Đề tài Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội

Tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội: Mục lục Ký hiệu và viết tắt 7 Lời nói đầu 8 Chương 1: Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp 10 I. Khái quát về phân tích tài chính doanh nghiệp 10 1. Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp 10 2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính 10 3. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp: 11 3.1. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp 11 3.2. Đối với các nhà đầu tư 12 3.3. Đối với các đối tượng cho vay 12 3.4. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước 12 3.5. Đối với các đối tượng khác 13 4. Mục tiêu của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 14 5. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 15 5.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp 15 5.1.1. Bảng cân đối kế toán 15 5.1.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 18 5.1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 19 5.1.4. Bản thuyết minh báo cáo tài chính 21 5.2. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp 21 II. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 22 1. Phương pháp so sánh 23 2. Phương pháp phân ...

doc100 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Ký hiệu và viết tắt 7 Lời nói đầu 8 Chương 1: Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp 10 I. Khái quát về phân tích tài chính doanh nghiệp 10 1. Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp 10 2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính 10 3. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp: 11 3.1. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp 11 3.2. Đối với các nhà đầu tư 12 3.3. Đối với các đối tượng cho vay 12 3.4. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước 12 3.5. Đối với các đối tượng khác 13 4. Mục tiêu của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 14 5. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 15 5.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp 15 5.1.1. Bảng cân đối kế toán 15 5.1.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 18 5.1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 19 5.1.4. Bản thuyết minh báo cáo tài chính 21 5.2. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp 21 II. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 22 1. Phương pháp so sánh 23 2. Phương pháp phân tích tỷ lệ 23 3. Phương pháp phân tích Dupont 24 III. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 26 1. Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp 26 1.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn 26 1.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh 26 1.3. Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn 28 1.4. Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian 28 2. Phân tích tình hình tài chính theo các nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu 28 2.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán 28 2.2. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn 30 2.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động 31 2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời 33 Chương 2: Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 35 I. Giới thiệu chung về Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 35 1. Quá trình thành lập 35 2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty 36 3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công ty 39 3.1. Chức năng 39 3.2. Nhiệm vụ 39 3.3. Quyền hạn 40 4. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty 40 4.1. Tình hình cạnh tranh 40 4.2. Khách hàng của Công ty 41 4.3. Thị trường 41 4.4. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong 5 năm (1997-2001) 41 II. Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 45 1. Phân tích khái quát tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 46 1.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn 46 1.2. Phân tích tình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh 50 1.3. Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn kinh doanh 53 1.4. Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian 55 2. Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội theo các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính đặc trưng 57 2.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán 57 2.1.1. Khả năng thanh toán chung 57 2.1.2. Khả năng thanh toán hiện hành 58 2.1.3. Khả năng thanh toán nhanh 59 2.1.4. Khả năng thanh toán tức thời 59 2.1.5. Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng 61 2.2. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn 62 2.2.1. Hệ số nợ 62 2.2.2. Khả năng thanh toán lãi vay 63 2.2.3. Khả năng tự tài trợ 64 2.2.4. Khả năng độc lập về tài chính 64 2.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động 65 2.3.1. Vòng quay tiền 66 2.3.2. Vòng quay dự trữ 68 2.3.3. Kỳ thu tiền bình quân 68 2.3.4. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định 69 2.3.5. Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động 70 2.3.6. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản 70 2.3.7. Vòng quay khoản phải thu 71 2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời 72 2.4.1. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm 73 2.4.2. Doanh lợi vốn chủ sở hữu 74 2.4.3. Doanh lợi vốn 74 3. Phương pháp phân tích Dupont 76 III. Đánh giá tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 77 1. Điểm mạnh 77 2. Điểm yếu 78 3. Nguyên nhân 79 3.1. Nguyên nhân chủ quan 79 3.2. Nguyên nhân khách quan 80 Chương 3: Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 83 I. Những cơ hội và thách thức của ngành văn hoá và của Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội trong tiến trình phát triển 83 II. Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 85 1. Giữ vững thị trường hiện tại, tìm kiếm thị trường tiềm năng và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm 85 2. Khai thác huy động vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh 87 3. Quản lý tài sản lưu động 89 3.1. Đối với các khoản phải thu 90 3.2. Đối với dự trữ 91 4. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định 91 III. Một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 92 1. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên 93 2. Kiến nghị đối với Nhà nước 93 Kết luận 96 Tài liệu tham khảo 97 Ký hiệu và viết tắt CCDC Công cụ dụng cụ CNV Công nhân viên Chi phí chờ k/c Chi phí chờ kết chuyển DT Doanh thu EBIT Lợi nhuận trước thuế và lãi EBT Lợi nhuận trước thuế KD Kinh doanh KH Khách hàng LNST Lợi nhuận sau thuế NVL Nguyên vật liệu NWC Vốn lưu động thường xuyên ROA Doanh lợi vốn chủ sở hữu ROE Doanh lợi vốn TS Tài sản TSLĐ Tài sản lưu động TSCĐ Tài sản cố định TT Tỷ trọng Stt Số thứ tự SXKDDD Sản xuất kinh doanh dở dang VCSH Vốn chủ sở hữu VLĐ Vốn lưu động XDCBDD Xây dựng cơ bản dở dang Lời nói đầu Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như môi trường kinh doanh, trình độ quản lý của các doanh nghiệp đặc biệt là trình độ quản lý tài chính. Vì vậy, có thể nói quản lý tài chính là chức năng có tầm quan trọng số một trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp trong cuộc đời kinh doanh. Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, điều chỉnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế còn chậm thì quản lý tài chính là một vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi nó được quản lý tốt về mặt tài chính. Chính vì tầm quan trọng của công tác quản lý tài chính như vậy nên chức năng quản lý tài chính thường thuộc về các nhà lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp như Phó tổng Giám đốc hoặc Giám đốc tài chính. Trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chức năng này thuộc về Phó giám đốc phụ trách tài chính hoặc kế toán trưởng. Nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và thường đưa ra các quyết định tài chính trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày do các nhân viên cấp thấp hơn phụ trách. Các quyết định và hoạt động của nhà hoạt động của nhà quản lý tài chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp: đó là sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc. Trong thực tế, hiện nay, ở Việt Nam, các doanh nghiệp vẫn còn xem nhẹ việc phân tích tài chính. Do đó, các nhà quản lý doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định phù hợp với sự biến động của thị trường, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, đồng thời việc khai thác các nguồn vốn vẫn còn chậm trễ, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. Để đứng vững được trong môi trường cạnh tranh hiện nay, các doanh nghiệp phải nghiên cứu và áp dụng những phương pháp, chỉ tiêu phân tích tài chính phù hợp, mang lại những thông tin tài chính chính xác, bổ ích. Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp, qua một thời gian học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân và thực tập tại Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội, em nhận thấy: “phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn không chỉ trong lý luận mà cả trong thực tiễn quản lý doanh nghiệp”. Vì những lý do trên, em đã chọn đề tài: “Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội” cho luận văn của mình. Em rất mong được sự chỉ bảo của thầy giáo Thạc sỹ Nguyễn Quang Ninh cùng sự giúp đỡ của các cô chú phòng kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2002. Chương 1 tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp I. Khái quát về phân tích tài chính doanh nghiệp: Phân tích tài chính là nội dung quan trọng trong hoạt động quản trị tài chính của doanh nghiệp, là cơ sở khoa học để đưa ra các quyết định phục vụ cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Thông tin của việc phân tích có ý nghĩa khác nhau đối với các đối tượng sử dụng và mục đích của việc phân tích. 1. Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp: Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp , đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.Nó là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu, so sánh số liệu tài chính hiện hành với quá khứ, hiện tại với tương lai (số liệu kế hoạch). 2.Tầm quan trọng của phân tích tài chính: Sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế thế giới, cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp , các ngân hàng, đặc biệt là sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán làm cho hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng và rất cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Thứ nhất, thông qua việc tính toán các mối quan hệ chiến lược, phân tích tài chính cho ta biết những điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Xuất phát từ tình hình đó, nhà quản lý tài chính có thể đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp trong tương lai bằng cách dự báo và lập ngân sách. Những thông tin này có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nhà đầu tư, cơ quan thuế, dân chúng và những ai quan tâm đến hoạt động tài chính doanh nghiệp. Thứ hai, quá trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị quản lý kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Điều đó chứng tỏ phân tích tài chính thực sự là có ích và vô cùng cần thiết. Thứ ba, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính – một trong các hướng dự đoán doanh nghiệp. Hay nói cách khác, phân tích tái chính là đánh giá rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, đánh giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. 3. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp: Trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp đều có thể trở thành đối tượng quan tâm của rất nhiều người. Vì thế việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trở nên vô cùng cần thiết không chỉ đối với bản thân nội bộ doanh nghiệp mà còn đối với tất cả những ai quan tâm đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 3.1. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp: Thông tin của việc phân tích là cơ sở cho việc định hướng các quyết định kinh doanh của ban giám đốc, hội đồng quản trị về việc đầu tư, tài trợ nguồn tài chính, phân chia lợi nhuận cho các mục đích. Để xem xét, đánh giá tính hiệu quả của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ, để đưa ra các dự đoán tốt đẹp cho tương lai. Là cơ sở cho việc lập kế hoạch tài chính trong kỳ tới; kế hoạch huy động, sử dụng vốn; kế hoạch thu, chi tiền mặt; kế hoạch đâù tư; kế hoạch phân chia thu nhập… Phân tích tài chính còn là công cụ kiểm soát các hoạt động tài chính nội bộ từ đó tăng cường hiệu quả của hoạt động quản lý. 3.2. Đối với các nhà đầu tư: Trong cơ chế thị trường, các nhà đầu tư có thể là doanh nghiệp hoặc cá thể, nhóm người…các nhà đầu tư là những người bỏ vốn vào để kinh doanh, do vậy họ mong muốn kiếm được nhiều lợi nhuận và khả năng rủi ro thấp nhất. Do vậy thông tin tài chính giúp cho họ đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, tỷ suất lợi nhuận của công ty nào cao. Các cổ đông thường dựa vào các thông tin tài chính do các chuyên gia phân tích để đưa ra các quyết định đầu tư hay thu hồi vốn trong thời gian tới. 3.3. Đối với các đối tượng cho vay: Trong cơ chế thị trường, các đối tượng cho vay có thể là ngân hàng, công ty tài chính, kho bạc, doanh nghiệp, cá nhân…các thông tin tài chính giúp ích cho họ biết được khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của các đối tượng vay. Đối với các khoản nợ ngắn hạn họ thường quan tâm đến khả năng thanh toán ngay. Đối với các khoản nợ dài hạn họ thường quan tâm đến khả năng hoàn trả và hiệu quả của hoạt động kinh doanh, bởi vì việc hoàn trả phụ thuộc vào số lãi thu về sau một kỳ kinh doanh. Thông tin tài chính phục vụ cho các đối tượng cho vay để đưa ra các quyết định: Cho vay ngắn hạn hay dài hạn? Vay bao nhiêu? Đầu tư vào lĩnh vực gì? 3.4. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước: Trong cơ chế thị trường việc phụ thuộc vào các cơ quan chức năng tuỳ thuộc vào quan hệ tài chính và loại hình doanh nghiệp. Thông thường các loại hình doanh nghiệp phụ thuộc vào cơ quan chủ quản, cơ quan thuế, cơ quan thống kê. Thông tin tài chính giúp cho cơ quan chủ quản đánh giá được tổng thể hoạt động tài chính của doanh nghiệp, tình hình chấp hành chế độ tài chính, tình hình thực hiện các khoản thu nộp…đảm bảo các quan hệ tài chính cho nội bộ doanh nghiệp và các đối tác khác. Từ đó cấp trên đánh giá được việc hoàn thành hay không hoàn thành nhiệm vụ. Cơ quan thuế thông qua thông tin tài chính biết được tình hình thực hiện các khoản thuế đối với ngân sách nhà nước về số phải, đã, chưa nộp. Từ đó biết được doanh nghiệp chấp hành về chế độ tài chính, luật kinh doanh. Cơ quan kiểm toán nhà nước thông qua các báo cáo tài chính cung cấp thông tin tư vấn cho các lãnh đạo để đưa ra các quyết định phê duyệt các quyết toán, dự toán kinh phí. Cơ quan thống kê thông qua các báo cáo tài chính để tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế của toàn ngành, toàn bộ nền kinh tế để phân tích ở tầm vĩ mô đưa ra các chiến lược phát triển kinh tế dài hạn của một quốc gia. 3.5. Đối với các đối tượng khác: Cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp họ căn cứ vào các thông tin tài chính do các chuyên gia cung cấp để biết được sức mạnh thực sự của doanh nghiệp mình, tình hình phân chia lợi nhuận, tình hình sử dụng các quỹ, các kế hoạch kinh doanh trong tương lai để xây dựng niềm tin đối với doanh nghiệp mình. Các nhà cung cấp biết được hoạt động tài chính để có kế hoạch cung ứng đảm bảo các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp. Kiểm toán độc lập thông qua báo cáo tài chính để xác minh và bày tỏ ý kiến của mình đối với khách thể nhằm cung cấp cho các đối tượng quan tâm. Tóm lại, trong cơ chế thị trường thông tin tài chính của doanh nghiệp hữu ích cho mọi đối tượng, các đối tượng khác nhau sử dụng các thông tin để đưa ra các quyết định phục vụ cho lợi ích của mình. Từ đó nguồn tài liệu và kỹ thuật phân tích cũng phụ thuộc vào mục đích của thông tin. 4. Mục tiêu của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp: Mục tiêu của phân tích tài chính là nghiên cứu tình hình tài chính của doanh nghiệp để đưa ra các những chuẩn đoán. Các chỉ số là công cụ của phân tích tài chính. Vì vậy, nhà ngân hàng, trước khi chấp nhận cho vay thường nghiên cứu khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nhà đầu tư hiện nay và sau này quan tâm đến khả năng sinh lợi. Mọi khía cạnh phân tích tài chính đều liên quan đến nhà quản lý doanh nghiệp. Do đó, mục tiêu của phân tích tài chính bao gồm: 1. Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực các thông tin kinh tế, tài chính cần thiết cho chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, nhà cho vay, các đối tượng quan tâm khác để giúp họ có những quyết định đúng đắn khi quyết định một vấn đề nào đó trong kinh doanh, trong quan hệ kinh tế. 2. Cung cấp thông tin về tình hình sử dụng vốn, khả năng huy động nguồn vốn, các tỷ suất về đầu tư, tỷ suất tự tài trợ, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng sinh lời và hiệu quả sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp thấy rõ những mặt mạnh, mặt tồn tại, nguyên nhân tồn tại và đề ra giải pháp hữu hiệu khắc phục hoặc phát huy những thành tích đã đạt được. 3. Cung cấp thông tin về tình hình công nợ, khả năng thu hồi các khoản phải thu, khả năng thanh toán các khoản phải trả…cũng như những ảnh hưởng của những nhân tố làm thay đổi điều kiện sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác quá trình phát triển; giúp các cơ quan quản lý vĩ mô nắm chắc tình hình và kiểm tra doanh nghiệp được hiệu quả. 5. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp: Trong phân tích tài chính, mọi thông tin đều có thể được sử dụng để làm rõ mục tiêu đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp và dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng. 5.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp: Thông tin kế toán là một nguồn thông tin đặc biệt cần thiết. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. 5.1.1. Bảng cân đối kế toán: Bảng cân đối kế toán là một báo cáo kế toán chủ yếu, phản ánh tổng quát tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định dưới hình thái tiền tệ theo các chỉ tiêu kinh tế tài chính tổng hợp. Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở quan hệ cân đối kế toán (Tài sản cố định + Tài sản lưu động = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu). Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm hai phần: Tài sản và Nguồn vốn, được mô tả theo sơ đồ sau: Bảng cân đối kế toán STT Chỉ tiêu STT Chỉ tiêu I. Tài sản lưu động I. Nợ phải trả 1. Tiền 1. Nợ ngắn hạn - Tiền mặt tại quỹ - Vay ngắn hạn - Tiền gửi ngân hàng - Nợ dài hạn đến hạn trả 2. Các khoản phải thu - Thuế và các khoản nộp NS - Phải thu của khách hàng - Phải trả CNV - Trả trước cho người bán - Phải trả khác 3. Tồn kho 2. Nợ dài hạn - NVL tồn kho - Vay dài hạn - Hàng hoá tồn kho - Nợ dài hạn 4. Tài sản lưu động khác II. Tài sản cố định II. Vốn chủ sở hữu - Tài sản cố định hữu hình - Nguồn vốn kinh doanh - Tài sản cố định vô hình - Quỹ đầu tư phát triển - Chi phí XDCBDD - Lợi nhuận chưa phân phối - Quỹ khen thưởng Tổng tài sản Tổng nguồn vốn Tài sản lưu động là tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi và luân chuyển về hình thái tiền tệ nhanh (trong vòng 1 năm hoặc 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh bình thường của doanh nghiệp). Tài sản lưu động bao gồm: Tài sản lưu động dưới dạng vốn bằng tiền: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển… Tài sản lưu động dự trữ cho sản xuất kinh doanh: nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng mua đang đi đường… Tài sản lưu động trong sản xuất: chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là chi phí chi ra nhưng chưa hoàn thành như tiền lương công nhân, khấu hao tài sản cố định… Tài sản lưu động dự trữ cho lưu thông: thành phẩm, hàng hoá, hàng đi gửi bán… Tài sản lưu động trong thanh toán: số tiền khách hàng còn nợ, số tiền ứng trước cho người bán… Tài sản lưu động dưới dạng đầu tư tài chính ngắn hạn: cho vay ngắn hạn, góp vốn liên doanh ngắn hạn… Tài sản cố định là những tài sản thường có giá trị lớn và thời gian thu hồi luân chuyển lâu dài trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh. Qua mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, về hình thái vật chất Tài sản cố định không thay đổi nhưng giá trị đã bị hao mòn. Bao gồm: Tài sản cố định hữu hình là tài sản có hình thái vật chất cụ thể như: nhà cửa, máy móc thiết bị… Tài sản cố định vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể nhưng nó thể hiện bằng một lượng giá trị đã được đầu tư chi trả và mang lại lợi ích kinh tế lâu dài như: quyền sử dụng đất, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng sáng chế… Nợ phải trả là các khoản phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị mà phải cam kết thanh toán cho các đơn vị khác. Nợ ngắn hạn là các khoản phải thanh toán trong vòng 1 năm. Nợ dài hạn là các khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm như: vay dài hạn, nợ dài hạn về thuê Tài sản cố định. Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn do chủ doanh nghiệp đầu tư và doanh nghiệp tự bổ sung trong quá trình hoạt động mà không phải cam kết thanh toán cho các tổ chức khác. Bao gồm: Nguồn vốn kinh doanh là số vốn của chủ sở hữu có phạm vi sử dụng thường xuyên vào hoạt động kinh doanh của đơn vị. Nó được hình thành tuỳ theo phương thức sở hữu của doanh nghiệp. Lợi nhuận chưa phân phối là khoản tạo ra từ kết quả sản xuất kinh doanh có lãi, đơn vị tạm thời sử dụng vào hoạt động kinh doanh khi chưa quyết định phân phối chính thức. Các quỹ chuyên dùng: dùng để chi trả cho những mục đích chuyên dùng khác ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên. Các nguồn vốn khác của chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh của đơn vị. Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng đối với việc đánh giá khái quát tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. 5.1.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: Báo cáo kết quả kinh doanh giúp nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh STT Chỉ tiêu - Doanh thu thuần - Chi phí bán hàng Chi phí quản lý doanh nghiệp Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) Lãi tiền vay Lợi nhuận trước thuế (EBT) Thuế thu nhập doanh nghiệp Lợi nhuận sau thuế Báo cáo kết quả kinh doanh bao gồm: - Doanh thu là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hàng hoá mà doanh nghiệp đã tiêu thụ được, có thể đã thu được tiền rồi hoặc chưa thu tiền. Chi phí bán hàng là các khoản chi phí có liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trong một thời gian nhất định. Chi phí quản lý doanh nghiệp là chi phí phát sinh liên quan đến hoạt động chung của toàn doanh nghiệp mà không thể tách riêng cho bất cứ một hoạt động nào. Lãi tiền vay là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải trả cho việc sử dụng nợ. 5.1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong các báo cáo tài chính không thể thiếu đối với các doanh nghiệp trong những nước có nền kinh tế thị trường. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh theo các hoạt động khác nhau trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh lượng tiền thu, chi và tiền luân chuyển thuần trong kỳ kinh doanh. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho những người sử dụng trong việc đánh giá khả năng tạo ra tiền; khả năng thanh toán của doanh nghiệp và dự đoán được nhu cầu tài chính bằng tiền trong các kỳ kinh doanh tiếp theo. Kết cấu của báo cáo này dựa trên quan hệ cân đối của tiền luân chuyển trong kỳ: Tiền hiện + Tiền thu = Tiền chi + Tiền hiện có có đầu kỳ trong kỳ trong kỳ cuối kỳ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp thông tin về lượng tiền thu vào và lượng tiền chi ra trong kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp thông tin về các hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Bản báo cáo này còn cung cấp chi tiết các thông tin về quá trình nguồn tiền hình thành và quá trình chi tiêu sử dụng trong kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phân loại các luồng tiền vào, ra theo ba hoạt động chính: hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh: Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm: Các dòng thu tiền mặt từ tiền thu bán hàng, từ doanh thu phục vụ dịch vụ, các khoản thu bất thường bằng tiền mặt khác. Các dòng chi tiền mặt trả cho người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, tiền thanh toán cho công nhân về tiền lương và BHXH.... các chi phí khác bằng tiền như chi văn phòng phẩm, công tác phí.... Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư: Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp như hoạt động xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định. Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, cho vay, không phân biệt đầu tư ngắn hạn hay dài hạn. Dòng tiền thu vào bao gồm thu từ bán tài sản cố định, máy móc thiết bị, bán chứng khoán đầu tư của công ty khác, thu tiền lãi cổ phần đầu tư. Dòng tiền mặt chi như tiền mua tài sản, máy móc thiết bị, mua chứng khoán đầu tư của công ty khác, cho công ty khác vay nợ. Lưu chuyển từ hoạt động tài chính: Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Dòng thu tiền gồm: chủ doanh nghiệp góp vốn, vay vốn (không phân biệt vay dài hạn hay ngắn hạn), nhận vốn góp liên doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu .... Dòng tiền chi ra gồm: tiền chi trả cho các bên góp vốn, lãi cổ phiếu, trái phiếu bằng tiền. Việc báo cáo lượng tiền lưu chuyển theo 3 mặt hoạt động có tác dụng giúp doanh nghiệp nắm được từng mặt hoạt động đã tạo ra các luồng tiền vào doanh nghiệp bằng cách nào và việc chi dùng tiền trong từng hoạt động, từ đó có thể biết được hoạt động nào là hoạt động mang lại nhiều tiền nhất, hoạt động nào sử dụng nhiều tiền nhất và sự hợp lý của việc sử dụng các khoản tiền đó. 5.1.4. Bản thuyết minh báo cáo tài chính : Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp; được lập nhằm giải thích một số vấn đề về hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo để cụ thể hoá một số chỉ tiêu kinh tế tài chính tổng hợp trong bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh, qua đó phân tích tình hình biến động một số chỉ tiêu kinh tế tài trong kỳ cũng như thuyết minh việc thực hiện chế độ kế toán và hiệu quả sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp, và đề xuất những quyết định kinh tế và phương hướng hoạt động của những kỳ kinh doanh sau . Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Nôi dung một số vấn đề kế toán được doanh nghiệp lưa chọn để áp dụng, tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn quan trọng, phân tích một số chỉ tiêu tài chính và các kiến nghị của doanh nghiệp. Đặc điểm hoạt động và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 5.2. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp: Bên cạnh khả năng về nội lực tài chính, sự phát triển của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, chịu sự tác động mạnh mẽ của môi trường bên ngoài. Vì vậy, để đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp, để nhà quản trị tài chính đưa ra được các quyết định đúng, có giá trị thì việc xem xét các thông tin liên quan đến môi trường xung quanh của doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó là các quan hệ tài chính trong kinh doanh giữa doanh nghiệp với nhà nước thông qua hệ thống các chính sách quản lý tài chính, giữa doanh nghiệp với thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính, giữa doanh nghiệp với các đối tác kinh doanh. Đồng thời, các thông tin về tình hình tổ chức của doanh nghiệp, môi trường hoạt động, lĩnh vực kinh doanh, các chính sách kinh tế, các biến động kinh tế vĩ mô…đều ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Chẳng hạn như những thông tin có liên quan tới cơ hội kinh doanh, nghĩa là tình hình kinh tế tại một thời điểm cho trước, sự suy thoái, ổn định hay tăng trưởng của nền kinh tế đều tác động mạnh tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi cơ hội thuận lợi thì các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận cũng như các giá trị của các cổ phiếu (nếu là công ty cổ phần) của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Do vậy, khi phân tích tài chính doanh nghiệp thì điều quan trọng là phải nhận thấy sự xuất hiện của cơ hội mang tính chu kỳ (theo quy luật kinh tế): qua thời kỳ suy thoái là thời kỳ tăng trưởng và ngược lại. Đồng thời cần đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh doanh. Đặc điểm của ngành kinh doanh liên quan đến tính chất của các sản phẩm, quy trình kỹ thuật được áp dụng, cơ cấu sản xuất, nhịp độ phát triển của chu kỳ kinh tế. Những nghiên cứu theo ngành chỉ rõ: tầm quan trọng của việc nghiên cứu đó trong nền kinh tế, quy trình công nghệ, các khoản đầu tư, cơ cấu ngành, độ lớn thị trường và triển vọng phát triển. Như vậy, tổng hợp các thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp sẽ cung cấp đầy đủ các dữ liệu cần thiết giúp nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng. II. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp: Sau khi xác định mục tiêu phân tích tài chính và thu thập các thông tin cần thiết, nhà phân tích phải lựa chọn phương pháp phân tích cho phù hợp với mục đích nghiên cứu và nguồn thông tin đã có cũng như khả năng thực hiện phân tích tài chính tại doanh nghiệp. Việc lựa chọn đúng phương pháp có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả phân tích. Trong thực tế, người ta thường dùng 2 phương pháp thông dụng duy nhất là phương pháp phân tích tỷ lệ và phương pháp phân tích Dupont kết hợp với phương pháp so sánh. 1. Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh là một công cụ rất hữu ích trong phân tích tài chính. Việc so sánh số liệu của nhiều năm chỉ ra xu hướng và tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Phương pháp so sánh có thể áp dụng theo hướng so sánh về lượng hoặc so sánh bằng tỷ lệ phần trăm tăng trưởng; nhưng dù bằng cách nào thì phân tích tài chính cũng cần chỉ ra được tác động của sự thay đổi đó đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nhà phân tích có thể so sánh các kết quả của kỳ này với kết quả của kỳ trước để thấy được sự tăng trưởng của doanh nghiệp, so sánh kết quả thực hiện với các chỉ tiêu kế hoạch để thấy mức độ hoàn thành kế hoạch của doanh nghiệp. Nhà phân tích cũng có thể so sánh theo chiều dọc để xác định tỷ trọng của từng chỉ tiêu trong tổng thể hay so sánh theo chiều ngang để thấy được xu hướng thay đổi của một chỉ tiêu qua nhiều kỳ. Phương pháp so sánh thường được lồng ghép trong phân tích tỷ lệ thông qua việc so sánh và phân tích sự biến động của các tỷ lệ tài chính qua các năm hoặc so sánh các tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp với các định mức. Tuy nhiên, việc so sánh chỉ có ý nghĩa nếu các chỉ tiêu đem so sánh có cùng nội dung, tính chất và cùng đơn vị tính toán. 2. Phương pháp phân tích tỷ lệ: Đây là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính. Nó là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ, thứ nhất, nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ lệ của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp; thứ hai, việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ; thứ ba, phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn. Các tỷ số tài chính thường được chia làm 4 loại: Các tỷ số về khả năng thanh toán: Phản ánh khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Các tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Các tỷ số về khả năng hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp. Các tỷ số về khả năng sinh lãi: Phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích mà nhà phân tích sẽ chú trọng nhiều hơn đến từng nhóm chỉ tiêu cụ thể. Ngân hàng, người cho vay quan tâm nhiều hơn đến khả năng thanh toán còn nhà đầu tư lại quan tâm đến tất cả các tỷ lệ. Về nguyên tắc, khi sử dụng phương pháp phân tích tỷ lệ cần phải xác định được các tỷ lệ định mức để đánh giá, so sánh tình hình tài chính của doanh nghiệp với các định mức đó. Có thể so sánh các tỷ lệ tài chính của kỳ này với kỳ trước để thấy xu hướng phát triển của doanh nghiệp nhằm đưa ra các quyết định phù hợp hoặc có thể so sánh các tỷ lệ tài chính của một kỳ với mức trung bình của ngành hay các tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp khác trong cùng ngành. Tự thân các tỷ lệ tài chính không trực tiếp đưa ra các câu trả lời về tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng với sự đánh giá của nhà phân tích lại giúp đặt ra những câu hỏi cần thiết về các điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. 3. Phương pháp phân tích Dupont: (phương pháp phân tích tách đoạn) Ngoài phương pháp phân tích tỷ lệ, phương pháp phân tích Dupont cũng là một phương pháp được sử dụng trong phân tích tài chính. Thực chất phương pháp này cũng phải dựa trên cơ sở các tỷ lệ được tính toán theo phương pháp phân tích tỷ lệ tức đi từ một chỉ tiêu tổng hợp, tách một chỉ tiêu tổng hợp thành từng tỷ lệ có quan hệ với nhau để xem xét tác động của các tỷ lệ đó tới chỉ tiêu tổng hợp. Phương pháp này là một kỹ thuật giúp nhà phân tích đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính. Đó là quan hệ hàm số giữa doanh lợi vốn, vòng quay toàn bộ vốn và doanh lợi tiêu thụ. Mối quan hệ này được thể hiện trong phương trình Dupont: Nếu các tài sản của doanh nghiệp được tài trợ chỉ bằng vốn chủ sở hữu thì doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu bằng nhau vì khi đó tổng tài sảnbằng vốn chủ sở hữu và ta có: Nếu doanh nghiệp có sử dụng Nợ để tài trợ cho các tài sản của mình thì ta có mối liên hệ giữa ROA và ROE: Kết hợp (1) và (3) ta có: Phương trình này gọi là phương trình Dupont mở rộng. Tiếp tục biến đổi ta có: Nếu hệ số nợ tăng thì ROE tăng vì vậy doanh nghiệp có thể dùng Nợ để khuếch đại vốn chủ sở hữu. Phương pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn nhất là giúp nhà phân tích phát hiện và tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp để tìm ra nguyên nhân. Ngoài việc có thể được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành, các chỉ tiêu trong phương pháp Dupont còn có thể được sử dụng để xác định xu hướng hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ từ đó phát hiện ra những khó khăn có thể doanh nghiệp sẽ gặp phải. Khi phân tích tài chính nếu kết hợp phương pháp phân tích tỷ lệ với phương pháp phân tích Dupont thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động phân tích. III. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp: 1. Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp: 1.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn: Phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét sự thay đổi của nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng tổng kết tài sản. Để phân tích, trước hết phải lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn. Trong đó, bên sử dụng vốn: tăng tài sản hoặc giảm nguồn; bên nguồn vốn: giảm tài sản hoặc tăng nguồn. Việc thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn là nhằm chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những đầu tư đó. 1.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh: Theo nội dung này ta phải tính vốn lưu động thường xuyên (hay còn gọi là vốn lưu động ròng – NWC) theo công thức sau: NWC = TSLĐ - Nợ ngắn hạn = Nguồn vốn dài hạn – TSCĐ. Kết quả tính toán xảy ra một trong ba trường hợp sau: Nếu NWC >0, có nghĩa là nguồn vốn dài hạn dư thừa khi đầu tư vào TSCĐ, đồng thời TSCĐ > Nợ ngắn hạn, do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt. Nếu NWC = 0 tức là nguồn vốn dài hạn đủ tài trợ cho TSCĐ và TSLĐ đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính như vậy là lành mạnh. Nếu NWC < 0, nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ cho TSCĐ. Doanh nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn; TSLĐ không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán Nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán Nợ ngắn hạn đến hạn trả. Như vậy, vốn lưu động ròng là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, chỉ tiêu này cho biết 2 điều cốt yếu: Một là, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản Nợ ngắn hạn không? Hai là, TSCĐ của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? Ngoài khái niệm vốn lưu động ròng được đề cập trên, trong phân tích tài chính người ta còn nghiên cứu chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động ròng và vốn bằng tiền. Nhu cầu vốn lưu động ròng là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu (TSLĐ không phải là tiền). Nhu cầu NWC = TSLĐ - Nợ ngắn hạn Nhu cầu NWC > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn Nợ ngắn hạn. Tại đây các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch. Nhu cầu NWC < 0 có nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ cho các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. Vốn bằng tiền = NWC – Nhu cầu NWC Nếu vốn bằng tiền < 0 thì xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn (vốn ngắn hạn nhiều, vốn dài hạn ít). 1.3. Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn: Với nội dung này ta phải lập bảng tính và so sánh tỷ trọng của tài sản và nguồn vốn qua các năm để thấy được tình hình tạo nguồn và sử dụng nguồn của doanh nghiệp như thế nào. 1.4. Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian: Phân tích các chỉ tiêu này ta dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để tính và so sánh tốc độ tăng giảm qua các năm. 2. Phân tích tình hình tài chính theo các nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu: 2.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán: Nhóm chỉ tiêu này được rất nhiều người quan tâm, như các nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp…Họ quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên góc độ: doanh nghiệp có đủ khả năng trả các món nợ hay không (nợ ngắn hạn và nợ dài hạn). Các món nợ ngắn hạn là những khoản phải chi trả trong kỳ. Để thoả mãn yêu cầu này, doanh nghiệp phải dùng toàn bộ phần tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để thanh toán nợ tới hạn. Tuy nhiên không thể dùng tài sản cố định (tài sản dài hạn) để thanh toán vì nó có thời gian thu hồi vốn lớn hơn thời gian đáo nợ. Phần tài sản dùng để trả nợ chỉ có thể là tài sản lưu động, vì nó là những tài sản có thể chuyển thành tiền trong vòng thời gian nhất định, thông thường là dưới một năm. Chỉ tiêu này cho biết 1đ Nợ thì có bao nhiêu đồng Tài sản để trả. Nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó. Cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền và các tài sản quay vòng nhanh trong thời hạn ngắn. Dự trữ là tài sản kém thanh khoản nhất trong các loại tài sản lưu động bởi việc biến chúng thành tiền có thể mất khá nhiều thời gian, do đó nó bị loại ra khi tính toán khả năng thanh toán nhanh. Khoản phải thu đã bị loại ra để tính toán bởi việc hoán chuyển các khoản phải thu thành tiền đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định. Tỷ lệ này cho biết mức độ doanh nghiệp có thể thanh toán ngay lập tức các khoản Nợ ngắn hạn bằng lượng tiền hiện có của mình. Ngoài ra, để đánh giá khả năng thanh toán các khoản Nợ ngắn hạn khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu: Chỉ tiêu này cho biết phần thua lỗ mà doanh nghiệp có thể phải gánh chịu do giá trị hàng tồn kho cũng như cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản lưu động giảm. Khi sử dụng các tỷ lệ này cũng có một số hạn chế như: Cả tử số và mẫu số đều có thể thay đổi rất nhanh, do vậy các tỷ lệ về khả năng thanh toán chỉ có giá trị nhất định khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, phân tích tài chính lại diễn ra ở một thời điểm trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nên tính chính xác của những phân tích khó đảm bảo, ví dụ như sau kỳ thu nợ doanh nghiệp có nhiều tiền mặt hơn và số nợ cũng giảm đi so với trước đó, làm cho kết quả phân tích ở hai thời điểm này khác nhau. 2.2. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các chủ doanh nghiệp đều mong muốn gia tăng lợi nhuận, nhưng họ không thích rủi ro, nghiên cứu tính cân đối vốn sẽ góp phần giải quyết vấn đề này. Cân đối vốn là chỉ tiêu đo lường phần vốn góp của chủ doanh nghiệp so với số nợ vay. Nếu chủ doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trên tổng vốn thì phần rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, khi tỷ số nợ cao thì chủ doanh nghiệp càng có lợi rõ rệt, vì khi đó họ tăng vốn kinh doanh bằng cách vay nợ, hay nói cách khác họ chỉ cần bỏ ra một lượng vốn nhỏ, nhưng lại được sử dụng một lượng tài sản lớn và khi doanh lợi trên vốn lớn hơn lãi suất tiền vay thì phần lợi nhuận của chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng rất nhanh. Cho biết bao nhiêu tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi Nợ. Thông thường các chủ nợ thích hệ số nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu lại ưa thích tỷ lệ nợ cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Sự cạnh tranh về lợi ích giữa việc sử dụng nợ hay vốn chủ sở hữu và chi phí từng loại sẽ quyết định cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Nó cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm. Đây cũng là một chỉ tiêu được ngân hàng, người cho vay quan tâm vì nó phản ánh sử dụng vốn vay có tốt không, lợi nhuận tạo ra có đủ chi trả lãi vay không. Và việc không trả được các khoản nợ này sẽ có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Khả năng tự tài trợ thể hiện năng lực tài trợ của doanh nghiệp cho sự tăng trưởng của mình. Tỷ lệ này cho biết VCSH được sử dụng để tài trợ cho bao nhiêu TS, tỷ lệ này càng lớn thì tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng cao. Người ta thường quan niệm nhóm tỷ lệ này là sự thể hiện cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Mẫu số là vốn của doanh nghiệp không bao gồm nguồn vốn ngắn hạn vì nguồn vốn ngắn hạn luân chuyển hàng năm, biến động liên tục trong khi vốn trung và dài hạn lại thường xuyên có ở doanh nghiệp. 2.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động: Các tỷ số này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định, vốn lưu động và tổng vốn nói chung bởi vì kinh tế thị trường đòi hỏi phải so sánh doanh thu tiêu thụ với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại tài sản khác nhau như: Tài sản cố định, tài sản dự trữ (tồn kho), các khoản phải thu, vì giữa các yếu tố đó đòi hỏi phải có một sự cân bằng nhất định. Chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ sẽ được dùng chủ yếu trong các tỷ số này để đo lường khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Tỷ lệ này cho biết số vòng quay của tiền trong năm. Số vòng quay càng cao thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt. Nhưng cũng có trường hợp tỷ lệ này cao khi doanh nghiệp đang gặp khó khăn, dự trữ và doanh thu đều thấp. Chỉ tiêu này dùng để đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán thông qua các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Nếu kỳ thu tiền thấp thì vốn của doanh nghiệp ít bị đọng trong khâu thanh toán. Còn ngược lại thì vốn của doanh nghiệp bị đọng khá lớn trong thanh toán. Tuy nhiên các khoản phải thu trong nhiều trường hợp cao hay thấp chưa thể có một kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét các mục tiêu của các chính sách của doanh nghiệp, ví dụ như: chính sách tín dụng của doanh nghiệp với mục tiêu nhằm mở rộng thị trường… Chỉ tiêu này đôi khi còn được gọi là số vòng quay vốn cố định, nhằm đo lường việc sử dụng vốn cố định đạt được hiệu quả như thế nào, cụ thể là một đồng vốn cố định được đầu tư tạo ra được mấy đồng doanh thu. Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ quay vòng của TSLĐ nhanh hay chậm. Nếu TSLĐ có tốc độ quay vòng nhanh chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng TSLĐ có hiệu quả. Chỉ tiêu này cũng phản ánh hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp nghĩa là trong một năm vốn của doanh nghiệp quay được bao nhiêu lần hoặc là một đồng vốn đầu tư có thể đem lại được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn cho biết tốc độ thu hồi các khoản phải thu càng nhanh, doanh nghiệp không bị đọng vốn nhiều ở các khoản phải thu. 2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời: Lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính tổng hợp để đánh giá kết quả, đồng thời nó cũng là mục đích cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận càng cao, doanh nghiệp càng tự khẳng định vị trí và sự tồn tại của mình trong nền kinh tế thị trường. Nhưng để đánh giá một cách đúng đắn chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chúng ta không chỉ dựa trên tổng số lợi nhuận mà doanh nghiệp làm ra bằng số tuyệt đối. Bởi vì số lợi nhuận này có thể không tương xứng với lượng chi phí đã bỏ ra, với khối lượng tài sản mà doanh nghiệp đã sử dụng, mà phải dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận tương đối thông qua các chỉ tiêu sau: Phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu. Tử số là lợi nhuận sau thuế để đánh giá tình hình tài chính thực sự của doanh nghiệp vì dưới giác độ là nhà quản lý tài chính thì chỉ quan tâm đến phần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp. Tỷ lệ này đặc biệt quan trọng khi đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp và được chủ sở hữu rất quan tâm. Đây cũng là một chỉ tiêu để các nhà đầu tư xem xét khi họ quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không. Đây là một chỉ tiêu quan trọng được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tử số là lợi nhuận trước thuế và lãi để thuận lợi cho việc so sánh giữa các doanh nghiệp phải nộp thuế với mức thuế suất khác nhau và sử dụng nợ khác nhau. Mặt khác, tỷ lệ này còn cho biết trong tình trạng hiện tại doanh nghiệp có nên huy động vốn hay không? Tóm lại, khi sử dụng phương pháp phân tích tỷ lệ, nhà phân tích cần chú ý đến việc sử dụng các tỷ lệ sao cho phù hợp với mục đích nghiên cứu chứ không phải là chỉ quan tâm đến cách xác định tỷ lệ đó. Chương 2 Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội I. Giới thiệu chung về Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội: 1. Quá trình thành lập: Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước với tên giao dich quốc tế: “HANOI ART CULTURE PRODUCTS COMPANY” thuộc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội . Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội ra đời và phát triển là kết quả hợp nhất của năm công ty với sự đa dạng về ngành nghề lĩnh vực kinh doanh. Cụ thể, năm 1987, đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của ngành văn hoá thông tin Hà Nội đồng thời thực hiện chủ trương cải tiến bộ máy, thu gọn đầu mối quản lý xí nghiệp, Công ty đã được thành lập theo QĐ số 490 / QĐTCCB ngày 11\ 02\ 1987 của Sở văn hoá Thông tin Hà Nội trên cơ sở sáp nhập ba đơn vị : 1.Công ty vật tư văn hoá thông tin 2.Công ty băng nhạc đĩa hát 3.Xí nghiệp sản xuất thiết bị nhạc cụ Đến cuối năm 1989 và đầu năm 1990, Công ty lại có QĐ sát nhập thêm Xí nghiệp sản xuất dịch vụ văn hoá của UBND thành phố Hà Nội và Sở văn hoá thông tin Hà Nội . Tiếp đến tháng 10/1998, Công ty Mỹ thuật quảng cáo đang trong thời kỳ hết sức khó khăn lại được hợp nhất với Công ty và đổi tên thành Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội như hiện nay . Việc hợp nhất năm Công ty bên cạnh việc giúp cho Công ty sử dụng được nội lực tổng hợp, mở rộng được thị trường và hỗ trợ nhau trong các lĩnh vực kinh doanh còn gây cho Công ty không ít khó khăn trong công tác quản lý và tổ chức nhân sự, khắc phục khó khăn của những đơn vị hợp nhất . Song nhờ có sự lãnh đạo đầy trí tuệ và sáng tạo của Ban giám đốc cùng tập thể CBCNV mà Công ty không ngừng củng cố và phát triển về hiệu quả, qui mô sản xuất kinh doanh và lợi ích xã hội . Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội có trụ sở chính tại 43 Tràng Tiền – Trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của cả nước. Ngoài ra Công ty còn có hệ thống các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm sau: Cửa hàng Vật phẩm văn hoá băng nhạc băng hình 43 Tràng Tiền Hà Nội Cửa hàng băng nhạc đĩa hát Hồ Gươm Audio – Video 33 Hàng Bài Hà Nội . Cửa hàng Vật phẩm văn hoá 40 Hàng Bông Hà Nội Kiốt Vật phẩm văn hoá sau đền Bà Kiệu Hà Nội Cửa hàng Vật phẩm văn hoá băng nhạc băng hình 437 Bạch Mai Hà Nội Cửa hàng Vật phẩm văn hoá băng nhạc băng hình 75 Hàng Bồ Hà Nội Ngoài ra, Công ty còn có chi nhánh tại Thành Phố Hồ Chí Minh, các đại lý tại Huế, Thái Nguyên, Hải Phòng. 2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty: Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo một cấp, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều chịu sự chỉ đạo của giám đốc – người lãnh đạo cao nhất và chịu trách nhiệm chung trong công tác quản lý và phân công trách nhiệm cụ thể cho từng phòng ban. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Tổ lắp ráp Tổ SX Các phân xưởng SX Kho NVL Phòng biên tập Phòng kế hoạch tài vụ Ban điều hành BGĐ Xí nghiệp băng đĩa nhạc băng hình Các cửa hàng chi nhánh Các kho hàng hoá Phòng KD XNK Trung Tâm trang trí khánh tiết Trung Tâm Dịch Vụ Thuật Trung Tâm giới thiệu nghệ thuật BGĐ XN SX Dịch vụ Văn Hoá Phòng tổ chức hành chính PGĐ phụ trách Sản xuất PGĐ phụ trách Kinh doanh PGĐ phụ trách Mỹ thuật quảng cáo Giám đốc Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận : Ban giám đốc : Một giám đốc phụ trách chung Một phó giám đốc phụ trách mỹ thuật quảng cáo Một phó giám đốc phụ trách kinh doanh Một phó giám đốc phụ trách sản xuất Phòng tổ chức hành chính : Tổ chức, bố trí, sắp xếp lao động trong Công ty về số lượng trình độ tay nghề, không những chăm lo tới mọi mặt của đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá của cán bộ công nhân viên mà còn đảm bảo an toàn lao động trong Công ty . Tổ chức, giám sát theo dõi hồ sơ cán bộ công nhân viên . Thiết kế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty . Phòng kế hoạch tài vụ: Thực hiện mọi vấn đề liên quan đến tài chính kế toán, hạch toán các hoạt động sản xuất kinh doanh. Báo cáo cho ban giám đốc về hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Đảm bảo cung cấp các số liệu nhanh chóng, chính xác, kịp thời khi có yêu cầu của cấp trên. Tổ chức huy động các nguồn vốn kinh doanh. Thực hiện đúng mọi yêu cầu của Nhà nước về thuế cũng như các qui định khác về tài chính. Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: Xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, quy cách từng mặt hàng trước khi bắt tay vào sản xuất đồng thời giám sát quá trình chế tạo sản phẩm . Mua bán vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất kịp thời. Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, giao nộp sản phẩm, tình hình bảo quản sản phẩm, thành phẩm và theo dõi tình hình nhập xuất tồn kho thành phẩm. Nhập những linh kiện hiện đại, công nghệ mới của các nước trên thế giới. Phòng biên tập chương trình: Xây dựng các chương trình theo sự chỉ đạo của Giám đốc và đơn đặt hàng của phòng kinh doanh. Biên tập các chương trình, dàn dựng quay phim, làm băng gốc cung cấp cho xưởng sản xuất. Ban kỹ thuật KCS: Có nhiệm vụ cải tiến thiết bị máy móc, duy trì sự hoạt động của các thiết bị máy móc luôn tốt, đảm bảo sản xuất liên tục an toàn. Kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất xưởng, cùng các phòng khác đề ra tiêu chuẩn chất lượng. Nhìn chung cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý được hình thành rất phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. Sự phối hợp phân công từng đơn vị trong Công ty được quy định chặt chẽ bằng văn bản đã đảm bảo cho sự hoạt động thống nhất nhịp nhàng và thông suốt giữa các bộ phận. Sự lãnh đạo theo một cấp càng giúp cho Công ty tránh được sự chồng chéo giữa các bộ phận phòng ban. 3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công ty: 3.1. Chức năng: Cung cấp các sản phẩm hàng hoá thuộc loại hình văn hoá phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu về văn hoá tinh thần cho nhân dân, thông qua đó còn góp phần : Thúc đẩy quá trình phân phối và lưu thông hàng hoá. Tạo công ăn việc làm và đảm bảo thu nhập cho CBCNV. 3.2. Nhiệm vụ: Sản xuất băng đĩa nhạc, băng đĩa hình các loại. Mở cửa hàng kinh doanh các loại sản phẩm do Công ty sản xuất, các sản phẩm liên doanh liên kết và các sản phẩm của các hãng đối tác. Kinh doanh văn phòng phẩm, các sản phẩm quà tặng. Làm đại lý tiêu thụ sản phẩm cho các đơn vị cá nhân có nhu cầu về điện máy, điện tử, thiết bị âm thanh chiếu sáng sân khấu, nhạc cụ, mỹ phẩm và linh kiện lắp ráp chuyên ngành văn hoá. Tổ chức triển lãm mỹ thuật cho các hoạ sĩ, làm market quảng cáo, thực hiện trang trí khánh tiết ... Ngoài ra Công ty còn có nhiệm vụ thực hiện tốt các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đã đề ra. 3.3. Quyền hạn: Công ty thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh, hạch toán kế toán và quản lý tài chính độc lập. Công ty được ký kết các hợp đồng kinh tế với các thành phần kinh tế khác nhau trên nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi. 4. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty: 4.1. Tình hình cạnh tranh: Mặt hàng của Công ty là loại hàng hoá đặc biệt, phục vụ đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh của nhân dân Thủ đô và các tỉnh phía Bắc, được Nhà nước và lãnh đạo Thành phố rất quan tâm, nhưng nó lại là mặt hàng dễ bị ăn cắp bản quyền làm nhại hàng giả, nạn buôn lậu tràn lan như tình trạng đánh cắp bản quyền và buôn lậu đĩa CD qua biên giới phía Bắc.Vì vậy, vấn đề cạnh tranh về giá cả và chất lượng trở nên rất gay gắt. Các doanh nghiệp tư nhân thì cạnh tranh với Công ty ở chỗ sản phẩm của họ không bị kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ về chất lượng và yêu cầu, họ có thể tiêu thụ văn hoá phẩm không lành mạnh, phục vụ một số ít quần chúng có thị hiếu không lành mạnh. Mặt hàng của tư nhân chất lượng không bằng nhưng giá rẻ hơn, còn sản phẩm của Công ty có sự đầu tư ban đầu lớn có chất lượng nên không thể bán rẻ như tư nhân được. Đây là khó khăn lớn cho Công ty về mặt cạnh tranh trên thị trường. Cách khắc phục tốt nhất cho Công ty là đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại, nâng cao chất lượng băng nhạc cùng với việc nâng cao chất lượng chương trình trong đó để sản phẩm của Công ty hơn hẳn sản phẩm của tư nhân. 4.2. Khách hàng của Công ty: Khách hàng của Công ty chủ yếu là các tổ chức thương mại, các nhà bán buôn bán lẻ và đông đảo nhân dân trong cả nước, kiều bào nước ngoài, khách du lịch quốc tế. Để đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, thuận tiện cho khách hàng, đối với các đại lý mua hàng thường xuyên, Công ty tạo điều kiện cho các đại lý về vốn bằng cách bán hàng trả chậm, cho nợ từ 15 đến 20 triệu đồng tiền hàng. Đối với khách hàng mua khối lượng lớn, Công ty có chế độ khuyến mại giảm giá từ 1% đến 2% giá bán, ngoài ra, Công ty còn bảo đảm giao hàng tại địa chỉ của người mua. 4.3. Thị trường: Tại Thủ đô Hà Nội những năm gần đây, các phương tiện nghe nhìn ngày càng phổ cập và trở thành nhu cầu rất lớn trong đời sống nhân dân. Trên thị trường, sự phát triển phong phú về số lượng chủng loại và nội dung chương trình băng nhạc băng hình đồng thời với nhiều băng có nội dung không lành mạnh gây không ít khó khăn cho công tác quản lý Văn hóa của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến đời sống tâm lý, tình cảm đạo đức xã hội. Trước tình hình đó, Công ty luôn thực hiện tốt biện pháp “Xây” để “Chống” văn hoá phẩm đồi trụy. 4.4. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong 5 năm (1997-2001): Nhìn vào hai bảng và biểu đồ ta thấy: Trong hai năm 1997 và 1998, tổng tài sản và doanh thu cũng như lợi nhuận của Công ty đạt mức tăng trưởng rất cao. Năm 1997, hai máy ép phun nhựa đầu tư năm 1996 đã bắt đầu cạnh tranh, được thị trường chấp nhận, công nhân có việc làm đều đặn. Tuy nhiên Bảng I.1 - Bảng cân đối kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà nội Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 A. Tài sản 7.455,65 9.424,62 7.106,78 6.519,84 5.347,37 I. Tài sản lưu động 5.220,36 5.882,91 4.039,30 3.678,49 2.918,27 1. Tiền 394,75 440,67 210,28 174,05 466,75 Tiền mặt tại quỹ 121,25 8,83 65,72 60,62 33,70 Tiền gửi ngân hàng 273,50 431,84 144,56 113,43 433,05 2. Các khoản phải thu 449.70 705.45 866.42 1.105.39 687.78 Phải thu của KH (66,17) 377,49 547,61 678,60 341,14 Phải thu nội bộ 469,44 308,61 241,68 143,80 327,78 Phải thu khác 46,43 19,35 52,72 177,29 (84,11) Dự phòng thu khó 0 0 24,14 105,70 102,97 3. Hàng tồn kho 3.796,79 3.731,11 2.013,01 1.626,18 1.348,77 NVL tồn kho 1.145,68 1.100,23 485,86 472,12 469,68 CCDC trong kho 196,41 176,78 224,81 113,24 18,6 Chi phí SXKDDD 295,36 211,97 236,48 126,87 218,03 Thành phẩm tồn 228,65 53,12 272,06 808,59 542,13 Hàng hoá tồn kho 1.922,91 2.141,76 751,20 0 0 Hàng gửi đi bán 38,11 47,25 46,90 105,36 98,66 Dự phòng giảm giá (30,33) 0 (4,30) 0 1,67 4. TSLĐ khác 579,12 1.055,68 949,59 772,87 414,97 Tạm ứng 97,78 102,57 64,29 81,96 16,45 Chi phí trả trước 414,20 774,16 713,72 480,61 213,44 Chi phí chờ k/c 65,20 127,01 169,64 210,30 185,08 TS thiếu chờ xử lý 1,94 1,94 1,94 0 0 II. Tài sản cố định 2.235,29 3.541,71 3.067,48 2.841,35 2.429.1 1. TSCĐ hữu hình 2.170,26 3.476,68 3.002,45 2.837,28 2.425,03 2. Chi phí XDCBDD 65,03 65,03 65,03 4,07 4,07 B. Nguồn vốn 7.455,65 9.424,62 7.106,78 6.519,84 5.347,37 I. Nợ phải trả 5.231,53 7.094,36 4.736,19 4.113,85 2.927,95 1. Nợ ngắn hạn 4.623,42 6.125,57 4.272,28 4.021,40 2.927,95 Vay ngắn hạn 482,60 2.490,46 178,22 777,00 529,33 Nợ dài hạn đến hạn trả 1.069,88 1.958,88 2.299,68 2.474,44 1.830,58 Người mua trả tiền trước 429,64 867,06 395,90 247,83 180,98 Thuế và các khoản phải nộp ngân sách 427,04 644,40 1.211,56 348,99 203,75 Phải trả CNV 0 45,60 45,60 45,60 0 Phải trả cho các đơn vị nội bộ (31,97) 117,15 138,06 129,28 198,97 Phải trả khác 0 2,02 3,26 (1,74) (15,66) 2. Nợ dài hạn 608,11 968,79 463,91 92,45 0 II. Nguồn vốn CSH 2.224,12 2.330,26 2.370,59 2.405,99 2.419,42 Nguồn vốn KD 2.028,10 2.273,37 2.273,37 2.472,54 2.334,30 Quỹ đầu tư 23,10 150,47 150,47 101,29 101,29 Lãi chưa phân phối 0,48 (94,38) 78,22 0 0 Quỹ khen thưởng 172,44 0,80 (131,47) (167,84) (16,17) Nguồn: Phòng kế hoạch tài vụ Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. đây là năm thứ hai của đầu tư nên khấu hao để trả nợ ngân hàng rất cao, vốn lưu động lại thiếu (do hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn 73.9%) vì vậy mà lợi nhuận chưa cao. Mặc dù vậy, đây là năm mà lợi nhuận đạt cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Năm 1998, phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hoá âm nhạc của nhân dân ngày Bảng I.2 – Báo cáo kết quả kinh doanh Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Doanh thu thuần 21,814.35 28,099.91 19,941.31 20,671.05 16,802.47 2. Giá vốn 18,942.85 23,895.70 17,086.65 16,945.55 12,982.74 3. Lợi nhuận gộp 2,871.50 4,204.21 2,854.66 3,725.50 3,819.73 4. Chi phí bán hàng 1,575.22 2,283.62 2,319.10 3,410.15 3,556.36 5. Chi phí quản lý 789.38 1,672.87 457.27 212.56 142.59 6. Lợi nhuận hđkd 506.90 247.72 78.29 102.79 120.78 7. LN bất thường - (29.59) - - - 8. Tổng TNTT 506.90 218.13 78.29 102.79 120.78 9. Thuế TNDN 228.11 98.16 25.05 32.89 38.13 10 LNST 278.79 119.97 53.24 69.90 82.13 Nguồn: Phòng kế hoạch tài vụ Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. càng tăng, Công ty đã liên tục khai trương cửa hàng băng đĩa nhạc, băng đĩa hình tại thành phố Hải Phòng (liên doanh với Công ty Hoa phượng đỏ) và mở đại lý tại Thái Nguyên, tham gia hội chợ ở khắp Bắc, Trung, Nam, mở rộng được mạng lưới tiêu thụ, giới thiệu sản phẩm với công chúng cả nước. Công ty đã bổ sung đầu tư vay vốn Đài Loan đợt II: 1.9 tỷ đôla. Đặc biệt là năm 1998 khủng hoảng tiền tệ khu vực ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của Công ty, thực tế Công ty đã phải bù chênh lệch tỷ giá đồng đôla là 440 triệu đồng trong 9 tháng đầu năm. Tuy nhiên, 3 năm còn lại tăng trưởng kinh tế của Công ty giảm rõ rệt. Mặc dù tổng sản lượng sản xuất và tiêu thụ có tăng nhưng doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách và lương bình quân đều giảm. Nguyên nhân chủ yếu là thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt trong khi các sản phẩm của Công ty còn chưa nhiều, thị trường chiếm lĩnh còn hạn chế đặc biệt là thị trường rộng lớn phía Nam, tốc độ tiêu thụ hàng còn chậm… II. Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội: Đứng trên giác độ là “người của Công ty”, em tiến hành phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội nhằm xác định được điểm mạnh (hay kết quả),điểm yếu (hay hạn chế) trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của Công ty. Đồng thời tìm ra nhờ đâu có được kết quả đó và do đâu mà có hạn chế này? Từ đó đưa ra các giải pháp để khắc phục và có những kiến nghị lên cấp trên để góp phần cải thiện tình hình tài chính của Công ty. 1. Phân tích khái quát tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội: 1.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn: Từ số liệu của bảng cân đối kế toán, ta lập bảng phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn. Qua bảng trên ta thấy: Năm 1998, nguồn vốn và sử dụng vốn tăng 2,034.65 triệu đồng (tăng 27.29% so với năm 1997), xét về mục tiêu tăng trưởng và phát triển thì kết quả này là khả quan (bởi vì năm này là năm Công ty phải gánh chịu nợ nần và lỗ của Công ty Mỹ thuật cũ). Trong đó, sử dụng vốn chủ yếu là để đầu tư vào TSCĐ (chiếm 64.21%) đổi mới trang thiết bị công nghệ để làm ra những sản phẩm có chất lượng cạnh tranh thay thế hàng nhập khẩu. Để đầu tư cho dây chuyền công nghệ mới này, Công ty đã phải khai thác nguồn vốn bằng cách vay ngắn hạn (73.83%) và vay dài hạn (vốn của Đài Loan đợt II) 17.73%. Đầu tư tăng TSCĐ đó là phương hướng đúng cho mục tiêu phát triển, nhưng sử dụng vốn đầu tư vào TSCĐ lại lấy chủ yếu từ nguồn vốn Nợ ngắn hạn là không hợp lý bởi vì đầu tư cho TSCĐ là đầu tư dài hạn mà lại vay ngắn hạn tài trợ là không thích hợp, không có sự tương thích về mặt thời gian và lãi suất.Trong năm này, 91.56% tổng nguồn vốn của Công ty được hình thành bằng vay ngắn hạn và vay dài hạn và bằng cách chiếm dụng (tức tăng các khoản phải trả, phải nộp). Giải pháp là trong các năm tiếp theo Công ty phải tiến hành khấu hao nhanh để trả nợ vốn vay Đài Loan (24 tháng) và phải tăng được nguồn vốn chủ sở hữu, giảm các khoản phải thu thì Công ty mới có khả năng thanh toán các khoản nợ khi đến hạn. Bảng II.1.1 – Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn Đơnvị: triệuđồng Stt Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Sử dụng vốn Nguồn vốn Sử dụng vốn Nguồn vốn Sử dụng vốn Nguồn vốn Sử dụng vốn Nguồn vốn Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) 1. Tiền 45.92 2.26 230.39 9.14 36.23 4.21 292.7 19.79 2. Phải thu 255.75 12.57 160.97 6.39 238.97 27.74 417.61 28.24 3. Dự trữ 65.68 3.23 1,718.1 68.2 386.83 44.91 277.41 18.76 4. TSLĐ khác 426.56 20.96 56.09 2.26 176.72 20.52 357.9 24.2 5. TSCĐHH 1,306.42 64.21 474.23 18.82 165.17 19.18 412.25 27.88 6. Chi phí XDCB 0 0 0 0 0 60.96 7.08 0 0 7. Nợ ngắn hạn 1,502.15 73.83 1,853.29 73.57 250.88 29.13 1.093.45 73.95 8. Nợ dài hạn 360.68 17.73 504.88 20.04 371.46 43.13 92.45 6.26 9. Vốn CSH 106.14 5.21 35.4 4.1 13.43 0.92 10 Cộng 2,034.65 100 2,034.65 100 2,519.14 100 2,519.14 100 861.31 100 861.31 100 1,478.6 100 1,478.6 100 Nguồn: Bảng cân đối kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. Năm 1999, nguồn vốn và sử dụng vốn tăng 2,519.14 trđ hay tăng 26.73% so với năm 1998 và tăng 33.79% so với năm 1997, như vậy mặc dù mức tăng trưởng của năm 1999 có giảm chút ít so với năm 1998 nhưng nhìn tổng thể thì năm này Công ty vẫn duy trì được mục tiêu tăng trưởng và phát triển trong thời kỳ tình hình kinh tế đầy biến động như khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực ít nhiều cũng ảnh hưởng và giá nhập nguyên vật liệu tăng, giá đôla tăng. Trong đó có tới 93.61% sử dụng vốn được dùng để cân đối phần giảm vay ngắn hạn, một phần nhỏ tài trợ cho việc gia tăng các khoản phải thu. Năm 1999, Công ty đã tăng mạnh khấu hao TSCĐ và để trả nợ. Ngoài ra, Công ty còn dùng tiền (chủ yếu là tiền gửi ngân hàng), TSLĐ khác để trang trải cho việc trả nợ cùng với phần tăng của nguồn vốn chủ sở hữu vừa đủ cho phần khách hàng trả nợ. Điều này sẽ làm cho Công ty được tự chủ về tài chính, hệ số nợ giảm đi, tuy nhiên Công ty cần phải tăng cường thu hồi các khoản phải thu từ khách hàng. Năm 2000, Công ty vẫn duy trì cố gắng trong việc giảm dự trữ 44.91% để tạo ra nguồn vốn của Công ty. Nhưng năm này, các khoản phải thu của Công ty đã tăng lên đáng kể (48.46% so với năm 1999) chiếm tới gần 1/3 sử dụng vốn. Cũng như năm ngoái, tiền, dự trữ, TSLĐ khác, khấu hao TSCĐ và nguồn vốn CSH được dùng để trang trải nợ nần và đầu tư cho các khoản phải thu của Công ty. Quản lý các khoản phải thu là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý tài sản lưu động. Khi Công ty sử dụng phương thức bán chịu tức cấp tín dụng thương mại cho người mua thì Công ty có điều kiện tăng khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Mặt khác nó còn tạo cho Công ty có thể tăng doanh thu, tăng lượng hàng hoá bán ra thậm chí tăng được được giá bán từ đó tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, khi các khoản phải thu tăng quá giới hạn an toàn thì sẽ có rủi ro như khách hàng không trả tiền. Do vậy, khi Công ty cấp tín dụng thương mại cho người mua thì Công ty cần phải sắp xếp những hoạt động tài chính có liên quan đến các khoản phải thu. Chi phí vay mượn ngắn hạn sẽ là một trong những yếu tố quyết định xem Công ty có nên cấp tín dụng thương mại cho người mua hay không. Năm 2001, Công ty có tiến bộ hơn trong việc sử dụng vốn bằng tiền (chủ yếu Công ty đã có lượng tiền mặt gửi ngân hàng để trang trải những khoản khác khi cần thiết). Lượng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên bằng với mức của năm 1998 sau hai năm liên tiếp 1999 và 2000 lượng tiền này luôn giảm. Mặc dù đây là lượng tiền không sinh lời hoặc sinh lợi rất ít nhưng nó lại là lá chắn an toàn cho Công ty thoát khỏi nguy cơ phá sản do không trả được nợ. Từ năm 1996 đến năm 1998 Công ty liên tục vay vốn cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để đầu tư mở rộng dây chuyền sản xuất do đó trong ba năm liền (từ năm 1999 đến năm 2001) Công ty đã phải dùng một lượng vốn không nhỏ để trang trải nợ nần. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, nợ dài hạn đã được Công ty trả gần hết chứng tỏ Công ty rất cố gắng trong việc giảm nhẹ nợ nần, nhất là trong thời buổi khi mà cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt và mặt hàng của Công ty bị nạn ăn cắp bản quyền, sao in băng lậu đang diễn ra tràn lan, không kiểm soát nổi. 1.2. Phân tích tình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh: Để đánh giá tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội ta phải tính chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên (vốn lưu động ròng), nhu cầu vốn lưu động và vốn bằng tiền thông qua các bảng sau: Qua các bảng trên ta thấy, chỉ có năm 1997 là cả VLĐ thường xuyên và nhu cầu VLĐ thường xuyên đều dương còn lại bốn năm sau tất cả đều âm. Điều này chứng tỏ: Duy nhất năm 1997 toàn bộ TSCĐ của Công ty được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn. Đồng thời Công ty có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tình hình tài chính như vậy là tốt. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên năm 1997 >0 tức là các khoản phải thu, tồn kho và TSLĐ khác lớn hơn Nợ ngắn hạn. Điều này cho thấy các nguồn vốn ngắn hạn mà Bảng II.1.2 – Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Phải thu 449.7 705.45 866.42 1,105.39 687.78 2. Hàng tồn kho 3,796.79 3,731.11 2,013.01 1,626.18 1,348.77 3. TSLĐ khác 579.12 1,005.68 949.59 772.87 414.97 4. Nợ ngắn hạn 4,623.42 6,125.57 4,272.28 4,021.4 2,927.95 Nhu cầu VLĐ thường xuyên 202.19 (683.33) (443.26) (516.96) (476.43) Nguồn: Bảng cân đối kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội Bảng II.1.3 – Vốn lưu động thường xuyên Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. TSCĐ 2,235.29 3,541.71 3,067.48 2,841.35 2,429.1 2. Vốn CSH 2,224.12 2,330.26 2,370.59 2,405.99 2,419.42 3. Nợ dài hạn 608.11 968.79 463.91 92.45 0 Vốn lưu động thường xuyên 596.94 (242.66) (232.98) (342.91) (9.68) Nguồn: Bảng cân đối kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. Công ty đi vay và chiếm dụng được không đủ để bù vào các khoản phải thu, hàng tông kho và TSLĐ khác. Vì vậy, Công ty cần nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho và giảm các khoản phải thu ở khách hàng. Nhưng bốn năm sau đó, nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ cho TSCĐ. Công ty phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn. Trong 4 năm liền đó, mặc dù cả TSCĐ và nguồn vốn dài hạn đều giảm nhưng tốc độ giảm Bảng II.1.4 – Vốn bằng tiền Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Vốn lưu động thường xuyên 596.94 (242.66) (232.98) (342.91) (9.68) 2. Nhu cầu VLĐ thường xuyên 202.19 (683.33) (443.26) (516.96) (476.43) Vốn bằng tiền 394.75 440.67 210.28 174.05 466.75 Nguồn: Bảng cân đối kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. của vốn dài hạn nhanh hơn tốc độ giảm của tài sản, cụ thể: TSCĐ giảm 68.58%, nguồn vốn dài hạn giảm 14.58%, do vậy mà TSCĐ vẫn cần được tài trợ của nguồn vốn ngắn hạn vì vốn dài không đủ. Điều này làm cho tình hình tài chính của Công ty trở nên rất bấp bênh. Đồng thời, qua bảng cân đối kế toán ta thấy được TSLĐ của 4 năm này luôn nhỏ hơn Nợ ngắn hạn chứng tỏ Công ty không đủ khả năng thanh toán các khoản Nợ ngắn hạn. Cũng trong 4 năm liên tục này, các nguồn vốn ngắn hạn chiếm dụng được từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ cho các sử dụng ngắn hạn của Công ty. Công ty không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh. Tuy vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động thường xuyên đều 0. Điều này chứng tỏ vốn lưu động thường xuyên luôn đáp ứng đủ nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Tóm lại, theo cách phân tích này thì tình hình tài chính của Công ty trong 5 năm qua là lành mạnh, mặc dù Công ty có khó khăn vì phải gánh nợ và lỗ của Công ty Mỹ thuật cũ chuyển sang song với sự cố gắng hết mình Công ty đã đứng vững được trong thời buổi cạnh tranh này, Công ty vẫn có đủ khả năng đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.3. Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn kinh doanh: Qua phân tích bảng ta thấy: Về tài sản: Tỷ trọng TSLĐ luôn chiếm trên 55% đặc biệt năm 1997 TSLĐ chiếm tới 70.02% giá trị tổng tài sản và tỷ trọng này giảm dần qua các năm. Tuy nhiên, đối với Công ty đây là một kết cấu hợp lý giữa TSLĐ và TSCĐ vì Công ty vừa thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh vừa dịch vụ và thương mại cho nên với kết cấu 1:1 là tương đối phù hợp. Công ty đã duy trì được tỷ trọng này qua các năm chứng tỏ Công ty đã xác định được mức độ hợp lý về cơ cấu tài sản cho mình. Nhưng Công ty cũng cần phải xem xét lại tỷ trọng các khoản phải thu, hàng tồn kho và TSLĐ khác vì các loại này chiếm khá nhiều khiến cho vốn Công ty chiếm dụng được do vay nợ ngắn hạn đều bù vào các khoản trên hết, ít dư thừa để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Về nguồn vốn: Trung bình các năm, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm khoảng 30% nguồn vốn, còn lại là các khoản nợ. Công ty sử dụng nhiều nợ, trong điều kiện bình thường thì sẽ tốt bởi vì chi phí sử dụng nợ (lãi vay) được tính vào chi phí hợp lý hợp lệ và được trừ đi khi tính thu nhâp chịu thuế nên Công ty có được khoản tiết kiệm nhờ thuế so với sử dụng vốn chủ sở hữu. Điều này Bảng II.1.5 – Kết cấu tài sản và nguồn vốn kinh doanh Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) A. Tài sản 7,455.53 100 9,424.62 100 7,106.78 100 6,519.84 100 5,347.37 100 I. TSLĐ 5,220.36 70.02 5,882.91 64.42 4,039.3 56.84 3,678.49 56.42 2,918.27 54.57 1. Tiền 394.75 440.67 210.28 174.05 466.75 2. Phải thu 449.7 8.6 705.45 11.99 866.42 21.45 1,105.39 30.05 687.78 23.57 3. Tồn kho 3,796.79 3,731.11 2,013.01 1,626.18 3,148.77 4. TSLĐ khác 579.12 1,005.68 949.59 772.87 414.97 II. TSCĐ 2,235.29 29.98 3,541.71 37.58 3,067.48 43.16 2,841.35 43.58 2,429.1 45.43 1. TSCĐHH 2,170.26 3,476.68 3,002.45 2,837.28 2,425.03 2. Chi phí XDCB 65.03 65.03 65.03 4.07 4.07 B. Nguồn vốn 7,455.53 100 9,424.62 100 7,106.78 100 6,519.84 100 5,347.37 100 I. Nợ phải trả 5,231.53 70.17 7,094.36 75.27 4,736.19 66.64 4,113.85 63.1 2,927.95 54.75 1. Nợ ngắn hạn 4,623.42 88.38 6,125.57 86.34 4,272.28 90.2 4,021.4 97.75 2,927.95 100 2. Nợ dài hạn 608.11 968.79 463.91 92.45 0 II. Vốn CSH 2,224.12 29.83 2,330.26 24.73 2,370.59 33.36 2,405.99 36.9 2,419.42 45.25 Nguồn: Bảng cân đối kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội cũng nói lên rằng Công ty rất năng động mạo hiểm khi sử dụng nợ vay lớn gấp hai lần vốn chủ sở hữu. Nhưng cũng phải xét rằng trong số Nợ phải trả thì Nợ ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn, nợ dài hạn ít, thậm chí không có (năm 2001). Qua các năm tỷ trọng Nợ ngắn hạn tăng lên, tỷ trọng Nợ dài hạn giảm đi, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến các quyết định đầu tư của Công ty. Bởi vì khi đã muốn đầu tư vào TSCĐ thì phải có nguồn vốn dài hạn thì mới có sự phù hợp về thời gian, còn nguồn vốn ngắn hạn chỉ dùng để tài trợ cho TSLĐ mà thôi. Tuy nhiên, chỉ có năm 1998, Công ty có quyết định đầu tư mở rộng dây chuyền sản xuất nên Công ty đã vay vốn dài hạn của Đài Loan, do đó năm này vốn vay dài hạn của Công ty cao hơn các năm khác nhưng nó vẫn ở mức khiêm tốn. Tóm lại, tỷ trọng nợ ngắn hạn và dài hạn là phù hợp với tình hình tài sản của Công ty. 1.4. Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian: Phân tích bảng ta có thể đưa ra những đánh giá khái quát sau: Doanh thu của Công ty tương đối ổn định qua các năm chỉ tăng giảm chút ít, nhưng Công ty đã đạt được doanh thu rất cao trong năm 1998 chứng tỏ Công ty kinh doanh rất tốt vào năm này. Sự đồng đều của doanh thu thuần khẳng định Công ty hoạt động kinh doanh tương đối ổn định, không có biến động gì lớn mặc dù năm 2001 doanh thu có giảm hơn. Điều này cũng do nguyên nhân khách quan là tình trạng băng đĩa lậu tràn lan khó kiểm soát nổi dẫn đến sản phẩm của Công ty khó cạnh tranh được với hàng hoá giá rẻ. Giá vốn hàng bán có xu hướng hạ dần, chứng tỏ Công ty đã thực hiện tốt các giải pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Lãi kinh doanh trước và sau thuế đều giảm so với năm trước đó, chỉ có năm 2000 và năm 2001 là tăng nhưng vẫn ở mức thấp. Điều này chứng tỏ chi phí của Công ty vẫn cao. Bảng II.1.6 – Các chỉ tiêu tài chính trung gian Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1998 / 1997 Năm 1999/ 1998 Năm 2000/ 1999 Năm 2001/ 2000 Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Doanh thu thuần 6,285.56 28.8 (8,158.6) (29) 729.74 3.36 (3,868.58) (18.7) Giá vốn hàng bán 4,952.85 26.15 (6,809.05) (28.5) (141.1) (0.82) (3,962.81) (23.38) Lãi gộp 1,332.71 46.41 (1,349.55) (32.1) 870.84 30.5 94.23 2.53 Chi phí bán hàng 708.4 44.97 35.48 1.55 1,091.05 47.05 146.21 4.29 Chi phí quản lý DN 883.49 111.92 (1,215.6) (72.66) (244.71) (53.5) (69.97) (32.92) Lợi nhuận trước thuế (259.18) (51.13) (169.43) (68.39) 24.5 31.29 17.99 17.5 Lợi nhuận sau thuế (158.82) (56.96) (66.73) (55.62) 16.66 31.29 12.23 17.5 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. Chi phí bán hàng tăng nhiều ở năm 2000 và chi phí quản lý tăng nhiều ở năm 1998, dẫn tới kết quả kinh doanh trước và sau thuế đều giảm mạnh, mặc dù lãi gộp qua các năm đều tăng. Đó là điều không mong muốn, Công ty cần phải có ngay những biện pháp hữu hiệu để giảm hai loại chi phí trên. 2. Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội theo các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính đặc trưng: 2.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán: Thông qua bảng các tỷ lệ về khả năng thanh toán ta thấy được chất lượng công tác tài chính của Công ty, khả năng của Công ty ứng phó với các khoản chi trả ngắn hạn. 2.1.1. Khả năng thanh toán chung: Qua bảng trên ta thấy khả năng thanh toán chung của Công ty đều tăng liên tục từ năm 1999 đến năm 2001, chỉ riêng có năm 1998 là giảm 0.1 lần (giảm 7% so với năm 1997). Kết hợp với bảng phụ ta thấy, mặc dù năm 1998 cả tài sản và nợ phải trả đều tăng nhưng tốc độ tăng của nợ phải trả nhanh hơn tốc độ tăng của tài sản vì vậy mà khả năng thanh toán chung giảm. Nguyên nhân là do năm 1998 Công ty đầu tư vào TSCĐ nên phải vay vốn Đài Loan, vay vốn ngân hàng và vay các nguồn khác. Từ năm 1999 đến năm 2001 khả năng thanh toán chung của Công ty đều tăng và tăng nhiều nhất là năm 2001. Mặc dù vậy nhưng trong cả ba năm liền cả tài sản lẫn nợ phải trả của Công ty đều giảm với tốc độ giảm của tài sản thấp hơn tốc độ giảm của nợ phải trả làm cho khả năng thanh toán chung tăng lên. Vì vậy nếu chỉ nhìn ở góc độ khả năng thanh toán chung tăng mà đánh giá tình hình tài chính thì chưa đủ mà phải xét đến tất cả các nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi đó. Có thể thấy rằng, tình hình thanh toán của Công ty trong ba năm sau đó là tương đối vững chắc. Bình quân cứ 1đ Nợ phải trả Bảng II.2.1 – Các tỷ lệ phản ánh khả năng thanh toán Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tổng tài sản 7,455.65 9,424.62 7,106.78 6,519.84 5,347.37 TSLĐ 5,220.36 5,882.91 4,039.3 3,678.49 2,918.27 Tiền 394.75 440.67 210.28 174.05 466.75 Dự trữ 3,796.79 3,731.11 2,013.01 1,626.18 1,348.77 Nợ phải trả 5,231.53 7,094.36 4,736.19 6,519.84 2,927.95 Nợ ngắn hạn 4,623.42 6,125.57 4,272.28 4,113.85 2,927.95 VLĐ ròng 596.94 (242.66) (232.98) (342.91) (9.68) Khả năng thanh toán chung (1)/ (5) 1.43 1.33 1.50 1.58 1.83 Khả năng thanh toán hiện hành (2)/ (6) 1.13 0.96 0.95 0.91 0.99 Khả năng thanh toán nhanh (2-4)/ (6) 0.31 0.96 0.47 0.51 0.54 Khả năng thanh toán tức thời (3)/ (6) 0.08 0.07 0.05 0.04 0.16 Tỷ lệ dự trữ trên VLĐ ròng (4)/ (7) 6.36 (15.37) (8.64) (4.74) (139.33) Nguồn: Bảng cân đối kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội có 1.64 đ tài sản để trả nợ. Tuy nhiên không phải lúc nào khả năng thanh toán chung tăng cũng đều chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty thuận lợi. Đối với Công ty, từ năm 1999 trở lại đây, tăng trưởng kinh tế giảm rõ rệt kéo theo tài sản và nợ phải trả giảm. 2.1.2. Khả năng thanh toán hiện hành: Khả năng thanh toán hiện hành của Công ty trong 5 năm liên tục đều giảm (từ 1.13 năm 1997 xuống còn 0.91 vào năm 2000 và năm 2001 có tăng hơn chút ít là 0.99 nhưng vẫn thấp hơn so với năm 1997). Trung bình ta thấy các tỷ lệ này đều nhỏ hơn 1 chứng tỏ khả năng thanh toán hiện hành của Công ty rất thấp. Nếu phải thanh toán các khoản Nợ ngắn hạn thì TSLĐ của Công ty không đủ để trả nợ. Nguyên nhân là do cả TSLĐ và Nợ ngắn hạn của Công ty đều giảm với tốc độ giảm của Nợ ngắn hạn chậm hơn tốc độ giảm của TSLĐ, do đó khả năng thanh toán hiện hành giảm. 2.1.3. Khả năng thanh toán nhanh: Cũng như khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh của Công ty có chiều hướng đi xuống. Chỉ riêng có năm 1998, tỷ lệ này hơn hẳn các năm còn lại, nhưng vẫn ở mức khiêm tốn. Nguyên nhân chủ yếu là do dự trữ của Công ty tuy có giảm qua các năm nhưng nó vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong TSLĐ. Đó có thể là do hàng hoá sản xuất ra nhưng chưa tiêu thụ hết hoặc do Công ty có hướng dự trữ nhiều nguyên vật liệu đề phòng có sự biến động lớn của tình hình thế giới ảnh hưởng đến giá nhập vì các linh kiện, phụ kiện sản xuất vỏ băng đĩa nhạc hầu hết là hàng nhập từ các nước châu á như Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản…Nói chung, với mức thanh toán trung bình 0.56 lần thì Công ty không thể đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn nếu không sử dụng đến một phần dự trữ. 2.1.4. Khả năng thanh toán tức thời: Khả năng thanh toán tức thời của Công ty nói chung là giảm qua các năm do lượng tiền giảm nhiều hơn Nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, năm 2001, khả năng thanh toán tức thời của Công ty đã tăng lên đến 0.16 lần gấp đôi mức của năm 1997, nhưng hầu như vẫn ở mức rất thấp. Lượng tiền hiện có của Công ty chỉ đáp ứng được khoảng 8% nợ ngắn hạn. Điều này có nghĩa là nếu tất cả các khoản nợ tới hạn phải thanh toán ngay thì Công ty sẽ phải giải phóng 2,927.95 - 466.75 = 2,461.2 TSLĐ khác để thanh toán. Rõ ràng là với khả năng thanh toán tức thời như hiện nay thì Công ty sẽ gặp khó khăn trong Bảng phụ II.2.1 – Tốc độ thay đổi của một số chỉ tiêu Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1998/ 1997 Năm 1999/ 1998 Năm 2000/ 1999 Năm 2001/ 2000 Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Lượng TT (%) Tổng tài sản 1,968.97 24.41 (2,317.84) (24.59) (586.94) (8.26) (1,172.47) (17.98) Nợ phải trả 1,862.83 35.61 (2,358.17 (33.24) (622.34) (13.14) (1,185.9) (28.83) TSLĐ 662.55 12.69 (1,843.61) (31.34) (360.81) (8.93) (760.22) (20.67) Nợ ngắn hạn 1,502.15 32.49 (1,853.290 (30.25) (250.88) (5.87) (1,093.45) (27.19) Tiền 45.92 11.63 (230.39) (52.28) (36.23) (17.23) 292.7 168.17 Dự trữ (65.68) (1.73) (1,718.1) (46.05) (386.83) (19.22) (277.41) (17.06) Nguồn: Bảng cân đối kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. thanh toán nợ đến hạn, dẫn đến thiếu tính chủ động về mặt tài chính. Trong kinh doanh, các doanh nghiệp thường không muốn dự trữ nhiều tiền vì nó không sinh lời hoặc sinh lời rất ít và có khả năng giảm giá trị khi có lạm phát, nhưng việc duy trì một lượng tiền hợp lý vừa giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán vừa có thể dễ dàng chớp cơ hội khi điều kiện kinh doanh thuận lợi. 2.1.5. Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng: Tỷ lệ này của Công ty năm 1997 là 6.36 lần với mức vốn lưu động ròng là 596.94 trđ chứng tỏ rằng toàn bộ vốn lưu động ròng không đủ để tài trợ cho dự trữ. Điều này cũng cho thấy phần vốn mà Công ty chiếm dụng được từ vay nợ và từ các nguồn khác không đủ để bù vào TSLĐ vốn chiếm rất nhiều trong tổng tài sản. Trong năm này, Công ty có thể phải gánh chịu phần thua lỗ do giá trị hàng dự trữ giảm. Tuy nhiên, từ năm 1998 trở đi vốn lưu động ròng của Công ty đều < 0 chứng tỏ Công ty có thừa các nguồn vốn để tài trợ cho TSLĐ và Công ty không còn vốn lưu động ròng nữa. Nhận xét chung: Có thể thấy rằng, khả năng thanh toán nói chung của Công ty qua các năm đều giảm sút và luôn ở mức thấp so với mức hợp lý. Hầu hết, các hệ số thanh toán này chưa đạt tới 1 tức TSLĐ nói chung mà Công ty có không đủ để có thể trả các khoản nợ ngắn hạn đến hạn. Khả năng thanh toán của Công ty còn thấp do nhiều tác động cả về mặt chủ quan và khách quan: sản xuất kinh doanh chưa hiệu quả, sự lạc hậu về công nghệ dẫn đến mẫu mã chất lượng chưa cao, đặc biệt là do sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường băng đĩa nhạc do tình trạng băng đĩa lậu tràn lan. Từ thực tế trên, ban lãnh đạo Công ty nên có những kế hoạch phù hợp trong thời gian tới để nâng cao khả năng thanh toán của Công ty. 2.2. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn: Thông qua việc phân tích các tỷ lệ dưới đây ta sẽ thấy được cơ cấu vốn của Công ty có hợp lý không? có đảm bảo an toàn cho chủ nợ không và với tốc độ tăng giảm nợ qua các năm như vậy có ảnh hưởng gì đến khả năng huy động vốn trong tương lai hay không? 2.2.1. Hệ số nợ (tỷ lệ nợ trên tổng tài sản): Nhìn chung, trong 5 năm tỷ lệ nợ trên tổng tài sản của Công ty có xu hướng giảm, chỉ riêng năm 1998 tỷ lệ này ở mức cao chiếm 75% tổng nguồn vốn. Nếu xét về mức độ rủi ro thì Công ty có thể bị đặt trong tình trạng kém an toàn về tài chính bởi nợ của Công ty luôn chiếm trên 66% tổng nguồn vốn, Tức là trên 66% tài sản của Công ty được tài trợ bởi nợ. Nếu như trong điều kiện bình thường, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao thì sử dụng nợ sẽ khuyếch đại vốn chủ sở hữu, lợi nhuận tăng nhanh. Còn ngược lại thì sử dụng vốn chủ sở hữu sẽ an toàn hơn cho Công ty. Đối với các chủ nợ thì tỷ lệ nợ trên tổng tài sản này là bất lợi đối với họ vì họ không dám chắc rằng liệu Công ty làm ăn có sinh lợi cao không, có đủ khả năng trả nợ họ không? Tuy nhiên, các năm gần đây, xu hướng sử dụng nợ của Công ty có chiều hướng giảm do nợ giảm và tài sản cũng giảm nhưng với tỷ lệ giảm ít hơn nợ phải trả. Kết hợp với khả năng thanh toán ta thấy Công ty có tỷ lệ nợ cao mà khả năng thanh toán lại thấp. Đây là vấn đề mà ban lãnh đạo Công ty cần phải xem xét thận trọng trước khi ra quyết định về tài chính trong thời gian tới. Bảng II.2.2 – Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tổng tài sản 7,455.65 9,424.62 7,106.78 6,519.84 5,347.37 Nợ phải trả 5,231.53 7,094.36 4,736.19 6,519.84 2,927.95 Vốn CSH 2,224.12 2,330.26 2,370.59 2,405.99 2,419.42 Lãi tiền vay 407.97 453.2 423.73 292.06 240.99 LN trước thuế 506.9 218.13 78.29 102.79 120.78 Vốn trung và dài 2,832.23 3,299.05 2,834.5 2,498.44 2,419.42 Hệ số nợ (2)/ (1) 0.73 0.75 0.67 0.63 0.55 Khả năng thanh toán lãi vay (4+5)/ (4) 2.24 1.48 1.18 1.35 1.5 Khả năng tự tài trợ (3)/ (1) 0.29 0.25 0.33 0.37 0.45 Khả năng độc lập về tài chính (3)/ (6) 0.79 0.71 0.84 0.96 1 Nguồn: Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 2.2.2. Khả năng thanh toán lãi vay: Cũng như các khả năng thanh toán khác, khả năng thanh toán lãi vay của Công ty có chiều hướng giảm. Khả năng thanh toán lãi vay của Công ty cao nhất là vào năm 1997, đạt 2.24 lần tức là lợi nhuận trước thuế và lãi gấp 2.24 lần lãi vay. Các năm sau khả năng thanh toán lãi vay giảm dần nhưng vẫn lớn hơn 1, chứng tỏ lợi nhuận trước thuế và lãi đủ khả năng trả lãi vay. Năm 1998, khả năng thanh toán lãi vay giảm 33.93% so với năm 1997. Nguyên nhân là do lợi nhuận trước thuế và lãi giảm trong khi đó lãi tiền vay lại tăng. Năm này hệ số nợ của Công ty đạt 75%, đây là năm mà Công ty vay nợ nhiều nhất (cả nợ ngắn hạn và nợ dài hạn đều tăng) do đó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán lãi vay của Công ty. Năm 1999 tỷ lệ này tiếp tục giảm và hai năm cuối trở lại đây, tỷ lệ này đã tăng lên nhưng vẫn chưa bằng mức của năm 1997. Với việc tỷ lệ vay nợ chiếm tỷ lệ cao như vậy mà khả năng thanh toán lãi vay giảm sút thì trong thời gian tới Công ty sẽ gặp khó khăn về tài chính. 2.2.3. Khả năng tự tài trợ: Với sự giảm xuống của hệ số nợ thì khả năng tự tài trợ của Công ty tăng dần lên. Tuy nhiên, như trên đã phân tích tỷ lệ nợ bình quân của Công ty chiếm 66% tổng nguồn vốn do đó khả năng tự tài trợ chỉ còn 34% tổng nguồn vốn. Với tỷ lệ 2:1 như vậy mà trong điều kiện như hiện nay thì Công ty có thể sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán cũng như tính tự chủ về mặt tài chính. Bởi trong 1đ để tài trợ cho tài sản thì vốn chủ sở hữu chỉ có một phần còn lại hai phần là nợ (các nhà tài chính cho rằng tỷ lệ này là 50% thì hợp lý). Công ty cần phải tăng khả năng này lên để đảm bảo tính an toàn và tự chủ. 2.2.4. Khả năng độc lập về tài chính: Mặc dù như trên đã phân tích, Công ty có sử dụng nợ vay khá nhiều nhưng đó lại là nợ ngắn hạn tức là các khoản do Công ty vay ngắn hạn được và do chiếm dụng được từ các nguồn khác, do vậy mà khả năng độc lập về tài chính của Công ty tương đối cao, luôn chiếm trên 70% tổng vốn trung và dài hạn. Điều này cho thấy, vốn vay dài hạn của Công ty là rất thấp và ngày càng có xu hướng giảm thậm chí năm 2001 Công ty không còn vay một đồng nào vốn dài hạn. Vốn trung và dài hạn còn được gọi là vốn thường xuyên ổn định. Lượng vốn này cũng có xu hướng giảm trong khi vốn chủ sở hữu có xu hướng tăng do đó mà khả năng độc lập về tài chính của Công ty tăng lên. Đến đây có thể khẳng định rằng, mặc dù khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và tỷ lệ nợ cao cũng như khả năng tự tài trợ thấp, nhưng Công ty vẫn có đủ khả năng độc lập về tài chính. Do đó Công ty vẫn có thể đứng vững được trong điều kiện ngày càng bất lợi như hiện nay. Nhận xét chung: Qua phân tích bảng ta thấy được tỷ lệ nợ của Công ty là khá cao, khả năng tự tài trợ thấp trong khi đó khả năng độc lập về tài chính cao. Sở dĩ có hiện tượng này là do nợ ngắn hạn của Công ty rất cao thường chiếm trên 85% tổng nợ, điều này dẫn tới tình trạng mất cân đối giữa nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Trong thời gian tới, Công ty cần có sự bố trí lại cơ cấu này để đảm bảo tốt khả năng thanh toán cũng như giảm tỷ lệ nợ xuống. 2.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động: Các tỷ lệ về khả năng hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Khác với vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và được thu hồi dần qua khấu hao tài sản cố định, vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vì vậy để tránh tình trạng ứ đọng vốn gây thiếu vốn cho hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động. Ngoài ra việc tăng hiệu suất sử dụng tài sản nói chung cũng như TSCĐ nói riêng cũng là một nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm và nâng cao lợi nhuận. 2.3.1. Vòng quay tiền: Qua bảng ta thấy vòng quay tiền của Công ty từ năm 1997 đến năm 2000 tăng khá mạnh (từ 55.26 vòng lên 118.76 vòng). Tuy nhiên năm 2001 đã giảm xuống thấp nhất trong 5 năm, còn 36 vòng. Đối với tỷ lệ này thì không phải lúc nào cũng tốt. Bởi vì trong 4 năm đó, chỉ có năm 1998 là cả doanh thu và tiền đều tăng nhưng tốc độ tăng của doanh thu nhanh hơn tốc độ tăng của tiền dẫn đến vòng quay tiền lớn. Năm 1999, doanh thu lẫn tiền đều giảm (doanh thu giảm 29%, tiền giảm 52.28%) do đó vòng quay tiền của năm 1999 tăng hơn so với năm 1998. Đến năm 2000, doanh thu có tăng lên chút ít so với năm 1999 (3.66%) nhưng tiền lại giảm17.23% làm cho vòng quay tiền tăng lên rất mạnh lên đến 118.76 vòng. Đến đây, nhiều người sẽ cho rằng vòng quay tiền cao thì sẽ tốt nhưng chưa hẳn đã vậy. Vòng quay tiền mà tăng cao chứng tỏ lượng tiền mà Công ty có là rất thấp, điều này ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Công ty. Thực vậy, với việc phân tích khả năng thanh toán của Công ty ở trên ta thấy rằng điều này rất hợp lý, nói chung Công ty dự trữ một lượng tiền quá thấp so với nhu cầu thanh toán của mình. Điều này có thể là nguy cơ lớn đe doạ đến sự an toàn của cả Công ty. Vì vậy trong các năm tới Công ty cần có sự điều chỉnh lượng tiền này cho thích hợp để đáp ứng khả năng chi trả khi cần thiết. Cũng bảng trên ta thấy được năm 2001 Công ty đã rất có tiến bộ trong việc tăng lượng tiền làm cho vòng quay tiền giảm rất nhanh (tuy nhiên đó cũng còn do doanh thu giảm). Điều này cũng dẫn đến khả năng thanh toán của Công ty riêng năm 2001 đã có rất nhiều cố gắng. Tỷ lệ thanh toán tức thời gấp đôi năm 1997, thanh toán hiện hành xấp xỉ 1. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho Công ty và Công ty cần phát huy. Bảng II.2.3 – Các chỉ tiêu về khả năng hoạt động Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Doanh thu thuần 21,814.35 28,099.91 19,941.31 20,671.05 16,802.47 Tiền 394.75 440.67 210.28 174.05 466.75 Dự trữ 3,796.79 3,731.11 2,013.01 1,626.18 1,348.77 Phải thu 449.70 705.45 866.42 1.105.39 687.78 Tài sản cố định 2,235.29 3,541.71 3,067.48 2,841.35 2,429.1 Tổng tài sản 7,455.65 9,424.62 7,106.78 6,519.84 5,347.37 TSLĐ 5,220.36 5,882.91 4,039.3 3,678.49 2,918.27 Vòng quay tiền (1)/ (2) 55.26 63.77 94.83 118.76 36 Vòng quay dự trữ (1)/ (3) 5.75 7.53 9.91 12.71 12.46 Kỳ thu tiền bình quân ((4)*360)/(1) 7.42 9.04 15.64 19.25 14.74 Hiệu suất sử dụng TSCĐ (1)/ (5) 9.76 7.93 6.5 7.28 6.92 Hiệu suất sử dụng TSLĐ (1)/ (7) 4.18 4.78 4.94 5.62 5.76 Hiệu suất sử dụng tài sản (1)/ (6) 2.93 2.98 2.81 3.17 3.14 Vòng quay khoản phải thu (1)/ (4) 48.51 39.83 23.02 18.7 24.43 2.3.2. Vòng quay dự trữ: Chỉ tiêu này là cơ sở đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Nó cho biết số lần dự trữ bình quân được bán ra trong kỳ. Số vòng quay dự trữ càng lớn thì thời gian hàng tồn trong kho càng ngắn, vốn của doanh nghiệp luân chuyển càng nhanh. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bảng cho thấy vòng quay dự trữ của Công ty tăng dần qua các năm. Nguyên nhân là do dự trữ của Công ty có xu hướng giảm dần, còn doanh thu tương đối ổn định, tăng giảm không đáng kể. Đây là điều tốt cho Công ty bởi lẽ Công ty chỉ cần đầu tư hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao. Ngoài ra, nó còn chứng tỏ tốc độ luân chuyển vốn nhanh và Công ty sẽ có vốn để đầu tư vào việc khác. Mặc dù vậy, trong thời gian tới Công ty vẫn cần phải đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hơn nữa để đạt doanh thu cao hơn. Bởi vì khi vòng quay dự trữ cao cũng có nghĩa là doanh nghiệp đang gặp khó khăn, dự trữ và doanh thu đều thấp (ví dụ như năm 2001, cả dự trữ và doanh thu đều thấp nhất trong khi vòng quay tồn kho lại cao nhất so với các năm khác. 2.3.3. Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Các con số về kỳ thu tiền bình quân cho thấy thời gian để thu hồi các khoản phải thu tăng dần lên, và cao nhất là năm 2000 (19.25 ngày), tuy vậy con số này đã giảm đi còn 14.74 ngày năm 2001. Điều này được lý giải bởi các khoản phải thu qua các năm đều tăng trong khi đó doanh thu lại có xu hướng giảm. Thoạt nhìn thì tình hình trên là khá lo ngại khiến người ta đặt câu hỏi tại sao các khoản phải thu tăng lên mà doanh thu không những không tăng mà còn giảm. Hơn nữa tỷ lệ các khoản phải thu so với TSLĐ cũng tăng và đạt cao nhất là 30.05% tổng TSLĐ vào năm 2000. Sở dĩ có hiện tượng đó là vì nền kinh tế trong nước, đặc biệt là thị trường băng đĩa nhạc ngày càng gặp khó khăn. Trong điều kiện như vậy Công ty có chính sách mở rộng tín dụng cho khách hàng là điều hợp lý. Tuy nhiên chưa có năm nào các khoản phải thu của Công ty trở thành khoản phải thu khó đòi. Điều này chứng tỏ khâu thu hồi nợ của Công ty khá tốt. 2.3.4. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Hiệu suất sử dụng TSCĐ phản ánh hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị nhà xưởng phục vị cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết 1đ TSCĐ hao phí tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Bảng số liệu cho thấy hiệu suất sử dụng TSCĐ của Công ty tăng giảm thất thường qua các năm. Tỷ lệ này cao nhất vào năm 1997, cứ 1đ TSCĐ hao phí tạo ra 9.76đ doanh thu, còn năm 1999 tỷ lệ này chỉ đạt 6.5. Năm 1998, hiệu suất sử dụng TSCĐ giảm so với năm 1997 nhưng cả doanh thu tiêu thụ lẫn TSCĐ đều tăng. Điều này chứng tỏ tốc độ tăng của doanh thu thấp hơn tốc độ tăng của TSCĐ. Năm 1999 là năm mà Công ty gặp khó khăn nhất, hiệu suất sử dụng TSCĐ chỉ đạt 6.5 do cả doanh thu và TSCĐ đều giảm. Để có thể đánh giá chính xác hơn về hiện trạng TSCĐ của Công ty chúng ta hãy xem xét bảng sau: Hệ số hao mòn TSCĐ của Công ty tăng dần cho thấy việc đầu tư cho TSCĐ chưa theo kịp tốc độ hao mòn TSCĐ. Càng về sau hệ số hao mòn càng lớn, ở mức trên 50%. Hệ số hao mòn nhanh như vậy là do Công ty đã đầu tư máy móc thiết bị đã được sản xuất cách đây rất lâu mà thế giới đã loại bỏ. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển như hiện nay thì những máy này đã trở nên quá lạc hậu. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần cân nhắc kỹ khi đầu tư cho TSCĐ sao cho vừa tận dụng được những tiến bộ khoa học công nghệ vừa phải nâng cao hiệu suất sử dụng máy móc để tăng hiệu quả kinh tế, đồng thời có biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm để tận dụng công suất của máy. Bảng II.2.3.4 – Hệ số hao mòn TSCĐ Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Nguyên giá TSCĐ 3,510.57 5,511.33 5,520.48 5,812.53 5,802 Giá trị hao mòn 1,340.31 2,034.65 2,518.03 2,975.25 3,376.97 Hệ số hao mòn TSCĐ (2)/ (1) 0.38 0.37 0.46 0.51 0.58 Nguồn: Thuyết minh báo cáo tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. 2.3.5. Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ quay vòng của TSLĐ nhanh hay chậm. Qua bảng ta thấy được hiệu suất sử dụng TSLĐ của Công ty tăng dần qua các năm, chứng tỏ Công ty đã sử dụng TSLĐ có hiệu quả. Mặc dù vậy,TSLĐ của Công ty đã giảm qua các năm và doanh thu cũng có chiều hướng như vậy. Nhìn tổng quát thì tốc độ quay vòng của TSLĐ là nhanh dần lên nhưng nói chung tồn kho và các khoản phải thu chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng TSLĐ, mà đây lại là những khoản kém sinh lợi cho Công ty. Do đó mà các năm tới Công ty vẫn cần đẩy mạnh khâu thu hồi nợ và xác định cơ cấu dự trữ cho hợp lý vừa đảm bảo cho sản xuất được tiến hành liên tục và đáp ứng nhu cầu thị trường, vừa phải tăng nhanh hơn nữa tốc độ quay vòng của TSLĐ. 2.3.6. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Cũng như hiệu suất sử dụng TSCĐ, hiệu suất sử dụng tổng tài sản tăng giảm thất thường. Có hai năm 1998 và 2000 là doanh thu tăng so với năm trước đó, còn tổng tài sản năm 1998 tăng với tốc độ chậm hơn so với tốc độ tăng của doanh thu do đó hiệu suất sử dụng tổng tài sản tăng so với năm 1997, tổng tài sản năm 2000 giảm dẫn đến hiệu suất sử dụng tài sản tăng lên cao hơn nhiều so với các năm trước. Hiệu suất sử dụng tài sản chịu ảnh hưởng của cả hiệu suất sử dụng TSCĐ và TSLĐ. Cả hai hiệu suất này đều giảm do đó kết quả tất yếu là hiệu suất sử dụng tài sản của Công ty đạt được giảm dần. Nhưng nhìn chung, hiệu suất sử dụng tài sản của Công ty có chiều hướng khá lên dần. Điều đó cho thấy sự nỗ lực của Công ty trong việc khắc phục những khó khăn trở ngại khách quan cũng như tìm cách sử dụng một cách có hiệu quả những tài sản hiện có của mình để nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh. 2.3.7. Vòng quay khoản phải thu: Cũng như phân tích các tỷ lệ trên, các khoản phải thu của Công ty ngày càng tăng do Công ty có chính sách tín dụng mở rộng làm cho vòng quay khoản phải thu ngày càng giảm. Điều này có nghĩa là tốc độ thu hồi các khoản phải thu là rất thấp và Công ty bị đọng một lượng vốn khá lớn nằm ở các khoản phải thu. Năm 2001, tình trạng này đã được cải thiện do Công ty cố gắng đẩy nhanh tốc độ thu hồi nợ nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức thấp. Nhận xét chung: Có thể thấy rằng các chỉ tiêu về khả năng hoạt động của Công ty qua các năm gần đây giảm sút nhiều do những tác động từ nhiều phía, sự cạnh tranh không lành mạnh, các chính sách thay đổi và chủ yếu là do bước đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất chưa hợp lý. Tuy nhiên, Công ty đã có rất nhiều cố gắng trong việc khắc phục những khó khăn về mặt khách quan cũng như nội tại để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, thể hiện ở các chỉ tiêu của năm 2001 đều tăng hơn so với năm 1999, 2000. Công ty cần phát huy tính tích cực này trong thời gian tới. 2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời: Nếu như các nhóm tỷ lệ trên phản ánh hiệu quả từng loại hoạt động riêng biệt của Công ty thì tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả kinh doanh của Công ty. Bảng II.2.4 – Các tỷ lệ về khả năng sinh lời Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 LN trước thuế 506.9 218.13 78.29 102.79 120.78 LN sau thuế 278.79 119.97 53.24 69.90 82.13 Doanh thu thuần 21,814.35 28,099.91 19,941.31 20,671.05 16,802.47 Vốn CSH 2,224.12 2,330.26 2,370.59 2,405.99 2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24649.DOC
Tài liệu liên quan