Đề tài Phân tích sự phát triển du lịch Hà Nội

Tài liệu Đề tài Phân tích sự phát triển du lịch Hà Nội: Lời mở đầu Văn hoá là một sản phẩm do con người tạo nên, nó không do một cá nhân mà do cả một cộng đồng, tập thể người. Tương ứng với mỗi một thời kỳ phát triển của loài người là một nền văn hoá tập trung riêng. Đồng thời văn hoá tự đánh giá phần nào sự phát triển của văn minh nhân loại và ngày nay văn hoá còn là một yếu tố cấu thành thúc đẩy động cơ đi du lịch. Mỗi một quốc gia và một dân tộc có những nét đặc trưng văn hoá riêng do vậy để hiểu biết, giao lưu tìm hiểu và thưởng thức buộc con người phải có hoạt động đi du lịch và thông qua du lịch cảm thấy gần gũi thân thiết với nhau hơn. ở Việt Nam bắt đầu từ nền văn hoá đất nước trải dài theo thời gian thông qua năm tháng đã tích lũy được một kho tàng văn hoá lớn và nó ngày càng có sức thu hút sự quan tâm chú ý của mọi người ở các quốc gia khác nhau. Hơn bất cứ một ngành nào du lịch ngày càng có mối quan hệ mật thiết với văn hoá. Văn hoá không chỉ là động lực của sự phát triển mà còn được gọi là điểm tựa, là nền tảng cho sự phát tri...

doc34 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích sự phát triển du lịch Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Văn hoá là một sản phẩm do con người tạo nên, nó không do một cá nhân mà do cả một cộng đồng, tập thể người. Tương ứng với mỗi một thời kỳ phát triển của loài người là một nền văn hoá tập trung riêng. Đồng thời văn hoá tự đánh giá phần nào sự phát triển của văn minh nhân loại và ngày nay văn hoá còn là một yếu tố cấu thành thúc đẩy động cơ đi du lịch. Mỗi một quốc gia và một dân tộc có những nét đặc trưng văn hoá riêng do vậy để hiểu biết, giao lưu tìm hiểu và thưởng thức buộc con người phải có hoạt động đi du lịch và thông qua du lịch cảm thấy gần gũi thân thiết với nhau hơn. ở Việt Nam bắt đầu từ nền văn hoá đất nước trải dài theo thời gian thông qua năm tháng đã tích lũy được một kho tàng văn hoá lớn và nó ngày càng có sức thu hút sự quan tâm chú ý của mọi người ở các quốc gia khác nhau. Hơn bất cứ một ngành nào du lịch ngày càng có mối quan hệ mật thiết với văn hoá. Văn hoá không chỉ là động lực của sự phát triển mà còn được gọi là điểm tựa, là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Văn hoá du lịch đang trở thành xu thế chủ đạo trong chiến lược phát triển của ngành du lịch thế giới. Trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ "Phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hoá sinh thái, môi trường xây dựng các chương trình và các điểm hấp dẫn du lịch về văn hoá, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh”. Hà Nội được coi là cái nôi văn hoá của cả nước, nơi tập trung nhiều giá trị văn hoá gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, có sức thu hút lôi cuốn ngày càng nhiều khách du lịch. Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên thế giới lại không coi trọng sự phát triển của du lịch văn hoá bởi vì du lịch văn hoá là một loại hình du lịch có nhiều ưu điểm không phụ thuộc vào thời tiết có thể phát triển quanh năm. Nguồn thu từ du lịch văn hóa là nguồn thu ổn định với mức tăng trưởng ngày càng lớn, nó giúp con người hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh. Điều đó rất phù hợp với thời đại ngày nay quan trọng hơn việc khai thác tiềm năng văn hoá truyền thống trong kinh doanh du lịch cũng là một cách tốt nhất được tiến hành đồng thời đã được bảo tồn tôn tạo chúng. Phát triển một cách hiệu quả các tiềm năng, khuyến khích sự phát triển của du lịch văn hoá trong giai đoạn mới. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của các thầy cô đặc biệt là thầy giáo đã giúp em hoàn thành đề tài này. Chương I. Sự cần thiết để phát triển Du lịch văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH I. Vai trò và vị trí của Du lịch văn hoá trong sự phát triển của Du lịch 1. Những nét khái quát về Du lịch văn hoá Có lẽ hiếm có một quốc gia nào trên thế giới muốn phát triển ngành Du lịch của mình mà lại không coi trọng du lịch văn hoá? Nhưng không phải bất cứ quốc gia nào cũng có điều kiện phát triển du lịch văn hoá. Du lịch văn hoá chỉ phát triển ở những nước có nền văn minh cổ đại nổi tiếng, có nghệ thuật dân tộc đặc sắc, có những cảnh đẹp làm đắm say lòng người. Nếu Ai Cập không có kim tự tháp đồ sộ, Hy Lạp không có những đề tài nguy nga... thì mỗi năm không thể có hàng chục triệu khách đến du lịch ở nước này. Có thể hiểu Du lịch văn hoá là một loại du lịch mà mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân đáp ứng sự ham hiểu biết. Qua các chuyến đi đến những vùng đất mới, tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phương đất nước đến du lịch hoặc là kết hợp với những mục đích khác nữa. Du lịch văn hoá vừa là phương tiện, vừa là mục đích của kinh doanh du lịch. Du lịch văn hoá nhằm chuyển hoá các giá trị văn hoá. Các giá trị vật chất cũng như tinh thần cho hoạt động du lịch. Du lịch văn hoá là phương thức hấp dẫn vì nó giải quyết những nhu cầu về cảm thụ cảnh quan của quốc gia và du lịch văn hoá thường để dành cho những du khách có trình độ cao trong xã hội. Du lịch văn hoá được xem là tổng thể của Du lịch - xem đó là một hiện tượng văn hoá nhằm thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang tính văn hoá. Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà người ta có thể chia du lịch văn hoá ra nhiều loại. + Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: Khách đi tìm hiểu các nền văn hoá là chủ yếu. Mục đích chuyến đi mang tính chất khảo cứu nghiên cứu. Đối tượng khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên. + Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất du khách thường kết hợp giữa tham quan. Với nghiên cứu tìm hiểu văn hoá trong một chuyến đi. Đối tượng tham gia vào loại hình du lịch này rất phong phú, bên cạnh những khách vừa kết hợp đi để tham quan vừa để nghiên cứu còn có những khách chỉ để chiêm ngưỡng để biết, để thoả mãn sự tìm hoặc có thể theo trào lưu... Do vậy trong một chuyến du lịch du khách thường đi đến nhiều điểm du lịch, trong đó vừa có những điểm du lịch văn hoá, vừa có những điểm du lịch núi, du lịch biển, du lịch dã ngoại, săn bắn... Đối tượng khách là những người ưa phiêu lưu mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ yếu là những người trẻ tuổi. + Du lịch kết hợp giữa thăm quan văn hoá với các mục đích khác. Mục đích chính của khách là trong chuyến đi nhằm thực hiện công tác hoặc nghề nghiệp nào đó và có kết hợp với tham quan văn hoá. Đối tượng của loại hình này là những người đi tham dự hội nghị, hội thảo, kỷ niệm những ngày lễ lớn, các cuộc triển lãm. Loại khách này đòi hỏi trình độ phục vụ hiện đại, phong phú có chất lượng cao, quy trình phục vụ đồng bộ, chính xác, họ có khả năng thanh toán cao, nhưng nói chung thời gian dành cho du lịch của họ rất ít. Thể loại du lịch cụ thể của loại hình du lịch này là du lịch công vụ. Tuy nhiên, sự phân loại Du lịch văn hoá thành các loại hình trên chỉ là tương đối. Vì trong một chương trình được kết hợp với nhiều hoạt động khác nhau. Du lịch văn hoá là loại hình du lịch tiềm năng và nó ít chịu sự chi phối của yếu tố thời vụ du lịch (thời tiết, khí hậu) nhưng nó phụ thuộc vào đặc điểm nhân khẩu học như: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tôn giáo... của du khách. 2. Vị trí và vai trò của du lịch văn hoá với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước 2.1. Vị trí của du lịch văn hoá Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thời kỳ CNH - HĐH hiện nay, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là sợi chỉ đỏ trong đường lối văn hoá của Đảng ta. Bởi vì nói đến văn hoá là nói đến dân tộc Nước Việt Nam ta đã trải qua hàng nghìn năm sinh tử trong gian truân, vất vả, nhân dân các dân tộc đã sáng tạo, nâng cao, bảo tồn, chắt chiu để có những công trình kiến trúc, đền chùa, miếu mạo của các thiên tài kỳ vĩ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm... làm nên diện mạo nền văn học, nền văn hoá Việt Nam. Từ ngọn bút tháp bên Hồ Gươm hay những món ăn truyền thống đều là di sản văn hoá dân tộc, đó là những tài sản quốc gia, cũng là một trong những tiềm năng của du lịch ngày nay. Do vậy mà chúng ta cần phải giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc đúng như trong diễn văn khai mạc Thập kỷ Quốc tế phát triển văn hoá 1900-2000 ông Federico Mayor, Tổng thư ký Unesco đã nói "Cần phải giữ gìn cho được mọi giá trị văn hoá dân tộc, một cộng đồng người, thậm chí một cá thể là những điều không thể thay thế được". Trên thế giới ngày nay đang phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch hoài cổ, du lịch tìm cái mới, du lịch tìm hiểu phong tục nhưng du lịch kiểu nào, ở đây, đến nước nghèo hay nước công nghiệp phát triển du lịch bao giờ cũng gắn liền với văn hoá, với bản sắc của mỗi quốc gia luôn đầy ắp giá trị. Vì văn hoá là yếu tố tiềm ẩn hoá thân trong hoạt động du lịch và hoạt động du lịch trước hết là hoạt động nhằm đi tìm các giá trị văn hoá dân tộc và nhân loại để thưởng thức, khám phá, hưởng thụ và sáng tạo. Ta có thể khẳng định rằng du lịch không thể tự mình phát triển được nếu không dựa trên một nền tảng văn hoá và ngược lại nhờ có du lịch mà các dân tộc hiểu biết được những thành tựu rực rỡ của nền văn hoá nhân loại, tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự xích lại gần nhau giữa các nền văn hoá nhằm làm cho các dân tộc ngày càng hiểu rõ nhau hơn. Nhưng du lịch không chỉ dừng lại ở sự thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên, ngắm nhìn các công trình văn hoá, tìm hiểu các di tích lịch sử để cảm thụ mà du lịch còn là một hoạt động khám phá sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Du lịch và văn hoá là hai khái niệm khác nhau nhưng lại đồng nhất trong mỗi khát vọng của mỗi con người. Lịch sử phát triển du lịch từ xưa đến nay đã cho thấy nhờ du lịch mà con người đã khám phá ra nhiều điều mới mẻ và đã chuyển hoá khá nhiều giá trị văn hoá thành sản phẩm du lịch hấp dẫn. Như vậy du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được của con người trong quá trình hiểu biết để hưởng thụ và sáng tạo. Sự đóng góp cho quá trình tăng trưởng kinh tế cho sự phát triển nguồn thu từ du lịch có nguyên nhân từ nhu cầu này - du lịch phát triển không tách rời nhu cầu hiểu biết, khám phá, sáng tạo. Theo đặc trưng của văn hoá trên cơ sở biết đánh thức các giá trị văn hoá của dân tộc, biết xem các di sản văn hoá, di tích lịch sử... Sự phát triển của du lịch ở Hà Nội, cũng như Huế, Quảng Ninh, Quảng Nam - Đà Nẵng... là nhờ vào tiềm năng vô giá đó. 2.2. Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá Nói đến du lịch văn hoá không có nghĩa rằng du lịch là chỗ dựa duy nhất của sự phát triển văn hoá. Không nhận thức rõ điều này, thì vô tình sự phát triển chỉ có thể thành công xét về góc độ kinh tế, còn sẽ thất bại về việc giữ gìn bản sắc dân tộc do sự tiếp xúc với du khách từ khắp năm châu đến Việt Nam. Phát triển du lịch văn hoá là một định hướng đúng trong quá trình CNH - HĐH đất nước. Văn hoá chính là nền tảng, là động lực thúc đẩy sự phát triển du lịch và du lịch văn hoá. Kinh nghiệm trên thế giới và nước ta cho thấy cần phải thực hiện đồng thời và đồng bộ như: phải tạo ra một môi trường văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, làm sống lại các giá trị văn hoá truyền thống, giữ vững sự ổn định chính trị và an ninh xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên làm du lịch tốt... nhằm tạo ra sức hấp dẫn khách thập phương. Hoạt động du lịch càng hiện đại hoá thì càng phải làm giàu thêm bản sắc và truyền thống dân tộc. Nhưng văn hoá phải thật sự là yếu tố nhân bản, là những giá trị hữu hình và vô hình. Cái gọi là tài sản vô hình đó chính là sự chuyển hoá các năng lực tinh thần của con người vào hoạt động kinh doanh, đó chính là văn hoá. Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hoá đối với kinh doanh du lịch là hết sức quan trọng, nó góp phần thúc đẩy cho du lịch vươn lên, tạo đà cho du lịch ngày một phát triển đem lại hiệu quả to lớn và ổn định cho nền kinh tế. Nó có hiệu quả là càng tăng giá trị văn hoá - văn minh, bản sắc dân tộc thì hiệu quả kinh doanh du lịch càng cao. Nhận biết được các vấn đề đó các nhà kinh doanh du lịch, các nhà quản lý kinh tế phải không những kiểm tra ngăn chặn những mặt phi văn hoá bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan trọng hơn là xây dựng tạo ra để hấp dẫn từ bản sắc, "thuần - phong - mỹ - tục" dân tộc, bảo tồn nâng cấp các di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc. II. Mối quan hệ giữa du lịch văn hoá với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá 1. Điều kiện để phát triển du lịch văn hoá Kinh doanh du lịch là một loại hình kinh doanh cao cấp không thể tách rời văn hoá vì xét cho cùng du lịch là hoạt động văn hoá. Văn hoá là nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội đồng thời nó cũng là nhu cầu đặc trưng của con người khi đi du lịch do vậy văn hoá là yếu tố quyết định tính hấp dẫn của sản phẩm du lịch vì nó giải quyết nhu cầu về nhận thức và thẩm mỹ. Có nghĩa là đến điểm du lịch nếu đi phải có cái gì cho người ta xem và ngược lại. Xét về hai khía cạnh: người đi du lịch và những nhà kinh doanh đi du lịch để phát triển du lịch văn hoá thì yếu tố đó là tài nguyên văn hoá bởi vì: * Khách du lịch: với ước muốn tìm tòi, hiểu biết thêm về những giá trị văn hoá tinh thần của một dân tộc, một vùng, một địa phương nào đó và do vậy họ sẽ đến với du lịch văn hoá. Du lịch văn hoá chỉ có thể phát triển ở một vùng, một địa phương, một đất nước nếu ở đó có tài nguyên văn hoá phong phú, đa dạng, độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc... cùng kết hợp với một số yếu tố khác tạo nên những địa điểm du lịch văn hoá đầy hấp dẫn, cuốn hút. Chính những yếu tố đó đã đưa khách du lịch tìm đến những nơi có tài nguyên văn hoá, lôi cuốn và do đó tài nguyên văn hoá là yếu tố quan trọng nhất đối với lưu lượng đi du lịch văn hoá ngày càng tăng của khách du lịch. * Nhà kinh doanh: mục đích của những nhà kinh doanh du lịch là làm sao thu hút được nhiều khách tham quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu về các lĩnh vực văn hoá... để từ đó có được doanh thu cao lợi nhuận lớn. Muốn đạt được mục đích đó để phục vụ khách du lịch đến tham quan tìm hiểu thì điều kiện đầu tiên là phải có tài nguyên du lịch thì mới có thể kinh doanh du lịch được. Khi có tài nguyên du lịch thì khách mới có thể thu hút được lợi nhuận từ đây ngành du lịch cũng vì vậy mà phát triển hơn. Để phát triển du lịch văn hoá thì cũng cần phải có tài nguyên văn hoá, đây là yếu tố quyết định. Tài nguyên văn hoá với những đặc điểm kỳ diệu, thú vị, đa dạng độc đáo sẽ ngày càng thu hút khách du lịch đến tham quan nhằm thoả mãn trí tò mò cũng như phần nào đáp ứng được lòng mong muốn hiểu biết sâu rộng về cái hay cái đẹp của mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi đất nước. Tài nguyên văn hoá bao gồm những tài nguyên có giá trị về văn hoá vật chất qua các di tích lịch sử, văn hoá, các danh lam, thắng cảnh, các công trình kiến trúc... Ngoài ra nó còn thu hút khách du lịch bởi các giá trị văn hoá phi vật chất đó là các loại hình nghệ thuật: tuồng, chèo, múa với múa dân ca... là những nét đặc sắc dân gian và huyền thoại cho các lễ hội. Khác với nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hoá không hề bị can thiệp nếu chúng ta biết duy trì tôn tạo, bảo vệ và phát triển đừng để cho chúng bị suy thoái. Theo thời gian và không gian, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên văn hoá cho phát triển du lịch là một hướng đi đúng hiện nay và trong tương lai. 2. Phát triển du lịch văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước * Sự phát triển của du lịch văn hoá góp phần làm tăng thu nhập quốc dân cho địa phương - đất nước du lịch thông qua hệ thống thuế trực tiếp và gián tiếp trong du lịch, có những nước thu nhập từ du lịch chiếm trên 50% tổng thu nhập bằng ngoại tệ (Mêhicô, Tây Ban Nha...) Du lịch phát triển tạo ra hiệu quả số nhận về thu nhập góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế địa phương đất nước du lịch đánh thức một số ngành sản xuất thủ công cổ truyền của dân tộc, góp phần giải quyết số lượng lớn công ăn việc làm cho xã hội mà biểu hiện là khi du lịch phát triển sẽ tạo ra hiệu quả số nhân về việc làm. Mặt khác du lịch phát triển sẽ thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. * Du lịch văn hoá nói riêng và du lịch nói chung là một trong những lĩnh vực xuất khẩu có hiệu quả nhất của nền kinh tế góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và đẩy mạnh cán cân thanh toán quốc tế: thông qua việc tiêu dùng của du khách người ta có thể thực hiện xuất khẩu tại chỗ "xuất khẩu" bằng con đường du lịch là xuất khẩu đa số các dịch vụ (dịch vụ lưu trú, dịch vụ bổ sung, trung gian...) đó là những điều ngoại thương không thể làm được. Hơn nữa thông qua du lịch ta có thể thực hiện xuất khẩu những nguyên liệu và hàng hoá vật khó xuất khẩu qua con đường ngoại thương như hàng ăn uống, hoa quả hàng lưu niệm... mà nếu muốn xuất khẩu qua con đường ngoại thương đòi hỏi phải đầu tư nhiều chi phí cho đóng góp, bảo quản, vận chuyển. * Phát triển du lịch văn hoá góp phần mở rộng và củng cố các mối quan hệ quốc tế, tăng cường tình hữu nghị giữa các dân tộc, củng cố nền hoà bình thế giới. Thông qua sự giao lưu văn hoá giữa các vùng các quốc gia tạo sự thúc đẩy nền văn hoá thế giới phát triển. * Du lịch văn hoá phát triển giúp cho các quốc gia giảm bớt sự căng thẳng của các trung tâm đô thị hoá cho công nghiệp mang lại, giảm bớt sự ô nhiễm môi trường trong đô thị. * Sự phát triển du lịch văn hoá có ý nghĩa lớn đối với việc góp phần khai thác bảo tồn các di sản văn hoá dân tộc, bảo vệ và phát triển môi trường tự nhiên xã hội, trong quá trình CNH - HĐH. * Du lịch văn hoá là một loại hình có thể phát triển quanh năm, đó là một lợi thế lớn cho các nhà kinh doanh du lịch bởi vì họ sẽ tiết kiệm được chi phí về cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo chất lượng phục vụ và chất lượng đội ngũ lao động tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của từng địa điểm du lịch mà sự phát triển du lịch nói chung và cụ thể là sự phát triển du lịch văn hoá sẽ tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế từng vùng - đất nước du lịch. Chương II. Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội I. Tiềm năng phát triển du lịch văn hoá ở Hà Nội 1. Tài nguyên du lịch văn hoá Việt Nam là đất nước có truyền thống văn hiến. Cuộc đấu tranh trường kỳ của dân tộc trong lịch sử giữ nước là truyền thống điểm tựa vững chắc cho du lịch văn hoá. Đất nước với những chiến công hiển hách từ chống giặc phương Bắc (Đường, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh...). Những kỳ tích hào hùng qua cuộc kháng chiến chống Pháp (80 năm), Mỹ (21 năm) Việt Nam đã trở thành "lương tâm thời đại". Do những chiến công mà mỗi mảnh đất, mỗi con sông, ngọn núi đều trở thành huyền thoại. Hà Nội ngàn xưa, chiếc nôi hồng lịch sử, trái tim thiêng liêng của đất nước, mảnh đất "Thăng Long". Hà Nội là một trong những thành phố đẹp của châu á. Trên thế giới có nhiều thành phố đẹp, mỗi thành phố có một vẻ đẹp riêng và mang theo mình những dấu ấn lịch sử khác nhau. Nhưng không phải thành phố nào cũng đẹp, cũng sang, cũng đồ sộ nguy nga và thu hút lòng người. Cái đẹp của thành phố khác với cái đẹp của con người hay của thiên nhiên. Thành phố đẹp cơ bản là do con người tạo ra. Tuy nhiên cùng có những chỗ giống nhau ở điểm xuất phát do "trời phú" cho nữa, nói theo nghĩa bóng. Hà Nội cũng đã có một vị trí thuận lợi cảnh sắc thiên nhiên phong phú. * Hà Nội - đặc điểm về vị trí địa lý, địa thế Hà Nội nằm ở trung tâm bắc bộ giữa vùng đồng bằng phù sa châu thổ sông Hồng, nổi tiếng là trù phú với diện tích 920,5 km2. Trong đó nội thành có diện tích 40 km2, ngoại thành có diện tích 880,5 km2. Với vị trí địa lý và địa thế tự nhiên của mình, Hà Nội đã sớm có một vai trò đặc biệt trong sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Từ một nghìn năm nay Hà Nội đã được ông cha ta chọn làm thủ đô. Trong "chiếu dời đô" của Lý Công Uẩn viết vào năm Canh Tuất (1010) đã nhận xét về thành Đại La (Hà Nội ngày nay) như sau: "... Thành Đại La nằm ở trung tâm của trời đất có các hình thể như hổ phục rồng chầu đúng các vị trí bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trước mặt và sau lưng đều có sự thuận tiện của sông núi. Đất ấy rộng mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa, dân cư không phải cái nạn tối tăm, ẩm thấp, muôn vật cực kỳ giàu thịnh, đông vui. Xem khắp đất Việt, đó là chỗ danh thắng, thật là đô hội trọng yếu để bốn phương sum họp và là đô thành bậc nhất đáng đặt làm kinh sư cho muôn đời...". Từ đó đến nay Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá xã hội của cả nước. Đây cũng chính là tiềm năng cho Hà Nội trở thành trung tâm du lịch hàng đầu của nước ta. * Hà Nội - vị trí đầu mối giao thông quan trọng Với vị trí trung tâm kinh tế chính trị của cả nước và với vị trí thuận lợi trung tâm châu thổ Bắc Bộ, Hà Nội đã trở thành trung tâm đầu mối các hệ thống mạng lưới giao thông: đường bộ, đường sắt, đường không từ Hà Nội toả đi các miền của đất nước, còn nối tiếp nước ta với các nước láng giềng và thế giới. Do đầu mối giao thông quan trọng như vậy, khách du lịch quốc tế có thể từ tuyến đường không, qua cửa khẩu Nội Bài và dừng chân ở Hà Nội để lựa chọn các phương tiện giao thông phù hợp với các chương trình hấp dẫn của chuyến đi. Trong vòng bán kính xấp xỉ 60-80 km, khách du lịch có thể đến đền Hùng, Tam Đảo (Vĩnh Phú), Hồ Đại Nải, Ba Vì, các làng quan họ ở Hà Bắc, Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương), Hoa Lư - Cúc Phương - Nhà thờ đá Ninh Bình... - Trong vòng bán kính xấp xỉ 100 km khách có thể đến thăm cảng Hải Phòng, hải đảo Cát Bà, vịnh Hạ Long nổi tiếng... Tính đến năm 2000 thủ đô Hà Nội đã có 201 di tích. Mật độ di tích của Hà Nội thuộc loại cao nhất cả nước (0,24 di tích trên 1 km2). Nhiều quận, huyện có từ 25 - 50 di tích lịch sử, văn hoá, các danh thắng đã được xếp hạng. Các di tích lịch sử, văn hoá, danh thắng tiêu biểu ở thủ đô Hà Nội: - Chùa Một Cột: Một trong những công trình tiêu biểu cho vẻ đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam. Được dựng năm 1049 chùa có tên là Diên Hựu, nghĩa là phúc ấm dài lâu. Tương truyền vua Lý Thái Tông nằm mộng được Phật bà dắt lên trà san ngự toạ quần thần cho là điềm gở, xin vua cho xây dựng ngôi chùa như bông hoa sen nở trên mặt nước để cho cầu phúc. Sự độc đáo của kiến trúc chùa một cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá cao 20 m. ở đây, có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng bông sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ. Khối kiến trúc được phụ trở bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh tịch. - Chùa Kim Liên: Chùa Kim Liên (bông sen Vàng) nằm trên một doi đất bằng phẳng trong lòng Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ Liêm - Hà Nội. Bao quanh đất chùa là gương nước Hồ Tây trong xanh. Có lẽ, do bắt nguồn từ một cung điện nên phong cách kiến trúc tam quan chùa Kim Liên đượm dáng vẻ cung đình. Đây là một loại hình kiến trúc gỗ đặc sắc và quý hiếm trong kiến trúc chùa chiền ở nước ta. Trong chùa có rất nhiều tượng đẹp, nổi tiếng nhất là pho Quan Âm Thiên phủ ngang hàng với những pho có giá trị nghệ thuật cao ở nước ta... Chùa Kim Liên được coi là ngôi chùa đẹp nhất Hà Nội. - Chùa Trấn Quốc: Có thể coi đây là ngôi chùa vào loại cổ nhất nước ta, vì tương truyền là có từ thời Lý Nam Đế (544-548). Chùa còn giữ được lối kiến trúc độc đáo khác với nhiều chùa, phía trước là nhà Bắc Đường, rồi đến nhà Tam Bảo, phía sau mới là hai dãy hành lang thập điện và gác chuông. Trong chùa có một số tượng đẹp, đáng chú ý là pho tượng Thích Ca nhập niết bàn bằng gỗ thếp vàng. Chùa cũng có nhiều bia, cổ nhất là tấm bia dựng năm 1639 do trạng nguyên Nguyễn Xuân Chinh soạn, nội dung ghi lại lịch sử xây dựng chùa. - Văn Miếu - Quốc Tử Giám: Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 để làm nơi biểu dương cho Nho giáo. Sáu năm sau (1076) xây nhà Quốc Tử giám ở kề sát Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong cả nước. Ngày nay, ở đây được dùng làm nơi trưng bày chuyên đề về cổ sử của Thủ Đô. Du khách tới đây không chỉ tiếp xúc với một di tích văn hoá giáo dục có đủ 900 tuổi mà còn được giới thiệu thêm về lịch sử hình thành của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. - Di tích thành cổ Hà Nội: Thăng Long là kinh đô từ năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã xây thành trải qua các đời Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Tây Sơn đều sử dụng thành này. Năm 1803, vua Gia Long nhà Nguyễn cho lệnh phá thành này, xây thành mới. Do đó, vị trí thành Thăng Long từ đời Lý (thế kỷ 11) đến đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 19) đến nay chưa thể nói chính xác ở nơi nào. Còn thành nhà Nguyễn thì tuy nay không còn nhưng các bản đồ cổ vẫn còn và có thể nhận ra địa giới. "Địa giới phía Bắc là đường Phan Đình Phùng, phía Đông là đường Phùng Hưng, phía Tây là đường Hùng Vương bây giờ". Thành cổ đã bị thực dân Pháp phá huỷ từ năm 1894 đến năm 1897. Ngày nay chỉ còn lại một di tích đáng kể là thềm điện Kính Thiên. - Cột cờ Hà Nội: Đây là một trong những công trình kiến trúc ít ỏi thuộc khu vực thành cổ Hà Nội may mắn thoát khỏi sự phá huỷ do thực dân Pháp tiến hành trong ba năm 1894-1897. Đỉnh cột cờ được cấu tạo thành một cái lầu bát giác cao 3m có 8 cửa sổ tương ứng với 8 cạnh. Giữa lầu là một trụ tròn đường kính 40 cm cao đến đỉnh lầu là chỗ để cắm cán cờ cao 8m. Như vậy toàn bộ cột cờ bao gồm 3 tầng, đế cao gần 20cm và thân cao khoảng 40cm, là một cao điểm đáng kể ở nội thành thủ đô Hà Nội. - Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn: Đây là một danh thắng nổi tiếng của Hà Nội. Hồ Gươm ở giữa Hà Nội, nơi đã từng gắn với bao sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc từ ngàn xưa để lại. Hồ Gươm là niềm tự hào không những của người Hà Nội mà của cả đồng bào ta. Nói đến Việt Nam thì phải nói đến Hà Nội mà nói đến Hà Nội hẳn không ai không nhắc đến Hồ Gươm. Ngày nay cùng với sự đi lên của đất nước, Hồ Gươm dù được nhà nước chú ý đến nhiều. Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc đã được sửa sang tu bổ, song không bao giờ Hồ Gươm mất đi nét cổ kính, tâm linh trong lòng người Hà Nội. Những ngày ở Hà Nội, du khách có thể tới thăm các viện bảo tàng để tìm hiểu chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hoá của dân tộc Việt Nam. Gần trung tâm Hà Nội là Viện Bảo tàng lịch sử. Đi ngược dòng thời gian, bảo tàng trưng bày những hiện vật quý như cây cọc Bạch Đằng, trống đồng Ngọc Lũ... tiêu biểu cho quá trình tiến hoá của dân tộc Việt Nam qua lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước. Bên cạnh Viện Bảo tàng Lịch sử là viện Bảo tàng Cách mạng, tại đây trưng bày nhiều hiện vật quý, tái hiện lịch sử đấu tranh hàng trăm năm của nhân dân ta chống kẻ thù xâm lược. Đặc biệt là Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, được xây dựng xong vào năm 1990. Nơi đây đã trưng bày nhiều hiện vật gắn liền với thân thế và sự nghiệp hoạt động của Bác Hồ. Hà Nội còn các khu vui chơi, giải trí như công viên, vườn hoa, vườn bách thú... đều là những nơi hấp dẫn khách du lịch. Kiến trúc của Hà Nội cũng đặc sắc và rất đa dạng. ở Việt Nam, ngoài Hội An ra chỉ có Hà Nội là còn giữ được một khu phố cổ. Nói về độ giới không gian. Khu phố cổ thì có thể coi đó là một hình tam giác, có đỉnh là phố hàng Than, cạnh phía Đông là đi sông Hồng, cạnh phía Tây là các phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ. Tại khu phố này, cho tới trước khi người Pháp tới đều chung một dáng dấp: Các phố chi chít ngang dọc kiểu bàn cờ, phần lớn mang tên gọi của các mặt hàng sản xuất hay kinh doanh tại nơi đó: Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Bồ... Tất cả các ngôi nhà ở hai bên đường đều theo kiểu "nhà ống". Nhà như một cái ống, bề ngang hẹp, chiều dài sâu, có khi thông ra một ngõ khác, phố khác. Bố cục thường là như sau: Gian ngoài là chỗ bán hàng hoặc làm hàng tiếp đó là một khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Trên sân có bể cạn (trong đó có hòn Nam Bộ, cá vàng để thu gọn thiên nhiên vào căn nhà). Gian trong mới là nơi ăn ở, và tiếp đó là khu phụ. Đa số là nhà một tầng, lợp bằng những viên ngói nhỏ nhắn với hai bức tường hồi vượt cao lên khỏi mái, xây giật cấp như những bậc thang và đầu nóc là hai trụ đất dấu vết đặc trưng. Cũng có một số nhà xây thêm tầng gác nhưng thấp và không mấy khi trổ cửa sổ nếu có thì rất nhỏ (vì luật lệ cấm dân không được đứng cao hơn vai kiệu của các vua quan đi trên đường). Cái hấp dẫn của khu phố ở Hà Nội chính là ở sự tổng thể do con người xưa đã sắp đặt thành một cơ thể đầy sống động, khăng khít gắn bó, kề tựa nhau mà tồn tại, sinh sôi... Bên cạnh các nhà ống, còn phải kể tới những đình chùa, đền miếu rải rác trong nhiều đường phố. Những công trình này trước hết là nơi thờ tự của các làng thôn, phường cũ, như đình Nhân Nội, 33 phố Bát Đàn là đình của làng cùng tên mà nay phố Bát Đàn là một bộ phận, Đình Đông Mông, số 8 Hàng Cân là đình làng Hữu Đông Môn, đền Thuật Mỹ 64 Hàng Quạt, chùa Huyền Thuyên ở số 4 Hàng Khoai, đền Yên Thuận ở 25 Hàng Than đều lấy tên làng làm tên đền chùa. Một số công trình tôn giáo tín ngưỡng còn phản ảnh một số gốc gác của một số bộ phận dân cư Thăng Long vốn là từ nhiều miền quê Đông Nam, Đoài, Bắc. Họ ở các tỉnh khác di cư về Thăng Long - Hà Nội làm ăn sinh sống rồi lập đình đền thờ vọng về quê hương như đình Trúc Lâm 40 Hàng Hành là của dân các làng Chàm trên Chàm dưới (Hải Hưng) làm nghề giầy da lập nên, hay như đình Hoa Lộc ở 90 Hàng Đào là của dân phường nhuộm màu ở Đao Loan (Hải Hưng) dựng ra Đình Tú Đình 2A ngõ Yên Thái là nơi thờ ông tổ nghề thêu, của dân làng thêu Quất Động (Hà Tây). Mặt khác, sự tồn tại các đình miếu này còn là bằng chứng của tâm linh người Hà Nội cũ. Bên cạnh sự hoà đồng với tự nhiên và cộng đồng xã hội, người Thăng Long Hà Nội còn luôn luôn tìm cách hoà đồng với một thế giới tâm linh vì cùng với một không gian đô thị vật chất còn tồn tại một không gian đô thị huyền thoại và thiêng liêng, ở đó có thể giao hoà cùng quá khứ và tìm được cũng ở đó một nguồn sinh lực tiềm ẩn. Ngày nay, mặc dù qua các biến động lịch sử, qua sự thích ứng với đời sống xã hội, khu phố cổ có biến động nơi ít, nơi nhiều, song bóng dáng của thời xưa vẫn còn lưu lại ở dăm căn nhà này, ở vài đoạn phố kia và đặc biệt ở cái không gian văn hoá vẫn đậm đà màu sắc cổ truyền. Cho nên khu phố cổ Hà Nội với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn, thanh tú, những con đường hẹp lòng nhưng ấm áp người đi lại, lại còn cả những không gian cây xanh mướt và ngọt ngào hương hoa nữa... tất cả làm nên một vẻ đẹp đô thị cổ mà chỉ có thành phố Hà Nội mới có. Bên cạnh khu phố cổ là những khu phố kiến trúc theo kiểu Pháp. Khi Hà Nội rơi vào tay thực dân Pháp năm 1882, người Pháp đã "cấy" vào mảnh đất này nền kiến trúc và mẫu đô thị của riêng họ. Những hình ảnh thanh nhã của kiến trúc đô thị Pháp đã góp phần làm giàu di sản kiến trúc Hà Nội và là điều gây ấn tượng rất nhiều với khách nước ngoài. Giáo sư Brahm Wiesman ở Trường đại học Tổng hợp Bristich (Canada) đã nói: "Các bạn đang có một Hà Nội mang dáng dấp Pháp, đó là điều không có ở một thành phố nào khác ở châu á. Một trong những vấn đề đặt ra cho chính sách phát triển đô thị như Hà Nội là làm sao có thể duy trì và bảo tồn được các dáng dấp Pháp của nó" (Báo nhân dân chủ nhật số Xuân 94). "Khu phố Tây" là tên quen dùng để chỉ bộ phận khu phố ở phía Nam quận Hoàn Kiếm (từ Hồ Gươm trở xuống phía Nam) và một bộ phận quận Ba Đình (từ Cửa Nam về phía tây thành phố tới công viên Bách Thảo), và cũng có một hàm ý phân biệt với "khu phố tả" là các khu phố thuần nhất Việt Nam mà tiêu biểu là khu phố cổ "36 phố phường". Các khu phố xây dựng vào thời thuộc Pháp ở Hà Nội được hình thành chủ yếu trong nửa đầu thế kỷ 20, đã góp phần làm phong phú thêm khung cảnh kiến trúc của thủ đô ta. Với mạng lưới đường phố kiểu ô cờ, các đại lộ khang trang có đường cho xe, có hè đi bộ, cây che bóng mát, đèn điện và một số thiết bị kỹ thuật khác (cấp thoát nước...). Cách xây dựng đô thị theo kiểu châu Âu, với đường phố hoàn chỉnh, nhà cửa ngang hàng thẳng lối... là điều mới mẻ đối với đô thị Việt Nam khi đó vốn được hình thành từ thời phong kiến, xây dựng tự phát, phố xá nhỏ hẹp, quanh co. Kiến trúc cổ điển châu Âu với một số cách tân thích hợp, khéo vận dụng vào những công trình mới ở những địa điểm phù hợp đã có sức hấp dẫn đáng kể như trường hợp trung tâm du lịch Bờ Hồ. Trong việc cải tạo và nâng cấp khách sạn Metropole (1901), các kiến trúc sư đã có ý thức chắt lọc và lưu giữ nhiều nét kiến trúc tiêu biểu của thời kỳ này là một thí dụ tốt cho việc cải tạo và nâng cấp các công trình trong khu phố xây dựng thời thuộc Pháp. Cũng theo tinh thần đó, việc sửa chữa một số công thự và biệt thự cho các nhu cầu làm việc hoặc nhà ở của nhiều sứ quán, trụ sở của một số ngân hàng ở Bờ Hồ và trên phố Tràng Thi... đã gây ấn tượng tốt đẹp cho những người yêu mến vẻ đẹp kiến trúc thanh nhã của khu phố này. Song, có lẽ Hà Nội là thủ đô duy nhất trên thế giới có được một điều kỳ diệu, đó là các làng Ngọc Hà, Nghi Tàm, Phương Liên, Thanh Nhàn, Trung Tự... với dáng dấp của các làng nông thôn vẫn còn đang giữ được nhịp thể giữa lòng thành phố. Nhà - vườn cây - ao cá trong cấu trúc làng Việt Nam đã luôn là một đơn vị cân bằng sinh thái cho môi trường sống của con người. Những đơn vị này liên hệ với nhau thông qua một hệ thống đường nhỏ trên đó điểm xuyết các công trình công cộng phục vụ cho làng cây đa, miếu thờ, đình chùa yên tĩnh và sạch sẽ đối lập với cái ồn ào xô bồ của nơi đô thị. Nói theo cách nói á Đông thì cấu trúc Hà Nội có cả Âm - Dương. Đó là làng và đô thị. Thêm vào đó, nhiều làng quên Hà Nội vẫn còn giữ được nghề truyền thống từ xưa như: làng sứ gốm Bát Tràng, làng đúc đồng Ngũ Xá, làng hoa Ngọc Hà... nếu những làng nghề này tiếp tục được giữ gìn và phát huy thì có khả năng trở thành tuyến du lịch văn hoá Hà Nội cho du khách. Đây cũng là tiềm năng độc đáo cần được nghiên cứu khai thác để thu hút khách du lịch. * Các đối tượng văn hoá dân tộc Các hoạt động văn hoá văn nghệ có ý nghĩa rất lớn đối với du lịch: Tiềm năng văn hoá văn nghệ của Hà Nội phục vụ cho mục đích du lịch thực hiện rõ nhất qua hoạt động và sinh hoạt văn hoá dân gian. Địa bàn Hà Nội chủ yếu là người Kinh sinh sống. Người Kinh có các sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian phong phú thể hiện rõ nhất qua các hoạt động lễ hội. Trong những ngày hội này, du khách sẽ được tiếp xúc với nền văn hoá dân tộc độc đáo của Việt Nam, sẽ được sống lại những ngày tháng hào hùng của lịch sử dân tộc. Một nét đặc biệt nữa là đa số các ngày lễ hội của người Kinh đều diễn ra vào dịp đầu năm mới cho đến hết tháng Giêng. Các lễ hội được biểu hiện thành lịch dưới đây. Dựa vào đó những người làm công tác du lịch có thể quảng cáo, mời chào khách và lập kế hoạch đón tiếp khách du lịch cho sát thực. Lễ hội ở Hà Nội (tính theo âm lịch) Ngày tháng Tên lễ hội - đặc điểm Nội dung - nghi thức Tháng Giêng 1/1 Tết Nguyên đán Tết đầu năm, lễ hội lớn nhất chung cho cả cộng đồng người Việt. Đây là thời gian đoàn tụ gia đình, bàn về dòng họ, tưởng nhớ tổ tiên 1-3/1 Khai bút, đi thăm đi mừng Mùng 1 Tết ở nhà cha, mồng 2 ở nhà mẹ, mồng 3 nhà thầy. 4-6/1 Hội vật Mai Động xã Mai Động - Hai Bà Trưng Thờ bà Lê Chân và ông Tam Trinh, ông tổ nghề vật, mở lò dạy vật tại làng. Lễ diễn lại cuộc thi vật để tuyển quân của bà Lê Chân, chọi gà, cờ tướng. 4-7/1 Hội Sài Đồng huyện Gia Lâm Cầu mùa, chơi trò giả trang 5/1 Hội trận Đống Đa, quận Đống Đa Kỷ niệm chiến thắng 20 vạn quân Thanh của vua Quang Trung 1789 ở gò Đống Đa. Chùa Bộc: nơi thờ Quan Trung. Đình Khương Thượng: Tế nước 6/1 Hội Gióng Sóc Sơn, huyện Đông Anh Thờ Thánh Gióng, thổ thần, sơn thần. Mồng 6: lễ dâng hương. Mồng 7 chính hội: lễ rước dâng hoa cướp lộc. Mồng 8: Chọi gà, cờ tướng, đánh đàn hát ca trù. 10-12/1 Hội làng Triều Khúc xã Tân Triều - Huyện Thanh Trì Thờ Phùng Hưng - thế kỷ 18, kỷ niệm lên ngôi, tế thần, chạy cờ duyệt quân đấu vật, đánh đu, múa lân, rồng. Tháng Hai 5/2 Hội làng Nhân - Quận Hai Bà 3/2 mở cửa đền; 5/2 lễ tắm tượng, thờ Hai Bà Trưng. Múa đè cờ hoa, hát chèo Tháng Ba 3/3 Hội Tết bánh trôi 7-8/3 Hội chùa Láng, xã Yên Lăng, huyện Từ Liêm Thờ Từ Đạo Hạnh 15-17/3 Hội đền Ninh Xá - Ninh Sở, Thanh Trì Thờ 2 công chúa con vua Lý Nhân Tông 23/3 Hội làng Lệ Mật xã Việt Hưng - Gia Lâm Thờ chàng trai họ Hoàng có công cứu công chúa bị Giao Long nhốt. Diễn lại sự tích đánh nhau với Giao Long. Tháng Tư 8/4 Lễ phật Đản 9/4 Hội Gióng phù Đổng - Đông Anh Thờ Thánh Gióng, lễ rước cỗ chay, rước ngựa. Hội trận lớn. Gióng đánh giặc Ân bằng múa cờ, múa rối nước Tháng Năm 5/5 Tết Đoan Ngọ Ăn hoa quả, giết sâu bọ 13/5 Hội Vĩnh Ninh - xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì Thờ Nàng Tía. Diễn đánh trận giả 15/5 Hội đền Chèm Thờ Lý Ông Trọng, rước và tắm giữa sông Hồng. Tháng Tám 15/8 Hội rằm Trung Thu Trẻ em được rước đèn hình trăng ngôi sao, loài vật, được ăn bánh nướng, bánh dẻo Tháng Chạp 23/12 Tết Táo Quân Cúng cá chép để ông Táo lên chầu Trời 24-30/12 Chợ hoa tết Hàng Lược Bán các loại hoa để cắm ngày Tết 30/12 Chuẩn bị giao thừa Cúng gia tiên. Đêm: lễ Trừ tịch. Giao thừa: Cúng giao thừa. Đi hái lộc: Đình chùa đều mở cửa. Bên cạnh đó Hà Nội còn có những ưu thế về âm nhạc, các loại nhạc cụ dân tộc rất phát triển làm phong phú thêm các thể loại sân khấu ở các rạp hát Hà Nội, du khách sẽ được thưởng thức nghệ thuật chèo. Đây là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời, và chỉ có riêng ở Việt Nam không chỉ người dân Việt Nam mà có rất nhiều khách quốc tế đều yêu thích nghệ thuật chèo. Ngoài ra với việc duy trì và phát triển hát chầu văn đã gây hứng thú cho rất nhiều người trong và ngoài nước. Đặc biệt trong các thể loại nghệ thuật thì múa rối nước là một thành công lớn mang tính cách dân tộc rõ nét. Với các kịch bản gắn liền với quá trình lịch sử dân tộc, cuộc sống, sản xuất đời thường làm cho du khách hiểu thêm về đất nước và con người Việt Nam. Hà Nội là thủ đô lâu đời, đất "ngàn năm văn vật" trung tâm văn hoá xã hội của Việt Nam, sự hội tụ văn hoá qua cuộc sống, lại được chắt lọc phát huy và nâng cao tạo ra một phong cảnh văn hoá riêng của người "Tràng An". Một nếp sống văn hoá thanh lịch rất hấp dẫn khách quốc tế và luôn là niềm tự hào của người Hà Nội. "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An" Người Hà Nội đã tạo ra một mối sinh hoạt văn hoá thân thiện, cởi mở, lịch sử, giỏi làm, sành ăn, sành mặc... Các quán ăn ở Hà Nội luôn sẵn sàng phục vụ khách du lịch với đủ các món ăn đặc sản Tây, Tàu, Việt với phong vị rất Hà Nội, kể cả những món ăn cổ truyền, gạo Tám, rau húng Láng, cá rô Đầm Sét, cá chép Hồ Tây, chim sâm cầm, chả cá Lã Vọng... Việc nấu ăn của người Hà Nội đã trở thành nghệ thuật tiêu biểu cho cả nước. Văn hoá ẩm thực với những món ăn nổi tiếng đã đi vào lòng người như phở, không ở đâu có được. Năm cửa ô Hà Nội đã và đang tiếp tục mở rộng. Những con đường lớn mở ra nhiều ngả..., sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội) đang sẵn sàng đón tiếp bạn bè năm châu, bốn biển, hạ cố thăm một vùng đất đầy huyền thoại. 2. Nguồn lao động Một điều khẳng định rằng: Chính lực lượng cán bộ và nhân viên là yếu tố quyết định đối với mọi sự thành công hay thất bại của các hoạt động kinh doanh nói chung và du lịch nói riêng. Đây là yếu tố đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững cho ngành du lịch. Tổng số lao động trực tiếp kinh doanh du lịch của Hà Nội đến tháng 9 năm 2000 là 24000 người trong đó số người đã qua đào tạo là >3000 người, tỷ lệ được đào tạo 14% bình quân 1 lao động tạo ra được mức doanh thu năm...... là..... triệu đồng số lao động bình quân một phòng khách sạn là 1,65 và 1 phòng nhà khách là 1,32. Số lượng lao động trong các đại lý và công ty du lịch chưa có con số thống kê đầy đủ song về trình độ lao động hầu như không có nghiệp vụ chuyên môn về du lịch, chủ yếu tốt nghiệp từ các trường đại học, các chuyên ngành khác ngoài du lịch. Vì vậy đã gặp một số hạn chế như sau: - Thông tin quảng cáo thu hút khách chưa tốt. - Chưa liên kết tận dụng hết cơ sở vật chất kỹ thuật trên địa bàn thủ đô dẫn tới tình trạng nơi thừa, nơi thiếu. - Chưa tổ chức được các chuyến du lịch hấp dẫn. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý của các khách sạn, nhà khách thì hầu hết giám đốc đã có trình độ Đại học, có nghiệp vụ quản lý kinh tế. Một số đã được đào tạo qua lớp giám đốc khách sạn. Tuy nhiên số cán bộ quản lý được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về du lịch chưa nhiều mà phần lớn là trái ngành. Do đó, để đáp ứng yếu tố đổi mới trong kinh doanh cần phải nhanh chóng đào tạo lại và đổi mới đội ngũ cán bộ nhân viên ngành du lịch. Có thể nói Hà Nội đang thiếu một đội ngũ cán bộ quản lý có kiến thức kinh tế đối ngoại, biết làm ăn có hiệu quả thiếu một đội ngũ chuyên gia đầu đàn giỏi kỹ thuật, nghiệp vụ về du lịch và khách sạn, thạo ngoại ngữ. II. Thực trạng du lịch văn hoá Hà Nội Tiềm năng về du lịch của Hà Nội phong phú đa dạng thuận lợi cho phát triển như vậy, song ngành du lịch đã phát triển như thế nào, có khai thác được tiềm năng du lịch hay không chúng ta sẽ xem xét thực trạng của ngành du lịch Hà Nội. 1. Thực trạng về công tác tổ chức, quản lý để phát triển du lịch văn hoá * Thuận lợi: Trong tình hình hiện nay khi mà ngành du lịch đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng của đất nước, thì việc nhà nước quan tâm tới phát triển du lịch văn hoá ngày càng nhiều hơn. Nhà nước đã ban hành các văn bản quản lý, đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử, di sản văn hoá, đặc biệt là việc phong sắc hiệu và xếp hạng các di tích lịch sử, di sản văn hoá có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển du lịch văn hoá. Ngoài ra nhà nước còn cho thành lập các công ty du lịch với các hoạt động kinh doanh lữ hành đặc biệt là bán các tour du lịch văn hoá với mạng lưới và các chi nhánh văn phòng ngày càng rộng lớn trên cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng. * Khó khăn: Trong thời gian qua, việc định hướng phát triển tràn lan, quản lý lỏng lẻo (ví dụ trong du lịch văn hoá thì việc công nhận xếp hạng các di tích lịch sử, di sản văn hoá) dẫn đến sự lộn xộn trong công tác du lịch làm thiệt hại cho nhà nước và những đơn vị kinh doanh du lịch văn hoá chính thống. Hiện tượng trốn thuế kinh doanh, hoặc quá trình giành giật khách bằng mọi giá từ khâu dịch vụ xét cấp thị thực nhập cảnh, khâu vận chuyển ăn nghỉ... gây ra nhiều lộn xộn. Nhà nước chưa có sự đầu tư thích đáng cho việc bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử và di sản văn hoá. Nhiều di tích, danh lam thắng cảnh đáng giá bị xuống cấp trầm trọng. Các di tích lịch sử văn hoá của đất nước có khách tham quan không được trông nom, tu bổ, ngược lại ngày càng bị phá huỷ nghiêm trọng. Chùa Một Cột - trong sử sách ghi rất to đẹp: cột bằng đá khảm nhiều màu sắc đường kính rộng hơn bây giờ rất nhiều, cao từ 5-7m trên đó có ngôi đền thờ được xây dựng từ đời vua Lý Nhân Tông nở trên một toà sen ngàn cánh nơi cho các nhà sư chay đàn tụng niệm, rồi hương sen dưới hồ, nơi cột đá được mọc lên giữa hồ, thơm ngát hoà lẫn trong mùi hương khói, thật thanh thản thoát tục. Với cái tên chùa Diên Hựu (Phúc ấm lâu dài). Chùa bây giờ chỉ còn cột xi măng cao 2m thấp, nhỏ giữa hồ cũng bé nhỏ phất phơ một vài bông sen, cánh bèo và ngôi chùa bé tí tẹo không phải nằm trên toà sen. Hình Hồ Gươm luôn được gắn với rùa thiêng huyền thoại gần đây do quá trình tôn tạo chưa thật hợp lý đã làm diệt vong khá nhiều dòng giống của thần Kim Quy. Gần đây do chạy theo nền kinh tế thị trường nhiều tư nhân cho đến các cấp quản lý đã vô tình phá đi sự tôn nghiêm và sự cân bằng tổng thể trong các sắc thái văn hoá đứng vững từ ngàn đời. Các khu phố cổ với những mẹt hàng bày bán lung tung làm mất đi cảnh quan của một khu phố từ lâu đã đi vào tiềm thức của biết bao thế hệ người Tràng An... Nhận thức, nét văn minh trách nhiệm với cộng đồng của con người Hà Nội cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển du lịch văn hoá. Hình ảnh những chú bé đánh giày, các cô bé bán tập gấp chạy theo níu kéo các vị khách ngoại quốc cho đến những người ăn mày, ăn xin có mặt ở mọi lúc mọi nơi sẽ làm băng hoại đi truyền thống văn minh lịch sự kết tinh trong mỗi một con người Hà Nội. Để quản lý được tình trạng trên đòi hỏi công tác tổ chức quản lý của các cấp, các ngành phải thật hợp lý. 2. Kết quả sản xuất kinh doanh du lịch văn hoá tại một số điểm văn hoá Hà Nội Trong mấy năm qua, tuy đã phải trải qua nhiều khó khăn song hoạt động kinh doanh của ngành kinh doanh du lịch văn hoá cũng đã đạt được một số kết quả đáng kể. - Số khách du lịch quốc tế vào Việt Nam qua công ty ngày càng tăng nhưng tổng số ngày khách lưu trú có xu hướng tăng chậm hoặc giảm xuống: - Kinh doanh du lịch ở Hà Nội đang có sự chuyển biến về chất từng bước trưởng thành, vươn lên vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế ở Hà Nội và tạo khả năng đóng góp lớn cho nguồn thu của ngân sách, tạo khả năng cân đối ngoại tệ của thành phố, góp phần tạo công ăn việc làm, thúc đẩy các ngành khai thác cùng phát triển. - Doanh thu bình quân một lượt khách còn chưa cao do chất lượng dịch vụ chưa thật tốt, chưa đạt được những sản phẩm độc đáo, tương xứng với tài nguyên du lịch văn hoá ở Hà Nội. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh doanh du lịch quốc tế. - Mặt khác qua thực tế kinh doanh của các công ty du lịch cho thấy số khách quốc tế vào Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng lần thứ hai chưa nhiều. Như ta đã thấy Hà Nội là thủ đô cổ kính, trung tâm kinh tế, chính trị văn hoá, xã hội nên luôn luôn hấp dẫn khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Lượng khách du lịch quốc tế đến khu vực châu á - Thái Bình Dương và Việt Nam đã ảnh hưởng đến lượng khách quốc tế đến Hà Nội. Năm 2000 khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ằ 4.000.000 lượt người trong đó tại địa bàn Hà Nội đón được ằ 1.300.000 lượt người. Dự báo khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và Hà Nội Năm Cả nước (lượt người) Hà Nội (lượt người) 2005 4.500.000 1.500.000 2010 5.000.000 1.800.000 Theo đánh giá của các chuyên gia, nhà kinh doanh du lịch ở trong nước và quốc tế, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và Hà Nội sẽ không ngừng tăng nhanh và chủ yếu tập trung ở 3 khu vực sau: - Châu á - Thái Bình Dương: bao gồm khách từ các nước Đài Loan, Hồng Kông, úc, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Hàn Quốc, Philippin, Inđônêxia và thị trường rộng lớn nhất Nhật Bản và đặc biệt là Trung Quốc. - Khu vực Tây Bắc Âu và Đông Âu: bao gồm khách từ các nước Đức, Pháp, Na Uy, Hà Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Bỉ, Italia... và các nước Đông Âu. Tây Bắc Âu là khu vực có nguồn khách đến nước ta lớn thứ hai, trong đó đứng đầu là khách Pháp. Song, khả năng cạnh tranh khách trên khu vực này gặp một số khó khăn: + Đường bay từ các nước này đến Việt Nam vừa xa vừa đắt, lại ít đường bay trực tiếp, phải chuyển qua một số nước phát triển du lịch như Thái Lan, Singapore, Hồng Kông. + Thủ tục vào Việt Nam đối với khách của thị trường này còn nhiều phiền hà và dịch vụ phí khá đắt. Vì họ có thói quen đi du lịch không phải xin visa. + Phần lớn khách của những nước này thích đi tự do chứ không muốn đi theo các chương trình tuor. + Khách du lịch nội địa: Nhu cầu du lịch nội địa của Hà Nội sẽ tăng nhanh vì Hà Nội là thủ đô của đất nước và là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, sẽ ngày càng có tốc độ đầu tư và phát triển nhanh. Hà Nội là niềm tự hào của dân tộc. Do đó, nhu cầu thăm viếng thủ đô của nhân dân ta ngày một tăng. Năm 2000 số khách du lịch nội địa đến Hà Nội là hơn 450.000 người. Ngoài ra, kinh tế Hà Nội sẽ phát triển nhanh chóng tạo điều kiện cho đời sống của nhân dân Hà Nội được cải thiện và nâng cao do đó nhu cầu nghỉ ngơi cuối tuần hoặc đi du lịch của nhân dân Hà Nội sẽ trở nên thường xuyên hơn, ngày càng nhiều. + Người Việt Nam đi du lịch ở nước ngoài: Trong tương lai, bên cạnh nhu cầu đi du lịch trong nước, một số người có điều kiện sẽ phát sinh nhu cầu đi du lịch nước ngoài, thăm viếng người thân. Năm 2000 Hà Nội có số lượng người đi du lịch ngoài nước hơn 2000 người. Trong hệ thống các chương trình du lịch của công ty điều hành hướng dẫn viên du lịch trên địa bàn Hà Nội hiện nay, các chương trình du lịch văn hoá chiếm tới trên 85%. Với các chương trình du lịch văn hoá này du khách có thể đi tham quan, nghiên cứu... nhiều điểm du lịch văn hoá trên mọi miền của đất nước. Qua đó du khách tìm hiểu được cuộc sống của người dân địa phương, được chiêm ngưỡng các vẻ đẹp của công trình văn hoá lịch sử kiến trúc... được thưởng thức những món ăn đậm đà tính dân tộc và được nghe những làn điệu dân ca, những câu hò, những bài hát của dân tộc, xem múa rối nước ở Nhà Hát Lớn... đó là chương trình du lịch văn hoá tinh thần hoặc các chương trình du lịch văn hoá mà trong đó có sự kết hợp giữa mục đích tham quan văn hoá với các loại hình du lịch khác như du lịch dã ngoại săn bắn. Chương III. Kiến nghị một số giải pháp Cùng với sự phát triển của du lịch Việt Nam, du lịch văn hoá Hà Nội ngày càng phát triển. Đây là loại hình du lịch đem lại hiệu quả kinh tế cao và ổn định đồng thời nó là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và toàn ngành kinh tế nói chung. Mục tiêu trước mắt và lâu dài là Hà Nội phải làm sao khai thác tốt loại hình du lịch văn hoá để nâng cao hiệu quả kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. * Củng cố và hoàn thiện cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh du lịch trên địa bàn Hiện nay trên địa bàn Hà Nội tình trạng nhiều ngành nhiều cấp tham gia quản lý kinh doanh du lịch đã tạo ra hiện trạng thiếu sự thống nhất quản lý Nhà nước về kinh doanh du lịch, đã xảy ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh không chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp của nhà nước, đã làm giảm sút hiệu quả của kinh doanh du lịch. Do đó, Sở du lịch thành phố cần phải thực hiện chức năng quản lý đánh giá tình trạng sản xuất kinh doanh, thực trạng tình hình di sản văn hoá. Trên cơ sở phân loại đó, nghiên cứu phân loại xác định ưu tiên đối với các di sản văn hoá cần được bảo vệ. Thành lập và củng cố các trung tâm bảo quản lưu trữ tư liệu, các "ngân hàng dữ liệu" nhằm cho phép, khai thác và thông tin một cách dễ dàng, tiện lợi về các loại hình di sản văn hoá. + Tiến hành tập trung quy hoạch tổng thể phát triển du lịch văn hoá Hà Nội Hà Nội với cơ sở hạ tầng đường xá giao thông còn nhiều điều bất cập. Việc đưa đón khách du lịch đã góp thêm sự tắc nghẽn giao thông. Nhiều địa điểm lẽ ra phải xây dựng các khách sạn cao cấp nhiều tầng lại xây dựng các biệt thự nhỏ, đã làm giảm hiệu quả trong việc sử dụng quỹ đất đai của thành phố. - Đối với các khu phố cổ, cần có được hướng chỉnh trang, tôn tạo. ở đây, các biệt thự, các công trình kiến trúc có giá trị được bảo tồn khai thác hợp lý, không mở rộng đường phố chính, giữ gìn vẻ đẹp truyền thống của Hà Nội với khoảng không gian xanh. Cần đưa các công trình công nghiệp không hợp lý ra ngoài khu vực này để lấy đất xây dựng các công trình dân dụng thích hợp. Kiến trúc trong khu vực này nên có độ cao vừa phải, hài hoà với cảnh quan. Khu trung tâm Hồ Gươm là trung tâm truyền thống của Hà Nội, cần đặc biệt chú ý. Đây là nơi chuyển tiếp giữa khu phố và khu phố cũ (thời Pháp thuộc). Quy hoạch cần được nghiên cứu theo các định hướng sau: - Phải giữ nguyên hình dạng, diện tích mặt hồ. - Bảo tồn dáng dấp cổ truyền, tôn tạo các công trình kiến trúc có giá trị, các di tích lịch sử văn hoá. - ở khu vực này không nên xây dựng trụ sở cơ quan thành phố, ngân hàng, công trình dịch vụ, khách sạn cao cấp. Chỉ những khu đất còn có khả năng khai thác, có thể xây dựng cải tạo mở rộng nhưng phải có tỷ lệ hình khối, màu sắc chiều cao hợp lý không lấn át cảnh quan hồ. Chú ý cải tạo cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tổ chức giao thông, phân luồng hợp lý, thoát nước vệ sinh môi trường, chiếu sáng công cộng... giữ gìn và phát triển cây xanh hợp lý. - Đối với khu vực phố cổ (36 phố phường) nên định hướng quy hoạch như sau: + Giữ gìn dáng đường phố với tên gọi truyền thống. + Bảo tồn, tôn tạo, xem xét công nhận các di tích và công trình được xếp hạng. + Hiện đại hoá chức năng kỹ thuật: cấp thoát nước, cấp điện, xử lý rác thải. Đối với khu phố cổ này, các dự án khách sạn, nhà hàng cơ sở vui chơi giải trí, nhà cao tầng có kiến trúc hiện đại không phù hợp với không gian phố cổ sẽ bị hạn chế cấp phép xây dựng. - Đối với khu vực Hồ Tây Khu trung tâm Hồ Tây rộng 1249 ha với diện tích mặt hồ 520 ha sẽ được ưu tiên tập trung vốn đầu tư chiếm khoảng 50% tổng số vốn đầu tư cho ngành du lịch toàn thành phố từ nay đến năm 2010, ước chừng 3400 tỷ đồng, để từng bước biến nơi đây thành một trung tâm du lịch, dịch vụ, thương mại giao dịch, thể thao quốc tế có tầm cỡ ở khu vực Đông Nam á. Khu vực bán đảo Tây Hồ ở phía Bắc (Nghi Tàm, Quảng Bá, Nhật Tân) là khu vực hấp dẫn nhất của vùng Tây Hồ, có tiềm năng du lịch vô cùng phong phú và chưa được tổ chức khai thác một cách hợp lý. Hiện nay, đã có một phương án đề xuất làm thêm một tuyến đê bao nữa ra gần sông hơn để có thể khai thác thêm 206 1 hình ảnh đất nữa cho phát triển du lịch thương mại. Như vậy trong thời gian tới, khu vực Tây Hồ sẽ là một khu vực du lịch - thương mại - dịch vụ có quy mô lớn nhất của cả Hà Nội. Bên cạnh việc phục chế, tôn tạo lại các di sản văn hoá đã bị tàn phai do chiến tranh, hoặc do năm tháng mà người ta đã sao nhãng bỏ quên nó như phủ Thiên Tường, khu Lam Kinh với sự kiện Rùa Thần Hoàn Kiếm. Đồng thời xây dựng cảnh quan môi trường: đây là một trong những yếu tố được đánh giá là quan trọng đối với hoạt động du lịch văn hoá nói riêng và hoạt động du lịch nói chung. * Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ quản lý cán bộ chuyên môn. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác quản trị doanh nghiệp và hướng dẫn viên: Hiện nay, trình độ kinh doanh du lịch ở nước ta, trong đó có Hà Nội, còn nhiều yếu kém, đòi hỏi phải cấp bách đào tạo, nâng cấp trình độ theo kịp các nước tiên tiến ở khu vực và trên thế giới. Dưới góc độ của các nhà kinh doanh du lịch, ta có thể nhận thấy rằng "Nguồn thu chủ yếu của du lịch văn hoá chỉ là những dịch vụ: dịch vụ thuyết minh, bán hàng lưu niệm, mang đậm nét bản sắc quê hương, dân tộc nơi du khách đến". Một lần nữa chúng ta càng thấy rõ hơn công tác đào tạo hướng dẫn viên cho ngành du lịch càng trở nên quan trọng, cấp thiết không những thông thạo ngoại ngữ mà còn phải thông thạo văn hoá, lịch sử của đất nước mình. Tăng cường nâng cao không những về mặt chất lượng cũng như một số lượng hướng dẫn viên du lịch. Hiện nay khách tham quan du lịch di tích lịch sử, di sản văn hoá từ nước ngoài vào Việt Nam trở lại là rất ít, hầu như không có khách trở lại thăm quan lần thứ 2. Cái khó trong du lịch tham quan tìm hiểu về các di tích lịch sử, di sản văn hoá là làm thế nào xác định được cái gì thừa, cái gì để bán "Bởi vì di tích lịch sử, di sản văn hoá không được coi là hàng để bán mặc dầu có bán". Kết tinh trong nó là toàn bộ giá trị văn hoá - yếu tố bất biến. Vậy điểm quan trọng để cho du khách tham quan nghiên cứu các di tích lịch sử, di sản văn hoá là phải làm sao cho du khách hiểu được giá trị cũng như ý nghĩa về lịch sử các di sản đó. * Tuyên truyền, quảng cáo du lịch và giáo dục dân trí Cần có kế hoạch đẩy mạnh công tác tuyên truyền và quảng cáo giá trị truyền thống, nền văn hiến của du lịch Hà Nội, thông qua việc tham gia vào các hội nghị, hội thảo, hội chợ du lịch quốc tế, việc đặt đại diện du lịch Việt Nam tại một số thị trường du lịch trọng điểm. - Ngoài ra còn cần chủ động phối hợp cùng các ngành liên quan để tổ chức phát động những sự kiện thu hút khách du lịch như: Hội chợ du lịch năm du lịch Việt Nam, năm văn hoá nghệ thuật Việt Nam. Muốn phát triển du lịch văn hoá thì không một quốc gia nào không nghĩ đến việc nâng cao dân trí, hiểu biết về vai trò của văn hoá - du lịch của đất nước. Muốn phát triển du lịch văn hoá cần tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức trong quần chúng nhân dân. Do vậy ngành du lịch cần phải tổ chức thường xuyên các cuộc thi tìm hiểu về du lịch cho mỗi người dân nhận thức đúng về sự phát triển du lịch, lôi cuốn mọi người tham gia vào dòng du lịch góp phần vào sự phát triển của du lịch văn hoá. Quần chúng có vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn nâng cao nét đẹp truyền thống tâm linh của con người Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. * Phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan Ngành du lịch Hà Nội cần phối hợp với các ngành có liên quan như công an, hải quan, hàng không, ngoại giao... tiếp tục giải quyết những khó khăn vướng mắc trong việc làm thủ tục cho khách để thu hút khách, bảo đảm an toàn và thoả mãn nhu cầu của họ. Hướng tới du lịch Hà Nội sẽ kết hợp với các ngành hàng không mở thêm các tuyến bay quốc tế, tăng số lượng khách, tổ chức đưa đón khách ngay tại sân bay, phối hợp với ngành văn hoá thu hút vốn đầu tư (của nhà nước và sự đóng góp của nhân dân) vào việc tôn tạo, giữ gìn danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hoá, phối hợp với ngành ngoại giao trong việc cải tiến các thủ tục xuất nhập cảnh, quá cảnh, phù hợp với tình hình thực tế của nước ta và thông lệ quốc tế đồng thời kết hợp với các ngành công an, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển du lịch. Bên cạnh đó, cần có những biện pháp để khuyến khích các nghề thủ công, sản xuất nhỏ phát triển như có chính sách về thuế xuất nhập khẩu một cách ưu đãi, những mặt hàng thủ công mỹ nghệ hoặc tạo điều kiện thuận lợi khác để mở rộng thị trường cho mặt hàng truyền thống. Khuyến khích việc tổ chức liên doanh giữa cơ sở sản xuất nghề truyền thống với các hãng nước ngoài để sản xuất và xuất khẩu đồ thủ công mỹ nghệ. Ngành du lịch và các công ty du lịch có thể cùng với nhà nước hỗ trợ về vốn tuyên truyền quảng cáo hỗ trợ việc bán sản phẩm này. Kết luận Trong những năm qua, sự chuyển biến của ngành du lịch Hà Nội đã có nhiều tiến bộ đáng kể, đã xuất hiện nhiều khách sạn, công ty kinh doanh năng động, có hiệu quả luôn đảm bảo được chất lượng và uy tín với khách. Tuy nhiên, đó chỉ là bước đầu khởi sắc trong quá trình đổi mới. Để có thể cạnh tranh và hoà nhập vào thị trường du lịch của khu vực và thế giới, vẫn đòi hỏi ngành du lịch Hà Nội phải có sự cố gắng và tiến nhanh gấp bội về mọi mặt. Phát triển du lịch văn hoá phải được phát triển đồng bộ với tất cả các ngành có liên quan, nó không thể đơn thương độc mã một mình nó phát triển. Trong du lịch văn hoá, yếu tố cơ bản trung tâm nhất vẫn là con người và di sản của con người. Đó là mối quan hệ, là sự kết hợp quan trọng nhất. Để khắc phục khoảng cách về nguy cơ tụt hậu, ngành du lịch Hà Nội cần phải kết hợp truyền thống với hiện đại là một sức mạnh đang khiến cho nhiều dân tộc trên thế giới tiến nhanh trên con đường phát triển. Với truyền thống văn hoá lâu đời đã đang và sẽ là nền tảng vững chắc, là chiếc chìa khoá vàng để du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Hà Nội nói riêng tiến theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tài liệu tham khảo 1. Sách văn hoá và phong tục Việt Nam Nhà xuất bản Thống kê 2. Tạp chí du lịch số 3, 4, 5 năm 2000 3. Bài giảng Marketing du lịch 4. Sự phát triển kinh tế du lịch ngày nay. 5. Hà Nội - Nét phác thảo du lịch văn hoá năm 2000 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 108.doc
Tài liệu liên quan