Đề tài Phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn lưu động và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông

Tài liệu Đề tài Phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn lưu động và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông: Lời nói đầu Trong quá trình đổi mới kinh tế, Đảng và nhà nước ta đã khẳng định “Kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước là lực lượng kinh tế chủ lực, các công ty nhà nước phải thực sự trở thành các tập đoàn kinh tế mạnh – là xương sống của nền kinh tế quốc dân". Hơn 10 năm qua kinh tế nhà nước đã được hình thành đồng bộ hơn. Trong đó vai doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò nhất định trongviệc tăng cường lực lượng kinh tế quốc dân và đang từng bước đổi mới, sắp xếp lại về mô hình tổ chức, cơ cấu sở hữu, kỹ thuật, công nghệ … Theo quan điểm hiện đại, mỗi doanh nghiệp được xem như một tế bào sống cấu thành nên toàn bộ nền kinh tế. Tế bào sống đó cũng cần phải có quá trình trao đổi chất với môi trường bên ngoài thì mới tồn tại và phát triển được, Vốn chính là đối tượng của quá trình trao đổi đó. Nó đảm bảo sự sống cho doanh nghiệp, nếu thiếu hụt thì doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, vốn là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ doa...

doc69 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn lưu động và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Trong quá trình đổi mới kinh tế, Đảng và nhà nước ta đã khẳng định “Kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước là lực lượng kinh tế chủ lực, các công ty nhà nước phải thực sự trở thành các tập đoàn kinh tế mạnh – là xương sống của nền kinh tế quốc dân". Hơn 10 năm qua kinh tế nhà nước đã được hình thành đồng bộ hơn. Trong đó vai doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò nhất định trongviệc tăng cường lực lượng kinh tế quốc dân và đang từng bước đổi mới, sắp xếp lại về mô hình tổ chức, cơ cấu sở hữu, kỹ thuật, công nghệ … Theo quan điểm hiện đại, mỗi doanh nghiệp được xem như một tế bào sống cấu thành nên toàn bộ nền kinh tế. Tế bào sống đó cũng cần phải có quá trình trao đổi chất với môi trường bên ngoài thì mới tồn tại và phát triển được, Vốn chính là đối tượng của quá trình trao đổi đó. Nó đảm bảo sự sống cho doanh nghiệp, nếu thiếu hụt thì doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, vốn là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ doanh nghiệp nào. Trong cơ chế cũ, các doanh nghiệp nhà nước được bao cấp hoàn toàn vềvốn và không cần phải quan tâm tới huy động và quản lý, sử dụng vốn. Nhưng khi chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp không còn được bao cấp vốn như trước nữa mà phải hoàn toàn tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm về hoạt đọng sản xuất kinh doanh. Do đó, hiệu quả của quản lý và sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng trở thành vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng với các doanh nghiệp. Nếu đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng có khả năng đem lại lợi nhuận cao thì doanh nghiệp không những bù đắp được chi phí mà còn tích luỹ được để tái sản xuất mở rộng. Vốn lưu động cũng là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, nó tham gia vào hầu hết các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn lưu động tác động mạnh mẽ tới khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy vậy, trên thực tế tình hình quản lý và sử dụng của các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập và chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế trong thời gian thực tập tại Xí nghiệp. Dưới sự quan tâm hướng dẫn tận tình của thầy giáo, cùng với sự giúp đỡ các cô chú trong Xí nghiệp XDGT em đã chọn đề tài "Phân tích tình hình quản lý, sử dụng vốn lưu động và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông" làm đề tài tốt nghiệp. Em xin trân trọng cảm ơn thầy giáo Nguyễn Tài Vượng và tập thể ban lãnh đạo Xí nghiệp XDCTGT đã hướng dẫn giúp đỡ chỉ bảo em trong thời gian làm đồ án tốt nghiệp, nhờ đó em đã hoàn thành đồ án tốt nghiệp theo đúng yêu cầu của nhà trường. Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung luận văn tốt nghiệp được trình bày theo 4 phần: Phần I : Giới thiệu tổng quan về Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông. Phần II: Cơ sở lý luận về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Phần III: Phân tích thực trạng quản lý, sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp. Phần IV: Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp. Phần I Giới thiệu tổng quan về Xí nghiệp Xây dựng công trình giao thông 1.1 – Lịch sử hình thành và phát triển của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông : Tên xí nghiệp: Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông. Thuộc công ty: Công ty vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông. Tên giao dịch quốc tế: ATC TRANNCO Địa chỉ của xí nghiệp: 117 - Đặng Tiến Đông - Đống Đa - Hà Nội. Điện thoại: ( 04) 5371021 - 5371022 – 5371023 - Fax: ( 04) 5371021 Theo các quyết định của Bộ giao thông vận tải số: 831QĐ/TCCB-LĐ ngày 5/4/1993 về thành lập doanh nghiệp nhà nước cho phép "Công ty vật tư kỹ thuật vận tải" được thành lập " Xí nghiệp xây dựng giao thông và du lịch dịch vụ". Xí nghiệp này lúc đầu đặt tại 61 Đại Cổ Việt - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Với các ngành nghề kinh doanh chủ yếu sau: + Xây dựng các công trình giao thông vừa và nhỏ. + Xây dựng các công trình giao thông công nghiệp và dân dụng với quy mô vừa và nhỏ. + Thực hiện dịch vụ du lịch phục vụ ngành giao thông vận tải. Theo công văn số 120 QĐ/NC ngày 28/4/1997 và Vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ - lao động và quyết định số 1127 QĐ/TCCB-LĐ Nay Xí nghiệp đổi tên " Xí nghiệp xây dựng giao thông và dịch vụ du lịch" thành " Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông" trực thuộc "Công ty vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ GTVT; đồng thời trụ sở của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông và du lịch dịch vụ hiện đang đóng tại Hà Nội nay được chuyển thành trụ sở của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông. Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông có các nhiệm vụ chủ yếu sau: + Xây dựng các công trình giao thông, công trình thuỷ lợi và san lấp mặt bằng. + Xây dựng các công trình dân dụng và phần bao che các công trình công nghiệp. + Sản xuất kinh doanh cấu kiện bê tông đúc sẵn. + Kinh doanh sản xuất vật liệu xây dựng. Quy mô và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp trong một số năm gần đây TT Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001 1 Giá trị sản lượng Tỷ đồng 22.5 38 55 70 2 Doanh thu Tỷ đồng 18.2 19.6 32 65 3 Nộp thuế Triệu đồng 480 850 1100 1900 4 Lợi nhuận Triệu đồng 180 230 418 1727 5 Thu nhập bình quân Nghìn đồng 750 900 1100 1300 Giá trị sản lượng Doanh thu Lợi nhuận Thu nhập bình quân Các lĩnh vực sản xuất kinh doanh: - Nhựa đường - Làm đường các loại: + Bê tông nhựa + Đường bán thâm nhập + Đường cấp phối + Mở đường mói + Đường bê tông - Xây dựng các công trình công nghiệp dân dụng Công nghệ sản xuất: Sơ đồ dây truyền công nghệ tổng quát thi công giải phóng mặt đường ( giải lớp cấp phối đá răm ) : Xe ben à Máy rải đá nhựa à Lu bánh thép 6T à Lu nung 14T à Lu bánh thép 14T. Trình tự và công nghệ thi công. 1. Chuẩn bị nền cho lớp móng. 2. Vật liệu 3. Thử nghiệm: rải thử vật liệu, đầm nén, đo đạc đảm bảo dung sai, thí nghiệm. (dùng các thiết bị thi công là: 1 máy rải VOLGHEL, 3 máy lu tĩnh, 6 ô tô tự đổ 5 -7 tấn, một máy lu lốp 14T, 1 lu rung 15T. Nhân lực bậc 3-3,5/7 là 35 người. 4. Thi công lớp móng cấp phối đá dăm ( Pase ) -> ( giống thử nghiệm ) 5. Thi công cấp phối đá dăm lớp trên: + Bảo dưỡng lớp cấp phối dưới ( tưới nhựa đường hoặc nhựa apha dầu trên mặt ) + Đo đạc thí nghiệm + Đảm bảo giao thông trong quá trình thi công Các thiết bị thi công : + 1 máy rải VOLGHEL + 1 máy phun nhựa + 3 máy lu tĩnh 6 - 10 T + 5 ô tô đổ 5 - 7 T + 1 máy lu lốp 14 T + 1 lu rung 14 T Nhân lực cần: 40 người bậc 3 -3,5/7. 6. Thi công lớp cấp phối đá dăm láng nhựa 3,5kg/m2. Sau khi hoàn thành 2 lớp ( bước 4 và 5 ) láng 1 lớp nhựa nóng tiêu chuẩn 1,5kg/m2 -> sau đó rải vật liệu cho đều -> lèn ép bằng lu 6 - 8T, 6 - 8 lượt/điểm -> sau khi rải đá 10 - 20mm, láng lớp nhựa thứ 2 tiêu chuẩn 2kg/m2 và rải đá đều. Thi công lớp móng dưới xong thi công ngay lớp trên. Trong quá trình thi công phải đảm bảo giao thông và các tiêu chuẩn AASHTO. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp thuộc dạng cơ cấu tổ chức quản lý trực tuyến - chức năng với hai cấp quản lý là: cấp doanh nghiệp và cấp tổ. Bộ máy quản lý của Xí nghiệp được mô tả qua sơ đồ sau : sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý xí nghiệp Giám đốc xí nghiệp Phó giám đốc Phó giám đốc Phòng kế hoạch Phòng kỹ thuật Phòng kế toán– tài vụ Phòng tổ chức hành chính Phòng kinh doanh Phòng thiết bị Các tổ công nhân thi công công trình dân dụng Các tổ công nhân thi công trình xây dựng giao thông Tổ thanh toán công nợ Tổ công nhân vận hành thiết bị Đội xe Đội sửa chữa * Chức năng nhiệm vụ cơ bản của các bộ phận quản lý: - Giám đốc Xí nghiệp : là người chịu trách nhiệm trước Tổng công ty, trước pháp luật nhà nước về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong Xí nghiệp, phụ trách chung quản lý toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, các hoạt động cụ thể như: + Công tác cán bộ lao động, tiền lương. + Công tác kế toán tài chính, thống kê. + Công tác kế hoạch vật tư tiêu thụ. + Quản lý công tác kỹ thuật… - Phó giám đốc: là người giúp giám đốc Xí nghiệp điều hành, quản lý các lĩnh vực như: phụ trách các dự án, sản xuất, đấu thầu, công tác sản xuất kỹ thuật thi công xây lắp, công tác sáng kiến và cải tiến kỹ thuật công tác an toàn và bảo hộ lao động. - Phòng kế hoạch: giúp giám đốc Xí nghiệp điều hành các công táckinh tế kế hoạch, công tác theo dõi hạch toán kế toán, quá trình kinh doanh vật tư, xuất nhập khẩu, công tác thu vốn và giải quyết công nợ, công tác văn phòng và đời sống. Đồng thời thay mặt giám đốc khi giám đốc đi vắng. - Phòng kỹ thuật xây lắp: giúp giám đốc công ty công tác quản lý xây lắp, kiểm tra giám sát kỹ thuật, chất lượng khối lượng công trình mà công ty nhận thầu, tổ chức hội đồng nghiệm thu công trình… - Phòng tài chính kế toán: Tham mưu cho giám đốc điều hành dự án về kế hoạch thu chi tài chính, cập nhật chứng từ theo dõi và kiểm tra các chế độ tài chính kế toán các đội xây dựng, cấp vỗn vay thanh toán khối lượng hàng tháng đối với các đội sau khi được chủ công trình duyệt, tính tiền lương cho nhân viên và các đội xây dựng. - Phòng kinh doanh: giúp việc cho công ty về việc nhập khẩu máy móc vật tư thiết bị phụ tùng phục vụ cho các đội thi công đảm bảo tiến độ thi công. Ngoài ra lập đại lý bán lẻ, đại lý giao nhận… - Phòng tổ chức hành chính: Giúp việc giám đốc các hoạt động: + Tổ chức cán bộ lao động tiền lương + Soạn thảo quy chế tuyển dụng và sưu dụng lao động + Đào tạo, bồi dưỡng tuyển dụng điều phối và sử dụng hợp lý nhân lực + Giải quyết chính sách về lao động + Công tác hồ sơ nhân sự, bảo vệ an toàn nội bộ. + Tổ chức thực hiện đúng đắn các chế độ chính sách của nhà nước đối với cán bộ công nhân viên chức về công tác bảo hộ lao động, y tế sức khoẻ… - Các đội thi công: thực hiện các nhiệm vụ do giám đốc điều hành dự án giao và chịu trách nhiệm về kỹ thuật, chất lượng, tiến độ công trình. Các đội trưởng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện dự án, đảm bảo tiến độ chất lượng công nghệ. Tiếp nhận và quản lý vật tư, kiểm tra đôn đốc hàng ngày quá trình thi công, đúng thiết kế đảm bảo chất lượng công trình để có các thông tin phản hồi lên giám đốc. Mỗi phòng ban có chức năng và nhiệm vụ khác nhau nhưng mục đích chung là tham mưu cho giám đốc để đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn và hợp lý nhất. 1.2- Tình hình sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp : 1.2.1- Tình hình sử dụng vật tư : Đây là Xí nghiệp xây lắp nên cật tư của Xí nghiệp cả về số lượng và chủng loại luôn luôn được định mức theo qui định của nhà nước trước khi đưa vào thi công. Xí nghiệp sử dụng rất nhiều các loại nguyên vật liệu trong quá trình thi công, tuỳ theo đặc điểm của từng loại công trình mà nguyên vật liệu được sử dụng và định mức riêng. Tuy nhiên trên thực tế thi công thì một số nguyên vật liệu người ta áp dụng phương pháp kinh nghiệm và dựa vào kinh nghiệm quản lý vật tư để định mức, dựa vào sản lượng sản xuất và lượng tiêu hao nguyên vật liệu của các công trình đã hoàn thành… Xí nghiệp thuộc ngành xây dựng cơ bản do vậy sản phẩm làm ra là đơn chiếc, do đó việc tính nhu cầu nguyên vật liệu khác với các đơn vị kinh doanh khác là tính cho từng công trình chứ không tính nhu cầu cả năm. Vì vậy kế hoạch nguyên vật liệu được lập ra cho từng công trình. Tuy nhiên do đặc điểm của từng công trình nên nguyên vật liệu có thể do Xí nghiệp thu mua và cung cấp cho các đội thi công hoặc các đội thi công trực tiếp mua nguyên vật liệu. 1.2.2- Tình hình tài sản cố định : Tài sản cố định của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông chủ yếu là cơ sở vật chất, máy móc thiết bị nó chiếm tỷ trọng tương đối lớn và đóng vai trò trong việc phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Cũng như bao doanh nghiệp khác Xí nghiệp XDCTGT có cơ cấu tài sản cố định gồm : TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, TSCĐ thuê tài chính. Tình hình TSCĐ của Xí nghiệp có thể mô tả ở bảng sau: Tổng hợp TSCĐ đang sử dụng của Xí nghiệp năm 2001 Tên TSCĐ Nguyên giá Khấu hao năm Tính đến 30/06/01 Tính đến 30/09/01 Khấu hao đã trích Giá trị còn lại Khấu hao đã trích Giá trị còn lại I. TSCĐ Hữu hình 51.286.097.169 7.456.062.492 12.069.958.517 39.162.485.050 13.834.110.248 37.451.986.921 - Đất 6.860.000.000 - Nhà cửa vật kiến trúc 5.031.102.000 238.644.080 280.500.000 4.750.602.000 340.161.020 4.690.940.980 - Máy móc thiết bị 30.071.534.185 5.608.338.566 9.173.314.184 20.898.220.001 10.493.426.517 19.578.107.668 - Phương tiện vận tải 9.026.888.540 1.553.210.583 2.532.936.999 6.493.951.541 2.906.811.999 6.120.076.541 - Thiết bị dụng cụ quản lý 296.572.444 55.869.263 83.207.334 159.711.508 93.710.712 202.861.732 II. TSCĐ vô hình 24.549.000 7.244.833 24.549.000 0 24.549.000 0 III. TSCĐ thuê tài chính 1.996.577.350 332.762.892 529.091.965 1.467.485.385 612.282.965 1.384.294.385 Tổng cộng 53.307.223.519 7.796.070.217 12.623.599.482 40.629.970.435 14.470.942.213 38.836.281.306 Đánh giá tình hình tài sản cố định: Xí nghiệp giao TSCĐ cho các đơn vị sản xuất kinh doanh sử dụng cả về mặt hiện vật và giá trị. Xí nghiệp đề ra chế độ thưởng phạt rõ ràng để nâng cao chất lượng trong quản lý chấp hành nội qui, qui chế bảo dưỡng sửa chữa TSCĐ để hạn chế mức hao mòn. Xí nghiệp định kỳ sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị để phát huy được tối đa công suất của máy móc thiết bị. Xí nghiệp áp dụng mức tính khấu hao cho từng tháng là: Từ bảng báo cáo trên cho ta thấy rằng mức độ hao mòn TSCĐ của Xí nghiệp trong quý III/2001 tăng 4% so với quý II/2001. Xí nghiệp đã chú trọng đầu tư vào tài sản cố định, mua sắm nhiều máy móc thiết bị, công nghệ mới, mở nhiều văn phòng đại diện ở các nơi. Xí nghiệp luôn có những biện pháp tích cực quan tâm đến việc quản lý và sử dụng tài sản cố định. Xí nghiệp đã làm tốt công tác phân công bố trí nhân lực ở các đội - các phòng ban, qua đó phản ánh kịp thời và đầy đủ chính xác tình hình TSCĐ của Xí nghiệp để theo dõi và trích khấu hao, quản lý sử dụng sao cho có hiệu quả cao nhất. 1.2.3- Tình hình tài chính của Xí nghiệp : Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gưong phản ánh trung thực nhất toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Tài chính là công cụ quan trọng nhất để quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .Thông qua việc tạo lập và huy động tài chính có tác dụng tích cực hoặc tiêu cực đến quá trinh sản xuất, vì vậy nó có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy quả trình sản xuất phát triển. Tình hình tài chính của Xí nghiệp trong năm 2001 thông qua báo cáo tài chính sau : Bảng cân đối kế toán năm 2001 Đơn vị : nghìn đồng Chỉ tiêu Số đầu kì Số cuối kì Chênh lệch ± % Tổng tài sản 88.892.956 96.700.000 7.807.044 8.78 A. TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 40.433.379 53.000.000 12.566.621 31.07 I. Tiền 1.290.817 1.250.000 -40.817 3.16 II. Các khoản phải thu 21.394.086 29.750.000 8.355.914 39.1 III. Hàng tồn kho 14.182.966 20.000.000 5.817.034 41 IV. TSLĐ khác 3.565.510 2.000.000 -1.565.510 43.91 B. TSCĐ và đầu tư dài hạn 48.459.577 43.700.000 -4.759.577 9.82 - Giá trị còn lại 48.451.215 43.656.000 -4.795.215 9.9 - Chi phí XDCB dở dang 8.362 44.000 35.638 426.2 Tổng nguồn vốn 88.892.956 96.700.000 7.807.044 8.78 I. Nợ phải trả 45.087.030 52.500.000 7.412.970 16.4 - Nợ ngắn hạn 43.138.000 43.600.000 462.000 1.08 - Nợ dài hạn 1.913.000 8.863.970 6.950.970 363.4 - Nợ khác 36.030 36.030 0 II. Vốn chủ sở hữu 43.805.487 44.200.000 394.513 0.9 Nhìn vào bảng cân đối kế toán ta thấy : Về tài sản lưu động của Xí nghiệp tăng 8.78% hay tăng 7.807.044.000 đồng do : tiền giảm 3.16%, các khoản phải thu tăng 39.1%, hàng tồn kho tăng 41%, TSLĐ khác giảm 43.91%. Trong đó các khoản phải thu tăng, đây là một vấn đề mà Xí nghiệp cần tập trung thu nợ, tránh nợ khó đòi dẫn đến vốn bị chiếm dụng trong khi nợ phải trả lại chiếm tỷ trọng lớn. Tài sản cố định giảm 9.82% chủ yếu là do khấu hao tài sản cố định. Nguồn vốn của Xí nghiệp đang sử dụng chủ yếu là vay ngắn hạn ( vay ngắn hạn chiếm 48% tổng nguồn vốn ) do vậy mức độ rủi ro rất cao. 1.3 – Những thuận lợi, khó khăn và hướng phát triển : Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông là một doanh nghiệp còn non trẻ đang trên đà phát triển, tuy nhiên qua số liệu một vài năm qua cho thấy doanh thu, lợi nhuận, thu nhập bình quân đầu người và đặc biệt là tài sản của Xí nghiệp tăng lên nhanh chóng. Xí nghiệp đã tự khẳng định được mình và không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động. Được các nhà đầu tư đánh giá cao về chất lượng và tiến độ của các công trình mà Xí nghiệp thi công. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của Xí nghiệp nhiệt tình, gắn bó với công việc, trình độ nghiệp vụ, tay nghề ngày một cao. Thu nhập của cán bộ công nhân viên ổn định, đời sống luôn được cải thiện ngày một tốt hơn. Nhưng bên cạnh đó Xí nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do Xí nghiệp là một doanh nghiệp còn non trẻ nên còn rất nhiều hạn chế trong khi tham gia đấu thầu các công trình. Ngoài ra Xí nghiệp cần một lượng vốn rất lớn để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị để mở rộng phạm vi kinh doanh nên rất cần thiết được nhà nước bổ sung vốn, các ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho Xí nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi. Nhận thức được vấn đề đó, Xí nghiệp vẫn đang từng bước khắc phục và khẳng định vị trí của mình luôn đề ra kế hoạch, biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và hướng phát triển trong tương lai: - Luôn hoàn thành kế hoạch đặt ra. - Tăng cường các khâu quản lý. - Tăng cường sử dụng tối đa tài sản. - Quản lý và sử dụng hợp lý nguồn vốn. - Đầu tư trọng điểm các công trình có lợi nhuận cao. - Liên doanh liên kết, hợp tác với các đơn vị khác… 1.4- Lựa chọn đề tài tốt nghiệp: Là một doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng cơ bản nên toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính của Xí nghiệp đều được tổ chức phù hợp với quy trình công nghệ xây dựng rất phức tạp. Các sản phẩm xây dựng của Xí nghiệp thường là các công trình hay hạng mục công trình có giá trị lớn, có tính đơn chiếc, được xây dựng cố định. Phương thức hoạt động chủ yếu của Xí nghiệp là hình thức đấu thầu công trình vì vậy kế hoạch tài chính, kế hoạch sản xuất đều được xây dựng trên cơ sở các hợp đồng trúng thầu. Do đặc điểm kinh tế kỹ thuật trên, Xí nghiệp luôn phải đứng trước một vấn đề còn nổi cộm là nhu cầu vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng rất lớn cho xây dựng cơ bản, hàng tỷ đồng trên một công trình. Trong khi thời gian thi công bị kéo dài, vốn không những bị ứ đọng lâu, không sinh lãi trong suốt quá trình thi công mà thời gian thu hồi vốn còn rất lau. Do đó hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp khó đạt được ở mức cao. Trong thực tế Xí nghiệp thường hay huy động vốn một số lượng lớn vốn vay từ ngân hàng và các đối tác kinh doanh. Chi phí trả lãi rất lớn đã trở thành một trong những yếu tố làm giảm lợi nhuận của Xí nghiệp. Trước thực tế này Xí nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc hạn chế các tác động tiêu cực của nó, nắm bắt và phát huy những lợi thế để không ngừng lớn mạnh đứng vững trên thị trường đầy biến động và cạnh tranh gay gắt. Chính vì những lí do này mà đề tài tốt nghiệp của tôi đã nghiên cứu tìm hiểu về tình hình quản lý, sử dụng vốn lưu động và đề xuất biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông. Phần II Cơ sở lý luận về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động 2.1- Vốn sản xuất, vốn lưu động và vai trò của vốn lưu động trong doanh nghiệp: Vốn là yếu tố không thể thiếu được của mọi quá trình kinh doanh. Do vậy quản lý và sử dụng vốn hay tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng của quản lý tài chính. Mục đích quan trọng nhất của quản lý và sử dụng vốn là đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất. Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, nó gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Vốn là tiền, nhưng tiền chưa hẳn là vốn, tiền trở thành vốn khi nó hoạt động trong lĩnh vực sản xuất lưu thông. Khái niệm vốn sản xuất trong doanh nghiệp công nghiệp là hình thái giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch vào việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch của doanh nghiệp. Vốn sản xuất được chia thành hai bộ phận, là vốn cố định và vốn lưu động. Tỷ trọng của hai loại vốn này là tuỳ thuộc vào độ dài của chu kỳ sản xuất , trình độ trang thiết bị kỹ thuật, trình độ quản lý và quan hệ cung cầu hàng hoá. Nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp là phải xác định một cơ cấu vốn hợp lý, phải quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả vốn sản xuất, phải chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính của nhà nước. Nhà nước đã có chính sách bắt buộc các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để bảo toàn và phát triển vốn. 2.1.1- Khái niệm vốn lưu động: Để sản xuất kinh doanh, ngoài vốn cố định các doanh nghiệp còn phải dùng vốn tiền tệ để mua sắm các đối tượng lao động dùng vào sản xuất. Ngoài số vốn dùng trong phạm vi sản xuất, doanh nghiệp còn cần một số vốn trong phạm vi lưu thông. Đó là vốn nằm ở khâu sản phẩm chưa tiêu thụ, tiền để chuẩn bị mua sắm các đối tượng lao động mới và trả lương cho công nhân viên trong doanh nghiệp… Như vậy, vốn lưu động của doanh nghiệp là toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn trong lưu thông. Vốn lưu động thể hiện dưới hai hình thức: + Hiện vật gồm: nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm. + Giá trị: là biểu hiện bằng tiền, giá trị của nguyên vật liệu bán thành phẩm, thành phẩm và giá trị tăng thêm của việc sử dụng lao động trong quá trình sản xuất, những chi phí bằng tiền trong quá trình lưu thông. Trong qúa trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên thay đổi từ hình thái vật chất này sang hình thái vật chất khác : Tiền -- Dự trữ sản xuất -- Vốn trong sản xuất -- Thành phẩm -- Tiền Do hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, xen kẽ nhau, chu kỳ này chưa kết thúc, đã bắt đầu chu kỳ sau, nên vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên tồn tại trong tất cả các hình thức vật chất để thực hiện mục đích cuối cùng của sản xuất là tiêu thụ sản phẩm. Quá trình tiêu thụ gồm quá trình xuất hàng và thu tiền. Hai quá trình này không phải lúc nào cũng tiến hành cùng một lúc… Thêm nữa, các chứng từ thành toán giữa hai bên còn phải thông qua ngân hàng, cơ quan bưu điện… và chỉ khi nào bên bán thu được tiền hay có giấy báo đã thu được tiền của ngân hàng thì quá trình sản xuất và tiêu thụ đó mới được hoàn thành. Đến đây, vốn lưu động mới thực hiện được một vòng chu chuyển của mình. 2.1.2- Vai trò và tác dụng của vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh: Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải có vốn để thực hiện mục đích kinh doanh của mình, khi đã có vốn doanh nghiệp phải biết quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh, căn cứ vào tính chất sử dụng và hình thái biểu hiện, người ta chia vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh thành hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lưu thông phân phối, vốn lưu động chiếm tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động được vận động theo chu kỳ khép kín. Đơn vị nào kinh doanh có hiệu quả là phải luôn luôn tìm ra các biện pháp làm giảm ngắn thời gian vận động của một chu kỳ và tạo ra T > T' . Tức là nguồn vốn của đơn vị đó luôn được tăng trưởng, kinh doanh có hiệu quả và thu được lợi nhuận tối đa. Vốn đối với mỗi doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng nhưng không phải bất cứ doanh nghiệp nào có đủ vốn là hoạt động có hiệu quả. Có những doanh nghiệp đi đến phá sản, có những doanh nghiệp đi lên từ những đồng vốn ít ỏi… Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là các doanh nghiệp quản lý sử dụng vốn như thế nào cho hợp lý, có hiệu quả. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay nhu cầu về vốn là cần thiết phải có đối với các doanh nghiệp, đó là số vốn tối thiểu nhằm dự trữ các tài sản lưu động phục vụ cho sản xuất lưu thông, trên cơ sở đó nguồn cung cấp vốn lưu động các doanh nghiệp thường là : - Nguồn vốn lưu động từ ngân sách. - Nguồn vốn lưu động từ bổ sung - Nguồn vốn lưu động từ liên doanh, liên kết. - Nguồn vốn lưu động từ tín dụng ngắn hạn. 2.1.3- Phân loại vốn lưu động: Như khái niệm đã nêu, vốn lưu động là hình thái giá trị của nhiều yếu tố tạo thành, mỗi yếu tố có tính năng tác dụng riêng. Để lập kế hoạch quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, người ta tiến hành phân loại vốn lưu động. Có nhiều cách phân loại vốn lưu động: 2.1.3.1.Căn cứ vào nguồn hình thành ta có: a. Vốn lưu động tự có: là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: vốn ngân sách nhà nước cấp cho doanh nghiệp nhà nước, vốn tự hình thành, vốn cổ phần, vốn chủ sở hữu… b. Nợ tích luỹ ngắn hạn ( vốn lưu động coi như tự có ): là vốn tuy không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, nhưng do chế độ thành toán, doanh nghiệp có thể và được phép sử dụng hợp pháp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình ( Tiền lương, BHXH chưa tính đến kè trả, nợ thuế, tiền điện, tiền nước chưa đến hạn thanh toán, các khoản phí tổn tính trước …) c. Vốn lưu động đi vay : * Vay các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác. * Vay các đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội và các các nhân… Như vậy việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh của mình. Từ góc độ quản lý tài chính, mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó, doanh nghiệp cần xem xét nguồn tài trợ tối ưu để giảm chi phí sử dụng vốn của mình. 2.1.3.2. Căn cứ vào biện pháp quản lý : Vốn lưu động được chia ra thành: a. Vốn lưu động định mức : gồm vốn lưu động trong sản xuất, vốn thành phẩm, cần tiến hành định mức kế hoạch để có cơ sở quản lý vốn; đảm bảo bố trí hợp lý vốn lưu động trong từng giai đoạn sản xuất - kinh doanh, tạo cơ sở xác định nhu cầu vốn trong năm kế hoạch. Định mức vốn lưu động là xác định số vốn tối thiểu, cần thiết, thường xuyên để hoàn thành kế hoạch sản xuất - kinh doanh một cách tiết kiệm nhất. Những phần vốn phải tiến hành định mức gọi là vốn lưu động định mức ( ví dụ vốn trong dự trữ sản xuất, vốn trong sản phẩm ) b. Vốn lưu động không định mức: là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh nhưng không có căn cứ tính toán định mức và cũng không cần thiết để định mức. 2.1.3.3. Căn cứ vào các giai đoạn luân chuyển của vốn lưu động: Người ta chia vốn lưu động ra thành : - Vốn trong dự trữ sản xuất. - Vốn trong sản xuất. Vốn trong lĩnh vực lưu thông : như vốn trong thành phẩm, vốn trong thanh toán, các vốn bằng tiền. Vốn lưu động Vốn lưu động trong sản xuất Vốn lưu động trong lưu thông Vốn trong dự trữ sản xuất Vốn trong sản xuất Vốn trong thành phẩm Vốn tiền tệ Vốn trong thanh toán Vốn lưu động định mức Vốn lưu động không định mức 2.1.4- Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố hợp thành: a. Kết cấu vốn lưu động: Kết cấu vốnlưu động phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp. Kết cấu vốn lưu động của các doanh nghiệp khác nhau thì khác nhau. Vì vậy việc phân tích kết cấu vốn lưu động cũng không giống nhau. Theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý có hiệu quả phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác thông qua việc thay đổi kết cấu vốn lưu động của mỗi doanh nghiệp trong những thời kỳ khác nhau có thể thấy được những biến đổi tích cực hoặc những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý, sử dụng vốn lưu động của từng doanh nghiệp. Kết cấu của vốn lưu động có thể chia ra thành 4 loại chính : Vốn bằng tiền: gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển. ở các nước phát triển thị trường chứng khoán thì chứng khoán ngắn hạn cũng được xếp vào khoản mục này. Vốn bằng tiền được sử dụng để trả lương cho công nhân, mua sắm nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuấ, trả nợ… Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không lãi. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp việc giữ tiền mặt là cần thiết. Khi doanh nghiệp giữ đủ lượng tiền mặt cần thiết thì doanh nghiệp không bị lãng phí vốn tiền mặt. Vừa có được lợi thế trong kinh doanh như: - Được hưởng lợi thế chiết khấu nếu có đủ tiền thanh toán ngay các khoản chi mua hàng, dịch vụ, nguyên vật liệu. - Giúp doanh nghiệp duy trì tốt các chỉ số ngắn hạn, nhờ đó doanh nghiệp có thể mua hàng hoá với điều kiện thuận lợi và được hưởng hạn mức tín dụng rộng rãi. - Giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán, chi trả. - Giúp doanh nghiệp có tiền mặt để đáp ứng kipự thời nhu cầu chỉ tiêu khẩn cấp như đình công, hoả hoạn, chiến dịch Marketing của đối thủ cạnh tranh, khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh. Đầu tư ngắn hạn: doanh nghiệp có thể sử dụng một phần vốn của mình để đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn, đầu tư ngắn hạn như góp vốn liên doanh ngắn hạn…nhằm mục tiêu sinh lợi. Đặc biệt các khoản đầu ta chứng khoán ngắn hạn của doanh nghiệp còn có ý nghĩa là bước đệm quan trọng trong việc chuyển hoá giữa tiền mặt và các tài sản có tính lợi kém hơn. Điều này giúp doanh nghiệp sinh lợi tốt hơn và huy động được một lượng tiền đủ lơn, kịp thời đảm bảo nhu cầu thanh khoản. Các khoản phải thu: Cạnh tranh là cơ chế của nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cơ chế cạnh tranh cần phải nỗ lực vận dụng các chiến lược cạnh tranh đa dạng, từ cạnh tranh giá đến cạnh tranh phi giá cả như hình thức quảng cáo, các dịch vụ trước, trong và sau khâu bán hàng. Mua bán chịu cũng là hình thức cạnh tranh khá phổ biến và có ý nghĩa quan trọng với các doanh nghiệp. Nó đem lại những lợi thế sau: - Tăng doanh thu bán hàng. - Giảm chi phí tồn kho hàng hoá. - Tận dụng tối đa công suất thiết bị và tài sản cố định, hạn chế hao mòn vô hình. - Tạo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên. - Bán được hàng hoá với giá cao hơn do trong giá bán bao hàm cả lãi suất bán chịu. Tuy nhiên hình thức này cũng tạo ra những bất lợi sau: - Tăng chi phí sản xuất kinh doanh do tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp cho sự thiếu hụt ngân quỹ. - Rủi ro không đòi được. Nói chung các khoản phải thu quá lớn hay quá nhơ đều không có lợi cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có biện pháp kịp thời điều chỉnh. Hàng tồn kho: Trong quá trình sản xuất, việc tiêu hao đối tượng lao động diễn ra thường xuyên liên tục, nhưng việc cung ứng nguyên vật liệu thì đòi hỏi phải cách quãng, mỗi lần chỉ mua vào một lượng nhất định. Do đó, doanh nghiệp phải thường xuyên có một lượng lớn nguyên vật liệu, nhiên liệu… nằm trong quá trình dự trữ, hình thành nên khoản mục vốn dự trữ. Vốn dự trữ là biểu hiện bằng tiền của nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, nửa thành phẩm, bao bì, vật liệu bao bì… Loại vốn này thường xuyên chiếm tỷ trọng tương đối trong vốn lưu động. 2.2- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp : 2.2.1 - Hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng: Mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là cung cấp sản phẩm, lao động dịch vụ cho xã hội nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Để đạt được mục đích đó các doanh nghiệp phải phối hợp tổ chức thực hiện đồng bộ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong đó, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng trong sản xuất kinh doanh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong cơ chế cũ, các doanh nghiệp nhà nước coi nguồn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với " cho không" nên tìm mọi cách để xin được nhiều vốn, vì tiền không phải mua mà được phát nên khi sử dụng vốn doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, nếu kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước chịu và trang trải mọi thiếu hụt. Trong cơ chế thị trường hiện nay, các khoản bao cấp về vốn từ ngân sách nhà nước không còn nữa, doanh nghiệp phải tự trang trải mọi chi phí và phải tìm mọi cách kinh doanh sao cho có lãi, phải tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Do đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý, sử dụng đồng vốn mặt cách chặt chẽ hơn. Mặt khác việc quản lý và sử dụng đồng vốn của doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn khác trước là doanh nghiệp phải bảo toàn vốn, đầu tư mở rộng quy mô phát triển sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông nói riêng và mọi doanh nghiệp nói chung đều phải có mục tiêu đem lại lợi nhuận cao nhất. Đó chính là kết quả bằng tiền do các hoạt động đầu tư và kinh doanh đem lại. Nhưng kết quả trên chỉ được coi là có hiệu quả khi giá trị thu được phải lớn hơn số vốn đầu tư bỏ ra sau khi đã quy chuẩn vốn về cùng một thời điểm. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn thu được của năm sau cao hơn năm trước. Hiệu quả trong các ngành kinh tế nói chung và ngành xây lắp nói riêng được thể hiện ở hai mặt. Hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp. Hiệu quả trực tiếp là mang lại lợi ích trực tiếp cho người kinh doanh. Hiệu quả gián tiếp là xét trên phạm vi chung của nền kinh tế hoặc một vùng, một lãnh thổ. Hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp của vốn nhìn chung là thống nhất, song cũng có trường hợp mâu thuẫn, đối lập nhau. Thường là khi sử dụng vốn vào những dự án, mục đích cụ thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhưng hiệu quả kinh doanh lai không đạt được. Hiệu quả trực tiếp có sức hút mạnh hơn, bỏ một đồng vốn ra kinh doanh thì người ta đã dự tính rằng họ sẽ thu được bao nhiêu lợi nhuận. Còn với lợi ích gián tiếp có sức hút kém hơn chưa thấy được lợi ích của nó, còn lợi ích cho nền kinh tế thì khó nhận biết. Ngành xây lắp là ngành có kết cấu hạ tầng lớn, các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao trong vài năm gần đây, luôn mở rộng quy mô sản xuât, duy trì năng lực về vốn, trên thực tế không phải lúc nào cũng làm ăn có lãi. Những công trình thi công ở vùng sâu, vùng xa… việc triển khai thi công rất phức tạp và tốn kém, giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn nên không tránh khỏi thất thoát về vốn thi công. Tuy nhiên, không hcỉ có Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông tham gia sản xuất kinh doanh mà còn có nhiều công ty, Xí nghiệp xây dựng có tầm cỡ đang cạnh tranh giành giật lấy từng công trình. Do vậy, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là phải gắn kết hiệu quả trực tiếp với hiệu quả gián tiếp. Chính vì lý do này mà Xí nghiệp cần tính toán sử dụng vốn để lựa chọn công trình, hạng mục công trình có khả năng sinh lời cao, để ưu tiên đầu tư có trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. 2.2.2- Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng: Vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luân chuyển liên tục, không ngừng từ hình thái này sang hình thái khác. trong quá trình vận động đó vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng chịu nhiều ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng: Xét về mặt khách quan, hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau: - Do tác động của nền kinh ets có lạm phát, sức mua của đồng tiền bị giảm sút dẫn đến sự tăng giá các loại vật tư hàng hoá. Vì vậy nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại tài sản đó thì sẽ làm cho vốn của doanh nghiệp mất dần theo tốc độ trượt giá của tiền tệ. - Do những rủi ro bất thường trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải. Trong cơ chế thịi trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia vào hoạt động, cùng cạnh tranh, khi thị trường tiêu thụ không ổn định, sức mua của thị trường có hạn càng làm tăng thêm khả năng rủi ro của doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải rủi ro do thiên nhiên gây nên như: hoả hoạn, lũ lụt… mà doanh nghiệp khó có thể lường trước được. Ngoài các nhân tố khách quan trên còn có rất nhiều các nhân tố chủ quan do chính bản thân doanh nghiệp tạo nên, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng như: - Do xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn sản xuất kinh doanh, đều ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng của doanh nghiệp. - Lựa chọn phương án đầu tư là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ chất lượng tốt, mẫu mã đẹp … được thị trường chấp nhận thì tất yếu hiệu quả thu về sẽ lớn và ngược lại. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng vốn ứ đọng, hiệu quả sử dụng vốn thấp. - Do cơ cấu vốn đầu tư không hợp lý cũng như nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Bởi vì vốn đầu tư vào các tài sản không cần sử dụng chiếm tỷ trọng lớn thì không những nó không phát huy tác dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn bj hao hụt, mất mát dần làm hiệu quả sử dụng vốn giảm. - Do việc sử dụng lãng phí vốn, nhất là vốn lưu động trong quá trình mua sắm, dự trữ: mua các loại vật tư không phù hợp với quy trình sản xuất, không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng quy định, không tận dụng hết được các loại phế liệu, phế phẩm cũng như tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Do trình độ quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém, hoạt động sản xuất kinh doanh thu lỗ kéo dài làm cho vốn bị thâm hụt sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng bị suy giảm. 2.2.3- Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Khi nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn lưu động chủ yếu ta đánh giá trên góc độ: hiệu suất sử dụng đồng vốn, nghĩa là trong kế hoạch một đồng vốn tạo ra bao nhiêu đồng giá trị hàng hoá, bao nhiêu đồng lợi nhuận và hiệu suất sử dụng cảu nó. a. Chỉ tiêu trực tiếp: là những chỉ tiêu phản ánh khă năng sản xuất của vốn lưu động. Một đồng vốn có khả năng đem lại nhiều đồng lợi nhuận thì việc quản lý và sử dụng vốn đó được coi là có hiệu quả. Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra thu được mấy đồng doanh thu thuần. Sức sinh lợi của vốn lưu động, cho một đồng vốn lưu động bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hai chỉ tiêu này càng cao càng tốt và chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. b. Chỉ tiêu gián tiếp : là những chỉ tiêu góp phần tăng khả năng sinh lợi của vốn lưu động một cách gián tiếp. * Chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn lưu động trong kỳ ( thường là 1 năm ) : VN công thức được tính như sau: ( vòng/kỳ) Số vòng quay vốn lưu động trong kỳ càng lớn, trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao. * Kỳ luân chuyển bình quân NV ( số ngày trung bình của một vòng luân chuyển ) (ngày/vòng) Nếu kỳ tính toán là một năm thì: ( ngày/vòng ) Số dư bình quân vốn lưu động ( Vlđ) được xác định theo công thức: ở đây : số dư bình quân vốn lưu động trong năm ( đ) V1, V2,…V12 tổng số vốn lưu động ở đầu mỗi tháng ( đ) VK vốn lưu động ở mỗi năm. Thời điểm 31/12. Như vậy : ( đ) Tổng mức luân chuyển của toàn bộ doanh nghiệp là tổng giá trị sản phẩm tiêu thụ trong năm. Tổng mức luân chuyển của toàn Xí nghiệp cũng có thể chia thành ba bộ phận: - Mức luân chuyển riêng của giai đoạn cung cấp, là tổng lượng tiền đã bỏ vào sản xuất kinh doanh ( giá trị nguyên vật liệu … ) - Mức luân chuyển riêng của giai đoạn sản xuất. Đó là lượng giá trị thành phẩm ( cả nửa thành phẩm đã bán ra ) đã nhập kho tiêu thụ, tính theo giá thành sản phẩm. - Mức luân chuyển của giai đoạn tiêu thụ : đó là tổng giá trị sản phẩm đã tiêu thụ, giống như mức luân chuyển toàn doanh nghiệp. Hai chỉ tiêu VN và NV có thể tính chung cho toàn bộ Xí nghiệp hoặc có thể cho từng khâu cung cấp sản xuất và tiêu thụ, nhằm qui định nhiệm vụ và đánh giá kết quả sử dụng vốn riêng của từng khâu và toàn bộ Xí nghiệp. Điều đó cũng giúp cho việc hạch toán kinh tế nội bộ Xí nghiệp. * Chỉ tiêu doanh lợi vốn lưu động DVLĐ Chỉ tiêu này thể hiện: cứ sử dụng 100đ vốn lưu động, doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. * Chỉ tiêu mức độ đảm nhận của vốn lưu động ( Mđ): Chỉ tiêu " mức đảm nhận của vốn lưu động" chỉ rõ để có 100đ doanh thu thuần phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn lưu động. Ngoài ra để đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động trong kinh doanh không thể không nói đến hệ số khả năng thanh toán ( lần ) Hệ số này càng cao càng chứng tỏ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên nếu hệ số này quá cao thì điều này lại không tốt vì nó phản ánh sự việc là doanh nghiệp đầu tư quá mức vào tài sản lưu động so với nhu cầu của doanh nghiệp và tài sản lưu động dư thừa không tạo nên doanh thu. Do vậy nếu doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vốn của mình vào tài sản lưu động, số vốn đó sẽ không được sử dụng có hiệu quả. Hệ số thanh toán ngắn hạn chấp nhận được với hệ số k = 2. Nhưng để đánh giá hệ số thanh toán ngắn hạn của một doanh nghiệp tốt hay xấu thì ngoài việc đưa vào hệ số k còn phải xem xét 3 yếu tố sau: + Bản chất ngành kinh doanh + Cơ cấu tài sản lưu động + Hệ số quay vòng của một số loại tài sản lưu động như: hệ số quay vòng các khoản phải thu, hệ số quay vòng hàng tồn kho và hệ só quay vòng vốn lưu động. ( lần ) Hệ số thanh toán nhanh thể hiện giữa các loại tài sản lưu động có khả năng chuyển nhanh thành tiền để thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn. Các loại tài sản được sếp vào loại chuyển nhanh thành tiền gồm : các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu của khách hàng. Còn hàng tồn kho và các khoản ứng trước không được xếp vào loại tài sản lưu động có khả năng thành tiền. Hệ số thanh toán nhanh là một tiêu chuẩn đánh giá khắt khe hơn đối với khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn so với hệ số thanh toán ngắn hạn. 2.2.4- Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Phương pháp so sánh: so sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu thế thay đổi, đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. So sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch để thấy được mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu trong doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp so với toàn ngành. So sánh theo chiều dọc hay chiều ngang các báo cáo tài chính. Phương pháp phân tích tỷ lệ: phương pháp này dựa vào ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc cần phải xác định được các ngưỡng, các định mức để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu. Ngoài ra, có thể kết hợp hai phương pháp trên cùng một lúc để đánh giá các chỉ tiêu nhằm nâng cao tính chính xác và hợp lý. 2.3- Các phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp : Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp có nghĩa là sử dụng các biện pháp tổ chức kỹ thuật làm tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động, giảm số ngày của kỳ luân chuyển bình quân, tiết kiệm tương đối vốn lưu động và nâng cao doanh lợi của vốn lưu động. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, việc tách riêng phần vốn lưu động để đánh giá hiệu quả sử dụng của nó chưa thể xem như là việc làm hoàn hảo. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có một số phương pháp: * Quản lý vốn lưu động khoa học và hiệu quả. Nếu quản lý vốn lưu động không tốt, hoạch định và kiểm soát vốn lưu động không chặt chẽ thì sẽ dẫn đến nguy cơ làm ăn thu lỗ, thâm chí doanh nghiệp sẽ bị phá sản, ngược lại nếu quản lý vốn lưu động tốt thì các doanh nghiệp sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động, tạo đà phát triển mạnh mẽ. Để quản lý vốn lưu động khoa học và hiệu quả thì doanh nghiệp cần phải áp dụng các phương pháp quản lý vốn lưu động phù hợp nhất với đặc điểm của từng khoản mục cấu thành vốn lưu động và hoạt động quản lý gồm các bội dung chính sau: + Lập kế hoạch xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh huy động quá nhiều không cần thiết sẽ dẫn tới lãng phí và đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Đồng thời tránh được tình trạng thiếu vốn lưu động làm gián đoạn sản xuất. Trên cơ sở này, doanh nghiệp chủ động tổ chức huy động vốn lưu động một cách kipự thời và hiệu quả nhất. Thực chất của nội dung quản lý là phải xác định lượng huy động tối ưu của từng khoản mục cấu thành tài sản lưu động như: Lượng tiền mặt tối ưu Lượng dự trữ tồn kho tối ưu Quy mô khoản phải thu hợp lý + Xác định và duy trì cơ cấu vốn lưu động tối ưu để tạo nền tảng tài chính vững chắc và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Doanh nghiệp cần điều chỉnh nhu cầu của từng khoản mục cấu thành của tài sản lưu động, để tạo ra mối tương quan hợp lý về tỷ trọng trong tổng tài sản lưu động. * Lựa chọn nguồn tài trợ vốn lưu động : Doanh nghiệp cần lựa chọn nguồn tài trợ vốn lưu động thích hợp theo hướng tích cực khai thác triệt để các nguồn vốn lưu động bên trong doanh nghiệp vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn lưu động một cách chủ động, vừa giảm được chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp, tránh tình trạng vốn tồn tại dưới hình thái tài sản không cần sử dụng, vật tư hàng hoá kém phẩm chất… mà doanh nghiệp phải đi vay để duy trì sản xuất với lãi xuất cao và phải chịu sự giám sát của chủ nợ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. * Tăng khả năng sinh lời từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để nâng cao khả năng sinh lời của vốn lưu động: Có nhiều biện pháp để tăng lợi nhuận thu được như: + Tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất kinh doanh, tránh lãng phí. + Nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm, tạo ra sự đa dạng về sản phẩm mẫu mã và thường xuyên tạo sự đổi mới về mọi mặt gây hấp dẫn khách hàng. + Mở rộng thị trường kinh doanh thông qua việc thâm nhập vào các thị trường mới, mở rộng đối tượng khách hàng phục vụ. + Tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tạo sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. + Thực hiện tốt các hoạt động xúc tiến hỗn hợp như: quảng cáo, khuyến mại… Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi áp dụng trong thực tế, các doanh nghiệp phải áp dụng linh hoạt các biện pháp trên sao cho phù hợp nhất với điều kiện và đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của mình. Phần III Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông 3.1- Phân tích khái quát về cơ cấu tài sản và nguồn vốn của Xí nghiệp: Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của Xí nghiệp được thể hiện quan bảng cân đối kế toán của Xí nghiệp qua các năm. - Phần tài sản bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. + Xét về mặt pháp lý tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản lý, sử dụng gắn với mục đích thu được các khoản lợi trong tương lai. + Xét về mặt kinh tế các chỉ tiêu thuộc phần tài sản của bảng cân đối kế toán thể hiện vốn của Xí nghiệp có ở thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Dựa vào chỉ tiêu phản ánh trong phần tài sản của bảng cân đối kế toán nhà quản trị có thể đánh giá khái quát quy mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Phần nguồn vốn phản ánh các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp bao gồm: Công nợ và Vốn chủ sở hữu + Xét về mặt pháp lý, đây là chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật chất của doanh nghiệp đối với đối tượng cung cấp vốn cho doanh nghiệp (Nhà nước, ngân hàng, các cổ đông các bên liên doanh). Hay nói cách khác các chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với Nhà nước, về số tài sản đã hình thành bằng vốn vay ngân hàng, vốn vay của các đối tượng khác, cũng như trách nhiệm thanh toán các khoản nợ với người lao động, người cung cấp với Nhà nước. + Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần nguồn vốn của bảng cân đối kế toán thể hiện các nguồn hình thành tài sản mà doanh nghiệp hiện có. Căn cứ vào các chỉ tiêu phản ánh ở phần nguồn vốn, nhà quản trị có thể biết được tỉ lệ kết cấu của từng loại nguồn vốn trong tổng nguồn vốn hiện có. Cơ cấu tài sản và nguồn vốn của Xí nghiệp trong 3 năm qua Chỉ tiêu 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch ( 1999 - 2000) Chênh lệch ( 2000 - 2001) 1000 đồng % 1000 đồng % 1000 đồng % ± % ± % I. Tài sản 28.484.262 100 88.892.956 100 96.700.000 100 60.408.694 212.1 7.807.044 8.8 1.Tài sản lưu động 27.196.542 95.5 40.433.379 45.5 53.000.000 54.8 13.236.837 48.7 12.566.620 31.1 2.Tài sản cố định 1.287.720 4.5 48.459.577 54.5 43.700.000 45.2 47.171.857 3663 -4.759.577 9.8 II. Nguồn vốn 28.484.262 100 88.892.956 100 96.700.000 100 60.408.694 212.1 7.807.044 8.8 1. Nợ phải trả 28.074.000 98.5 45.087.030 50.7 52.500.000 54.3 17.013.030 60.6 7.412.970 16.4 2. Vốn CSH 410.262 1.5 43.805.487 49.3 44.200.000 45.7 43.395.225 10577 394.513 0.9 (Nguồn số liệu trích trong bẳng cân đối kế toán năm 1999, 2000,2001 ) Qua bảng tóm tắt của bảng cân đôi kế toán trong 3 năm qua 1999, 2000, 2001 cho ta thấy : tổng tài sản và nguồn vốn của Xí nghiệp tăng lên một cách rõ rệt. Cho thấy Xí nghiệp đang có những nỗ lực trong việc huy động vốn để đảm bảo cho nhu cầu tăng quy mô tài sản sử dụng. Phần tài sản của Xí nghiệp cho thấy trong năm 1999 sự chênh lệch giữa tài sản cố định và tài sản lưu động là rất lớn. Tài sản lưu động chiếm tới 95.5% trong tổng tài sản trong khi đó tài sản cố định chỉ chiếm tỷ trong thấp có 4.5% trong tổng tài sản. Năm 2000 và 2001 Xí nghiệp đã có những biến chuyển tích cực trong cơ cấu tài sản, tỷ trọng giữa tài sản lưu động và tài sản cố định của Xí nghiệp đã dao động bình quân. Phần nguồn vốn, năm 1999 nợ phải trả của Xí nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn 98.5% trên tổng nguồn vốn trong khi vốn chủ sở hữu chỉ chiếm có 1.5% cho thấy Xí nghiệp đang vay nợ rất nhiều và khả năng rủi ro là rất cao. Tuy nhiên đến năm 2000 thì nợ phải trả của Xí nghiệp giảm nhanh xuống chỉ còn 50.7% đồng thời nguồn vốn chủ sở hữu của Xí nghiệp tăng vọt từ năm 1999 là 410.262.000 đ nhưng đến năm 2000 đã là 43.805.487.000 đ ( chiếm 49.3% trên tổng nguồn vốn ). Năm 2001 nợ phải trả của Xí nghiệp tăng nhưng bên cạnh đó vốn chủ sở hữu cũng tăng theo. Điều này chứng tỏ quy mô vốn đã mở rộng, Xí nghiệp chú trọng đến việc đầu tư tài sản nói chung và máy móc thiết bị nói riêng, đồng thời khả năng huy động vốn trong kỳ của doanh nghiệp cũng tăng lên. Như vậy có nghĩa là hoạt động sản xuất Xí nghiệp có hướng đi lên. Như vậy, để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định thì Xí nghiệp cần phải thường xuyên huy động các nguồn lực từ bên ngoài. Điều này dẫn đến nợ vay quá lớn, đó sẽ là gánh nặng cho Xí nghiệp trong việc trả nợ vay và lãi vay. Trong những năm gần đây, tỷ lệ vốn chủ sở hữu của Xí nghiệp đang dần tăng đó là dấu hiệu rất tốt để cho Xí nghiệp tạo thế chủ động về tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.2- Phân tích cơ cấu nguồn vốn và nguồn hình thành vốn của Xí nghiệp: Cơ cấu vốn của có tác dụng rất lớn đến quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Để xác định được cơ cấu nguồn vốn Xí nghiệp sử dụng trong kỳ hoạt động ta tiến hành so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn giữa cuối năm và đầu năm. Qua sự so sánh này có thể cho thấy được sự biến động về quy mô, khả năng huy động vốncủa Xí nghiệp. Và từ đó cho phép chúng ta đánh giá thực chất quá trình hoạt sản xuất kinh doanh. Khả năng huy động vốn là khả năng tìm kiếm vốn của Xí nghiệp từ trong nội bộ Xí nghiệp, hoặc từ bên ngoài. Quá trình huy đông vốn là một khâu quan trọng nhằm đảm bảo luân chuyển nguồn vốn hợp lý cho sản xuất, tránh hiện tượng thiếu vốn và ứ đọng vốn. Việc huy động vốn có thể bằng các cách thức: huy động vốn từ hoạt động liên doanh, liên kết, hoạt động mua bán cổ phiếu, trái phiếu, vay mượn các tổ chức ngân hàng, tổ chức vay tín dụng. Ngoài ra Xí nghiệp còn thực hiện huy động vốn nhàn rổi của công nhân viên trong Xí nghiệp… Đối với Xí nghiệp giao thông sản phẩm là các công trình xây dựng luôn có sự khác biệt so với các sản phẩm của lĩnh vực hoạt động khác như: sản phẩm cố định, đơn chiếc… vốn đầu tư ban đầu rất lớn thời gian thu hồi chậm chính vì điều đó công tác huy động vốn đảm bảo cho tiến độ thi công được đặt lên hàng đầu . Vốn và nguồn vốn là hai mặt của một thể thống nhất, đó là một lượng tài sản của doanh nghiệp. Do đó ngoài việc phân tích tình hình phân bổ vốn, quy mô vốn cần tiến hành phân tích kết cấu nguồn vốn. Việc phân tích này sẽ giúp cho doanh nghiệp nắm được khả năng tự chủ về mặt tài chính, mức độ tự chủ trong sản xuất kinh doanh và những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong khai thác vốn. Theo các quyết định của chính phủ và qui định của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông được bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Trong đó vốn chủ sở hữu là do ngân sách nhà nước cấp, Xí nghiệp tự bổ sung, các loại quỹ vốn khác… còn nợ phải trả là do Xí nghiệp vay ngắn hạn, vay dài hạn dưới mọi hình thức của các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước, các khoản nợ phải trả khách hàng và nợ phải trả khác… Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhu cầu về vốn là rất quan trọng, nguồn vốn chủ sở hữu càng nhiều thì tính linh hoạt về nhu cầu vốn càng cao nhưng khi nguồn vốn chủ sở hữu không đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh thì doanh nghiệp được phép đi vay để bổ sung vốn kinh doanh loại trừ các khoản vay quá hạn thì các khoản vay ngắn hạn và dài hạn (của ngân hàng hay các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước) chưa đến hạn trả, dùng cho mục đích kinh doanh đều được gọi là nguồn vốn vay hợp pháp. Vốn của Xí nghiệp thể hiện qua bảng sau: Cơ cấu nguồn hình thành vốn Đơn vị tính: 1000 đ Nguồn hình thành 1999 2000 2001 Số tiền % Số tiền % Số tiền % I. Nợ phải trả 28.074.000 98.5 45.087.030 50.7 52.500.000 54.3 Nợ ngắn hạn 28.074.000 98.5 43.138.000 48.5 43.600.000 45.1 Nợ dài hạn 0 1.913.000 2.1 8.863.970 9.15 Nợ khác 0 0 36.030 0.08 36.030 0.05 II. Vốn CSH 410.730 1.4 43.805.487 49.3 44.200.000 45.7 Vốn kinh doanh 0 0 43.210.000 48.6 43.200.000 44.7 Quỹ đầu tư và phát triển 5.022 5.022 5.022 Lãi chưa phân phối 405.710 1.4 523.285 0.6 942.801 1 Quỹ khen thưởng 0 0 67.180 0.1 52.177 0.1 Tổng nguồn vốn 28.484.732 100 88.892.517 100 96.700.000 100 Xét về tổng quan cơ cấu nguồn vốn của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông trong năm 1999 là chưa hợp lý, tỷ lệ nợ phải trả trên tổng nguồn vốn chiếm quá cao, không tốt đối với quá trình sản xuất kinh doanh, nhưng đến năm 2000 và 2001 thì tỷ lệ này đã tăng tương đối hợp lý. Qua bảng trên cho thấy nguồn hình thành vốn của Xí nghiệp. Nợ phải trả của Xí nghiệp bao gồm nợ ngắn hạn ( hay các khoản vay ngắn hạn ), nợ dài hạn (hay các khoản vay dài hạn ) và nợ khác, trong đó chủ yếu là nợ ngắn hạn. Năm 1999, nợ phải trả là 28.074.000.000 đ ( chiếm 98.5% trong tổng nguồn vốn) trong đó toàn bộ là nợ ngắn hạn. Năm 2000, nợ phải trả là 45.087.030.000 đ ( chiếm 50.7% trong tổng nguồn vốn) trong đó nợ ngắn hạn là chủ yếu chiếm 48.5% trong tổng nguồn vốn và nợ dài hạn chỉ chiếm 2.1% trong tổng nguồn vốn. Năm 2001, nợ phải trả là 52.500.000.000 đ ( chiếm 54.3% trong tổng nguồn vốn ) trong đó nợ ngắn hạn chiếm 45.1% trong tổng nguồn vốn và nợ dài hạn là 9.15% trong tổng nguồn vốn. Như vậy, các khoản nợ phải trả của Xí nghiệp vẫn chủ yếu là nợ ngắn hạn, nhưng các khoản nợ này đang có tỷ trọng giảm dần qua các năm. Đặc biệt là năm 1999 đến năm 2000 giảm từ 98.5% xuống còn 48.5% trong tổng nguồn vốn, và từ năm 2000 đến 2001 có giảm xuống đôi chút. Bên cạnh đó nợ dài hạn đang có xu hướng tăng lên đây là một dấu hiệu tốt, nhưng nợ dài hạn vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn, điều này cho thấy tỷ trọng nợ ngắn hạn và nợ dài hạn của Xí nghiệp chênh lệch quá lớn do đó không hợp lý. Nợ ngắn hạn của Xí nghiệp quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng rủi ro tài chính rất cao. Xí nghiệp nên có một số biện pháp thay đổi và tăng khả năng vay dài hạn hơn nữa và giảm tỷ trọng nợ ngắn hạn xuống thấp hơn nưã. Nguồn vốn kinh doanh của Xí nghiệp trong hai năm qua chiếm tỷ trọng cao trong vốn chủ sở hữu, chủ yếu dựa vào nguồn vốn liên doanh và nguồn vốn tự bổ sung. Nguồn vốn vay ngân hàng chiếm tỷ trọng thấp khoảng 10% trong tổng nguồn vốn. Qua các năm khối lượng vốn tăng nhưng tỷ trọng vay ngân hàng giảm so với tổng nguồn vốn, nguyên nhân là do nguồn vốn liên doanh, viện trợ nước ngoài, tự bổ sung tăng, bên cạnh đó hình thức huy động khác được áp dụng tại Xí nghiệp. Trong tương lai nguồn vốn này sẽ phụ thuộc vào chính sách huy động vốn của các ngân hàng gắn với việc hình thành thị trường vốn ở Việt Nam. Chắc chắn sẽ mở ra khả năng mới phục vụ cho Xí nghiệp huy động vốn đầu tư tốt hơn. Nguồn vốn vay cán bộ công nhân viên, Xí nghiệp đã tận dụng tối đa nguồn vốn vay này để bù đắp cho sự thiếu hụt vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp có chính sách thích hợ huy động vốn đúng đắn, đảm bảo quyền lợi cho người gửi, với lãi suất cao. Nên Xí nghiệp đã thu hút được lượng cốn đáng kể. Nguồn vốn vay nước ngoài, qua các năm nguồn vốn này thực tế chiếm tỷ trọng khá cao và được hình thành chủ yếu từ nguồn viện trợ phát triển chính thức ( ODA ), nguồn tín dụng thương mại… khả năng thu hút vốn từ các nguồn này rất khác nhau, tuỳ theo đặc điểm và giá trị kinh tế của từng công trình xây dựng mà lượng vốn được tài trợ khác nhau. Qua vài năm gần đây nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm nguồn vốn kinh doanh và các quỹ được thể hiện như sau: Năm 1999 nguồn vốn này chiếm tỷ trọng quá thấp chỉ chiếm 1.5% trong tổng nguồn vốn, chủ yếu là từ lợi nhuận chưa phân phối và quỹ đầu tư phát triển ODA. Năm 2000 và 2001, nguồn vốn này chiếm tỷ trọng khá cao và tương đối hợp lý và dao động 45% đến 49% trong tổng nguồn vốn. Chủ yếu là vốn kinh doanh bao gồm ngân sách nhà nước tự bổ sung và phần lớn là nguồn vốn do liên doanh, liên kết… ở Việt Nam hiện nay, tích luỹ còn thấp nên vốn ngân sách cấp cho các ngành còn ít ỏi, với một kết cấu hạ tầng như ngành xây dựng. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông không chỉ dựa vào vốn ngân sách cấp mà phải sử dụng vốn do liên doanh, liên kết, vốn tự bổ sung và các quỹ của Xí nghiệp. Mặt khác cơ cấu nguồn vốn của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông được đánh giá qua các hệ số về cơ cấu tài chính cho thấy mức độ phụ thuộc hay độc lập tài chính của Xí nghiệp với các khoản vay hay tự tài trợ. Các hệ số cơ cấu tài chính của Xí nghiệp Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Hệ số nợ 0.98 0.50 0.54 Tỷ suất tự tài trợ 0.014 0.49 0.45 Hệ số nợ dài hạn 0 0.04 0.2 Nhìn vào biểu đồ ta thấy hệ số nợ của Xí nghiệp năm 1999 là rất cao, hệ số này cao tỷ lệ thuận với khả năng rủi ro tài chính, nhưng hệ số này đã giảm mạnh vào năm 2000 từ 0.98 xuống còn 0.5 và đến năm 2001 thì không có biến động gì lớn, điều này cho thấy Xí nghiệp đã có những thay đổi tích cực. Bên cạnh đó hệ số tự tài trợ của Xí nghiệp năm 1999 là rất thấp, hay nói cách khác nguồn vốn tự có của doanh Xí nghiệp quá thấp khó đảm bảo đủ vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Chính vì thế muốn đảm bảo hoạt động thì Xí nghiệp phải đi chiếm dụng vốn từ bên ngoài. Hệ số tự tài trợ năm 1999 là 0.014, nhưng đến năm 2000 hệ số này đã tăng lên 0.49 cho thấy Xí nghiệp đã có những sự phát triển rõ rệt về khả năng tự chủ về tài chính. Hệ số nợ dài hạn có tăng nhưng hệ số này vẫn rất thấp cho thấy Xí nghiệp đã không chú trọng lớn đến vay dài hạn ( vì Xí nghiệp không đầu tư dài hạn ). Mặt khác Xí nghiệp đã tập trung mua sắm đầu tư tài sản cố định nhiều, đặc biệt là trong năm 2000. Chính vì vậy, Xí nghiệp phải tìm cách nghiên cứu, lợi dụng đòn bẩy cân nợ và phần lớn vốn vay phải là vay dài hạn. Vay dài hạn một năm làm giảm nhu cầu vốn thường xuyên của Xí nghiệp, bên cạnh đó tiền lãi phải trả được thừa nhận như một khoản chi phí cần thiết để có doanh thu. 3.3- Phân tích cơ cấu và hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của Xí nghiệp: 3.3.1- Phân tích cơ cấu tài sản lưu động: Về cơ cấu tài sản lưu động của Xí nghiệp cũng như các doanh nghiệp khác tài sản lưu động của Xí nghiệp bao gồm : vốn bằng tiền, các khoản phải thu, hàng tồn kho và một số tài sản lưu động khác. Các khoản mục đó của Xí nghiệp được thể hiện qua bảng sau: Tình hình tài sản lưu động của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông Chỉ tiêu 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 Chênh lệch (1999-2000) Chênh lệch (2000-2001) Số tiền % Số tiền % Số tiền % ± % ± % TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 27.196.542.206 100 40.433.379.396 100 53.000.000.000 100 13.236.837.190 48.67 12.566.620.604 31.08 I. Tiền 24.909.276 0.09 1.290.816.817 3.19 1.250.000.000 2.36 1.265.907.541 5082 -40.816.817 -3.16 1. Tiền mặt tại quỹ 20.071.753 0.07 10.997.269 0.03 10.500.000 0.02 -9.074.484 -45.21 -497.269 -4.52 2. Tiền gửi ngân hàng 4.837.523 0.02 1.279.819.548 3.16 1.239.500.000 2.34 1.274.982.025 26356 -40.319.548 -3.15 II. Các khoản phải thu 16.397.201.751 60.29 21.394.085.845 52.91 29.750.000.000 56.13 4.996.884.094 30.47 8.355.914.155 39.06 1. Phải thu khách hàng 12.915.683.379 47.49 20.981.720.103 51.89 27.890.000.000 52.62 8.066.036.724 62.45 6.908.279.897 32.93 2. Thuế VAT 0 0 56.713.942 0.14 72.500.000 0.14 56.713.942 15.786.058 27.83 3. Trả trước cho người bán 3.481.518.372 12.8 0 0 -3.481.518.372 0 0 4. Các khoản phải thu khác 0 0 355.651.800 0.88 1.787.500.000 3.37 355.651.800 1.431.848.200 402.6 III. Hàng tồn kho 7.986.420.157 29.37 14.182.966.495 35.08 20.000.000.000 37.74 6.196.546.338 77.59 5.817.033.505 41.01 1. Nguyên vật liệu tồn kho 0 0 33.187.091 0.08 195.236.419 0.37 33.187.091 162.049.328 488.3 2. Công cụ, dụng cụ 21.173.000 0.08 0 55.005.629 0.1 -21.173.000 55.055.629 3. CF SXKD dở dang 7.965.247.157 29.29 14.149.779.404 35.00 19.749.757.952 37.26 6.184.532.247 77.64 5.599.978.548 39.58 IV. TSLĐ khác 2.788.011.022 10.25 3.565.510.239 8.82 2.000.000.000 3.77 777.499.217 27.89 - 1.565.510.239 -43.9 1. Tạm ứng 1.258.464.999 4.63 1.484.597.174 3.67 1.560.000.000 2.94 226.132.175 17.97 75.402.826 5.08 2. Chi phí trả trước 54.572.800 0.2 28.800.900 0.07 10.000.000 0.02 - 25.771.900 -47.22 - 18.800.900 -65.3 3. Chi phí chờ kết chuyển 1.330.173.223 4.89 1.686.942.065 4.17 363.705.000 0.69 356.768.842 26.82 -1.323.237.065 -79.5 4. Thế chấp, kí quỹ, ký cược 144.800.000 0.53 365.170.100 0.9 120.295.000 0.23 220.370.100 152.2 -244.875.100 -67.4 ( Nguồn số liệu trích trong bảng cân đối kế toán năm 1999, 2000, 2001 ) Qua bảng trên cho thấy tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn của Xí nghiệp tư năm 1999 sang đến năm 2000 có sự gia tăng nhanh từ 27.196.542.206 đ tăng lên 40.433.379.396đ và đến năm 2001 đã là 53.000.000.000đ. Điều này cho thấy mức độ mở rộng sản xuất, kết quả hoạt động kinh doanh khả quan làm cho quy mô vốn của Xí nghiệp không ngừng tăng lên. Tính từ năm 1999 đến năm 2001 tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn của Xí nghiệp tăng 95%, đó là một kết quả rất tốt mà Xí nghiệp đã phải cố gắng rất nhiều mới có được. Trong tài sản lưu động có ban gồm rất nhiều khoản mục, để hiểu rõ hơn tình hình tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn của Xí nghiệp chúng ta đi sâu vào từng khoản mục sau: a. Vốn bằng tiền: lượng tiền của Xí nghiệp năm 1999 là 24.909.276đ đến năm 2000 là 1.290.816.817đ tăng 1.265.907.541đ nhưng đến năm 2001 lại giảm đôi chút chỉ còn 1.250.000.000đ. Lượng vốn bằng tiền của Xí nghiệp so với tổng tài sản thì vẫn chiếm tỷ trọng thấp. Tỷ trọng của lượng tiền thấp là một dấu hiệu xấu, gây khó khăn cho Xí nghiệp trong việc chi trả ngay khi khách hàng đòi, và khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội đấu thầu, tham gia đấu thầu ( cơ hội làm ăn) vì không có đủ sẳn lượng tiền mặt đủ lớn. b. Các khoản phải thu: Năm 1999 các khoản phải thu xủa Xí nghiệp chiếm tỷ trọng là 60.29% trong tổng tài sản lưu động, năm 2000 chiếm tỷ trọng 52.91% và năm 2001 chiếm tỷ trọng 56.13% trong tổng tài sản lưu động. Mặt khác năm 1999 so với năm 2000 các khoản phải thu tăng 30.47% và năm 2000 so với năm 2001 tăng 39.06% . Đây là một dấu hiệu cho thấy Xí nghiệp đã phải đầu tư tiền vào các công trình nhưng chưa thu được kết quả, vì công trình còn dở dang và Xí nghiệp bị chiếm dụng vốn do một số doanh nghiệp khác còn nợ, cũng như đi góp liên doanh liên kết. Vậy Xí nghiệp cần nhanh chóng thúc đẩy việc thu các khoản phải thu để đảm bảo chủ động về vốn cho sản xuất kinh doanh. c. Hàng tồn kho: khoản mục chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong tổng tài sản lưu động của Xí nghiệp. Khoản mục này cũng chiếm tỷ trọng tăng dần cùng với sự gia tăng tài sản lưu động. Năm 1999 so với năm 2000 tăng 77.59% và năm 2000 so với năm 2001 tăng 41.01% trong đó: Nguyên vật liệu tồn kho chiếm tỷ trọng trong tổng số tài sản lưu động nhỏ, dao động trung bình qua các năm khoảng 0.2% trong tổng tài sản lưu động. Đây là một dấu hiệu tốt, để quản lý nguyên vật liệu, Xí nghiệp giao cho các độ trực tiếp thu mua khi có nhu cầu sử dụng. Vì hiện nay với cơ chế thị trường thì Xí nghiệp chỉ cần dự trữ một lượng nguyên vật liệu nhất định nào đó, nếu cần thì mua ở ngoài thị trường tránh hiện tượng ứ động nguyên vật liệu. Công cụ, dụng cụ dùng trong sản xuất thi công chiếm tỷ trọng rất nhỏ, khoảng 0.1% trong tổng tài sản lưu động. Trong quá trình thi công, công cụ - dụng cụ được sử dụng lâu dài theo từng công trình và quá trình sản xuất ( thi công ) thường kéo dài từ 6 tháng trở lên. Do vậy lượng tồn này rất thấp không ảnh hưởng nhiều đến quá trình sử dụng vốn lưu động. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chiếm tỷ trọng rất lớn trong hàng tồn kho nói riêng và trong tổng tài sản lưu động nói chung. Tỷ trọng này tăng dần qua các năm, cụ thể năm 1999 là 7.965.247.157đ ( chiếm 29.29% trong tổng tài sản lưu động) năm 2000 là14.149.779.404đ ( chiếm 35% ) và năm 2001 là 19.749.757.952đ ( chiếm 37.26% ). Như vậy đối với ngành xây dựng cơ bản thì các số liệu phân tích trên cho thấy đây là một dấu hiệu tốt, do các nguyên nhân là trên thực tế thời gian thi công các công trình thường rất dài, do ảnh hưởng của thời tiết, do công việc giải phóng mặt bằng rất khó khăn phức tạp, chi phí bỏ ra lớn… Mặt khác giá trị của các công trình thường lớn, hơn nữa đây là một dấu hiệu cho thấy Xí nghiệp đã trúng thầu nhiều công trình có giá trị lớn và đây cũng là một nhân tố quan trọng làm cho tỷ trọng của hàng tồn kho tăng. Nhưng bên cạnh đó đây cũng có thể là một dấu hiệu không tốt do các nguyên nhân: tổ chức thi công còn chưa tốt, chậm trễ không theo đúng tiến độ thi công hoặc xây dựng bị gián đoạn do điều kiện kỹ thuật… do đó làm tăng chi phí dở dang rất lớn. Tóm lại: Cơ cấu tài sản lưu động của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông là chưa thật hợp lý, khoản mục các khoản phải thu chiếm tỷ trọng rất lớn và quá mất cân đối với các khoản mục còn lại trong tổng tài sản lưu động. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. ảnh hưởng rõ nét nhất là việc làm ứ đọng vốn và chậm luân chuyển vốn lưu động, dẫn đến phải đi vay và làm giảm khả năng sinh lời của vốn lưu động. Tuy nhiên Xí nghiệp đã có nhiều cố gắng khắc phục tình trạng này, tỷ trọng các khoản phải thu trong 3 năm qua giảm xuống hay nói cách khác là tốc độ tăng tài sản lưu động nhanh hơn tốc độ tăng các khoản thu. Từ đó cho thấy Xí nghiệp cần cố gắng hơn nữa trong những năm tới nhằm làm giảm tỷ trọng vốn lưu động bị chiếm dụng, cơ cấu vốn lưu động hợp lý hơn để tăng hiệu quả sử dụng của vốn lưu động. 3.3.2- Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản lưu động: Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của Xí nghiệp được thể hiện qua một số chỉ tiêu sau: trong đó: M1 tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong năm ( kế hoạch ) tức là doanh thu thuần. Ko : kỳ luân chuyển vốn năm trước ( báo cáo ) tức là vòng quay một vòng luân chuyển. K1 : kỳ luân chuyển vốn năm nay ( kế hoạch ) Dưới đây là một số bảng được trích từ bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh thể hiện các chỉ tiêu trên của một số năm qua của Xí nghiệp : Chỉ tiêu đơn vị 1999 2000 2001 1. Doanh thu thuần đồng 19.600.000.000 32.031.299.000 65.000.000.000 2. Lợi nhuận gộp đồng 1.850.000.000 4.065.301.000 5.391.225.000 3. Vốn lưu động bình quân đồng 13.598.271.103 33.814.960.801 46.716.689.698 Các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển Đơn vị 1999 2000 2001 1. Hệ số luân chuyển vốn lưu động V/năm 1.42 0.95 1.40 2. Thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động Ngày 254 379 257 3. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động đồng 0.70 1.05 0.71 4. Mức tiết kiệm vốn lưu động đồng - + 11.121.979.000 -22.027.778.000 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động đơn vị 1999 2000 2001 Sức sinh lợi của vốn lưu động đồng 0.134 0.12 0.115 Qua các số liệu trên ta thấy năm 1999 hệ số luân chuyển vốn lưu động đạt cao nhất 1.42 vòng/năm và cần 254 ngày thì quay được một vòng. Trong khi đó năm 2000 chỉ đạt được 0.95 vòng/ năm và cần 379 ngày mới quay được một vòng, so với năm 1999 vòng quay vốn lưu động tăng thêm 125 ngày. Nhưng đến năm 2001 thì chỉ tiêu đó khả quan hơn đã giảm xuống chỉ còn mất 257 ngày thì quay được một vòng và đạt sấp xỉ năm 1999 là 1.40 vòng/ năm. Năm 1999 sức sinh lợi của vốn lưu động là 0.134 ( tức là một đồng vốn lưu động bỏ ra thu được 0.134 đồng lợi nhuận gộp ) nhưng đến năm 2000 sức sinh lợi lại giảm mất 0.014 đồng chỉ còn 0.12 đồng và đến năm 2001 chỉ còn 0.115 đồng. Điều này đòi hỏi Xí nghiệp cần điều chỉnh lại lượng vốn lưu động sử dụng thêm đã vượt quá so với nhu cầu. Nếu vốn lưu động luân chuyển nhanh hơn thì có thể hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp sẽ cao hơn. So sánh với các chỉ tiêu tương ứng của ngành cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp còn chưa cao, về cả tốc độ luân chuyển và sức sinh lợi của vốn lưu động. Sức sinh lợi của Xí nghiệp còn ở mức thấp. Tốc độ luân chuyển vốn chậm, thời gian của vòng luân chuyển vốn dài như năm 2000 phải mất 379 ngày ( tức là hơn 1 năm ). Nhưng thực tế này một phần là do đặc điểm của ngành là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, chủ yếu là các công trình có giá trị lớn, thời gian xây dựng thường kéo dài do vậy thời gian thu hồi vốn lâu. Qua phân tích ta thấy, xét về cơ bản hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp trong một vài năm qua biến động theo chiều hướng đi lên, mặc dù sự bién động đó không ổn định. Đặc biệt trong những năm tới Xí nghiệp cần phải nâng cao hơn nữa công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động ngay từ khâu xác định nhu cầu vốn, huy động vốn đến khâu sử dụng vốn lưu động để hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nữa. 3.4- Phân tích nội dung một số mặt quản lý vốn lưu động cụ thể của Xí nghiệp : 3.4.1- Phân tích tình hình quản lý hàng tồn kho: Tình hình hàng tồn kho của Xí nghiệp được thể hiện qua bảng sau: Cơ cấu hàng tồn kho của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông qua một số năm Chỉ tiêu 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 1999- 2000 2000 - 2001 Số tiền % Số tiền % Số tiền % ± % ± % Hàng tồn kho 7.986.420.157 100 14.182.966.495 100 20.000.000.000 100 6.196.546.338 77.58 5.817.033.505 41.01 1. Nguyên vật liệu tồn kho 0 0 33.187.091 0.23 195.236.419 0.97 33.187.091 162.049.328 488.3 2. Công cụ, dụng cụ 21.173.000 0.26 0 55.005.629 0.27 -21.173.000 55.005.629 3. CF SXKD dở dang 7.965.247.157 99.7 14.149.779.404 99.8 19.749.757.952 98.7 6.184.532.247 77.64 5.599.978.548 39.58 ( nguồn số liệu được trích từ bảng cân đối kế toán năm 1999, 2000, 2001 ) Qua bảng trên ta thấy nguyên vật liệu tồn kho của Xí nghiệp qua các năm thấp nhưng vẫn ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình sử dụng vốn lưu động. Lượng nguyên vật liệu thường được Xí nghiệp xác định đúng mức và hợp lý lượng dự trữ, tuy nhiên nguyên vật liệu tồn kho này thường được nhập khẩu theo lô hàng nên có một lượng dự trữ tồn kho nhatá định. Nhằm đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường, nhưng trong thực tế thi công của Xí nghiệp đã có trường hợp bị gián đoạn vì một số nguyên vật khong được đáp ứng kịp thời làm ảnh hưởng đến quá trình thi công và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vì vậy Xí nghiệp nên tìm biện pháp khắc phục nhược điểm này. Xí nghiệp áp dụng phương pháp tồn kho bằng không: đối với ngành xây dựng cơ bản nói chung và Xí nghiệp nói riêng, việc xác định tồn kho dự trữ này được sử dụng chủ yếu và phù hợp nhất bởi vì theo phương pháp này đã giúp Xí nghiệp giảm thấp nhất lượng dự trữ tồn kho nguyên vật liệu dẫn đến giảm chi phí tồn kho, dự trữ tới mức tối thiểu với điều kiện là Xí nghiệp tạo được mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp để đáp ứng kịp thời cho Xí nghiệp các loại vật tư, hàng hoá khi Xí nghiệp cần để thi công.…nhờ đó Xí nghiệp đã giảm được chi phí lưu kho, và tồn đọng vốn lưu động. Trong hàng tồn kho của Xí nghiệp thì công cụ, dụng cụ chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ dưới 1% đây là dấu hiệu tốt, Xí nghiệp đã giảm được phần nào chi phí dự trữ tồn kho. Bên cạnh đó do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành xây dựng nói chung và của Xí nghiệp nói riêng, sản phẩm của Xí nghiệp chủ yếu là các công trình mang tính đơn chiếc và có giá trị lớn, được tiến hành sản xuất theo kế hoạch của nhà nước và các chủ đầu tư, nhu cầu của từng khu vực… Chính vì vậy, hàng tồn kho của Xí nghiệp chủ yếu là các khoản chi phí xây dựng dở dang. Như ta thấy trong bảng cân đối kế toán của Xí nghiệp , qua các năm tỷ trọng hàng tồn kho dao động trung bình khoảng 35% trong tổng tài sản lưu động, trong khi đó chi phí xây dựng dở dang chiếm tỷ trọng cao nhất trong hàng tồn kho khoảng 98,5%. Nguyên nhân chủ yếu là do quá trình thi công đều thực hiện ngoài trời cho nên không tránh khỏi các điều kiện bất khả kháng do thời tiết… và công tác giải phóng mặt bàng thi công rất khó khăn phức tạp. Do vậy chi phí bỏ ra cho các công tác này là rất lớn chẳng hạn như: chi phí công nhân quản lý, chi phí thiệt hại do ngừng sản xuất, chi phí huy động máy móc, chi phí cho việc trông coi vật tư mua về chưa kịp sử dụng và giá trị các công trình là rất lớn do vậy chi phí bỏ ra cũng rất lớn… Chính vì những lý do này, Xí nghiệp nên sử dụng phương pháp kinh nghiệm để dự báo trước tình hình xảy ra để giảm được thấp nhất lượng chi phí này. 3.4.2- Phân tích tình hình quản lý các khoản phải thu: Trong vài năm qua, các khoản thu của Xí nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản lưu động, cụ thể các khoản thu dao động trung bình khoảng 56% trong tổng tài sản lưu động, đây là một dấu hiệu không tốt, Xí nghiệp đang gặp nhiều khó khăn trong việc đòi nợ, và bị chiếm dụng vốn trong khi Xí nghiệp đang phải trả các khoản nợ ngắn hạn, điều này ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động, dẫn đến làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Trong các khoản phải thu của Xí nghiệp thì khoản mục phải thu của khách hàng chiếm tỷ trọng cao nhất, năm 1999 là 18.76% trong tổng các khoản phải thu, năm 2000 là 98% trong tổng các khoản phải thu , năm 2001 là 93,75% trong tổng các khoản phải thu. Từ đó cho thấy các khoản nợ khó đòi của Xí nghiệp ngày càng tăng và đặc biệt tăng cao nhất trong năm 2000, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp vì Xí nghiệp chủ yéu sử dụng các khoản vay nợ ngắn hạn để đầu tư cho quá trình sản xuất nên khi vốn bị tồn đọng sẽ dẫn đến chi phí trả lãi và một số chi phí khác tăng và làm giảm lợi nhuận của Xí nghiệp. Ngoài ra trong các khoản phải thu còn có thuế VAT, trả trước cho người bán và các khoản phải thu khác nhưng các khoản này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng các khoản phải thu, tuy nhiên Xí nghiệp cũng cần có biện pháp quản lý tốt các khoản mục này để tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Cơ cấu các khoản phải thu của Xí nghiệp trong một vài năm qua Chỉ tiêu 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 1999 - 2000 2000 - 2001 Số tiền % Số tiền % Số tiền % ± % ± % Các khoản phải thu 16.397.201.751 100 21.394.085.845 100 29.750.000.000 100 4.996.884.094 30.5 8.355.914.155 39.1 1. Phải thu của khách hàng 12.915.683.379 78.76 20.981.720.103 98 27.890.000.000 93.75 8.066.036.724 62.5 6.908.279.897 32.9 2. Thuế VAT - - 56.713.942 0.26 72.500.000 0.24 - - 15.786.058 27.83 3. Trả trước cho người bán 3.481.518.372 21.2 0 - 0 - -3.481.518.372 0 - 4. Các khoản phải thu khác 0 0 355.651.800 1.66 1.787.500.000 6.0 355.651.800 - 1.431.848.200 402.6 ( nguồn số liệu trích từ bảng cân đối kế toán năm 1999, 2000, 2001) Bên cạnh đó nếu muốn đánh giá hiệu quả của các khoản phải thu thì ta phải quan tâm đến vòng quay của các khoản thu và kỳ thu tiền bình quân. Kỳ thu tiền bình quân Chỉ tiêu đơn vị 1999 2000 2001 1. Doanh thu thuần 1000đ 19.600.000 32.031.299 65.000.000 2. Khoản phải thu bình quân 1000đ 15.200.000 18.895.644 25.572.043 3. Vòng quay khoản phải thu Vòng 1,29 1,7 2,54 4. Kỳ thu tiền bình quân Ngày 258 228 142 Trong ngành xây dựng cơ bản, vòng quay các khoản thu càng cao càng tốt, có nghĩa là giảm gánh nặng trả lãi vay ngân hàng, chứng tỏ tốc độ thu hồi của các khoản thu càng nhanh. Bảng trên cho ta thấy số vòng quay của các khoản thu của Xí nghiệp tăng dần qua các năm, năm 1999 là 1,29 nhưng đến năm 2001 đã là 2.54, đây là dấu hiệu tốt. Tuy nhiên do đặc điểm của ngành nên hệ số vòng quay của các khoản phải thu còn thấp so với các ngành khác. Bên cạnh đó kỳ thu tiền bình quân giảm dần qua các năm, đây là dấu hiệu tốt cho thấy tốc độ luân chuyển của vốn lưu động có xu hướng tăng lên qua các năm. Đây là một thành tích lớn của Xí nghiệp trong việc đẩy nhanh tiến độ thu hồi vốn, giảm ứ đọng vốn để nhanh chóng quay vòng vốn đầu tư cho kỳ tiếp theo. Ngoài ra việc giảm kỳ thu tiền bình quân cũng có nghĩa là giảm gánh nặng trả lãi ngân hàng, góp phần tăng lợi nhuận của Xí nghiệp. Mặt khác các khoản phải thu qua các năm chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng tài sản lưu động của Xí nghiệp và có tác động mạnh mẽ tới tình hình huy động và sử dụng vốn lưu động, do đó Xí nghiệp cần phải quản lý tốt hơn nữa khoản mục này để tăng cao hiệu quả sử dụng của vốn lưu động. 3.4.3- Phân tích chu kỳ vận động của tiền mặt: Trong đó kỳ thanh toán bình quân hay là thời gian chậm trả những khoản phải trả. Khác với các doanh nghiệp khác Xí nghiệp mua vật tư nhiều đợt để phục vụ quá trình sản xuất, thông thường có những vật tư Xí nghiệp trả chậm theo hợp đồng kéo dài, nhưng cũng có loại vật tư Xí nghiệp mua về và thanh toán ngay. Chu kỳ vận động của tiền mặt Chỉ tiêu đơn vị 1999 2000 2001 1. Các khoản phải trả trung bình 1000đ 26.900.000 36.580.500 48.793.500 2. Giá trị hàng mua có thuế 1000đ 192.143 236.003 325.290 3. Kỳ thanh toán bình quân Ngày 140 155 150 4. Kỳ luân chuyển tồn kho Ngày 139 143 103 5. Kỳ thu tiền bình quân Ngày 285 228 142 6. Chu kỳ vận động của tiền mặt Ngày 284 216 95 Trong đó: Mục tiêu của Xí nghiệp là rút ngắn kỳ vận động của tiền mặt càng nhiều càng tốt mà không có bất lợi cho sản xuất. Do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của Xí nghiệp nên chu kỳ vận động của tiền mặt là rất lâu thậm trí khoảng 1 năm vào năm 1999 và đang có xu hướng giảm xuống năm 2001 chỉ còn 3 tháng. Khi đó lợi nhuận của Xí nghiệp sẽ tăng có tác động tốt đến công tác quản lý, sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp trong năm tới. 3.5- Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Xí nghiệp : Trên thực tế có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp. Ngoài những nhân tố như doanh thu thuần, vốn lưu động bình quân, khoản phải thu và hàng tồn kho… đã tác động trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động, ngoài ra quá trình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của các nhân tố gián tiếp như: + Biến động cung cầu của thị trường và vật liệu xây dựng ( giá của chúng thường biến đổi theo thời vụ ) + Chính sách thanh toán của nhà nước với các chủ đầu tư các công trình giao thồng còn chậm trễ, dẫn đến các chủ đầu tư còn nợ chưa trả tiền như chủ đầu tư công trình: Kẻ sặt, công trình 30/6 - Lý Thường Kiệt, công trình đường 223… còn nợ nhiều và qua các năm vẫn chưa trả cho Xí nghiệp dẫn đến vốn của Xí nghiệp bị chiếm dụng và ứ đọng nhiều, vốn lưu động chậm luân chuyển và làm lợi nhuận của Xí nghiệp giảm. + Tình hình biến động về thời tiết trong những năm gần đây khá phức tạp, những trận lũ lớn, mưa kéo dài… đã tác động đến tiến độ thi công, chất lượng công trình xây dựng và bảo quản vật tư . những tác động bất lợi này đối với Xí nghiệp là rất khó tránh bởi vì đặc điểm vì do đặc điểm của ngành là thực hiện thi công chủ yếu ở ngoài trời. Vì vậy thiên tai là một trong những nhân tố làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp cả về sức sản xuất và tôc độ luân chuyển của vốn lưu động. + Chế độ của nhà nước về giải phóng mặt bằng, chế độ đền bù còn nhiều bất cập, chưa hiệu quả, thêm vào đó là ý thức của một số người dân về vấn đề này còn chưa cao, gây nhiều cản trở cho công tác giải phòng mặt bằng. Trên thực tế. Không ít công trình của Xí nghiệp bị gián đoạn do không giải phóng mặt bằng được, chậm tiến độ thi công của công trình. Lãng phí về tiền và khấu hao cho công nghệ và máy móc chờ việc. Kết quả làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nhìn chung Xí nghiệp cần có biện pháp phát huy mặt tích cực của các nhân tốc và tìm các khắc phục những mặt tiêu cực của các nhân tố đó một cách kịp thời để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp. 3.6- Nhận xét chung về tình hình quản lý sử dụng vốn lưu động tại Xí nghiệp : Qua tìm hiểu, phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động ở Xí nghiệp ta thấy Xí nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể như: tình hình tài sản lưu động của Xí nghiệp trong một vài năm qua biến động theo chiều hướng đi lên, tăng dần qua các năm. Doanh thu thuần, lợi nhuận đạt được cũng tăng. Xí nghiệp đang ngày càng hoàn thiện tốt hơn công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được nâng cao và số lợi nhuận thu được từ một đồng vốn lưu động cũng được nâng cao hơn so với các năm trước. Đây là một nố lực của Xí nghiệp trong việc tiếp tục tái sản xuất mowr rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì thế mà hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp ngày một tăng. Số lượng công trình Xí nghiệp trúng thầu ngày một tăng, đáng kể là các công trình có giá trị lớn, các công trình trọng điểm của nhà nước. Điều này cho thấy quy mô và uy tín của Xí nghiệp đang được khẳng định trên thị trường. Nhờ đó mà Xí nghiệp đã tạo đủ công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên và thu nhập ngày một ổn định . Phần IV Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng phụ thuộc vào việc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả làm tăng tốc độ luân chuyển của vốn lưu động. Như vậy trong phần thực tế về đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp đã cho thấy vốn lưu động của Xí nghiệp là rất lớn. Điều chủ yếu là do đặc thù của ngành xây dựng nên lượng vốn lưu động cần có quá trình sản xuất thi công là rất lớn, ngoài ra đó cũng là yêu tố làm cho vòng quay của vốn lưu động của Xí nghiệp thấp. Tuy nhiên Xí nghiệp cũng cần có những biện pháp làm tăng vòng quay của vốn lưu động, làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động được tốt hơn nữa. Qua thời gian thực tập và tìm hiểu về tình hình sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp em xin đề xuất một số biện pháp làm tăng hiệu quả của vốn lưu động: * Biện pháp 1: “kế hoạch hoá vốn lưu động” Kế hoạch hoá vốn lưu động là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết hàng đầu của doanh nghiệp. Để quá trình sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp được đảm bảo liên tục và đạt hiệu quả cao thì trước hết Xí nghiệp cần đáp ứng đủ và kịp thời vốn lưu động và phải sử dụng sao cho tiết kiệm đạt hiệu quả cao nhất, tránh tình trạnghuy động thừa gây lãng phí và lại làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh. Muốn vậy Xí nghiệp cần lên kế hoạch cụ thể về các chỉ tiêu sau: - Xác định kế hoạch và nhu cầu vốn lưu động cho từng thời kỳ, từng năm, từng công trình xây dựng. Trên thực tế cho thấy, năm 2000 do Xí nghiệp không lên kế hoạch về vốn lưu động nên đã huy động thừa vốn lưu động so với nhu cầu, làm lãng phí 11.121.979.000 đồng, làm giảm hiệu quả sử dụng của vốn lưu động. Làm tốc độ luân chuyển vốn lưu động chậm lại, năm 2000 là 379 ngày/ vòng, so với năm 1999 chỉ có 245 ngày/ vòng. Chính vì vậy mà Xí nghiệp cần căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh để xác định nhu cầu vốn lưu động và khắc phục tình trạng mắc phải như năm 2000. Nếu tốc độ luân chuyển của vốn lưu động không đổi so với kỳ gốc, để đạt được tổng doanh thu thuần kỳ tới thì vốn lưu động cần thiết là: Như vậy theo kế hoạch năm 2002, Xí nghiệp đạt được mức doanh thu thuần là tăng so với năm 2001 là 38,5% tức là đạt mức: 65.042.967.544 + ( 38,5% x 65.042.967.544 ) = 90.084.510.048 đồng Vốn lưu động năm 2001 là: 53.000.000.000 đồng Hệ số luân chuyển vốn lưu động năm 2001 là 1,40 vòng/năm Vậy nguồn vốn lưu động phải huy động thêm trong năm 2002 là : 64.346.078.605 - 53.000.000.000 = 11.346.078.605 đồng Xác định một cơ cấu tài sản lưu động hợp lý. Hiện nay cơ cấu tài sản lưu động của Xí nghiệp chưa tối ưu, Xí nghiệp cần căn cứ vào nhu cầu vốn về từng thành phần cấu tạo tài sản lưu động để hoàn thiện cơ cấu đó. Cụ thể là Xí nghiệp cần giảm tỷ trọng khoản phải thu để hạn chế lượng vốn bị chiếm dụng, rút ngắn thời gian một kỳ thu tiền bình quân để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Xí nghiệp cần tăng tỷ trọng tiền mặt hợp lý, giảm khoản nợ ngắn hạn, tăng nợ dài hạn để đảm bảo khả năng thanh toán tức thời, tránh tình trạng để khả năng thanh toán tức thời thấp như mấy năm qua. * Biện pháp 2 : “ giảm thiểu tỷ trọng của các khoản phải thu” a. mục tiêu của biện pháp: giảm được số vốn của Xí nghiệp bị khách hàng chiếm dụng, chuyển các khoản phải thu thành tiền để trả nợ. Kết quả : giảm được chi phí trả lãi suất vốn vay, tăng vòng quay của vốn lưu động. b. Các giải pháp thực hiện: Để giải quyết kịp thời yêu cầu của quá trình thi công, ngoài viẹc sử dụng vốn cố định ra, việc sử dụng vốn lưu động là yêu cầu cần thiết. Qua phần phân tích cho thấy trong năm 2001 các khoản phải thu của Xí nghiệp chiếm trên 50% trong tổng số vốn lưu động và đầu tư ngắn hạn, trong các khoản phải thu thì các khoản phải thu của khách hàng là 27.890.000.000 đồng chiếm khoảng 93%, đó là các công trình đã nghiệm thu xong nhưng các chủ đầu tư vẫn chưa thanh toán cho Xí nghiệp dẫn đến tình trạng nợ tồn đọng kéo dài. Từ báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp cho thấy trong năm 2001 doanh thu của Xí nghiệp đạt 65.042.967.544 đồng, trong năm qua Xí nghiệp đã tích cực tìm biện pháp tăng doanh thu và lợi nhuận. Với doanh thu là 65.042.967.544 đồng trong đó: + Thanh toán trong vòng 140 ngày chiếm 80% + Thanh toán trong vòng 155 ngày chiếm 20%. Thời gian thanh toán tiền trung bình là: Như vậy Xí nghiệp để khách hàng chiếm dụng vốn là 143 ngày. Để hạn chế cho việc phải đi vay nợ đầu tư cho hoạt động sản xuất, Xí nghiệp cần tích cực tăng cường các biện pháp để thu hồi nhanh công nợ. Đây là mục tiêu đặt ra cho các nhà quản lý trong chính sách bán hàng và thu hồi công nợ sao cho việc thanh toán được thanh toán nhanh gọn nhất, giảm được lãi tiền vay. Thời gian trung bình để thu hồi các khoản nợ của khách hàng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến vốn vay và lãi vay. Vì vậy Xí nghiệp cần phải đưa ra các chính sách cơ chế ưu đãi với những khách hàng thường xuyên của Xí nghiệp và thanh toán tiền đúng hạn. Để giảm thời gian thanh toán chậm từ 143 ngày xuống Xí nghiệp cần đưa ra các giải pháp sau: - Khi tham gia đấu thầu Xí nghiệp cần tìm hiểu tình hình tài chính của các chủ đầu tư xem có đủ khả năng thanh toán tiền hàng đúng hạn hay không. - Khi làm hợp đồng ký kết cần phải ghi rõ thời hạn trả tiền, bếu đến hạn chưa thanh toán hết thì khách hàng phải chịu thêm mộ lãi suất của khoản tiền chưa thanh toán hết bằng lãi suất vay ngân hàng. - Khi đến hạn thanh toán Xí nghiệp làm văn bản đòi nợ gửi đến khách hàng, gọi điện thoại, nếu khách hàng không trả thì sau một thời gian lại làm văn bản trong đó ghi số tiền khách hàng nợ cùng với số lãi đã được tính gửi đến cho khách hàng. - Giảm giá cho những khách hàng thường xuyên của Xí nghiệp. - Giảm giá cho những khách hàng thanh toán tiền mặt và thanh toán đúng hạn. - Thưởng cho những người đến thanh toán tiền hàng sớm và đúng hạn trong hợp đồng. - Xí nghiệp cử cán bộ đi đôn đốc thu hồi công nợ, có khuyến khích khen thưởng theo tỷ lệ phần trăm số tiền đòi được. - Nếu gặp trường hợp nợ khó đòi do khách hàng khó khăn về tài chính và xét về lâu dài khách hàng không có khả năng trả nợ thì Xí nghiệp cũng cần chấp nhận phương thức đòi nợ bằng cách chiết khấu dần, nhằm thu lại các khoản nợ khó đòi. c. Kết quả thu được nhờ áp dụng biện pháp: - Năm 2001 Xí nghiệp để khách hàng chiếm dụng vốn là 143 ngày, số tiền lãi là: Giả sử năm 2002 tổng doanh thu của Xí nghiệp không thay đổi (65.042.967.544 đồng ) Xí nghiệp thực hiện tốt biện pháp thu hồi công nợ, giảm thời gian khách hàng chiếm dụng vốn xuống: + Số khách hàng ( chủ đầu tư ) trả vào 140 ngày là 50%. + Số khách hàng ( chủ đầu tư ) trả vào 155 ngày là 10%. + Số khách hàng ( chủ đầu tư ) trả vào 90 ngày là 40%. Vậy thời gian thanh toán tiền trung bình là : Tổng chi phí thu hồi công nợ: + Chi phí tiền lương cho 1 cán bộ : 331.200 đồng + Công tác phí tiền mặt ăn nghỉ: 250.000 đồng Vậy chi phí 1 tháng cho việc đi thu hồi công nợ là: 331.200 + 250.000 = 581.200 đồng x 12 tháng = 6.974.400 đồng Chi phí thưởng theo số nợ đòi được: Tổng chi phí thu hồi công nợ là: 6.974.400 + 52.034.374 = 59.008.774 đồng Thời gian khách hàng chiếm dụng vốn của Xí nghiệp là 121 ngày thì số tiền là : Tổng số tiền là: 59.008.774 + 1.836.379.783 = 1.895.388.557đồng Ta có tổng số tiền lãi tiết kiệm được là: 2.170.267.017 đồng - 1.895.388.557 đồng = 274.878.460 đồng Vậy qua biện pháp giảm thời gian thanh toán tiền hàng chậm của khách hàng ( chủ đầu tư ) thì Xí nghiệp mỗi năm đã tiết kiệm được một số tiền tường đối là 274.878.460 đồng, bổ sung đáng kể cho nguồn vốn của Xí nghiệp. Bên trên là một vài biện pháp em đưa ra để có thể phần nào giúp cho Xí nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng của vốn lưu động, từ đó tăng lợi nhuận và doanh thu của Xí nghiệp lên. * Một số kiến nghị : Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước thì Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông luôn phải tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình theo pháp luật, cơ chế chính sách quản lý của nhà nước về kinh tế. Chính vì thế, Nhà nước luôn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay một số chính sách , cơ chế quản lý Nhà nước về kinh tế chưa thực sự hợp lý, chưa tạo được động lực thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp đòi hỏi Nhà nước cần thanh toán kịp thời vốn xây dựng đối với các chủ đầu tư, để các chủ đầu tư thanh toán trả cho Xí nghiệp, bởi vì số dư nợ của các chủ đầu tư kéo dài với số lượng lớn làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. - Vốn lưu động của Xí nghiệp một phần được tài trợ bởi nguồn ngân sách nhà nước cấp, nhưng trên thực tế mới đáp ứng được ở mức thấp, điều này dẫn tới tình trạng khan hiếm vốn và Xí nghiệp phai đi vay hoặc chiếm dụng vốn nhiều. Do đó hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp không cao, lợi nhuận thấp do chi phí bị đẩy cao. Xét chung cho tất cả các doanh nghiệp nhà nước hiện nay thì vốn Nhà nước cấp mới chỉ đạt 20% vốn lưu động. Nợ phải trả của các doanh nghiệp luôn bằng 1,2 đến 1,5 lần tổng số vốn Nhà nước cấp. Đối với Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông, nhu cầu về vốn lưu động là rất lớn và cấp thiết. Vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động và tạo tiềm lực tài chính vững chức cho Xí nghiệp thì Nhà nước cần phấn đấu cấp bổ sung vốn lưu động cho Xí nghiệp với qui mô hợp lý và kịp thời hơn. - Bên cạnh đó là vấn đề về cơ chế, chính sách quản lý của nhà nước về đấu thấu trong xây dựng còn nhiều bất cập. Đấu thầu trong xây dựng là một biện pháp hiệu quả nhất hiện nay để nâng cao chất lượng công trình và hiệu quả xây dựng. Nó giúp các nhà đầu tư các công trình với chi phí thấp nhất có thể và chất lượng cao nhất. Tuy vậy cơ chế này còn có nhiều bất cập hay nói cách khác là chưa được rõ ràng nên như hiện nay có nhiều đơn vị có khả năng thiết kế và trang thiết bị hiện đại thì không nhận được thầu. Ngược lại những đơn vị không có khả năng thực hiện lại nhận được các công trình, rồi sau đó họ lại thuê lại các đon vị khác làm và hưởng một phần chênh lệch. Hoạt động đấu thầu còn chưa trung thực, phần nhiều chỉ mang tính hình thức, không hiệu quả. Tình trạng này đòi hỏi Nhà nước cần có những biện pháp ngăn chặn kịp thời thông qua kiện toàn hệ thống pháp luật để có thể quản lý tốt công tác đấu thầu. Kết luận Nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn lưu động là một hướng đi đúng không chỉ riêng với Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông mà còn đối với nhiều doanh nghiệp khác có mặt trong nền kinh tế thị trường. Trong cơ chế thị trường, nhu cầu về vốn lưu động là vô cùng lớn, đòi hỏi các doanh nghiệp phải làm sao sử dụng vốn lưu động sao cho có hiệu quả nhất để đạt được lợi nhuận cao nhất trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Để làm được điều này buộc các doanh nghiệp phải có những biện pháp quản lý và sử dụng vốn lưu động sao cho đạt hiệu quả cao nhất, tìm các biện pháp tăng vòng quay vốn lưu động để khả năng sinh lợi của vốn lưu động cao nhất. Rõ ràng trong điều kiện hiện nay, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động được khẳng định như một xu thế khách quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong sự phát triển doanh nghiệp. Đánh giá được điều này, trong thời gian qua Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông đã tìm ra cho mình một hướng đi, một phương án nâng cao hiệu quả của vốn lưu động hợp lý giúp cho Xí nghiệp thoát được những khó khăn khi bước vào nền kinh tế thị trường. Công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động trên cơ sở tận dụng nguồn nội lực hiện có, cải tiến và nâng cấp máy móc thiết bị, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân đã góp phần quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong sự phát triển như ngày nay của Xí nghiệp. Thông qua việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cao, các công trình của Xí nghiệp có chất lượng cao hơn, thi công được những công trình có yêu cầu kỹ thuật và độ chính xác cao và thực sự đã làm hài lòng khách hàng. Tuy vậy vẫn còn một số mặt hạn chế do thiếu vốn hay một số nguyên nhân khách quan và chủ quan khác. Trong thời gian tới, để giải quyết được những khó khăn này rất cần có thêm sự hỗ trợ của các ban ngành, đặc biệt là sự bảo trợ từ phía Nhà nước. Luận văn thể hiện ý kiến cá nhân với hy vọng được đóng góp một phần hết sức nhỏ bé vào việc thực hiện công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động. Tuy nhiên, do khả năng hạn chế, lý luận còn non kém nên vấn đề chưa được nêu ra hết, công tác khảo sát, nghiên cứu phương án không sao tránh khỏi những sơ suất và thiếu sót. Kính mong được sự giúp đỡ của các bạn để đề tài được hoàn thiện tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo Nguyễn Tài Vượng và các cán bộ thuộc Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông trong quá trình làm đề tài. Hà Nội, ngày tháng năm 2002 Tài liệu tham khảo Báo cáo tài chính của Xí nghiệp xây dựng công trình giao thông- năm 1999, 2000, 2001. Quản trị tài chính doanh nghiệp – Nhà xuất bản tài chính năm 1999. Trường đại học tài chính kế toán Hà Nội. Quản lý vốn lưu động trong doanh nghiệp. Nhà xuất bản thống kê. Kinh tế và quản lý – TS Ngô Trần ánh, tủ sách kinh tế kỹ thuật trường đại học bách khoa Hà Nội, nhà xuất bản thống kê. Phân tích tài chính trong doanh nghiệp – người dịch Đỗ Văn Thuận, tái bản lần thứ nhất, nhà xuất bản thống kê. Tạp chí giao thống vận tải, tháng 2,3 năm 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12254.DOC
Tài liệu liên quan