Đề tài Phân tích hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

Tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam: Trường đại học ngoại thương hà nội Khoa kinh tế ngoại thương u khóa luận tốt nghiệp hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : ThS. Đặng Thị Nhàn Sinh viên thực hiện : Trần Hoài Thu Lớp : Nhật 3 - K38F Hà nội, tháng 12 năm 2003 Mục lục Lời nói đầu Chương I. Khái quát chung về quỹ đầu tư chứng khoán Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán Sự hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư Khái niệm Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán 3.1. Căn cứ vào cách thức huy động vốn 3.2. Căn cứ vào mục đích đầu tư 3.3. Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ 3.4. Một số loại quỹ khác Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán 4.1. Đối với nền kinh tế 4.2. Đối với thị trường chứng khoán 4.3. Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư Mô hình tổ chức hoạt động Quỹ đầu tư chứng khoán 5.1. Mô hình công ty 5.2. Mô hình tín thác 5.3. Ưu nhược điểm của mô hình công ty và mô hình tín thác Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán 6.1. Nguyên tắc...

doc95 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1111 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường đại học ngoại thương hà nội Khoa kinh tế ngoại thương u khóa luận tốt nghiệp hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : ThS. Đặng Thị Nhàn Sinh viên thực hiện : Trần Hoài Thu Lớp : Nhật 3 - K38F Hà nội, tháng 12 năm 2003 Mục lục Lời nói đầu Chương I. Khái quát chung về quỹ đầu tư chứng khoán Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán Sự hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư Khái niệm Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán 3.1. Căn cứ vào cách thức huy động vốn 3.2. Căn cứ vào mục đích đầu tư 3.3. Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ 3.4. Một số loại quỹ khác Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán 4.1. Đối với nền kinh tế 4.2. Đối với thị trường chứng khoán 4.3. Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư Mô hình tổ chức hoạt động Quỹ đầu tư chứng khoán 5.1. Mô hình công ty 5.2. Mô hình tín thác 5.3. Ưu nhược điểm của mô hình công ty và mô hình tín thác Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán 6.1. Nguyên tắc huy động vốn 6.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ 6.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ 6.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư 6.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ Một số tiêu chuẩn đánh giá kết quả kinh doanh của Quỹ đầu tư chứng khoán Kinh nghiệm hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ở một số nước Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường phát triển Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường mới nổi Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan Chương II. Hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam I. Sự cần thiết của việc hình thành các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam II. Quỹ đầu tư theo quy chế của Việt Nam III. Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam IV. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam 1. Vietnam Fund 2. Beta Vietnam Fund 3. Vietnam Frontier Fund 4. Vietnam Enterprise Investments Ltd 5. Mekong Enterprise Fund 6. Vietnam Opportunities Fund 7. VietFund Chương III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam I. Mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam 1. Những khó khăn trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam Những thuận lợi trong việc hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán Về phía Nhà nước Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ đầu tư Thu hút đầu tư gián tiếp Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của Quỹ đầu tư. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp tăng cung kích cầu Nhà nước đặt định hướng phát triển chung cho các Quỹ đầu tư Về phía các Quỹ đầu tư Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư chuyên nghiệp Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng Chiến lược đầu tư thích hợp kết luận Lời mở đầu Trước những biến động bất thường về giá cổ phiếu, nhiều ý kiến cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam chưa có các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp đứng ra làm định hướng trong hoạt động đầu tư. Một trong các nhà đầu tư có tổ chức mang tính chuyên nghiệp cao đó là Quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng khoán tham gia thị trường với hai tư cách: tư cách là tổ chức phát hành, phát hành ra các chứng chỉ quỹ đầu tư để thu hút vốn và tư cách là tổ chức đầu tư dùng tiền thu hút được để đầu tư chứng khoán. Trên thế giới hiện nay có khoảng hàng chục nghìn Quỹ đầu tư đang hoạt động cung cấp cho các nhà đầu tư. Nhờ đó mà tỷ trọng tham gia thị trường chứng khoán của các quỹ ngày càng tăng so với nhà đầu tư cá nhân. Quỹ đầu tư chứng khoán đã thực sự trở thành một định chế tài chính trung gian ưu việt trên thị trường chứng khoán, làm cho thị trường phát triển, nhất là trong giai đoạn đầu hình thành vì sự có mặt của nó sẽ tạo cho công chúng thói quen đầu tư. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để thu hút rộng rãi công chúng tham gia đầu tư, tăng quy mô vốn thị trường thông qua tạo lập các Quỹ đầu tư chứng khoán là rất cần thiết. Xuất phát từ các lợi ích mà Quỹ đầu tư chứng khoán mang lại cho các nhà đầu tư công chúng, việc nghiên cứu để có những chính sách, biện pháp thúc đẩy loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam sẽ góp phần thiết thực tìm ra các giải pháp trên. Sự phát triển của loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai để thị trường chứng khoán Việt Nam phát huy được vai trò thực sự trong việc chuyển tiết kiệm trong nền kinh tế thành đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Quỹ đầu tư chứng khoán là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ đối với người dân Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu và đề ra những biện pháp thúc đẩy sự ra đời của Quỹ đầu tư để có thể vận dụng vào thực tiễn là rất cần thiết. Chính vì vậy, em chọn đề tài “Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp. Kết cấu khoá luận gồm ba phần: Chương I. Khái quát chung về Quỹ đầu tư chứng khoán Chương II. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam Chương III. Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam Với một thời gian có hạn và nguồn tài liệu còn hạn chế nên khoá luận chưa thể đề cập tới được mọi khía cạnh liên quan tới Quỹ đầu tư chứng khoán, rất mong được sự nhận xét, góp ý của các thầy cô và các bạn quan tâm tới lĩnh vực đầy mới mẻ này. Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới THS. Đặng Thị Nhàn đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình thực hiện khoá luận. Đồng thời em cũng chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô ở trường ĐH Ngoại Thương đã trang bị kiến thức vững chắc để giúp em có thể nghiên cứu, hoàn thành khoá luận này. Hà Nội tháng 12 năm 2003 Chương I Khái quát chung về quỹ đầu tư chứng khoán I. Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán Sự hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư Xuất hiện lần đầu tại Châu Âu vào thế kỷ 19, loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán đã thu hút được sự tham gia đông đảo của công chúng và đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được. Các Quỹ đầu tư ban đầu được thành lập theo kiểu Quỹ tín thác đầu tư (Investment Trust). Quỹ tín thác đầu tiên do vua William I của Hà Lan thành lập tại Brussels – Bỉ. Quỹ này được lập ra để tạo điều kiện cho Hà Lan có thể đưa tiền đầu tư ra nước ngoài dưới dạng các khoản vay của chính phủ. Tuy nhiên, phải đến khi cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ ở Anh thì các Quỹ đầu tư mới thực sự phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp này đã đưa nước Anh thành một quốc gia thịnh vượng nhất Châu Âu, sở hữu những nguồn vốn lớn. Trong khi đó, các nước láng giềng ở Châu Âu hay Mỹ thì lại đang thiếu vốn trầm trọng. Vì vậy, các nước thiếu vốn đã phát hành rất nhiều công cụ nợ với lãi suất hấp dẫn nhằm thu hút vốn cho quá trình đầu tư ra nước ngoài, nhưng việc đầu tư này thường gặp phải những khó khăn do không tiếp cận được những thông tin cần thiết và thiếu những hiểu biết về môi trường đầu tư nước ngoài. Trước tình hình đó, một số nhà đầu tư đã lập ra Quỹ đầu tư hải ngoại và thuê những chuyên gia hiểu biết về đầu tư nước ngoài đứng ra quản lý. Đây chính là tiền thân của các Quỹ đầu tư phổ biến trên thị trường tài chính hiện nay. Vào những năm đầu của thập kỷ 60 thế kỷ 18, các công ty tín thác tương tự như của Hà Lan được lập ra ở Anh và Scotland. Hiệp hội tài chính London (London Financial Association) và Tập đoàn tài chính quốc tế (International Financial Society) thành lập năm 1863 được coi là những công ty tín thác đầu tiên của Anh. Các thương nhân Anh và Scotland ngày đó muốn tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn nên đã đem các khoản tiền đầu tư của họ ra nước ngoài và đặc biệt là đầu tư vào các chứng khoán của Mỹ với tỷ suất lợi nhuận cao. Từ năm 1900 đến 1914, một lượng tiền khổng lồ từ các nhà đầu tư Anh đã đổ vào Mỹ đặc biệt trong lĩnh vực đường sắt, năng lượng. Quỹ đầu tư chứng khoán ngành đường sắt và năng lượng (The Railway and Light Securities Fund) là quỹ đóng đầu tiên của Mỹ áp dụng các quỹ cho vay làm đòn bẩy để thâu tóm chứng khoán đã ra đời năm 1904. Vào những năm 1920, mô hình công ty tín thác đầu tư bùng nổ ở Mỹ đáp ứng sở thích đầu cơ của các nhà đầu tư. Thế nhưng, cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933 đã làm ảnh hưởng nặng nề tới các Quỹ đầu tư. Chỉ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, các Quỹ đầu tư mới bắt đầu được khôi phục và phát triển trở thành một định chế trung gian ưu việt như hiện nay. Điều này một phần là nhờ hệ thống luật định làm khuôn khổ pháp lý cho sự hoạt động của các quỹ ngày càng được hoàn thiện. Tại Mỹ, hai dự luật làm cơ sở căn bản nhất cho hoạt động chứng khoán là Luật Chứng khoán (The Securities Act, 1933) và Luật về Sở giao dịch chứng khoán (The Securities Exchange Act, 1934). Cũng từ năm 1934, Uỷ ban chứng khoán của Mỹ (SEC) bắt đầu nghiên cứu những bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc Đại suy thoái, soạn thảo và cho ra đời Luật Công ty đầu tư (Investment Company Act, 1940). Phần lớn các Quỹ đầu tư bắt đầu ra đời hoặc được tái lập sau năm 1940 để đáp ứng các quy định của đạo luật này. Đến năm 1995, luật này lại được sửa đổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo an toàn hơn nữa cho người đầu tư đồng thời cho phép các quỹ được áp dụng các nghiệp vụ đầu tư mới nhất. Hiện Mỹ đang chiếm tới 59% tổng số quỹ tương hỗ, 32% tại Châu Âu, vùng Châu á Thái Bình Dương và Châu Phi chỉ chiếm 9%. Đến quý 2 năm 2003, tổng số vốn của các Quỹ tương hỗ là 12.360 tỷ USD, tăng 10,3% so với quý trước ) Nguồn: Mutual Fund Fact Book 2003. ). ở Châu á, ngay từ năm 1937 ở Nhật Bản đã xuất hiện một số quỹ tương tự như Quỹ đầu tư. Đây là một tổ chức do một số nhà đầu tư thành lập nên để lợi dụng các dịch vụ đầu tư do công ty chứng khoán cung cấp. Đây chính là mầm mống cho sự ra đời các Quỹ đầu tư về sau của Nhật. Tại Nhật Bản, Luật tín thác (Trust Law) và Luật kinh doanh tín thác (Trust Business Law) là các bộ luật điều chỉnh hoạt động của các Quỹ đầu tư. Không chỉ ở các nước có nền tài chính phát triển như Anh, Mỹ…, mô hình Quỹ đầu tư còn giữ một vị trí quan trọng trên các thị trường chứng khoán mới nổi. Việc thành lập các Quỹ đầu tư ở thị trường này bắt nguồn từ nhu cầu của những nền kinh tế còn yếu kém nhiều mặt, đòi hỏi phải cải thiện khả năng thanh toán và trợ giúp cơ sở hạ tầng phát triển. Nói tóm lại, hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển không ngừng, mở rộng trên tất cả các thị trường chứng khoán thế giới. Nắm trong tay một lượng vốn khổng lồ, các Quỹ đầu tư ngày càng chứng tỏ vai trò của mình – một định chế tài chính trung gian quan trọng đáp ứng nhu cầu của người đầu tư và người nhận đầu tư cũng như của cả nền kinh tế. Khái niệm Quỹ đầu tư chứng khoán Khi bắt đầu tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán, một trong những khó khăn lớn nhất mà người đầu tư phải vượt qua đó là việc lựa chọn chứng khoán để đầu tư. Việc này được sự trợ giúp bởi các nhà môi giới (Broker) hoặc kinh doanh chứng khoán (Dealer). Tuy nhiên, dù được thông tin và tư vấn đến đâu chăng nữa, nhà đầu tư vẫn được xem như là người quyết định cuối cùng, và do đó hiệu quả đầu tư của họ xét cho cùng lệ thuộc vào các điều kiện và phẩm chất cá nhân. Thị trường chứng khoán lại tập hợp rất nhiều các sản phẩm đa ngành, thế nên cho dù người đầu tư có tập trung vào một lĩnh vực nào thì cũng không làm sao nắm vững hết các chiều hướng chuyển biến một cách ngọn ngành được. Chính vì vậy, nhiều người đầu tư đã lựa chọn cho mình một phương tiện để thực hiện đầu tư tốt nhất vào thị trường chứng khoán đó là Quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư chứng khoán là một định chế tài chính trung gian, tập hợp các nhà đầu tư riêng lẻ cùng đóng góp vốn vào quỹ chung, quỹ này sẽ được các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp đại diện cho các nhà đầu tư sử dụng để đầu tư vào chứng khoán theo chính sách đầu tư của quỹ. Việt Nam, theo khoản 19 điều 3 Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư uỷ thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào chứng khoán. Một nét đặc trưng tạo nên sự khác biệt giữa quỹ với các tổ chức khác tham gia vào thị trường chứng khoán là: quỹ vừa là một tổ chức phát hành chứng khoán lại vừa là một tổ chức kinh doanh chứng khoán. Qua việc phát hành cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ đầu tư, quỹ thu được một khối lượng tiền khá lớn, sau đó chúng sẽ được quỹ sử dụng đầu tư vào các loại chứng khoán. Lợi nhuận thu được từ việc đầu tư sẽ được phân chia cho các nhà đầu tư mua cổ phần của quỹ. Nói chung, quỹ chủ yếu thu lợi từ hoạt động đầu tư chứ không nhằm thu lãi hàng tháng. Các Quỹ đầu tư thường ít tham gia điều hành hoạt động của các doanh nghiệp nhận vốn đầu tư từ quỹ. Các bên tham gia hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán là công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và người đầu tư. Công ty quản lý quỹ là một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao về đầu tư chứng khoán, thực hiện việc quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát thực hiện việc bảo quản, lưu ký tài sản của Quỹ đầu tư chứng khoán và giám sát công ty quản lý quỹ trong việc bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Người đầu tư góp vốn vào Quỹ đầu tư và được hưởng lợi từ việc đầu tư của quỹ. 3. Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán 3.1. Căn cứ vào cách thức huy động vốn - Quỹ đầu tư chứng khoán đóng - Quỹ đầu tư chứng khoán mở Quỹ đóng và Quỹ mở là hai loại Quỹ đầu tư điển hình và phổ biến nhất hiện nay. Chúng còn được gọi dưới một cái tên chung là Quỹ đầu tư chuyên nghiệp (Management Fund). Người ta gọi là Quỹ đầu tư chuyên nghiệp bởi vì công việc đầu tư loại này được quản lý chuyên nghiệp theo một danh mục gồm những chứng khoán phù hợp với mục tiêu đã quy định trong các văn bản thành lập. 3.1.1. Quỹ đầu tư chứng khoán đóng (Closed-end Fund) Quỹ đóng là Quỹ đầu tư chứng khoán trong đó người đầu tư không được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ trước thời hạn kết thúc hoạt động hay giải thể. Cơ cấu vốn trong Quỹ đóng được xem là ổn định. Ngoại trừ các đợt phát hành huy động vốn tập trung, các quỹ không phát hành thêm cổ phần và cũng không thu lại cổ phần đã phát hành. Các cổ phần sau khi phát hành sẽ được mua đi bán lại trên các thị trường thứ cấp, có thể là tại sàn giao dịch hoặc trên thị trường không tập trung OTC. Do đó mà nó có thể được tính thêm tiền hoa hồng hay một khoản kê giá lên. Giá thị trường của các cổ phần Quỹ đóng sẽ giao động tuỳ thuộc vào tình hình hoạt động của quỹ, cung cầu trên thị trường như các loại chứng khoán thông thường khác, hơn là trực tiếp liên hệ với giá trị thuần. Các cổ đông không thể rút vốn góp ra khỏi Quỹ đầu tư và quỹ không có nghĩa vụ phải mua lại các cổ phiếu mà quỹ phát hành ra. Muốn rút vốn, các cổ đông đem bán cổ phiếu đó ra thị trường chứng khoán theo giá thị trường hoặc theo giá thoả thuận. Cổ phiếu của quỹ được giao dịch trên thị trường thứ cấp nên lượng tiền mặt của Quỹ đóng không bị tác động hàng ngày khi có những hoạt động rút vốn hay bán lại cổ phần. 3.1.2. Quỹ đầu tư chứng khoán mở (Opened-end Fund) Quỹ mở được gọi phổ biến là Quỹ tương hỗ (Mutual Fund). Đây là quỹ được phép phát hành liên tục các cổ phần mới để tăng vốn, đồng thời sẵn sàng thu hồi lại các cổ phần đã phát hành mà nhà đầu tư bán lại cho quỹ bất cứ lúc nào theo giá trị tài sản ròng chứ không theo giá thị trường trong một thời hạn luật định. Cơ cấu vốn của Quỹ tương hỗ được để mở, và được gia tăng lượng vốn đầu tư thu nhận từ các cổ đông mới không giới hạn, vì vậy mà người ta gọi đây là Quỹ mở. Các cổ phần sở hữu Quỹ mở do tính chất của chúng được gọi là chứng khoán khả hoàn. Cũng do tính chất như vậy, lượng tiền trong quỹ phục vụ cho hoạt động đầu tư sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nếu các nhà đầu tư rút vốn đồng loạt dưới sự tác động của các yếu tố trên thị trường. Điều này có thể ảnh hưởng tới chiến lược đầu tư của quỹ. Mặt khác, cũng do tính chất đó mà nhiều quỹ sau một thời gian phát triển có cơ cấu vốn tăng lên rất lớn làm cho quỹ dễ đánh mất lợi thế đầu tư của mình trong nhiều trường hợp. Đây chính là lý do để Quỹ tương hỗ phiên bản ra đời. Quỹ phiên bản (Clone Fund) là một Quỹ tương hỗ xuất phát từ một Quỹ tương hỗ khác. Quỹ tương hỗ khác đó chính là quỹ mẹ, đã tăng trưởng với quy mô vốn phình ra, làm cho tầm quản lý và đầu tư bị hạn chế. Nhiều nhà chuyên môn tài chính cho rằng sự ra đời của Quỹ phiên bản trở nên cần thiết một khi đã có sự quá tải về khả năng bao quát của Quỹ tương hỗ mẹ và cũng để tận dụng các lợi thế của bản thân Quỹ phiên bản con đang được tổ chức gọn nhẹ hơn. Khi Quỹ mở đã phát triển quá độ, người ta có thể không thành lập một Quỹ phiên bản mà thay vào đó, họ sẽ quyết định đóng lại. Đây không phải là đóng hẳn mà chỉ là khép bớt lại hoạt động của mình. Thuật ngữ gọi đây là Quỹ khép (Closed Fund). Quỹ khép là Quỹ tương hỗ đã phát triển quá lớn, không còn phát hành chứng chỉ đầu tư cho những người mới muốn tham gia vào quỹ, tuy nhiên nó cũng có thể tiếp tục bán cho những cổ đông hiện hữu. 3.1.3. Sự khác nhau giữa Quỹ đóng và Quỹ mở Sự khác nhau giữa Quỹ đóng và Quỹ mở tác động tới hoạt động của các nhà tư vấn đầu tư, cơ hội của những nhà đầu tư cá nhân để giảm thiểu rủi ro, gia tăng lợi nhuận và những chi phí mà họ phải chịu khi đầu tư vào các quỹ. Sự khác biệt được thể hiện ở một số điểm chính sau đây : + Việc mua và bán cổ phiếu ngân quỹ : Quỹ mở có số lượng chứng khoán lưu hành luôn thay đổi. Nó được quyền mua lại chứng chỉ quỹ của chính mình khi cần giảm số lượng chứng chỉ đang lưu hành trên thị trường và bán chứng chỉ quỹ của mình bằng cách bán lại chứng chỉ ngân quỹ đã mua hoặc phát hành thêm chứng chỉ mới. Khác với Quỹ mở, Quỹ đóng chỉ được chào bán cho công chúng một lần nên số lượng chứng khoán lưu hành là cố định. Quỹ đóng cũng không mua lại chứng chỉ quỹ của mình mà nhà đầu tư phải bán lại cho nhà đầu tư khác. Và nếu nhà đầu tư muốn mua chứng chỉ Quỹ đóng thì chỉ được mua từ nhà đầu tư khác. + Giá cả mua bán chứng chỉ quỹ : Đối với Quỹ đóng, giá mua bán chứng chỉ quỹ là giá thị trường được xác định bởi cung cầu trên thị trường là chủ yếu. Đối với Quỹ mở, giá mua bán chứng chỉ quỹ được công ty quản lý quỹ xác định là giá trị tài sản ròng tại thời điểm đóng cửa của ngày giao dịch (hoặc từng giờ giao dịch). + Các phí phải trả cho việc mua bán, quản lý điều hành hoạt động của quỹ : Nhà đầu tư phải trả phí môi giới mua bán cổ phiếu cho nhà môi giới và phí điều hành hoạt động của quỹ cho công ty quản lý quỹ nếu đó là Quỹ đóng. Đối với Quỹ mở, nhà đầu tư có thể phải hoặc không trả phí môi giới mua bán chứng chỉ quỹ tuỳ hình thức quỹ là Quỹ thu phí (Load Mutual Fund) hay Quỹ không thu phí (No-load Mutual Fund). Ngoài ra, nhà đầu tư trả cho công ty quản lý quỹ phí điều hành và quản trị quỹ. 3.2. Căn cứ vào mục đích đầu tư Các quỹ thường được thành lập với các mục tiêu cụ thể tương ứng với một trong ba mục tiêu cơ bản sau: - Thu nhập hiện tại - Thu nhập ở một mức nào đó và sự tăng trưởng - Tăng trưởng trong tương lai 3.2.1. Quỹ thu nhập (Income Fund) Để có được thu nhập ổn định quỹ dành phần lớn vốn để đầu tư vào trái phiếu và vào cổ phiếu ưu đãi là những công cụ đầu tư có thu nhập thường xuyên ổn định. 3.2.2. Quỹ tăng trưởng-thu nhập (Growth-income Fund) Quỹ này đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu thường có giá cao đồng thời có mức cổ tức ổn định. Loại quỹ này muốn kết hợp cả hai yếu tố tăng vốn trong dài hạn và dòng thu nhập ổn định trong ngắn hạn. 3.2.3. Quỹ tăng trưởng (Growth Fund) Quỹ đầu tư vào cổ phiếu của các công ty kinh doanh thành đạt. Mục tiêu chính là tăng giá trị của các khoản đầu tư chứ không nhằm vào dòng cổ tức thu được. Người đầu tư vào các quỹ này quan tâm đến việc giá cổ phiếu tăng lên hơn là khoản thu nhập từ cổ tức. 3.3. Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ Quỹ đầu tư chứng khoán không bắt buộc phải đầu tư toàn bộ vào chứng khoán mà có thể đầu tư vào bất động sản hoặc các tài sản có giá trị như vàng, kim loại quý. Tuy nhiên chứng khoán vẫn phải chiếm một tỷ lệ phần trăm nhất định. Căn cứ vào tỷ lệ chứng khoán ta có : 3.3.1. Quỹ đầu tư cổ phiếu Phần lớn tài sản quỹ đầu tư là cổ phiếu. Tuy nhiên việc đầu tư vào cổ phiếu thường được giới hạn trong một tỷ lệ phần trăm nhất định, phần còn lại sẽ đầu tư vào những lĩnh vực an toàn hơn như trái phiếu… Không như các nhà đầu tư riêng lẻ thường mua các loại cổ phiếu khác nhau để đa dạng hoá danh mục đầu tư của họ, các quỹ thường tập trung vào một khu vực nào đó, như cổ phiếu của các công ty thượng hạng (Blue Chips) hay các công ty nhỏ. Cổ tức thường được trả mỗi năm một lần vào thời điểm kết toán tài khoản, từ cổ tức mà quỹ thu được và các khoản thu nhập khác của quỹ. Khi hết thời hạn hoạt động, toàn bộ tài sản của quỹ sẽ được thanh toán và hoàn trả cho người đầu tư. 3.3.2. Quỹ đầu tư trái phiếu Một số lượng lớn tài sản của quỹ đầu tư vào trái phiếu. Đầu tư vào trái phiếu cho phép nhà đầu tư đảm bảo ổn định về thu nhập bởi khoản thu nhập không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của chủ thể phát hành. Khoản lãi này có thể nhận về hoặc lại tiếp tục đưa vào một quỹ gọi là quỹ tái đầu tư lãi. 3.3.3. Quỹ thị trường tiền tệ Quỹ đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Đây là những công cụ đầu tư khá an toàn, ổn định như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng… Do vậy, Quỹ thị trường tiền tệ thường ít biến động hơn các quỹ khác, nó thích hợp cho mục tiêu đầu tư ngắn hạn lại có thu nhập ổn định. 3.4. Một số loại quỹ khác 3.4.1. Quỹ cân bằng (Balanced Fund) Danh mục đầu tư cân bằng cố gắng để đạt được ba mục tiêu: thu nhập, tăng trưởng vốn đều đặn và bảo toàn vốn. Chúng thực hiện điều này bằng cách đầu tư vào các trái phiếu, các chứng khoán chuyển đổi và thêm một vài cổ phiếu ưu tiên cũng như cổ phiếu thường. Nhìn chung các danh mục đầu tư này đầu tư từ 40% đến 60% giá trị quỹ vào trái phiếu. 3.4.2. Quỹ đầu tư linh hoạt (Flexible Porfolio) Quỹ đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu hoặc các công cụ trên thị trường tiền tệ tuỳ thuộc vào điều kiện của thị trường. Người quản lý quỹ có quyền được thay đổi linh hoạt danh mục đầu tư để đáp ứng những biến động trên thị trường. 3.4.3. Quỹ ngành (Sector Fund) Các Quỹ ngành tập trung vào các cổ phiếu của một ngành công nghiệp cụ thể nào đó. Do hoạt động của các ngành thường có tính bất ổn định rất cao nên các ngành này đều có thể mang đến cho nhà đầu tư nào đầu tư đúng hướng cơ hội có những khoản lợi nhuận lớn. 4. Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán 4.1. Đối với nền kinh tế Quỹ đầu tư huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế ngay cả đối với nguồn vốn nhỏ lẻ và trực tiếp tiến hành đầu tư chứ không phải cho vay. Quỹ còn hấp dẫn đối với nguồn vốn từ nước ngoài chảy vào nhờ vào việc phát hành các chứng chỉ quỹ có tính hấp dẫn cao với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, Quỹ đầu tư là một phương thức đầu tư hữu hiệu cho các nhà đầu tư nước ngoài còn bởi vì thông qua quỹ, nhà đầu tư nước ngoài có thể vượt qua những hạn chế về giao dịch mua chứng khoán trực tiếp đối với người nước ngoài do nhà nước đặt ra, cộng với nhiều hạn chế trong việc nắm bắt những thông tin về chứng khoán ở nước sở tại và chi phí giao dịch cao. Đối với thị trường trong nước, quỹ còn góp phần tạo nên sự đa dạng của các đối tượng tham gia trên thị trường chứng khoán. Thông qua hoạt động của các Quỹ đầu tư nước ngoài, các Quỹ đầu tư trong nước sẽ tiếp thu được kinh nghiệm quản lý, phân tích và đầu tư chứng khoán. 4.2. Đối với thị trường chứng khoán Quỹ đầu tư góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp và ổn định thị trường thứ cấp. Các quỹ tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư làm tăng lượng cung chứng khoán trên thị trường chứng khoán, tạo sự đa dạng về hàng hoá cho thị trường. Khi Quỹ đầu tư mua bán với khối lượng lớn một loại chứng khoán nào đó thường ảnh hưởng lớn tới sự biến động của thị trường chứng khoán. Nó góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, giúp cho sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp đầu tư khoa học. Ví dụ, khi thị trường chứng khoán thiếu cung, Quỹ đầu tư bán chứng khoán do nó nắm giữ thì sẽ làm tăng đáng kể lượng cung làm giá chứng khoán thấp xuống. Ngược lại, nếu lượng cung quá cao, quỹ có thể mua chứng khoán làm cầu tăng lên, kéo theo giá chứng khoán tăng, phản ánh giá trị thực của chứng khoán. Quỹ đầu tư góp phần làm xã hội hoá hoạt động đầu tư chứng khoán. Các quỹ tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biết về chứng khoán yêu thích. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ. 4.3. Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư 4.3.1. Quỹ đầu tư chứng khoán cung cấp cho những nhà đầu tư riêng lẻ những thuận lợi cơ bản để giúp họ đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi ích Tính thanh khoản của chứng khoán đầu tư. Các nhà đầu tư vào Quỹ đầu tư chứng khoán có thể bán chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu quỹ mình đang nắm giữ vào bất cứ lúc nào cho chính Quỹ đầu tư (trong trường hợp Quỹ mở) hoặc trên thị trường thứ cấp (đối với Quỹ đóng) để thu hồi vốn. Giá bán chứng chỉ quỹ thay đổi phụ thuộc vào thay đổi của tổng giá trị tài sản danh mục của Quỹ đầu tư phát hành ra cổ phiếu. Đặc biệt, chứng chỉ, cổ phiếu của các Quỹ thị trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao, người sở hữu cổ phiếu có thể bán lại cổ phiếu bất cứ lúc nào trên thị trường mà giá cả biến động rất ít. Do vậy, trong tài sản của các công ty, cổ phiếu Quỹ thị trường tiền tệ được coi như tương đương với tiền. Đa dạng hoá danh mục đầu tư và phân tán rủi ro. Bằng việc sử dụng tiền thu được từ những nhà đầu tư để đầu tư phân tán vào danh mục các chứng khoán, các Quỹ đầu tư làm giảm rủi ro cho các khoản đầu tư và làm tăng cơ hội thu nhập cho các khoản đầu tư đó. Tăng cường tính chuyên nghiệp của việc đầu tư. Thay cho việc người đầu tư phải đi thuê tư vấn để quản lý tài sản của mình thì họ chỉ cần đầu tư vào một quỹ với chi phí giảm đi rất nhiều. Tiền tập hợp trong các Quỹ đầu tư chứng khoán được đặt dưới sự quản lý của các nhà đầu tư chuyên nghiệp - các công ty quản lý quỹ. Các chuyên gia của quỹ hay công ty quản lý quỹ sẽ tìm hiểu thị trường, đánh giá cơ hội tốt nhất để mua chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư thường xuyên, xác định chính xác thời điểm để mua bán chứng khoán. Trong các quỹ thường có các cán bộ nghiên cứu, những người quản lý danh mục đầu tư, họ biết được các công ty hay khu vực thị trường nào hoạt động hiệu quả. Không những thế, các chuyên gia còn có khả năng thâm nhập tới nhiều nguồn thông tin, nguồn hàng hơn bất kì một người đầu tư cá nhân nào. Tiết kiệm chi phí đầu tư. Vì là những danh mục đầu tư lớn được quản lý chuyên nghiệp, Quỹ đầu tư chịu chi phí giao dịch thấp hay được hưởng những ưu đãi về phí giao dịch hơn các cá nhân đầu tư, kể cả những người mua bán thông qua những công ty môi giới có mức phí hoa hồng thấp nhất. Tính dễ tiếp cận. Do loại hình Quỹ đầu tư là loại hình cho các nhà đầu tư cá nhân, cho công chúng nên một khi hình thành, các Quỹ đầu tư luôn tạo những điều kiện thuận lợi cho công chúng dễ tiếp cận và giao dịch. Và để thu hút sự tham gia của công chúng, các quỹ đều cung cấp thông tin sẵn có trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các báo hay qua Internet. Cung cấp các lựa chọn cho các nhà đầu tư. Một nhà đầu tư có thể có được các lựa chọn khác nhau khi đầu tư vào các quỹ tuỳ thuộc vào mục đích hay sở thích của họ. Họ có thể đầu tư vào danh mục các cổ phiếu, trái phiếu, danh mục hỗn hợp hay danh mục các công cụ thị trường tiền tệ trong hơn vài chục loại quỹ khác nhau. An toàn trước các hành vi không công bằng. Người đầu tư có thể bị thiệt hại nếu danh mục đầu tư của quỹ bị giảm giá trị do sự biến động giá chứng khoán trên thị trường, nhưng xác suất bị tổn thất do gian lận, bê bối hoặc phá sản liên quan đến công ty quản lý quỹ là rất nhỏ. Khuôn khổ pháp lý và việc quản lý chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền đối với Quỹ đầu tư đem lại những đảm bảo cơ bản. 4.3.2. Quỹ đầu tư đem lại cho người nhận đầu tư (thường là các doanh nghiệp) một số lợi ích căn bản sau Chi phí cho nguồn vốn phát triển thấp hơn khi vay ngân hàng. Trước đây, hệ thống ngân hàng chiếm vai trò thống trị nền tài chính. Để vay được vốn, doanh nghiệp phải thoả mãn một số điều kiện nhất định và lãi suất vay cao. Quỹ đầu tư ra đời sẽ hạn chế được những nhược điểm của cơ chế cho vay của ngân hàng. Hơn nữa, việc đầu tư về tài chính qua các quỹ thường có giới hạn nhất định về quyền và nghĩa vụ nên doanh nghiệp được đầu tư đảm bảo được tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Tiếp cận nguồn tài chính dài hạn. Lợi ích này có được từ việc quỹ phát hành và giao dịch các loại chứng khoán này trên thị trường đã thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư, đặc biệt là các chủ thể có khả năng tài chính lớn như ngân hàng, các tổng công ty, các công ty bảo hiểm… đầu tư vào quỹ. Quỹ sẽ chính là cầu nối giữa doanh nghiệp mà quỹ đầu tư vào với các tổ chức tài chính này. Tận dụng được những kiến thức quản lý đầu tư, marketing và tài chính từ các Quỹ đầu tư. Ngoài cung cấp vốn cho doanh nghiệp, các công ty quản lý quỹ đầu tư còn có dịch vụ cung cấp các thông tin tài chính, tư vấn về kế hoạch tài chính, marketing và các mối quan hệ với các tổ chức tài chính và doanh nghiệp khác. Điều này có lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới thành lập ít bạn hàng, thiếu thông tin về thị trường. Mô hình tổ chức hoạt động Quỹ đầu tư chứng khoán Hiện nay, Quỹ đầu tư được tổ chức theo hai mô hình : - Mô hình công ty - Mô hình tín thác 5.1. Mô hình công ty Trong mô hình này, Quỹ đầu tư được thành lập bởi số tiền đóng góp ấn định của các nhà đầu tư. Nó được thành lập và tổ chức như một công ty cổ phần, tức là về cơ cấu tổ chức nó cũng có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, ban giám đốc… Quỹ đầu tư Công ty quản lý quỹ Hội đồng quản trị Tổ chức bảo quản tài sản Người đầu tư Người đầu tư Người đầu tư Do Quỹ đầu tư mô hình công ty có tư cách pháp nhân đầy đủ nên người đầu tư góp vốn vào quỹ trở thành cổ đông và có quyền biểu quyết, có quyền bầu ra hội đồng quản trị và tham gia quyết định các vấn đề lớn của công ty. Hội đồng quản trị là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của quỹ, đại diện cho quỹ lựa chọn công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản tài sản và có nhiệm vụ giám sát hoạt động của cả hai tổ chức này. Ngân hàng bảo quản tài sản trong mô hình này chỉ đóng vai trò bảo quản an toàn cho tài sản của quỹ, định giá tài sản, theo dõi sự biến động tài sản của quỹ trong quá trình đầu tư vào chứng khoán, không tham gia vào công tác quản lý quỹ, kinh doanh hoặc tư vấn, cũng không bảo vệ người đầu tư trong việc đưa ra những biện pháp bảo vệ đầu tư cho họ. Công ty quản lý quỹ được hội đồng quản trị đứng ra thuê và thực hiện chức năng quản lý thuần tuý. Công ty quản lý quỹ có trách nhiệm cử chuyên gia để giúp quỹ điều hành và sử dụng vốn của quỹ vào đầu tư chứng khoán và các tài sản khác một cách có hiệu quả nhất nhằm thu phí dịch vụ. Trong quá trình lựa chọn phương án đầu tư trước khi đi đến quyết định đều phải có sự thống nhất thông qua hội đồng quản trị. Ngoài các tổ chức tham gia chính đã đề cập tới như trên thì tuỳ từng nước còn có thể có các đại lý chuyển nhượng hoặc nhà bảo lãnh phát hành tham gia vào hoạt động của quỹ. Đại lý chuyển nhượng thường được uỷ nhiệm để tiến hành việc bán hoặc mua lại cổ phần của quỹ (nếu là Quỹ mở). Nhà bảo lãnh phát hành giúp quỹ chào bán và phân phối cổ phần của quỹ cho các nhà đầu tư. Quỹ đầu tư chứng khoán mô hình công ty được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn và những nhà đầu tư sở hữu nó có quyền tương tự như các cổ đông, tức là có quyền biểu quyết các hoạt động kinh doanh cũng như bầu hội đồng quản trị. Các cổ phiếu phát hành có thể được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán hay là được mua bán trên OTC. Quỹ mô hình công ty không được phép phát hành các trái phiếu hoặc sử dụng nguồn vốn vay khác để đầu tư mà chỉ có thể vay ngắn hạn để thanh toán cho những nhu cầu cần thiết khi chưa có khả năng thu hồi vốn ngay. Do người đầu tư là các cổ đông của quỹ nên cơ cấu vốn của quỹ khá ổn định. Vì vậy phạm vi đầu tư của quỹ rất rộng. Ngoài hoạt động chính là đầu tư vào chứng khoán và tài sản có tính thanh khoản cao, quỹ còn có thể đầu tư vào các mục tiêu có tính chất dài hạn như bất động sản… nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Trong mô hình công ty, quỹ là một pháp nhân được tổ chức như một công ty cổ phần. Tuy vậy, quỹ không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật công ty mà còn chịu sự điều chỉnh của một hệ thống luật riêng. Các nước thường ban hành các luật riêng về Quỹ đầu tư như Luật công ty đầu tư sửa đổi 1988 của Pháp, Luật công ty đầu tư sửa đổi 1988 của Đức… Riêng ở Mỹ, các Quỹ đầu tư chịu sự điều chỉnh của tới bốn đạo luật là Luật công ty đầu tư 1940, Luật chứng khoán 1933, Luật giao dịch chứng khoán 1934 và Luật tư vấn đầu tư 1940. Đến năm 1995, Mỹ sửa đổi lại Luật công ty cho phù hợp với các nghiệp vụ hiện đại mới phát sinh trên thị trường chứng khoán. 5.2. Mô hình tín thác Quỹ đầu tư chứng khoán mô hình tín thác không phải là một công ty mà được thành lập bởi công ty quản lý quỹ, quản lý một số vốn nhất định của người đầu tư để thực hiện đầu tư theo mục tiêu đã xác định. Khác với các Quỹ đầu tư theo mô hình công ty, các quỹ mô hình tín thác được thành lập theo Luật đầu tư tín thác. Theo luật này, một hợp đồng tín thác được ký kết bởi tất cả các bên tham gia vào quỹ: công ty quản lý quỹ, tổ chức giám sát bảo quản và những người hưởng lợi. Quỹ đầu tư Công ty quản lý quỹ Tổ chức bảo quản giám sát Người đầu tư Người đầu tư Người đầu tư Trong mô hình này, muốn thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán trước hết phải thành lập công ty quản lý quỹ. Mỗi công ty quản lý quỹ có thể có nhiều Quỹ đầu tư trực thuộc tuỳ thuộc vào mục tiêu đầu tư. Công ty quản lý quỹ đóng một vai trò rất quan trọng vì đó là một tổ chức đứng ra phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư huy động vốn để thành lập Quỹ đầu tư và sử dụng vốn thu được để đầu tư vào những nơi có hiệu quả nhất. Ngoài chức năng huy động vốn và thực hiện đầu tư, nó còn đưa ra các chỉ dẫn cho ngân hàng giám sát mua bán chứng khoán và các tài sản khác bằng tiền của nhà đầu tư. Nó hoạt động như những nhà tư vấn cho Quỹ đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát bảo quản ở mô hình này có vai trò quan trọng hơn nhiều so với ngân hàng bảo quản trong mô hình công ty. Ngoài vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, ngân hàng giám sát bảo quản còn làm nhiệm vụ giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ để đảm bảo việc tuân thủ các mục tiêu và chính sách đã đề ra. Quan hệ giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát bảo quản được thể hiện bằng hợp đồng quản lý giám sát trong đó quy định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát đầu tư để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Người đầu tư là những người góp vốn vào quỹ và uỷ thác việc đầu tư cho công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ. Việc góp vốn của các nhà đầu tư được thể hiện bằng việc họ mua các chứng chỉ đầu tư do công ty quản lý quỹ thay mặt quỹ phát hành. Các nhà đầu tư trong mô hình này không phải là các cổ đông như quỹ đầu tư mô hình công ty mà chỉ đơn thuần là những người thụ hưởng kết quả kinh doanh từ hoạt động đầu tư của quỹ. Quỹ đầu tư mô hình tín thác chỉ được phép phát hành các chứng chỉ tham gia chia phần, các chứng chỉ này được định nghĩa trong Luật đầu tư tín thác không phải là cổ phiếu. Điểm khác biệt cơ bản giữa cổ phiếu và những chứng chỉ này là các nhà đầu tư nắm giữ chứng chỉ này không có quyền biểu quyết, cũng không có quyền thay đổi chính sách đầu tư của Quỹ đầu tư chứng khoán. Do những người đầu tư không phải là các cổ đông của quỹ nên cơ cấu vốn của quỹ không ổn định. Vì vậy phạm vi đầu tư của quỹ không rộng và chỉ tập trung chủ yếu vào các loại chứng khoán và tài sản cố định có tính thanh khoản cao, coi trọng tính an toàn và hạn chế rủi ro nhiều hơn là khả năng sinh lời. So với mô hình công ty, cơ cấu tổ chức của mô hình tín thác gọn nhẹ hơn nên các văn bản pháp luật điều chỉnh cũng ít hơn. Các quốc gia tổ chức Quỹ đầu tư theo mô hình này thường chỉ ban hành Luật tín thác hoặc Luật kinh doanh tín thác như Luật kinh doanh tín thác đầu tư chứng khoán 1969 của Hàn Quốc với bốn lần sửa đổi vào các năm 1975, 1976, 1993 và 1996; Luật tín thác đầu tư chứng khoán Nhật 1951; Luật tín thác đầu tư sửa đổi Anh 1986… 5.3. Ưu nhược điểm của mô hình công ty và mô hình tín thác Qua hai mô hình trên, chúng ta có thể thấy rằng chúng là sản phẩm của nhu cầu đầu tư khác nhau. Để thích ứng với mỗi thị phần thị trường chúng đuợc sinh ra và tồn tại song song, nhược điểm của mô hình này sẽ được giải quyết ở mô hình kia và ngược lại. Mô hình tín thác được tạo nên cho những người có nhu cầu đầu tư nhưng trình độ kiến thức của họ không cho phép mạo hiểm đầu tư trực tiếp, những người có một khoản tiền nhàn rỗi dài hạn mong muốn tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao hơn mức lãi suất ngân hàng. Mô hình công ty ứng với những tổ chức cá nhân nắm giữ trong tay một lượng tài sản lớn cùng với kiến thức về chiến lược đầu tư. Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu về ưu và nhược điểm của hai mô hình này. 5.3.1. Mô hình công ty Mô hình công ty là mô hình có cơ cấu tổ chức hoàn thiện, được ưa chuộng nhất trong công tác quản lý hiện nay. Trong mô hình này có sự góp mặt của tất cả các thành phần đại diện cho từng quyền lợi tham gia công tác quản lý nên họ có thể đánh giá, cân nhắc giữa giá trị đầu tư với mức độ rủi ro, đưa ra các quyết định mang tính năng động cao nên quỹ thường đem lại lợi nhuận khả quan hơn mô hình tín thác. Quỹ trong mô hình này là một pháp nhân nên việc tiến hành huy động vốn từ các thành phần kinh tế thuận lợi hơn nhiều so với mô hình tín thác nên quỹ sẽ có thể có thêm lợi thế nhờ quy mô và dễ dàng đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình. Tuy nhiên, do cơ cấu tổ chức cồng kềnh nên sẽ khó có thể đưa ra các quyết định đầu tư một cách nhanh chóng và mặt khác sẽ tạo nên gánh nặng về chi phí quản lý. 5.3.2. Mô hình tín thác Trái lại với mô hình công ty, mô hình tín thác có cơ cấu tổ chức đơn giản, gọn nhẹ nên dễ bắt kịp với các cơ hội kinh doanh do việc bàn bạc để đi đến quyết định đầu tư thường nhanh chóng, đồng thời cơ cấu như vậy làm giảm đáng kể chi phí quản lý. Trong mô hình này, vì các nhà đầu tư không thể can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các công ty quản lý quỹ nên công ty sẽ chủ động hơn, có thể đầu tư vào các dự án dài hạn có tiềm năng cao. Nhược điểm của mô hình này là tính thanh khoản của các chứng chỉ quỹ không cao do việc thiết lập quỹ dựa trên hợp đồng giữa nhà đầu tư với công ty quản lý quỹ. Thêm vào đó, quỹ thường có xu hướng đặt mục tiêu an toàn lên cao để đảm bảo uy tín làm cho lợi nhuận thường không cao, giảm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. 6. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán 6.1. Nguyên tắc huy động vốn Việc huy động vốn của Quỹ đầu tư thông qua phát hành chứng khoán. Tuy nhiên các quỹ chỉ được phát hành một số loại chứng khoán nhất định để tạo thuận lợi cho việc quản lý của quỹ cũng như hoạt động đầu tư của những người đầu tư. Tài sản của Quỹ đầu tư chủ yếu để đầu tư vào chứng khoán chứ không phải trực tiếp đem vào đầu tư mở rộng sản xuất. Quỹ không thể phát hành trái phiếu tức đi vay để đầu tư vào chứng khoán vì như thế sẽ tạo nên môi trường chứng khoán ảo. Do vậy, nguyên tắc chung là quỹ chỉ phát hành cổ phiếu (mô hình công ty) và chứng chỉ hưởng lợi (quỹ dạng tín thác). Ngoài ra, quỹ không được phép phát hành trái phiếu hay đi vay vốn để đầu tư. Quỹ chỉ được phép vay vốn ngắn hạn để trang trải các chi phí tạm thời khi quỹ chưa có khả năng thu hồi vốn. 6.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ Tài sản của quỹ phải được kiểm soát bởi một tổ chức bảo quản tài sản. Tổ chức này chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi đối với tài sản của các nhà đầu tư. Chức năng giám sát tuỳ từng mô hình quỹ mà pháp luật các nước giao cho một tổ chức tín thác hay hội đồng quản trị. Theo quy định của Mỹ thì tài sản của quỹ có thể được bảo quản bởi một ngân hàng, một nhà kinh doanh môi giới chứng khoán được đăng ký hay do chính quỹ đó quản lý. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay thì các tổ chức bảo quản tài sản thông thường là ngân hàng. Nguyên tắc chung của hầu hết các nước là tổ chức bảo quản tài sản trong quá trình giám sát không có quyền quyết định hoàn toàn mà phải cùng bàn bạc, biểu quyết với các chủ thể khác như công ty quản lý quỹ… Riêng đối với hội đồng quản trị thì các tổ chức này có quyền tự quyết định nếu như nó không liên quan tới chuyên môn của hội đồng quản trị. Để đảm bảo an toàn cho tài sản của quỹ cũng như sự ổn định của thị trường chứng khoán, một số nước nghiêm cấm Quỹ đầu tư bán khống chứng khoán. 6.3. Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ Khi các nhà đầu tư đầu tư hoặc rút vốn của họ từ một quỹ, việc xác định giá phải dựa trên nguyên tắc công bằng giữa các nhà đầu tư hiện tại với các nhà đầu tư mua hoặc bán chứng chỉ. Điều này được thể hiện trong cách thức xác định giá trị tài sản của quỹ khi mua bán chứng chỉ. Đối với Quỹ mở do chủ yếu đầu tư vào chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán nên giá trị tài sản được xác định theo giá trị của chứng khoán đó tại thời điểm đó trên thị trường. Sau khi xác định xong giá trị tài sản của quỹ sẽ được chia cho số cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ đang lưu hành để xác định giá trị cho mỗi chứng chỉ. Giá bán và giá mua lại sẽ bằng giá trị của mỗi chứng chỉ cộng thêm một số chi phí cho việc mua bán đó. Giá thị trường = NAV + chi phí giao dịch Trong đó NAV : Giá trị tài sản ròng (Net Asset Value). Tổng giá trị tài sản ròng của quỹ bằng tổng giá trị các tài sản có và các khoản đầu tư của quỹ trừ đi các nghĩa vụ nợ tại thời điểm tính toán. Giá trị tài sản ròng trên một cổ phần của quỹ được tính bằng Tổng tài sản có của quỹ – Tổng nợ phải trả Số cổ phần hiện có NAV = NAV của các quỹ được tính toán và công bố hàng ngày dựa trên giá thị trường của các chứng khoán mà quỹ đầu tư vào. Đối với Quỹ đóng thì giá cổ phần của quỹ sẽ phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán, nó lấy NAV làm cơ sở nhưng không gắn liền với giá trị NAV. Khi một Quỹ đóng bán cổ phiếu với giá thấp hơn NAV thì được gọi là bán chiết khấu (Discount) và ngược lại nếu giá bán cổ phiếu lớn hơn NAV thì được gọi là bán có thu phí (Premium). Chúng được tính như sau: Giá cổ phần - NAV NAV Discount (-) / Pemium (+) = Thông thường tại thị trường chứng khoán các nước phát triển rất ít Quỹ đầu tư được giao dịch có mức Premium, mà phần lớn ở mức Discount từ 15% đến 20%. Chỉ số này không ổn định mà biến động theo các điều kiện của thị trường. Thường những quỹ được giao dịch có chỉ số ở mức Discount đều có thể đạt được mức Premium cao trong tương lai và ngược lại. 6.4. Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư Việc cung cấp thông tin vừa có ý nghĩa là tạo cơ hội cho quỹ thu hút vốn đầu tư vừa để góp phần bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Do được cung cấp thông tin mà người đầu tư đánh giá đúng về thực trạng của các khoản đầu tư, khả năng chuyên môn của những người quản lý quỹ để có thể quyết định đầu tư đúng đắn. Việc cung cấp thông tin phải tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý nhà nước nhằm tạo sự thống nhất dễ hiểu cho các nhà đầu tư. Các nước thường quy định Quỹ đầu tư khi gọi vốn từ công chúng phải làm Bản cáo bạch (Prospectus) để công bố toàn bộ thông tin về công ty quản lý, tổ chức bảo quản giám sát về chính sách, mục tiêu đầu tư của quỹ… 6.5. Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ Hầu hết các nước đều ngăn cấm các giao dịch giữa các chủ thể có liên quan với quỹ. Giao dịch giữa các chủ thể có liên quan là các giao dịch liên quan tới tài sản của quỹ giữa một bên là Quỹ đầu tư và một bên là chủ thể khác như công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản giám sát, người bảo lãnh phát hành, nhà tư vấn… mà việc giao dịch này có khả năng ảnh hưởng đến lợi ích của người đầu tư hiện tại của quỹ. Các trường hợp được coi là giao dịch có liên quan như: Việc mua bán tài sản của quỹ với người có liên quan (nhân viên, người quản lý, đối tác, người làm thuê, cổ đông…) Các khoản vay nợ của quỹ với chủ thể liên quan. Một người có liên quan hành động như một đại lý đối với tài sản của quỹ trong việc mua bán chứng chỉ quỹ đầu tư. Người có liên quan cam kết với người thứ ba tham gia giao dịch với quỹ. Nói chung mỗi nước lại có quy định cụ thể riêng để ngăn chặn hiện tượng này để đảm bảo hoạt động của quỹ được lành mạnh, công bằng bảo vệ lợi ích của tất cả những người đầu tư. II. Một số tiêu chuẩn đánh giá kết quả kinh doanh của Quỹ đầu tư chứng khoán Tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá kết quả kinh doanh của một quỹ là liệu quỹ đó có đáp ứng được mục tiêu đầu tư của mình hay không. Để theo dõi hoạt động của quỹ và quyết định liệu quỹ có thể đem lại lợi nhuận không, nhà đầu tư có thể đánh giá dựa trên: Theo dõi những biến động trong giá cổ phiếu hay giá trị tài sản thuần NAV. Tính lợi suất Tính tổng lợi nhuận thu về Ngoài một số chỉ tiêu trên thì các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới một số chỉ tiêu khác như tỷ lệ chi phí, tỷ lệ thu nhập, tỷ lệ doanh thu… Biến động NAV : Như đã đề cập tới, NAV của một quỹ được tính bằng cách chia giá trị hiện hành của quỹ cho số cổ phiếu đang giao dịch của quỹ. NAV của một quỹ tăng lên khi giá trị các cổ phiếu quỹ nắm giữ tăng lên. Ví dụ, nếu một cổ phiếu của quỹ trị giá 15 USD năm nay và 10 USD năm ngoái, điều đó có nghĩa là giá trị mà quỹ nắm giữ đã tăng 50% và do đó có thể bán cổ phiếu đi để thu lợi nhuận. Lợi suất: Lợi suất được tính bằng lợi nhuận phân chia mỗi cổ phần chia cho giá trên mỗi cổ phần. Một quỹ trái phiếu dài hạn có NAV 10 USD, trả lợi nhuận phân chia là 58 cent, vậy một cổ phiếu có lợi suất là 5,8%. Chúng ta có thể so sánh lợi suất của một Quỹ tương hỗ với lợi suất hiện hành của các loại đầu tư khác để quyết định loại đầu tư nào mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Tổng lợi nhuận: Đối với Quỹ cổ phiếu, có ba bộ phận cấu thành nên tổng lợi nhuận là: cổ tức từ khoản thu nhập đầu tư ròng, phân phối các khoản thu nhập ròng được thừa nhận và sự tăng hoặc giảm trong giá trị tài sản ròng. Tổng thu nhập của quỹ là một trong các chỉ tiêu quan trọng đánh giá hoạt động của một quỹ tốt hay không. Nó được tính bằng sự thay đổi trong NAV cộng với lợi nhuận quỹ phân chia cho khoản đầu tư. Ngoài ra, người ta còn sử dụng lợi nhuận % tính bằng cách chia giá trị tổng thu nhập cho các chi phí đầu tư ban đầu. Ví dụ, một khoản đầu tư 10.000 USD có tổng thu nhập một năm là 1.500 USD (tăng 1.000 USD về giá trị cộng với 500 USD lợi nhuận đầu tư) thì sẽ có tỷ lệ lợi nhuận phần trăm là 15%. Thước đo chính xác nhất kết quả kinh doanh trong quá khứ và hiện tại của một Quỹ đầu tư là tổng lợi nhuận thu về của quỹ đó, hay giá trị tăng lên cộng với lợi nhuận phân chia đã tái đầu tư. Một trong số các yếu tố chủ chốt ảnh hưởng tới tổng lợi nhuận thu về của một quỹ là xu hướng phát triển của một hoặc nhiều thị trường nơi quỹ sẽ đầu tư, kết quả của danh mục đầu tư của quỹ cũng như mức phí và chi phí của quỹ đó. Tỷ lệ chi phí: Tỷ lệ này được xác định bằng tổng chi phí chia cho giá trị tài sản ròng trung bình. Phí môi giới từ các giao dịch của quỹ không tính trong tỷ lệ chi phí này. Những tỷ lệ chi phí thấp nhất thường thấy là ở các Quỹ chỉ số, tỷ lệ chi phí thấp nhỏ hơn 1% thì được coi là thấp. Các quỹ nhỏ và tăng trưởng nhanh có sử dụng hiệu ứng đòn bẩy và chịu chi phí lãi suất cao là các quỹ phải hoạt động với tỷ lệ chi phí cao nhất. Các quỹ nhỏ có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí cao hơn so với các quỹ lớn là những quỹ thu được lợi ích từ tính kinh tế theo quy mô. Các quỹ đầu tư trên thị trường quốc tế có xu hướng chịu tỷ lệ chi phí lớn hơn một cách đáng kể so với các danh mục đầu tư trong thị trường nội địa do chi phí nghiên cứu và các chi phí khác liên quan đến hoạt động đầu tư quốc tế. Các quỹ cổ phiếu có tỷ lệ chi phí cao hơn so với các quỹ đầu tư chứng khoán có thu nhập cố định. Khi đánh giá tỷ lệ chi phí, cần so sánh tỷ lệ chi phí với số liệu của các danh mục khác có cùng quy mô. Tỷ lệ thu nhập: Tỷ lệ này được tính bằng giá trị thu nhập đầu tư ròng chia cho giá trị tài sản ròng trung bình. Tuy nhiên, con số này không có tầm quan trọng như tổng lợi nhuận bởi vì tỷ lệ này chỉ tập trung vào thu nhập. Tỷ lệ doanh thu: Tỷ lệ này được xác định bằng số lượng tài sản được bán hoặc mua chia cho giá trị tài sản ròng của quỹ trong năm. Nếu tỷ lệ này là 100% doanh thu có nghĩa là công ty quản lý nắm giữ một loại cổ phiếu hoặc trái phiếu trung bình trong một năm. 50% doanh thu cho biết quỹ này thường nắm giữ các chứng khoán trung bình trong hai năm và với 200% doanh thu thì quỹ thường nắm giữ trong sáu tháng và cứ như vậy. Bên cạnh đó thì các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới chất lượng hoạt động quản lý quỹ. Nhà quản lý đầu tư tốt có thể điều hành hoạt động ổn định và chống chọi lại với những bất lợi của thị trường, tối thiểu hoá rủi ro thua lỗ. Một quỹ hoạt động tốt, được quản lý tốt luôn thu hút được nhiều nhà đầu tư và tài sản của nó theo đó cũng tăng lên hàng năm. III. Kinh nghiệm hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán ở một số nước 1. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường phát triển . Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ có một lịch sử khá lâu đời và đã nhanh chóng phát huy được những đặc tính ưu việt của mình nhờ được sự hỗ trợ đáng kể của một nền kinh tế phát triển khá ổn định và một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Tại Mỹ các Quỹ đầu tư hoạt động theo hai mô hình là mô hình công ty và mô hình tín thác. Trong đó thì mô hình công ty đặc biệt là các quỹ dạng mở chiếm ưu thế hơn cả. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán Mỹ phát triển mạnh mẽ như vậy là do tổ chức và hoạt động của các quỹ được xây dựng rất chặt chẽ, trách nhiệm và được phân chia rất rõ ràng phù hợp với trình độ quản lý quỹ và mục đích đầu tư của quỹ. Bên cạnh đó là một hệ thống luật pháp liên quan đến thị trường chứng khoán và Quỹ đầu tư chứng khoán rất chặt chẽ và rõ ràng. Điều này chủ yếu là do thị trường chứng khoán Mỹ nói chung và hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng đã hoạt động trong một thời gian rất dài và qua quá trình hoạt động thực tế đó, hệ thống luật pháp không ngừng được hoàn thiện để đảm bảo cho các quỹ hoạt động được lành mạnh và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người đầu tư. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh có thể tồn tại dưới hai dạng kết thúc đóng và kết thúc mở tương ứng với hai loại hình quỹ đặc trưng của Anh là Quỹ tín thác đầu tư và Quỹ tín thác đơn vị. Quỹ tín thác đầu tư - ITCs là loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và không phải là hình thức tín thác dưới khía cạnh pháp lý. Nó là quỹ dạng đóng. Những nhà đầu tư trong ITC mua cổ phiếu phổ thông của nó và sau đó các khoản thu nhập được trả theo dạng cổ tức và lỗ hoặc lãi vốn từ các cổ phiếu của họ. Quỹ được quyền sử dụng một số tiền để thực hiện hoạt động tiếp thị các chứng chỉ quỹ của mình và thưởng cho các đại lý. Đây chính là lý do chính đối với những thành công của ITC trong những năm gần đây, cho dù những chi phí hoạt động của chúng thường khá cao và những hoạt động đầu tư thường không tốt. Quỹ tín thác đơn vị được biết đến như là một quỹ mở mô hình tín thác. Loại quỹ này rất được phát triển ở Anh do có một số quy tắc chung trong khối thị trường chung Châu Âu về đầu tư tập thể vào các chứng khoán có khả năng chuyển đổi. Quy tắc này cho phép một Quỹ đầu tư của một nước có thể bán các chứng khoán của mình trong toàn khối thị trường chung. Chính vì vậy, Quỹ đầu tư chứng khoán dạng này có quyền hạn rộng rãi trong việc thay đổi các chứng khoán nắm giữ trong danh mục đầu tư của quỹ và các quỹ có khả năng đa dạng hoá tối đa danh mục của mình. ở Anh, các công ty quản lý quỹ hay Quỹ đầu tư cũng không đảm nhận việc mua bán chứng chỉ quỹ hay cổ phiếu trực tiếp tới công chúng, chức năng này thường do một công ty chứng khoán thực hiện. Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản Quỹ đầu tư lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật vào năm 1941. Trải qua nhiều khó khăn nhưng kể từ năm 1996 trở lại đây, các Quỹ đầu tư đã thực sự bước vào giai đoạn phát triển ổn định và đóng một vai trò quan trọng vào sự phát triển của thị trường chứng khoán và nền kinh tế nói chung. Các Quỹ đầu tư ở Nhật mang một số đặc điểm nổi bật sau. Các quỹ chỉ tồn tại theo mô hình tín thác chứ không theo mô hình công ty. Có hai phương pháp hình thành quỹ dạng tín thác. Thứ nhất là các chứng chỉ quỹ được bán cho công chúng để tạo vốn hoặc theo phương pháp thứ hai là người quản lý dùng vốn của mình giao cho người lưu giữ tài sản của quỹ tạo vốn trước, sau đó đem các chứng chỉ cho công chúng. Các Quỹ đầu tư của Nhật là dạng kết thúc mở. Qua nghiên cứu thị trường nước này cho thấy, quỹ dạng mở hoạt động rất linh hoạt, tránh được sự thao túng của các công ty quản lý quỹ thường xảy ra với Quỹ đóng, đồng thời các chứng chỉ quỹ cũng ổn định hơn nhiều so với chứng chỉ quỹ đóng mỗi khi có những sự kiện tác động đến từng loại chứng khoán liên quan. Cũng như Anh, Mỹ thì ở Nhật các công ty quản lý quỹ hay chính quỹ cũng không đảm nhận việc mua bán chứng chỉ hay cổ phiếu trực tiếp tới công chúng, chức năng này thường do một công ty chứng khoán thực hiện. Ngày nay ở Nhật Bản, Quỹ đầu tư chứng khoán trở thành một trong những loại hình đầu tư có hiệu quả nhất hiện nay. Đó là do các quỹ được hoạt động trong một nền kinh tế tăng trưởng ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt và chính bản thân các quỹ này có được một chương trình đầu tư có hệ thống và một cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoàn hảo. Đồng thời, chính phủ Nhật Bản đã đưa ra được những chính sách hợp lý nhằm khuyến khích thị trường chứng khoán nói chung và Quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng phát triển như thực hiện chính sách thuế ưu đãi… Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường mới nổi . Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc Quỹ đầu tư chứng khoán Hàn Quốc được hình thành từ năm 1969 với mô hình tương tự như mô hình Quỹ đầu tư dạng tín thác ở Anh. Chính phủ Hàn Quốc quyết định chọn mô hình này là nhằm hỗ trợ cho chính phủ trong các chính sách phát triển kinh tế. Bởi vì Quỹ đầu tư mô hình tín thác là yếu tố cần thiết trong việc huy động được một lượng vốn khổng lồ cho tiến trình phát triển kinh tế trong ngắn hạn và đem lại sự ổn định cho thị trường tài chính thông qua hoạt động đầu tư chứng khoán gián tiếp. Hiện nay, Hàn Quốc đã cho phép tồn tại cả hai mô hình tín thác và công ty. Có hai loại hình công ty quản lý quỹ quản lý các quỹ tín thác đầu tư chứng khoán là Công ty tín thác đầu tư (Investment Trust Company, ITC) và Công ty quản lý tín thác đầu tư (Investment Trust Management Company, ITMC). Hai loại hình công ty này chỉ khác biệt nhau về phạm vi hoạt động. ITC được phép chào bán chứng chỉ đầu tư trực tiếp cho các nhà đầu tư thông qua mạng lưới của chính mình, còn ITMC không được trực tiếp bán chứng chỉ cho người đầu tư mà phải chào bán thông qua các đại lý là các công ty chứng khoán hoặc các ngân hàng. Khác với Anh, Mỹ, Nhật, ở Hàn Quốc các công ty quản lý đảm nhiệm luôn việc bán các chứng chỉ quỹ tới công chúng thông qua hệ thống chi nhánh của công ty. Chính nhờ đặc điểm này mà các công ty quản lý quỹ ở Hàn Quốc ít chịu ảnh hưởng của các công ty chứng khoán và điều này là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển đáng kể của các Quỹ đầu tư chứng khoán ở Hàn Quốc. Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan Chỉ sau khi thị trường chứng khoán Thái Lan ra đời được một năm (năm 1974), chính phủ Thái Lan đã rất chú trọng đến việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán và tăng cường khả năng huy động vốn bằng cách thiết lập Quỹ đầu tư chứng khoán dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn. Nhờ đó giúp giới đầu tư Thái Lan vốn rất bỡ ngỡ với thị trường chứng khoán có thể có được một phương thức đầu tư mới đơn giản và an toàn hơn nhờ tính đầu tư chuyên nghiệp của quỹ. Tuy nhiên phải đến hai năm sau, hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán Thái Lan mới chính thức đi vào hoạt động. Trải qua nhiều thăng trầm, đến những năm 90, kể từ khi Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán mới ra đời vào năm 1992 thì hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan mới phát triển rực rỡ. Sự thành công này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng phân phối và dịch vụ của các Quỹ đầu tư. Các quỹ đã xây dựng được các kênh phân phối rất mạnh thông qua việc liên kết với các ngân hàng thương mại lớn. Góp thêm vào sự phát triển của các quỹ còn phải kể đến các văn bản luật và quy chế của uỷ ban chứng khoán hoạt động khá hiệu quả do được soạn thảo bởi những người có kinh nghiệm. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng khuyến khích việc liên doanh với nước ngoài để thành lập Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ nhằm tranh thủ vốn và kỹ năng của đối tác nước ngoài. Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng là cùng với sự hoạt động của các tổ chức tín thác đầu tư, Thái Lan cũng đã có một sự quan tâm đúng mức đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán. * Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam rút ra từ thực tiễn hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại một số nước Dù ở thị trường phát triển hay thị trường mới nổi thì các Quỹ đầu tư chứng khoán vẫn có những nét tương đồng và chúng đều tuân theo một quy luật phát triển chung. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế chính trị mà Quỹ đầu tư chứng khoán ở từng nước lại có những đặc trưng riêng. Là một nước đi sau, Việt Nam có thể học tập được những kinh nghiệm quý báu này để áp dụng một cách linh hoạt, giúp cho hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán có thể phát triển lớn mạnh, phát huy được tối đa tính ưu việt của mình. Một yếu tố cần để giúp cho Quỹ đầu tư chứng khoán có thể hình thành và phát triển chính là những người đầu tư cá nhân. Quỹ đầu tư chính là cầu nối giúp các cá nhân với số vốn ít ỏi của mình có thể đầu tư vào thị trường chứng khoán trong một danh mục đầu tư đa dạng và rủi ro được giảm xuống ở mức thấp nhất. Chúng ta có thể nhận thấy rằng các thị trường phát triển có hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán đã có một lịch sử phát triển lâu đời, cũng như các thị trường mới nổi có ngành Quỹ đầu tư chứng khoán đang bắt đầu đi vào quỹ đạo phát triển cũng đều có số lượng người tham gia đầu tư chứng khoán rất đông. Tỷ lệ người am hiểu và tự mình trực tiếp kinh doanh chiếm rất nhỏ, đa số đều thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán. Trong khi đó, ở Việt Nam, với tỷ lệ người am hiểu thị trường chứng khoán còn thấp, vốn đầu tư nhỏ thì việc làm cấp bách trước mắt chính là thu hút đông đảo dân chúng tham gia đầu tư. Bên cạnh đó, khâu đào tạo nguồn nhân lực cho các Quỹ đầu tư chứng khoán cũng phải được chú trọng. Theo kinh nghiệm của Thái Lan, để hoạt động đầu tư có hiệu quả, chính phủ nước này đã quan tâm đúng mức đến việc đào tạo nguồn nhân lực. Việt Nam cần phải tìm ra được những giải pháp để có thể xây dựng được một đội ngũ cán bộ nhân viên không chỉ giỏi về mặt kỹ năng chuyên môn mà còn có đạo đức nghề nghiệp để đảm bảo tính công khai, công bằng trong thị trường và cũng để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư. Trên thế giới hiện nay, Quỹ đầu tư chứng khoán đang tồn tại dưới hai mô hình, mô hình tín thác và mô hình công ty. Việc lựa chọn áp dụng mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán nào để phù hợp với điều kiện kinh tế, hệ thống pháp luật của từng nước có ý nghĩa quan trọng và mang tính quyết định đến quá trình hình thành và phát triển hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán. Đối với thị trường mới nổi, đặc biệt là tại các nước Châu á, các quỹ dạng tín thác được hình thành trước. Khi hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán đã phát triển tới một trình độ nhất định thì các nước mới áp dụng mô hình Quỹ đầu tư dạng công ty. Trong khi đó, tại các nước phát triển thì lại áp dụng một cách đồng thời cả mô hình công ty và mô hình tín thác. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì các nước này đã phát triển ở một trình độ cao, hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ nên đã góp phần tạo ra một cơ chế hình thành và phát triển các Quỹ đầu tư một cách linh hoạt, tạo ra sự cạnh tranh giữa các định chế đầu tư. Chính vì vậy, với một đặc điểm tương tự như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia… trong buổi đầu hình thành Quỹ đầu tư chứng khoán thì đối với điều kiện Việt Nam hiện nay, việc lựa chọn mô hình tín thác sẽ là tối ưu nhất. Có một đặc điểm giống nhau ở cả thị trường phát triển lẫn thị trường mới nổi là điểm xuất phát của Quỹ đầu tư chứng khoán là Quỹ đầu tư dạng đóng được hình thành và phát triển trước Quỹ đầu tư dạng mở. Đặc trưng của Quỹ đóng là cơ cấu vốn ổn định, giúp cho các tổ chức quản lý quỹ còn ít kinh nghiệm trong thời gian đầu thành lập có thể quản lý tốt nguồn vốn của mình. Trong điều kiện thị trường tài chính Việt Nam quy mô còn nhỏ bé, kinh nghiệm thực tiễn trong việc điều hành hoạt động của Quỹ đầu tư còn hạn chế, thì việc hình thành các Quỹ đóng sẽ là phù hợp hơn cả. Tuỳ theo hệ thống pháp luật của từng nước mà các Quỹ đầu tư chứng khoán có thể chịu sự quản lý ở các cấp khác nhau. Tuy nhiên, do tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn của các Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường tài chính nên đại đa số các nước đều áp dụng việc các quỹ chịu sự quản lý ở cấp trung ương. ở cấp trung ương các quỹ có thể được quản lý bởi Bộ tài chính như Nhật Bản, Hàn Quốc… hay là Uỷ ban chứng khoán nhà nước như Mỹ đang thực hiện. Do mục tiêu đầu tư của các quỹ là vào thị trường chứng khoán nên hợp lý nhất là để Uỷ ban chứng khoán nhà nước quản lý. Bên cạnh đó, chúng ta cũng nhận thấy rằng, ở hầu hết các nước đều có hệ thống văn bản pháp lý ở cấp độ cao nhất điều chỉnh hoạt động của Quỹ đầu tư, hay tối thiểu là các chương lớn trong Luật chứng khoán. Chính vì vậy, đối với loại hình hết sức phức tạp như Quỹ đầu tư, thì Việt Nam nên sớm ban hành luật để tạo ra một khuôn khổ pháp lý vững chắc cho hoạt động của các quỹ. Ngoài ra, do Quỹ đầu tư cũng chỉ mới xuất hiện nên Việt Nam cũng ngay từ đầu nên thực hiện các chính sách ưu đãi như ưu đãi về thuế nhằm phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, nhờ vào việc áp dụng một chính sách thuế hợp lý mà hệ thống Quỹ đầu tư của Nhật đã thu hút được nhiều nhà đầu tư góp phần thúc đẩy ngành này phát triển mạnh mẽ. Sự thành công hay thất bại của việc kinh doanh Quỹ đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào khả năng phân phối và dịch vụ. Việc hỗ trợ của các ngân hàng được thể hiện qua những nỗ lực trong việc phân phối là chìa khoá cho sự thành công của các Quỹ đầu tư chứng khoán Thái Lan. Tại Việt Nam, hệ thống ngân hàng thương mại hiện đang là những tổ chức tham gia lớn nhất trên thị trường tài chính với hệ thống kênh phân phối rộng khắp đã được thiết lập từ lâu và không ngừng được mở rộng. Vì vậy, việc phân phối với hệ thống ngân hàng để có thể tận dụng được hệ thống kênh phân phối lớn sẵn có này sẽ là một lợi thế không nhỏ cho các Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam. Bên cạnh đó, kinh nghiệm liên doanh với nước ngoài để thành lập Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ nhằm tranh thủ vốn và kỹ năng của đối tác nước ngoài của Thái Lan cũng là điều mà Việt Nam nên học tập. Hiện nay, các điều kiện, nguồn lực của Việt Nam để hình thành và phát triển Quỹ đầu tư rất còn hạn chế nên việc dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài là cần thiết. Tuy nhiên, việc liên doanh phải hết sức thận trọng để một mặt tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư chứng khoán trong nước phát triển, mặt khác tránh được sự thao túng thị trường từ bên ngoài. Chương II Hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại việt nam I. Sự cần thiết của việc hình thành các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam Trên con đường hội nhập và phát triển, Việt Nam đang đứng trước một đòi hỏi rất lớn về vốn đầu tư xã hội trong khi thị trường tài chính thì chưa hoàn thiện còn thị trường vốn vẫn còn sơ khai. Trong khi đó, những người dân đang nắm trong tay một số lượng tiền nhàn rỗi lớn lại tỏ ra không mấy mặn mà với việc đầu tư. Họ thường chọn các phương pháp để dành phi kinh tế như lấy tiền mặt để đi mua vàng, USD, bất động sản… những thứ mà họ có thể kiểm soát được. Nếu có đầu tư thì chủ yếu họ sẽ đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ chứ không phải sản xuất. Theo như kết quả điều tra cho thấy, hiện nay lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư là khoảng hơn 4 - 6 tỷ USD, chiếm tới 40% - 50% khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Thế nhưng phần đông công chúng khi có tiền dư thường gửi tiết kiệm ở ngân hàng, ở Hà Nội là 53%, TP Hồ Chí Minh là 30%, hiện nay số dư tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân cư khoảng 4 tỷ USD. Số những người cất tiền ở nhà là 15% ) Theo Thời báo kinh tế Việt Nam năm 2002 ). Ngoài ra một bộ phận rất lớn công chúng đầu tư vào bất động sản, gây nên những cơn sốt nhà đất hoặc nếu chưa tìm được phương án đầu tư hợp lý thì đưa tiền vào tiêu dùng. Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đang đứng trước tình trạng thiếu vốn gay gắt. Khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp vẫn còn rất thấp, phương pháp huy động vốn nghèo nàn chủ yếu trông chờ từ vốn ngân sách và các khoản tín dụng ưu đãi từ ngân hàng. Kể từ khi Luật doanh nghiệp ra đời đã tạo ra môi trường hoạt động thông thoáng cho các doanh nghiệp nhưng mức độ phát triển còn nhiều hạn chế, quy mô còn nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có và các khoản vay qua hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp, việc tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng là rất khó khăn do cơ chế ngân hàng có những đòi hỏi hết sức khắt khe. Thực tế cũng cho thấy rằng tín dụng ngân hàng không thể thoả mãn được hết nhu cầu về vốn của các chủ thể kinh tế. Không chỉ có các doanh nghiệp, mà nhà nước cũng có nhu cầu về vốn rất lớn để phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Vốn tín dụng của chính phủ chủ yếu dựa trên nguồn vốn ODA, thông qua các đợt phát hành công trái, trái phiếu chính phủ hay huy động qua hệ thống ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, việc tìm ra các giải pháp để thu hút rộng rãi công chúng tham gia đầu tư, tăng quy mô vốn thị trường thông qua tạo lập ra các Quỹ đầu tư chứng khoán là rất cần thiết. Sự phát triển của loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ giúp cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát huy được vai trò thực sự trong việc chuyển tiết kiệm trong nền kinh tế thành đầu tư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự hiện diện của Quỹ đầu tư mang lại những lợi ích cho các thị trường tiếp nhận nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là các thị trường mới nổi. Quỹ đầu tư cung cấp nguồn vốn dài hạn và ổn định. Nguồn vốn và chiến lược đầu tư dài hạn của Quỹ đầu tư góp phần tăng cường khả năng huy động những nguồn vốn dài hạn và ổn định, giảm mức độ phụ thuộc của người sử dụng vốn vào các nguồn tài chính có tính biến động cao như nguồn tín dụng ngắn hạn do hệ thống ngân hàng cung cấp. Một tính chất của Quỹ đầu tư là đầu tư gián tiếp nên làm giảm lo ngại của chính phủ về vấn đề sở hữu tập trung, thâu tóm doanh nghiệp của người nước ngoài đối với các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, các Quỹ đầu tư (Quỹ đóng) thường được các chính phủ cho phép tham gia đầu tư trước khi thị trường chứng khoán được mở cửa cho những người đầu tư trực tiếp. Quỹ đầu tư đóng góp vào sự phát triển thị trường vốn. Những người quản lý thường mang theo mình những kỹ năng điều hành và phân tích đầu tư chuyên nghiệp. Người quản lý quỹ thường đòi hỏi những chuẩn mực cao trong hoạt động lưu ký, thanh toán bù trừ, công bố thông tin và giám sát thị trường. Kết quả là cơ sở thị trường được củng cố vững chắc. Quỹ cung cấp các phương tiện đầu tư đa dạng. Trước sự phát triển của nền kinh tế cùng với mức độ tích luỹ tài sản tài chính, người đầu tư có xu hướng phát sinh nhu cầu về các phương tiện đầu tư tài chính đa dạng. Để đáp ứng nhu cầu này, các công ty quản lý quỹ đầu tư phát triển những sản phẩm đầu tư tài chính đa dạng và linh hoạt về thời gian đáo hạn, tính sinh lợi và mức độ an toàn. Sự đa dạng và linh hoạt của các phương tiện đầu tư này giúp cho việc huy động nguồn vốn trong xã hội trở nên triệt để hơn. Chứng chỉ quỹ làm tăng tính thanh khoản của thị trường. Sự tham gia của những nguồn vốn mới từ bên ngoài vào một thị trường chứng khoán thường làm tăng mức cầu về chứng khoán, gia tăng tính thanh khoản của các chứng khoán và như vậy sẽ thu hút được các nhà đầu tư Việt Nam mà cho đến nay chỉ quen giữ hoặc gửi tiền của mình vào các tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng và nhờ đó các doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách dễ dàng hơn. Ngoài ra, Quỹ đầu tư chứng khoán còn cung cấp cơ hội cho nhà đầu tư vươn ra thị trường nước ngoài hoặc tái đầu tư khoản cổ tức và thặng dư vốn vào quỹ. Sự hiện diện của các Quỹ đầu tư kích thích tăng trưởng đối với các doanh nghiệp. Các quỹ cung cấp những nguồn vốn rủi ro cao và kỹ năng quản lý khoa học, đem lại những cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao. Trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, sự cần thiết của Quỹ đầu tư còn thể hiện ở một số điểm sau: - Thị trường chứng khoán Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu mới thành lập trong đó hầu hết các công ty chưa đủ uy tín và sức mạnh để hấp dẫn được các nhà đầu tư cá nhân. Do đó, khi công chúng đầu tư chưa tích cực tham gia vào thị trường thì vai trò của các nhà đầu tư có tổ chức như công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, Quỹ đầu tư… là hết sức quan trọng đối với sự ổn định của thị trường. Trên thị trường sơ cấp, những người đầu tư có tổ chức đóng vai trò tích cực trong việc tham gia, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh phát hành, phân phối chứng khoán, giúp các chủ thể phát hành huy động vốn một cách hiệu quả, tạo thêm hàng hoá cho thị trường. Trên thị trường thứ cấp, với kỹ năng phân tích đầu tư chuyên nghiệp và nguồn vốn lớn, dài hạn người đầu tư có tổ chức góp phần kiểm soát sự biến động giá chứng khoán do sự mất cân đối cung cầu, tạo sự ổn định cần thiết trên thị trường thứ cấp. - Quỹ đầu tư là một phương tiện đầu tư hiệu quả đối với những người không được trang bị những kỹ năng đầu tư chuyên nghiệp. Trong khi đại bộ phận người đầu tư có kiến thức về đầu tư chứng khoán còn rất hạn chế thì vai trò của Quỹ đầu tư càng trở nên có ý nghĩa. Việc tiếp cận đối với những nguồn thông tin đa dạng cộng với những chiến lược đầu tư khoa học trong hoạt động của quỹ khiến cho nguồn vốn đầu tư gián tiếp qua quỹ trở nên an toàn hơn. Mặt khác, chức năng chuyển đổi nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội thành nguồn vốn đầu tư trên phạm vi rộng làm cho Quỹ đầu tư trở thành phương tiện rất hiệu quả trong việc huy động vốn nhàn rỗi rộng rãi trong công chúng, phát huy nội lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Đồng thời, kỹ năng nghiên cứu, phân tích đầu tư chuyên nghiệp của quỹ sẽ góp phần hướng dẫn thị trường, nâng cao trình độ hiểu biết cũng như kỹ năng đầu tư chứng khoán của công chúng, giúp nâng cao tính xã hội hoá của hoạt động đầu tư. - Việc cho phép người nước ngoài đầu tư thông qua Quỹ đầu tư có thể giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực có thể phát sinh nếu mở cửa thị trường cho người nước ngoài đầu tư trực tiếp ngay trong giai đoạn đầu. Những ảnh hưởng tiêu cực này có thể là việc người nước ngoài thâu tóm quyền kiểm soát công ty, hay sự rối loạn trên thị trường chứng khoán do sự dịch chuyển đột biến của các luồng tài chính. Thêm vào đó, trước sự giảm sút của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thì việc cho phép đầu tư gián tiếp của nước ngoài thông qua các Quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán có thể được coi là một giải pháp hữu hiệu tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời là bước đi phù hợp của Việt Nam trong việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Quỹ đầu tư là phương tiện thuận tiện, đơn giản và linh hoạt cho phép người nước ngoài đóng góp và tham gia vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Tóm lại, trong điều kiện hiện nay sự ra đời và hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán là một tất yếu khách quan quyết định đến sự ra đời và vận hành của thị trường chứng khoán, góp phần tạo lập thị trường vốn, mở ra một kênh huy động vốn trung - dài hạn phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển đất nước. II. Quỹ đầu tư theo quy chế của Việt Nam Sau khi có các cơ sở pháp lý về thị trường chứng khoán tại Việt Nam, cụ thể là sau khi Nghị định 48/1998/NĐ-CP, cùng với một số văn kiện quan trọng khác, Uỷ ban chứng khoán nhà nước Việt Nam (SSC) đã ban hành quy định Quy chế về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Mới đây, vào ngày 28/11/2003, Nghị định 144 về chứng khoán và thị trường chứng khoán ra đời, thay thế hoàn toàn cho Nghị định 48. Về cơ bản, những quy định về Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ trong Nghị định 144 vẫn chưa có gì thay đổi so với Nghị định 48. Quy chế về tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ định nghĩa Quỹ đầu tư chứng khoán như sau “Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của người đầu tư, được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ quản lý và đầu tư vào chứng khoán tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ”. Theo định nghĩa trên thì quỹ phải đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của mình nhưng lại không có quy định tỷ lệ đầu tư vào chứng khoán niêm yết hay không niêm yết. Mặt khác, trong Nghị định 144 thì thuật ngữ “chứng khoán” được hiểu là các chứng khoán niêm yết. Như vậy, Quỹ đầu tư chứng khoán không thể đầu tư với tỷ lệ giới hạn 60% vào chứng khoán được vì hiện nay hàng hóa niêm yết trên thị trường chứng khoán còn quá ít, điều này làm cho các Quỹ đầu tư không thể dễ dàng tồn tại. Bên cạnh đó, định nghĩa về Quỹ đầu tư chứng khoán như trên là quá hẹp, không có lợi trong việc phát triển một thị trường chứng khoán năng động, hiệu quả. Cũng theo tinh thần của quy chế, chỉ có hai loại quỹ căn bản được đề cập, đó là Quỹ đầu tư chứng khoán đóng (Quỹ đóng) và Quỹ đầu tư chứng khoán mở (Quỹ mở). Như thế, các hình thái quỹ khác không hoặc chưa được thành lập, thiếu hẳn các loại hình Quỹ đầu tư chứng khoán đa dạng khác. Theo định nghĩa của quy chế, một quỹ được gọi là đóng khi người đầu tư không thể bán lại chứng chỉ đầu tư cho quỹ đó trong suốt thời gian tồn tại của quỹ. Tổng trị giá chứng chỉ quỹ đầu tư bán được trong đợt phát hành lần đầu tối thiểu đạt 5 tỷ VNĐ và số người sở hữu chứng chỉ tối thiểu là 100 người. Ngược lại, với Quỹ mở, người đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ đầu tư cho quỹ mà họ đã mua và số lượng chứng chỉ quỹ đầu tư bán được trong đợt phát hành lần đầu đạt tối thiểu 15% tổng số chứng chỉ xin phép phát hành tối đa. Số lượng chứng chỉ phát hành được hạn chế theo một mức tối đa quy định trong điều lệ quỹ đã được phê duyệt. Như vậy, tổng vốn huy động của Quỹ mở bị giới hạn trước, không giống như cơ chế huy động và quản lý vốn của một Quỹ tương hỗ mà ta đã biết. Đối với Quỹ mở, công ty quản lý quỹ phải thường xuyên duy trì tỷ lệ tài sản lưu hoạt ghi trong điều lệ quỹ. Tài sản lưu hoạt là phần tài sản có của quỹ bao gồm tiền mặt và các tài sản khác có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt trong 15 ngày. Tỷ lệ này tối thiểu phải bằng 20% tổng giá trị tài sản của quỹ. Tham gia trong quá trình hoạt động của quỹ chủ yếu có công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát. Công ty quản lý quỹ đứng ra quản lý quỹ, phát hành chứng chỉ đầu tư, cử người điều hành, quản lý hoạt động và chịu trách nhiệm về hiệu quả và pháp lý của quỹ. Ngân hàng giám sát đảm nhận việc bảo quản, lưu ký các chứng khoán mà quỹ nắm giữ để kinh doanh, lưu giữ các hợp đồng kinh tế, các chứng từ có liên quan tới tài sản của quỹ, đồng thời giám sát hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Thành viên hội đồng quản trị công ty quản lý quỹ, người điều hành công ty quản lý quỹ và những người điều hành quỹ không được là cổ đông của ngân hàng giám sát. Theo nội dung của quy chế, công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư là hai thực thể được cơ cấu và tổ chức khác nhau. Công ty quản lý quỹ cùng lúc có thể khai sinh và quản lý nhiều quỹ độc lập nhau, đồng thời có sự độc lập cả về tài sản, các nghĩa vụ tài chính giữa công ty quản lý quỹ và một Quỹ đầu tư nào đó. Người điều hành quỹ là người được công ty quản lý quỹ chỉ định để trực tiếp điều hành hoạt động của một quỹ. Trong khi công ty quản lý quỹ được tổ chức và hoạt động như một doanh nghiệp, có đầy đủ tư cách pháp nhân, có hội đồng quản trị và hệ thống hành chính nhân sự… thì Quỹ đầu tư là một tập hợp có điều lệ và tài sản độc lập nhưng không có bộ máy điều hành riêng gắn trực tiếp với nó. Quỹ đầu tư không là pháp nhân mà chỉ có đại hội những người đầu tư do công ty quản lý quỹ hoặc ngân hàng giám sát triệu tập có điều kiện và tuỳ thuộc vào tình huống được nêu trong quy chế. Các Quỹ đầu tư khi được tổ chức theo SSC thì thực chất có thể xem là các sản phẩm của công ty quản lý quỹ đầu tư. Tuy nhiên, theo định nghĩa của quy chế, chúng lại được xem là tài sản uỷ thác cho công ty quản lý quỹ để quản lý. Đồng thời, quyền lợi và nghĩa vụ đối với một quỹ của công ty quản lý quỹ nào có thể được chuyển nhượng cho một công ty quản lý quỹ khác nếu được SSC chấp thuận. Một số quy định về cơ cấu vốn và điều kiện đầu tư của công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư được nêu trong quy chế như sau: Một Quỹ đầu tư chứng khoán, cả Quỹ đóng và Quỹ mở, phải đầu tư tối thiểu 60% tổng giá trị tài sản của chúng vào chứng khoán. Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ đầu tư quá 15% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành và không được đầu tư quá 10% tổng giá trị tài sản của một quỹ vào chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành. Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của quỹ để cho vay và bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào, và không được phép vay để tài trợ cho hoạt động của quỹ trừ trường hợp vay ngắn hạn để trang trải cho các chi phí cần thiết. Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của một quỹ để đầu tư trực tiếp vào bất động sản quá 10% giá trị tài sản của quỹ. Một quỹ không được nắm giữ quá 10% tổng vốn cổ phần của một công ty không niêm yết, đồng thời không được sử dụng quá 5% tổng giá trị tài sản của quỹ để đầu tư vào riêng tại một công ty không niêm yết nào đó. Một quỹ không được nắm giữ quá 30% tổng giá trị tài sản của các công ty trong cùng một tập đoàn hay một nhóm công ty có quan hệ sở hữu lẫn nhau. Công ty quản lý quỹ không được phép dùng vốn và tài sản của các quỹ do mình quản lý để mua quá 49% tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành (đã tham gia thị trường chứng khoán) hoặc một công ty không niêm yết. Nếu theo các điều kiện trên ta có thể thấy rằng nó sẽ gây khó khăn cho các Quỹ đầu tư trong quá trình hoạt động. Mục tiêu của các quỹ là hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà hầu hết các doanh nghiệp này đều có mức vốn dưới 10 tỷ VND. Điều này dẫn đến tỷ lệ vốn đầu tư vào một doanh nghiệp trên tổng nguồn vốn của quỹ là quá thấp và cũng vì vậy mà quỹ đầu tư vào nhiều doanh nghiệp khác nhau. Kết quả là chi phí quản lý cao, dẫn đến các công ty sẽ thu được lãi thấp. Về việc giải thể của quỹ. Quỹ chỉ được giải thể trong trường hợp kết thúc thời hạn hoạt động ghi trong điều lệ quỹ, hoặc trong trường hợp phải giải thể quỹ nhằm bảo vệ lợi ích người đầu tư. Việc giải thể phải xin phép Uỷ ban chứng khoán nhà nước và chỉ được chấp thuận khi phương án giải thể quỹ phù hợp với quyền lợi người đầu tư. Trong trường hợp công ty quản lý quỹ phá sản, tài sản thuộc quỹ là của người đầu tư và không được tính là tài sản của công ty quản lý quỹ. Không ai được sử dụng vốn hay tài sản của của quỹ để thanh toán những khoản nợ của công ty quản lý quỹ. Tóm lại, mặc dù quy chế công ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư còn quy định nhiều điều bất cập nhưng sự ra đời của nó mang một ý nghĩa rất lớn, là một cột mốc quan trọng và là sự quyết tâm lớn của Uỷ ban chứng khoán nhà nước Việt Nam. ý nghĩa của nó thể hiện ở chỗ nó thúc đẩy hoạt động đầu tư tài chính nước nhà vào buổi đầu còn bỡ ngỡ, nhất là quá trình cổ phần hoá, hợp nhất các định chế về mặt luật cho các loại công ty và đặc biệt là sự hình thành của thị trường chứng khoán. III. Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam Sau khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, đặc biệt là kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào tháng 2 năm 1998, hàng loạt công ty đầu tư nước ngoài đã bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam. Cùng với làn sóng đầu tư đó, trước năm 1993 khi có thông tin về sự hình thành của thị trường chứng khoán Việt Nam, một số Quỹ đầu tư cũng đã được thành lập. Đây là các quỹ đầu tư tư nhân thành lập ở nước ngoài nhưng được phép vào hoạt động có hạn chế ở Việt Nam. - Tháng 10 năm 1991 : Vietnam Fund - Tháng 06 năm 1992 : Vietnam Keppel Fund (The Vietnam Investment Fund Ltd.) - Tháng 08 năm 1993 : Beta Vietnam Fund - Tháng 07 năm 1994 : Vietnam Frontier Fund - Tháng 07 năm 1994 : Vietnam Enterprise Investment Fund - Tháng 09 năm 1994 : Templeton Vietnam Opportunities Fund - Tháng 10 năm 1994 : Lazard Vietnam Fund Tất cả các quỹ này đều được niêm yết ở Dublin, Ireland do lệnh cấm vận Việt Nam của Mỹ trước tháng 9 năm 1994. Sau khi dỡ bỏ lệnh cấm vận, Templeton Vietnam Opportunities Fund được thành lập và niêm yết ở New York Stock Exchange. Cuối năm 1994, mặc dù số vốn các quỹ huy động chưa được đầu tư hoàn toàn nhưng giá giao dịch của các quỹ trên tất cả các thị trường chứng khoán đều được giao dịch ở mức Premium. Đây là thời gian các quỹ phát triển rất mạnh mẽ do thực tế năm 1993, 1994 là những năm cao điểm của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Việc Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận là một trong những lý do chính đem lại sự thành công vang dội này. Chính vì vậy, cổ phiếu của các quỹ đều được giao dịch ở mức Premium. Bảng 2.1 : Hoạt động của các quỹ vào tháng 11 năm 1994 Nguồn: Reports by Baring Securities, Merril Lynch Tên quỹ Vốn huy động (triệu USD) Giá cổ phiếu (USD) Mức Premium/ Discount TTCK Dạng quỹ Vietnam Fund 75 15 + 40.6% Dublin Đóng Vietnam Keppel Fund 12.5 - - - Đóng Beta Vietnam Fund 68.3 52.5 + 4.6% Dublin Đóng Vietnam Frontier Fund 27.5 5.5 +10.2% Dublin Đóng Vietnam Lazard Fund 58.8 - - - Đóng Templeton Vietnam Fund 117 - + 6.1% NYSE Đóng Tất cả các quỹ trên nhìn chung đều được gọi là các Quỹ nội địa vì tất cả vốn của chúng đều được đầu tư vào một quốc gia riêng lẻ. Phương pháp đầu tư thông thường của các quỹ là mua cổ phiếu của các công ty không được niêm yết, các công ty được cổ phần hoá hay tham gia vào sự hình thành của các công ty mới như là những cổ đông sáng lập. Do ở Việt Nam vào năm 1993, 1994 không có thị trường chứng khoán nên các Quỹ đầu tư không có sự lựa chọn nào hơn là đầu tư vào những công ty không niêm yết. Vì vậy, sự thành thạo chuyên môn của họ trong việc điều hành các danh mục đầu tư bị hạn chế và các quỹ buộc phải đầu tư vào những công ty không được niêm yết một cách hấp tấp. Phụ thuộc vào kỹ năng quản lý, khả năng tiếp cận, các quỹ sẽ đầu tư vào những lĩnh vực khác nhau. Nhìn chung, tới năm 1998 các quỹ đầu tư vào những lĩnh vực sau: Bất động sản: toà nhà văn phòng, khách sạn, tổ hợp giải trí… Vật liệu xây dựng Dệt may Dược Sản phẩm nông nghiệp, chế biến thực phẩm Vận tải công cộng Sản xuất than thép Ngân hàng, tài chính Dịch vụ y tế và giáo dục Xây dựng Thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông Tiêu chuẩn để quyết định đầu tư vào một dự án là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ IRR (ít nhất là 20%), tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng cao, thời kỳ hoàn vốn ngắn (5 năm hoặc ít hơn, ngoại trừ các dự án đầu tư vào bất động sản) bởi vì thời gian hoạt động của các quỹ thông thường 10 năm là cao nhất. Dự án còn phải có triển vọng được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong thời gian này, khi chưa có thị trường chứng khoán Việt Nam thì cổ phiếu của một số dự án đã được niêm yết ở thị trường chứng khoán Hồng Kông hay Singapore. Quá trình để đưa ra quyết định đầu tư bằng cách chọn lựa và đánh giá mỗi dự án trước khi chúng được đưa ra hội đồng thẩm định đầu tư của mỗi quỹ là một sự chuẩn bị với sự thận trọng ở mức cao nhất và rất chuyên nghiệp. Những đánh giá đầu tư như vậy không chỉ liên quan tới bản thân quỹ mà còn phải cần đến dịch vụ của kiểm toán, công ty luật để giúp quỹ đưa ra những quyết định đúng đắn nhất. Quá trình này thông thường phải mất 6 tháng để đưa ra quyết định. Trong thực tế, mỗi quỹ phải xem xét 300 tới 400 dự án để chọn ra khoảng 30 dự án làm thành một danh sách đầu tư tiềm năng. Từ danh sách này, hội đồng quản trị của quỹ sẽ lựa chọn ra khoảng 15 đến 20 dự án để đầu tư. Với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, một vài quỹ đã điều chỉnh cả những quy định của thể chế tài chính để có thể đầu tư vào các công ty tiềm năng trên thị trường Việt Nam. Khi chưa có những văn bản luật nào cho phép sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng địa phương, các quỹ đã táo bạo đầu tư vào những ngân hàng cổ phần tư nhân. Nhiều quỹ đã sử dụng thoả thuận khoản vay có thể chuyển đổi để có thể đầu tư sớm vào ngân hàng ACB, ngân hàng Maritime hay ngân hàng AP… Khi đầu tư vào Việt Nam, các quỹ phải đối mặt với nhiều rào cản làm hạn chế đầu tư. Với hành lang pháp lý còn nhiều bất cập, những hạn chế trong việc chuyển đổi tiền tệ, rủi ro tỷ giá đi liền với sự quan liêu và gánh nặng hành chính ở mọi cấp… đã làm giảm giá cổ phiếu của quỹ. Thêm vào đó, khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 và những hạn chế khác đã ảnh hưởng tới khuynh hướng đầu tư của nhiều nhà đầu tư vào thị trường Việt Nam. Trong một thời gian dài hoạt động tại Việt Nam nhưng quỹ Templeton không thể nhận ra đâu được là những dự án đầu tư phù hợp. Họ nhận được 250 lời đề nghị đầu tư nhưng chỉ mới ký kết được mỗi 3 dự án. Không tìm được cơ hội đầu tư, Templeton Vietnam Opportunities Fund đã buộc phải cơ cấu lại vốn, phân nửa tài sản được trả lại cho các cổ đông và quyết định chuyển 90 triệu USD còn lại trong quỹ sang một quỹ khác, chuyển trọng tâm hoạt động sang các thị trường khác trong Đông Nam á, trở thành quỹ khu vực. Thực tế, trong bảy quỹ trên thì chỉ còn năm quỹ hoạt động cầm chừng hoặc bán tài sản để kết thúc hoạt động. Tổng số vốn đầu tư của Lazard Vietnam Fund là 58,8 triệu USD nhưng quỹ mới chỉ đầu tư được 9,5 triệu USD tức 16% tổng vốn của mình, số còn lại vẫn ở dưới dạng tiền mặt. Do vậy, mặc dù, đến năm 2002 quỹ mới hết thời hạn hoạt động nhưng Lazard Vietnam Fund đã kết thúc sớm hoạt động của mình vào năm 1998 bằng cách bán 6,6 triệu USD giá trị cổ phần của nhà máy đường Nagarjuna cho người điều hành ấn Độ. Nó cũng bán 6.6% vốn góp ở công ty cổ phần cơ điện lạnh REE trị giá 1 triệu USD cho Dragon Capital Ltd. Vietnam Keppel Fund thì chỉ đầu tư vào những dự án nào mà có sự tham gia của Keppel Corporation. Vào năm 1998, quỹ ngừng hoạt động tại Việt Nam. Tình hình đầu tư của các quỹ khác cũng không được khả quan. Vietnam Frontier mặc dù NAV tăng 18% nhưng điều đó cũng không phản ánh được gì vì các quỹ Mỹ Latin có mức tăng NAV trung bình là 31%. Vietnam Fund thì đang được giao dịch ở mức 18% Discount so với mức 75% Premium trong những năm đầu hoạt động. Tới bây giờ, trong bảy quỹ đó thì chỉ còn bốn quỹ hoạt động ở Việt Nam là: Vietnam Fund, Beta Vietnam Fund, Vietnam Frontier Fund, Vietnam Enterprise Investments Ltd. Chúng đang thu hẹp hoạt động của mình hoặc bán tài sản để kết thúc hoạt động của quỹ. Các quỹ sẽ kết thúc hoạt động nếu các cổ đông không bỏ phiếu để mở rộng hoạt động của quỹ. Tất cả các Quỹ đầu tư nêu trên đều là những Quỹ đầu tư chuyên nghiệp, được điều hành bởi các quản trị viên xuất sắc, trong đó có cả các nhà đầu tư Việt Nam tên tuổi rất nổi tiếng trong giới đầu tư quốc tế, song cuối cùng họ không đạt được thành công như mong muốn. “Việt Nam vẫn chỉ là một lời dự đoán tốt” đó là nhận định của các nhà đầu tư đối với Việt Nam. Vậy thì lý do nào đã làm nên một bức tranh u ám cho phần lớn các quỹ ? Môi trường kinh tế không ổn định. Do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực lên các mặt hoạt động then chốt của nền kinh tế và những bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế. Đầu tư phát triển trong nền kinh tế, đặc biệt là đầu tư của các doanh nghiệp và của nhân dân vẫn trầm lắng, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh. Hoạt động thị trường nói chung đều kém sôi động. Cơ hội và môi trường đầu tư vẫn bấp bênh. Tiền gửi tiết kiệm và các nguồn vốn huy động qua ngân hàng tăng nhanh hơn mức tăng trưởng tín dụng, dẫn tới ứ đọng vốn. Trong khi các ngân hàng ứ thừa vốn thì các doanh nghiệp cần vốn lại e ngại đầu tư. Trong bối cảnh nền kinh tế đó, hầu hết các công ty lâm vào tình trạng khó khăn, một số doanh nghiệp chỉ hoạt động cầm chừng nên các Quỹ đầu tư rất khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư. Tình trạng trầm lắng của nền kinh tế cũng gây nên tâm lý ngần ngại, e dè cho các tập đoàn tài chính quốc tế trong việc quyết định thành lập Quỹ đầu tư. Hành lang pháp luật. Có thể thấy hành lang pháp luật của Việt Nam đang được cải tổ nhưng thực tế nó luôn không theo kịp diễn biến của thị trường. Giới hạn của Luật doanh nghiệp chỉ cho phép các đối tác nước ngoài được nắm giữ tối đa 30% cổ phiếu của một công ty. Do đó, tác động của họ với đối tác đầu tư hoàn toàn không đủ mạnh. Bên cạnh đó, các điều luật về chứng khoán, tài chính, ngân hàng có liên quan cũng đều không đồng bộ. Tất cả những bất cập đó khiến các Quỹ đầu tư phải hoạt động trong một hành lang pháp lý hẹp. Sự phát triển của thị trường mới nổi khác. Trước đây các nhà đầu tư rất háo hức tham gia vào thị trường Việt Nam, coi đây là một thị trường mới nổi đầy tiềm năng. Nhưng sau một thời gian hoạt động không hiệu quả tại Việt Nam, bên cạnh đó lại xuất hiện nhiều thị trường mới nổi khác có môi trường đầu tư thuận lợi hơn nhiều so với Việt Nam, nên đã buộc các nhà đầu tư phải cân nhắc lại quyết định đầu tư của mình. Hoạt động của thị trường chứng khoán. Hoạt động của các Quỹ đầu tư có hiệu quả, có mang lại lợi nhuận hay không phụ thuộc vào sự sôi động của thị trường chứng khoán. Trong khi đó, nhịp độ hoạt động trên thị trường chứng khoán lại là hệ quả của sự tham gia của các doanh nghiệp và sự quan tâm của công chúng đầu tư vào thị trường chứng khoán. Nhiều doanh nghiệp cho rằng họ vẫn chưa thực sự có nhu cầu huy động vốn dài hạn thông qua thị trường chứng khoán. Một số doanh nghiệp chỉ cần nguồn vốn ngắn hạn để trang trải các chi phí sản xuất mà ngân hàng cũng có thể đáp ứng được nhu cầu này, hơn nữa lãi suất ngân hàng hiện nay tương đối thấp. Như vậy, ban đầu sự tham gia của các doanh nghiệp là khá hạn chế. Về phía công chúng, họ ngại môi trường kinh tế không ổn định dễ phát sinh rủi ro khi đầu tư vào chứng khoán. Chính sách thu hút đầu tư. Các Quỹ đầu tư nước ngoài luôn nhắm đến thị trường chứng khoán và mong muốn đầu tư vào các cổ phiếu niêm yết hoặc sắp được niêm yết vì chất lượng và tính thanh khoản cao của thị trường này. Quá trình đầu tư gián tiếp này còn giúp họ tiết kiệm được thời gian nghiên cứu cơ hội và giảm thiểu chi phí đầu tư so với đầu tư trực tiếp trong khi vẫn đóng góp được vốn và kinh nghiệm quản trị cho các doanh nghiệp đầu tư. Tuy nhiên, các nhà quản lý hình như chưa có chính sách thông thoáng để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, họ sợ bị phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài. Nhân sự. Trong một vài trường hợp, tuyển dụng các nhà quản lý dựa trên mối quan hệ cá nhân ở Việt Nam với kết quả là người quản lý không phù hợp với các tiêu chuẩn. Một số trường hợp khác, người điều hành được tuyển do các công ty săn đầu người nước ngoài nên họ không có kinh nghiệm kinh doanh ở Việt Nam và giải quyết những mâu thuẫn với nhân viên địa phương. Mặc dù với những hạn chế trên, nhưng từ năm 2002 đến nay, đã có hai Quỹ đầu tư mới đang đi vào hoạt động đó là Mekong Enterprise Fund và Vietnam Opportunities Fund. Đặc biệt một sự kiện nổi bật khác đó là sự thành lập của công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tiên tại Việt Nam Vietnam Management Fund. Phải chăng cơ hội đầu tư đã quay trở lại? Dưới đây, chúng ta sẽ có một cái nhìn cụ thể về hoạt động của từng quỹ tại Việt Nam. IV. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam 1. Vietnam Fund Vietnam Fund là Quỹ đầu tư đầu tiên bước chân vào thị trường Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 57,6 triệu USD. Cổ phần của quỹ ngoài việc được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Dublin, nó còn được giao dịch trên thị trường OTC London. Mục tiêu của Vietnam Fund là đạt được sự tăng trưởng vốn dài hạn thông qua việc đầu tư vào các dự án và công ty chưa được niêm yết tại Việt Nam. Để đạt được mục tiêu trên, quỹ thiết lập hai danh mục đầu tư theo tỷ lệ 40/60 cho các khoản đầu tư vào các công ty Việt Nam và các liên doanh do người nước ngoài điều hành. Quá trình đầu tư được chia làm hai giai đoạn mỗi giai đoạn có thời hạn 5 năm. Vietnam Fund là quỹ dạng đóng, được tổ chức theo mô hình công ty. Công ty quản lý quỹ là Vietnam Fund Management Company. Ngân hàng giám sát là Lloyds Bank. Công ty quản lý quỹ, ngân hàng Lloyds nhận được khoản thu phí từ 2,5% và 0,25% (ít nhất là 75.000 USD) trên giá trị tài sản ròng lần lượt từng năm một. Chính sách định giá của Vietnam Fund là bất kỳ một sự gia tăng nào về giá trị tài sản thuần của quỹ và việc mua lại chúng của quỹ đều được phản ánh ở thu nhập giữ lại hơn là sự gia tăng về vốn. Điều này cho thấy các nhà quản lý đều đánh giá tình hình đầu tư tại Việt Nam không còn thuận lợi, họ quan tâm tới sự an toàn hơn là lợi nhuận. Để hạn chế rủi ro, các khoản đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam được quỹ cơ cấu sao cho một phần lợi nhuận quỹ sẽ nhận được dưới dạng cổ tức hoặc lợi nhuận được chia hàng năm và phần còn lại là do tăng trưởng vốn khi bán loại chứng khoán đầu tư đó hoặc khi chứng khoán đó được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mục tiêu của quỹ khi đầu tư vào các công ty Việt Nam là hy vọng chúng sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Còn đối với khoản đầu tư vào các liên doanh, lợi nhuận chủ yếu thu được từ lãi vốn khi chuyển chứng khoán đầu tư đó thành tiền. Một nguyên tắc chung là quỹ sẽ bán phần đầu tư vào các công ty mới ngay khi chúng đi vào hoạt động chính thức. Quỹ không có ý định nắm quyền kiểm soát ở các công ty nhận đầu tư nhưng nếu cần thì quỹ sẽ thực hiện quyền đó để thay đổi hoạt động của các công ty sao cho có hiệu quả. Quỹ cũng hạn chế trong việc hỗ trợ các công ty Việt Nam và thường chỉ dừng lại với vai trò là một công ty quản lý giúp công ty nhận vốn tìm kiếm nhân viên thích hợp để cơ cấu lại bộ máy quản lý. Từ khi bắt đầu hoạt động đến nay, quỹ đã thực hiện tất cả 11 khoản đầu tư trong đó có một khoản đầu tư đã được thu hồi vốn. Trong 11 dự án đã đầu tư đó thì có 6 vào các công ty trong nước. Trọng tâm đầu tư của quỹ là các dự án đầu tư trên 1 triệu USD vào các công ty trong nước và liên doanh, ưu tiên các công ty trong khu vực xuất khẩu có kim ngạch 4-10 triệu USD. Lượng vốn đầu tư của quỹ được phân chia theo tỷ lệ 32% NAV (tương ứng 18,4 triệu USD) vào cổ phần của các công ty Việt Nam và 46,8% NAV (26,9 triệu USD) vào cổ phần của các công ty nước ngoài còn lại là phần tài sản chưa đầu tư. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2003 thì NAV của quỹ đang ở mức 10,07 USD) www.investmentfunds.com ). Bảng 2.2 : Danh mục các dự án đầu tư của quỹ Vietnam Fund Nguồn: Báo cáo của Vietnam Fund năm 2002 Tên dự án Lĩnh vực Giá trị ĐT (triệu USD) Tỷ lệ vốn % 1. Dragon Properties Asia Holdings Bất động sản 10.57 18 2. Anglo Vietnam Sugar Investment Chế biến 9.04 16 3. Công ty Huy Hoàng Xây dựng 3.96 7 4. Công ty xây dựng Việt Hoa Bất động sản 3.55 6 5. Ngân hàng VP Dịch vụ tài chính 3.45 6 6. Công ty VF-CGZ Du lịch 4.514 8 7. Công ty Hun San Sản xuất công nghiệp 2.56 5 8. Công ty Johnson Suisse Asia Sản xuất công nghiệp 2.07 4 9. Công ty Agravina Chế biến thực phẩm 0.79 1 10. Ngân hàng thương mại á châu Dịch vụ tài chính 4 7 Theo cơ cấu ngành, phần đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất là bất động sản 24,8%, tiếp đó là chế biến sản phẩm nông nghiệp 17,1%, công nghiệp 15%, dịch vụ tài chính 14,1% và du lịch 7,9 %. Nhìn chung, danh mục đầu tư của quỹ tương đối đa dạng, dàn trải ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, tỷ lệ giữa các khoản đầu tư trong cùng một danh mục không cân đối. Trong 17% đầu tư vào nông nghiệp có tới 16% đầu tư vào công ty đường Anglo, chỉ 1% vào công ty Agravina. Tương tự, 24% đầu tư vào bất động sản thì 18% vào bất động sản của công ty Dragon còn lại 6% vào công ty du lịch Việt Hoa ) Báo cáo của Vietnam Fund năm 2002 ). Trong các công ty Việt Nam, công ty Việt Hoa, công ty Hun San, công ty Huy Hoàng được quỹ đầu tư dưới hình thức nợ tài chính. Công ty Huy Hoàng là một công ty kinh doanh trong lĩnh vực phát triển nhà ở và xây dựng. Năm 1993, quỹ đã đầu tư 4 triệu USD vào công ty này dưới dạng một khoản vay có thể chuyển đổi. Đây là một khoản vay có bảo lãnh của ngân hàng và có thể chuyển đổi thành 25% cổ phần của công ty. Cũng như công ty Huy Hoàng, công ty Việt Hoa chuyên xây dựng các trung tâm thương mại sau đó cho thuê tài chính dài hạn. Quỹ còn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nhẹ như công ty Hun San, một công ty sản xuất giày dép hàng đầu của Việt Nam. Nhà quản lý quỹ có chính sách cử nhân viên sang giúp Hun San để cải thiện tình hình quản lý tài chính và giảm bởt những khó khăn trong việc thanh toán của công ty. Hiện nay, công ty đang hoạt động rất hiệu quả, mức trả lãi suất hàng năm khoảng 7,4%. Sự thành công của quỹ ở khu vực này đã làm thay đổi chính sách cổ tức của quỹ. Ban đầu, kế hoạch của ban lãnh đạo quỹ là không trả cổ tức để tái đầu tư toàn bộ lợi nhuận và lãi vốn từ các khoản đầu tư đã thực hiện. Thế nhưng nhờ có dòng thu nhập ổn định, từ tháng 7 năm 1997 quỹ quyết định trả cổ tức và vẫn thực hiện cam kết phân phối lãi cổ phần từ việc mua lại chứng chỉ. Cũng chính nhờ những thành công trên đã mở ra một chiến lược mới cho quỹ. Theo điều lệ quỹ, Vietnam Fund sẽ chính thức giải thể vào ngày 31/10/2001. Thế nhưng, với việc thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào tháng 7 năm 2000 thì việc thanh lý các khoản đầu tư vào năm 2001 là quá sớm. Chính vì vậy, Vietnam Fund sẽ vẫn bảo đảm không thực hiện các khoản đầu tư mới mà chỉ theo đuổi chiến lược thanh lý các khoản đầu tư. 2. Beta Vietnam Fund Beta Vietnam Fund được thành lập vào tháng 9 năm 1993 với tổng tài sản là 66 triệu USD. Quỹ dạng đóng được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Dublin. Quỹ được quản lý bởi công ty Indochina Asset Management với ngân hàng giám sát là ngân hàng Bermuda. Mục tiêu đầu tư của Beta Vietnam Fund là tăng trưởng vốn. Vì vậy, quỹ chỉ lựa chọn đầu tư vào các công ty nơi mà quỹ có thể mở rộng mức độ ảnh hưởng. Quỹ xác định trọng tâm đầu tư là vào các dự án đầu tư giá trị 1-5 triệu USD vào cổ phiếu thiểu số của các công ty nước ngoài quản lý, tránh đầu tư vào các công ty đang hình thành và các công ty trong nước. Khi đầu tư vào một dự án, người quản lý quỹ sẽ chú trọng 50% đến đội ngũ quản lý, 35% vào hiệu quả kinh doanh của ngành và 15% là vào khả năng tài chính. Như vậy, quỹ rất coi trọng đến khả năng quản lý của một dự án. Để hạn chế rủi ro, quỹ giới hạn các khoản đầu tư không niêm yết chỉ ở mức 5% NAV. Bảng 2.3 : Danh mục các dự án đầu tư của quỹ Beta Vietnam Fund Nguồn: Annual Report Company Data/ Bear Stearns Tên dự án Lĩnh vực Giá trị ĐT (triệu USD) % trên NAV 1. Saigon Water Park Giải trí 4,6 6,9 2. Anziol Thăm dò khí - - 3. Iddison Group Vietnam Tập đoàn - - 4. Indotel Khách sạn 6 9 5. Vietnam Industrial Investment Thép 1,1 1,6 6. Frontier Petrolium Thăm dò khí - - 7. Công ty vật liệu xây dựng KDL Vật liệu xây dựng 3,4 5,1 8. Indochina Finance Cho thuê tài chính 0,1 1,2 9. Công ty nước hoa quả Indochina Sản phẩm nông nghiệp 3 4,5 10. Khách sạn và khu nghỉ Beta Khách sạn 7 10,6 11. Câu lạc bộ Golf Palace Đà Lạt Giải trí 0,3 0,6 12. Câu lạc bộ Golf Phan Thiết Giải trí 0,1 0,2 13. Công ty TNHH giải trí Mekong Giải trí - - 14. Bio Asia Công nghệ sinh học 2,9 4,3 15. Beta Vietnam Textile Industrial Ltd Dệt may - - 16. Vina Taxi Ltd Giao thông 1,2 1,8 17. Greater Indochina Investment Ltd Giáo dục/ truyền thông 3,7 5,5 18. Indochina Leasing Tài chính - - 19. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Trái phiếu 8,8 13,1 20. Terrytex Pre Ltd Nhà phân phối 0

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoaluantotnghiep.doc