vốn từ nguồn ngân sách của nhà nước, tổng cục hậu cần, tổng công ty, được tổng công ty hỗ trợ về mọi mặt: thị trường, quản lý… 2.3.2. Những khó khăn tồn tại Qua phân tích trên công ty còn tồn tại nhiều khó khăn: -Vốn để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thiếu trầm trọng, vốn lưu động của công ty rất nhỏ mới chỉ có hơn 2 tỷ đồng trên giá trị sản xuất phải đạt hàng năm trên 50 tỷ năm 1996 đến 75 tỷ năm 2000. Để đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh công ty phải đi vay ngân hàng chịu lãi suất với mức dư nợ trung bình hàng năm là:20-25 tỷ đồng đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính của đơn vị. Bên cạnh đó cơ cấu tài sản chưa thực sự hợp lý, khả năng thanh toán chưa tốt còn để tình trạng đi chiếm dụng vốn xảy ra ở mức độ cao. -Tài sản cố định, trang thiết bị mới còn thiếu chủ yếu bằng vốn vay, chưa đồng bộ . Tuy nhiên, theo xu hướng thị trường hiện nay, công ty có rất nhiều tiềm năng phát triển. Trước mắt, công ty cần tìm ra hướng đi phù hợp cho riêng mình, đề ra chiến lược đúng đắn, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách kịp thời, nhạy bén với thị trường để đưa công ty phát triển hơn trong tình trạng cạnh tranh gay gắt hiện nay. Chương 3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính 3.1. Giải pháp chung 3.1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế và đổi mới các chính sách & cơ chế quản lý doanh nghiệp Muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh thì phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó luật kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn kinh doanh, góp phần thực hiện tốt mục tiêu chung của Đảng đề ra. Hệ thống quy phạm pháp luật đầy đủ, chính xác sẽ tạo ra môi trường tốt, lành mạnh, an toàn thúc đẩy hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật hiện nay còn nhiều khâu lỏng lẻo, chưa mang tính thực tế cao đã tạo ra nhiều khe hở cho những kẻ cơ hội, làm ăn bất chính lợi dụng, đục khoét công quỹ, lừa đảo làm thiệt hại lớn cho nhà nước. Do đó, với điều kiện kinh tế nước ta cần phải thường xuyên xem xét, bổ sung và sửa đổi kịp thời những điều khoản không phù hợp với thực tế, đảm bảo độ chính xác cao để quản lý, điều hoà và tạo điều kiện tốt hơn cho sự phát triển kinh tế. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng đến cơ chế quản lý doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, tuy trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế có một phương thức, chính sách quản lý khác nhau. Trong những năm gần đây quản lý doanh nghiệp đã được đơn giản hoá và sửa đổi hợp lý. Cải cách hành chính nhà nước vẫn đang là vấn đề bức xúc và cần thiết, góp phần lành mạnh hoá nền hành chính quốc gia. Điều này mang lại hiệu quả cho xã hội: vừa tiết kiệm cho ngân sách, vừa tiết kiệm tiền bạc, thời gian công sức cho người dân. Công tác tài chính cần được đưa vào thành quy định với các doanh nghiệp bởi đó là tiền đề để công việc sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Nhà nước cần có quy định chặt chẽ về sổ sách, chứng từ, chế độ báo cáo, thống kê tổng quát để có thể tiến hành công tác thuận lợi. Đối với Công ty xây lắp 665 , công tác quyết toán chậm, việc tính lỗ lãi, hạch toán giá thành chưa kịp thời. Quản lý kinh tế ở các đội chưa được chú ý, việc thanh quyết toán, lập chứng từ gây khó khăn cho công tác hạch toán kế toán. Chủ trương của nhà nước về bãi bỏ chế độ quyết toán giữa tổng công ty và các công ty thành viên đã tạo ra những tác động tích cực: giảm việc tồn đọng vốn, tăng tính chủ động trong sản xuất kinh doanh . 3.1.2. Tổ chức tốt công tác kế toán tài chính – kiểm toán Tuy có hệ thống máy tính đã giảm đi một phần phức tạp trong công tác kế toán nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu các quy chế, nguyên tắc cụ thể. Nhà nước cần sớm ban hành những chuẩn mực kế toán riêng phù hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, ban hành các thông tư văn bản hướng dẫn, tư vấn các doanh nghiệp làm tốt công tác kế toán ở đơn vị mình. Nhà nước cần tổ chức công tác kiểm toán, vì nó sẽ tạo ra một môi trường tài chính lành mạnh cho các doanh nghiệp, tạo ra một hệ thống thông tin chuẩn xác cung cấp cho các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp. 3.2. giải pháp riêng về phía công ty 3.2.1. Lập kế hoạch hoạt động trong thời gian tới Việc xác định đúng mục tiêu, phương hướng góp phần quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp. Những kết quả bước đầu doanh nghiệp đã đạt được năm 2000 đã mở ra một hướng đi mới triển vọng hơn. Căn cứ vào chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001-2005) của ngành xây dựng cơ bản cùng hướng dẫn lập kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2001 của tổng công ty, định hướng phát triển sản xuất kinh doanh của công ty, năng lực về vốn, thiết bị lao động hiện có của công ty và khả năng đầu tư tăng năng lực thiết bị, đào tạo tuyển dụng, bổ sung lực lượng chuyên môn, kỹ thuật trong năm 200 0, ban lãnh đạo công ty đã đề ra phương hướng trong thời gian tới: - Mục tiêu cơ bản của sản xuất kinh doanh năm 2001: +Gía trị sản xuất đạt: 81 tỷ đồng so với năm 2000 tăng 5,8%. +Doanh thu đạt: 86,5 tỷ đồng so với năm 2000 đạt 86,9%. +Nộp ngân sách: 3,971 tỷ đồng so với năm 2000 tăng 33,7%. +Lợi nhuận đạt: 1,39 tỷ đồng so với năm 2000 tăng 21,1%. +Thu nhập bình quân một cán bộ công nhân viên trên một tháng đạt: 880.000 đồng so với năm 2000 tăng 3,5%. +Tổ chức tốt công tác tài chính, quản lý sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, thực hiện lành mạnh hoá tình hình tài chính của công ty. -Mục tiêu cơ bản sản xuất kinh doanh 5 năm 2001-2005: + Gía trị sản xuất đạt: 492 tỷ đồng đạt tăng trưởng bình quân là 9,3%, so với 5 năm 1996-2000 tăng 50,14% + Doanh thu đạt: 445,5 tỷ đồng đạt tăng trưởng bình quân là 6,7%, so với 5 năm 1996-2000 tăng 53,31%. + Nộp ngân sách: 24,334 tỷ tăng trưởng bình quân là 14,8% so với 5 năm qua tăng 44,9%. + Lợi nhuận đạt: 8,95 tỷ đạt tăng trưởng bình quân là 16,1%. + Thu nhập bình quân một cán bộ công nhân viên trong một tháng là: 942.000 đồng đạt tăng trưởng bình quân là 3,9%. 3.2.2. Phương hướng thực hiện kế hoạch năm 2001, 2001-2005 - Giữ vững và phát triển sản xuất kinh doanh, có mức tăng trưởng hợp lý hơn năm 2000, tiếp tục phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực hiện kinh doanh có lãi và trả được nợ vay, có biện pháp hữu hiệu để thu hồi công nợ và giải quyết các tồn tại cũ. - Tăng cường một cách hiệu quả công tác tiếp thị, mở rộng quan hệ với các đối tác trong và ngoài quân đội. - Tích cực tìm và tạo ra nguồn vốn bổ sung cho đầu tư trang thiết bị thi công tăng năng lực sản xuất, đặc biệt đầu tư trang thiết bị thi công phần hạ tầng, có biện pháp thích hợp để thu hút lực lượng kỹ sư trẻ có năng lực chuyên môn, có phẩm chất, đạo đức tốt vào làm hợp đồng tại công ty, bổ sung cho lực lượng kỹ thuật hiện còn thiếu, đồng thời gửi đi đào tạo thêm…để nâng cao tay nghề của đội ngũ cán bộ kỹ thuật trong toàn công ty. - Cải thiện và nâng cao một bước về lợi ích vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong toàn công ty. Thực hiện công tác tập trung dân chủ, công khai, đoàn kết, kỷ luật trong công ty, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. 3.2.3. Những giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu Để đạt được mục tiêu, chiến lược đã đề ra, cũng như năng cao hiệu quả hoạt động tài chính công ty cần có những giải pháp cụ thể cũng như kế hoạch cho từng hoạt động: Hoạt động tài chính , hoạt động kinh doanh, nhân lực, tổ chức quản lý… 3.2.3.1. Giải pháp về hoạt động tài chính Hoạt động tài chính là một trong những nội dung chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Có thể nói, tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Tuy nhiên cần phải nâng cao hơn nữachất lượng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, để không những giúp doanh nghiệp nắm được thực trạng của hoạt động tài chính mà còn trên cơ sở thực trạng đó có thể dự đoán được các nhu cầu tài chính trong kỳ tiếp theo, nâng cao một bước tính tích cực chủ động trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, việc nâng cao chất lượng công tác tài chính là nhiệm vụ căn bản nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn sản xuất kinh doanh thì phải có vốn. Và số lượng vốn nhiều hay ít lại liên quan đến doanh thu sẽ thu được là lớn hay nhỏ. Nhưng với một mức doanh thu cụ thể nào đó , đòi hỏi một lượng vốn nhất định nào đó. Qua phân tích tình hình tài chính của công ty ta thấy nổi bật lên là vấn đề vốn lưu động quá ít ( khoảng hơn 2 tỷ), tốc độ chu chuyển vốn thấp (chỉ đạt 1,68 vòng trong năm 2000), hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Cần tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả hơn, đồng thời chặt chẽ và nghiêm túc hơn trong công tác thanh toán nhiều khoản vốn đi chiếm dụng. Cần đầu tư thêm tài sản cố định nhằm nâng cao năng lực sản xuất của công ty đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ mới. Hầu hết các tài sản của công ty còn mới cần bảo quản, kinh doanh khai thác hết công suất sử dụng để nâng cao năng suất công việc. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính theo hệ thống ngành dọc từ công ty đến các xí nghiệp, các tổ đội. Tổ chức công tác thống kê, kế toán, hạch toán từ hạng mục công trình từ cấp đội, chủ nhiệm công trình để từng bước đi vào nề nếp, hạch toán được lỗ, lãi của từng công trình, từng bước hoàn chỉnh cơ cấu quản lý doanh nghiệp, chống thất thoá, thâm hụt trong công tác tài chính. Bảo toàn vốn, quản lý một cách chặt chẽ, khoa học và xử lý vốn hợp lý, tối ưu nhất. Để xác định được nhu cầu về vốn trong thời gian tới cần tiến hành dự đoán nhu cầu vốn lưu động theo 2 phương pháp. (1) Phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu Đây là phương pháp dự đoán ngắn hạn , đơn giản nhưng đòi hỏi pjải hiểu rõ quy trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Dựa vào bảng cân đối kế toán của năm báo cáo để tính.Cụ thể áp dụng phương pháp này dựa vào tình hình của Công ty xây lắp 665 năm 2000 để dự đoán năm 2001 như sau: - Bước1: Dựa vào số khoản mục chủ yếu trên bảng cân đối kế toán của công ty ngày 31/12/2000 Bảng cân đối kế toán Công ty xây lắp 665 năm 2000 Đơn vị: 1000 đồng TàI SảN Số cuối kỳ Nguồn vốn Số cuối kỳ A.Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 105.708.657 A.Nợ phải trả 105.708.657 I.Tiền 10.884.007 I.Nợ ngắn hạn 101.269.482 III.Các khoản phải thu 25.818.031 1.Vay ngắn hạn 18.676.187 IV.Hàng tồn kho 29.211.033 3.Phải trả người bán 22.422.365 V.Tài sản lưu động khác 39.795.584 4.Người mua trả trước 58.592.895 5.Thuế và các khoản nộp nhà nước (130.510) B.Tài sản cố định và đầu tư ngắn hạn 10.582.739 6.Phải trả đơn vị nội bộ 4.763.540 I.Tài sản cố định 10.545.766 7.Các khoản khác 954.003 II.Đầu tư tài chính dài hạn 10.000 II.Nợ khác 521.400 III.Chi phí XDCB dở dang 26.973 B.Nguồn vốn chủ sở hữu 10.500.515 I.Nguồn vốn – quỹ 10.500.515 Tổng tài sản 116.291.397 Tổng nguồn vốn 116.291.397 Bước 2: Chọn các khoản mục có thay đổi tỷ lệ thuận với doanh thu để tính tỷ lệ phần trăm của các khoản đó với doanh thu. Công ty xây lắp 665

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24961.DOC
Tài liệu liên quan