Tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn tại ngân hàng xuất nhập khẩu chi nhánh Cần Thơ: PHẦN MỞ ĐẦU
&
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong quá trình hội nhập, cả đất nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi thành phần kinh tế đều ra sức đầu tư và phát huy nguồn lực của mình nhằm tạo sự phát triển bền vững. Ngân hàng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Một khi nền kinh tế phát triển thì vai trò của Ngân hàng càng trở nên quan trọng, và với chức năng là mạch máu lưu thông nền kinh tế càng được thể hiện rõ nét. Với phương châm "Đi vay để cho vay", các Ngân hàng luôn phát huy nội lực cũng như tranh thủ những thời cơ trong mọi hoạt động để đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng, tạo ra lợi nhuận cho mình. Ngoài việc trang bị cơ sở vật chất hiện đại, vị trí giao dịch thuận lợi, còn đòi hỏi trình độ của nhân viên, chất lượng sản phẩm, dịch vụ…Và thực sự Ngân hàng nào cũng ý thức rõ được điều này.
Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam nói chung và Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Chi nhánh Cần Thơ (được gọi tắt là Eximbank Cần Thơ hay EIB Cần Thơ) nói riêng đã và đang khẳng định...
77 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1019 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn tại ngân hàng xuất nhập khẩu chi nhánh Cần Thơ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
&
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong quá trình hội nhập, cả đất nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi thành phần kinh tế đều ra sức đầu tư và phát huy nguồn lực của mình nhằm tạo sự phát triển bền vững. Ngân hàng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Một khi nền kinh tế phát triển thì vai trò của Ngân hàng càng trở nên quan trọng, và với chức năng là mạch máu lưu thông nền kinh tế càng được thể hiện rõ nét. Với phương châm "Đi vay để cho vay", các Ngân hàng luôn phát huy nội lực cũng như tranh thủ những thời cơ trong mọi hoạt động để đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng, tạo ra lợi nhuận cho mình. Ngoài việc trang bị cơ sở vật chất hiện đại, vị trí giao dịch thuận lợi, còn đòi hỏi trình độ của nhân viên, chất lượng sản phẩm, dịch vụ…Và thực sự Ngân hàng nào cũng ý thức rõ được điều này.
Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam nói chung và Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Chi nhánh Cần Thơ (được gọi tắt là Eximbank Cần Thơ hay EIB Cần Thơ) nói riêng đã và đang khẳng định lại vị thế của mình. Thế mạnh của Ngân hàng là tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ,… Rút kinh nghiệm từ những bài học trước đây, mọi kế hoạch đề ra và đưa vào áp dụng đều được xem xét và đánh giá cụ thể bằng những chuẩn mực nhằm hạn chế thấp nhất những rủi ro. Và trong những năm gần đây, Eximbank Cần Thơ được đánh giá là Ngân hàng hoạt động có hiệu quả, luôn vượt chỉ tiêu kế hoạch do Ngân hàng Hội sở giao, đặc biệt là công tác huy động vốn và sử dụng vốn.
Nguồn vốn của Ngân hàng ngoài nguồn vốn từ Hội sở điều chuyển xuống thì còn có nguồn vốn chi nhánh huy động tại chỗ. Ở địa bàn thành phố Cần Thơ, người dân còn sống thiên về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, đời sống còn thấp. Mặt khác dân chúng vẫn chưa nhận thức hết vai trò của Ngân hàng nên Ngân hàng rất khó khăn để huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của dân chúng. Thêm vào đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trên địa bàn buộc Ngân hàng phải nỗ lực rất lớn mới có thể hoạt động hiệu quả được. Và kết quả là nguồn vốn huy động tăng lên từng năm, hoạt động tín dụng được đánh giá là có hiệu quả, đặc biệt là năm 2005 đã có sự tăng trưởng đột biến. Nhưng xét về tổng quát thì hiệu quả hoạt động vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của Ngân hàng.
Để hiểu rõ hơn về công tác huy động vốn, tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh cũng như những nguyên nhân tác động đến chúng, tôi đã quyết định chọn đề tài “ Phân tích hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Chi nhánh Cần Thơ” làm luận văn tốt nghiệp.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Tôi tiến hành tính toán những số liệu từ bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua 3 năm (2003 - 2005) để phân tích và đánh giá từ khái quát đến cụ thể tình hình huy động vốn và sử dụng vốn. Từ đó rút ra những mặt tích cực cũng như hạn chế để Ngân hàng có những kế hoạch, chiến lược phù hợp trong thời gian tới. Do đó đề tài hướng đến các vấn đề chủ yếu sau:
- Phân tích tình hình huy động vốn và sử dụng vốn.
Dựa vào các chỉ tiêu huy động vốn và sử dụng vốn để đánh giá tình hình huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng.
Đề ra biện pháp khắc phục nhằm không ngừng nâng cao hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong tiến trình thực hiện đề tài, tôi sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập dữ liệu:
+ Thu thập những số liệu thực tế, trực tiếp có liên quan đến phân tích tình hình huy động vốn của Ngân hàng qua 3 năm (2003-2005).
Bảng cân đối kế toán
Bảng báo cáo kết quả kinh doanh
Tham khảo văn bản Nhà nước về những qui định của Ngân hàng.
+ Thu thập những thông tin phụ trợ cho đề tài từ các báo, tạp chí, các trang Web...
- Phương pháp sử dụng và phân tích các chỉ số tài chính để đánh giá hiệu quả.
- Tiếp thu tham khảo những ý kiến của nhân viên các phòng ban trong và ngoài Ngân hàng có liên quan.
Những thông tin, dữ liệu sau khi đã thu thập được sẽ tiến hành thống kê, tính toán và lấy chênh lệch qua các kỳ để so sánh theo phương pháp số tương đối, số tuyệt đối... để đánh giá và làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối với hoạt động của Ngân hàng thì rất phong phú và đa dạng, tham gia trong nhiều lĩnh vực kinh doanh. Nhưng do hạn chế về thời gian, không gian cũng như kinh nghiệm thực tế, tôi không nghiên cứu và phân tích chi tiết từng nghiệp vụ cụ thể mà xuất phát từ nhu cầu không ngừng nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn, đề tài được viết trên phương diện từ phân tích tổng quát đến cụ thể hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và những nhân tố khách quan, chủ quan tác động đến Ngân hàng qua 3 năm gần đây (2003-2005) ở phòng Kế toán Ngân hàng Eximbank chi nhánh Cần Thơ.
Cụ thể phần sử dụng vốn, Ngân hàng chủ yếu sử dụng vốn điều chuyển và vốn huy động tại chỗ để cho vay nên tôi tập trung vào phân tích và đánh giá hoạt động sử dụng vốn bao hàm hoạt động cho vay của Ngân hàng.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
--&--
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM).
Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, nó kinh doanh loại hàng hoá rất đặc biệt đó là “tiền tệ”. Thực tế các NHTM kinh doanh “quyền sử dụng vốn tiền tệ”. Nghĩa là các NHTM nhận tiền gửi của công chúng, của các tổ chức kinh tế xã hội. Sử dụng số tiền đó cho vay và làm phương tiện thanh toán với những điều kiện ràng buộc là phải hoàn lại vốn gốc và lãi nhất định theo thời hạn đã thoả thuận.
Theo pháp lệnh “các tổ chức tín dụng ”(1990) của Việt Nam thì NHTM được định nghĩa như sau:
“Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
II. CÁC NGUỒN VỐN CỦA NHTM
1.Vốn tự có:
Vốn tự có hay còn gọi là vốn chủ sở hữu của ngân hàng là bao gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số nguồn vốn khác của ngân hàng theo quy định của ngân hàng Trung ương.
1.1. Vốn điều lệ:
Là số vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ của ngân hàng là do các chủ sở hữu ngân hàng đóng góp vốn điều chuyển …Mức vốn điều lệ và phương thức đóng góp vốn điều lệ của mỗi ngân hàng được ghi trong điều lệ hoạt động của từng ngân hàng và được ngân hàng Trung ương phê duyệt. Mức vốn điều lệ của mỗi ngân hàng phụ thuộc vào mức góp vốn của các chủ sở hữu ngân hàng, song nhìn chung không được thấp hơn mức vốn pháp định mà Chính phủ quy định. Trong quá trình hoạt động của các NHTM có thể tăng thêm vốn điều lệ của mình nhưng phải được sự đồng ý chấp nhận của ngân hàng Trung ương.
1.2. Các quỹ dự trữ:
Các quỹ dự trữ của NHTM được hình thành và tạo lập trong quá trình hoạt động của ngân hàng nhằm sử dụng cho có mục đích nhất định.
Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, hàng năm tổ chức tín dụng phải trích từ lợi nhuận sau thuế để lập và duy trì các quỹ sau:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ được trích hàng năm theo tỷ lệ 5% trên lợi nhuận ròng. Mức tối đa của quỹ do chính phủ quy định.
- Các quỹ khác: Quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng…các quỹ quỹ này cũng được trích lập sử dụng theo quy định của pháp luật.
Các quỹ dự trữ sau khi đã được trích lập các NHTM được sử dụng theo mục đích lập quỹ. Tuy nhiên, khi số tiền của quỹ chưa sử dụng đến thì các NHTM có thể tạm thời huy động theo nguyên tắc hoàn trả làm nguồn vốn kinh doanh.
1.3. Các nguồn vốn khác:
Một số nguồn vốn khác được coi như vốn tự có của ngân hàng, bao gồm: - Lợi nhuận giữ lại
Thu nhập lớn hơn chi phí
Khấu hao tài sản cố định
2. Nguồn vốn huy động
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế:
Là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ được gửi tại ngân hàng. Nó bao gồm một bộ phận vốn tiền tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng cho những mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định (Các quỹ: đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, quỹ phúc lợi khen thưởng…)
Tiền gửi không kỳ hạn:
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khi gửi vào, khách hàng gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không cần phải báo trước cho ngân hàng và ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng.
Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các khoản thanh toán trong tiêu dùng của cá nhân đồng thời hạn chế được chi phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Đối với ngân hàng, loại tiền gửi này thường có sự dao động lớn vì người gửi tiền có thể gửi tiền và rút ra bất cứ lúc nào, do đó Ngân hàng chỉ có thể sử dụng tỷ lệ nhất định để cho vay nên Ngân hàng thường áp dụng lãi suất thấp cho loại tiền gửi này.
Tiền gửi có kỳ hạn:
là loại tiền mà khi khách hàng gửi tiền vào có sự thỏa thuận về thời hạn rút ra giữa ngân hàng và khách hàng.
Theo nguyên tắc, đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền chỉ được rút ra khi đến hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh mà ngân hàng cho phép khách hàng rút trước kỳ hạn. Trong trường hợp này, người gửi không được hưởng lãi như tiền gửi có kỳ hạn mà sẽ được áp dụng với lãi suất không kỳ hạn nếu rút ra truớc khi đáo hạn.
Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi định kỳ là tiền gửi tạm thời chưa sử dụng hoặc tiền để dành của cá nhân, vì mục đích gửi tiền vào Ngân hàng là nhằm mục đích kiếm lợi tức. Đối với ngân hàng, tiền gửi định kỳ là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh, do đó lãi suất mà Ngân hàng áp dụng cho loại tiền gửi này cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán không kỳ hạn. Mặt khác để khuyến khích khách hàng gửi tiền theo định kỳ dài hạn, thông thường Ngân hàng áp dụng lãi suất cao đối với các khoản tiền gửi dài hạn (vì tiền gửi định kỳ giúp ngân hàng có thể sử dụng vốn đó để kinh doanh qua việc cho vay trung, dài hạn, mua sắm các thiết bị cũng như đầu tư vào một số lĩnh vực….)
Tiền gửi tiết kiệm:
là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác định trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật và bảo hiểm tiền gửi.
2.2.1. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
là loại tiền gửi không có thời hạn đáo hạn mà người gửi muốn rút ra phải thông báo cho Ngân hàng biết trước một thời gian. Tuy nhiên, ngày nay các Ngân hàng cho phép khách hàng rút ra không cần báo trước. Tiền gửi này chủ yếu là tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế và Chính phủ. Nhưng do nhu cầu chi tiêu không xác định được trước nên khách hàng chỉ gửi tiền không kỳ hạn nghĩa là có thể rút ra bất cứ lúc nào. Do đó Ngân hàng không chủ động được nguồn vốn nên loại tiền gửi này có mức lãi suất thấp.
2.2.2. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Người ký thác tiền này ở Ngân hàng để sử dụng vào mục đích nhất định như mua sắm nhà cửa, trang trải chi phí học tập cho con cái... Ngân hàng thường cấp thêm tín dụng để bù đắp thêm phần thiếu hụt khi sử dụng vào mục đích của người gửi tiền tiết kiệm.
Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền khi đáo hạn. Nếu rút vốn trước hạn thì phải được chấp nhận của lãnh đạo ngân hàng và hưởng lãi suất không kỳ hạn.
Về hình thức, theo truyền thống, người gửi tiền được cấp một sổ gọi là sổ tiết kiệm, trên sổ này ghi rõ tất cả các khoản tiền gửi vào rút ra và lãi suất. Mỗi lần gửi tiền hoặc rút tiền, khách hàng phải xuất trình sổ tiết kiệm cho ngân hàng để ngân hàng ghi bút toán. Ngày nay, nhiều ngân hàng đã bỏ sổ tiết kiệm, thay vào đó cung cấp cho khách hàng bảng kê lúc gửi tiền đầu tiên và theo định kỳ hàng tháng để phản ánh tất cả các số phát sinh.
Việc huy động vốn tiền gửi của khách hàng không những đem lại cho ngân hàng một nguồn vốn với chi phí thấp để kinh doanh, mà còn giúp cho ngân hàng có thể nắm bắt được thông tin, tư liệu chính xác về tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế và cá nhân có quan hệ tín dụng với ngân hàng, tạo điều kiện cho ngân hàng có căn cứ để quy định mức vốn để đầu tư cho vay đối với những khách hàng đó. Vốn tiền mà ngân hàng huy động được trên các khoản tiền gửi của khách hàng còn là cơ sở cho các tổ chức thanh tra, kiểm toán thực hiện được nhiệm vụ nhanh chóng, chính xác phát hiện kịp thời tham ô, trốn thuế, lừa đảo của các doanh nghiệp làm ăn không chính đáng, xử lý kịp thời những kẻ vi phạm pháp luật.
Nguồn vốn huy động thông qua các chứng từ có giá.
Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa các tổ chức tín dụng và người mua.
Giấy tờ có giá ngắn hạn :
là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm, bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Giấy tờ có giá dài hạn:
là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên kể từ khi phát hành đến hết hạn, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác.
Nguồn vốn đi vay của các ngân hàng khác
Nguồn vốn đi vay của các ngân hàng khác là nguồn vốn được hình thành bởi các mối quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc giữa các tổ chức tín dụng với ngân hàng Nhà nước.
Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Trong quá trình kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào cũng có lúc phát sinh tình trạng tạm thời thừa vốn, và ngược lại cũng phát sinh tình trạng tạm thời thiếu vốn. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không tránh khỏi tình trạng đó. Đối với ngân hàng, cũng có lúc ngân hàng tập trung huy động được vốn nhưng lại không cho vay hết, trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi. Tương tự có thời điểm cho vay vốn lớn, nhưng khả năng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được không đáp ứng đủ. Vì vậy trong trường hợp đó ngân hàng có thể tiếp tục gửi vốn tam thời chưa sử dụng vào ngân hàng khác để lấy lãi, hoặc đi vay các ngân hàng khác.
Vay từ Ngân hàng Trung ương.
Ngân hàng Trung ương (NHTW) đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. Vì vậy, khi có nhu cầu, các NHTM sẽ được NHTW cho vay vốn.
Việc cho vay vốn của NHTW đối với NHTM thông qua hình thức tái cấp vốn. Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của Ngân hàng nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các NHTM. Ngoài ra, NHTW còn thực hiện cho vay bổ sung thanh toán bù trừ giữa các NHTM. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Chính phủ chấp thuận, NHTW còn cho vay đối với các tổ chức tín dụng tạm thời mất khả năng thanh toán. Khoản vay này sẽ được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ khác của tổ chức tín dụng.
3. Những nguyên tắc trong việc quản lý tiền gửi của Khách hàng.
Các nguyên tắc trong quản lý tiền gửi khách hàng ra đời nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, tạo niềm tin cho khách hàng và góp phần tạo sự hoạt động kinh doanh ổn định. Các nguyên tắc đó như sau:
Ngân hàng phải đảm bảo thanh toán kịp thời cho khách hàng. Để thực hiện được nguyên tắc này, Ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ phần trăm tiền gửi nhất định để cho vay, số còn lại làm quỹ dự trữ bảo đảm thanh toán cho khách hàng.
Quỹ bảo đảm thanh toán bao gồm:
+ Tiền mặt tại quỹ
+ Ngân phiếu thanh toán
+ Tín phiếu kho bạc.
+ Tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước.
+ Tiền gửi dự trữ tối thiểu bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng phải đảm bảo tương ứng về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có ý nghĩa tương đối.
Ngân hàng chỉ được thực hiện các khoản giao dịch trên tài khoản của khách hàng khi có lệnh của chủ tài khoản hoặc có sự uỷ nhiệm của chủ tài khoản.
Ngoại trừ trường hợp khách hàng vi phạm luật chi trả theo quy định của cơ quan có thẩm quyền về thực hiện các nghiệp vụ thanh toán thì khi đó ngân hàng mới có quyền tự động trích tài khoản thanh toán có liên quan.
Ngân hàng phải đảm bảo an toàn và bí mật cho chủ tài khoản.
Ngân hàng phải có trách nhiệm kiểm soát các giấy tờ thanh toán của khách hàng, các chứng từ thanh toán phải được lập theo đúng quy định. Ngân hàng phải kiểm tra con dấu và chữ ký của khách hàng, nếu không phù hợp thì ngân hàng có thể từ chối thanh toán.
Khi có các nghiệp vụ có liên quan đến tài khoản của khách hàng thì ngân hàng phải kịp thời gửi giấy báo cho khách hàng. Cuối tháng, ngân hàng phải gửi bản sao tài khoản hoặc giấy báo số dư cho khách hàng.
III. Hoạt động tín dụng.
1. Định nghĩa tín dụng.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội, và ngày nay tín dụng được định nghĩa như sau: Tín dụng là quan hệ kinh tế được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật trong đó người cho vay cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định
2. Bản chất tín dụng.
Tín dụng thể hiện ra bên ngoài như một sự chuyển giao tạm thời quyền sử dụng một vật hay một số tiền tệ giữa người cho vay và người đi vay. Vì vậy người ta có thể sử dụng được giá trị của hàng hóa trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua trao đổi, bản chất tín dụng thể hiện trong mối quan hệ kinh tế trong quá trình hoạt động của tín dụng và mối quan hệ của nó trong quá trình sản xuất .
3. Phân loại tín dụng.
Với nền kinh tế thị trường, có rất nhiều hình thức tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng nhưng cách phân loại phổ biến nhất là phân loại theo thời gian. Căn cứ vào thời gian, người ta chia tín dụng ra làm những loại sau :
Tín dụng ngắn hạn : Có thời hạn vay dưới 1 năm.
Tín dụng trung hạn: Có thời hạn vay từ 1 năm đến 5 năm.
Tín dụng dài hạn : Có thời hạn vay trên 5 năm.
4. Các nguyên tắc tín dụng.
Khi tham gia vào quan hệ tín dụng, Ngân hàng cũng như người đi vay cần phải quán triệt các nguyên tắc tín dụng nhằm góp phần đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh cho hai bên. Các nguyên tắc tín dụng được hình hành từ bản chất tín dụng, được khẳng định trong thực tiễn hoạt động của Ngân hàng và được pháp lý hóa hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng cần tuân thủ các nguyên tắc sau :
- Tiền vay được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Tiền vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn đã thỏa thuận trên hợp đồng tín dụng.
5. Rủi ro tín dụng:
5.1. Khái niệm rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là rủi ro do một hoặc một nhóm khách hàng không thực hiện được các nghiệp vụ tài chính đối với Ngân hàng. Hay nói cách khác rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi xuất hiện những biến cố không lường trước được do nguyên nhân chủ quan hay khách quan mà khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng một cách đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn, từ đó tác động xấu đến hoạt động và có thể làm cho Ngân hàng bị phá sản.
Đây là rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và thường gây hậu quả nặng nề nhất. Thông thường ở các nước, nghiệp vụ tín dụng mang lại 2/3 thu nhập cho Ngân hàng. Còn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại thường chiếm 70% - 90% tổng thu nhập. Nhưng đồng thời trong lĩnh vực này cũng chứa đựng nhiều rủi ro bởi các khoản tiền cho vay bao giờ cũng có xác suất vỡ nợ cao so với những khoản đầu tư khác.
5.2. Thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra:
5.2.1. Đối với ngân hàng:
Rủi ro tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như thiếu tiền chi trả cho khách hàng, vì phần lớn nguồn vốn hoạt động của ngân hàng là nguồn vốn huy động, mà khi ngân hàng không thu hồi được nợ gốc và lãi trong cho vay thì khả năng thanh toán của ngân hàng dần dần lâm vào tình trạng thiếu hụt.
Như vậy, rủi ro tín dụng sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thanh toán, làm cho ngân hàng lỗ và có nguy cơ bị phá sản.
5.2.2. Đối với nền kinh tế xã hội:
Hoạt động của ngân hàng có liên quan đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, đến tất cả các doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn, đến toàn bộ các tầng lớp dân cư. Vì vậy, rủi ro tín dụng xảy ra có thể làm phá sản một vài ngân hàng và có khả năng phát sinh lây lan sang các ngân hàng khác và tạo cho dân chúng một tâm lý sợ hãi. Khi đó, dân chúng sẽ đưa nhau đến ngân hàng rút tiền trước thời hạn, điều đó cũng có thể đưa đến sự phá sản của đồng loạt các ngân hàng. Như vậy, rủi ro tín dụng sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế.
Những điều nêu trên cho chúng ta thấy rủi ro tín dụng là vấn đề rất nghiêm trọng mà Chính phủ các nước phải quan tâm, đặc biệt là Ngân hàng Trung ương phải có những chính sách khuyến cáo thường xuyên thông qua công tác thanh tra, kiểm soát, chiết khấu, tái chiết khấu và sẵn sàng hỗ trợ cho các NHTM khi có các biến cố rủi ro xảy ra.
5.3. Những nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng:
5.3.1. Nguyên nhân từ khách hàng vay vốn:
Rủi ro tín dụng biểu hiện ra bên ngoài là việc không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, vốn bị ứ đọng khó có khả năng thu hồi, nợ quá hạn ngày càng lớn, các khoản lãi chưa thu ngày càng gia tăng… Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là:
+ Khi các cá nhân vay vốn gặp phải các nguy cơ sau đây thường không trả nợ cho ngân hàng đầy đủ cả vốn lẫn lãi như: thu nhập không ổn định; bị sa thải, thất nghiệp; bị tai nạn lao động; hỏa hoạn, lũ lụt; hoàn cảnh gia đình khó khăn; sử dụng vốn sai mục đích; thiếu năng lực pháp lý…
+ Khi các doanh nghiệp thường không trả được nợ vay của ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi khi gặp phải những trường hợp sau: năng lực chuyên môn và uy tín của người lãnh đạo đơn vị giảm thấp; khả năng tài chính của doanh nghiệp bị giảm do lỗ trong kinh doanh; sử dụng vốn sai mục đích; thị trường cung cấp vật tư bị đột biến; bị cạnh tranh và mất thị trường tiêu thụ; sự thay đổi trong chính sách của Nhà nước; những tai nạn bất ngờ.
5.3.2 Những nguyên nhân khách quan:
+ Tình hình kinh tế trong nước:
Hoạt động cho vay của ngân hàng là hoạt động rất nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn kinh tế suy thoái thường xuất hiện những doanh nghiệp thua lỗ và phá sản, từ đó có các khoản tiền vay ngân hàng không trả được. Điều này làm cho nợ quá hạn trong ngân hàng tăng lên nhanh chóng.
Trong giai đoạn nền kinh tế có lạm phát cao và ngày càng gia tăng cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, bởi vì trong giai đoạn này người gửi tiền có tâm lý lo sợ rằng đồng tiền của mình bị mất giá khi gửi ngân hàng, cho nên họ muốn rút tiền ra khỏi ngân hàng. Trong khi đó những người đi vay thì lại muốn gia tăng nhu cầu vay vốn và muốn kéo dài thời hạn vay. Điều này cũng là ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn hoạt động của ngân hàng cũng như những khoản đầu tư của ngân hàng không có hiệu quả. Nguy cơ này có thể làm hoạt động cho vay của ngân hàng bị phá sản.
+ Tình hình thế giới:
Trong thời kỳ ngày nay, mỗi quốc gia là một tế bào của nền kinh tế chung thế giới. Hoạt động kinh tế các nước đều có tác động ảnh hưởng lẫn nhau vì xu hướng toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới. Nhiều tập đoàn công ty có xu hướng mở rộng kinh doanh ra nước ngoài. Sự hình thành các khu vực kinh tế và các khu mậu dịch tự do như NAFTA, AFTA… cho chúng ta thấy sự ảnh hưởng không nhỏ của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới đối với mỗi nước thành viên.
Chính vì vậy, khi có những biến cố và tình hình kinh tế, chính trị, quân sự xảy ra ở bất kỳ nước nào thì cũng có thể tác động mạnh đến các nước khác trên thế giới và sẽ dẫn đến biến động kinh tế trong nước và tác động xấu đến hoạt động của ngân hàng. Qua các cuộc khủng hoảng kinh tế như ở Thái Lan (1997), nó ảnh hưởng mạnh đến cả những nền kinh tế mạnh như Nhật Bản và Hàn Quốc và làm cho hệ thống tài chính ngân hàng ở những nước này phá sản hàng loạt. Cuộc khủng hoảng gần đây ở Argentina vào cuối 2001 cũng tác động làm lung lay các nền kinh tế cũng như hệ thống tài chính ngân hàng các nước lân cận, điển hình là Uruguay.
5.3.3. Những nguyên nhân liên quan đến việc đảm bảo tín dụng:
+ Đảm bảo đối nhân:
Nếu người bảo lãnh gặp phải những tình huống chủ quan hay khách quan đã được trình bày ở phần trên. Điều đó có thể dẫn đến người bảo lãnh không có khả năng thực hiện những lời cam kết của mình, tức là không có khả năng thay mặt người vay trả nợ cho ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi.
+ Đảm bảo đối vật:
Rủi ro tín dụng xảy ra liên quan đến vật dùng để thế chấp, cầm cố nợ vay khi gặp phải những trường hợp sau:
- Việc đánh giá tài sản cầm cố, thế chấp không chính xác
- Tài sản thế chấp, cầm cố không tiêu thụ được
- Tài sản thế chấp, cầm cố bị hỏa hoạn hoặc cấm lưu thông
- Tài sản thế chấp, cầm cố không được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật nên không thể phát mãi.
5.3.4. Những nguyên nhân do chính bản thân ngân hàng:
Rủi ro tín dụng xảy ra còn có thể là do chính bản thân ngân hàng tạo ra. Những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng do ngân hàng tạo ra có thể là những nguyên nhân sau:
+ Do ngân hàng chạy theo lợi nhuận, đặt mong muốn về lợi nhuận cao hơn các khoản cho vay lành mạnh.
+ Ngân hàng vi phạm các nguyên tắc cho vay, cho vay vượt tỷ lệ an toàn như cho một khách hàng vay quá 15% vốn tự có của ngân hàng, thiếu tài sản thế chấp, cầm cố, cho vay khống…
+ Phân tích đánh giá khách hàng sai, quyết định cho vay thiếu thông tin sát thực.
+ Cán bộ ngân hàng vi phạm đạo đức kinh doanh.
5.4. Biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng:
5.4.1. Phân tích khách hàng:
Đây là biện pháp tích cực nhất nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro. Bởi có đánh giá đúng khách hàng thì mới biết được khả năng hoàn trả nợ của họ. Đánh giá khách hàng thường chú trọng đến những mặt sau:
- Tình hình tài chính của khách hàng
- Tư cách, năng lực và trình độ hiểu biết của người đứng đầu doanh nghiệp
- Đánh giá tính khả thi của phương án vay vốn
5.4.2. Phân tích tín dụng:
- Phân tích chất lượng và hiệu quả tín dụng
- Phân tích khả năng mở rộng quy mô tín dụng
- Thực hiện các đảm bảo tín dụng
- Trình độ của cán bộ tín dụng
5.4.3. Phân tán rủi ro:
+ NHTM không nên dồn vốn vào một hoặc một số ít khách hàng, cho dù khách hàng đó kinh doanh có hiệu quả. Bởi vì nếu khách hàng đó gặp khó khăn trong kinh doanh thì ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của NHTM. Vì vậy, NHTM cần phải tôn trọng giới hạn an toàn. Ở Việt Nam căn cứ vào quy chế cho vay của NHNN ban hành 31/12/2001 quy định: “dư nợ đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng”.
+ Cho vay hợp vốn: Cho vay hợp vốn hay còn gọi là đồng tài trợ là quá trình cho vay, bảo lãnh của một nhóm ngân hàng cho một dự án, do một NHTM làm đầu mối phối hợp với các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và của ngân hàng.
Việc cho vay hợp vốn là để cung cấp các khoản tín dụng lớn mà một ngân hàng khó có đủ khả năng cho vay, khó xác định mức độ rủi ro. Vì thế, mà nhiều ngân hàng kết hợp với nhau, cùng nhau xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án để tíến hành cho vay. Các ngân hàng tham gia hợp vốn vào một dự án phải ký với nhau một hợp đồng đồng tài trợ, thỏa thuận rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên. Do đó, khi có rủi ro xảy ra gánh nặng sẽ không dồn vào một ngân hàng nào, bởi các ngân hàng tham gia đồng tài trợ để chia sẻ rủi ro, hậu quả của nó được giảm nhẹ.
+ Bảo hiểm tín dụng: là biện pháp quan trọng nhằm san sẻ rủi ro. Bảo hiểm tín dụng có thể thực hiện dưới các loại như: bảo hiểm hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay. Ở các nước, bảo hiểm tín dụng thường được thực hiện dưới dạng sau:
- Khách hàng vay vốn tham gia mua bảo hiểm cho ngành, nghề mà họ kinh doanh.
- Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm và sẽ được bồi thường hại nếu gặp rủi ro mất vốn tín dụng.
- Bảo hiểm tài sản đảm bảo tiền vay.
+ Lập quỹ dự phòng rủi ro: lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng để phòng chống rủi ro. Ở hầu hết các nước trong hoạt động của ngân hàng đều thành lập quỹ dự phòng bù đắp các khoản vay bị rủi ro và quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Việc sử dụng các quỹ khi có rủi ro như sau:
- Quỹ dự phòng rủi ro đặc biệt: dùng để bù đắp các khoản rủi ro khi ngân hàng làm ăn thua lỗ do những nguyên nhân khách quan đem lại.
- Quỹ dự phòng tổn thất tín dụng: dùng để bù đắp các khoản tổn thất rủi ro tín dụng do khách hàng gây nên.
Theo luật các tổ chức tín dụng ở Việt Nam áp dụng từ 01/10/1998, điều 82 dự phòng rủi ro có quy định: “Tổ chức tín dụng phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khoản dự phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi phí hoạt động. Việc phân loại tài sản “có”, mức trích, phương pháp lập khoản dự phòng và sử dụng khoản dự phòng để xử lý các rủi ro do Thống đốc NHNN cùng Bộ tài chính quy định”.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường để giảm bớt rủi ro trong hoạt động ngân hàng thì tất yếu phải thành lập quỹ dự phòng rủi ro. Song tùy theo mỗi nước mà quỹ này được tổ chức theo những hình thức và tên gọi khác nhau.
IV. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA NHTM
Số dư từng khoản mục NV
Tổng NV
1. Phân tích tổng quát nguồn vốn:
Tỷ lệ % từng khoản nguồn vốn = x 100%
Chỉ số này sẽ giúp nhà phân tích biết được cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng. Mỗi một khoản nguồn vốn để có những yêu cầu khác nhau về chi phí, tính thanh khoản, thời hạn hoàn trả khác nhau…do đó ngân hàng cần phải quan sát, đánh giá từng loại nguồn vốn để kịp thời để có những chiến lược huy động tốt nhất trong từng thời kỳ nhất định.
2. Phân tích nguồn vốn huy động:
- Vốn huy động / vốn tự có : giúp các nhà phân tích xác định được khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế của NHTM.
- Tỉ lệ phần trăm từng loại tiền gửi = x 100%
Tỷ lệ này nhằm xác định cơ cấu vốn huy động của Ngân hàng. Qua đó giúp Ngân hàng hạn chế những rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hoá chi phí đầu vào cho Ngân hàng.
3. Phân tích vốn vay:
Vốn vay / tổng nguồn vốn (%): phản ánh mức hỗ trợ vốn từ Ngân hàng Trung Ương (NHTW) và các tổ chức tín dụng khác.
4. Phân tích vốn tự có của Ngân hàng:
Để xác định mức độ an toàn của Ngân hàng vì khả năng thanh toán cuối cùng của một Ngân hàng có liên quan mật thiết với mức vốn tự có. Việc đánh giá khả năng thanh toán cuối cùng thường được thực hiện thông qua chỉ số sau:
Tổng vốn tự có
Tỷ lệ vốn tự có / từng khoản tài sản = x 100%
Tổng tài sản
5. Các chỉ tiêu phân tích hoạt động sử dụng vốn:
Tổng dư nợ / Nguồn vốn huy động
Chỉ số này xác định hiệu quả đầu tư của một đồng vốn huy động. Nó giúp cho nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của Ngân hàng với nguồn vốn huy động.
Dư nợ ngắn (trung, dài) hạn / Tổng dư nợ
Chỉ số này dùng xác định cơ cấu tín dụng theo thời hạn. Từ đó giúp nhà phân tích đánh giá được cơ cấu đầu tư như vậy có hợp lý hay chưa và có giải pháp điều chỉnh kịp thời.
6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng:
a/ Hệ số thu nợ = x 100%
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh số cho vay Ngân hàng sẽ thu hồi được bao nhiêu đồng vốn. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt cho Ngân hàng.
b/ Vòng quay vốn = x 100%
Đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng, thời gian thu hồi nợ vay nhanh hay chậm.
c/ Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng của Ngân hàng, đo lường chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu này càng thấp chất lượng tín dụng càng cao.
CHƯƠNG 2
KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG
XUẤT NHẬP KHẨU - CHI NHÁNH CẦN THƠ
--&--
I. GIỚI THIỆU VẦ NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM.
Lịch sử hình thành.
Eximbank Việt Nam được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam. Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống Đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng VN tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Commercial Joint-Stock Bank), gọi tắt là Vietnam Eximbank. Đến tháng 12 năm 2005 sau năm lần tăng vốn điều lệ, hiện nay vốn điều lệ của Eximbank là 700 tỷ đồng VN tương đương 700.000 cổ phần. Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với Trụ Sở Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và 15 Chi nhánh được đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, và TP.HCM. thiết lập quan hệ đại lý với hơn 620 ngân hàng ở trên 60 quốc gia trên thế giới.
2. Một số thành tựu đạt được.
Năm 1991 và năm 1992 được Ngân Hàng Nhà Nước và Bộ Tài Chính tín nhiệm giao thực hiện một phần chương trình tài trợ không hoàn lại của Thụy Điển cho các đơn vị Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu.
Năm 1993, Vietnam Eximbank được chọn để thực hiện chương trình viện trợ của chính phủ Thụy Sĩ, và bản thân ngân hàng cũng nhận được một phần viện trợ từ chương trình này.
Năm 1993, tham gia vào hệ thống thanh toán bù trừ điện tử của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam.
Đã tham gia vào hệ thống SWIFT (Tổ chức viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu) từ năm 1995.
Năm 1995, Vietnam Eximbank là thành viên Hiệp hội các định chế tài trợ phát triển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ADFIAP)
Được Ngân Hàng Nhà Nước chọn là ngân hàng đầu mối tham gia chương trình hàng đổi hàng với Indonesia theo Bản ghi nhớ giữa Bộ Thương Mại Việt Nam với Phòng Thương Mại và Công Nghiệp nước cộng hòa Indonesia. Đã thành lập phòng kinh doanh ngoại hối (dealing room) sử dụng hệ thống giao dịch Reuters.
Được chọn là 1 trong 6 ngân hàng Việt Nam tham gia thực hiện Dự án hiện đại hoá ngân hàng (Bank Modernization Project) do Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam tổ chức với sự tài trợ của Ngân Hàng Thế Giới.
Đã được hai tổ chức thẻ tín dụng lớn nhất thế giới là Master Card International và Visa International chấp nhận làm thành viên chính thức (principal member)
Năm 1998 được CHASE MANHATTAN BANK (US) New York tặng giải thưởng “1998 Best Services Quality Award”.
Tháng 11/2003, triển khai hệ thống thanh toán nội hàng trực tuyến toàn hệ thống. Tháng 3/2005, kết nối thành công hai hệ thống thanh toán thẻ nội địa Vietcombank - Eximbank.
Tháng 6/2005, là ngân hàng duy nhất được chọn làm đại diện cho khối ngân hàng TMCP vinh dự được Thống đốc NHNN Việt Nam trao tặng bằng khen và phần thưởng vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác đấu thầu trái phiếu chính phủ tại NHNN.
Tháng 9/2005, nhập cúp vàng Top Ten sản phẩm uy tín chất lượng cho sản phẩm hỗ trợ du học trọn gói do Cục sở hữu trí tuệ và Hội sở hữu trí tuệ công nghiệp Việt Nam, Trung tâm Công nghệ thông tin & tư vấn quản lý QVN cùng báo điện tử Saigon News hợp tác tổ chức.
Tháng 11/2005, là ngân hàng đầu tiên phát hành thẻ Eximbank Visa Debit Tháng 01/2006, đã vinh dự được nhận bằng khen do ngân hàng Standard Chartered Bank trao tặng về chất lượng dịch vụ điện thanh toán quốc tế (chất lượng dịch vụ tốt nhất trong lĩnh vực thanh toán quốc tế qua mạng thanh toán viễn thông liên ngân hàng)
Tháng 01/2006, đã vinh dự nhận giải cúp vàng thương hiệu Việt trong cuộc bình chọn CÚP VÀNG TOPTEN THƯƠNG HIỆU VIỆT (lần thứ 2) do Mạng Thương Hiệu Việt kết hợp cùng Hội sở hữu công nghiệp Việt Nam hợp tác tổ chức.
II. GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU CHI NHÁNH CẦN THƠ.
1. Lịch sử hình thành và phát triển:
TP Cần Thơ là một tỉnh trọng điểm về kinh tế của vùng đồng bằng sông Cửu Long có đến 13 tỉnh thành. Vốn nằm trong vùng tương đối được ưu ái về thiên nhiên nên TP Cần Thơ đã được Nhà nước đầu tư rất nhiều như có sân bay Cần Thơ, Cảng biển, khu chế xuất Trà Nóc cùng với đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật từ các trường đại học trong vùng và hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh.
Nắm bắt được những thuận lợi đó của Cần Thơ, ngày 28/3/1995 Eximbank Việt Nam đã quyết định đặt một chi nhánh mới là Eximbank Cần Thơ theo "Giấy chấp thuận mở chi nhánh ở trong nước thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần" số 0024/GCT của Vụ trưởng Vụ các định chế tài chính Đặng Thanh Bình, với tên gọi là chi nhánh Ngân hàng Thương Mại Xuất Nhập Khẩu Việt Nam tỉnh Cần Thơ, gọi tắt là Eximbank Cần Thơ, hay EIB Cần Thơ. Đây là chi nhánh thứ ba sau chi nhánh Hà Nội và chi nhánh Đà Nẵng.
Trụ sở giao dịch của Eximbank Cần Thơ đặt tại số 02 Điện Biên Phủ, Quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ.
Năm 2003 CN cấp 2 Eximbank Cái Khế trực thuộc Eximbank Cần Thơ được thành lập và đặt tại số 8/9/16 đường Trần Văn Khéo, Quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ.
2. Chức năng và nhiệm vụ của Eximbank Cần Thơ:
2.1. Chức năng:
Eximbank Cần Thơ là một Ngân hàng chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, thực hiện việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ của một Ngân hàng thương mại đạt chuẩn quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ:
Ngân hàng công bố, niêm yết và thực hiện đúng các mức lãi suất về tiền gửi, lãi suất cho vay, các tỷ lệ hoa hồng, tiền phạt, các dịch vụ Ngân hàng theo đúng quy chế của Viet Nam Eximbank và quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngân hàng chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của mình, chịu trách nhiệm vật chất đối với khách hàng, giữ bí mật về số liệu hoạt động của khách hàng, trừ trường hợp có yêu cầu văn bản của cơ quan pháp luật theo quy định. Các nhiệm vụ chủ yếu như sau:
2.2.1. Nhận các loại tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ
Thực hiện các hình thức huy động tiết kiệm kỳ hạn, không kỳ hạn, tiết kiệm hỗn hợp (khai trương ngày 21/04/2003) với các mức lãi suất hấp dẫn, linh hoạt. Tiền gửi của khách hàng được bảo hiểm theo qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cho vay ngắn – trung - dài hạn, đồng tài trợ, cho vay theo hạn mức tín dụng:
2.2.2. Cho vay ngắn – trung - dài hạn, đồng tài trợ, cho vay theo hạn mức tín dụng:
Thực hiện cho vay bàng đồng Việt Nam và ngoại tệ với hình thức có bảo đảm hoặc tín chấp cho các thành phần kinh tế, cá nhân với các điều kiện thuận lợi và lãi suất cho vay hấp dẫn.
Cho vay hợp vốn với các Ngân hàng hoặc tổ chức tài chính khác đối với các dự án lớn.
2.2.3. Thực hiện các dịch vụ thanh toán, tài trợ dịch vụ xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ chuyển tiền qua hệ thống SWIFT:
Hiện nay, Việt Nam Eximbank nói chung, Eximbank Cần Thơ nói riênglà một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần cóa hoạt động dịch vụ thanh toán đa dạng nhất và có thể đáp ứng hầu hết các yêu cầu về thanh toán trong nước và quốc tế của các khách hàng kinh doanh nội địa và xuất nhập khẩu.
Với mạng lưới liên kết với trên 620 ngân hàng lớn tại 59 quốc gia trên thế giớ, Eximbank bảo đảm thực hiện nhanh chóng kịp thời, chi phí thấp, an toàn với các hình thức thanh toán bằng thẻ tín dụng (L/C), nhờ thu (D/A, D/P), TT, OP, Cheque, thẻ tín dụng quốc tế. Chiết khấu chứng từ có giá với múc phí thấp (chứng từ hành xuất). Phát hành thư bảo lãnh trong và ngoài nước…Thực hiện dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài ước.
2.2.4. Kinh doanh ngoại tệ:
- Eximbank Cần Thơ thực hiện các hoạt động kinh doanh ngoại tệ như: mua bán các loại ngoại tệ với các cá nhân và doanh nghiệp, thực hiện nghiệp vụ giao ngay (Sport)về tiền tệ, nghiệp vụ hoán đổi về tiền tệ (Swap), nghiệp vụ kỳ hạn về tiền tệ (Forward) và nghiệp vụ quyền lựa chọn về tiền tệ (Option). Đối với nghiệp vụ Option, Eximbank là Ngân hàng thương mại đầu tiên tại Việt Nam thực hiện nghiệp vụ này, mặc dù mới đưa dịch vụ vào khai thác từ tháng 2 năm 2003, nhưng đã thu hút nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tham gia nghiệp vụ này nhằm tránh rủi ro về tỷ giá.
2.2.5. Dịch vụ trọn gói phục vụ du học sinh:
Thực hiện các dịch vụ tư vấn du học sinh, những thủ tục chứng minh tài chính cho du học sinh, phát hành Bankdraft, cho vay du học trọn gói.
Phối hợp cùng các Công ty tư vấn du học tổ chức nhiều cuộc hội thảo giới thiệu về các cơ hội du học tại các nước có nền giáo dục phát triển cho các học sinh sinh viên.
Hỗ trợ các du học sinh về mặt tài chính như: cho vay với lãi suất ưu đãi, phát hành thẻ tín dụng MasterCard/Visa dưới dạng tín chấp hay ký quỹ với các mức phí sử dụng thấp.
2.2.6. Phát hành và thanh toán các loại thẻ Ngân hàng:
Phát hành thẻ Eximbank Mastercard, Eximbank Visa, thẻ nội địa và thẻ thanh toán Eximbank.
Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán các loại thẻ MasterCard, Visa.
Cung cấp dịch vụ ATM.
Cung cấp dịch vụ thanh toán cho các đơn vị cung ứng hàng hoá, đơn vị có nhu cầu tiếp nhận thẻ tại Việt Nam như các của hàng, nhà hàng khách sạn, công ty du lịch lữ hành, các trường học, bệnh viện…
2.2.7. Cung cấp các dịch vụ kiểm ngân, thu và chi hộ:
Thực hiện dịch vụ kiểm ngân tại chỗ theo yêu cầu của khách hàng.
Thực hiện các dịch vụ chi lương, thu hộ, chi hộ, thu chi tại chỗ, dịch vụ thu đổi ngoại tệ, dịch vụ chi trả kiều hối, bồi hoàn chi phiếu du lịch Thomas Cook Travellers’Cheque, thanh toán tiền làm thủ tục xuất cảnh (I.O.M) cho các cá nhân xuất cảnh.
2.2.8. Dịch vụ tư vấn tài chính và đầu tư:
Thực hiện dịch vụ tư vấn tài chính và đầu tư miễn phí nhằm giúp các nhà đầu tư có thêm thông tin trong việc quyết định đầu tư hợp lý và hiệu quả.
Cung cấp các thông tin có liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính nhằm cập nhật cho các nhà đầu tư trước khi đưa ra các quyết định đầu tư.
3. Cơ cấu tổ chức nhân sự và nhiệm vụ chính của các bộ phận:
Ngân hàng Eximbank Cần Thơ có cơ cấu tổ chức khá gọn nhẹ và hiệu quả, gồm có: Ban Giám đốc và 7 Phòng, Ban chức năng, tất cả chịu sự chỉ đạo thống nhất của Ban Giám đốc. Chức năng nhiệm vụ của từng phòng và quyền hạn trách nhiệm của Ban giám đốc được ban hành theo quy định số 45/EIB - Cần Thơ ngày 1/3/1995 của Tổng giám đốc Việt Nam Eximbank.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức Eximbank Cần Thơ
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
PHÒNG KẾ TOÁN
TỔ KIỂM TRA NỘI BỘ
TỔ THẺ NGÂN HÀNG
PHÒNG TÍN DỤNG
PHÒNG THANH TOÁN QUOÁC TEÁ
PHÒNG HÀNH CHÍNH
PHÒNG NGÂN QUỸ
3.1. Ban Giám đốc: Gồm Giám đốc và 01 Phó Giám đốc với nhiệm vụ:
*Gíám đốc:
Đại diện pháp nhân của chi nhánh Ngân hàng Thương Mại Xuất Nhập Khẩu Việt Nam tại Cần Thơ.
Chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của chi nhánh và việc chi tiêu tài chính, trích lập quỹ theo quy định của Nhà nước, của Hội Đồng Quản Trị và Tổng Giám Đốc.
Tổ chức chỉ đạo thực hiện các chính sách, chế độ nhiệm vụ và kế hoạch kinh doanh.
Chịu trách nhiệm toàn diện về tài sản, vốn liếng, tổ chức và điều hành cán bộ của Chi nhánh.
Quyết định chương trình, kế hoạch hoạt động công tác của Chi nhánh.
Quyết định đầu tư cho vay, bão lãnh trong giới hạn được Tổng giám đốc ủy quyền.
Ký kết các văn bản tín dụng, tiền tệ, thanh toán trong phạm vi hoạt động của Chi nhánh.
Xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh cho Chi nhánh.
Tổ chức nghiên cứu, học tập và hướng dẫn thi hành các chế độ, thể lệ nhiệm vụ của Việt Nam Eximbank.
* Phó Giám đốc:
Giúp Giám đốc chỉ đạo và điều hành một số lĩnh vực công tác.
Tham gia với Giám đốc trong việc chuẩn bị, xây dựng và quyết định về chương trình công tác, kế hoạch kinh doanh và các phương hướng hoạt động.
Thay mặt Giám đốc giải quyết và ký các văn bản thuộc lĩnh vực được phân công.
Điều hành mọi mặt công tác của Chi nhánh lúc vắng mặt sự ủy nhiệm chính thức của Giám đốc.
3.2. Phòng Hành chính:
Gồm 7 thành viên, thực hiện các công tác sau:
Thực hiện các công tác về hành chính của Ngân hàng như quản lý lao động, kế hoạch văn phòng phẩm…
Phụ trách lương, xét khen thưởng.
Phụ trách chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho toàn thể cán bộ - công nhân viên trong Ngân hàng.
Thực hiện các chức năng như kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ Nhà nước.
3.3. Phòng Tín dụng:
Gồm 10 thành viên, thực hiện nhiệm vụ:
Nghiên cứu thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, cho vay theo đúng quy định của Ngân hàng, thể lệ của Nhà nước.
Tham mưu cho Ban Giám Đốc trong việc xây dựng tín dụng cho từng đối tượng cụ thể.
Trực tiếp theo dõi các khoản nợ của Khách hàn trong sút thời gian vay. kể từ khi phát vay cho đến khi thu hồi nợ vay.
Theo dõi, đôn đốc việc trả nợ và, bảo lãnh khi có nhu cầu, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn tài chính và đầu tư…
3.4. Tổ Kiểm tra nội bộ:
Gồm có 2 thành viên, thực hiện nhiệm vụ:
Kiểm tra việc chấp hành qui trình hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật về hoạt động của Ngân hàng.và các đơn vị trực thuộc.
Giám sát việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Ngân hàng Nhà nước về đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Thực hiện các chức năng kiểm toán nội bộ.
Rà soát hệ thống các quy định an toàn trong kinh doanh, phát hiện các sơ hở, bất hợp lý để kiến nghị bổ sung, sửa đổi.
3.5. Tổ Thẻ Ngân hàng:
Gồm 5 thành viên, thực hiện các nghiệp vụ phát hành và thanh toán các loại thẻ Quốc tế, thẻ nội địa, mở các đơn vị chấp nhận thẻ, tư vấn du học trọn gói.
3.6. Phòng Kế toán:
Gồm 13 thành viên, thực hiện các chức năng:
Ghi chép toàn bộ các công việc phát sinh trong ngày
Hạch toán kế toán theo chế độ do Nhà nước quy định, thực hiện hạch toán kế toán BHXH và bảo hiểm Y tế, hạch toán thuế phải nộp.
Lữu trữ chứng từ cho cả Chi nhánh.
Hướng dẫn khách hàng, các đơn vị nội bộ sử dụng chứng từ, biểu mẫu đúng theo quy định của Ngân hàng.
Thực hiện các bút toán liên quan đến quá trình thnah toán như: uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, kế toán các khoản thu chi trong ngày, mở tài khoản mới cho khách hàng, thực hiện các bút toán chuyển khoản giữa Ngân hàng với khách hàng, với Ngân hàng khác, và với Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam.
Báo cáo quyết toán, phân tích lãi lỗ từng kỳ hoạt động của Ngân hàng.
Tổng hợp chi tiết, lên cân đối hoạt động của Ngân hàng
Báo cáo quyết toán hằng năm lên Ngân hàng Hội sở.
3.7. Phòng Thanh toán quốc tế:
Gồm 4 thành viên, thực hiện các nhiệm vụ như:
Bảo lãnh hàn hoá trả chậm, trả ngay.
Thực hiện các hoạt động có liên quan đến quá trình thanh toán xuất nhập khẩu giữa khách hàng và các đơn vị nước ngoài. Thanh toán tiền hàng bằng các phương thức thanh toán quốc tế: L/C, chuyển tiền, nhờ thu…được thực hiện nhanh chóng, bảo mật và tiết kiệm được chi phí lớn nhờ vào mối quan hệ đại lý mật thiết với các Ngân hàng trên thế giới.
3.8. Phòng Ngân quỹ (còn gọi là kho tiền của Ngân hàng Eximbank chi nhánh Cần thơ), phòng được giám đốc phân công. Gồm có 10 thành viên thực hiện các nhiệm vụ:
Về thu: tiếp nhận tiền gửi của mọi khách hàng, nộp tiền bán hàng, trả nợ vay Ngân hàng bằng tiền mặt VND và ngoại tệ theo chứng từ nhờ thu đã được phòng nghiệp vụ kiểm tra, tiếp nhận các khoản tiền mặt VND và ngoại tệ khách hàng gửi tiết kiệm, mở tài khoản, mở thẻ ATM…
Về chi: trả tiền cho khách hàng, thanh toán SEC du lịch, ngân phiếu theo chứng từ đã được phòng nghiệp vụ kiểm tra và Giám Đốc duyệt.
4. Kết quả hoạt động kinh doanh của Eximbank Cần Thơ qua 3 năm (2003-2005)
Nhờ sự phấn đấu không ngừng để đạt được những mục tiêu đề ra và phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng trên địa bàn Cần Thơ, Eximbank Cần Thơ đã đạt được những kết quả đáng kể, được thể hiện như sau:
Bảng 01: Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
giai đoạn 2003-2005
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
1.Thu nhập
24.018
36.097
53.972
+ Thu từ lãi cho vay
20.079
27.726
41.880
+ Thu từ lãi TG, đầu tư
1.076
2.722
6.847
+ Thu phí dịch vụ
1.128
1.196
1.257
+ Thu về KD ngoại tệ
1.704
3.716
1.825
+ Thu khác
31
736
2.163
2. Chi phí
21.033
32.593
57.365
+ Chi trả lãi TG
15.533
22.528
37.528
+ Chi dịch vụ NH
670
655
551
+ Chi KD ngoại tệ
-
3.352
1.074
+ Chi phí quản lý
4.476
6.058
6.506
+ Chi dự phòng RR
-
-
11.705
+ Chi khác
354
299
-
3. Lãi gộp
2.985
3.504
(3.392)
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ)
Bảng 02: So sánh tình hình hoạt động kinh doanh giai đoạn 2003-2005
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2004/2003
2005/2004
Số tiến
%
Số tiền
%
1. Thu nhập
12.079
50,3
17.875
49,5
2. Chi phí
11.560
54,9
24.772
76
3. Lãi gộp
519
17,4
(6.896)
(196,8)
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ)
4.1. Về thu nhập:
Tình hình thu nhập qua 3 năm không ngừng tăng lên. Tổng thu nhập năm 2003 đạt 24.018 triệu đồng, trong đó thu về hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng cao nhất. Thu lãi tiền gửi tăng là do chi nhánh thu lãi điều chuyển vốn cho chi nhánh Cấp 2 Cái Khế. Nhìn chung, nguồn thu nhập của chi nhánh vẫn còn phụ thuộc vào thu vào hoạt động tín dụng. Năm 2004, thu nhập tích lũy từ đầu năm đạt 36.097 triệu đồng, tăng 50,3%. Trong năm chi nhánh đã cố gắng sử dụng nhiều biện pháp tích cực như thu hút nhiều khách hàng mới, tăng dư nợ tín dụng, tăng doanh số kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ thanh toán Ngân hàng…nhằm khởi tăng nguồn thu, tạo thu nhập tăng tích lũy ngày càng nhiều, trong đó thu từ kinh doanh ngoại tệ là 3,7 tỷ đồng, tăng 118% so với 2003. Tuy nhiên, nguồn thu chủ yếu của chi nhánh vẫn là lãi cho vay, đạt 27,6 tỷ đồng, tăng 7,5 tỷ đồng so với năm trước đó. Sang năm 2005, tổng thu nhập của EIB Cần Thơ là 53.972 triệu đồng, tăng 17.875 triệu đồng, tương đương 49,5% so với năm 2004. Trong đó, thu về hoạt động tín dụng đạt 41.880 triệu đồng (chiếm 77,6% tổng thu nhập) tăng 4.154 triệu đồng so với 2004. Nguyên nhân là do dư nợ trong năm tăng và lãi suất cho vay được điều chỉnh so với năm trước, thu lãi tiền gửi cũng tăng do chi nhánh thu lãi điều chuyển vốn của EIB Cái Khế tăng. Thu dịch vụ ngân hàng đạt 2.162 triệu đồng, tăng so với năm trước 193,75% . Kết quả thu hồi tăng nhiều là do sự chỉ đạo kịp thời, sát sao của Ban Giám đốc Chi nhánh, tập trung toàn lực vào công tác thu hồi nợ những tháng cuối năm.
4.2. Về chi phí:
Đi đôi với thu nhập tăng thì chi phí của Chi nhánh cũng tăng lên. Năm 2003, tổng chi phí là 21.033 triệu đồng, chủ yếu là chi trả lãi tiền gửi. Trong năm này Chi nhánh thực hiện công tác hiện đại hóa, đầu tư mua sắm tài sản công cụ phục vụ cho chương trình phần mềm Korebank. Ngoài ra, Chi nhánh phải chi các khoản ngoài giờ, chi thưởng, chi lương do tăng cường người thực hiện chương trình mới và bổ sung nhân sự cho chi nhánh cấp 2. Năm 2004, tổng chi phí hoạt động kinh doanh là 32.593 triệu đồng, tăng 54,9 % so với 2003, chi trả lãi tiền gửi và chiếm tỷ trọng cao nhất đạt 22.528 triệu đồng, chiếm trên 69% tổng chi phí. Nguyên nhân là do việc sử dụng vốn điều chuyển từ Ngân hàng Hội sở ngày càng tăng nhằm đáp ứng đầy đủ vốn trong các hoạt động nghiệp vụ, trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trên địa bàn chỉ đáp ứng khoảng trên 30%, lãi suất điều chuyển vốn từ Hội sở cho chi nhánh liên tục tăng trong những tháng cuối năm làm cho chi phí ngày càng tăng cao; Chi cho kinh doanh ngoại tệ là 3,4 tỷ đồng, chiếm 10,6% tổng chi phí, do chi nhánh kết chuyển số dư nợ của TK631(TK chênh lệch tỷ giá) vào tài khoản chi phí. Các chi phí khác cũng tăng lên. Sang năm 2005, tổng chi phí cảu EIB Cần Thơ là 57.365 triệu đồng, tăng 24.772 triệu đồng, tương đương 76 % so với năm 2004. Trong đó chi trả lãi tiền gửi là 37.528 triệu đồng (chiếm 65,42 % tổng chi phí). Nguyên nhân là do trong năm 2005, nguồn vốn huy động trên địa bàn và vốn điều chuyển tăng cao nên chi phí trả lãi nhiều hơn các năm trước. Chi kinh doanh ngoại tệ đạt 1.074 triệu đồng, giảm so với năm trước là do năm 2004 khi kết chuyển TK 631 vào chi phí 1,1 tỷ đồng, đồng thời do doanh số kinh doanh ngoại tệ trong năm cung giảm đi. Chi phí quản lý là 6.506 triệu đồng, tăng so 2004 là 7,4 % vì trong năm chi nhánh có điều chỉnh lên lương, lên chức và tăng thêm nhân sự để chuẩn bị mở phòng giao dịch trong năm 2006. Riêng chi phí dự phòng rủi ro đến cuối năm 2005 là 11.075 triệu đồng do chi nhánh thực hiện khoản trích dự phòng rủi ro theo quy định 493 của Ngân hàng Nhà nước của các khoản tồn đọng. Chi nhánh đã sử dụng nhiều biện pháp để tiết kiệm chi phí cho hoạt động kinh doanh, nhằm từng bước nâng cao lợi nhuận chung cho toàn chi nhánh.
Hình 01: Tình hình hoạt động kinh doanh của EIB Cần Thơ
giai đoạn 2003-2005.
4.3. Về lợi nhuận:
Do thực hiện chương trình hiện đại hóa nên phát sinh một số chi phí làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Mặt khác, do áp dụng phương thức dự thu dự chi cũng làm giảm lợi nhuận cuả chi nhánh. Tuy nhiên, lợi nhuận năm 2003 của chi nhánh là 2.985 triệu đồng là một nỗ lực rất lớn và đáng ghi nhận. Năm 2004, lợi nhuận là 3.504 triệu đồng, tăng 17,4 % so với năm 2003. Nguyên nhân là do hệ thống Eximbank Việt Nam nói chung và EIB Cần Thơ nói riêng từng bước hiện đại hóa, thực hiện việc giao dịch một cửa nhanh chóng thuận tiện đã thu hút khách hàng, cũng như số lượng giao dịch ngày càng tăng. Năm 2005, lợi nhuận thu được của Ngân hàng là -3.392 triệu đồng là do chi nhánh trích dự phòng rủi ro theo quy định. Riêng lợi nhuận nếu chưa tính khoản trích dự phòng 11.705 triệu đồng thì chi nhánh lãi được 8.313 triệu đồng.
5. Thuận lợi và khó khăn:
5.1. Thuận lợi:
Ngân hàng Eximbank chi nhánh Cần Thơ có được những thành tựu như ngày hôm nay là nhờ sự tận dụng những nguồn lực sẵn có và phát huy tối đa mọi lợi thế của mình:
Thời gian qua, Chính phủ đã điều chỉnh, bổ sung và ban hành nhiều chính sách vĩ mô phù hợp với điều kiện thực tiễn, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, nên tốc độ kinh tế của cả nước nói chung, của Cần Thơ nói riêng tiếp tục phát triển ổn định. Nhiều chỉ tiêu tăng qua các năm và vượt mục tiêu đề ra, trong đó nhiều khách hàng của chi nhánh đạt được hiệu quả kinh doanh cao, tạo ra môi trường an toàn, ít rủi ra hơn cho hoạt động Ngân hàng, đặc biệt là sự tăng trưởng tín dụng cũng như chất lượng tín dụng.
Việc Cần Thơ trở thành thành phố trực thuộc Trung Ương cũng đã đem lại cho Ngân hàng nhiều cơ hội trong tham gia đầu tư, tài trợ, cho vay, huy động vốn… làm gia tăng hoạt động của Ngân hàng cũng như góp phần vào sự phát triển của thành phố.
Bên cạnh đó, Chi nhánh còn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời sát sao của UBND quận uỷ Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, Ngân hàng Nhà Nước chi nhánh Cần Thơ và nhất là Ngân hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi về cung ứng nguồn vốn đầy đủ và kịp thời góp phần giúp chi nhánh hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Bước vào kỷ nguyên khoa học công nghệ, Ngân hàng đã có điều kiện tiếp cận với những thành tựu công nghệ tiên tiến đã góp phần rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Ngân hàng đã thành lập trên 10 năm nên đội ngũ cán bộ công nhân viên có thâm niên, kinh nghiệm trong nghiệp vụ. Bộ máy quản lý và điều hành ngày một trưởng thành hơn, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của Ngân hàng.
5.2. Khó khăn:
Bên cạnh những điểm mạnh và cơ hội trên, Ngân hàng Eximbank chi nhánh Cần Thơ cũng gặp không ít khó khăn như sau:
Mấy năm qua, nhiều diễn biến phức tạp của thiên tai, khủng bố và xung đột liên tiếp xảy ra. Dịch cúm gia cầm có nguy cơ bùng phát thành đại dịch trên phạm vi toàn cầu…đã gây không ít bất lợi trong hoạt động của nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động của ngành Ngân hàng nói riêng.
Hiện tại trên địa bàn TP Cần Thơ có 5 NHTM Nhà nước, trên 20 NHTM Cổ phần, 3 ngân hàng nước ngoài nên cạnh tranh rất quyết liệt, đặc biệt là cạnh tranh về lãi suất, thủ tục vay, chất lượng dịch vụ và tiện ích ngân hàng…
Khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Trước sự biến động của thị trường, các doanh nghiệp đều rất cố gắng trong hoạt động kinh doanh của mình nhưng vẫn có những tồn tại đã ảnh hưởng đến hoạt động tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng.
Mặc dù kết quả huy động vốn đều tăng trưởng qua các năm nhưng địa điểm của trụ sở không nằm trên vị trí thuận lợi nên việc huy động vốn cũng hạn chế và gặp nhiều khó khăn.
5.3. Phương hướng hoạt động của Ngân hàng năm 2006.
Qua hơn 10 năm hoạt động, EIB Cần Thơ đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, là nền tảng khá vững chắc cho những bước đi tiếp theo. Toàn thể cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng đều nêu cao tinh thần trách nhiệm, luôn giữ vững sự đoàn kết nhất trí nhằm đưa Ngân hàng mình phát triển đi lên. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, kết quả kinh doanh và khả năng phát triển năm 2006, Chi nhánh EIB Cần Thơ có phương hướng hoạt động như sau:
5.3.1. Về định lượng.
Tiếp tục nâng cao nguồn vốn để tăng cường nội lực, khả năng cạnh tranh. Tổng nguồn vốn dự kiến đạt 530 tỷ đồng.
Áp dụng thường xuyên những biện pháp huy động mới, hấp dẫn để thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng. Phấn đấu nguồn vốn huy động tại chỗ là 256 tỷ đồng.
Vì nhu cầu vay vốn ngày càng tăng nên ngoài việc tăng cường huy động vốn tại chỗ, Ngân hàng có kế hoạch vay vốn điều từ Hội sở là 255 tỷ đồng.
Chú trọng hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng, kìm giữ tỷ lệ nợ quá hạn ở mức nhỏ hơn 1% trên tổng dư nợ. Dư nợ kế hoạch ước đạt 500 tỷ đồng, trong đó dư nợ quá hạn là 5 tỷ đồng.
Tăng cường những biện pháp đề phòng rủi ro. Thu nợ đã xử lý rủi ro từ quỹ dự phòng là 1,338 tỷ đồng.
Tiết kiệm chi phí, đầu tư và tăng nguồn thu nhập. Lợi nhuận năm 2006 ước đạt 7,6 tỷ đồng.
5.3.2. Về định tính.
Để đạt được những kết quả trong năm 2006 như kế hoạch đã đề ra, Ngân hàng cần thực hiện những biện pháp sau:
Tiếp tục kiện toàn bộ máy điều hành, chú trọng phát triển thể chế, nâng cao năng lực điều hành, kiểm soát rủi ro, quản lý tốt tài sản nợ, đảm bảo cho Ngân hàng phát triển ổn định.
Tập trung mọi nỗ lực để tìm kiếm khách hàng mới nhằm tăng trưởng dư nợ trên cơ sở an toàn và hiệu quả, chú trọng cho vay các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng và khách hàng có hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu.
Đa dạng hoá mọi hình thức huy động vốn sao cho phù hợp với tập quán, tâm lý khách hàng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng.
Tạo dựng cơ sở vật chất khang trang hiện đại. Gấp rút xây dựng xong trụ sở mới để thuận tiện hơn trong việc giao dịch với khách hàng.
Mở rộng mạng lưới kinh doanh để tăng cường huy động vốn và bán lẻ sản phẩm.
Đẩy mạnh hoạt động dịch vụ: mua bán vàng, mua bán ngoại tệ thuận lợi cho khách hàng đi du lịch, chữa bệnh, đi du học nước ngoài.
Áp dụng các cơ chế lãi suất cho vay, huy động và phí dịch vụ với từng đối tượng khách hàng để lôi cuốn nhiều khách hàng hơn nữa.
Đẩy mạnh công tác xử lý nợ quá hạn, hạn chế phát sinh nợ quá hạn mới, tập trung thu hồi dứt điểm các khoản nợ đã xử lý rủi ro.
Tăng cường công tác tiếp thị, quảng cáo, phân công cụ thể cho từng phòng ban của chi nhánh.
Đặt trọng tâm vào công tác huấn luyện, đào tạo nhân viên để nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên, phát triển năng lực cán bộ nhằm đề cử vào nhiệm vụ quản lý làm lực lượng kế thừa trong tương lai.
CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG XUẤT NHẬP KHẨU CHI NHÁNH CẦN THƠ GIAI ĐOẠN 2003 - 2005.
---&---
I. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN, GIAI ĐOẠN 2003-2005.
1. Phân tích chung tình hình huy động vốn.
Huy động vốn là hoạt động tương đối khó khăn đối với các Ngân hàng vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Muốn huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải hội đủ khá nhiều điều kiện như cơ sở vật chất, vị trí thuận lợi để dễ giao dịch, mức lãi suất huy động, công nghệ thông tin và chất lượng phục vụ ...Trên địa bàn thành phố hiện nay có trên 25 Ngân hàng với sự cạnh tranh gay gắt, mỗi ngân hàng đều dựa vào đặc trưng thế mạnh của mình và áp dụng những hình thức kinh doanh riêng nhằm thu hút khách hàng. Đối với EIB Cần Thơ, khách hàng là doanh nghiệp có quan hệ tiền gửi ngày càng tăng qua các năm, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bảng 03: Số đơn vị có quan hệ tài khoản tiền gửi còn đang hoạt động.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
1. DN Nhà nước (đvị)
22
9
11
2. DN ngoài quốc doanh (đvị)
157
241
258
3.Tổ chức nước ngoài (đvị)
0
0
3
4.Tổ chức tín dụng
12
4
6
5. Cá nhân
1.195
2.483
3.006
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Rút ra bài học từ những năm trước, chi nhánh đã đẩy mạnh đa dạng hoá các khách hàng, chú ý phát triển quan hệ với các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế ngoài quốc doanh, hạn chế quan hệ với các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là các cá nhân và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Năm 2003, số doanh nghiệp Nhà nước giao dịch gửi tiền tại Ngân hàng là khá nhiều là 22 doanh nghiệp, nhưng sang năm 2004 thì giảm đáng kể, còn 9 đơn vị, năm 2005 tăng lên là 11 doanh nghiệp, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì tăng lên theo từng năm, từ 157 đơn vị năm 2003 lên 241 đơn vị năm 2004 và đến 2005 là 258 đơn vị. Cá nhân cũng là khách hàng tiềm năng của khách hàng nên được Ngân hàng rất chú trọng, năm 2003 khách hàng cá nhân có quan hệ tiền gửi tại Chi nhánh là 1.195 người, sang năm 2004 là 2.483 người và năm 2005 là 3.006 người.
Nguyên nhân là các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn ngày càng kém hiệu quả nên số vốn họ cần tăng lên. Không chỉ số tiền gửi giảm mà các doanh nghiệp này phải đi vay để bù đắp nguồn vốn cho mình. Ngược lại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng lớn mạnh về số lượng lẫn chất lượng. Hoạt động kinh doanh của họ ngày càng phát triển nhờ những những chính sách linh hoạt theo xu hướng thị trường. Bên cạnh đó đời sống người dân ngày càng tăng lên, các khách hàng cá nhân trên địa bàn cũng ý thức hơn vai trò của ngân hàng, và họ chọn hình thức gửi tiền vào Ngân hàng là một giải pháp an toàn nhất. Vì vậy, Chi nhánh cần có biện pháp cụ thể để thu hút tiền gửi của hai đối tượng này.
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng chiếm tỷ lệ thấp nhất. Năm 2003 và 2004 Ngân hàng chỉ có quan hệ với các tổ chức tín dụng trong nước. Cụ thể là năm 2003 là 12 ngân hàng, sang năm 2005 còn 4 ngân hàng, sang năm 2005 số ngân hàng có quan hệ tiền gửi là 6 đồng thời Chi nhánh đã mở rộng mối quan hệ với các ngân hàng quốc tế. Mối quan hệ với các ngân hàng thường là phục vụ trong việc thanh toán nên số tiền gửi thường không cao. Nhưng nhìn chung thì mối quan hệ với các tổ chức tín dụng của Chi nhánh là còn ít, vậy nên Ngân hàng cần mở rộng quan hệ với các Ngân hàng để phục vụ nhu cầu thanh toán thuận lợi hơn cho khách hàng.
Cần Thơ đã trở thành thành phố trực thuộc Trung Ương hơn 3 năm nay, đời sống còn thấp so với khu vực nói riêng và cả nước nói chung. Tâm lý người dân lại thường chỉ tin tưởng những ngân hàng lớn (là những ngân hàng thương mại Nhà nước) và hình như không muốn thay đổi thói quen đó. Đối mặt với những khó khăn đó, để có thể tồn tại và thúc đẩy việc kinh doanh ngày càng phát triển, đòi hỏi EIB Cần Thơ cũng như các ngân hàng khác phải nâng cao chất lượng huy động vốn để thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Hơn nữa, do điều kiện tăng trưởng của nền kinh tế, nhu cầu về vốn của các cá nhân và doanh nghiệp ngày càng cao, càng trở nên cấp thiết thì việc phát huy tốt công tác huy động vốn là điều cực kỳ quan trọng. EIB Cần Thơ đã không ngừng nỗ lực để giữ khách hàng cũ, lôi kéo nhiều khách hàng mới và được đánh giá là Ngân hàng huy động vốn hiệu quả trong những năm gần đây. Để hiểu rõ hơn về công tác huy động vốn của Ngân hàng, ta sẽ đi sâu vào phân tích tình hình huy động vốn của Ngân hàng trong 3 năm trở lại đây (2003-2005).
Bảng 04: Tình hình huy động vốn, giai đoạn 2003-2005
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Vốn HĐ từ KH
99.604
122.449
214.780
22.845
22,94
92.331
75,4
+ TG thanh toán
26.734
36.403
50.271
9.669
36,17
13.868
38,1
+ TG tiết kiệm
68.571
84.439
141.355
15.868
23,14
56.916
67,4
+ Phát hành GTCG
4.299
1.607
23.154
(3.232)
(75,18)
21.547
1340
2.Vốn HĐ TCTD
74
820
67
746
1.008
(753)
(91,8)
Tổng cộng
99.678
123.269
214.848
23.591
23,67
91.579
74,29
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Vốn huy động là nguồn vốn mà Ngân hàng huy động tại chỗ với nhiều hình thức. Nguồn vốn huy động càng lớn càng tạo thế chủ động trong việc cho vay và tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng. Từ năm cuối năm 2003, EIB Cần Thơ áp dụng phần mềm Korebank nên việc huy động dễ dàng và hiệu quả hơn. Chính công nghệ đã tạo cho Ngân hàng một bước đột phá trong công tác huy động vốn. Vốn huy động của yếu là từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trên địa bàn.
1.1.Vốn huy động từ khách hàng:
Năm 2003, do tình hình nợ xấu còn tồn đọng, và khách hàng chưa thực sự đủ tin tưởng để gửi gắm niềm tin vào Ngân hàng nên chủ yếu là khách hàng cũ với tiền gửi thanh toán là 26.734 triệu đồng, tiền gửi tiết kiệm là 68.571 triệu đồng. Để tăng cường nguồn vốn cho mình, Ngân hàng đã phát hành giấy tờ có giá với số tiền là 4.299 triệu đồng. Năm 2004, tình hình huy động vốn của Ngân hàng có những bước khởi sắc mới. Vốn huy động từ khách hàng là 122.449 triệu đồng, tăng 22,94 % so với năm 2003, trong đó tiền gửi thanh toán tăng 36,17%, tiền gửi tiết kiệm tăng 23,14 %, còn phát hành giấy tờ có giá giảm 75,18 %. Nguyên nhân là năm 2004 là TP Cần thơ trực thuộc Trung ương nên Đảng và Nhà nước có rất nhiều dự án đầu tư vào đây nhằm đổi mới bộ mặt toàn thành phố. Đứng trước thời cơ đó, các tổ chức kinh tế tiến hành dự trữ và gửi tiền vào Ngân hàng nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư khi thời điểm thích hợp.
Năm 2005 thì được coi là bước đột phá trong công tác huy động vốn của Ngân hàng. Vốn huy động từ khách hàng tăng 91.331 triệu đồng, tương đương 75,4% so năm 2004. Trong đó tiền gửi thanh toán tăng 38,1%, đáng nói là tiền gửi tiết kiệm tăng 56.916 triệu đồng, tức tăng 67,4 %. Song song với tiền gửi tiết kiệm tăng thì huy động từ phát hành giấy tờ có giá cũng tăng mạnh mẽ, lên tới 1.340 % so với năm 2004. Lý do chính là Chi nhánh đã sử dụng rất nhiều hình thức huy động vốn hấp dẫn như tiết kiệm có dự thưởng, khuyến mãi, lãi suất huy động thì vào loại cao nhất so với các ngân hàng trên địa bàn…. EIB Cần Thơ đã dần khẳng định được vị thế của mình, tạo niềm tin nơi khách hàng.
1.2. Vốn huy động từ các tổ chức tín dụng.
Về vốn huy động từ các tổ chức tín dụng thì năm 2003 là 74 triệu đồng, năm 2004 là 820 triệu đồng, sang năm 2005 còn 67 triệu đồng. Nguyên nhân của sự tăng giảm bất thường như vậy là do tình hình cho vay vốn ở các ngân hàng khác không ổn định. Nhận xét về công tác huy động vốn từ các tổ chức tín dụng là chưa thật hiệu quả vì có sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trên địa bàn.
Các phương thức huy động vốn biến động cụ thể như thế nào, ta sẽ đi sâu vào phân tích từng loại tiền gửi cụ thể.
2. Các phương thức huy động vốn.
2.1. Tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi thanh toán ở Ngân hàng chủ yếu là các tổ chức kinh tế. Do yêu cầu trong sản xuất kinh doanh cũng như thấy rõ được những tiện ích từ các sản phẩm, dịch vụ nên ngày càng có nhiều doanh nghiệp giao dịch thường xuyên với Ngân hàng.
Bảng 5: Tình hình Tiền gửi thanh toán qua 3 năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1.TG không KH
26.385
98,7
33.003
90,6
46.170
91,8
6.618
25,1
13.167
39,9
2.TG có KH
349
1,3
3.400
9,34
4.101
8,16
3.051
874,
701
20,6
+ TGKH <12t
349
726
108
377
108
(618)
(85)
+ TGKH > 12t
-
2.674
3.993
2.674
-
1.319
49,3
Tổng cộng
26.734
100
36.403
100
50.271
100
9.669
36,2
13.868
38,1
ĐVT: Triệu đồng.
. (Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
Với phương châm “khách hàng là thượng đế”, Ngân hàng luôn đáp ứng tốt nhất trong khả năng của mình mọi nhu cầu của khách hàng. Kết quả là tiền gửi thanh toán năm 2004 là 36.403 triệu đồng, tăng 9.669 triệu đồng, tương ứng 36,17 % so với năm 2003. Năm 2005 là 50.271 triệu đồng, tăng 38,1% so với năm 2004.
2.1.1. Tiền gửi thanh toán không kỳ hạn:
Đây là khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân, doanh nghiệp, là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra bất kỳ thời gian nào mà không cần thông báo trước. Mục đích của loại tiền gửi này đối với các doanh nghiệp là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chi trả lương cho nhân viên của doanh nghiệp, đồng thời hạn chế được chi phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Nắm rõ được những lợi ích đó nên số lượng doanh nghiệp gửi tiền càng tăng lên. Năm 2003, loại tiền gửi này huy động được 26.385 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 98,3% trong tổng số tiền gửi thanh toán, năm 2004 là 33.003 triệu, tăng 6.618 triệu đồng, tức 25,08 % so với năm 2003, nhưng tỷ trọng lại giảm, chiếm còn 90,6% tổng tiền gửi thanh toán. Năm 2005 là 46.170 triệu đồng, tăng 13.167 triệu tức là 39,9 % so với năm 2004.
Sự gia tăng đáng kể của tiền gửi thanh toán không kỳ hạn là do Ngân hàng tiến hành hiện đại hoá trên mọi phương diện. Phần mềm Korebank được áp dụng đã cải tiến các dịch vụ của Ngân hàng một cách hoàn chỉnh và tích hợp thông qua nhiều kênh phân phối, bao gồm mạng ATM, Phonebanking, mobilebanking, internetbanking…, đặc biệt là việc giao dịch một cửa đã phát huy tính ưu việt như tạo cho khách hàng sự thoải mái, nhanh chóng, chính xác khi giao dịch với Ngân hàng.
Các loại thẻ tín dụng cũng là một hình thức của tiền gửi thanh toán không kỳ hạn. Đây là một thị trường tiềm năng rất lớn đối với các Ngân hàng vì những tiện ích mà thẻ đem lại. Lợi ích của các loại thẻ là giúp Ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với chi phí thấp nhất, tạo sự khác biệt về chất lượng phục vụ và thương hiệu để cạnh tranh, giảm thiểu chi phí vận hành và tăng hiệu quả kinh doanh cho Ngân hàng. Ta hãy đi sâu vào tìm hiểu tình hình huy động vốn qua phát hành thẻ ở EIB Cần Thơ.
**.Tình hình phát hành và thanh toán các loại thẻ tại EIB Cần Thơ.
Bên cạnh khách hàng là doanh nghiệp thì khách hàng cá nhân chiếm một tỷ lệ đáng kể, đặc biệt là khi Ngân hàng đa dạng hóa các loại thẻ ra thị trường. EIB Cần Thơ đã đa dạng hoá các loại thẻ nhằm tạo cho khách hàng nhiều sự lựa chọn và thuận lợi hơn trong giao dịch. Ngoài các loại thẻ ATM, Visa, Master Card, năm 2005 Eximbank còn là Ngân hàng đầu tiên phát hành thẻ quốc tế với thương hiệu Eximbank - Visa Debit với tác dụng như ví tiền có thể đi khắp thế giới. Với tính thuận lợi và ưu việt của chúng, số lượng khách hàng sử dụng thẻ ngày càng nhiều. Đây là cơ hội để Ngân hàng huy động vốn. Vì vậy, bên cạnh các hình thức tiết kiệm có dự thưởng áp dụng cho các loại tiền gửi ngắn hạn thì Ngân hàng cũng chú trọng vào việc khuyến khích dân chúng sử dụng thẻ của Ngân hàng, cụ thể như chương trình “Thông điệp hoa hồng”. Đồng thời các giải thưởng bằng tiền mặt đều trao cho khách hàng thông qua thẻ ATM.
Bảng 06: Tình hình phát hành và thanh toán thẻ.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Số thẻ
Doanh số
(Tr. đg)
Số thẻ
Doanh số
(Tr. đg)
Số thẻ
Doanh số
(Tr. đg)
ATM
-
-
1.298
1.537
3.700
9.694
Visa
46
1,2
285
3,5
420
6
Master
200
0,67
312
1,7
520
4
Visa Debit
-
-
-
-
138
100,5
(Nguồn: Tổ Thẻ EIB Cần Thơ.)
Qua bảng ta thấy tình hình phát hành và thanh toán thẻ ngày một tăng cả về số lượng thẻ lẫn doanh số. Năm 2003, thị trường thẻ còn trầm lắng do Ngân hàng chưa đầu tư vào công tác tiếp thị nên người dân chưa hiểu nhiều về tác dụng của thẻ cũng như ít chú ý đến chúng. Năm 2004 thì có dấu hiệu khả quan hơn, đặc biệt là Ngân hàng cho phát hành thẻ ATM và được sự hưởng ứng của người dân. Đi cùng với nền kinh tế trên đà tăng trưởng và đời sống người dân nâng cao, sự tiện ích và nhanh chóng luôn được chú trọng. Năm 2005 có thể nói là bước ngoặt của loại hình kinh doanh thẻ ở EIB Cần Thơ. Các loại thẻ quốc tế tăng mạnh, Visa phát hành 520 thẻ, doanh số thu được là 6 triệu đồng. Master có doanh số là 4 triệu đồng. Riêng Visa Debit vừa tham gia thị trưòng vào khoảng cuối năm 2005 đã được khách hàng ưa chuộng, tuy phát hành 138 thẻ nhưng doanh số là 100,5 triệu đồng. Nguyên nhân là do công tác tiếp thị của tổ thẻ tại chi nhánh tập trung vào các đối tượng có nhu cầu sử dụng như: các giảng viên Đại học Cần Thơ, bác sỹ, doanh nhân hay các du học sinh...
Với loại thẻ ATM cũng tăng rất nhanh. Năm 2005 phát hành 3.700 thẻ đạt 9.694 triệu đồng doanh thu. Lý do là trong năm các doanh nghiệp đã tham gia trả lương cho cán bộ công nhân viên qua tài khoản tại EIB Cần Thơ như: Công ty Meko, Coopmark Cần Thơ,…Một phần nữa là do chi nhánh không thu phí phát hành nên thu hút nhiều khách hàng tham gia.
2.1.2. Tiền gửi thanh toán có kỳ hạn.
Do nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế chỉ là tạm thời, là sự dự trữ để chờ cơ hội đầu tư nên các doanh nghiệp thường gửi tiền theo loại tiền gửi không kỳ hạn. Tỷ lệ tiền gửi thanh toán có kỳ hạn chiếm một phần rất nhỏ trong các loại tiền gửi. Nhìn vào bảng ta thấy tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng vẫn được khách hàng ưa chuộng hơn vì đây là thời gian vừa phải để khách hàng chọn thời hạn đầu tư hợp lý. Và loại này chủ yếu là tiền gửi của doanh nghiệp. Lượng tiền gửi có kỳ hạn năm 2003 là 349 triệu đồng. Sang năm 2004 thì có sự tăng trưởng mạnh mẽ, Ngân hàng đã huy động được 3.400 triệu đồng, tăng 847,2% so với năm 2003. Năm 2005, tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng đã giảm xuống đáng kể (còn 108 triệu, giảm 85,12 % so với năm 2004), tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng tăng 49,33%.
Nguyên nhân là tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động. Vụ kiện bán phá giá tôm và cá ba sa của Mỹ và EU đã làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản trong nước, mà đồng bằng sông Cửu Long là khu vực nuôi trồng và chế biến tôm lớn nhất Việt Nam. Thêm vào đó, đồng Dollar Mỹ (USD) cũng không ổn định làm cho việc kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp ngừng trệ. Để an toàn và chờ tình hình mới sáng sủa hơn, số lượng doanh nghiệp gửi tiền vào Ngân hàng tăng. Năm 2005 thì tình hình kinh tế diễn ra cũng phức tạp theo những chiều hướng mới, người dân lo sợ đồng tiền mất giá nên các khách hàng có tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ đã rút để mua vàng cất giữ.
Loại tiền gửi thanh toán có kỳ hạn ít được khách hàng quan tâm tới và có tỷ lệ tiền gửi thấp do lãi suất không hấp dẫn bằng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Mặc dù tăng qua các năm nhưng doanh số chưa cao, vì vậy Ngân hàng chú trọng hơn vào loại tiền gửi này bằng cách sử dụng những hình thức huy động vốn hấp dẫn hơn như khuyến mãi, tăng lãi suất.
2.2. Tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động, và cũng là loại tiền mà Ngân hàng dành nhiều “ưu ái” nhất. Đây là lượng tiền nhàn rỗi của dân chúng, các đơn vị kinh tế nhằm mục đích chính là hưởng phần lãi suất mà Ngân hàng trả cho khách hàng khi gửi tiền. Thời hạn càng cố định, thời gian càng dài thì lãi suất thu được càng cao, nên hầu hết khách hàng đều thích gửi tiền có kỳ hạn mà đặc biệt là loại tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng để phòng ngừa những rủi ro khách quan xảy ra. Nguyên nhân của sự chênh lệch đó là do các khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tạo ra nguồn vốn ổn định cho Ngân hàng hoạt động, còn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn thì ngược lại, nó sẽ làm nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng không ổn định vì khách hàng có thể rút tiền bất kỳ lúc nào họ cần. Vì vậy, để thu hút khách hàng gửi tiền có kỳ hạn, tạo tiền đề cho sự hoạt động của Ngân hàng thì đòi hỏi các Ngân hàng phải để lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp hơn tiền gửi có kỳ hạn.
Bảng 07: Tình hình tiền gửi tiết kiệm qua 3 năm (2003-2005)
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1.TG K KH
6.240
9,1
3.372
3,9
2.036
1,44
(2.868)
(46)
(1.336)
(39,6)
2.TG có KH
62.331
90,9
81.067
96,1
139.319
98,6
18.736
30,1
49.928
61,6
+TGKH<12t
42.136
58.016
103.560
15.880
37,7
45.544
78,5
+TGKH>12t
20.195
23.051
35.759
2.856
14,1
12.708
55,1
Tổng cộng
68.571
100
84.439
100
141.355
100
15.868
23,1
56.916
67,4
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
2.2.1. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Mục đích của khách hàng gửi tiền tiết kiệm không kỳ hạn là nhằm sinh lợi cho số tiền tạm thời nhàn rỗi. Xét về cơ cấu, loại tiền gửi này luôn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn. Qua 3 năm, phương thức huy động này giảm mạnh. Cụ thể năm 2003, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là 6.240 triệu đồng, chiếm 9,1% tổng tiền gửi tiết kiệm. Sang năm 2004 chỉ còn 3.372 triệu đồng chiếm 3,93 % và giảm 46% so với năm 2003. Đến năm 2005 thì lượng tiền gửi này còn 2.036 triệu đồng, giảm 39,6% so năm trước đó. Nguyên nhân là do loại tiền này mang lại cho khách hàng lãi không cao, nên nếu họ có vốn nhàn rỗi tạm thời thì họ gửi hình thức tiền gửi thanh toán không kỳ hạn như sử dụng thẻ để thuận tiện hơn trong việc rút tiền.
2.2.2. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn xác định thời gian hoàn trả cho khách hàng nên nó tạo ra nguồn vốn ổn định cho Ngân hàng, và Ngân hàng có thể chủ động đầu tư cho vay trung và dài hạn. Nắm được lợi thế của loại tiền gửi này, EIB Cần Thơ luôn dùng những hình thức huy động tốt nhất nhằm làm tăng nguồn vốn cho mình. Năm 2003, tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng là 42.136 triệu đồng, sang năm 2004 là 58.016 triệu đồng, tăng 15.880 triệu đồng tương đương 37,69%. Đến năm 2005 thì có sự tăng trưởng vượt bậc từ những nguyên nhân trên là 103.560 triệu đồng, tăng 78,5 so với năm 2004. Đối với loại tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng thì tuy không biến động mạnh như tiền gửi ngắn hạn nhưng chúng cũng tăng lên đáng kể. Năm 2004 tăng 2.856 triệu đồng. Năm 2005 tăng 12.708 triệu đồng, tương đương 55,13% so với năm 2004.
Để có những kết quả đó, các chương trình tiết kiệm có dự thưởng được Ngân hàng áp dụng liên tục, chủ yếu huy động các loại tiền gửi ngắn hạn (dưới 12 tháng) và đây cũng là loại tiền gửi mà khách hàng ưu chuộng nhất nhằm giảm rủi ro, nhất là khi khách hàng gửi tiền bằng ngoại tệ. Thêm vào đó, chi nhánh luôn theo sát diễn biến tình hình huy động vốn trên địa bàn, nhằm điều chỉnh mức lãi suất phù hợp, hấp dẫn, chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp. Hơn nữa, sự nhận thức về vai trò quan trọng của Ngân hàng ngày càng được người dân quan tâm và tiếp cận. Do vậy Ngân hàng đã thu hút ngày càng nhiều lượng nguồn vốn nhàn rỗi của dân chúng.
2.3. Tình hình phát hành giấy tờ có giá.
Trong các phương thức huy động vốn từ khách hàng thì giấy tờ có giá có số lượng tiền huy động thấp nhất. Điều này cũng dễ hiểu vì tính chất của các loại giấy tờ có giá là thường có lãi suất cao nhưng kỳ hạn dài, và chỉ được rút tiền khi đáo hạn, nên người dân không "mặn mà" lắm với loại tiền gửi này mà thích gửi tiền theo loại truyền thống là gửi tiết kiệm.
Bảng 08: Tình hình phát hành giấy tờ có giá qua 3 năm (2003-2005).
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Số tiền
%
Số tiền
%
Giấy tờ có giá
4.299
1.607
23.154
(3.232)
(75,18)
21.547
1340,8
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
Tình hình phát hành giấy tờ có giá của EIB biến động không ổn định. Năm 2003, vốn huy động từ lợi tiền gửi này là 4.299 triệu đồng, sang năm 2004 giảm xuống còn 1.607 triệu đồng, tức đã giảm đi 62,6%. Nguyên nhân là do tình hình kinh tế chính trị thế giới diễn biến khá phức tạp. Để đảm bảo an toàn, người dân đổ xô đi mua vàng hoặc nếu gửi tiền vào Ngân hàng thì chọn loại tiền gửi kỳ hạn ngắn hạn. Năm 2005, như đã phân tích ở những phần trên thì Ngân hàng đã dùng nhiều chính sách nhằm phát huy hiệu quả huy động vốn, nhưng mặc dù phát hành giấy tờ có giá tăng lên (23.154 triệu đồng, tương đương 1340,8% so với năm 2004) nhưng so với tổng nguồn vốn huy động, phương thức huy động này còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Vì giấy tờ có giá là công cụ để huy động tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn ổn định – do Ngân hàng phát hành ra nhằm mục đích kinh doanh trong từng thời kỳ nhất định, là nguồn vốn mà Ngân hàng có thể sử dụng cho hoạt động đầu tư, nên Ngân hàng cần chú trọng đến loại tiền gửi này, làm sao để cho người dân hiểu được tác dụng và tiện ích của giấy tờ có giá đem lại, và để huy động với số lượng tiền lớn hơn.
2.4. Vốn huy động từ các tổ chức tín dụng.
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu chuyển tiền dịch vụ, thanh toán liên hàng…Mỗi Ngân hàng phải có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, kho bạc Nhà nước và một số tổ chức tín dụng khác, nhằm để thực hiện các khoản thanh toán, chuyển tiền, chi trả (thông qua các dịch vụ chi hộ, thu hộ, uỷ nhiệm chi, sec…) cho khách hàng ở Ngân hàng khác. Đây cũng là khoản tiền gửi tạm thời của các Ngân hàng bạn khi phát sinh tình trạng thừa vốn, và nếu khách hàng cần vay thì số vốn này sẽ được điều chuyển về đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Bảng 09: Tình hình tiền gửi của các tổ chức tín dụng
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Số tiền
%
Số tiền
%
TG của TCTD
74
820
67
746
1008,1
(753)
(91,83)
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
Từ bảng số liệu qua 3 năm, ta thấy tình hình tiền gửi của các tổ chức tín dụng có sự biến động bất thường. Năm 2003 là 74 triệu đồng, sang năm 2004 là 820 triệu đồng, tăng 1008,1%. Năm 2005 là 67 triệu đồng, giảm 91,83% so với năm 2004. Nguyên nhân là do năm 2004 tình hình kinh tế chính trị thế giới và khu vực biến động khá phức tạp nên việc gửi tiền để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng ở các tổ chức tín dụng tăng. Năm 2005, mặc dù mối quan hệ của EIB Cần Thơ được mở rộng ra với các ngân hàng nhưng do số lượng doanh nghiệp mới thành lập cũng như mở rộng quy mô sản xuất ngày càng tăng nên họ cần vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh, và chính Ngân hàng là nơi cung cấp vốn lý tưởng cho họ. Kết quả là lượng tiền gửi của các TCTD năm 2005 chỉ khoảng 67 triệu đồng.
Nhận xét chung ta thấy lượng tiền gửi của các TCTD vào EIB Cần Thơ còn thấp. Vì việc huy động từ các tổ chức tín dụng có lãi suất cao hơn huy động từ dân chúng nên việc hạn chế loại tiền gửi này cũng là một điều tốt. Nhưng qua 3 năm thì số lượng TCTD có quan hệ tài khoản tại Ngân hàng là 6 Ngân hàng, thể hiện mối quan hệ với các ngân hàng bạn chưa nhiều. Vì vậy bên cạnh đầu tư phát triển các sản phẩm, dịch vụ thì mở rộng mối quan hệ với các khách hàng là các tổ chức tín dụng cũng vô cùng cần thiết. Đó là một trong những mục tiêu hướng tới sự phát triển bền vững của Ngân hàng.
3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình huy động vốn, giai đoạn 2003-2005.
3.1. Tỷ trọng của từng phương thức huy động trên Tổng vốn huy động.
Nguồn vốn huy động của Ngân hàng EIB Cần Thơ rất đa dạng, huy động từ nhiều nguồn khác nhau: từ các tổ chức kinh tế, từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư, từ việc phát hành giấy tờ có giá…Nhưng tóm lại, nguồn vốn huy động của Ngân hàng được phân ra thành huy động ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Cơ cấu vốn huy động thay đổi rất linh hoạt, nó phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của Ngân hàng trong từng thời kỳ nhất định. Qua phân tích ở chương 3 ta thấy nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán luôn chiếm tỷ trọng cao, còn vốn huy động từ các nguồn khác như huy động từ các TCTD, phát hành giấy tờ có giá,…không ổn định và chiếm tỷ lệ khá nhỏ.
Bảng 10 : Tỷ trọng của từng phương thức huy động trên tổng vốn
huy động
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1. TG thanh toán
26.734
26,82
36.403
29,53
50.271
23,4
+ TG không kỳ hạn
26.385
26,47
33.003
26,77
46.170
21,49
+TG có kỳ hạn
349
0,35
3.400
2,76
4.101
1,91
2. TG tiết kiệm
68.571
68,8
84.439
68,5
141.355
65,8
+ TG không kỳ hạn
6.240
6,26
3.372
2,74
2.036
0,95
+ TG có kỳ hạn
62.331
62,54
81.067
65,76
139.319
64,85
3. Phát hành GTCG
4.299
4,31
1.608
1,3
23.154
10,77
4. TG của TCTD
74
0,07
820
0,67
67
0,03
Tổng nguồn vốn HĐ
99.678
100
123.269
100
214.848
100
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
+ Tiền gửi tiết kiệm: Qua 3 năm, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm chiếm nhiều nhất trong tổng nguồn vốn huy động và có xu hướng tăng cao. Năm 2003, loại tiền gửi này huy động được 68.571 triệu đồng, chiếm 68,8% tổng vốn huy động. Sang năm 2004 tăng lên 84.439 triệu đồng nhưng chiếm 68,5% do tỷ trọng tiền gửi thanh toán tăng cao hơn. Năm 2005 là 141.355 triệu đồng. Trong đó tiền gửi có kỳ hạn chiếm tỷ lệ cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Nguyên nhân chủ yếu là đời sống của một số người dân ngày càng tăng, họ đã có “của ăn của để” cũng như ngày càng tin tưởng ở Ngân hàng với hàng loạt các chương trình tiết kiệm có dự thưởng hấp dẫn. Lựa chọn hình thức gửi tiết kiệm vào Ngân hàng là an toàn nhất. Tuy nhiên, dân chúng nhìn chung vẫn chưa quen lắm với hình thức tích luỹ tiền qua Ngân hàng. Ngân hàng cần đầu tư hơn nữa đến công tác tiếp thị, quảng bá Ngân hàng mình cũng như mở nhiều phòng giao dịch hơn để gần gũi với dân hơn.
Hình 02: Các phương thức huy động vốn.
+ Tiền gửi thanh toán: Tiền gửi thanh toán cũng là một thế mạnh của Ngân hàng. Tuy tỷ trọng không chiếm tỷ lệ cao như tiền gửi tiết kiệm nhưng nó lại hứa hẹn một tương lai rất sáng sủa vì số lượng doanh nghiệp giao dịch và gửi tiền dùng để thanh toán ngày càng cao. Bên cạnh đó số lượng khách hàng sử dụng thẻ thanh toán nội địa và thanh toán quốc tế cũng tăng mạnh. Số liệu qua 3 năm cho ta thấy tiền gửi thanh toán vẫn tăng đều đều và chiếm tỷ trọng cao dần so với tổng vốn huy động. Ngược lại với tiền gửi tiết kiệm thì tiền gửi thanh toán không kỳ hạn chiếm tỷ lệ cao hơn tiền gửi thanh toán có kỳ hạn. Năm 2003 tiền gửi thanh toán là 26.734 triệu đồng, chiếm 26,82% tổng vốn huy động. Năm 2004 là 36.403 triệu đồng, chiếm 26, 53%. Năm 2005 là 50.271 nhưng tỷ trọng chiếm 23,4% tổng nguồn vốn huy động. Nguyên nhân của sự giảm sụt này như đã phân tích, các chương trình tiết kiệm có dự thưởng ở phương thức tiền gửi tiết kiệm đã thu hút một số lượng lớn khách hàng nên tiền gửi thanh toán có tăng nhưng tỷ lệ thì giảm xuống.
+ Phát hành giấy tờ có giá: Để đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn thì Ngân hàng cần phải có một nguồn vốn có tính chất ổn định. Qua 3 năm tình hình phát hành giấy tờ có giá có sự biến động thất thường, tuy nhiên chúng chiếm lại tỷ lệ nhỏ trên vốn huy động. Năm 2003 chiếm 4,3%, năm 2004 chiếm còn 1,3%, sang năm 2005 chiếm 10,77%.
+ Tiền gửi của các tổ chức tín dụng: Tiền gửi của các tổ chức tín dụng thì chiếm 1 tỷ lệ rất nhỏ. Từ bảng cho thấy qua 3 năm phương thức huy đồng này đều chiếm dưới 1%.
Để đánh giá hiệu quả huy động vốn, các chỉ tiêu sau được sử dụng:
4. 2. Vốn huy động / tổng nguồn vốn.
Bảng 11: Tỷ trọng vốn huy động trên tổng nguồn vốn
.
Chỉ tiêu
ĐVT
2003
2004
2005
1. Vốn huy động
Tr. đg
99.678
123.269
214.848
2. Tổng nguồn vốn
Tr. đg
289.442
353.903
447.087
VHĐ/ Tổng NV
%
34,44
34,83
48,06
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Qua bảng ta nhận xét, tỷ trọng vốn huy động trên tổng nguồn vốn năm 2004 là 34,83%, chỉ tăng lên một lượng rất nhỏ so với năm 2003. Sang năm 2005 thì tỷ trọng này tăng khá cao, vốn huy động đã chiếm 48,06% trên tổng vốn. Đây là bước tăng trưởng khá nhanh của Ngân hàng. Tuy chưa đạt đến 50% nhưng với tốc độ tăng như thế sẽ hứa hẹn một một tương lai sáng sủa trong công tác huy động vốn. Phát huy những gì đang có, Ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác huy động, tăng cường quảng bá tiếp thị sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, giữ vững khách hàng cũ, lôi kéo khách hàng mới từ nền kinh tế để chủ động hơn trong việc sử dụng vốn.
4.3. Vốn điều chuyển/ tổng nguồn vốn.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ phụ thuộc của chi nhánh vào hội sở như thế nào. Đối với EIB Cần Thơ, tỷ lệ này chiếm khá cao trong tổng nguồn vốn.
Bảng 12: Tỷ trọng vốn điều chuyển trên tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu
ĐVT
2003
2004
2005
1. Vốn điều chuyển
Tr. đg
185.567
225.017
230.711
2. Tổng nguồn vốn
Tr. đg
289.442
353.903
447.087
Vốn ĐC/ Tổng NV
%
64,11
63,58
51,6
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Là một chi nhánh thì sự hỗ trợ nguồn vốn từ Ngân hàng Hội sở là không thể thiếu, nhưng sẽ tốt hơn cho chi nhánh nếu có thể tự cân đối nguồn vốn tại chỗ bằng cách tăng cường khả năng huy động vốn của mình. Như thế sẽ tạo cho Ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh, có thể cung cấp đầy đủ, kịp thời và nhanh chóng vốn cho Ngân hàng, nhất là khi có nhu cầu bổ sung những thiếu hụt của các cá nhân, doanh nghiệp đang có nhu cầu vốn ngày càng gia tăng. Mặt khác vốn từ Hội sở chuyển xuống thì Ngân hàng sẽ phải trả lãi suất cao hơn so với huy động tiền gửi từ nền kinh tế ít nhiều ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng.
Số liệu qua 3 năm cho thấy, vốn điều chuyển trên tổng nguồn vốn là 64,11%. Năm 2004 giảm xuống 63,58%, và đến năm 2005 vốn điều chuyển chiếm còn 51,6%. Sự sụt giảm này cần được duy trì trong những năm tiếp sau đồng thời vốn huy động từ khách hàng cần tăng lên. Ngân hàng cũng đã tăng cường nguồn vốn tại chỗ bằng nhiều hình thức nhưng nhu cầu vốn của người dân ngày càng tăng cao. Để đáp ứng kịp thời vốn cho dân chúng, ngoài việc huy động từ nền kinh tế tăng mạnh thì vốn điều chuyển cũng tăng lên, mặc dù tỷ trọng vốn này trên tổng nguồn vốn giảm dần. Nhìn chung đây là xu hướng tốt mà Ngân hàng cần phát huy để tăng lợi nhuận cho Ngân hàng đồng thời đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng.
4.4. Vốn huy động có kỳ hạn/ tổng nguồn vốn huy động.
Bảng 13: Tỷ trọng vốn huy động có kỳ hạn trên tổng nguồn
vốn huy động.
Chỉ tiêu
ĐVT
2003
2004
2005
1. Vốn HĐ có kỳ hạn
Tr. đg
66.979
86.074
166.574
2. Tổng vốn HĐ
Tr. đg
99.678
123.269
214.848
VHĐ có kỳ hạn/Tổng NV
%
67,2
69,83
75,53
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Chỉ tiêu này cho biết khả năng kiểm soát vốn huy động của Ngân hàng. Vì đối với vốn huy động có kỳ hạn, Ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh và sẽ giúp Ngân hàng điều tiết vốn một cách linh hoạt hơn.
Qua bảng ta thấy, vốn huy động có kỳ hạn tăng khá mạnh. Năm 2003 chiếm 67,2% tổng vốn huy động, năm 2004 là 69,83%, đến năm 2005 chiếm 75,53%. Đây là một tín hiệu khả quan đối với Ngân hàng vì với lượng vốn này càng tăng thì Ngân hàng có thể có kế hoạch đầu tư vào các dự án hay cho vay nhiều hơn, tạo lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy nhiên, bên cạnh huy động tiền gửi có kỳ hạn thì Ngân hàng cũng nên chú trọng hơn nữa đến các loại tiền gửi không kỳ hạn, tăng dần tỷ lệ tiền gửi này vì hiện tại và tương lai loại tiền này đang rất có tiềm năng. Vì những lợi ích từ việc thanh toán qua thẻ đem lại, số lượng người sử dụng thẻ đang ngày càng nâng cao, các doanh nghiệp cũng xem Ngân hàng là trung gian để thanh toán lương qua tài khoản cho nhân viên và thanh toán nhu cầu mua bán hàng hoá, dịch vụ. Đây là những nhu cầu đã bắt đầu phát triển và phổ biến ở khu vực và cả nước, Ngân hàng cần tranh thủ để chớp lấy nhưng cơ hội tốt này bằng những chương trình khuyến mãi và dịch vụ tốt nhất.
4.5. Vốn huy động trung dài hạn / Tổng nguồn vốn huy động
Bảng 14: Tỷ trọng vốn huy động trung dài hạn trên tổng vốn huy động.
Chỉ tiêu
ĐVT
2003
2004
2005
Vốn HĐ trung dài hạn
Tr. đg
24.494
27.332
62.906
Tổng Vốn HĐ
Tr. đg
99.678
123.269
214.848
Tỷ lệ
%
24,57
22,17
29,3
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Ngân hàng huy động vốn trung và dài hạn là nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng và đầu tư dài hạn. Nếu Ngân hàng huy động được nguồn vốn này nhiều, có nghĩa là việc cho vay khách hàng trong dài hạn tăng theo đó lưọi nhuận Ngân hàng cũng tăng theo.
Từ số liệu 3 năm thì tỷ lệ vốn trung và dài hạn trên tổng nguồn vốn đều chiếm dưới 30%, năm 2003 là 24,57%, năm 2004 giảm còn 22,17%, sang năm 2005 có tăng lên nhưng so với vốn huy động có kỳ hạn chung là 75,53% thì nó vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Nguyên nhân là do tâm lý khách hàng thường sợ rủi ro nên họ thường gửi tiền kỳ hạn dưới 12 tháng thì yên tâm hơn. Mặt khác các hình thức khuyến mãi, tiết kiệm có dự thưởng cũng được Ngân hàng chú trọng vào tiền gửi ngắn hạn. Nhìn chung thì tỷ lệ này qua các năm là chưa cao, Ngân hàng cần dùng nhiều chính sách hấp dẫn như nâng cao nữa lãi suất hay sử dụng những ưu đãi hơn trong việc cho vay đối với khách hàng có tiền gửi trung dài hạn thời gian qua.
4.6. Tỷ trọng vốn huy động của EIB Cần Thơ/ Tổng vốn huy động của các ngân hàng trên địa bàn
Bảng 15: Vốn HĐ của EIB Cần Thơ/ tổng vốn HĐ của các NH trên địa bàn.
Chỉ tiêu
ĐVT
2003
2004
2005
Vốn huy động của EIB
Tr. đg
99.678
123.269
214.848
VHĐ các NH trên địa bàn
Tr. đg
3.166.000
3.815.000
4.811.000
VHD của EIB/ VHĐ các NH trên địa bàn
%
3,15
3,23
4,47
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
Năm 2003, tỷ lệ này là 3,15%, năm 2004 là 3,23%. Sang năm 2005 đánh dấu một bước ngoặt mới, vốn huy động của EIB Cần Thơ đã chiếm 4,47% tổng vốn huy động của các ngân hàng trên địa bàn cộng lại, và chiếm 14% tổng vốn các ngân hàng TMCP tại địa bàn TP Cần Thơ.
Cùng hoạt động trên địa bàn TP Cần Thơ, cùng được hưởng những lợi thế như nhau từ chính sách, ưu đãi từ chính quyền Thành phố, Ngân hàng Nhà nước, cũng như chịu những bất lợi do điều kiện khách quan đem lại. Mỗi ngân hàng đều có thế mạnh riêng và hướng đi của mình để đối mặt với thử thách, khẳng định mình, từ đó phát huy hiệu quả kinh doanh. Trên 25 ngân hàng cùng chia nhau một cái bánh là người dân sống tại TP Cần Thơ - thị trường mà nền kinh tế còn phát triển tương đối chậm, đời sống người dân còn thấp, sự hiểu biết về Ngân hàng chưa nhiều, rồi những biến động thị trường mang lại là yếu tố rất khó khăn để các ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi,…. Đứng trước hoàn cảnh đó đòi hỏi mỗi Ngân hàng phải có sự tỉnh táo, tính thích ứng và tầm nhìn chiến lược mới có thể hoạt động hiệu quả được, và lúc đó mới có cơ hội làm phần bánh thị trường của mình lớn thêm. EIB Cần Thơ cũng đã đưa ra những kế hoạch cụ thể, và mọi chỉ tiêu đều được giao cho từng nhân viên. Huy động vốn được khẳng định là hoạt động khó nhưng Ngân hàng đã sử dụng những biện pháp hiệu quả do Hội sở giao cũng như Ngân hàng tự đặt ra cho mình để tăng nguồn vốn. Kết quả là khách hàng ngày càng muốn gửi gắm niềm tin của mình nơi Ngân hàng. Điều đó đã được thể hiện ở tỷ trọng vốn huy động của Ngân hàng so với các ngân hàng trên địa bàn tăng lên, và phần bánh của EIB Cần Thơ trên thị trường đang càng ngày càng to hơn. Phát huy những gì đang có và sau khi ra cơ sở mới, chắn chắn hiệu quả hoạt động kinh doanh của EIB Cần Thơ sẽ vươn lên một tầm mới, và tỷ trọng vốn huy động của Ngân hàng so với tổng vốn huy động của các ngân hàng trên địa bàn không dừng lại ở đó mà còn tăng lên cao hơn nữa.
Nhận xét chung:
Tình hình huy động vốn tại EIB Cần Thơ tương đối hiệu quả qua 3 năm (2003-2005). Ngân hàng đã luôn cố gắng hạn chế điểm yếu, tận dụng điểm mạnh và nắm bắt được những cơ hội để phát huy hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài việc sử dụng những những hình thức huy động hấp dẫn để thu hút khách hàng thì Ngân hàng luôn quan tâm đến phong cách phục vụ, đảm bảo chất lượng dịch vụ nhằm tạo niềm tin và sự tiện lợi cho khách hàng khi gửi tiền và rút tiền. Ta thấy Ngân hàng huy động vốn chủ yếu qua loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn mà đặc biệt kỳ hạn dưới 12 tháng, với các chương trình tiết kiệm có dự thưởng, khuyến mãi, nhưng lại còn hạn chế trong phát hành giấy tờ có giá và huy động từ các tổ chức tín dụng. Phát hành giấy tờ có giá là nguồn vốn trung dài hạn khá ổn định giúp cho Ngân hàng yên tâm đầu tư và cho vay dài hạn, nên Ngân hàng cần quảng bá những lợi ích của loại tiền gửi này cụ thể đến khách hàng nhằm thu hút số lượng khách hàng gửi tiền nhiều hơn. Đồng thời, Ngân hàng cần quan tâm mở rộng quan hệ với các tổ chức tín dụng để thuận tiện trong việc thanh toán của khách hàng.
Vốn huy động tăng thể hiện tinh thần tự chủ của Ngân hàng cao, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng tăng. Điều đó góp phần làm tăng nguồn vốn, là cơ sở để Ngân hàng mở rộng các hình thức đầu tư kinh doanh mới. Trong hiện tại và tương lai, có rất nhiều kênh, nhiều hình thức hấp dẫn để người dân có thể đầu tư vốn để mang lại lợi nhuận cao hơn cộng với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng, Chi nhánh cần tăng cường quảng bá thương hiệu, sử dụng biểu lãi suất hấp dẫn linh hoạt cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút khách hàng nhiều hơn.
II. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN, GIAI ĐOẠN 2003-2005.
Cùng với sự gia tăng về nguồn vốn thì qui mô và chất lượng tín dụng cũng có xu hướng gia tăng đáng kể. Nghiệp vụ tín dụng là hoạt động chính, là nguồn thu nhập chủ yếu của Ngân hàng. Tình hình sử dụng vốn của EIB Cần Thơ được thể hiện cụ thể qua bảng sau:
1. Phân tích chung tình hình sử dụng vốn.
Bảng 16: Tổng hợp tình hình sử dụng vốn qua 3 năm 2003-2005.
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Số tiền
%
Số tiền
%
D.số CV
897.125
948.153
1.147.338
51.028
5,68
199.185
21
D.số thu nợ
829.825
874.050
1.058.817
44.225
5,3
184.767
21,1
Dư nợ CV
263.700
337.803
426.324
74.103
28
88.521
26,2
Nợ quá hạn
12.379
8.785
5.449
(3.594)
(29)
(3.336)
(37,9)
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ).
Với phương châm kinh doanh “Thành công của khách hàng là hiệu quả hoạt động của EIB Cần Thơ”, Ngân hàng đã tạo có những bước tiến rất lớn trong công tác sử dụng vốn.
+ Doanh số cho vay: Do tình hình tăng trưởng kinh tế của cả nước cũng như trên địa bàn ngày càng cao, doanh số cho vay tăng lên, năm 2003 đạt 897.125 triệu đồng, năm 2004 là 912.153 triệu đồng, tăng 51.028 triệu đồng, tương ứng 5,68% so với năm 2003, sang năm 2005 tăng lên 1.147.338 triệu đồng, tương ứng 21% so với năm 2004.
+ Doanh số thu nợ: Doanh số thu nợ cũng không ngừng tăng lên. Năm 2003 là 829.825 triệu đồng, năm 2004 là 874.050 triệu, tăng 5,3% so với năm 2003. Đến năm 2005, doanh số thu nợ tăng rất cao, là 1.058.817 triệu đồng, tăng 21,1% so với năm 2004.
+ Dư nợ: Doanh số cho vay tăng nên dư nợ của Ngân hàng gia tăng theo, năm 2003 là 263.700 triệu đồng, năm 2004 là 337.803 triệu, tăng 28%, sang năm 2005 tăng lên 426.324 triệu, tức tăng 88.521 triệu đồng tương đương 26,1%.
+ Nợ quá hạn: Trong khi dư nợ tăng thì dư nợ quá hạn ngày càng giảm. Đây là chiều hướng rất tốt mà Ngân hàng cần phát huy hơn nữa. Cụ thể năm 2003 là 12.379 triệu đồng, năm 2004 là 8.785 triệu đồng, đến năm 2005 giảm còn 5.449 triệu đồng.
Nguyên nhân là trước đây, Ngân hàng chỉ tập trung cho vay những món tiền lớn thì nay các hộ kinh doanh cá thể cũng có quyền được vay những món tiền mà mình cần dù so với các doanh nghiệp lớn thì không là bao, nhưng rủi ro được phân tán ra và giúp các nhân viên tín dụng dễ kiểm soát hơn. Cũng trong giai đoạn này, EIB Cần Thơ tiến hành áp dụng hệ thống ngân hàng bán lẻ với mục đích giảm thiểu rủi ro đồng thời khách hàng có thể vay nơi này nhưng có thể trả tiền ở nơi khác, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng …
Có được kết quả như trên còn là nhờ sự nỗ lực không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên Ngân hàng, đặc biệt là ban quản lý của Ngân hàng về sử dụng vốn sao cho hiệu quả.
2. Phân tích hoạt động tín dụng theo thời hạn.
2.1. Doanh số cho vay.
Hoạt động tín dụng là hình thức đầu tư chủ yếu của EIB Cần Thơ. Nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng. Ngân hàng cung cấp tín dụng dung để bù đắp vốn tạm thời thiếu hụt của các hộ sản xuất kinh doanh, đáp ứng vốn cho việc thành lập doanh nghiệp mới, mở rộng qui mô sản xuất … đồng thời đáp ứng nhu cầu cho tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân trên địa bàn. Cùng với sự phát triển kinh tế trong những năm gần đây của thành phố, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng cũng được nâng cao lên.
Bảng 17: Tình hình doanh số cho vay theo thời hạn, giai đoạn 2003-2005.
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Ngắn hạn
849.837
94,73
896.523
97,7
1.092.690
95,2
46.686
5,5
196.167
21,89
Trung hạn
47.288
5,27
51.630
2,3
54.648
4,8
4.342
9,1
3.018
5,85
Tổng cộng
897.125
100
948.153
100
1.147.338
100
24.028
2,68
226.185
24,55
(Nguồn: Phòng Kế toán EIB Cần Thơ.)
Qua bảng ta thấy nhu cầu cho vay vốn của Ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn (chiếm trên 94%). Điều này cũng dễ hiểu vì Ngân hàng và khách hàng luôn cẩn trọng trước những biến động khá phức tạp của thị trường, nhưng chiến lược lâu dài thì Ngân hàng cần tăng vốn cho vay dài hạn.
+ Cho vay ngắn hạn: Qua các năm, doanh số cho vay ngắn hạn tăng lên. Năm 2003 là 849.837 triệu đồng, năm 2004 là 896.523 triệu đồng, tăng 46.686 triệu, tương đương 5,5%, sang năm 2005 là 1.092.690 triệu đồng, tăng 21,89% với số tiền tăng là 196.167 triệu đồng. Nguyên nhân là do lãi suất ngắn hạn của Ngân hàng khá hấp dẫn, đồng thời Ngân hàng cho vay ngắn hạn để quay đồng vốn nhanh hơn. Trong những năm gần đây, tình hình xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp ở Cần Thơ cũng có những chuyển biến khởi sắc mới, đặc biệt là lĩnh vực chế biến thuỷ hải sản và các mặt hàng nông sản, nên việc tài trợ việc xuất nhập khẩu của Ngân hàng cho các doanh nghiệp cũng tăng lên.
+ Cho vay trung dài hạn: Đối với cho vay trung hạn thì có xu hướng giảm dần. Năm 2003, Ngân hàng cho vay 47.288 triệu đồng tương đương chiếm 5,27% tổng doanh số cho vay cả năm, sang năm 2004 thì đạt được 51.630 triệu đồng, tỷ trọng cũng giảm dần, chiếm 2,3% so với năm 2003. Đến năm 2005 đạt 54.648 triệu, tăng so với 2004 là 3.018 triệu đồng, tức là 5,85% với tỷ trọng là 4,8% trên tổng vốn cho vay. Ta thấy Ngân hàng chưa thật quan tâm đến cho vay trung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quantri32quantri34.co.cc.DOC