Tài liệu Đề tài Phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản cố định tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện: lời nói đầu:
Trong nền kinh tế đóng, với cơ chế quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước, vấn đề hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản cố định nói riêng không được chú trọng làm cho hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp không cao.
Sau quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong sản xuất và tiêu thụ các loại sản phẩm nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận và phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì việc sử dụng hợp lý các nguồn lực là hết sức quan trọng.
Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về việc quản lý và phát triển nền kinh tế. Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã chuyển từ chế độ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều chỉnh Vĩ mô của Nhà nước. Từ đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ từng bước ...
43 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 993 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản cố định tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu:
Trong nền kinh tế đóng, với cơ chế quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước, vấn đề hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản cố định nói riêng không được chú trọng làm cho hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp không cao.
Sau quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong sản xuất và tiêu thụ các loại sản phẩm nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi nhuận và phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận thì việc sử dụng hợp lý các nguồn lực là hết sức quan trọng.
Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về việc quản lý và phát triển nền kinh tế. Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã chuyển từ chế độ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều chỉnh Vĩ mô của Nhà nước. Từ đó đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ từng bước tiếp cận với nền kinh tế Thế giới, mở rộng giao lưu và phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Bước sang giai đoạn mới - nền kinh tế thị trường - là một thách thức mới đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và hàng ngàn các Doanh nghiệp ở nước ta nói riêng. Trước những yêu cầu của nền kinh tế các Doanh nghiệp phải tự khẳng định mình tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trong Xã hội và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện 61 Trần Phú - Ba đình - Hà nội là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông (nay là Bộ Bưu Chính - Viễn Thông), trong những năm qua đã có những đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của toàn ngành. Hoạt động của Công ty có những nét đặc thù: là một khâu trên dây chuyền sản xuất, kinh doanh thống nhất toàn ngành. Bởi vậy, kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty có liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động chung của hầu hết các đơn vị trực thuộc Bộ Bưu Chính - Viễn Thông. Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn mà Bộ Bưu Chính - Viễn Thông giao cho là một vấn đề bức xúc đối với ban lãnh đạo Công ty.
Trong quá trình thực tập tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Nguyễn Thế Khải và các cô chú trong phòng Kế toán – Thống kê, em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện”.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm ra những tồn tại trong việc sử dụng TSCĐ và trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tình hình sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện.
Mặc dù được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo và các cô chú trong phòng Kế toán – Thống kê nhưng do thời gian có hạn, cùng với khả năng và thực tiễn chưa nhiều nên bài viết của em không thể tránh khỏi những sai sót, em mong được thầy giáo có những nhận xét và sửa đổi giúp em hoàn thiện đề tài. Em xin chân thành cảm ơn.
Đề tài: “Phân tích tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện “ được chia thành ba phần:
Phần 1: Những vấn đề chung về TSCĐ và hiệu quả sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp sản xuất.
Phần 2: Tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện.
Phần I
Những vấn đề chung về TSCĐ và hiệu quả sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp sản xuất.
I. TSCĐ và đặc điểm của TSCĐ trong các doanh nghiệp
1.1 Khái niệm và đặc điểm của TSCĐ
Để có thể tiến hành được hoạt động sản xuất kinh doanh bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần có đầy đủ ba yếu tố về lao động là: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Khác với các đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản xuất dở dang, bán thành phẩm…) thì các tư liệu lao động (như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận quan trọng nhất trong tư liệu lao động sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là TSCĐ. Đó là các tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh như: máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, các khoản đầu tư mua sắm TSCĐ hữu hình… TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thông thường một tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải đồng thời thảo mãn hai tiêu chuẩn cơ bản:
- Một là, phải có thời gian sử dụng tối thiểu từ 1 năm trở lên
- Hai là, phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức cố định, tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức giá của từng thời kỳ.
ở nước ta hiện nay theo quy định 206/2003/QĐ - BTC của Bộ tài chính quy định.
* Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ hữu hình.
Mọi tư liệu lao động là tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ kết hợp với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không hoạt động được, nên nếu thoả mãn đồng thời 4 tiêu chuẩn sau thì được coi là tài sản cố định:
- Chắc chắn thu được lợi ích trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó
- Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên
- Có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên
- Nguyên giá tài sản được xác định một cách tin cậy
Trong trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau, trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó mà do yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì những bộ phận đó được coi là TSCĐ hữu hình độc lập.
* Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ vô hình:
Mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn đồng thời 4 điều kiện trên mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình. Nếu khoản chi phí này không đồng thời thoả mãn cả 4 tiêu chuẩn trên thì được hạch toán trực tiếp hoặc được phân bổ vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ những nội dung trên có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ như sau:
Tài sản cố định trong doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất còn giá trị của nó thì được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị của sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
Đặc điểm chung của TSCĐ là khi sử dụng bị hao mòn dần và giá trị hao mòn dần được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm hàng hoá và được bù đắp khi doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá. Trong quá trình sử dụng TSCĐ không thay đổi về hình thái vật chất bên ngoài và đặc tính sử dụng ban đầu của nó. TSCĐ biểu hiện trình độ và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp và có vai trò quyết định đến việc tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Thêm vào đó, thông qua việc trích khấu hao TSCĐ đã góp phần vào việc hình thành khả năng tự tài trợ vốn cho doanh nghiệp. Do vậy với doanh nghiệp thực hiện sản xuất vật chất, TSCĐ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, đối với sự ra đời và tồn tại của doanh nghiệp.
1.2. Phân loại TSCĐ
Do TSCĐ có những đặc điểm khác nhau nên cần phải phân loại TSCĐ thành những loại nhất định, phục vụ cho nhu cầu quả lý và sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp. Hiện nay TSCĐ thường được phân loại theo một số tiêu thức sau:
* Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện.
Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
- TSCĐ hữu hình
Là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện bằng hình thái vật chất cụ thể có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh mà vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật kiến trúc…Trong đó TSCĐ hữu hình có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc một hệ thống bao gồm nhiều tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay nhiều chức năng nhất định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh mà thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong hệ thống đó thì cả hệ thống không hoạt động được.
- TSCĐ vô hình
Là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp , chi phí sử dụng đất…
ý nghĩa: Cách phân loại này cho ta thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và vô hình từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư hoặc cơ cấu dầu tư cho phù hợp và hiệu quả nhất.
* Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng
- TSCĐ đang ding: Là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc các hoạt động phúcc lợi, sự nghiệp hay an ninh quốc phòng của doanh nghiệp.
- TSCĐ chưa dùng: Là những tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp, song hiện tại chưa cần dùng còn dự trữ để sử dụng sau này.
- TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: Là những TSCĐ đã hết thời hạn sử dụng hay những TSCĐ không cần thiết, không phù hợp với nhiệm vụ sản xuát kinh doanh của doanh nghiệp cần thanh lý, nghượng bán để thu hồi vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
ý nghĩa: Cách phân loại này giúp các nhà quản lý biết được tình hình tổng quát về số lượng, chất lượng TSCĐ hiện có, VCĐ tiềm tàng, hoặc ứ đọng, từ đó tạo đIũu kiện cho phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất cần khai thác và tìm cách thu hồi.
* Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng.
- TSCĐ định thco mục đích sản xuất kinh doanh: Là những TSCĐ hữu hình và vô hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp.
- TSCĐ phục vụ cho sự nghiệp phúc lợi, an ninh quốc phòng
- TSCĐ bảo quản giữ hộ, cất hộ: Là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ doanh nghiệp khác hoặc nhà nước theo quy định của cơ quan nhà nước có them quyền.
ý nghĩa: Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp they được cơ cấu TSCĐ của mình theo mục đích sử dụng của nó, từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả.
* Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu
- TSCĐ tự có: Là các TSCĐ mua sẵm và hình thành từ nguốn vốn ngân sách nhà nước cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguốn vốn liên doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các TSCĐ được tặng, biếu…
- TSCĐ thuê ngoài: Là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo hợp đồng đã ký. Tuỳ theo điều khoản của hợp đồng mà TSCĐ đi thuê được chia thành TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động.
ý nghĩa: Phân loại TSCĐ theo phương pháp này giúp cho việc quản lý và tổ chức hạch toán TSCĐ được chặt chẽ, chính xác, và sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao nhất.
* Phân loại TSCĐ theo đặc trưng kỹ thuật
TSCĐ hữu hình được chia thành các loại sau: Nhà cửa vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị dụng cụ quản lý…
TSCĐ vô hình được chia thành các loại sau: Quyền sử dụng đất, chi phí thành lập và chuẩn bị sản xuất, bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về lưọi thế thương mại và các TSCĐ vô hình khác.
ý nghĩa: Cách phân loại này cho they công dụng cụ thể của tong loại TSCĐ trong doanh nghiệp, tạo đIều kiện thuận lợi cho việc sử dụng TSCĐ và trích khấu hao TSCĐ một cách chính xác.
1.3. Vai trò của TSCĐ trong doanh nghiệp
* Đối với nền kinh tế
TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Đó là một yếu tố không thể thiếu được đối với sự tồn tại của bất cứ một quốc gia nào, một doanh nghiệp nào. Vì nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là những tư liệu lao động chủ yếu được ví như “hệ thống xương cốt bắp thịt của quá trình SXKD”. TSCĐ là khí quan để con người thông qua đó tác động vào đối tượng lao động biến noa, bắt nó phục vụ cho con người.
* Đối với con người
Con người được hưởng thành quả cuối cùng của một hệ thống TSCĐ tiên tiến. Nhờ có TSCĐ hiện đại mà quá trình sản xuất sẽ rút ngắn, lao động của con người thuận lợi hơn, đỡ nặng nhọc hơn và có năng suất lao động cao hơn, kết quả sản xuất lớn hơn, do đó mà điều kiện làm việc và đời sống được nâng cao.
* Đối với doanh nghiệp
Trình độ trang thiết bị TSCĐ quyết định năng lực sản xuất lao động, chi phí giá thành, chất lượng sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Nếu doanh nghiệp nào trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến sẽ giảm được mức tiêu hao nguyên vật liệu và cho ra những sản phẩm chất lượng tốt và có sức hút cao đối với khách hàng.
* Đối với xã hội
Trình độ công nghệ sản xuất ở mức độ nào thì nói lên trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mức độ tương ứng và là căn cứ phân biệt thời đại này với thời đại khác. Phương thức sản xuất cổ truyền khác phương thức sản xuất hiện đại ở chỗ sản xuất như thế nào và sản xuất bằng cái gì. Chính lực lưọng sản xuất đã thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển và làm thay đổi phương thức sản xuất.
Từ những phân tích trên ta càng thấy rõ được vai trò quan trọng của TSCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà TSCĐ phải luôn được duy trì, kéo dài tuổi thọ và đầu tư đổi mới công nghệ.
1.4. Kết cấu TSCĐ
Với mỗi cách phân loại trên có ý nghĩa khác nhau nhưng ở chúng có ý nghĩa chung quan trọng đó là cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau giúp cho nhà quản lý tính toán chính xác số tiền trích lập quỹ khấu hao. Do vậy kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ nào đó chiếm trong tổng nguyên giá toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Trong các ngành kinh tế khác nhau hay trong cùng một ngành kinh tế thì kết cấu của TSCĐ đều không giống nhau. Sự khác nhau về kết cấu trong trong ngành và trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là do đặc điểm riêng biệt về hoạt động sản xuất kinh doanh của chúng quyết định.
1.5. Đánh giá TSCĐ
Đánh giá TSCĐ là biểu hiện giá trị TSCĐ bằng tiền theo những nguyên tắc nhất định, là điều kiện cần thiết để hạch toán TSCĐ, trích khấu hao và phân tích hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp
Xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu quản lý TSCĐ trong quá trình sử dụng TSCĐ được đánh giá theo nguyên giá và giá trị còn lại.
- Đánh giá TSCĐ theo nguyên giá
Là toàn bộ các chi phí mà các doanh nghiệp đã chi ra để có được TSCĐ cho đến khi đưa TSCĐ vào hoạt động bình thường, bao gồm: giá mua thực tế, lãi vay, đầu tư TSCĐ khi chưa bàn giao đưa vào sử dụng, thuế, lệ phí trước bạ. Tuỳ theo từng loại TSCĐ mà nguyên giá của nó được xác định khác nhau.
Cách đánh giá này có thể cho doanh nghiệp thấy được số vốn đầu tư, mua sắm TSCĐ ở thời điểm ban đầu, là căn cứ để xác định số tiền phải trả khách hàng để tái sản xuất giản đơn.
- Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại
Giá trị còn lại của TSCĐ là phần giá trị chưa chuyển vào giá trị sản phẩm. Giá trị còn lại có thể tính theo giá trị ban đầu.
Mỗi cách đánh giá đều có ý nghĩa tác dụng riêng, cho phép chúng ta thấy mức độ thu hồi vốn đầu tư đến thời điểm đánh giá, từ đó đưa ra chính sách khấu hao thu hồi số vốn đầu tư còn lại để bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ đó ta có công thức sau:
Giá trị còn lại TSCĐ = Nguyên giá - Giá trị hao mòn luỹ kế
Giá trị hao mòn luỹ kế là tổng giá trị hao mòn TSCĐ tính từ lúc bắt đầu sử dụng cho đến thời điểm nghiên cứu.
Giá trị còn lại của TSCĐ trên
Đánh giá lại TSCĐ = * Hệ số giá
sổ sách trước khi đánh giá
Giá thị trường của TSCĐ tại thời điểm đánh giá
Hệ số giá =
Giá trị còn lại của TSCĐ trên sổ sách
1.6. Khấu hao TSCĐ
Khấu hao TSCĐ nhằm để bù đắp giá trị TSCĐ hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải dịch chuyển dần dần giá trị hao mòn đó vào giá trị sản phẩm sản xuất trong kỳ.
Việc khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau, mỗi phương pháp có ưu nhược điểm riêng. Việc lựa chọn phương pháp khấu hao đúng đắn là nội dung quan trọng trong việc quản lý TSCĐ trong doanh nghiệp.
Thông thường có những phương pháp tính khấu hao sau:
* Phương pháp khấu hao tuyến tính (khấu hao đường thẳng)
Đây là phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian sử dụng. Theo phương pháp này mức khấu hao cơ bản hàng năm của TSCĐ được tính theo công thức:
Nguyên giá TSCĐ
Mức khấu hao trung bình hàng năm của TSCĐ =
Thời gian sử dụng
- Ưu nhược điểm:
+ Ưu điểm: Phương pháp này đơn giảm, dễ tính, dễ hiểu. Doanh nghiệp có thể ổn định chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm do mức khấu hao được phân bổ đều qua các năm.
+ Nhược điểm: Do TSCĐ phải chịu nhiều các yếu tố tác động tới nên trong những thời kỳ khác nhau TSCĐ có những hao mòn khác nhau. Vì vậy phương pháp này không đem lại cho người quản lý những thông tin chính xác về mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ trong các thời kỳ sử dụng khác nhau.
- Điều kiện áp dụng: Các TSCđ tham gia vào hoạt động kinh doanh đều được trích khấu hao theo phương pháp này. Đây là phương pháp khấu hao khá đơn giản và được áp dụng hầu hết cho các TSCĐ trong doanh nghiệp.
* Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần.
Theo phương pháp này số tiền khấu hao từng năm của TSCĐ được xác định bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ đầu năm tính khấu hao nhân với một tỷ lệ khấu hao cố định hàng năm, có thể được xác định qua công thức:
Công thức: Mki = Gđi * Tkh
Trong đó: Tkh = Tk * Hs
Mki : Số tiền khấu hao TSCĐ năm i
Gđi : Giá trị còn lại của TSCĐ năm thứ i
Tkh : Tỷ lệ khấu hao hàng năm của TSCĐ
Tk : Tỷ lệ khấu hao theo phương pháp tuyến tính
Hs : Hệ số điều chỉnh
Hệ số: + 1,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 3 đến 4 năm
+ 2,0 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 5 đến 6 năm
+ 2,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 6 năm trở lên
* Phương pháp khấu hao theo tổng số: Theo phương pháp này, số khấu hao của từng năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá TSCĐ nhân với tỷ lệ khấu hao của từng năm:
Công thức: Mkt = NG * Tkt
Với: Số năm sử dụng
Tkt =
Tổng số các năm sử dụng còn lại của TSCĐ
Mkt: Số tiền khấu hao TSCĐ năm thứ t (t = 1,n)
NG: Nguyên giá TSCĐ
Tkt: Tỷ lệ khấu hao TSCĐ năm thứ t
II. Hiệu quả sử dụng TSCĐ và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ
2.1. Hiệu quả sử dụng TSCĐ
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh trong đó quản lý và sử dụng TSCĐ là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Qua đó, thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các khả năng sẵn có, biết mình đang ở giai đoạn nào trong quá trình phát triển, đang ở vị trí nào trong quá trình đua tranh với các doanh nghiệp khác.
Hiệu quả sử dụng TSCĐ là một phần của công tác đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp phải cố gắng tối đa trên nhiều lĩnh vực trong đó phải tìm ra cách nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ của mình.
Vậy: ‘Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời tối đa với chi phí thấp “.
2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay là rất cần thiết, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ các lý do chủ yếu sau đây:
- Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nhất nói lên kết quả nhiều mặt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là nguồn tích luỹ cơ bản để doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải tạo ra được nhiều lợi nhuận. Để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và quản lý sản xuất, trong đó việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn sản xuất nói chung, TSCĐ nói riêng phải đạt hiệu quả hơn.
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của TSCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh. TSCĐ là thành phần cơ bản chiếm tỷ trọng lớn trong vốn sản xuất. Do đó việc nâng cao hiệu qủa sử dụng TSCĐ sẽ làm cho hiệu quả vốn sản xuất tăng lên. Đó cũng chính là mục tiêu và đạt tới của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ. Bởi hiệu quả sử dụng TSCĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu về kỹ thuật, về tổ chức quản lý trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiệu quả sử dụng TSCĐ thể hiện ở việc nâng cao hiệu suất sử dụng vốn cố định, tài sản cố định, tăng tỷ suất lợi nhuận vốn cố định,… nhằm tăng lợi nhuận. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ còn có ý nghĩa thúc đẩy vòng chu chuyển TSCĐ tăng nhanh tạo điều kiện rút ngắn thời gian hao mòn vô hình, hao mòn hữu hình. Do đó thúc đẩy nhanh nhịp độ đổi mới TSCĐ theo kịp trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ còn đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất mà không cần phải bỏ thêm vốn đầu tư mua sắm, xây dựng đầu tư TSCĐ. Một mặt tiết kiệm được vốn sản xuất, mặt khác làm cho giá thành sản phẩm hạ, lợi nhuận sẽ tăng lên khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng hiệu quả và phát triển.
Ngoài ra, nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ chính là việc thực hiện yêu cầu của Nhà nước về việc hạch toán đầy đủ của các doanh nghiệp.
Qua đó thấy được việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự tồn tại, phát triển của nền sản xuất nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
2.3. Các chỉ tiêu để phân tích, đánh giá tình hình trang bị và sử dụng TSCĐ
2.3.1. Trình độ trang bị chung về TSCĐ
Xét tình hình trang bị TSCĐ là tính đến mức độ phù hợp của việc trang bị TSCĐ cho từng lao động. Đây là căn cứ đề ra các dự án cho việc đầu tư máy móc không chỉ phù hợp về mặt trình độ kỹ thuật mà còn phù hợp với sức quản lý của từng lao động. Việc trang bị cho người lao động vượt quá khả năng của họ không chỉ tạo ra sức ép cho người lao động mà còn có thể gây lãng phí do người lao động không sử dụng hết số máy móc đó.
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Trình độ trang bị chung TSCĐ = ắắắắắắắắắắắắắắắ
Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất. Thông qua chỉ tiêu này ta vừa đánh giá được mức độ trang bị TSCĐ đồng thời thấy được sự hợp lý hay bất hợp lý của số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất.
2.3.2. Trình độ trang bị kỹ thuật về TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ (hữu hình) thuộc
phương tiện kỹ thuật
Trình độ trang bị kỹ thuật về TSCĐ =
Số công nhân sản xuất bình quân
2.3.3. Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ (thông qua hệ số hao mòn)
Số tiền KH luỹ kế của TSCĐ ở thời điểm đánh giá
- Hệ số hao mòn TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Chỉ tiêu này một mặt phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp, mặt khác nó phản ánh tổng quát tình trạng về năng lực của TSCĐ ở thời điểm đánh giá.
2.4. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng từ quan điểm kinh tế
Giá trị sản xuất công nghiệp * Mức giá trị sản xuất công nghiệp tính cho
một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ =
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Doanh thu thuần
* Mức doanh thu thuần tính cho
một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ =
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng nguyên giá TSCĐ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thực hiện trong kỳ.
Tổng lợi nhuận trước thuế
* Mức lợi nhuận trước thuế tính cho
một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ =
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu này cho ta thấy rõ hơn về tính hiệu quả của việc sử dụng TSCĐ, cứ một đồng nguyên giá TSCĐ sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Thông qua hệ thống các chỉ tiêu đánh giá trên ta thấy nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ chính là việc khai thác triệt để khả năng hiện có của doanh nghiệp như: phát huy hết công suất của máy móc thiết bị, tăng cường công tác quản lý và sử dụng tài sản cố định... để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
2.5. Biện pháp chủ yếu nhằm tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp
- Làm tốt công tác đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định, xem xét kỹ hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
Hiệu quả sử dụng TSCĐ trước hết phụ thuộc vào chất lượng của công tác đầu tư mua sắm TSCĐ. Bởi vậy, trước khi đầu tư phải nghiên cứu kỹ lưỡng, kiểm tra về điều kiện khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, điều kiện cung cấp vật tư, khả năng tận dụng và công suất của TSCĐ. TSCĐ được đầu tư mới phải phù hợp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật theo hướng tiên tiến hiện đại, và phải phù hợp với yêu cầu và khả năng khai thác của doanh nghiệp.
Căn cứ vào việc xác định tỷ lệ hợp lý giữa các loại máy móc thiết bị, giữa các khâu của quy trình công nghệ và tổng số TSCĐ hiện có để lập ra kế hoạch điều chỉnh cơ cấu và kế hoạch đầu tư theo hướng đồng bộ hoá thiết bị sẵn có, cải tạo thiết bị máy móc cũ, thải loại những máy móc thiết bị mà chi phí sửa chữa lớn hơn mua sắm lớn (không có hiêu quả kinh tế) đồng thời có kế hoạch đầu tư mua sắm mới thay thế một phần hoặc toàn bộ tài sản cố định. Bên cạnh đó xác định chính xác những tài sản cố định không cần dùng để có thể nhanh chóng tiến hành thanh lý hay nhượng bán để thu hồi vốn nhanh.
- Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả TSCĐ vào trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để có thể thực hiện được điều này thì trước tiên phải thực hiện đánh giá đúng giá trị của TSCĐ, tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định, quy mô vốn phải bảo toàn. Điều chỉnh kịp thời giá trị của tài sản cố định để tạo điều kiện tính đúng tính đủ chi phí khấu hao, không để mất vốn cố định.
Tiếp theo là phải tiến hành phân loại cũng như phân cấp TSCĐ. Tiến hành phân giao TSCĐ cho từng bộ phận, từng cá nhân một cách rõ ràng nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm cho từng người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh để hạn chế tổn thất TSCĐ do các nguyên nhân khách quan như: mua bảo hiểm tải sản, lập quỹ dự phòng tài chính, trích trước chi phí dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính.
- Tổ chức thực hiện tốt việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao có hiệu quả. Trích khấu hao cơ bản là hình thức thu hồi VCĐ phục vụ cho việc đổi mới TSCĐ, nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng mỗi đồng vốn bỏ ra.
- Tổ chức tốt hạch toán nội bộ trong doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng TSCĐ phải được tính toán từ khi lập kế hoạch sử dụng đến quá trình thực hiện. Trong quá trình sản xuất việc sử dụng TSCĐ luôn gắn với mục đích cụ thể do đó thực hiện hạch toán kinh tế nội bộ là một biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
- Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước và cơ chế quản lý TSCĐ trong các doanh nghiệp.
Việc quản lý TSCĐ ở các doanh nghiệp luôn có sự biến động không ngừng theo sự phát triển và biến đổi của cơ chế thị trường. Vì vậy các cơ quan quản lý nhà nước phải luôn theo sát để nhận biết được những thay đổi, kịp thời đưa ra những chính sách mới phù hợp với điều kiện thực tế nhằm tạo điều kiện cho những doanh nghiệp mới phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả TSCĐ nói riêng.
Phần II:
Tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện
I. Giới thiệu khái quát về Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.
1.1. quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Vốn là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện là đơn vị hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, theo điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty được phê chuẩn tại Nghị định số 51/CP ngày 1/8/1995 của Chính Phủ. Công ty là một bộ phận cấu thành của hệ thống tổ chức và hoạt động của Tổng công ty trong các lĩnh vực khác nhau nhằm tăng cường tích tụ tập trung phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất để thực hiện những mục tiêu kế hoạch của Nhà nước do Tổng công ty giao cho.
Tên giao dịch : “post & telecommunication equipmenp Company (posteF)”
Tên viết tắt : “Postef”
Trụ sở chính : Số 61 Trần Phú – Ba Đình – Hà Nội
Điện thoại : 04.8621269
Fax : 04.8621268
Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện - Hà Nội là một Doanh nghiệp được thành lập từ năm 1954 với tên gọi ban đầu là: Nhà máy Thiết Bị Bưu Truyền Thanh.
Năm 1967 theo quyết định số 389/QĐ ngày 16/6/1967 của Tổng cục Bưu Điện đã tách rời nhà máy Bưu Truyền thanh ra làm 4 nhà máy trực thuộc bao gồm nhà máy 1, 2, 3, 4.
Đầu những năm 70, do yêu cầu phát triển thông tin của Tổng cục bưu điện đã sát nhập nhà máy 1, 2, 4 thành một nhà máy hạch toán độc lập theo quyết định số 157/QĐ.
Đến tháng 12/1986 do yêu cầu của Tổng cục Bưu Điện nhà máy lại một lần nữa tách ra thành 2 nhà máy sản xuất kinh doanh ở cả 2 khu vực:
+ Nhà máy thiết bị Bưu Điện ở 61 Trần Phú - Ba Đình - Hà Nội
+ Nhà máy vật liệu điện tử loa âm thanh 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội
Bước vào thập kỷ 90, do sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin nên nhu cầu thị trường ngày càng cao, nhất là các đòi hỏi về chất lượng sản phẩm. Điều đó đã đóng vai trò quyết định khối lượng sản xuất, tác động trực tiếp đến quy mô doanh nghiệp. Một số yếu tố khác không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của Nhà máy, đó chính là sự chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, đánh dấu cột mốc của sự chuyển đổi nền kinh tế đất nước nói chung và của Công ty nói riêng. Trước yêu cầu bức thiết của tình hình mới, để tăng cường năng lực sản xuất cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Tháng 3/1993 tổng cục bưu điện tiến hành sáp nhập 2 nhà máy trên thành một nhà máy tiến hành ở cả 2 khu vực:
+ Khu vực 1: 61 Trần Phú - Ba Đình - Hà Nội
+ Khu vực 2: 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội
Sau khi có quyết định 217/HĐBT, Công ty thực hiện hoạt động kinh doanh tự chủ về mặt tài chính một cách năng động và có hiệu quả.
Đến đầu năm 1995, Công ty trở thành một thành viên độc lập thuộc Tổng công ty Bưu chính - viễn thông, theo quyết định thành lập doanh nghiệp số 202/QĐ - TCBĐ ngày 15/3/1995, giấy phép kinh doanh số 105.985 ngày 20/3/1995 do trọng tài kinh tế cấp, số hiệu tài khoản TK 10A009 Ngân hàng công thương Ba Đình - Hà Nội.
Căn cứ quyết định số 46/2/2004/QĐ - BBCVT ngày 15/11/2004 của Bộ Bưu chính viễn thông chuyển Nhà máy thiết bị Bưu Điện thành Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.
Các sản phẩm của Công ty tương đối đa dạng (từ 350 đến 400 loại) chủ yếu bao gồm: máy điện thoại ấn phím cố định, máy điện thoại di động GMS, máy fax, thiết bị đấu nối cáp đồng và cáp quang, nguồn viba và nguồn tổng đài, ống cáp viễn thông, cabin đàm thoại ...
1.2. Nhiệm vụ, đặc điểm và quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây.
* Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện trong giai đoạn này bao gồm:
- Quản lý vốn hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Công ty được Tổng công ty giao cho bao gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác nhằm phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời trả các khoản nợ mà Công ty trực tiếp vay hoặc các khoản tín dụng được Tổng công ty bảo lãnh vay theo quy định của pháp luật.
- đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng mục đích ngành nghề đã đăng ký, chịu trách nhiệm trước khách hàng và pháp luật về sản phẩm do Công ty thực hiện.
- Thực hiện chế độ báo cáo kế toán thống kê, báo cáo định kỳ, bất thường, chế độ kế toán theo quy định của Nhà nước và tổng công ty, chịu trách nhiệm về tính xác thực của báo cáo.
- Thực sự kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ các quy định về thanh tra, kiểm tra của tổng công ty và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định….
Mục tiêu trước mắt cần đặt ra cho Công ty hiện nay là phấn đấu trong năm 2005 tổng doanh thu sẽ là 230 tỷ VND và lợi nhuận sẽ là 21 tỷ VND. Thu nhập lao động bình quân sẽ là 2.1 triệu đồng/người/tháng. Đây là con số mà toàn thể Công ty cần phải nỗ lực phấn đấu rất nhiều nếu không nói là rất khó có thể thực hiện được. Định hướng phát triển của Công ty giai đoạn 2005 - 2009 như sau:
- Đổi mới công nghệ
- Đầu tư chiều sâu
- Tăng sản lượng
- Tăng doanh thu
- Tăng lợi nhuận
- Tăng thu nhập của cán bộ công nhân
- Tăng các khoản nộp Ngân sách.
1.3. Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.
Hiện nay Công ty có trên 595 cán bộ công nhân viên trong đó có hơn 400 người là cán bộ trực tiếp sản xuất và nhân viên quản lý phân xưởng. Lao động của Công ty hầu hết được đào tạo qua trường vô tuyến viễn thông và các trường dạy nghề khác, lao động giản đơn rất ít và hầu như không có, đội ngũ cán bộ quản lý là kỹ sư vô tuyến điện tin học.
Để đáp ứng yêu cầu chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh, Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu là Giám đốc, toàn bộ cơ cấu quản lý và sản xuất của Công ty được sắp xếp bố trí thành các phòng ban, phân xưởng, giữa các phân xưởng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Ban giám đốc đưa ra quyết định thực hiện quản lý vĩ mô chỉ đạo chung toàn bộ hoạt động của Công ty, các phân xưởng là các bộ phận trực tiếp tham gia sản xuất sản phẩm.
* Ban giám đốc
- Giám đốc Công ty: là người lãnh đạo cao nhất của Công ty, chịu trách nhiệm cao nhất về hoạt động của Công ty, chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh trước pháp luật, có nghĩa vụ đối với Nhà nước trong quản lý tài sản, tránh để thất thoát tài sản.
- Phó giám đốc: gồm có phó giám đốc kỹ thuật và phó giám đốc sản xuất, là người đại diện lãnh đạo về chất lượng sản phẩm, là người trợ giúp cho giám đốc về mặt kỹ thuật, chỉ đạo trực tiếp các đơn vị thực hiện IOS trong Công ty. Các phó giám đốc là người trợ lý cho Giám đốc và theo dõi điều hành các công việc dựa trên quyền quyết định của Giám đốc.
* Các phòng ban
Công ty có 12 phòng ban, đây là hệ thống quản lý theo chức năng, thông qua trưởng phòng đến từng nhân viên.
* Phòng đầu tư - phát triển
* Phòng vật tư
* Phòng công nghệ kỹ thuật
* Phòng tổ chức lao động tiền lương
* Phòng kế toán tài chính
* Phòng điều động sản xuất
* Ban nguồn
* Phòng marketing (trọng tâm tiếp thị)
* Phòng KCS
* Phòng kế hoạch kinh doanh
* Trung tâm bảo hành sản phẩm
* Phòng hành chính, bảo vệ
Để có cái nhìn tổng thể về cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện ta có sơ đồ sau:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh
của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện
Phòng công nghệ
Ban nguồn
Trung tâm bảo hành sản phẩm
PX PVC 1
PX
PVC 2
Giám đốc
P.GĐ
sản xuất
P.GĐ
kỹ thuật
Phòng
tài
chính
Phòng
đầu tư
phát triển
Phòng điều động sản xuất
Phòng kế toán
Phòng hành
chính bảo vệ
Phòng vật tư
Phòng KCS
Phòng kế hoạch
Trung tâm tiêu thụ 1, 2, 3
PX 1
PX 2
PX 3
PX 4
PX 5
PX 6
PX 7
PX KM
PX 8
PX BC
(Nguồn phòng tổ chức lao động)
Qua cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty ta thấy công tác tổ chức quản lý tương đối hợp lý nhằm chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Công ty có tới 3 trung tâm tiếp thị Bắc, Trung, Nam được chia theo khu vực và theo ngành hàng. Theo khu vực có ưu điểm là giải quyết kịp thời cho mạng lưới bưu chính viễn thông toàn quốc, chia theo ngành có ưu điểm là nắm bắt kỹ thuật, hướng dẫn khách hàng chuyên sâu.
Công ty có nhiều phòng ban chức năng chuyên sâu về một hoặc một số lĩnh vực tạo cho chất lượng sản phẩm của Nhà máy ngày càng được nâng cao, được khách hàng tin cậy, tạo cho Công ty chỗ đứng vững vàng trên thị trường. Tuy nhiên bộ máy tổ chức của Công ty chưa gọn nhẹ, tinh giản, vẫn có sự trùng lắp, chồng chéo nhiệm vụ giữa các phòng ban như phòng đầu tư phát triển và phòng kế hoạch kinh doanh cùng nghiên cứu, xây dựng kế hoạch ngắn hạn và dài hạn.
1.4. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán
Công ty thuộc loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn, nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều và phức tạp nhưng phòng kế toán thống kê của Công ty vẫn được bố trí gọn, nhẹ, hợp lý, công việc được phân công cụ thể, rõ ràng cho từng nhân viên kế toán. Với đội ngũ kế toán có tay nghề vững vàng, nhiệt tình và có trách nhiệm cao, phòng đã thực hiện công tác kế toán đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý Công ty.
Công tác kế toán được tổ chức khá chặt chẽ và khoa học, Công ty áp dụng mô hình kế toán tập trung, mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được thực hiện ở phòng kế toán Công ty. Tại các phân xưởng không có tổ chức bộ máy kế toán riêng mà bố trí các nhân viên kinh tế, thống kê, theo dõi việc đưa vật liệu vào sản xuất cho đến khi giao thành phẩm cho kho thành phẩm.
Phòng kế toán thống kê của Công ty gồm 9 người đảm nhiệm các phần hành kế toán khác nhau bao gồm 1 kế toán trưởng và 8 kế toán nghiệp vụ.
- Kế toán trưởng (trưởng phòng): có nhiệm vụ tổ chức bộ máy kế toán trên cơ sở xác định đúng khối lượng công tác kế toán nhằm thực hiện 2 chức năng cơ bản của kế toán là thông tin và kiểm tra hoạt động kinh doanh, điều hành và kiểm soát hoạt động của bộ máy kế toán chịu trách nhiệm về nghiệp vụ chuyên môn kế toán và tài chính của đơn vị. Kế toán trưởng là người giúp việc trong lĩnh vực chuyên môn kế toán, tài chính cho giám đốc…
- Kế toán tổng hợp (phó phòng): Tổng hợp số liệu kế toán, đưa ra các thông tin cuối cùng trên cơ sở số liệu, sổ sách do kế toán các phần hành khác cung cấp. Kế toán tổng hợp còn đảm nhiệm công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đình kỳ lập các báo cáo kế toán.
- Kế toán thanh toán với ngân hàng: Giao dịch với ngân hàng, kiêm thủ quỹ bảo quản tiền mặt.
- Kế toán TSCĐ, kiêm kế toán thu chi: Theo dõi tình hình biến động của tài sản cố định. Ngoài ra còn theo dõi tình hình thu chi quỹ tiền mặt.
- Kế toán tiền lương, thanh toán tạm ứng, kế toán nguyên vật liệu và tổng hợp vật tư: Tính lương trên cơ sở đơn giá tiền lương do phòng tổ chức lao động tiền lương gửi lên, hạch toán lương và trích bảo hiểm, kinh phí công đoàn theo tỷ lệ quy định, thanh toán lương, phụ cấp cho công nhân viên Công ty.
- Kế toán thành phẩm và tiêu thụ: Theo dõi tình hình nhập - xuất - tồn kho thành phẩm trên cơ sở các chứng từ, xác định kết quả kinh doanh, theo dõi thuế gía trị gia tăng đầu ra.
- Kế toán vật tư và thống kê tài sản: Theo dõi chi tiết, tổng hợp tình hình nhập - xuất - tồn kho vật liệu, công cụ dụng cụ theo từng kho. Do đặc điểm sản xuất sản phẩm của Công ty đòi hỏi nhiều chủng loại vật tư khác nhau nên công tác kế toán vật liệu có khối lượng công việc khá lớn.
- Kế toán vật tư, lương cơ sở 2.
- Kế toán tổng hợp bán thành phẩm cơ sở 2.
Cơ cấu bộ máy kế toán tại Công ty được biểu hiện qua sơ đồ sau
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện
Kế toán
trưởng
Kế toán
tổng hợp
Kế
toán
thanh
toán
với NH
Kế toán
thu chi,
TSCĐ,
BHXH,
BHYT
Kế toán
T.Hợp
VT
Lương,
T. ứng
Kế toán
thành
phẩm
và tiêu
thụ
K.toán
vật tư
và
thống kê TS
K.toán
VT
lương
Cơ sở 2
K.T
T Hợp
BTP
cơ sở 2
Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ thông tin
(Nguồn Phòng Tài chính kế toán)
Đặc điểm bộ máy kế toán tại Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện
Công ty thuộc loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn, nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều và phức tạp nhưng phòng kế toán thống kê của Công ty vẫn được bố trí gọn, nhẹ, hợp lý, công việc được phân công cụ thể, rõ ràng cho từng nhân viên kế toán. Với đội ngũ kế toán có tay nghề vững vàng, nhiệt tình và có trách nhiệm cao, phòng đã thực hiện công tác kế toán đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý Công ty. Công ty áp dụng hình thức sổ Nhật ký chứng từ, hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên, tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ.
Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện là Công ty lớn, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhiều, do đó hình thức sổ Nhật ký chứng từ được sử dụng là phù hợp, thuận tiện cho việc phân công lao động kế toán.
Hệ thống sổ kế toán của Công ty: Thông tin trên báo cáo đảm bảo độ tin cậy. Hình thức và các chỉ tiêu trên báo cáo đúng theo chế độ kế toán quy định. Tuy nhiên việc áp dụng hệ thống sổ kế toán theo hình thức NKCT chưa thực sự thống nhất. Hiện nay, Công ty áp dụng hình thức kế toán NKCT nhưng hệ thống sổ kế toán Công ty một số sử dụng theo hình thức nhật ký chung. Điều này có thể thuận tiện cho công tác kế toán nhưng việc sử dụng không thống nhất sẽ gây khó khăn cho những người có thẩm quyền khi tiến hành kiểm tra sổ sách của Công ty.
II. Tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng TSCĐ tại
Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.
2.1. Kết quả sản xuất kinh doanh một số năm gần đây
Những năm gần đây với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự mở cửa hội nhập của nền kinh tế đất nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã từng bước phát triền về mọi mặt. Cùng với sự giúp đỡ của Bộ Bưu Chính -Viễn Thông, các cơ quan ban nghành và sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà Nước, Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện đã đạt được một số thành tựu, đóng góp một phần vào công cuộc CNH – HĐH đất nước.
Dưới đây là một số chỉ tiêu cơ bản về năng lực tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh mà Công ty đạt được trong ba năm qua (2002 - 2004).
Số liệu trong bài viết này đều được làm tròn và đơn vị sử dụng là ngàn đồng
Bảng I: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
STT
Chỉ tiêu
đơn vị
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
So sánh %
03/02
04/03
1
Doanh thu thuần
1000đ
212.083.382
282.771.093
298.876.706
33,33
5,6
2
Tổng chi phí sxkd
1000đ
199.732.502
261.977.806
281.362.581
31,1
7,39
3
Lợi nhuận trước thuế
1000đ
13.484.132
21.030.798
18.067.416
55,9
-14,09
4
Thuế thu nhập doanh nghiệp
1000đ
4.119.922
6.509.655
5.058.876
58
-21,22
5
Lợi nhuận sau thuế
1000đ
9.364.209
14.521.143
13.008.539
55,07
-10,4
6
Số lao động
Người
573
601
586
4,9
-2,49
7
Thu nhập bình quân
1000đ/người
1.783
1.913
1.825
7,29
-4,6
(Nguồn phòng Tài chính kế toán)
Qua những chỉ tiêu trên ta thấy tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong các năm qua ổn định, và trên thực tế Công ty đã không ngừng đề ra biện pháp tăng lợi nhuận, giảm chi phí. Năm 2004 doanh thu thuần của Công ty tăng so với năm 2003, cụ thể năm 2003 đạt mức 282.771.093 ngàn đồng đến năm 2004 đã tăng lên 298.876.706 ngàn đồng tăng 5,6%.
Bên cạnh đó lợi nhuận cũng không ngừng tăng lên. Năm 2002 lợi nhuận trước thuế của Công ty là 13.484.132 nghìn đồng, năm 2003 1à 21.030.798, tương đương tăng 55,9%. Đến năm 2004 doanh thu có tăng nhưng do có biến động về giá trên thị trường nguyên liệu sản xuất dẫn đến chi phí tăng ddột biến ảnh hưởng đến lợi nhuận (18.067.416 nghìn đồng, giảm 14,09%).
Tại Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện, yếu tố con người được đặt lên hàng đầu vì nó quyết định thành bại trong sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Cụ thể tiền lương bình quân hàng tháng đạt 1,9triệu đồng/một người. Điều này chứng tỏ sự nỗ lực rất lớn của Ban giám đốc để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Về lao động năm 2003 gồm có 601 người, năm 2004 là 586 người. Về cơ cấu tài sản vốn của Công ty được biểu hiện qua bảng sau:
Bảng II: Kết cấu tài sản và nguồn vốn
Đơn vị: 1.000 đ
Tài sản
Năm 2003
Năm 2004
Chênh lệch (+/-)
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
%
TSCĐ
TSLĐ
55.819.705
137.485.661
28,87
71,13
78.064.622
145.442.411
34,93
65,07
22.244.917
7.956.750
39,85
5,78
Tổng tài sản
193.305.366
100
223.507.033
100
30.201.667
15,62
Nguồn vốn
Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu
129.138.471
64.166.895
66,81
33,19
145.328.594
78.178.439
65,02
34,98
16.190.122
14.011.544
12,53
21,83
Tổng nguồn
193.305.366
100
223.507.033
100
30.201.667
15,62
(Nguồn phòng Tài chính kế toán)
Trong 2 năm 2003-2004 tình hình hoạt động của Công ty vẫn còn gặp nhiều khó khăn do bỡ ngỡ và còn lúng túng trong cơ chế thị trường, sản phẩm trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người thành phố, thêm vào đó sản phẩm nội địa bị cạnh tranh khốc liệt với hàng Trung Quốc, Thái Lan. Tuy vậy với sự nỗ lực của Ban Giám Đốc và toàn thể cán bộ công nhân viên nên mọi người đều có việc làm ổn định, thu nhập cao, doanh thu tăng đều qua các năm. Trên thực tế Công ty đã không ngừng đào tạo nguồn lực, có các biện pháp khuyến khích người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần nên ngân sách lao động ngày càng cao dẫn đến chất lượng lao động ngày càng tăng. .
2.2. Thực trạng TSCĐ của Công ty
Bảng III: Nguyên giá TSCĐ chia theo nguồn hình thành
Nguồn
Năm 2003
Năm 2004
Chênh lệch
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
%
Ngân sách
6.298.422
5,72
6.298.422
4,95
-
-
Tự bổ xung
15.643.036
14,22
19.318.247
15,18
3.675.211
23,49
Nguồn khác
87.996.545
80,06
101.572.690
79,87
13.576.145
15,42
Tổng
109.938.003
100
127.189.359
100
17.251.356
15,69
(Nguồn phòng Tài chính kế toán)
Qua bảng III cho thấy TSCĐ của Công ty được hình thành từ ba nguồn chính: nguồn ngân sách, tự bổ xung, nguồn khác. Tính đến ngày 31/12/2004 thì tổng nguồn TSCĐ là 127,189 tỷ đồng trong đó nguồn đóng góp của các cổ đông là chủ yếu, chiếm 79,87%. Nguồn ngân sách chiếm 4,95%, còn nguồn tự bổ xung chiếm 15,18%. Điều này chứng tỏ Công ty hoàn toàn chủ động không phụ thuộc nhiều vào nguồn Ngân sách cấp nên có nhiều thuận lợi trong việc sản xuất kinh doanh. Trong thời gian tới Công ty cần huy động nhiều TSCĐ hơn nữa để đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển.
2.3. Tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ
2.3.1. Tình hình mua sắm TSCĐ
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc tăng cường đổi mới trang thiết bị được coi là một lợi thế để chiếm lĩnh thị trường. Một hệ thống được trang bị máy móc hiện đại, đồng bộ sẽ góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp trong ngành bưu chính viễn thông cũng không nằm ngoài số đó. Nắm bắt được tình hình này Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện đã nỗ lực cố gắng không ngừng để hoàn thiện và đổi mới trang thiết bị của mình.
Bảng IV: Tình hình tăng giảm TSCĐ năm 2004
STT
Chỉ tiêu
Số tiền
1
Nguyên giá TSCĐ đầu năm
127.189.561
2
TCSĐ tăng trong năm
17.982.469
Do mua sắm, sửa chữa, đầu tư mới
10.122.511
Do đánh giá tăng TSCĐ xác định giá trị DN cổ phần hoá
7.859.957
3
TSCĐ giảm trong năm
118.763.628
Do thanh lý
6.467.904
Do TSCĐ chuyển sang TSCĐ không cần dùng
23.188.849
Do góp vốn liên doanh
16.542.762
Lý do khác
72.564.143
4
Nguyên giá TSCĐ cuối năm
26.408.401
(Nguồn phòng Tài chính kế toán)
Năm 2004 TSCĐ của Công ty tăng lên 17,982 tỷ đồng trong đó mua sắm mới là 10,122 tỷ đồng và đánh giá tăng TSCĐ xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá là 7,859 tỷ đồng, đồng thời trong năm 2004 TSCĐ của Công ty cũng giảm đi đáng kể 118,163 tỷ đồng. Nguyên giá TSCĐ cuối năm của Công ty giảm còn 26,408 tỷ đồng
2.3.2. Tình hình khấu hao TSCĐ và quản lý quỹ khấu hao của Công ty
Bảng V: Bảng tổng hợp tăng giảm hao mòn TSCĐ năm 2004
Đơn vị: 1000đ
Chỉ tiêu
Số tiền
1. Số khấu hao luỹ kế đầu năm
82.929.980
2. Số khấu hao luỹ kế tăng trong năm
- Do trích khấu hao TSCĐ
- Do trích khấu hao TSCĐ tăng mới
- Do điều chuyển
- Lý do khác
14.227.313
8.031.671
763.733
0
5.431.909
3. Số khấu hao luỹ kế giảm trong năm
- Do thanh lý
- Do góp vốn liên doanh
- Do TSCĐ chuyển sang TSCĐ không cần dùng
- Do chuyển thành công cu dụng cụ
- Lý do khác
74.929.638
3.502.351
9.619.326
22.994.431
517.115
38.296.415
4. Số khấu hao luỹ kế cuối năm
22.229.655
(Nguồn: Phòng TC - KT)
Qua bảng tổng hợp tăng giảm hao mòn TSCĐ của Công ty thì số tiền khấu hao luỹ kế đầu năm của Công ty là 82.929.980 ngàn đồng, trong năm số khấu hao luỹ kế tăng lên 14.227.313 ngàn đồng trong đó các lý do chính như: do trích khấu hao TSCĐ là 8.013.671 ngàn đồng, do trích khấu hao TSCĐ tăng mới là 763.733 ngàn đồng và một số lý do khác là 5.431.909. Tuy nhiên số khấu hao luỹ kế giảm trong năm lại rất lớn (74.929.638 ngàn đồng), trong đó do TSCĐ chuyển sang TSCĐ không cần dùng là 22.994.431 ngàn đồng, do góp vốn liên doanh 9.619.326 ngàn đồng và một số lý do khác. Qua phân tích ở bảng V cho thấy TSCĐ của Công ty đã quá cũ kỹ, Công ty cần có biện pháp đổi mới nhanh chóng để phục vụ sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.
2.4. Cơ cấu tài sản cố định
Để có được đánh giá về cơ cấu TSCĐ của Công ty, ta sử dụng bảng số liệu sau:
Bảng VI: Cơ cấu tài sản cố định của Công ty
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
1.TSCĐ hữu hình
Nguyên giá
Hao mòn
Giá trị còn lại
2.TSCĐ thuê tài chính
3.TSCĐ vô hình
127.189.561
82.929.980
44.259.581
3.270.873
-
99.943.670
56.727.588
43.216.082
4.947.557
-
Tổng TSCĐ
47.530.454
48.163.639
(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2002 - 2004)
Qua bảng số liệu ta thấy:
TSCĐ hữu hình của Công ty là TSCĐ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong vốn cố định gồm chủ yếu là máy móc, thiết bị, và các trang thiết bị văn phòng nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng qua các năm là:
+ Năm 2003: Tỷ trọng vốn cố định/Tổng nguồn vốn là 24,59%
+ Năm 2004: Tỷ trọng vốn cố định/Tổng nguồn vốn là 21,55%
Như vậy, năm 2003 TSCĐ của Công ty giảm mạnh nhưng lại tăng trở lại vào năm tiếp theo, chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn. Năm 2003 TSCĐ của Công ty tăng mạnh đánh dấu sự đổi mới trang thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh doanh, nó phù hợp với xu thế của nền kinh tế thị trường hiện nay.
2.5. Tình hình trang bị và đầu tư TSCĐ tại Công ty
2.5.1. Tình hình trang bị TSCĐ
Bảng VII: Tình hình trang bị TSCĐ
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
So sánh
Số tiền
Tỷ lệ
Nguyên giá TSCĐ bình quân (VNĐ)
127.189.561
99.943.607
-27.245.954
-8,5%
Số công nhân sản xuất bình quân (người)
601
586
-15
-7,5%
Trình độ trang bị chung TSCĐ (VNĐ/người)
211.629,9
170.552,2
- 41.077,7
-0,6%
Qua bảng trên ta thấy: trình độ trang bị chung TSCĐ từng năm của Công ty có chiều hướng giảm dần. Năm 2003 hệ số này đạt 211.629,9 (VNĐ/người), nhưng đến năm 2004 hệ số này giảm xuống còn 170.552,2 (VNĐ/người), điều này có thể được lý giải như sau:
- Năm 2003 nguyên giá TSCĐ bình quân là 127.189.561 ngàn đống, đến năm 2004 chỉ tiêu này giảm xuống còn 99.943.607 ngàn đồng (giảm 27.245.954 ngàn đồng).
- Số công nhân sản xuất giảm do một số cán bộ đã đến tuổi về hưu và trong thời gian này Công ty chưa tuyển dụng thêm được đội ngũ công nhân mới. Tính đến năm 2004 số công nhân trong là 586 người giảm 15 người so với năm 2003.
Tác động của việc giảm nguyên giá và giảm số lượng công nhân đã dẫn tới hệ số trong bị chung TSCĐ của Công ty năm 2004 giảm 0,6%.
2.5.2. Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ
Bảng VIII (trang bên)
Qua bảng VIII ta thấy hệ số hao mòn chung của TSCĐ qua 2 năm 2003, 2004 đã quá cũ kỹ vào khoảng 0,69 năm 2003 và 0,84 năm 2004. Điều này được biểu hiện cụ thể như sau:
- Nhà xưởng, vật kiến trúc năm 2003 hệ số hao mòn là 0,73 đến năm 2004 hệ số này tăng lên 0,83.
- Máy móc thiết bị cũng tương đối cũ, năm 2003 hệ số hao mòn là 0,69 thì đến năm 2004 con số này lên tới 0,86 (tăng 0,17).
- Về phương tiện vận tải thì hệ số này ở mức rất cao, 0,81 năm 2003 và 0,92 năm 2004.
- Mặc dù hệ số hao mòn của một số TSCĐ trên tăng khá cao thì ở TSCĐ thiết bị phục vụ quản lý lại có phần giảm, năm 2003 hệ số này là 0,46 đến năm 2004 giảm xuống còn 0,42. Điều này chứng tỏ Công ty đã chú trọng vào công tác phục vụ quản lý, góp phần cải tiến trạng kỹ thuật cho cán bộ quản lý.
- Về TSCĐ thuê tài chính năm 2003 hệ số hao mòn là 0,28 mặc dù còn khá mới xong đến năm 2004 hệ số này cũng đã giảm xuống còn 0,25.
Nhìn chung tình trạng kỹ thuật của TSCĐ thuộc Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện không có sự thay đổi nhiều, tuy nhiên là một Công ty mà hoạt động sản xuất đóng vai trò chủ yếu thì Công ty cần chú trọng hơn đến công tác quản lý và sử dụng TSCĐ. Những TSCĐ đã quá cũ kỹ, lạc hậu Công ty cần có biện pháp thay đổi kịp thời để có thể nâng cao sức lao động của công nhân, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra đối với những TSCĐ khác Công ty cũng cần có sự quan tâm đúng mức, có như vậy mới tạo được sự đồng bộ trong hoạt động sản xuất cũng như trong kinh doanh.
2.5.3. Tình hình đầu tư TSCĐ
(Số liệu chi tiết được trình bày trong hai bảng IX và X trang bên)
Qua bảng IX và bảng X về tình hình đầu tư TSCĐ năm 2003, năm 2004 có thể thấy một số nét khái quát như sau:
Do nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, từ năm 2003 Công ty đã tiến hành xây dựng mới một số nhà xưởng phục vụ cho việc sản xuất các mặt hàng chủ yếu. Năm 2003 Công ty đã đầu tư xây mới và mua sắm TSCĐ với số tiền 1.814.546 ngàn đồng, đến năm 2004 con số này tăng lên đáng kể (5.072.056 ngàn đồng).
Đồng thời với việc mở rộng quy mô, Công ty cũng đã không ngừng đầu tư cho máy móc thiết bị dùng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nhằm đưa ra thị trường những sản phẩm chất lượng tốt, tính cạnh tranh cao. Năm 2003 Công ty đã đầu tư mua sắm mới một số máy móc thiết bị với trị giá là 2.715.844 ngàn đồng, đến năm 2004 thì con số này tăng lên mức 4.063.275 ngàn đồng. Công ty hoạt động trên cả hai lĩnh vực sản xuất và kinh doanh nên trong năm 2003 Công ty cũng đã chi ra số tiền 237.722 ngàn đồng để mua sắm mới một số phương tiện vận tải và 194.152 ngàn đồng để mua sắm thiết bị phục vụ quản lý. Năm 2004 thì hai loại TSCĐ này lại không có sự thay đổi về nguyên giá.
Riêng đối với TSCĐ thuê tài chính Công ty cũng đã đầu tư xây mới với số tiền 822.988 ngàn đồng, tuy nhiên đến năm 2004 do chưa được tận dụng triệt để TSCĐ thuê tài chính nên Công ty đã giảm số tiền này xuống còn 748.171 ngàn đồng.
2.5.4. Tình hình sử dụng TSCĐ
Bảng XI: Tình hình sử dụng TSCĐ
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
So sánh
Chênh lệch
%
Giá trị sản xuất công nghiệp
238.460.508
245.010.307
6.549.799
2,7
Doanh thu thuần
282.771.093
298.876.706
16.105.613
5,69
Tổng lợi nhuận trước thuế
21.030.798
18.067.416
-2.963.382
-5,9
Nguyên giá bình quân TSCĐ
127.189.561
99.943.607
-27.245.954
-8,57
Mức giá trị SXCN tính cho 1 đồng NG
1,87
2,45
0,58
1,31
Mức doanh thu thuần tính cho 1 đồng NGBQ
2,22
2,99
0,77
0,34
Mức lợi nhuận trước thuế tính cho 1 đồng NGBQ
0,165
0,18
0,015
0,9
Qua bảng XI ta thấy: Giá trị sản xuất công nghiệp của Công ty chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng doanh thu, điều này hoàn toàn phù hợp với Công ty mà hoạt động sản xuất là chủ yếu. Năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp là 238 tỷ đồng tăng hơn 6,5 tỷ đồng (tăng 2,7%) vào năm 2004. Nhìn chung giá trị sản xuất qua 2 năm 2003 và 2004 có sự gia tăng tuyệt đối, điều này cho thấy việc đầu tư máy móc thiết bị đữ thu được một số hiệu quả đáng kể.
Tuy nhiên, do một số yếu tố khách quan trong 2 năm qua thì tổng lợi nhuận trước thuế của Công ty lại có chiều hướng giảm, năm 2003 đạt 21 tỷ đồng giảm xuống còn 18 tỷ đồng năm 2004. Điều này dẫn tới nguyên giá TSCĐ cũng giảm theo, năm 2003 đạt 127 tỷ đồng đến năm 2004 giảm xuống còn gần 100 tỷ đồng (giảm 27 tỷ đồng).
Mức giá trị sản xuất công nghiệp tính cho một đồng nguyên giá bình quân, cứ một đồng nguyên giá thì thu được 1,87 đồng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2003 và 2,45 đồng năm 2004 (tăng 0,58 đồng). Mức doanh thu thuần tính cho một đồng nguyên giá bình quân, năm 2003 là 2,22 đồng tăng 0,77 đồng vào năm 2004. Mức lợi nhuận trước thuế tính cho một đông nguyên giá bình quân, năm 2003 là 0,165 đồng tăng lên 0,18 đồng năm 2004.
Từ những số liệu chi tiết ở bảng trên ta có thể thấy việc đưa TSCĐ mới vào chưa thực sự được tận dụng hết công suất và TSCĐ cũ vẫn chưa được khấu hao hết do đó dẫn tới chất lượng sản phẩm không cao. Những con số này ban đầu cho thấy hướng đi của Công ty không sai, nhưng để có thể thu được lợi nhuận nhiều hơn nữa ngoài việc chú ý đào tạo mới các cán bộ công nhân viên, Công ty cần phải không ngừng đầu tư, đổi mới TSCĐ hiện đại thay thế những TSCĐ đã cũ kỹ, lạc hậu. Có như vậy Công ty mới ngày càng phát triển và đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng tốt nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng không chỉ trong nước mà còn trên quốc tế.
2.6. Đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ của Công ty
* Những kết quả đạt được:
Kể từ ngày được thành lập, Công ty đã không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường đổi mới máy móc trang thiết bị, dây chuyền lẵp ráp hiện đại, nâng cao tay nghề công nhân và nghiệp vụ của cán bộ quản lý để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty luôn chứng tỏ là một đơn vị năng động và không ngừng vươn lên thông qua các kết quả tăng trưởng đạt được. Với số vốn ban đầu của tổng công ty cấp và được bổ sung từ lợi nhuận để lại hàng năm, Công ty đã mở rộng quy mô sản xuất. Mặc dù vốn cố định có tỷ trọng thấp nhưng Công ty vẫn huy động tối đa mọi nguồn lực để đầu tư đổi mới trang thiết bị, máy móc phương tiện vận tải truyền dẫn, nhà xưởng… Trong năm 2004, Công ty đã tăng cường đầu tư cho TSCĐ một khoản rất lớn: 78,054 tỷ đồng, tăng 22,244 tỷ đồng (23,49%) so với năm 2003. Các loại máy móc hiện đại như máy cắt, đột dập, máy băng chuyền, các dây chuyền sản xuất PVC cứng, dây chuyền phục vụ phân xưởng bưu chính... cũng được đầu tư đổi mới. Trong các phòng quản lý, Công ty hầu như trang bị toàn bộ máy vi tính, máy fax và các máy móc chuyên dụng khác, giúp cho cán bộ quản lý làm việc hiệu quả hơn và công tác giao dịch, tiếp cận khách hàng cũng thuận lợi hơn.
- Với bề dày gần 50 năm xây dựng, phấn đấu và trưởng thành trong thời gian qua toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty đã tự mình đạt được một bề dầy thành tích đáng khích lệ. Nhờ đó Công ty đã hoà nhập tốt cơ chế thị trường mới, từng bước nắm bắt được nhu cầu thị trường, cải tiến máy móc thiết bị, đào tạo tay nghề cho công nhân và trình độ lãnh đạo của đội ngũ quản lý năng động sáng tạo. Phần lớn đội ngũ cán bộ của Công ty là các kỹ sư về điện tử, tin học, vô tuyến điện, các cử nhân kinh tế và Công ty hầu như không có lao động giản đơn.
* Những tồn tại:
Do sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã làm sản phẩm bưu chính viễn thông luôn thay đổi và để theo kịp với sản phẩm ngoại nhập Công ty phải đầu tư liên tục và khấu hao nhanh khiến sản phẩm phải bán với giá cao mới có lãi hoặc chịu giảm lợi nhuận, tăng tiêu thụ. Điều này gây áp lực với Công ty trong việc quản lý chặt chẽ chi phí, Hơn nữa Công ty có nhập về một số vật tư từ nước ngoài nên chi phí nguyên vật liệu lớn, từ đó cũng đội chi phí sản xuất của Công ty lên cao hơn…
Trong năm 2004 mặc dù có sự tăng lên trong đầu tư cho TSCĐ nhưng hiệu quả sử dụng TSCĐ và vốn cố định có bị giảm sút. Điều này là do công suất của máy móc thiết bị không phát huy hết tác dụng và việc sử dụng máy móc thiết bị không đồng bộ. Bên cạnh đó, giá trị còn lại của TSCĐ của Công ty còn rất thấp (phần lớn đã khấu hao gần hết) do đó ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm của Công ty. Điều này cho thấy mặc dù tăng về quy mô nhưng nhìn chung tình trạng kỹ thuật của TSCĐ vẫn chưa được cải thiện, công tác đổi mới dây chuyền thiết bị chưa đồng bộ và toàn diện làm cho hiệu suất sử dụng TSCĐ trong năm qua giảm xuống.
Phần III:
Một số kiến nghị và giảI pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện
I. Mục tiêu, phương hướng của Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện trong thời gian tới:
Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, nâng cao năng lực thiết bị hiện có.
Nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nhằm đạt được tỉ suất lợi tức cao và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Tăng năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
Cải tiến tổ chức sản xuất (từ cung cấp vật tư, sử dụng thiết bị, hoàn thiện khuôn mẫu, thiết kế) nhằm đẩy nhanh tiến độ sản xuất.
Đẩy mạnh công tác quảng cáo, nâng cao trình độ bán hàng của nhân viên bán hàng.
Tăng nhanh vòng quay vốn, quản lý tốt vấn đề dự trữ.
Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nghiên cứu phương án xuất khẩu, tiếp thị trong khuôn khổ các dự án bưu chính.
II. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.
Trong thời gian qua, Công ty đã mạnh dạn đổi mới và thay thế những tài sản hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, tuy nhiên cần phải nâng cao hơn hiệu quả công tác sử dụng vốn TSCĐ bằng các giải pháp sau:
2.1. Sử dụng tiết kiệm, hợp lý, tận dụng công suất máy móc.
- Trong thời đại hiện nay, với sự pháp triển như vũ bão của khoa học công nghệ, TSCĐ của Công ty cũng chịu ảnh hưởng không ít đó là việc hao mòn vô hình nhanh của tài sản cố định, giá cả thường xuyên biến động. Điều này làm cho nguyên giá và giá trị còn lại của tài sản cố định không còn chính xác, phản ánh sai lệch với giá trị hiện tại của chúng. Do vậy, hàng năm Công ty cần đánh giá, xác đinh giá trị thực của toàn bộ và của từng tài sản cố định nhằm quản ký chặt chẽ, đảm bảo tài sản cố định hoạt động đạt công suất cao nhất. Khi đó Công ty sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng tài sản cố định của mình.
Thực hiện đầu tư, nâng cấp và đổi mới tài sản cố định
- Nhưng phải chọn lọc cho phù hợp với Công ty, không nên tràn lan theo chiều rộng mà phải chú trọng đầu tư theo chiều sâu nhằm tận dụng được công suất thiết bị tiết kiệm chi phí vận hành máy móc. Trong thực tế, với vốn cố định của Công ty thuần tuý là TSCĐ việc tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh là việc làm vừa đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá, vừa mang tính chiến lược trong kinh doanh. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ mang lại khả năng cạnh tranh lớn cho Công ty. Song đi liền với việc đầu tư là việc đào tạo bồi dưỡng lại công nhân lành nghề để làm chủ các công nghệ hiện đại và sử dụng chúng đạt hiệu quả cao nhất
Để có được cơ cấu TSCĐ cho hợp lý, Công ty cần xử lý dứt điểm những TSCĐ không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi TSCĐ chưa sử dụng vào luân chuyển bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh của mình đây cũng là một cách tiết kiệm trong sử dụng TSCĐ
3.3. Thực hiện phân cấp quản lý TSCĐ
Thực hiện phân cấp quản lý TSCĐ cho phân xưởng sản xuất, nơi làm việc nhằm nâng cao trách nhiệm vật chất trong công tác quản lý, chấp hành nội quy, qui chế sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố định, giảm tối đa thời gian ngừng việc để sửa chữa hơn so với kế hoạch
3.4. Sử dụng hợp lý, tiết kiệm quỹ khấu hao cơ bản
Để có nguồn vốn đầu tư mua sắm thêm máy móc thiết bị, Công ty có một quĩ khấu hao đầy đủ và hoàn chỉnh. Quỹ khấu hao cơ bản là nguồn để bù đắp vào phần thiếu hụt trong tài sản cố định của Công ty, nó giúp Công ty chủ động trong công tác đổi mới thiết bị, máy móc mà không phải tăng nợ của Công ty, giảm được chi phí tín dụng, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Và như vậy việc xây dựng hoàn chỉnh quĩ khấu hao cơ bản là một điều rất quan trọng tức là:
+ Hàng năm, Công ty phải lập kế hoạch khấu hao theo tỷ lệ Nhà nước qui định và điều chỉnh kịp thời giá trị tài sản cố định khi có trượt giá để tính đúng, tính đủ khấu hao vào giá thành sản phẩm, bảo toàn vốn cố định
+ Thường xuyên đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định từ đó xác định phương pháp khấu hao hợp lý, phù hợp với từng loại tài sản, nên lựa chọn phương pháp khấu hao đảm bảo hợp lý thu hồi vốn nhanh nhưng không ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm, tránh làm thất thoát vốn.
3.5. Nâng cao năng lực, trình độ tay nghề của cán bộ công nhân viên
Sức lao động là một yếu tố không thể thiếu của bất cứ quá trình sản xuất kinh doanh nào. Chất lượng của sức lao động ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Do vậy, Công ty cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ công nhân viên có tinh thần làm chủ, có ý thức tự cường, có khả năng sáng tạo, biết gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của toàn Công ty.
- Với công nhân lao động: Việc áp dụng các công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất đòi hỏi người công nhân cũng phải không ngừng nâng cao tay nghề, nâng cao khả năng nhận thức để có thể làm chủ được máy móc của mình, sử dụng tối đa công suất máy móc góp phần nâng cao hiệu quả. Để đạt được điều này, Công ty cần căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của từng công nhân mà có kế hoạch đào tạo cho từng đối tượng, thông qua đào tạo mới, đào tạo lại, tổ chức cho các tổ lao động học tập lẫn nhau. Mặt khác, Công ty cần tiến hành trẻ hoá đội ngũ công nhân bằng cách tuyển công nhân mới, đối với những người nhiều tuổi hoặc không còn đủ sức lao động thì cần giải quyết cho nghỉ theo chế độ.
- Với cán bộ quản lý: Để đạt kết quả cao trong thời đại công nghiệp, Công ty cần có đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý không chỉ có nhiệt tình, quyết tâm cao mà còn phải có tri thức cao về khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế. Họ không những nắm được những vấn đề khoa học hiện đại mà còn thấy được xu hướng phát triển của chúng, xử lý nhạy bén các thông tin về thị trường. Công ty cần chú ý xây dựng các chính sách khuyến khích cán bộ, nhân viên quản lý không ngừng tự học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt: ngoại ngữ, vi tính, khả năng tiếp thị,... để từ đó hình thành nên một đội ngũ cán bộ lãnh đạo năng động, tự chủ, có khả năng dẫn dắt Công ty hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế cạnh tranh gay gắt hiện nay.
Kết luận
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ sản xuất kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Việc sử dụng TSCĐ sao cho có hiệu quả là một điều kiện bắt buộc đối với các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và phát triển. Do vậy, việc tìm ra những nguyên nhân tồn tại, thiếu sót để từ đó đưa ra những phương hướng giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ là một đòi hỏi đối với mọi doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Để đánh giá các mặt khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh từ giá thành, lợi nhuận, từ chất lượng sản phẩm đến năng lực cạnh tranh trên thị trường... cuối cùng đều được thể hiện trong các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp.
Với mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh và tối đa hoá lợi nhuận, Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện đã không ngừng nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư đổi mới dây truyền thiết bị máy móc nhằm tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Mặc dù sản phẩm của Công ty thường được tiêu thụ bởi các đơn vị cùng ngành nhưng không vì thế mà Công ty thụ động trong việc xúc tiến các biện pháp tiêu thụ sản phẩm, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của vốn, tăng doanh thu, từ đó đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, làm tốt nghĩa vụ với nhà nước. Tuy nhiên do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan nên Công ty vẫn gặp phải một số khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt đông sử dụng vốn nói riêng, đòi hỏi Công ty cần cố gắng hơn nữa trong thời gian tới.
Qua quá trình học tập tại trường và thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện em đã phần nào nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc quản lý và sử dụng TSCĐ.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS.Trần Quang Khải, khoa Tài chính - Kế toán Trường Đại học Quản Lý Kinh Doanh, Phòng Kế toán - Thống kê Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện - Hà Nội đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu và tạo điều kiện để cho em có thể thực hiện bài luận văn này./.
Hà Nộ i- 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV sua roi.doc