Đề tài Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp điện tử Truyền hình - VTC trong thời gian qua

Tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp điện tử Truyền hình - VTC trong thời gian qua: Lời nói đầu Sau khi nền kinh tế thị trường chính thức được xác lập ở Việt Nam các doanh nghiệp đều gặp những khó khăn gay gắt chưa từng có, làm giảm sút lợi nhuận và có nguy cơ phá sản "hoạt động kém hiệu quả" là cụm từ quen thuộc đối với các doanh nghiệp. Đâu là nguyên nhân của vấn đề và biện pháp nào cần được thực thi nhằm đưa các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Mục đích của bài viết là áp dụng những lý thiết đã được trang bị để thực tập giải quyết và Xí nghiệp Điện tử Truyền hình - Công ty đầu tư và phát triển công nghệ truyền hình VTC được lấy làm cơ sở cho việc phân tích. Kết quả của việc phân tích là thực trạng hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp và sau đó là các biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian tới. Nội dung cơ bản và kết cấu của chuyên đề nghiên cứu gồm 3 chương Chương I: Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Chương II: Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của Xí ng...

doc70 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1044 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp điện tử Truyền hình - VTC trong thời gian qua, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sau khi nền kinh tế thị trường chính thức được xác lập ở Việt Nam các doanh nghiệp đều gặp những khó khăn gay gắt chưa từng có, làm giảm sút lợi nhuận và có nguy cơ phá sản "hoạt động kém hiệu quả" là cụm từ quen thuộc đối với các doanh nghiệp. Đâu là nguyên nhân của vấn đề và biện pháp nào cần được thực thi nhằm đưa các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Mục đích của bài viết là áp dụng những lý thiết đã được trang bị để thực tập giải quyết và Xí nghiệp Điện tử Truyền hình - Công ty đầu tư và phát triển công nghệ truyền hình VTC được lấy làm cơ sở cho việc phân tích. Kết quả của việc phân tích là thực trạng hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp và sau đó là các biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian tới. Nội dung cơ bản và kết cấu của chuyên đề nghiên cứu gồm 3 chương Chương I: Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Chương II: Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp điện tử Truyền hình - VTC trong thời gian qua. Chương III: Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp điện tử Truyền hình trong thời gian tới. Bài viết khó tránh khỏi những đánh giá chưa sát thực hoặc phần do chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm. Tuy nhiên những vấn đề được nêu và đánh giá trên tinh thần của nguyên tắc khách quan căn cứ vào thực tiễn để tìm nguyên nhân và đưa ra giải pháp. Em xin đặc biệt cảm ơn thầy giáo Nguyễn Việt Hưng vì đã hết sức tận tình giúp em thực hiện chuyên đề trong việc đưa ra những chỉ dẫn về phương pháp và kinh nghiệm xin chân thành cảm ơn anh Hà, Chị Phương... và các cô các chú, các anh chị trong cơ quan đã nhiệt tình cung cấp các số liệu và trả lời những vướng mắc trong thời gian thực tập. Chương I Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp 1. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp. a. Khái niệm về hiệu quả kinh tế. Từ trước tới nay các nhà kinh tế đa đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra tức giá trị sử dụng của nó (hoặc là doanh nghiệp thuần và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh ). Quan điểm này lẫn lộn giữa hiệu quả với mục tiêu kinh doanh. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự tăng trưởng kinh tế phản ánh qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này là phiến diện, chỉ đứng trên mức độ biến động của thời gian. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả. Đây là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả chi phí. Định nghĩa như vậy chỉ muốn nói về cách xác lập các chỉ tiêu, chứ không toát lên ý niệm của vấn đề. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng của kết quả sản xuất kinh doanh trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của sản xuất kinh doanh. Quan điểm này muốn quy hiệu quả về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó, bởi vậy cần có khái niệm bao quát hơn. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác của nguồn lực đó trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh gía việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Cụ thể ra hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn) nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định là tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá chi phí. b. Bản chất hiệu qủ kinh tế. Bản chất của hiệu qủa sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm các nguồn lực sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để các nguồn lực. Để đạt được các mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực có của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm chi phí. Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua, hay là giá trị của việc hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thật sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn. 2. Những quan điểm về hiệu quả kinh tế - Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trên góc độ này mà xem xét thì phạm trù hiệu quả có thể đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý trong doanh nghiệp. - Nếu đứng trên từng yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả là thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh. - Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo cơ bản của lợi ích là " tiền". Vấn đề cơ bản trong lĩnh vực quản lý là phải biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích trung ương và địa phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước. - Hiệu quả kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể vừa là phạm trù trừu tượng. Nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng thành các con số, chỉ tiêu để tính toán so sánh; nếu là phạm trù trừu tượng phải định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Cụ thể nói rằng phạm trù hiệu quả là kiến thức thường trực của mọi cán bộ quản lý, được ứng dụng rộng rãi vào mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trên các nội dung vừa phân tích, ta có thể chia hiệu quả làm hai loại: - Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì có phạm trù hiệu quả kinh tế hoặc hiệu quả kinh doanh. - Nếu đứng trên phạm vi xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét thì có hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Cả hai loại hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chỉ có doanh nghiệp nhà nước có điều kiện thực hiện được hai loại hiệu quả trên, còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác chỉ chạy theo hiệu quả kinh tế. Đứng trên góc độ này mà xem xét thì sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế hiện nay là một tất yếu khách quan. Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt được trong các trường hợp sau: - Kết quả tăng, chi phí giảm. - Kết quả tăng, chi phí tăng, nhưng tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh. Trường hợp thứ hai diễn ra chậm hơn và trong sản xuất kinh doanh có lúc chúng ta phải chấp nhận: thời gian đầu tốc độ tăng của chi phí lớn hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh, nếu không thì doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển được. Trường hợp này diễn ra vào thời điểm khi chúng ta đổi mới công nghệ, đổi mới mặt hàng hoặc phát triển thị trường mới... Đây chính là bài toán cân nhắc giữa kết hợp lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Thông thường thì mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện tối thiểu nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải tạo ra thu nhập và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ, để bù đắp chi phí bỏ ra sản xuất hàng hoá và dịch vụ ấy. Còn mục tiêu phát triển của doanh nghiệp đòi hỏi quá trình sản xuất kinh doanh vừa đảm bảo bù đắp chi phí bỏ ra vừa có tích luỹ để tiếp tục quá trình tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất. Đây là mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp. 3. Những nguyên tắc để xem xét hiệu quả kinh tế Trong thực tiễn không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả kinh tế và chính điều này đã làm triệt tiêu những cố gắng nỗ lực của họ mặc dù ai cũng muốn làm tăng hiệu quả kinh tế. Như vậy khi đề cập đến hiệu qủa kinh tế chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. a.Về mặt thời gian Sự toàn diện của hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xem xét trong thời kỳ dài hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả chu kỳ sau. Trong thực tế không ít các trường hợp chỉ thấy lợi ích trước mắt, thiếu xem xét toàn diện và lâu dài, những vi phạm này dễ xảy ra trong trường hợp nhập về một số máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu... hoặc ồ ạt xuất các tài nguyên thiên nhiên.... Việc giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc toàn diện và lâu dài các chi phí cải tạo môi trường tự nhiên đảm bảo cân nhắc sinh thái, bảo dưỡng, hiện đại hoá đổi mới TSCĐ, nâng cao toàn diện trình độ chất lượng người lao động... nhờ đó làm mối tương quan thu chi giảm đi, cho rằng như thế là có " hiệu quả", không thể được coi là hiệu qủa chính đáng và toàn diện được. Như vậy ta thấy rằng không phải lúc nào giảm chi phí cũng nâng cao hiệu quả kinh tế mà việc giảm chi phí phải kết hợp được lợi ích trước mắt là lâu dài. b. Về mặt không gian Có hiệu qủa kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào chỗ hiệu quả hoạt động kinh tế cụ thể nào đó ảnh hưởng tăng giảm như thế nào đến hiệu quả kinh tế của cả hệ thống mà có liên quan tức giữa ngành kinh tế này với ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống, giữa hiệu quả kinh tế với việc thực hiện các nhiệm vụ khác ngoài kinh tế. Chằng hạn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu được phép nhập các xe gắn máy dưới dạng CKD thì lợi nhuận đem laị là rất lớn song lại ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình sản xuất và tiêu thụ của Xí nghiệp sản xuất xe máy trong nước. Như vậy, với nỗ lực được tính từ giải pháp kinh tế tổ chức - kỹ thuật nào đó dự định áp dụng vào thực tiễn đều phải được đặt vào sự xem xét toàn diện. Khi hiệu quả ấy không làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân thì nó mới được coi là hiệu quả kinh tế. c. Về mặt định lượng Hiệu quả kinh tế phải được thể hiện qua mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng giảm chi. Điều đó có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa chi phí sản xuất kinh doanh mà thực chất là hao phí lao động (lao động sống và lao động vật hoá) để tạo ra một đơn vị sản xuất có ích nhất. Nếu xem xét về tổng lượng thu được người ta chỉ thu được hiệu quả sản xuất kinh doanh khi kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra, chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao. d. Về mặt định tính Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội. Dành được hiệu quả cao cho doanh nghiệp chưa phải là đủ mà còn đòi hỏi mang lại hiệu quả cho xã hội. Trong những trường hợp, hiệu quả toàn xã hội là mặt có tính quyết định khi lựa chọn một giải pháp kinh tế, dù xét về mặt kinh tế nó chưa hoàn toàn được thoả mãn. Theo đánh gia của các chuyên gia, việc đặt nhà máy lọc dầu tại Dung Quất - Quảng Ngãi là không khả thi khi xét về tính kinh tế của nó nhưng hiệu quả của toàn xã hội rất cao thể hiện qua nâng cao dân trí, tạo việc làm thu nhập, đời sống cho dân và cân bằng phát triển giữa ba miền Bắc - Trung - Nam. Như vậy trong bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, khi đánh giá hiệu quả của hoạt động ấy không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả được mà còn đánh giá chất lượng của kết quả đạt được. Có như vậy thì hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mới được đánh giá một cách toàn diện. Kết quả đạt được trong sản xuất mới đảm bảo được yêu cầu tiêu dùng của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Nhưng kết quả tạo ra ở mức nào, với giá trị nào, đó chính là vấn đề cần xem xét vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Vì thế đánh giá hoạt động sản xuất không chỉ đánh giá xem xét người sản xuất tạo ra kết quả bằng phương tiện gì, bằng cách nào với chi phí là bao nhiêu. Ngoài ra, nhu cầu dùng của con người bao giời cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Do đó, vấn đề mà con người quan tâm nhất là làm sao với khả năng hiện có tạo nhiều sản phẩm nhất, chính ở đây nảy sinh vấn đề phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được kết qủa cao nhất. Vì vậy nhầm lẫn giữa kết quả của hiệu quả là không thấy hết phạm trù của yêu cầu tiếtg kiệm - Bản chất của hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở mức khái quát là kết quả của hiệu quả kinh tế được biểu hiện quan hệ giữa kết quả sản xuất với chi phí lao động xã hội. Như vậy, đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, việc nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp phải luôn gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đơn vị phải bảo đảm hiệu quả kinh tế của ngành, địa phương. 4. Mục tiêu và ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế. a. Mục tiêu của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế - Về kinh tế: doanh nghiệp thực hiện tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển phải đảm bảo mang lại hiệu quả kinh tế nhất định. Hay nói cách khác là hoạt động có lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao, ít nhất là thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Nếu một doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong thời gian ngắn với lý do đặc biệt nào đó thì có thể chấp nhận được, hiệu quả hoạt động nhằm mục đích duy trì, mở rộng sản xuất, phát triển doanh nghiệp ngày một lớn mạnh không ngừng. - Về xã hội: Các doanh nghiệp hoạt động làm sao cho ngày càng thoả mãn nhu cầu và quyền lợi của mọi thành viên trong doanh nghiệp như thu thập, việc làm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Bảo vệ, duy trì, phát triển quyền lợi của các bạn hàng cũng như người tiêu dùng. Thực hiện công tác từ thiện, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên của đất nước. - Về chính trị: đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả thì ngoài khoản nộp ngân sách còn củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước. Nhà nước có đủ sức mạnh để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định. Như vậy, để đạt được các mục tiêu trên, doanh nghiệp phải bảo đảm và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. b. ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của các doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một phương thức hoạt động riệng, hoạch định chiến lược, phản ánh kinh doanh một cách phù hợp và có hiệu quả. Cụ thể là doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ chế hoạt động trên cả thị trường đầu vào và đầu ra để tạo được một kết qủa này phải không phát triển nâng cao về mặt chất lượng. Như vậy trong cơ chế thị trường việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó được thể hiện thông qua: Trước hết ta xem xét ý nghĩa kinh tế và xã hội của hiệu quả sản xuất kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp (tầm vi mô). Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở đảm bảo tồn tại và phát triển cho doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại này, vì khi hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt có nghĩa là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Điều đó cũng đồng nghĩa với tăng lợi nhuận. Nó giúp doanh nghiệp tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi dây chuyền công nghệ, trang thiết bị, có điều kiện đào tạo cán bộ quản lý và công nhân viên được nâng cao. Hơn nữa nó giải quyết được một khối lượng công ăn việc làm cho chính lao động trong doanh nghiệp và cho xã hội. Qua phân tích ta thấy rằng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy hiệu quả kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng trong việc bảo đảm sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu vào tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là về mặt hàng mà về chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm cho các doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể các doanh nghiệp không thể trụ vững trên thị trường. Để đạt được mục tiêu trên thì doanh nghiệp phải có hàng hoá, dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mặc khác hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng lượng hàng hoá bán ra, chất lượng không ngừng được cải thiện, nâng cao. Thứ ba, việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố cơ bản tạo ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp. Muốn thắng lợi cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn có ý nghĩa quan trọng hơn nữa khi ta nhìn nhận nó ở giác độ toàn xã hội - tức ở tầm vĩ mô . Thực tế ngân sách của nhà nước chủ yếu từ việc thu thuế của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Vì vậy khi nền kinh tế hoạt động không có hiệu quả (các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả ) cũng có nghĩa là ngân sách không thu đủ theo kế hoạch. Điều này làm cho việc giải quyết những mục tiêu, kế hoạch mà nhà nước cần thực hiện cho xã hội trở nên khó khăn, thậm chí không thực hiện được. Ngược lại, khi nền kinh tế hoạt động có hiệu quả thì ý nghĩa của nó được thể hiện một cách cụ thể qua các kết quả thực hiện các mục tiêu nhất định của xã hội: giải quyết công ăn việc làm trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu kinh tế, giảm số người thất nghiệp và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người dân, đảm bảo mức sống hợp lý cho người lao động vệ sinh môi trường;... Trong trường hợp đó hiệu quả sản xuất kinh doanh thực sự là nhân tố cơ bản làm cho đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. 5. Nội dung chủ yếu của việc xác định hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Khi đánh giá hiệu quả hoạt động của mọi doanh nghiệp cần phải dựa vào một hệ thống các tiêu chuẩn, bao gồm: a. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp . Hệ số sử dụng lao động = Tổng số lao động được sử dụng Tổng số lao động hiện có Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng lao động của doanh nghiệp, số lao động của doanh nghiệp đã sử dụng hết chưa, tiết kiệm hay lãng phí nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra biện pháp khắc phục nhằm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lao động của doanh nghiệp. Năng suất lao động = Doanh thu trong kỳ Lao động trong kỳ Chỉ tiêu này cho thấy một lao động tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ - Lợi nhuận bình quân/ 1lao động = Lợi nhuận trong kỳ Lao động trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh với mỗi lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Dựa vào chỉ tiêu này để so sánh mức tăng hiệu quả của mỗi lao động trong kỳ. b. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Đối với ngành vận tải ô tô ta sử dụng hai chỉ tiêu sau: - Sức sản xuất của cố định = Doanh thu trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định bình quân tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. - Sức sinh lời của vốn cố định = Lợi nhuận ròng trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định bình quân tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. c. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưuđộng - Sức sản xuất của vốn lưu động = Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Nếu chỉ tiêu này qua các kỳ tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng. - Sức sinh lời của vốn lưu động = Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho ta biết với một đồng vốn lưu động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ số này càng cao càng tốt, chứng tỏ hiệu quả trong việc sử dụng vốn lưu động. - Tốc độ luân chuyển vốn: trong quá trình sản xuất kinh doanh, nguồn vốn lưu động thường xuyên vận động không ngừng, nó tồn tại ở các dạng khác nhau. Có khi là tiền, hàng hoá, vật tư, bán thành phẩm... đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Do đó việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết ách tắc, đình trệ của vốn, giải quyết nhanh nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp , nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp . Thông thường sử dụng các chỉ tiêu sau để đánhgiá tốc độ luân chuyển vốn trong doanh nghiệp . + Số vòng quay của vốn lưu động = Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, chứng tỏ vòng quay của vốn lưu động tăng nhanh, điều này thể hiện việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và ngược lại. + = Thời gian này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại + Hệ sôs đảm nhiệ vốn lưu động = Chỉ tiêu này cho biết phải mất bao nhiêu đồng vốn lưu động để tạo ra được một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. d. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp. Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , được dùng để phản ánh chính xác hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và được dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp vớinhau và so sánh trong các doanh nghiệp qua cá thời kỳ để xem xét các thời kỳ doanh nghiệp hoạt động có đạt hiệu quả cao hơn hay không. - Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu = Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng, cho biết hiệu quả của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng doanh thu. Nó khuyến khích các doanh nghiệp tăng doanh thu giảm chi phí. Nhưng để có hiệu quả thì tốc độ tăng doanh thu phải nhỏ hơn lợi nhuận. - Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh mức độ lợi ích của chủ sở hữu. - Tỷ suất lợi nhuận theo v ốn sản xuất = Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh . Một đồng vốn kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, nó phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp , chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. - Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí = Chỉ tiêu này phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố chi phí trong sản xuất . Nó cho thấy với một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này có hiệu quả nếu tốc độ tăng lợi nhuận nhanh hơn tốc độ tăng chi phí = Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí tạo ra bao nhiều đồng doanh thu - Doanh thu trên một đồng vốn sản xuất = Doanh thu trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho thấy với một đồng vốn kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt Công thức xác định các chỉ tiêu trên được hệ thống theo biểu sau đây: Bảng 1: Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh Tên chỉ tiêu Công thức xác định 1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Hệ số sử dụng lao động Năng xuất lao động - Lợi nhuận bình quân / 1 lao động Tổng số lao động được sử dụng Tổng số lao động hiện có Doanh thu trong kỳ Lao động bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Lao động bình quân trong kỳ 2. Nhóm chỉ tiêu đánhgiá hiệu qủa sử dụng vốn cố định - Sức sản xuất của vốn cố định - Sức sinh lời của vốn cố định Doanh thu trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ 3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động - Sức sản xuất của vốn lưu động - Sức sinh lời của vốn lưu động - Số vòng quay của vốn lưu động - Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay - Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Donh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ 365 ngày Số vòng quay vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Doanh thu trong kỳ 4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp - Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu - Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất - Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí Doanh thu trên một đồng chi phí Doanh thu trên một đồng vốn sản xuất Lợi nhuận trong kỳ Doanh thu trong kỳ Lợi nhuận ròng Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận trong kỳ Vốn kinh doanh trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Doanh thu trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Doanh thu trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ e. Nhóm chuyên sét về mặt hiệu quả kinh tế - xã hội. Các doanh nghiệp ngoài việc hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhằm tồn tại và phát triển còn phải đạt hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế xã hội bao gồm các chỉ tiêu sau: - Tăng thu ngân sách: mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức các loại thuế GTGT, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Nhà nước sử dụng những khoản thu này đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân, lĩnh vực phi sản xuất, xây dựng các công trình công cộng, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. - Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm và kinh doanh tổng hợp. - Nâng cao đời sống người lao động: xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội. - Tái phân phối lợi tức xã hội: sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế xã hội giữa các vùng, các lãnh thổ trong nước yêu cầu phải có sự phân phối lợi tức xã hội nhằm giảm sự chênh lệch về mặt kinh tế giữa các vùng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện nay, hiệu quả kinh tế xã hội còn thể hiện qua chỉ tiêu: bảo vệ nguồn lợi môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 6. Một số kinh nghiệm nhằm góp phần nâng cao và bảo đảm hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp vận tải ô tô. Bên cạnh những vướng mắc còn tồn tại của ngành nói chung và xí nghiệp điện tử truyền hình nói riêng, xí nghiệp cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong quá trình thích ứng với cơ chế mới. + Chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước được Xí nghiệp tiếp nhận kịp thời và quán triệt đến từng bộ phận, cán bộ, đảng viên, công nhân. Từ đó thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng bộ cơ quan. + Xí nghiệp có truyền thống đoàn kết nhất trí giữa chính quyền đoàn thể dưới sự chỉ đạo của Đảng uỷ và ban Giám đốc, tạo sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn trong qúa trình đổi mới. + Khuyến khích mọi người tham gia khai khác hàng hoá không ngừng đạt hiệu quả cao. + Chủ động mở rộng ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm phát huy thế mạnh nội lực của Xí nghiệp, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên chức trong Xí nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp nhằm duy trì và phát triển Xí nghiệp lớn mạnh, đứng vững trên thị trường, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. +Tích cực nghiêu cứu, sản xuất và nhập những công nghệ mới, tiên tiến gắn liền với sự sắp xếp hợp lý của cán bộ công nhân viên chức trong Xí nghiệp để họ chủ động sáng tạo sản xuất kinh doanh. + Phát động phong trào thi đua nhằm không ngừng nâng cao chất lượng các sản phẩm của Xí nghiệp đồng thời cử các nhân viên có kỹ năng kỹ xảo tốt về các tỉnh mà xí nghiệp đã đang và sắp cung cấp sản phẩm giúp cho người sử dụng giảm thiểu được những sai sót do họ không hiểu biết nhiều về sản phẩm. Ngoài ra trên từng sản phẩm xí nghiệp cũng luôn ghi rõ và dễ hiểu cách sử dụng và bảo quản giúp cho chu kỳ sống của sản phẩm không ngừng được nâng cao. - Xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm phá vỡ hợp đồng đối với khách hàng do thiếu tinh thần trách nhiệm như trở hàng đi phục vụ ở vùng sâu, vùng xa mà để cho hàng giảm chất lượng, lắp ráp ẩu.... bởi vì hàng của xí nghiệp chín phần lớn là các sản phẩm phục vụ cho sự phát triển cân đối giữa thành thị và vùng sâu vùng xa giúp cho mọi người dân mở mang kiến thức thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Giáo dục tinh thần nhiệt tình chu đáo, đáng tin cậy của các cán bộ công nhân viên khi nhận hàng cũng như giao hàng để nâng cao uy tín cho xí nghiệp. Chương II Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của xí nghiệp ĐTTH trong thời gian qua I. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp 1. Quá trình hình thành Xí nghiệp ĐTTH là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Xí nghiệp đầu tư và phát triển công nghệ truyền hình Việt Nam. Tổng Giám Đốc Đài Truyền Hình Việt Nam căn cứ vào: - Nghị định số 52 /CP ngày 16/8/1993 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức bộ máy của Đài truyền hình Việt Nam. - Quyết định số 918 QĐ/TC - THVN ngày 10/12/1996 của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn về tổ chức bộ máy của doanh nghiệp nhà nước: Xí nghiệp đầu tư phát triển công nghệ truyền hình Việt Nam - VTC - Điều lệ tổ chức và hoạt động của Xí nghiệp Đầu tư và phát triển công nghệ Truyền hình Việt Nam được tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam phê duyệt kèm theo quyết định số 979 QD/TC - THVN ngày 12/12/1996. - Căn cứ vào đề nghị của giám đốc Xí nghiệp Đầu tư và phát triển công nghệ truyền hình Việt Nam - VTC và trưởng ban tổ chức cán bộ Đào tạo. Quyết định số 986 QĐ/TC - THVN ngày 12/12/1996 về việc thành lập Xí nghiệp ĐTTH. - Xí nghiệp ĐTTH trực thuộc Xí nghiệp Đầu tư và phát triển công nghiệp Truyền hình Việt Nam - VTC. Xí nghiệp ĐTH là đơn vị hạch toán phụ thuộc có con dấu riêng, được mở Tài khoản tại các ngân hàng - Trụ sở Xí nghiệp ĐTTH đặt tại số 9 - phố Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, nay đổi thành số 65 - phố Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. 2. Quá trình phát triển - Giai đoạn trước 12/12/1996: Xí nghiệp chưa được thành lập - Giai đoạn từ 12/12/1996 đến nay: Trước những khó khăn của cơ chế thị trường nhưng doanh thu của Xí nghiệp vẫn liên tục tăng năm 1997 doanh thu mới có 20,5 tỷ đến năm 2001 doanh thu của Xí nghiệp đã tăng lên đến 32,5 tỷ. Để đạt được kết qủa như thế Xí nghiệp đã thực hiện một số vấn đề sau: + Đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị +Tinh giảm liên tục bộ máy quản lý + Thực hiện chế độ khoán quản đến từng bộ phận, từng cán bộ công nhân viên để không ngừng nâng cao tính chủ động sáng tạo của họ. Với những nỗ lực như vậy sau khi thành lập đến nay Xí nghiệp luôn hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước giao, doanh thu không ngừng tăng qua các năm tuy nhiên do vẫn còn nhiều chi phí chưa hợp lý nên lợi nhuận đạt được vẫn chưa cao. Năm 2002 Xí nghiệp tiếp tục thực hiện biện pháp đã đề ra trước đó đồng thời định hướng những vấn đề mới. + Mở rộng ngành nghề kinh doanh + Chuẩn bị triển khai kế hoạch xuất khẩu sang Lào, ANGOLa + Ký kết hợp đồng sửa chữa và lắp ráp máy thu thanh, thu hình và các thiết bị điện tử khác cho các nước.... 3. Chức năng nhiệm vụ của Xí nghiệp ĐTTH - Lắp ráp máy thu hình, thu thanh, máyphát hình, phát thanh và các thiết bị điện tử khác. - Sửa chữa và bảo hành các thiết bị điện tử cho ngành phát thanh truyền hình dân dụng. - Kinh doanh và phục vụ cho việc lắp ráp và cung ứng ra thị trường trong và ngoài nước. 4. Cơ sở vật chất thiết bị kỹ thuật a. Cơ sở làm việc, nhà xưởng Xí nghiệp ĐTTH có trụ sở tại số 9 (Nay đổi thành 65) Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Tổng diện tích là 2400m2. b. Về trang thiết bị kỹ thuật Xí nghiệp có dây chuyền lắp ráp máy thu thanh máy thu hình và các thiết bị điện tử các dạng IKD, CKD, SKD dây chuyền khép kín đồng bộ nhập từ nước ngoài . Dây chuyền sản xuất, lắp ráp các loại máy thu hình, máy thu thanh, Radio Catssete và các sản phẩm điện tử khác từ linh kiện rời (IKD, CKD....) Công suất từ 15.000 - 180000 chiếc radio/tháng; 100 - 150 chiếc ti vi màu 20''/ngày; 500 - 800 chiế ti vi đen trắng/ngày. Có hệ thống thiết bị chuyên dụng như: Thiết bị trung tâm gồm các loại máy phát FM, AM, SW, máy đo độ nhạy đầu vào, máy đo mức độ tạp âm của đầu radio, máy phát chuẩn, tròn, chấm, carô, máy phát quét, máy phát sọc màu hệ PAL, SECAM, HTSC đồng thời có các máy đo Ô xylô và hệ thống cân chỉnh khác. Hệ thống chạy là, kiểm tra độ rung, độ bền chắc, nhiệt độ cao, điện áp cao.... có máy đo kiểm tra độ nhạy (dB) và kiểm soát được trong các tần số bang MW, SW, FM của sóng radio và tần số các băng VL, VH, UHF của máy thu hình. Ngoài ra Xí nghiệp còn có phương tiện vận tải phục vụ cho công tác kinh doanh, sau bán hàng và bảo hành thiết bị bán ra do Xí nghiệp cung ứng. 5. Về năng lực kỹ thuật Xí nghiệp ĐTTH có đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật lành nghề có kinh nghiệm và uy tín. Xí nghiệp đã tổ chứ sản xuất lắp ráp các loại máy thu thanh, radio catssete và các loại máy thu hình màu từ 14'' đến 29'' ở các dạng IKD, CKD. Do có kinh nghiệm về chuyên ngành nên trong những năm qua đã tổ chức sản xuất, lắp ráp các loại máy có chất lượng tốt phù hợp với điều kiện của từng vùng, đồng bộ với điều kiện phát sóng hiện tại của Đài truyền hình Việt Nam và đài Tiếng nói Việt Nam, máy thu thanh, máy thu hình của Xí nghiệp lắp ráp đã được cơ quan quản lý chất lượng của ngành chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng Hà Nội và Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng nhà nước kiểm tra, đánh giá các thông số kỹ thuật theo tiêu chuẩn Việt Nam. Xí nghiệp đã xác định được đặc điểm của sản phẩm là mang tính chất xã hội cao. Đây không chỉ là một loại hàng hoá thông thường mà hàng hoá này phải đặt trong mối quan hệ cung ứng gắn liền với trách nhiệm lâu dài của ngành phát thanh - truyền hình. Do vậy trách nhiệm trước mắt và lâu dài của Xí nghiệp là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm kết hợp với thực hiện các biện pháp đồng bộ về trang bị, dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng, bảo trì. Xí nghiệp còn tổ chức bảo hành chuyên nghiệp gồm 20 cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề với đầy đủ dụng cụ phục vụ sửa chữa bảo hành, có phương tiện phục vụ đi lại, có sức khoẻ tốt. Hàng tháng có tổ chức họp bàn biện pháp và rút kinh nghiệm, có sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí phó giám đốc kỹ thuật. Xí nghiệp có tổ chức sửa chữa bảo hành luôn theo dõi chặt chẽ số lượng máy của các địa phương đã được cấp phát, để lập sổ theo dõi bảo hành. Thường xuyên liên lạc với các tỉnh, huyện thậm chí các xã để bảo hành kịp thời, tại chỗ hoặc hướng dẫn đi xa qua mạng lưới cán bộ kỹ thuật của đài tỉnh, huyện khi có trường hợp máy bị hư hỏng. 6. Về năng lực tài chính - Vốn kinh doanh là 79 tỷ trong đó + Vốn cố định 62 tỷ +Vốn vay 17 tỷ Bao gồm các nguồn vốn + Vốn chủ sở hữu 62 tỷ + Vốn vay 17 tỷ - Tài khoản và các ngân hàng hoạt động + Tài khoản nội tệ 431101000150 ngân hàng nông nghiệp Hà Nội + Tài khoản ngoại tệ 36111104775 ngân hàng ngoại thương Việt Nam 7. Về khách hàng của Xí nghiệp Từ khi thành lập tới nay khách hàng chủ yếu của Xí nghiệp là các đài phát thanh - truyền hình khu vực và các địa phương, tạo mới mới quan hệ tốt với các cơ quan ở các địa phương, giúp đỡ các địa phương phát triển ngành phát thanh - truyền hình các tỉnh mà Xí nghiệp đã và đang cung cấp là: Lạng Sơn, Gia Lai, Đăklăk, Lâm Đồng, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Yên Bái, Lai Châu, Thanh Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang.... 8. Về tổ chức bộ máy của Xí nghiệp Sơ đồ tổ chức của Xí nghiệp ĐTTH Giám đốc Phó GĐ phụ trách tài chính Phó GĐ phụ trách kinh doanh Phó GĐ phụ trách nhân sự và sản xuất Văn phòng Xí nghiệp Phòng tài chính Phòng kinh doanh Phòng tổ chức hành chính Phân xưởng sản xuất Quản đốc phân xưởng Phó quản đốc phụ trách CKD Phó quản đốc phụ trách SKD Ta biết rằng bộ máy quản trị là trung tâm đầu não chỉ huy mọi hoạt động của Xí nghiệp và hiệu quả hoạt động của nó hoàn toàn do nó quyết định, mọi phương hướng, kế hoạch hoạt động trong mọi hoàn cảnh, thời gian, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn Xí nghiệp phải vượt qua. Điều quan trọng của bộ máy quản trị là biết đưa ra giải pháp đúng đắn, kịp thời, hợp lý trước bất cứ tình huống nào. Có thể nói rằng đường lối mà bộ máy quản trị vạch ra không đơn thuần có tác dụng tức thời mà có ảnh hưởng lâu dài tới hoạt động và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp, nếu những kế hoạch định hướng đúng sẽ Xí nghiệp vượt qua những thử thách và phát triển nhanh chóng vượt bậc, ngược lại nếu sai lầm có thể làm Xí nghiệp phá sản là đều hoàn toàn có thể xảy ra. Chẳng hạn, hiện tại Xí nghiệp đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như cạnh tranh quá gay gắt đẩy Xí nghiệp vào tình thế một mất một còn, thiếu vốn rong khi dây chuyền sản xuất đã quá cũ và kém sức cạnh tranh về sản phẩm trên vào đó giả cả radio, Ti vi liên tục giảm, tăng chi phí ... Nếu bộ máy quản trị không đưa ra được những biện pháp kịp thời, đúng đắn thì hậu quả thật khó lường. Khi nhân mạnh đến tầm quan trọng của bộ máy quản trị để từ đó chúng ta có những biện pháp thiết thực để tổ chức bộ máy quản trị đủ sức để tiều hành, quản lý Xí nghiệp có hiệu quả nhất. Hiệu quả của một bộ máy quản trị thể hiện qua kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể là doanh thu, lợi nhuận, của người lao động trong Xí nghiệp và mức nộp ngân sách. - Phòng tài chính kế toán: Chịu sự điều hành quản lý trực tiếp của phó giám đốc phụ trách tài chính, là phòng có chức năng phản ánh và giám đốc cả hoạt động kinh tế trong tàon Xí nghiệp. Phòng tài chính kế toán giữ vụ trí quan trọng trong việc điều hành quản lý kinh tế, thông tin kinh tế trên mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Phòng có chứ năng kiểm tra việc sử dụng, tài sản, tiền vốn đưa vào sản xuất phải đảm bảo đúng chế độ, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao. - Phòng kinh doanh: chịu sự điều hành trực tiếp của phó giám đốc phục trách kinh doanh: Phòng kinh doanh đảm nhận công việc nghiên cứu và phát triển thị trường. Ngoài ra phòng kinh doanh còn thực hiện cả công tác tiêu thụ sản phẩm và Marketing. Phối hợp mật thiết với các phòng khác để lên kế hoạch sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. - Phòng tổ chức hành chính: chịu sự điều hành trực tiếp của phó giám đốc phụ trách sản xuất thực hiện kế hoạch tổ chức, tuyển mộ, đào tạo... cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp. - Phân xưởng sản xuất: chịu trách nhiệm về việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch đã đề ra đồng thời làm tham mưu cho giám đốc trong quá trình đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ.... 9. Về công tác lao động - tiền lương Vấn đề lao động, việc làm, chính sách và đời sống xã hội luôn làm nảy sinh những mâu thuẫn phức tạp đòi hỏi giải quyết từng bước một không thể ngày một ngày hai là xong. Yêu cầu tinh giảm đội ngũ lao động, chỉ giữ lại những người có khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc quan hệ chặt chẽ với việc nâng cao chất lượng cũng như đời sống của người lao động vì thế công tác tổ chức lao động phải luôn đi trước một bước trong quá trình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Song đi sâu vào từng việc, từng trường hợp, từng con người cụ thể lại không phải là điều dễ dàng vì nó liên quan đến đời sống, danh dự, chính sách về lao động của từng cán bộ nhất là những người đã từng gắn bó với Xí nghiệp trong thời gian khổ vì vinh quang. Chính vì vậy điều kiện hiện nay Xí nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, hạch toán kinh tế độc lập thì hiệu quả phải đặt lên hàng đầu, thực hiện nó chỉ là vấn đề thời gian. Lao động là nhân tố quan trọng nhất ba nhân tố tham gia vào hoạt động sản xuất. Chất lượng lao động, bố trí, sử dụng đúng người, đúng việc, có cơ chế đãi ngộ hợp lý sẽ là nguồn nhân tố quyết định đến việc tăng năng suất lao động. Nói tóm lại con người là yếu tố quan trọng nhất. Chính nó quyết định trình độ sử dụng các nguồn lực khác. Trình độ sử dụng vốn cố định, vốn lưu động tạo ra doanh thu, lợi nhuận, bao nhiêu cho Xí nghiệp, nộp ngân sách cho nhà nước đúng và đủ, hạ giá thành, tiết kiệm chi phí, bảo dưỡng sửa chữa, vận hành máy móc thiết bị tốt hay xấu đều do con người quyết định. Trong những năm qua Xí nghiệp có những thay đổi trong bố trí, xắp xếp cho cán bộ công nhân viên. Bảng 1: Tình hình sử dụng lao động Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số lượng lao động đầu kỳ 78 76 75 Tăng trong kỳ 1 1 3 Giảm trong kỳ, trong đó 3 2 3 - Nghỉ hưu 1 0 1 - Nghỉ chờ hưu 0 1 0 - Chấm dứt hợp đồng lao động 1 0 1 - Thuyên chuyển 0 1 0 - Giảm khác 1 0 1 Tổng số lao động cuối kỳ 76 75 75 - Tổng số lao động đang làm việc 76 75 75 - Số hưu chờ 0 0 0 - Số chờ giải quyết việc làm 0 0 Nguồn: Phòng tổ chức hành chính Để gắn bó trách nhiệm và quyền lợi của người lao động với hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, ban Giám đốc đã ban hành quy chế quản lý quỹ lương và trả lương cho cán bộ công nhân viên theo sản phẩm và theo công việc bở vì tiền lương, nó chính là thành quả của người lao động tạo ra. Nếu tiền lương tương xứng với sức lao động bỏ ra, tương đương với tính chất công việc sẽ kết thúc đẩy người lao động hoàn thành công việc một cách sớm nhất và tốt nhất, khuyến khích họ nâng cao năng suất lao động, một người làm việc bằng hai và vị thế có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất. Tóm lại, nếu như cách trả lương phù hợp sẽ nâng cao được năng suất lao động, hiệu quả hoạt động cho Xí nghiệp. Chính vì vậy Xí nghiệp đã áp dụng một số hình thức trả lương thích hợp với từng loại lao động. - Trả lương theo thời gian được áp dụng đối với đội ngũ công nhân nhiên gián tiếp. - Trả lương theo sản phẩm được áp dụng với cán bộ công nhân viên trực tiếp tham gia sản xuất. Công tác nâng bậc lương qua các năm là khá tốt. Năm 1999 lần đầu tiên Xí nghiệp áp dụng thi nâng bậc đối với lao động gián tiếp. Qua xét tuyển Xí nghiệp đã nâng bậc lương cho 5 người. Năm 2000 tổ chức thi nâng bậc lương cho cán bộ công nhân viên được 16 người trong đó lao động trực tiếp 10 người, gián tiếp + Phục vụ 6 người. Năm 2001 thực hiện tốt chế độ nâng bậc lương cho 11 người. II. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của XNĐTTH 1. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của xí nghiệp trong thời gian qua Trong những năm gần đây xí nghiệp đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ. Xí nghiệp không ngừng đổi mới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về số lượng lẫn chất lượng, cả về quy mô đến chủng loại sản phẩm. Kết quả hoạt động của xí nghiệp được thể hiện qua bảng dưới đây. Bảng 2: Kết quả hoạt động của xí nghiệp từ 1999 đến 2001 Chỉ tiêu Đơn vị tính 1999 2000 2001 So Sánh 2000/1999 2001/2000 Sản lượng Cái Thu hình - 10442 11313 12163 8,34 7,51 Thu thanh - 42856 57300 60500 33,7 5,58 Tổng doanh thu Trđ 26354 30400 32500 15,35 6,9 - Thu hình - 19068,48 20659 22215 8,34 7,53 Thu thanh - 7285,52 9741 10285 33,7 5,58 Tổng chi phí - 26109 30250 32270 15,86 6,68 Tổng nộp ngân sách - 2700 2610 2850 - 3,3 9,2 - Nhập khẩu - 1495 1400 1405 - 6,35 0,36 - VAT - 1205 1210 1445 0,14 19,42 Tổng lợi nhuận - 245 150 230 - 38,78 53,3 - Thu hình - 200 95 170 - 52,5 78,95 - Thu Thanh - 45 55 60 22,22 9,09 Lao động bình quân năm Người 78 76 75 Thu nhập bình quân 1650 1900 2000 15,15 10,53 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1999 - 2001 Mặc dù hoạt động kinh doanh trong điều kiện hết sức khó khăn eo hẹp về tài chính, thị trường biến động, cạnh tranh gay gắt nhưng Xí nghiệp đã năng động trong việc thực hiện đường lối chính sách đúng đắn nên đã đạt được những thành quả nhất định. Qua biểu trên ta thấy trong ba năm 1999 - 2001 Xí nghiệp đã đạt được một số chỉ tiêu như sau: - Về sản lượng: + Máy thu hình: Xí nghiệp sản xuất hai loại máy thu hình là đen trắng và màu nhãn hiệu PANASON. Năm 2000 vượt năm 1999 là 8,34% năm 2001 vượt năm 2000 là 7,15% như vậy số lượng máy thu hình của Xí nghiệp được liên tục tăng. Điều này chứng tỏ chất lượng sản phẩm của Xí nghiệp đã được tăng lên và có sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại như Ti vi SAMSUNG, LG, SONY,.... bên cạnh đó phải nói đến sự đầu tư thích đáng của Xí nghiệp đến chất lượng mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm và đặc biệt là tới đời sống cán bộ công nhân viên.... dần khẳng định được chỗ đứng của sản phẩm trên thị trường. + Máy thu thanh: Đây là mặt hàng rất quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, số lượng máy thu thanh liên tục tăng năm 2000 tăng 33,7% so với năm 1999, năm 2001 tăng 5,58% so với năm 2000. Số lượng máy thu thanh liên tục tăng điều đó chứng tỏ Xí nghiệp đã tạo được lòng tin đối với khách hàng. Như chúng ta thấy thì trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại máy thu thanh vừa rẻ, mẫu mã kiểu dáng lại đẹp tuy nhiên chế độ bảo hành của nó lại quá kém mà lượng máy thu thanh lại chỉ bán được nhiều ở các vùng sâu, vùng xa noiư mà ti vi vẫn chưa phổ biến, người sử dụng họ lại cần được bảo đảm chắc chắn rằng sản phẩm họ nhận được ra tốt không gặp phải sự cố nếu có thì phải khắc phục ngay do vậy Xí nghiệp đã làm rất tốt vấn đề bảo hành sửa chữa sản phẩm một cách nhanh và tốt nhất thuận tiện cho người sử dụng. - Về doanh thu: Qua số liệu trên ta thấy tổng doanh thu của Xí nghiệp tăng rất nhanh. Năm 2000 tăng 15,35% so với năm 1999 với số tương đối là 4,046 tỷ, năm 2001 tăng 6,9% so với năm 2000 với số tương đối là 2,1 tỷ. Đây là một dấu hiệu đáng mừng, chứng tỏ là: không phải mọi doanh nghiệp nhà nước đều làm ăn kém hiệu quả. Doanh thu của máy thu thanh cũng liên tục tăng, đây là một kết quả rất đáng khích lệ. Vì Xí nghiệp xác định số lượng máy thu thanh giản đơn chủ yếu cung cấp cho các vùng thuộc các xã vùng sâu, vùng xa phục vụ vấn đề chính trị là chủ yếu. Trong tổng doanh thu đạt được thì doanh thu về máy thu hình chiếm tỷ trọng khá lớn với doanh thuu máy thu thanh. Đó là tín hiệu đáng mừng vì nó không những phản ánh được về hiệu quả hoạt động kinh doanh mà nó còn phản ánh được một mặt của đời sống xã hội chứng tỏ đời sống của người dân ngày một khấm khá hơn. Do đó nhu cầu về tinh thần ngày càng được thoả nãm... - Về nộp ngân sách: Năm 1999 Xí nghiệp nộp 2,7 tỷ đạt 104% kế hoạch, trong đó mức nộp của phát hình đạt 110% kế hoạch. Trong năm 2000 tổng nộp ngân sách giảm so với năm 1999 là 3,33% chỉ đạt 94,9% kế hoạch. Nănm 2001 đạt 103,2% kế hoạch trong đó thuế nhập khẩu 1999 là 1,495 tỷ, năm 2000 là 1,4 tỷ, năm 2001 là 1,405 tỷ. Và thuế VAT năm 1999 là 1,205 tỷ năm 2000 là 1.210, năm 2001 là 1,555. Như vậy thuế VAT trong các năm liên tục tăng điều đó chứng tỏ hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp đạt được là rất tốt. Bên cạnh đó thuế nhập khẩu có xu hướng giảm đó là dấu hiệu đáng mừng. Vì hầu hết các sản phẩm của Xí nghiệp sản xuất ra đều phải nhập linh kiện từ nước ngoài, nó cũng phù hợp với điều kiện của nước ta là nước đang phát triển. - Về lợi nhuận: Trong năm 1999 Xí nghiệp đạt mức lợi nhuận cao nhất là 245 triệu, đạt 147% kế hoạch, trong đó lợi nhuận từ máy thu hình là 200 triệu, máy thu thanh là 45 triệu. Trong hai năm tiếp theo lợi nhuận đạt thấp hơn năm 1999: Năm 2000 lợi nhuận đạt 150 triệu. Trong đó lợi nhuận máy thu hình là 95 triệu, máy thu thanh là 55 triệu, năm 2001 lợi nhuận có tăng so với năm 2000 nhưng vẫn thấp hơn 1999; Năm 2001 lợi nhuận đạt 230 triệu trong đó lợi nhuận thu từ máy thu hình là 170 triệu, từ máy thu thanh là 60 triệu. Nguyên nhân chính làm lợi nhuận năm 2000 giảm là do sản phẩm sản xuất ra chưa bán hết vẫn còn tồn tại. Trong kết cấu lợi nhuận thì lợi nhuận thu được từ máy thu hình luôn luôn lớn hơn lợi nhuận thu được từ máy thu thanh. Nhưng Xí nghiệp vẫn xác định mặt hàng chủ yếu là máy thu thanh, phục vụ cho các vùng sâu, xa thuộc các tỉnh miền núi Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái... Bên cạnh đó Xí nghiệp thường xuyên liên lạc với các đài tỉnh, huyện thậm chí cả các xã để bảo hành kịp thời tại chỗ hoặc hướng dẫn từ xa qua mạng lưới cán bộ kỹ thuật thuộc đài tỉnh huyện khi có trường hợp máy bị hư hỏng bởi vì Xí nghiệp đã xác định được đặc điểm của chương trình mục tiêu là mang tính chất xã hội. Đây không chỉ là một loại hàng hoá thông thường mà hàng hoá này phải đặt trong mối quan hệ cung ứng, gắn liền với trách nhiệm lâu dài của ngành phát thanh truyền hình. Do vậy trách nhiệm trước mắt và lâu dài của Xí nghiệp là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm kết hợp thực hiện các biện pháp đồng bộ về trang bị, dịch vụ, bảo hành, bảo dưỡng sửa chữa.... Vì vậy sự tiến bộ xã hội là phần thưởng lớn nhất đối với Xí nghiệp. - Thu nhập bình quân đầu người lao động của Xí nghiệp không ngừng được cải thiện qua các năm. Năm 1999 là 1650 nghìm/tháng. Năm 2000 là 1900 nghìn/ tháng. Năm 2001 là 2000 nghìn/tháng. Như vậy thu nhập bình quân năm 2000 so với năm 1999 tăng 15,5%. Năm 2001 tăng 10,53% so với năm 2000. Xí nghiệp không ngừng quan tâm tới lợi ích của công nhân viên và đã áp dụng đòn bẩy kinh tế. Khuyến khích người lao động làm việc hết mình thông qua các phong trào thi đua chào mứng thành lập Đảng giải phóng thủ đô 1 - 5. - Hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra doanh thu chủ yếu cho doanh nghiệp. Bảng 3: So sánh kết quả doanh thu của một số lĩnh vực hoạt động Năm Doanh thu (triệu) Tỷ trọng (%) Thu thanh Thu hình Thu thanh Thu hình 1998 2944 15497 16 84 1999 7285,25 19068,48 27,6 72,4 2000 9741 20659 32 68 2001 10285 22251 31,6 68,4 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh Từ bảng trên ta thấy máy thu hình chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn doanh thu năm 1998 là 84% năm 1999 là 72,4%, năm 2000 là 68% năm 2001 là 68,4%. Tỷ trọng máy thu hình trong tổng doanh thu giảm liên tục trong các năm. Điều đó chứng tỏ khả năng cạnh tranh của máy thu thanh không ngừng được tăng lên, ngoài ra phải nói đến sự quan tâm cuả nhà nước đến đời sống kinh tế các xã vùng sâu, vùng xa. Vì sự phát triển cân bằng của toàn xã hội. Bảng 4: Báo cáo thực hiện hợp đồng Rađiô Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Tỉnh Số lượng Tỉnh Số lượng (chiếc) Tỉnh Số lượng 1. Kon Tum 4329 Kon Tum 3175 Kon Tum 1984 2. Gia Lai 7792 Gia Lai 7142 Gia Lai 6350 3. Quảng Ngãi 5194 Quảng Ngãi 4762 Quảng Ngãi 3969 Lâm Đồng 6350 Lâm Đồng 5714 Đắc Lắc 7142 Yên Bái 3968 Yên Bái 5714 Lạng Sơn 6349 Lạng Sơn 5714 Lai Châu 3986 Lai Châu 4000 Quảng Nam 3976 Bình Định 7257 Thanh Hoá 5479 Sơn La 7143 Tổng: 17315 Tổng: 42856 Tổng: 57300 Nguồn: Phòng kinh doanh Mặc dù những chỉ tiêu cơ bản của năm 2001 đều tăng so với năm 1999. Nhưng xét về mặt định hình thì ta thấy tốc độ tăng năm 2001 chậm hơn năm 1999. Chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh mà năm 2001 kém hơn so với năm 1999, Vì vậy Xí nghiệp phải cố gắng hơn nữa để đạt được mức tăng trưởng ổn định qua các năm. 2. Phân tích thực trạng tình hình hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian qua. Trong sáu năm Việt Nam đã hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế, thoạt đầu là thành viên của ASEAN. Sau đó tiếp tục tham gia vào một số định chế kinh tế - Thương mại của khu vực (AFTA, AICO...) Đầu năm 1996 Việt Nam là thành viên sáng lập diễn đàn hợ tác á, Âu (ASEM). Cuối năm 1998 là thành viên của tổ chức hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APFC). Gần đây chúng ta mới gia nhập WTO và mới thực hiện hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Vì vậy xí nghiệp cũng như các doanh nghiệp khác đang đứng trước những cơ hội chưa từng có để phát triển đồng thời cũng phải đối đầu với thách thức rất lớn. Tuy nhiên lợi nhuận trong các năm luôn ( +) điều đó chứng tỏ xí nghiệp đã đạt được hiệu quả tốt trong sản xuất kinh doanh. Bảng 5: Một số chỉ tiêu cơ bản về doanh thu lợi nhuận chi phí Chỉ tiêu Đơn vị tính 1999 2000 2001 Doanh thu Triệu đồng 26354 30400 32500 Chi phí Triệu đồng 26109 30250 32270 Lợi nhuận Triệu đồng 245 150 230 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh Nhìn vào bảng trên ta thấy: Về mặt tuyệt đối chỉ tiêu về doanh thu của xí nghiệp năm sau luôn lớn hơn năm trước.Còn về lợi nhuận năm 1999 đạt cao nhất. Về mặt lượng:Doanh thu năm 2000 cao hơn năm 1999 là 4046 triệu.Năm 2001 cao hơn năm 1999 là 95 triệu đồng.Năm 2001 cao hơn năm 2000 là 80 triệu,nhưng thấp hơn năm 1999 là 15 triệu. Điều đó chứng tỏ xí nghiệp làm ăn chưa đạt hiệu quả tốt.Xét về mặt định tính phản ánh về chất lượng sản xuất kinh doanh thì doanh thu năm 2000 tăng 15,35% so với năm 1999.Trong khi lợi nhuận lại giảm 38,7%.Điều đó chứng tỏ chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp đã tăng nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí quản lý doanh nghiệp tăng và chi phí quản lý tăng,chí phí nguyên vật liệu cũng tăng...Doanh thu năm 2001 tăng 6,9 lần so với năm 2000 trong khi đó lợi nhuận tăng 53,3%.Điều đó cho thấy xí nghiệp đã phần nào khắc phục được những chi phí không hợp lý,đồng thời có những chính sách thích hợp để khuyến khích tinh thần lao động...Nếu xét chung ta thấy mặc dù cạnh tranh ngày càng gay gắt nhưng doanh nghiệp đã chứng tỏ được vị thế của mình trên thị trường và bắt kịp tốt với sự phát triển kinh tế xã hội của toàn đất nước. Bảng 6: Tốc độ tăng một số chỉ tiêu. Chỉ tiêu 2000/1999 2001/2000 Tốc độ tăng doanh thu 15,35 6,9 Tốc độ tăng chi phí 15,86 6,68 Tốc độ tăng lợi nhuận -38,78 53,3 Nguồn:Tổng hợp từ báo cáo tổng kết năm 1999-2001 Như vậy tốc độ tăng doanh thu năm 2001 cao hơn tốc độ tăng chi phí.Điều này chứng tỏ xí nghiệp hoạt động năm 2001 tốt hơn năn 2000 về hiệu quả.Nhưng tốc độ tăng doanh thu không đáng kể so với tốc độ tăng chi phí,đây là một yếu tố để ta có thể tăng hiệu quả cao hơn nữa. Riêng năm 2001 xí nghiệp đã đạt được nhiều kết quả trong việc giảm chi phí. Tốc độ tăng lợi nhuận giảm sút trong năm 2000,có nguyên nhân chủ yếu là do năm 2000 xí nghiệp có nhiều khoản thất thoát như: Lũ lụt cuấn trôi một số hàng hoá trong khi vận chuyển...Năm 2001 tuy chi phí quản lý doanh nghiệp giảm được 95 triệu so với 750 triệu của năm 2000. Nhưng chi phí nguyên vật liệu lại tăng vọt tới 238 triệu so với 100 triệu của năm 2000. Ngoài ra chi phí tăng còn do xí nghiệp liên tục đổi mới,bảo dưỡng,sửa chữa nâng cấp dây chuyền công nghệ. Bên cạnh đó xí nghiệp còn chưa sử dụng hết công suất của dây chuyền công nghệ làm chi phí tăng, giảm sức sinh lời cũng như sức sản xuất của vốn cố định và làm giảm hiệu quả kinh doanh của xí nghiệp. Bên cạnh đó chi phí tăng còn do xí nghiệp liên tục đổi mới mẫu mã,chủng loại sản phẩm...Như vậy việc tăng chi phí có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của xí nghiệp. Đây là vấn đề cần xem xét trong thời gian tới. a. Xét hiệu quả sản xuất kinh doanh theo hiệu quả sử dụng lao động. Bảng 7: Tình hình sử dụng lao động của xí nghiệp. Năm Số lao động bình quân(người) Tổng quỹ lương(tỷ) 1999 78 1,1 2000 76 1,24 2001 75 1,35 Nguồn: Phòng tổ chức hành chính Từ bảng trên ta thấy xí nghiệp đã không ngừng quan tâm tới đời sống cán bộ công nhân viên mặc dù số lượng lao động bình quân năm giảm dần nhưng tổng quỹ lương vẫn luôn tăng năm 2000 so với năm 1999 tăng 12,7%,năm 2001 so với năm 2000 tăng 8,87%. Năm 2001 so với năm 1999 tăng 22,73%. Bảng 8: Tình hình hiệu quả sử dụng lao động. Chỉ tiêu Đơn vị tính 1999 2000 2001 HSLĐBQ Triệu/người 337,78 400 433,33 Lợi nhuận bình quân/người Triệu/người 3,141 1,974 3,067 KQSX/một đồng tiền lương đồng/đồng 23,96 24,52 24,07 Hệ số sử dụng lao động % 95 92 91,5 Nguồn :Tổng hợp từ báo cáo lao động tiền lương. Năm 2000 xí nghiệp gặp một số khó khăn do lũ lụt đã làm mất toàn bộ một chuyến hàng trên đườngvận chuyển,mặt khác do một số hàng lớn vẫn chưa bán được dẫn tới chi phí tăng nên,lợi nhuận bình quân trên một lao động giảm mạnh so với năm 1999. Đánh giá chung hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp năm 2000 là kém hiệu quả.Vì vậy khi xác định hiệu quả hoạt động của xí nghiệp trong 3 năm qua chúng ta phải so sánh các chỉ tiêu của năm 2001 so với năm 1999 mới phản ánh chính xác thực trạng hiệu quả hoạt động. Năng suất lao động bình quân năm 2001 là 433,33 triệu đồng trên người cao hơn năm 1999 là 337,78 triệu đồng trên người,chủ yếu là do giảm số lao động dư thừa,tinh giảm bộ máy quản lý,chú trọng về chất lượng lao động,nâng cao thu nhập,nâng cao thu nhập,đời sống.Đây là một yếu tố có thể khai thác để nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp.Nhưng khi xét về lợi nhuận bình quân trên một lao động thì năm 1999 gấp 1,63 lần năm 2000 và 1,07 lần năm 2001.Để xét về hiệu quả thì chỉ tiêu lợi nhuận bình quân trên một lao động là có ý nghĩa hơn cả đối với bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường.Trường hợp này chứng tỏ xí nghiệp chỉ chú trọng đến vấn đề quy mô mà chưa quan tâm đến vấn đề hiêụ quả cũng như vấn đề kiểm soát chi phí và hạ giá thành sản phẩm,cần phải chú trọng hơn nữa trong thời gian tới. Theo bảng phân tích các chỉ tiêu trên ta thấy cứ một đồng chi phí tiền lương xí nghiệp trả cho người lao động đem lại 23,96 đồng doanh thu năm 1999;24,52 đồng doanh thu năm 2000 và 24,07 đồng doanh thu năm 2001.Đây là con số khá cao chứng tỏ lao động trong xí nghiệp làm việc khá hiệu quả.Có một vấn đề cần xem xét là hiệu quả hoạt động của xí nghiệp năm 1999 khá cao ,tuy nhiên tiền lương rất thấp 1650 nghìn/tháng trong khi năm 2000 và năm 2001 hiệu quả giảm mạnh,tốc độ tăng lợi nhuận cả hai năm so với năm 1999 đều thua xa nhưng tiền lương bình quân năm 2000,năm 2001 so với năm 1999 là 1,1515 và 1,212.Tốc độ tăng lợi nhuận trong cả hai năm 2000 và 2001 so với năm 1999 nhỏ hơn tốc độ tăng chi phí tiền lương và nó gây ảnh hưởng xấu tới kết quả kinh doanh. Bảng 9: Tốc độ tăng doanh thu, lợi nhuận, chi phí tiền lương Chỉ tiêu Tốc độ tăng doanh thu Tốc độ tăng lợi nhuận Tốc độ tăng chi phí tiền lương 2000/1999 15,35 - 38,78 12,7 2001/2000 6,9 53,3 8,9 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh Từ bảng trên ta thấy lợi nhuận năm 2000 giảm 38,78% so với năm 1999 trong khi đó tốc độ tăng doanh thu có xu thế giảm xuống. Năm 2000 tăng 15,35% so với năm 1999 nhưng năm 2001 chỉ tăng 6,9% so với năm 2000 vì vậy Xí nghiệp cần phải tìm xem đâu là nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút này. Mặt khác lợi nhuận năm 2000 giảm mạnh so với năm 1999 ngoài nguyên nhân hàng bị trôi ra còn do tốc độ do tốc độ tăng chi phí tiền lương quá lớn (12,7%). b. Xét theo hiệu quả sử dụng vốn cố định - Sức sản xuất vốn cố định = Doanh thu tiêu thụ trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ - Sức sinh lời của vốn cố định = Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định trong kỳ Bảng 10: Tình hình hiệu quả sử dụng vốn cố định Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Sức sản xuất của vốn cố định 0,527 0,53 0,524 Sức sinh lời của vốn cố định 0,0049 0,0026 0,0037 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh Nhìn bảng ta thấy rằng doanh thu mà một đồng vốn cố định mang lại năm 2000 là cao nhất 0,53 đồng nhưng lợi nhuận do một đồng yếu tố đầu vào này lại là nhỏ nhất giảm 1,88 lần so với năm 1999. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng cả các doanh nghiệp. Như thế có thể nói mục tiêu sử dụng tài sản cố định của Xí nghiệp chưa đạt kết quả tốt. Nguyên nhân là do dây chuyền sản xuất của Xí nghiệp đã quá cũ nát, tốc độ tăng chi phí năm 2000 lớn hơn tốc độ tăng doanh thu. c. Xét hiệu quả chỉ tiêu sử dụng vốn lưu động - Sức sinh lời của vốn lưu động = Doanh thu tiêu thụ trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Mức sức sinh lời của vốn lưu động = Lợi nhuận trong kỳ Vốn vốn lưu động trong kỳ - Mức sinh lời của vốn lưu động = Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động - Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay = 365 ngày Số vòng quay của vốn lưu động - Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = Vốn lưu động trong kỳ Doanh thu trong kỳ Bảng 11: Tình hình hiệu quả sử dụng vốn lưu động Chỉ tiêu Đơn vị tính 1999 2000 2001 Sức sản xuất của VLĐ đ/đ 1,95 1,9 1,91 Mức sinh lời của VLĐ đ/đ 0,018 0,0094 0,0135 Số vòng quay của VLĐ Vòng 1,95 1,9 1,91 Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay Ngày 187,18 192,1 191,1 Hệ số đảm nhiệm VLĐ đ/đ 0,512 0,526 0,523 Nguồn: Tổng hợp từ bảng cân đối kế toán Sức sản xuất của vốn lưu động năm 2000 là thấp nhất chứng tỏ tổng số thu nợ của Xí nghiệp tăng lên làm giảm vòng quay của vốn lưu động. Nguyên nhân do Xí nghiệp chưa quan hệ tốt với khách hàng vẫn còn để nợ đọng kéo dài làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp cần áp dụng nhiều phương thức thanh toán tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và cho cả Xí nghiệp. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng năm 2000 chứng tỏ cần nhiều vốn lưu động hơn, cụ thể là trong năm 2000 hệ số này là 0,526 tức là cần 526 đồng vốn lưu động thì mới tạo ra được 1000 đồng doanh thu trong kỳ trong khi năm 1999 chỉ cần 512 đồng vốn lưu động đã tạo ra được 1000 đồng doanh thu. Năm 2001 có giảm so với năm 2000 tức là cần 523 đồng vốn lưu động để tạo ra 1000 đồng doanh thu tuy nhiên vẫn cao hơn năm1999 là 512 đồng vốn lưu động để tạo ra 1000 đồng doanh thu. Khi đánh giá mức sinh lời của vốn lưu động thì năm 2000 cũng là thấp nhất giảm 1,91, đến năm 2001 vẫn giảm 1,33 lần so với năm 1999. Mức sinh lời của vốn lưu động không ổn định Xí nghiệp cần tìm ra nguyên nhân để khắc phục d. Xét hiệu quả theo chỉ tiêu tổng hợp - Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu = Lợi nhuận Tổng doanh thu - Tỷ suất lợi nhuận theo theo vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận Vốn chủ sở hữu - Tỷ suất lợi nhuận theo theo vốn sản xuất = Lợi nhuận Tổng vốn sản xuất - Tỷ suất lợi nhuận theo theo chi phí = Lợi nhuận Tổng chi phí - Doanh thu trên một đồng chi phí = Tổng doanh thu Tổng chi phí Bảng 12: Một số chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh Chỉ tiêu Đơn vị tính 1999 2000 2001 Tỷ suất lợi nhuận doanh thu % 0,93 0,49 0,71 Tỷ suất lợi nhuận vốn CSH % 0,6447 0,179 0,371 Tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất % 0,386 0,205 0,291 Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí % 0,94 0,45 0,71 Doanh thu trên 1 đồng chi phí đ/đ 1,0094 1,0050 1,0071 Nguồn: Tổng hợp chi phí bảng cân đối kế toán Qua các chỉ tiêu trên so với mặt bằng chung của các doanh nghiệp là khá thấp nhưng cùng so với các doanh nghiệp sản xuất và lăps ráp hàng điện tử và tình hình khó khăn và sản xuất và lắp ráp hàng điện tử và tình hình khó khăn sản xuất mặt hàng Ti vi hiện nay ta đánh giá. Xí nghiệp duy trì được hoạt động và có lãi là kết quả khả quan. Tuy nhiên vấn đề đáng quan tâm ở đây là các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu, tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí xu hướng giảm chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của Xí nghiệp là chưa tốt. Bảng 13: Tổng hợp các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh STT Chỉ tiêu Đơn vị tính 1999 2000 2001 1 HSLĐBQ Trđ/ người 337,78 400 443,33 2 LNBQ/Lđ Trđ/ người 3,141 1,974 3,067 3 Sức sản xuất VCĐ đ/đ 0,527 0,53 0,524 4 Mức sinh lời VCĐ đ/đ 0,0049 0,0026 0,0037 5 Sức sản xuất VLĐ đ/đ 1,95 1,9 1,91 6 Mức sinh lời VLĐ đ/đ 0,018 0,0094 0,0135 7 Tỷ suất CN/ DT % 0,93 0,49 0,71 8 Tỷ suất LN/VSX % 9 Tỷ suất CN/CP % 0,94 0,45 0,71 10 DT/1đCP đ/đ 1,0094 1,0050 1,0071 11 KQSX/1Đlương đ/đ 23,95 24,516 24,074 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh Qua các chỉ tiêu trên ta có thể rút ra nhận xét sau: Xét về mặt lượng thì trong năm qua Xí nghiệp làm ăn có hiệu quả, nhưng xét về mặt định tính chỉ có một số chỉ tiêu như năng suất lao động bình quân, kết quả sản xuất trên một đồng lương... là tăng còn các chỉ tiêu khác phản ánh bản chất của hiệu quả hoạt động kinh doanh khác đều giảm so với năm 2000 và 1999. Điều này chứng tỏ năm 2001 Xí nghiệp mới chỉ mở rộng quy mô sản xuất còn vấn đề hiệu quả vẫn chưa đạt được. Phân tích các chỉ tiêu như mức sinh lời của vốn sản xuất, số vòng quay của vốn, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí ... về cơ bản năm 2001 đều cao hơn năm 2000 nhưng lại thấp hơn năm 1999. Điều này chứng tỏ Xí nghiệp đã sử dụng chưa có hiệu quả các nguồn vốn đã có. Hiệu qủa hoạt động suy giảm do tốc độ tăng chi phí nhanh hơn tốc độ tăng doanh nghiệp, dây chuyền sản xuất đã cũ nát và sản phẩm phải chịu sự cạnh tranh ác liệt. Vì vậy để hoạt động có hiệu quả trong thời gian tới Xí nghiệp cần khắc phục những yếu kém trước mắt và tồn tại lâu dài, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tìm nguồn hàng ổn định và tăng lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu đề ra đòi hỏi Xí nghiệp phải đầu tư đổi mới bảo dưỡng, sửa chữa nâng cấp dây chuyền công nghệ để có thể giảm thiểu những sản phẩm có lãi và những chi phí không cần thiết bên cạnh đó cần phải nâng cao chất lượng lao động và khả năng tổ chức quản lý của bộ máy quản trị Xí nghiệp. Xí nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường, dự báo khách hàng vì đây là các mặt rất quan trọng đặc biệt đối với Xí nghiệp sản xuất và lắp ráp hàng điện tử, nhằm tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu, tăng hiệu quả kinh doanh. Các biện pháp này nằm trong khả năng của Xí nghiệp và được sự nhất trí của ban lãnh đạo để triển khai trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp. III. Đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả của Xí nghiệp . Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp ĐTTH luôn chủ động đặt ra mục tiêu phù hợp với khả năng của Xí nghiệp và điều kiện thực tế của thị trường. Huy động mọi nguồn lực để đạt được mục tiêu đề ra. Trong điều kiện như hiện nay để có thể cạnh tranh được Xí nghiệp thực hiện chủ trương đa dạng hoá sản phẩm, kinh doanh tổng hợp, tăng công dụng của sản phẩm bằng cách đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ, đồng thời với nó là hiệu quả hoạt động và nâng cao hiệu quả hoạt động vì đây mới là vấn đề sống còn của Xí nghiệp. Thực tế qua phát triển kết quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian qua ta thấy Xí nghiệp thực hiện được mục tiêu mở rộng kinh doanh mà mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động chưa thực hiện được và có xu hướng ngày càng giảm. Ban lãnh đạo Xí nghiệp đứng trước vấn đề này đã đưa ra nhiều biện pháp thiết thực nhưng kết quả đạt được còn hạn chế. Nguyên nhân là do có nhiều khó khăn cản trở từ môi trường bên ngoài như cạnh tranh khốc liệt, chi phí tăng giá cả thấp cũng như do bản thân Xí nghiệp đã làm giảm sút hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp. Quá trình thực tế nghiên cứu tại Xí nghiệp Điện tử truyền hình tôi rút ra được những nhận xét đánh giá sau: 1. Về phần thực trạng hoạt động của Xí nghiệp a. Những mặt làm được của Xí nghiệp Mặc dù hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt nhưng doanh thu của Xí nghiệp liên tục tăng trong các năm 1999 doanh thu đạt 26,354 tỷ, năm 2000 đạt 30,4 tỷ vượt năm 1999 là 4,046 tỷ năm 2001 doanh thu đạt 32,5 tỷ vượt năm 2000 là 2,1 tỷ. Tổng lợi nhuận năm 2001 là 230 triệu cao hơn năm 2000 là 80 triệu trong đó lợi nhuận từ máy thu hình là 170 triệu vượt năm 2000 là 75 triệu, lợi nhuận từ máy thu thanh là 60 triệu. Vượt năm 2000 là 5 triệu. Phải nói đây là cố gắng rất lớn của Xí nghiệp trong việc khắc phục khó khăn vì trước đến nay Xí nghiệp vẫn chủ yếu là sản xuất theo kế hoạch của nhà nước giao... có được kết quả này chứng tỏ ban giám đốc Xí nghiệp rất nhanh nhạy trong việc đa dạng hoá sản phẩm để khắc phục khó khăn. Năm 2001 doanh thu từ máy thu hình là 22,215 tỷ, máy thu thanh là 10,285 tỷ trong đó lợi nhuận phần lớn là từ máy thu hình. - Về công tác kỹ thuật - do Xí nghiệp tạo được mối quan hệ tốt với các tỉnh nên công việc sửa chữa, bảo dưỡng sản phẩm được thực hiện rất tốt tuy số lượng lao động năm 2001 có giảm so với năm trướ nhưng vẫn thực hiện tốt công tác quản lý, giám sát, sửa chữa và tăng cường công tác kiểm tra thường xuyên vì vậy chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng lên, giảm được nhiều chi phí bất hợp lý như lỗ do công nhân hàn lệch, những thiết bị nhập về không đúng yêu cầu phải đổi lại... đặc biệt là không có tai nạn lao động đáng tiếc nào sảy ra. - Về công tác kế hoạch và tạo mối quan hệ với các đài thuộc các tỉnh. Trước rất nhiều khó khăn của sản xuất hàng điện tử là giá thành giảm, công dụng của sản phẩm ngày một tăng, chi phí tiền lương tăng.... muốn giữ được nhịp độ sản xuất năm qua Xí nghiệp đã có rất nhiều cố gắng. Công tác kế hoạch ngay từ cuối năm 2000 đã được xác định một cách chính xác phù hợp với điều kiện thực tế của Xí nghiệp và được triển khai giao cho từng phòng ban và cho các đơn vị sản xuất trực tiếp rất cụ thể sát hợp, có kiểm tra đánh giá và điều chỉnh kịp thời theo đúng quy chế, quy định của Xí nghiệp. Công tác kiểm tra kiểm soát đã đưa ra được các đối sách hợp lý về việc khen thưởng, kỷ luật và các hình thức khuyến khích người lao động làm việc không mắc lỗi... về cơ bản phù hợp góp phần đưa hiệu quả sản xuất lên cao hơn. Ngoài ra Xí nghiệp còn luôn tạo được lòng tin đối với các đài thuộc các tỉnh, huyện giúp cho sự nghiệp phát thanh - truyền hình các tỉnh phát triển đồng thời đó cũng chính là khách hàng lớn nhất của Xí nghiệp. - Về công tác lao động tiền lương năm 2001 đã xây dựng được kế hoạch tiền lương được Đài truyền hình Việt Nam phê duyệt với tổng quỹ lương là 1,35 tỷ. Triển khai tốt chế độ tuần làm việc 40 giờ và điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 180.000 đ lên 210.000 đ. Vì vậy, mặc dù hoạt động rất khó khăn song thu nhập và tiền lương của toàn Xí nghiệp đạt 2.000.000 đ/tháng đây là một cố gắng rất lớn của Xí nghiệp. Với quyết tâm phấn đấu 100% lao động có việc làm, khi có hợp đồng được thực hiện đúng theo kế hoạch thậm chí còn xong rất sớm nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu chất lượng đề ra. Ngoài ra Xí nghiệp còn đảm bảo tốt các chế độ của bảo hiểm 100% cán bộ công nhân viên chức toàn Xí nghiệp. Thực hiện tốt các chế độ và quyền lợi cho cán bộ công nhân viên phấn đấu sang năm 2002 nâng thu nhập bình quân cua toàn Xí nghiệp lên 2250.000 - 2300 .000 đ - Về công tác tài chính kế toán Công tác tài chính kế toán nhìn chung năm 2001 đã có nhiều cố gắng luôn đảm bảo được các yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống của cán bộ công nhân viên, không để tình trạng do không có vốn mà làm đình trệ sản xuất hoặc chi trả tiền lương không đúng kỳ hạn. Thực hiện tốt chế độ tổng kiểm kê ngày 1/1/2001 đúng nội dung và yêu cầu của Đài truyền hình Việt Nam và Xí nghiệp đầu tư và phát triển công nghệ Truyền hình. Công tác hạch toán, thanh quyết toán đảm bảo đúng chế độ, hạch toán kịp thời hàng tháng, quý và năm theo đúng quy định của Bộ Tài chính, luôn bảo đảm chế độ nộp thuế đầy đủ, đúng hạn. Năm 2001 công tác tài chính đã phối hợp chặt chẽ với các phòng ban liên quan, góp phần giải quyêt việc hoàn thuế năm 1999. Là một năm hoạt động tài chính đạt được mục tiêu đề ra. Tổng doanh thu vượt 13,21% kế hoạch Nộp ngân sách đạt 2,85 tỷ Tổng lợi nhuận đạt 230 triệu Đã tập trung giải quyết vấn đề đốc thu, tính đến ngày 31/12/2001 các đơn vị đã hoàn thành vượt mức kế hoạch. b. Những mặt chưa làm được của Xí nghiệp. Trong quá trình thích ứng với cơ chế thị trường Xí nghiệp đã đạt được nhiều kết quả đáng kể song bên cạnh đó còn có những khó khăn tồn tại ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp. - Hiện tại về dây chuyền sản xuất đã quá cũ nát và lạc hậu hiệu quả thấp không thích ứng được với yêu cầu ngày càng đa dạng của sản xuất kinh doanh. Việc nâng cấp máy móc thiết bị diễn ra vẫn chậm do một số khó khăn về vốn song cơ bản là giá thành cao, chất lượng chưa vượt trội so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khó khăn lớn nhất của Xí nghiệp là hiện nay mọt số thiết bị phát chuẩn và đo lường hiện trạng bị trên dây chuyền công nghệ đã cũ, 100% nhập từ nước ngoài khi có sự cố sảy ra vấn đề khắc phục rất khó khăn. Các chỉ tiêu kỹ thuật đã đo đạt tiêu chuẩn Việt Nam TCVH 4463-87 "Máy thu thanh - phân loại;thông số cơ bản và yêu cầu kỹ thuật",bên cạnh đó mức chất lượng của máy thu thanh cần phải được điều chỉnh kịp thời,ví dụ như độ bền va đập và mức chất lượng đạt 10 va đập theo TCVH 6385:1998;chịu thử sương muối 7 chu kỳ đạt TCVH 4899-89,hiện nếu đem so sánh với tiêu chuẩn của ISO 9001-2000 thì vẫn chưa chắc đã đạt được do khoảng cách giữa tiêu chuẩn cơ sở và tiêu chuẩn quốc tế vẫn còn rất xa,vì vậy sản phẩm của xí nghiệp tạo ra rất khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường như TV.SONY,SAMSUNG,LG... Một khó khăn rất lớn ảnh hưởng đến việc triển khai hoạt động kinh doanh của xí nghiệp là vấn đề vốn,cho tới nay xí nghiệp vẫn chưa triển khai được hoạt động xuất khẩu nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu vốn. Do thiếu vốn mà Xí nghiệp không có điều kiện để đổi mới dây chuyền công nghệ tới sản phẩm chất lượng vẫn thấp ít khả năng cạnh tranh ngay ở thị trường trong nước do đó không thể triển khai xuất khẩu được. Để giải quyết vấn đề vốn khi lượng vốn nhà nước cấp lại không đảm bảo cho Xí nghiệp kịp thời đáp ứng những nhu cầu đầu tư và bản thân Xí nghiệp thực sự chưa có những biện pháp hữu hiệu để thu nguồn vốn đầu tư bên ngoài. - Về lao động: Đa phần lực lượng lao động của Xí nghiệp đều có trình độ chuyên môn liên quan đến chuyên ngành điện tử. Hều hết các kỹ sư đều được đào tạo chính phu qua các trường đào tạo của Bộ giáo dục và Đào tạo soó cán bộ công nhân viên tốt nghiệp Đại học, cao đẳng, trung cấp theo các chuyên ngành, Vô tuyến điện,chế tạo máy, hoá chiếm một tỷ lệ cao trong tổng số cán bộ công nhân viên chức của Xí nghiệp. Vấn đề dó là thời điểm tra thưởng, Xí nghiệp góp trả thưởng một lần trong dịp tổng kết cuối năm, chính điều này không khuyến khích kịp thời người lao động. Hơn nữa tiền thưởng thấp, việc đánh giá để khen thưởng chưa chính xác. Đi kèm với khen thưởng là kỷ luật lao động chưa được chấp hành nghiêm chỉnh, vẫn còn tình trạng cán bộ công nhân viên trong giờ làm việc ngồi tán gẫu, đánh bài... làm giảm hiệu quả của công việc. 2. Về phần hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp a. Những mặt làm được Có thể nói hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian quan đạt được một số kết quả sau: - Năng suất lao động bình quân năm 2001 là 433,33 triệu/người đạt mức cao nhất trong ba năm, tốc độ tăng năng suất lao động năm 2001 so với năm 1999 tăng 28,25%, so với năm 1999 tăng 8,33% phải nói rằng đây là một kết quả đáng kể trong năm 2001 Xí nghiệp gặp phải khó khăn mà năm 2001 chưa vượt qua được. Lợi nhuận bình quân tính trên một lao động năm 2001 là 3,067 triêu/người vượt năm 2000 là 1,093 triệu/ người. Những con số này chứng tỏ lao động trong Xí nghiệp làm việc khác hiệu quả. - Về quản lý và sử dụng vốn cố định ta thấy lợi nhuận mà một đồng vốn cố định tạo ra năm 2001 là 0, 0135 đồng cao hơn năm 2000 là 0,00412 do đó, nó chứng tỏ Xí nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn năm 2000 hay nói cách khác là Xí nghiệp đã huy động và sử dụng khá tốt nguồn vốn cố định. - Về quản lý sử dụng vốn lưu động ta thấy doanh thu mà một đồng vốn lưu động tạo ra năm 2001 cao hơn năm 2000 là 0,011đ/1đ vốn lưu động. Đẩy số vòng quay của vốn lên, rút số ngày luân chuyển bình quân xuống. Tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất năm 2001 có tăng so với năm 2000 nhưng không đáng kể. b. Những mặt chưa làm được Đánh giá chung về hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian qua có xu hướng giảm sút đáng lo ngại. Kết quả phân tích cho thấy chỉ có một số chỉ tiêu tăng trưởng về quy mô còn các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm về mặt hiệu quả. Đầu tiên là hiệu quả sử dụng lao động cho thấy lợi nhuận bình quân trên một lao động năm 1999 gấp 1,024 lần so với năm 2001 và đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. Nó đánh giá thực chất của việc sử dụng lao động là như thế nào. Vấn đề hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động cũng không tỏ ra hiệu quả hơn. Lợi nhuận do một đồng vốn cố định tạo ra năm 2001 có tăng không đáng kể so với năm 2000 nhưng vẫn nhỏ hơn năm 1999 (năm 1999 là 0,018đ/đ. Năm 2000 là 0,00938đ/đ năm 2001 là 0,0135đ/đ) doanh thu do một đồng vốn cố định tạo ra giảm trong năm2001 năm 2000 là 0,533đ/do đó, năm 2001 là 0,524đ/do đó, giảm 1,69%. Doanh thu do vốn lưu động tạo ra năm 2001 có tăng so với năm 2000 nhưng vẫn nhỏ hơn năm 1999. Năm 1999 doanh thu do một đồng vốn lưu động tạo ra 1,952 đồng doanh thu trong khi đó năm 2001 chỉ là 1,911 đồng giảm 1,02 lần so với năm 1999. Sử dụng các chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá hiệu quả của Xí nghiệp ta thấy rằng các chỉ tiêu phản ánh về mặt quy mô là tăng còn các chỉ tiêu phản ánh về mặt hiệu quả là suy giảm. Qua các chỉ tiêu như mức sinh lời của vón sản xuất, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí, tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu.... năm 2001 đều giảm so vớn năm 1999. Kết quả này phản ánh hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp có xu hướng giảm sút. Xí nghiệp cần phải quan tâm đến mặt hiệu quả chứ không phải là vấn đề quy mô. 3. Các nguyên nhân tương ứng. Những nguyên nhân cơ bản sau đây đã làm cho Xí nghiệp gặp phải những khó khăn trong tổ chức cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nó làm cho hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp bị giảm sút. 3.1. Nguyên nhân khách quan Hàng hoá trên thị trường tràn ngập chất lượng tốt giá cả phải chăng trong khi đó chi phí vận chuyển bảo quản tăng đặc biệt là đối với máy thu hình. Cạnh tranh không lành mạnh giữa những sản phẩm cùng loại do họ có vốn lớn muốn chiếm lĩnh thị trường nên họ đã ra rất nhiều "chiêu" để nhằm thu hút khách hàng về phía mình nhưng thực chất là họ đang lừa khách hàng. Thời kỳ bao cấp kéo dài đã ảnh hưởng đến tư tưởng, phong cách, quan điểm của cán bộ công nhân viên chức. 3.2. Nguyên nhân chủ quan Bên cạnh những nguyên nhân khách quan còn phải kể đến những thiếu sót từ phía Xí nghiệp. - Khi Xí nghiệp xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất còn phụ thuộc quá nhiều vào nhiệm vụ nhà nước giao mà không nghiên cứu bám sát điều kiện thực tế, nhu cầu thực tế và kết quả là Xí nghiệp phải xin điều chỉnh lại kế hoạch lần ba năm qua do kế hoạch nằm ngoài năng lực của Xí nghiệp. Ban giám đốc cũng như trưởng các phòng ban đã cố gắng nhưng vẫn chưa kiểm soát được tốt tình hình ở từng cơ sở, từng thành viên trong Xí nghiệp. - Hơn nữa quy định của nhà nước là một tuần làm việc 40 giờ Xí nghiệp đã thực hiện theo đúng quy định nhưng vấn đề hiệu quả vẫn chưa cao. Xí nghiệp không có một bộ phận chuyên về Marketing và nghiên cứu thị trường để tạo ra nguồn hàng ổn định số lượng sản phẩm tiêu thụ sản phẩm tăng mạnh qua các năm, nguyên nhân này là do Xí nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của nó và cần được khắc phục trong thời gian tới. Cụ thể là phải thành lập một phòng Marketing. - Trong khi nhu cầu về chủng loại sản phẩm phải lớn hơn và phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng thì Xí nghiệp hầu như chỉ sản xuất một loại như Ti vi PANASON 21''. - Xí nghiệp yếu kém trong việc dự báo chính xác nhu cầu thị trường nên khi sản xuất sản phẩm để bán ra thị trường vẫn để tồn kho khá nhiều. - Phương pháp huy động vốn của Xí nghiệp chưa thực sự có hiệu quả và chưa nâng cao được ý thức trách nhiệm của người lao động đối với công việc và sử dụng các tài sản cũng như nguồn vốn của Xí nghiệp có hiệu quả. - Xí nghiệp còn nhiều lúng túng bị động trong việc huy động vốn để đầu tư. Chương III Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ở Xí nghiệp điện tử truyền hình A - Triển vọng phát triển và các chính sách của nhà nước Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay đặc biệt với doanh nghiệp nhà nước để đứng vững và phát triển Xí nghiệp phải tìm cho mình một hướng đi đúng đắn phù hợp trong từng giai đoạn, trên cơ sở thực tế về nhân lực, vốn, dây chuyền công nghệ của Xí nghiệp cũng như của các đối thủ cạnh tranh. Với những chiến lược đúng đắn bản thân các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình những mục tiêu, kế hoạch và biện pháp cụ thể mang tính khả thi đảm bảo mang lại hiệu quả kinh doanh cao và đạt được những thắng lợi trong cạnh tranh. 1. Biện pháp phát triển điện tử truyền hình Việt Nam Những năm gần đây chúng ta đã đạt được mức tăng trưởng GDP khá cao, ổn định được nền kinh tế, chính trị xã hội. Chính sách mở cửa nhằm thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài ngày càng được mở rộng, quan hệ kinh tế với các nước ngày càng phát triển góp phần nâng cao vị trí của nước ta trên trường quốc tế. Hiện nay nước ta có quan hệ kinh tế với trên 100 nước trên thế giới. Chính điều này tạo điều kiện cho ngành phát thanh truyền hình nói chung có cơ hội chưa từng có để phát triển. Hơn nữa khi đời sống của nhân dân ngày một nâng cao thì nhu cầu về thông tin, giải trí không ngừng tăng lên do đó nhu cầu về các sản phẩm phát thanh, truyền hình cũng không ngừng được tăng lên. Trước mắt có những điều kiện hết sức thuận lợi cho ngành phát thanh truyền hình. Chính phủ có những sự quan tâm tới các xã vùng sâu vùng xa nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển đồng đều do đó chính phủ luôn có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp khai thác thị trường tiềm năng này bằng cách trợ giá cho các Xí nghiệp, doanh nghiệp khi cung ứng sản phẩm tới các vùng.... Càng thuận lợi hơn khi ngành Phát thanh Truyền hình được sự chỉ đạo trực tiếp của Đài truyền hình Việt nam. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các địa phương để Xí nghiệp hoàn thành nhiệm vụ và củng cố, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời đội ngũ cán bộ lãnh đạo Xí nghiệp ĐTTH và của toàn ngành được đào tạo sâu, có sự gắn bó với ngành, không ngừng học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau và kinh nghiệm của các nước phát triển, công nhân viên chức ngành Phát thanh Truyền hình luôn có tinh thần tự chủ, sáng tạo. Như vậy phát thanh - truyền hình ở Việt Nam trong tương lai sẽ rất phát triển vì những lợi thế riêng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Khi ngành PT - TH phát triển thì Xí nghiệp ĐTTH cũng có điều kiện để tự khẳng định mình trên thị trường. 2. Những chính sách của nhà nước đối với ngành Phát thanh - Truyền hình a. Chính sách giải quyết tổ chức lao động Nhà nước cho phép Xí nghiệp đầu tư phát triển công nghệ truyền hình Việt Nam thành lập các đơn vị thành viên, có con dấu riêng, có tài khoản mở tại Ngân hàng cũng như các xưởng bảo dưỡng, sửa chữa, đồng thời các đơn vị đó được Xí nghiệp uỷ quyền quản lý một số lĩnh vực nhất định để tăng thêm tính năng động trong sản xuất, tự chịu trách nhiệm về tài chính, có trách nhiệm đảm bảo quyền lợi cho người lao động và nghĩa vụ với Xí nghiệp. Giảm bộmáy lao động giám tiếp giải quyết nghỉ việc cho những cán bộ không đủ trình độ năng lực hoặc không có nhu cầu sử dụng. Tạo dựng bộ máy quản lý thống nhất theo chế độ " Một thủ trưởng". b. Chuyển hướng sản xuất kinh doanh theo phương châm đa dạng hoá sản phẩm . Để nâng cao chủ động sáng tạo, các doanh nghiệp nhà nước phải được phép chuyển hướng kinh doanh đa dạng hoá sản phẩm chứ không đơn thuần như trước, Xí nghiệp chuyển hướng kinh doanh đa dạng hoá sản phẩm căn cứ vào thế mạnh nội lực của mình. c. Hãng cấp dây chuyền công nghệ . Xí nghiệp đã và đang tiến hành nâng cấp từng bộ phận dây chuyền công nghệ của mình dựa trên cơ sở phân loại từng bộ phận. Tập trung vốn để thay thế những bộ phận không hiệu quả. Đầu tư mua mới những máy móc dụng cụ để kiểm tra, thử nghiệm... Những việc này được sự hỗ trợ nhất định của nhà nước mà trực tiếp là đài truyền hình Việt Nam. d. Chính sách huy động vốn và cấp vốn Hiện nay Xí nghiệp ĐTTH cũng như những Xí nghiệp điện tử khác của nhà nước đang cố gắng huy động nguồn vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp. Bên cạnh đó còn có các nguồn vốn vay với lãi xuất thấp từ ngân hàng để đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ. B. Mục tiêu và định hướng phát triển của Xí nghiệp trong thời gian tới. Xí nghiệp ĐTTH là một đơn vị sản xuất kinh doanh do đó Xí nghiệp hoạt động phải luôn hướng tới tính hiệu quả kinh tế. Muốn vậy, Xí nghiệp phải xác định được các nhân tố khách quan, chủ quan ảnh hưởng tới doanh thu, lợi nhuận. Để mục tiêu của Xí nghiệp đạt hiệu quả cao nhất trên cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn lao động của mình cần phải xác định phương hướng và biện pháp đầu tư, biện pháp để sử dụng điều kiện sẵn có làm sao có hiệu quả nhất. 1. Mục tiêu a. Mục tiêu chung Trong quá trình hoạt động Xí nghiệp đã xây dựng cho mình những mục tiêu chiến lược cụ thể: - Tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, tăng mức sản lượng hàng hoá vận chuyển, tăng doanh thu, lợi nhuận, tăng nộp ngân sách cho nhà nước và nâng cao mức sống cho người lao động. - Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, đảm bảo nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Chú trọng hơn trong khâu Marketing để tạo nguồn vốn vận chuyển ổn định và tăng trong những năm tới. Nâng cao sức cạnh tranh của Xí nghiệp, tận dụng quy mô, uy tín của Xí nghiệp để thu hút và giữ khách hàng. b. Mục tiêu cụ thể Năm 2002 là những năm tiếp theo Xí nghiệp tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu đề ra. - Doanh thu tăng 13,8% so với năm 2001 - Lợi nhuận tăng 80% so với năm 2001 - Nộp ngân sáh tăng 12% so với năm 2001 - Quỹ lương tăng 10% so với năm 2001 - Thu nhập bình quân tăng 5á 10% - Tiền lương bình quân 1,6 triệu/tháng 2. Định hướng khách hàng Trong những năm tới ngoài khách hàng truyền thống Xí nghiệp có kế hoạch mở rộng danh mục khách hàng nhằm nâng cao sản lượng hàng hoá, tăng doanh thu, lợi nhuận, giảm thiểu chi phí thiệt hại. Khách hàng của Xí nghiệp tập trung vào các tỉnh phía Nam và một số thị trường lớn như Hà Nội, Huế, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh.... Dự kiến đến năm 2002 xe chở hàng của Xí nghiệp sẽ chở hàng hai chiều đáp ứng nhu cầu của thị trường. 3. Kế hoạch sản xuất năm 2001 - Căn cứ vào định hướng phát triển của Xí nghiệp từ 2001 đến 2006 - Căn cứ vào dây chuyền công nghệ, lao động hiện có và dự kiến đầu tư nâng cấp máy móc trang thiết bị trong năm. - Căn cứ vào nhu cầu sản phẩm trên thị trường và dự kiến khả năng khai thác của Xí nghiệp. - Trên tinh thần củng cố phát huy nội lực và phát triển của doanh nghiệp Xí nghiệp ĐTTH dự kiến xây dựng một số chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2002 như sau: a. Lao động Số lao động 75 Trong đó Đại học - Cao đẳng và trung học - Tốt nghiệp công nhân kỹ thuật - Số lao động trực tiếp - Số lao động gián tiếp 18 15 32 85% 15% Tăng giảm trong năm 0 Số lao động cuối năm 75 b. Máy móc thiết bị - Dự kiến nâng cấp dây chuyền công nghệ + Dây chuyền sản xuất, lắp ráp máy thu hình từ 100 - 150 chiếc Ti Vi màu 20''/ ngày lên 120 á 18000 chiếc radiô/ ngày lên 160 á 20000 chiếc/ngày. c. Hàng hoá: Tiếp tục sản xuất radiô, Ti vi theo kế hoạch của các tỉnh đồng thời sản xuất thêm 1/3 trong tổng số để cung cấp ra thị trường cụ thể là Chỉ tiêu Số lượng (chiếc) - Radio 72.500 - Tivi màu 1600 - Ti vi đen trắng 0300 d. Kế hoạch đầu tư: Xí nghiệp dự định đầu tư mua mới một số trang thiết bị trong dây chuyền công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm kế hoạch đầu tư 1,5 tỷ đồng. Từ những căn cứ và dự kiến trên, Xí nghiệp xác định kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2002 như sau Chỉ tiêu Đơn vị tính Số lượng Đơn giá Doanh thu + Radio Chiếc 72516 170,000 12.3288.000 + Ti vi đen trắng Chiếc 8289 750,000 6.164.250 + Ti vi màu Chiếc 5284 3500,000 18.492.750 Tổng 36985.000 4. Phương hướng thực hiện kế hoạch năm 2002 - Về sản phẩm: Xí nghiệp tập trung hoàn thiện cơ chế khoán, mở rộng và chuyển hướng thị trường. - Về tổ chức hành chính: Cải tổ mạnh mẽ cơ chế hành chính và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. C. Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp ĐTTH trong thời gian tới. Những nhận xét đề xuất được căn cứ vào kết qủa phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian qua, những ưu điểm, tồn tại vướng mắc, các thuận lợi và những bài học kinh nghiệm. Bên cạnh đó còn được dựa vào triển vọng phát triển của ngành PT - TH và mục tiêu định hướng của Xí nghiệp đến năm 2006. Biện pháp 1: Về quản trị nhân sự trong Xí nghiệp - Tuyển mộ: trong Xí nghiệp hiện nay số lao động gián tiếp chiếm 20% tổng số lao động như vậy là quá nhiều vì thường thì các doanh nghiệp không định tuyển thêm lao động như vậy là quá nhiều vì thường thì doanh nghiệp số lao động gián tiếp chiếm tỷ lệ 8 á 12% tổng số lao động vì vậy Xí nghiệp không định tuyển thêm lao động nữa. Quan điểm này có nguy cơ dẫn Xí nghiệp đến phín chịn nguy hiểm, cản trở sự đổi mới vươn lên. Bởi vì quan niệm như vậy còn quá chung chung: cần cụ thể hơn là thừa ở đâu và thiếu vị trí nào, so với thiêu chuẩn gì. Trước hết nếu so với phương pháp làm việc quen thuộc hiện tại thì dư thừa lao động khi có tình trạng là một công việc đang được chia sẻ cho quá nhiều người mà làm thì lợi ích tăng thêm không đủ để bù đắp chi phí số người tăng thêm đó. Ngược lại tình trạng thiếu lao động xảy ra khi khối lượng công việc quá số nhân lực hiện có làm cho công việc không hoàn thành đúng về thời gian và chất lượng. Về mặt này Xí nghiệp khẳng định thừa lao động gián tiếp là hoàn toàn đúng. Nhưng nếu so với yêu cầu cần phải có bộ phận Marketing trong cơ cấu tổ chức, so với phương pháp lập kế hoạch mới phương pháp quản trị nhân lực mới thì thực tế Xí nghiệp đang thiếu những nhân lực được trang bị hệ thống kiến thức hiện đại, năng nổ, sáng tạo ở phòng kế hoạch, phòng tổ chức lao động, thậm chí cần có một người khởi xướng sự đổi mới sâu rộng trong đội ngũ cán bộ khung của Xí nghiệp. Như vậy sự thừa và thiếu cùng song song tồn tại, do vậy nếu chỉ căn cứ vào sự dư thừa dễ nhận thấy mà vội vã đi đến quyết định không tuyển thêm người thì rõ ràng đã rơi vào sự phiến diện một chiều là giảm biên chế. Trong khi không biết hoặc không muốn biết việc thiếu nhân lực có kiến thức, đạo đức nghề nghiệp đáp ứng được những yêu cầu của đổi mới cập nhật phương pháp quản trị và sau đó là không có bảng phân tích công việc. Để giải quyết vấn đề vừa thừa vừa thiếu lao động Xí nghiệp cần thực hiện. + Xây dựng bảng phân tích công việc của từng phòng ban + Giảm biên chế theo định biên có xem xét đến việc giữ lại và đào tạo một số lao động có năng lực. + Trước hết lực chọn người có kiến thức có sức khoẻ, trẻ ở các phòng ban đi bồi dưỡng, đào tạo lại. Sau đó căn cứ vào bảng phân tích công việc, cơ cấu tổ chức mới để xem xét từng vị trí làm việc cụ thể để quyết định vị trí nào đòi hỏi nhân tố mới hoàn toàn, thêm về kiến thức và sự năng động sáng tạo (ví dụ Marketing). Chủ đề quan trọng cần đề cấp đến trong tuyển mộ là xây dựng tiêu chuẩn tuyển mộ của từng ứng viên dựa vào bảng phân tích công việc. Do Xí nghiệp chưa xây dựng bảng phân tích công việc nên đặt ra các tiêu chuẩn nhiều khi không có căn cứ. Trong phiếu điểm tuyển của Xí nghiệp có những điểm sau: Phiếu điểm Môn thi Hệ số Điểm Nhận xét - Vô tuyến điện - Chế tạo máy - Quản lý chất lượng - Kế toán - tài chính - Vi tính - Ngoại ngữ - Dự thảo hợp đồng kinh tế - Chuyên môn khác Tiêu chuẩn đầu tiên và cao nhất là vô tuyến điện chế tạo máy hầu như chỉ có sinh viên Bách Khoa, kinh tế và đáp ứng được. Xã hội ngày nay có sự chuyên môn hoá mạnh, những vị trí nào sẽ đòi hỏi con người có đầy đủ kiến thức và có khả năng tương ứng. Trong kinh doanh lao động quản trị được chia thành 3 cấp: Cơ sở (đốc công đội trưởng) trung gian (Trưởng phòng ban), cao cấp (giám đốc, phó giám đốc). Nếu như ở cấp cơ sở kiến thức kỹ thuật được coi là hàng đầu sau đó mới đến kỹ năng tổ chức và quan hệ bên ngoài thì càng nâng cao kiến thức kỹ đòi hỏi ít đi và chủ yếu là kiến thức kỹ năng tổ chức và quan hệ bên ngoài. ở cấp cao cấp nhất theo tính toán yếu tố kỹ thuật chỉ chiếm 20% kiến thức và tập trung lớn nhất vào quan hệ đối ngoại sau đó đến tổ chức. Vì vậy thứ nhất, tiêu chuẩn rất cần thiết nhưng mức độ đòi hỏi cho từng vị trí làm việc khác nhau là khác nhau do đó cần linh hoạt, thứ hai một cá nhân có hiểu biết tốt ở vị trí này nhưng không hẳn cũng làm tốt ở vị trí cao hơn với đòi hỏi mới về kiến thức kỹ năng cần có cho vị trí mới, vì vậy cá nhân đó cũng cần được đào tạo chuẩn bị trước khi đề bạt. Tiêu chuẩn về quản lý chất lượng là rất cần thiết cho mọi người trong Xí nghiệp bởi vì khi Xí nghiệp đã áp dụng thành công một hệ thống quản lý chất lượng thích hợp thì sẽ giúp cho sản phẩm tăng sức cạnh tranh, doanh thu, lợi nhuận không ngừng tăng, giảm thiểu những chi phí thiệt hại do vậy vừa đạt hiệu quả về phía doanh nghiệp vừa đạt hiệu quả cho xã hội. Tiêu chuẩn vi tính và ngoại ngữ nhìn qua quả rất cần thiết cho nhân viên nhưng trên thực tế vi tính chỉ sử dụng như máy đánh chữ, còn ngoại ngữ tỏ ra xa vời hơn bởi vì khách hàng của Xí nghiệp đều ở trong nước. Các vị trí hiện tại không đòi hỏi trình độ vi tính và ngoại ngữ vì không có điều kiện sử dụng. Hoàn toàn không sai nến Xí nghiệp muốn phát triển sản xuất kinh doanh và cần những nhân viên như vậy nhưng thực tế việc đưa ra tiêu chuẩn này không căn cứ vào chiến lược của Xí nghiệp vì vậy nó không phù hợp và không có tính thực tế. Trước yêu cầu của việc mở rộng sản xuất đa dạng hoá sản phẩm cần phải tuyển thêm một vị trí nào đó, căn cứ vào bảng phân tích công việc để xác định tiêu chuẩn ứng viên và các trang bị cần thiết cho nhân lực mới đảm bảo hoàn thành công việc: phòng làm việc, bàn làm việc và trang thiết bị khác.... ví dụ căn cứ vào chiến lược thấy rằng cần thành lập bộ phận Marketing với các chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc đã xác định, phòng tổ chức lao động chính thức đưa ra các tiêu chuẩn lựa chọn ứng viên và thực hiện các quy trình tuyển chọn cụ thể. Tuy nhiên nếu cứ đào tạo, tuyển mộ nhân lực mà không có sự phát triển tương ứng về phương diện làm việc, về điều kiện khách quan của thị trường, khách hàng để áp dụng những kỹ năng đã được đào tạo thì sẽ làm thui chột trình độ nhân viên và việc đào tạo không có hiệu quả và ý nghĩa. Vậy biện pháp cho vấn đề này vẫn là: + Xây dựng bảng phân tích công việc + Cần thiết phải có một quản trị nhân lực được trang bị về kiến thức và kinh nghiệm để đảm bảo trách nhiệm việc xây dựng chương trình phát triển nhân lực. Người này nên là người mới tuyển mộ. + Phải giải quyết dứt điểm số cán bộ sắp đến tuổi nghỉ hưu, thiếu năng lực trong công tác, không có việc làm, tạo điều kiện để thuyên chuyển, đào tạo lại, hỗ trợ thêm về tài chính lao động tình nguyện nghỉ hưu trước tuổi. Khi thực hiện được vấn đề tuyển dụng lao động mới có năng lực thích hợp với yêu cầu mới cũng như việc giảm số lao động dư thừa do không có những kiến thức kỹ năng cần thiết Xí nghiệp sẽ tạo ra cho mình một đội ngũ nhân viên có sức trẻ, năng động, nhanh chóng tiếp thu và dễ dàng thích nghi những kiến thức, kỹ năng mới trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chấp nhận cạnh tranh, có năng lực đủ sức đáp ứng được công việc một cách tốt nhất, với số nhân viên ít nhưng làm việc có hiệu quả, hoàn thành nhhiệm vụ mà Xí nghiệp đặt ra đúng thời gian, số lượng cũng như vấn đề chấ lượng Xí nghiệp. Đồng thời Xí nghiệp sẽ giảm được gánh nặng về việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao động, tăng năng suất lao động. Tuy nhiên chương trình phát triển nhân lực cần phải xác định được vị trí nào cần tuyển thêm người có các vị trí nào cần được đào tạo lại. Đặc biệt là nhân lực cho phòng Marketing phòng tổ chức hành chính. Nói tóm lại con người là yếu tố quan trọng nhất. Chính nó quyết định trình độ sử dụng các nguồn nhân lực. Trình độ sử dụng vốn cố định, vốn lưu động tạo ra donh thu, lợi nhuận bao nhiêu cho Xí nghiệp, nộp ngân sách nhà nước đúng và đủ, hạ giá thành, tiết kiệm chi phí, boả dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị tốt hay xấu đều do nhân tố con người quyết định. - Về khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người lao động Về khuyến khích vật chất trong Xí nghiệp tập trung vào lương và thưởng Vấn đề không nằm ở lương mà nằm ở thưởng. Như đã phân tích rút ra những tồn tại yếu kém trong việc xét thưởng. Để khắc phục cần xây dựng ngay một cơ chế đánh giá thành quả nhân viên một cách kịp thời đúng để thưởng, tuy ít nhưng phát huy tác dụng khuyến khích tinh thần làm việc của nhân viên, nâng cao năng suất lao động. Cơ chế đánh giá thành tích phải căn cứ vào bảng phân tích công việc, nhiệm vụ được giao và kết quả thực hiện của từng người, từng phòng ban trong từng thời kỳ, không gộp thưởng một lần vào cuối năm như hiện nay. Cần xây dựng quỹ tiền thưởng để thưởng ngay cho những người lao động có thành tích suất sắc, ý kiến đóng góp bổ ích và những sáng kiến làm lợi cho Xí nghiệp. Tuy nhiên đánh giá con người là việc làm hết sức thận trọng và cần thiết. Một sự đánh giá đúng đắn kịp thời có hiệu quả hơn là động viên tinh thần làm việc của nhân viên, ngược lại đánh giá sai lầm có thể gây những bất bình từ phía người được đánh giá và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công việc. Việc đánh giá và xét thưởng cần phải đúng với kết quả thành tích người lao động đạt được. Nếu đánh giá kết quả quá cao thì tác hại xảy ra không phản đối với người được thưởng mà chính là những người khác sẽ tỏ thái độ cho rằng trong sự đánh giá có sự thiên vị, có tình cảm cá nhân xen vào và gây ra cho họ sự chán nản, bất bình. Ngược lại đánh giá quá thấp thành tích hay sự nỗ lực đóng góp của cá nhân nào đó thì sẽ thủ tiêu tinh thần sáng tạo và mong muốn đóng góp cho sự thành công của Xí nghiệp. Ta thấy rằng cả hai trường hợp đều có hậu quả đáng tiếc. Vấn đề bây giờ là phải dựa vào bảng phân tích công việc để người đánh giá biết được rằng công việc đó có hoàn thanh theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thời gian cho phép với số lượng và chất lượng công việc như thế nào. Làm được thế này mới đảm bảo công bằng trong việc xét thưởng. Như vậy việc xét thưởng người lao động nhằm mục đích đánh giá chính xác những đóng góp của họ cho Xí nghiệp và có phần thưởng xứng đáng với những gì họ đã làm được và khuyến khích đạt được những kết quả cao hơn trước. Có thể nói rằng đây là một đòn bẩy kinh tế có tác dụng nâng cao lao động tốt nhất, gắn bó quyền lợi và trách nhiệm của người lao động, thúc đẩy họ nhiệt tình, tận tâm trong công việc và mong muốn đóng góp ngày càng nhiều hơn cho Xí nghiệp. Đây là một biện pháp mà Xí nghiệp sử dụng để nâng cao năng suất lao động và gắn bó người lao động với Xí nghiệp. Song song với vấn đề khen thưởng là kỷ luật lao động cũng đóng góp vai trò quan trọng trong khuyến khích, động viên người lao động làm việc. ở đây muốn nhấn mạnh đến việc đánh giá người lao động không hoàn thành nhiệm vụ hoặc vi phạm nội quy, quy chế của Xí nghiệp hay vi phạm pháp luật là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Đối với sai lầm do chủ quan vì thiếu tinh thân trách nhhiệm thì không thể tha thứ và phải căn cứ vào bảng phân tích công việc để xác định nhiệm vụ, quyền hạn của người được giao việc và hậu quả của việc thiếu ý thức để có quyết định xử phạt hợp lý tuỳ theo mức độ nặng nhẹ của hậu quả. Việc xử phạt nghiêm khắc để răn đe đồng thời cả người phạm lỗi và người chưa phạm lỗi. Không để tình trạng vị nể tình riêng mà xử nhẹ gây ra tình trạng bất bình và nhờn kỷ luật đối với người lao động. Mục đích của kỷ luật là để lần sau người vi phạm có ý tưởng sáng tạo. Trong Xí nghiệp phải xây dựng được tinh thần đoàn kết giữa các cá nhân cũng như giữa các phòng ban với nhau, có như vậy mới nâng cao được hiệu quả của công việc. Việc kỷ luật người lao động như đã nói ở trên là không được gây ra mâu thuẫn giữa các cá nhân cũng như giữa các phòng ban vì nếu như vậy sẽ rất nguy hiểm. Khi có mâu thuẫn xảy ra nó sẽ triệt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24446.DOC
Tài liệu liên quan