Đề tài Phân tích sự phát triển vật chất trong lịch sử triết học

Tài liệu Đề tài Phân tích sự phát triển vật chất trong lịch sử triết học: Lời nói đầu Kể từ khi con người có nhận thức thì đã xu hướng tìm hiểu về chính mình và thế giới xung quanh. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là quan điển vật chất. Trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật thi thực thể của thế giới vật chất cái tồn tại vĩnh cửu tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng. Để từ đó ta có thể thấy được triết học đã nghiên cứu hàng loạt những vấn đề chung nhưng vấn đề trọng tâm là những mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và tinh thần. Đồng thời nó còn là một hình thái ý thức xã hội, một lĩnh vực trí tuệ và đặc thù của con người: đó chính là hệ thống những quan điểm trung nhất về thế giới. Theo các nhà triết học HyLạp cổ đại thì vật chất mang tính khái quát nhưng chỉ là khái quát bề ngoài của vật chất. Nhưng một số nhà triết học duy vật thời cận đại lại cho rằng nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ bé nhất không thể phân chia được nhưng vẫn tách rời một cách siêu hình. Cho tới cuối thế kỷ XIX đầu...

doc11 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích sự phát triển vật chất trong lịch sử triết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Kể từ khi con người có nhận thức thì đã xu hướng tìm hiểu về chính mình và thế giới xung quanh. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là quan điển vật chất. Trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật thi thực thể của thế giới vật chất cái tồn tại vĩnh cửu tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng. Để từ đó ta có thể thấy được triết học đã nghiên cứu hàng loạt những vấn đề chung nhưng vấn đề trọng tâm là những mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và tinh thần. Đồng thời nó còn là một hình thái ý thức xã hội, một lĩnh vực trí tuệ và đặc thù của con người: đó chính là hệ thống những quan điểm trung nhất về thế giới. Theo các nhà triết học HyLạp cổ đại thì vật chất mang tính khái quát nhưng chỉ là khái quát bề ngoài của vật chất. Nhưng một số nhà triết học duy vật thời cận đại lại cho rằng nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ bé nhất không thể phân chia được nhưng vẫn tách rời một cách siêu hình. Cho tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhờ những phát minh khoa học mới con người mới được hiểu biết căn bản và sâu sắc hơn về nguyên tử Để từ đó Đảng ta đã vận dụng những sáng tạo trong triết học Mác-Lênin vào thực tiễn sinh động ở Việt Nam, đã tạo ra vũ khí sắc bén cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với bản thân là một sinh viên-là một công dân Việt Nam, được sống trong điều kiện thanh bình. ý thức được vật chất là chủ đề bao quát toàn bộ những vấn triết học. Để hiểu biết thêm về những vấn đề triết học, đó chính là lý do để em "Phân tích sự phát triển vật chất trong lịch sử triết học". Thực chất đó là sự so sánh quan điểm vật chất của :Lênin với các nhà triết học trước. Với trình độ có hạn của mình em rất mong thầy cô, bạn bè thông cảm và góp ý kiến để hoàn thành bài tiểu luận. Em xin chân thành cảm ơn. Nội dung I. Vật chất và các hình thức tồn tại của nó. Phạm trù về vật chất được hiểu rất khác nhau phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thực tiễn và nhận thức trong từng thời kỳ của lịch sử nhân loại. Phạm trù về vật chất là một trong những phạm trù cơ bản. Để hiểu rõ về phạm trù vật chất chúng ta cần phải tìm hiều quan điểm vật chất của Lê Nin với những quan điểm vật chất của những nhà triết học khác. Theo quan điểm của Chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới cơ sở của mọi cái tồn tại là bản nguyện tinh thần nào đó. Đó có thể là “ý chí của thượng đế” là “ý niệm tuyệt đối” hoặc là những quan hệ có tích chất siêu nhân. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng tồn tại về thực chất là tồn tại tinh thần còn chủ nghĩa duy tâm tôn giáo cho rằng sự tồn tại thực chất là sự tồn tại của đấng siêu nhân, đấng tối cao như chúa trời, thượng đế. Còn trong quan niệm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất cái tồn tại vĩnh cửu tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng. Thời cổ đại các nhà triết học Phương Đông cho rằng vật chất gồm năm yếu tố: Kim - Thuỷ - Mộc - Hoả - Thổ và trong Kinh dịch thì cho rằng thế giới được tạo nên bởi hai loại âm - dương. Các nhà triết học HyLạp cổ đại đã đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó tức là những vật thể hình hữu cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Talet cho rằng vật chất là nước, Anaximen cho rằng vật chất là không khí. He ra clít cho rằng vật chất là Hoả còn ămpêđoclo thì cho rằng vật chất bao gồm bốn yếu tố đất, nước, lửa và không khí một cách khái quát hơn Anaximen thì cho rằng vật chất không thể nhận biết được bằng cảm giác với tên là “Apây rôn” cao hơn trong số các nhà triết học HyLạp Đêmôclit cho rằng vật chất là nguyên tử nhỏ nhất không thể chia được, không thể nhận thức được bằng cảm tính. Nói chung theo các nhà triết học HyLạp cổ đại vật chất mang tính khái quát nhưng là khái quát bề ngoài của vật chất. Từ cuối thế kỷ thứ XVI và đặc biệt trọng hai thế kỷ XVII - XVIII nền khoa học tự nhiên - thực nghiệm Châu Âu nhờ ứng dụng được những thành tựu về cơ học - toán học đã phát triển một cách mạnh mẽ. Lúc này khoa học đã có những phát hiện mới về quang, về điện, về điện từ. Thiên văn học đã giải thích được cấu tạo của hệ mặt trời. Động vật học và thực vật học đã nghiên cứu được đặc điểm của hàng trục nghìn dạng cơ thể sống, tuy vậy quan điểm siêu hình máy móc vẫn chi phối những hiểu biết của triết học về vật chất. Người ta giải thích mọi hiện tượng của tự nhiên bằng sự tác động qua lại của lực hấp dẫn và lực đẩy giữa các phần tử của vật thể theo đó thì các phần tử của vật thể trong quá trình vận động là bất biến cái thay đổi chỉ là trạng thái không gian và tập hợp của chúng. Mọi phân biệt về chất giữa các vật thể đều bị quy giảm về sự phân biệt về lượng. Niềm tin vào chân lý cơ học, trong cơ học Niutơn đã khiến cho các nhà khoa học lúc đó đồng nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, nguồn gốc của vận động được coi là nằm ở bên ngoài của vật chất. Kế thừa quan điểm nguyên từ luận cổ đại, các nhà triết học duy vật cổ đại vẫn tiếp tục coi nguyên tử là những phần tử vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được, vẫn tách rời chúng một cách siêu hình với vận động, không gian và thời gian. Các nhà tư tưởng thời cận đại vẫn chưa thấy được vận động là thuộc tính cố hữu của nguyên tử. Phải đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi xuất hiện những phát minh mới trong khoa học tự nhiên con người mới có được những hiểu biết căn bản hơn càng sâu sắc hơn về nguyên tử. Năm 1895 Rơnghen phát hiện ra tia Rơnghen (còn gọi là tia X) được ứng dụng rộng rãi trong thực tế, một trong những ứng dụng quan trọng là dùng để chữa bệnh ung thư nông (gần ngoài da) diệt vi khuẩn. Năm 1896 Béccơren phát hiện ra hiện tuợng phóng xạ. Năm1902 hai vợ chồng nhà bác học Maricuiri người Ba Lan đã phát hiện ra chất phóng xạ cực mạnh. Vào năm 1905 thuyết tương đối của Anhxtanh ra đời. . . Những phát hiện này đã chứng minh rằng nguyên tử không phải là phần vật chất bất biến không thể phân chia được mà trái lại nó luôn chuyển động biến đổi. Quan niệm này đã làm đảo lộn quan điểm về vật chất trước kia, đã đẩy chủ nghĩa duy vật cũ vào cuộc khủng hoảng. Chủ nghĩa duy tâm học đã lợi dụng tình hình đó và tuyên bố vật chất đã biến mất đã tiêu tan nên khoa học tự nhiên cũng rơi vào khủng hoảng. Đúng lúc đó xuất phát từ yêu cầu phát triển khoa học của nhận thức nói chung Lênin đã chứng minh rằng: không phải vật chất tiêu tan biến mất mà thực ra là những giới hạn nhận thức của con người về thế giới vật chất đã bị phá vỡ. Do đó phải thay thế quan niệm cũ về vật chất bằng quan niệm mới đáp ứng nhu cầu về sự phát triển khoa học. Vì vậy định nghĩa về vật chất của Lê nin ra đời. Theo Lê nin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ” Phạm trù vật chất ở đay được hiểu là quan niệm triết học về vật chất, hơn nữa nó là một quan niệm triết học khoa học về vật chất dưới hình thức phạm trù phản ánh những thuộc tính căn bản phổ biến của vật chất. Đồng thời nó khác với quan niệm của các khoa học cụ thể. Vật chất ở đây được hiểu là thực tại khách quan tức là tất cả những gì tồn tại độc lập bên ngoài ý thức của chúng ta, độ lập không phụ thuộc với ý thức của chúng ta gọi là vật chất. Nhưng như thế chưa đủ vật chất là cái tuy tác động lên giác quan của chúng ta có thế gây cho chúng ta cảm giác. Định nghĩa về vật chất của Lê nin đã khắc phục đựoc những hạn chế và sai lầm của tất cả các quan điểm về vật chất trước kia, nó khắc phục được khủng hoảng cuả chủ nghĩa duy vật, nâng chủ nghĩa duy vật lên một bước phát triển mới là sự ra đời của chủ nghĩa suy vật biện chứng. Mặt khác nó khắc phục được cuộc khủng hoảng trong khoa học tự nhiên nhất là trong vật lý học. Nó mở đường cho khoa học tự nhiên phát triển đi lên. Hơn nưa định nghĩa về vật chất của Lê nin làm cơ sở cho việc xác định quan điểm đúng đắn, khoa học về lịch sử, xã hội loài ngưòi. II. Để làm rõ hơn quan điểm vật chất của Lê-nin chúng ta phải so sánh quan điểm về vật chất của Lê nin với các nhà triết học khác như: Đêmôcrit, Hêraclit. . . Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa duy vật Hylạp cổ đại. Từ quan niệm nguyên tử của Lơxip ông xây dựng thành học thuyết nguyên tử cổ điển hoặc thuyết nguyên tử về cấu tạo vật chất. Khi xây dựng thuyết nguyên tử ông lấy nguyên lý về vật chất và vận động của vật chất làm nguyên lý cơ sở. ông bắt đầu giải thích bức tranh thế giới, xác định khởi nguyên thế giới và theo ông nó bao gồm hai yếu tố: là cái tồn tại (các nguyên tử) và cái không tồn tại (khoảng không). Quan điểm của ông bắt đầu xuất hiện khái niệm tồn tại và không tồn tại, tồn tại các nguyên tử chính là những hạt vật chất cực nhỏ không thể phân chia được. Những hạt vật chất này khác nhau về hình dáng kích thước để chỉ ra sự khác nhau ấy ông cho rằng có bao nhiêu nguyên tử sẽ có bấy nhiêu hình dáng kích thước. Trong quan niệm của ông số lượng nguyên tử vô hạn và hình dáng kích thước cũng vô hạn. Các nguyên tử không có đặc tính về chất lượng không có màu sắc, cảm giác. Các nguyên tử với tư cách là cái tồn tại - cái khởi nguyên nên nó không bao giờ biến mất mà tồn tại vĩnh viễn. Còn cái không tồn tại (chân không) là cái bất động vô hạn là điều kiện cho sự vận động của các nguyển tử. Do đó khởi nguyên của thế giới là sự thống nhất của hai mặt tồn tại và khôn giao không tồn tại. Tồn tại không còn là cái tồn tại thuần tuý mà qua các hạt vật chất cực nhỏ sự vật tồn tại trong cái không tồn tại không ảnh hưởng gì và vì vậy không tồn tại cũng được hiểu như cái tồn tại. Sự xuất hiện của sự vật và sự mất đi của chúng chính là sự kết hợp và phân huỷ của các nguyên tử trong chân không. Sự biến đổi sự vật từ sự vật này sang sự vật khác thực chất là sự biến đổi trật tự vị trí của các nguyên tử trong chân không. Vật trong quan niệm của Đêmôcrit có sự kế thừa của các nhà triết học trước đó. Trong khi đó quan niệm về vật chất của Lênin cho rằng: thuộc tính cơ bản của vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ” vật chất là vô cùng vô tận, nó có vo vàn các thuộc tính khác nhau rất đa dạng và phong phú mà khoa học ngày càng tìm ra và phát hiện thêm những thuộc tính của nó. Trong tất cả các thuộc tính của vật chất thì “thực tại khách quan” tức tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức con người là chung nhất, vĩnh hằng với mọi dạng mọi đối tượng khác nhau của vật chất. Thuộc tính “ tồn tại khách quan ”chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất cái gì không phải là vật chất cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Tất cả những gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người đều là những dạng vật chất như: ánh sáng, âm thanh, không khí, các quy luật tự nhiên. . . tuy không tồn tại dưới dạng vật thể (là những vật có hình dạng kích thước mà ta có thể sờ, cầm, nắm, bắt được như bàn ghế, phấn. . .) cũng không mang thuộc tính khối lượng năng lượng cũng không có cấu trúc nguyên tử phân tử (như quan niệm của Đêmôcrit) nhưng chúng tồn tại khách quan. Vật chất tồn tại khách quan nhưng không phải tồn tại vô hinh trừu tượng mà tồn tại hiện thực cụ thể cảm tính. Khi vật chất tác động lên giác quan của con người thì nó gây ra cảm giác, đem lại cho con người sự nhận thức về chính nó. Còn Hêraclit lại coi lửa như một cơ sỏ đàu tiên của mọi tồn tại, lửa không chỉ là cơ sở của mọi vật mà còn là khởi nguyên sinh ra chúng “ cái chết của lửa là sự ra đời của không khí và cái chết của không khí là sự ra đời của nước, từ cái chết của nước sinh ra không khí, từ cái chết của không khí sinh ra lửa và ngược lại ”. Bản thân vũ trụ không phải là do chúa trời sinh ra hay lực lượng siêu nhiên thần bí nào tạo ra. Nó “mãi mãi, đã đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn không ngừng bùng cháy và tàn lụi ”ví vũ trụ như một ngọn lửa bất diệt. Hêraclit đã tiếp cận với quan niệm nhấn mạnh tính vĩnh viễn và bất diệt của thế giới. Nếu như Talet coi nước như là khởi nguyên với tư cách là một thực thể sỉnha mọi sinh vật thì Hêraclit đã hiểu khởi nguyên theo nghĩa độ cao hơn coi lửa không chỉ là thực thế sinh sản ra mọi vật mà còn là khởi tổ thống trị toàn thế giới. Định nghĩa của Lê nin về vật chất đã bao quát cả hai mặt của vấn đề cơ bản cuả triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Định nghĩa vật chất của Lênin có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận sâu sắc đối với nhận thức khoa học và thực tiễn. Nó đã khắc phục được tính chất siêu hình trực quan trong các quan niệm về vật chất cuả chủ nghĩa duy vật trước Mác, quy vật chất vào các dạng cụ thể cảm tính hoặc một thuộc tính cụ thể nào đó của vật chất. Trong hiện thực khách quan mọi sự vật hiện tượng của thế giới vật chất đều có liên hệ chuyển hoá qua lại, biến đổi và phát triển. Nên việc quy vật chất vào nguyên tử - dạng cụ thế của vật chất như chủ nghĩa duy vật trước Mác đã làm (đã nói ở phần trên) tất yếu sẽ vấp phải mâu thuẫn không thể tránh khỏi khi mà khoa học tự nhiên vượt qua giới hạn nguyên tử đi vào nghiên cứu điện tử và các hạt cơ bản khác (như nuclêon, proton. . . .). Là sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên định nghĩa của Lênin về vật chất có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức khoa học, giúp cho nhận thức khoa học tránh được các cuộc khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng vật lý cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế Triết học Mác - Lê Nin là một trong ba bộ phận cấu thành Chủ kỷ XX. Kết luận Để đi so sánh quan điểm vật chất của Lê nin với các nhà triết học khác quả là một đề tài rộng, khó có thể thâu tóm và suy xét được hết. Song qua một số phân tích về quan niệm của các nhà triết học khác về thế giới như: Đêmôclit, Hêraclit, Talet. . . của riêng phần triết học Hylạp cổ đại chúng ta có thể thấy rằng quan niệm về vật chất của Lê nin khác hoàn toàn so với các nhà triết học thời cổ đại. Các nhà triết học thời đó chỉ chuyên nghiên cứu và đi sâu vào một lĩnh vực cụ thể, địa lý để phân tích, giải thích và tìm bản nguyên của thế giới, xem vật chất nào là vật chất quyết định tạo nên thế giới vũ trụ. Còn theo quan niệm của Lênin thì vật chất được hiểu là một thực tại khách quan tức là tất cả những gì tồn tại độc lập bên ngoài ý thức của con người, không phụ thuộc vào ý thức của con người và cũng không do cái phi vật chất sinh ra nó mà nó tự có, đồng thời nó phản ánh các giác quan vào não của con người và là bộ phận vật chất đã được con người tác động vào. Từ đó ta có thể nhận định rằng định nghĩa vật chất của Lê nin có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận sâu sắc đối với nhận thức khoa học và thực tiễn. Tài liệu tham khảo 1. Triết học Mác-Lênin tập 1, tập 2 2. Triết học Mác-Lênin tập 1, tập 2, tập 3 3. Khoa triết Học viện chính trị cao cấp NA Quốc TW(NXB tư tưởng VH 1991) 4. Hỏi đáp về triết học(Học viện chính trị QGHCM) 5. Hướng dẫn ôn thi môn Triết học Mác-Lênin Mục lục Phần cam đoan Bài tiểu luận này của em là do sự cố gắng tìm kiếm tài liệu của bản thân mà không nhờ làm bài hộ, không thuê viết bài, không sao chép, không lấy từ nguồn khác. Từ những tài liệu tìm được em đã vận dụng vào bài viết của mình dưới ngôn ngữ triết học.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60079.DOC
Tài liệu liên quan