Tài liệu Đề tài Phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty May Đức Giang: LỜI NÓI ĐẦU
Vốn là một trong những yếu tố tiền đề để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện giới hạn về nguồn lực sản xuất thì việc làm thế nào để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả trở thành một vấn đề được quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam.
Sau quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề hiệu quả trong kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam còn nhiều điều phải bàn, và ngày càng trở thành vấn đề có tính thời sự. Do đó, việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp Nhà nước có ý nghĩa và vai trò quan trọng. Không những giúp bản thân các doanh nghiệp tìm cách sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn của mình, mà còn giúp cho cơ quan chủ quản của doanh nghiệp có biện pháp quản lý phù hợp.
Công ty May Đức Giang là một doanh nghiệp Nhà nước cũng đang đứng trước thách ...
92 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty May Đức Giang, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn là một trong những yếu tố tiền đề để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện giới hạn về nguồn lực sản xuất thì việc làm thế nào để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả trở thành một vấn đề được quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam.
Sau quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề hiệu quả trong kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam còn nhiều điều phải bàn, và ngày càng trở thành vấn đề có tính thời sự. Do đó, việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá hiệu quả của việc sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp Nhà nước có ý nghĩa và vai trò quan trọng. Không những giúp bản thân các doanh nghiệp tìm cách sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn của mình, mà còn giúp cho cơ quan chủ quản của doanh nghiệp có biện pháp quản lý phù hợp.
Công ty May Đức Giang là một doanh nghiệp Nhà nước cũng đang đứng trước thách thức đó, phải làm sao quản lý và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, làm thế nào để bảo toàn và phát triển được nguồn vốn- Đó là câu hỏi luôn được đặt ra đối với ban lãnh đạo công ty.
Đứng trước những yêu cầu, đòi hỏi đó, sau quá trình thực tập tại Công ty May Đức Giang cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo, TS. Phạm Quang Trung và sự giúp đỡ của tập thể cán bộ phòng Tài chính- Kế toán, đề tài “ Phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty May Đức Giang” được lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp và được trình bày theo nội dung sau:
Ngoài lời nói đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 : Vốn và hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp
Chương 2 : Phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại Công Ty May Đức Giang
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công Ty May Đức Giang
CHƯƠNG I: VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VỐN DOANH NGHIỆP
1.1 Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm
Để tiến hành sản xuất kinh doanh trước tiên doanh nghiệp cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy việc quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Nó đóng vai trò quyết định cho việc ra đời, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp.
Vậy vốn doanh nghiệp là gì ?
Đứng trên mỗi góc độ và quan điểm khác nhau, với mục đích nghiên cứu khác nhau thì có những quan niệm khác nhau về vốn.
Theo quan điểm của Marx, ông cho rằng: “ Vốn chính là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất ”. Định nghĩa của Marx có tầm khái quát lớn, tuy nhiên do hạn chế về mặt trình độ phát triển của nền kinh tế mà Marx quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Paul.A.Samuelson, nhà kinh tế học theo trường phái Tân cổ điển đã kế thừa các quan điểm của trường phái cổ điển về yếu tố sản xuất để phân chia các yếu tố của đầu vào sản xuất thành ba bộ phận là Đất đai, Lao động và Vốn. Theo ông, vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, đó có thể là máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ…Trong quan niệm về vốn của Samuelson không đề cập đến các tài sản tài chính những tài sản có giá có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, ông đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp.
Trong cuốn kinh tế học của David Beeg, tác giả đã đưa ra hai định nghĩa về vốn: Vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá, sản phẩm đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp. Như vậy David Beeg đã bổ sung định nghĩa vốn tài chính cho định nghĩa vốn của Samuelson.
Nhìn chung, các nhà kinh tế đã thống nhất ở điểm chung cơ bản: Vốn là yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh, được sử dụng để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho thị trường. Như vậy, vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ vật tư, tài sản, được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy vốn là một loại hàng hoá đặc biệt.
Trước hết, vốn là hàng hoá vì nó có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của vốn thể hiện ở chi phí mà chúng ta bỏ ra để có được nó. Giá trị sử dụng của vốn thể hiện ở việc ta sử dụng nó để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh ( mua máy móc, thiết bị, hàng hoá…)
Vốn là hàng hoá đặc biệt bởi vì có sự tách biệt rõ ràng giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu. Khi vay vốn chúng ta chỉ có quyền sử dụng vốn còn quyền sở hữu vẫn thuộc về chủ sở hữu của nó. Tính đặc biệt của vốn còn thể hiện ở chỗ vốn không bị hao mòn hữu hình trong quá trình sử dụng mà còn có khả năng tạo ra giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Chính vì vậy, giá trị của vốn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố của môi trường kinh tế vĩ mô, không phụ thuộc vào lợi ích cận biên của bất kỳ doanh nghiệp nào. Điều này đặt ra nhiệm vụ đối với nhà quản trị tài chính là phải làm sao sử dụng tối đa hiệu quả vốn để đem lại một giá trị thặng dư tối đa, đủ chi trả cho chi phí bỏ ra để mua vay vốn và có lợi nhuận tối đa.
Quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp được tiến hành liên tục do vậy vốn của doanh nghiệp cũng được vận động không ngừng tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn. Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, vốn thay đổi cả về hình thái và lượng giá trị. Vốn trong các doanh nghiệp sản xuất được vận động như sau:
T – H ( TLSX, TLLĐ )… S X … H’ …T’
1.1.2 Phân loại vốn
Như đã trình bày ở trên, vốn giữ vai trò quan trọng, thiết yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, việc phân loại vốn theo các cách thức khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp đề ra được các giải pháp quản lí và sử dụng sao cho có hiệu quả. Có nhiều cách phân loại vốn doanh nghiệp theo các giác độ khác nhau.
Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn
Dựa vào căn cứ này có thể chia vốn thành hai loại Vốn cố định và Vốn lưu động
Vốn cố định:
Là một bộ phận của vốn sản xuất, là hình thái giá trị của những tư liệu lao động đang phát huy tác dụng trong sản xuất. Khi xem xét những hình thái giá trị của những tư liệu lao động đang nằm trong vốn cố định, không chỉ xét về mặt hiện vật mà quan trọng là phải xem xét tác dụng của chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đối với tất cả các tư liệu lao động đang phát huy tác dụng trong sản xuất đều là vốn cố định, tuỳ theo tình hình thực tế, từng thời kỳ mà có những quy định cụ thể khác nhau. Hiện tại Nhà nước quy định các tư liêu sản xuất có đủ hai điều kiện thời gian sử dụng lớn hơn một năm và giá trị tài sản lớn hơn 5 triệu đồng thì được coi là tài sản cố định.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn cố định tham gia nhiều lần vào sản xuất, giá trị của tài sản cố định giảm dần, theo đó nó được tách ra làm hai phần: Một phần gia nhập vào chi phí sản phẩm dưới hình thức khấu hao tương ứng với sự giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo, nếu như phần vốn lưu chuyển dần tăng lên thì phần vốn cố định giảm đi tương ứng với mức suy giảm giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc quá trình sản xuất kinh doanh tài sản cố định hết thời gian sử dụng và vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển.
Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, vốn cố định là phần vốn đầu tư mua sắm các loại tài sản cố định dưới hai hình thức: Ngân sách cấp phát và vay ngân hàng ( một phần được trích từ quĩ phát triển sản xuất). Vốn cố định giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất, nó quyết định đến việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ sản xuất, quyết định việc ứng dụng các thành tựu khoa học tiên tiến. Do có vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó có tính qui luật riêng nên việc quản lý nâng cao hiệu quả vốn cố định được coi là công tác trọng điểm của quản lý tài chính doanh nghiệp.
Để tạo điều kiện cho việc quản lý và sử dụng vốn lưu động, người ta thường tiến hành phân chia tài sản cố định theo các tiêu thức sau:
* Theo mục đích sử dụng tài sản cố định gồm có:
Tài sản cố định phục vụ mục đích kinh doanh
Tài sản cố định phục vụ phúc lợi công cộng, an ninh quốc phòng
Tài sản cố định bảo quản giữ hộ
* Theo hình thái biểu hiện có thể chia tài sản cố định thành hai loại:
Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản cố định không có hình thái vật chất nó thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí nghiên cứu, chi phí mua bằng phát minh sáng chế…
Trong nền kinh tế thị trường do sự tác động của các qui luật kinh tế và để nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp phải đầu tư những khoản chi phí lớn cho phần tài sản vô hình. Những chi phí này cần phải được quản lý và thu hồi dần dần như những chi phí mua sắm tài sản cố định khác.
Tài sản cố định hữu hình bao gồm:
Nhà cửa, vật kiến trúc, đường xá, cầu cảng.
Máy móc thiết bị
Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn
Thiết bị, dụng cụ quản lý
Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm
Các loại tài sản cố định khác
Vậy với mỗi cách phân loại trên đây cho phép ta đánh giá xem xét kết cấu tài sản cố định của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Kết cấu tài sản cố định là tỷ trọng của một loại tài sản cố định nào đó so với tổng nguyên giá các loại tài sản cố định của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Kết cấu tài sản cố định giữa các ngành sản xuất khác nhau hoặc cùng một ngành sản xuất cũng khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp việc phân loại và phân tích tình hình kết cấu tài sản cố định là việc làm cần thiết giúp doanh nghiệp chủ động biến đổi kết cấu tài sản cố định sao cho có lơị nhất cho việc nâng cao hiêu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
b. Vốn lưu động:
Là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động và tài sản lưu thông được đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy vốn lưu động bao gồm những giá trị của tài sản lưu động như: Nguyên vật liệu chính, phụ, nguyên vật liệu và phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến, vốn tiền mặt, thành phẩm trên đường gửi bán…
Khác với tư liệu sản xuất, đối tượng lao động chỉ được tham gia vào một chu kỳ sản xuất để góp phần hợp thành giá trị và giá trị sử dụng của một sản phẩm. Vì vậy vốn lưu động có đặc điểm là luân chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm trong cùng một chu kỳ sản xuất.
Vốn lưu động trong các doanh nghiệp vận động liên tục qua các giai đoạn trong quá trình sản xuất, biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Bắt đầu từ hình thái tiền tệ ban đầu. Sự vận động liên tục từ giai đoạn này sang giai đoạn khác giữa lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực lưu thông tạo nên sự luân chuyển của vốn lưu động.
Qua phân tích trên cho thấy vốn lưu động là hình thái giá trị của nhiều yếu tố tạo thành, mỗi yếu tố có tính năng, tác dụng riêng. Để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả ta phải tiến hành phân loại theo một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
* Căn cứ vào quá trình luân chuyển và tuần hoàn của vốn, vốn lưu động được chia làm ba loại:
Vốn dự trữ: Là bộ phận vốn dùng để mua nguyên, nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế và chuẩn bị đưa vào sản xuất.
Vốn trong sản xuất: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất như sản phẩm dở dang, nửa thành phẩm tự chế, chi phí chờ phân.
Vốn lưu thông: Là phần vốn trực tiếp phục vụ cho việc lưu thông, tiêu thụ hàng hoá.
* Căn cứ vào phương pháp xác lập vốn, người ta chia vốn lưu động ra làm hai loại
Vốn lưu động định mức: Là vốn lưu động được quy định mức tối thiểu cần thiết thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó bao gồm vốn dự trữ, vốn trong sản xuất và thành phẩm hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, thuê ngoài chế biến.
Vốn lưu động không định mức: Là vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không có căn cứ để tính toán định mức được, chẳng hạn như thành phẩm trên đường gửi bán, vốn kết toán.
* Phân loại theo hình thái biểu hiện: Vốn lưu động gồm:
Vốn vật tư hàng hoá: Là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm.
Vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn bằng tiền mặt, đầu tư ngân hàng…
* Căn cứ vào chủ sở hữu về vốn, vốn lưu động bao gồm:
Vốn chủ sở hữu: Là số vốn lưu động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
Vốn vay hay các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán
Tóm lại, từ các cách phân loại trên doanh nghiệp có thể xác định được kết cấu vốn lưu động của mình theo những tiêu thức khác nhau. Kết cấu vốn lưu động phản ánh các thành phần và mối quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp.
Ở các doanh nghiệp Nhà nước khác nhau thì kết cấu vốn lưu động khác nhau. Việc phân tích kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ thêm những đặc điểm riêng về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng biện pháp quản lý vốn lưu động có hiệu quả hơn. Qua đó cũng có thể thấy được những biến đổi tích cực hoặc những hạn chế về mặt chất lượng trong công tác quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp mình.
1.1.2.2 Căn cứ vào nguồn hình thành
Nếu xem xét nguồn hình thành của các doanh nghiệp tức là trả lời câu hỏi “Vốn có được từ đâu? ” thì vốn được chia thành hai loại
a.Vốn tự có: Là nguồn vốn có trong nội bộ doanh nghiệp. Với doanh nghiệp Nhà nước thì vốn tự có do doanh nghiệp Nhà nước cấp từ lúc thành lập doanh nghiệp hoặc cấp bổ sung theo nhu cầu sản xuất kinh doanh. Với doanh nghiệp tư nhân thì nó là phần vốn của chủ doanh nghiệp bỏ ra để kinh doanh, còn với công ty cổ phần thì do các cổ đông đóng góp thông qua việc nắm giữ cổ phiếu của công ty.
Ngoài ra phần lợi nhuận không chia dùng để tái đầu tư cũng bổ sung vào vốn tự có của doanh nghiệp.
b.Vốn huy động bên ngoài
Vốn huy động bên ngoài có thể là vốn vay, vốn liên doanh liên kết.
Do nhu cầu sản xuất kinh doanh, do yêu cầu đổi mới, phát triển và mở rộng liên tục, do khả năng về vốn tự có không thể trang trải được tất cả các thành phần cần thiết, các doanh nghiệp phải tìm đến một nguồn tài trợ khác là vốn vay.
Doanh nghiệp có thể vay vốn từ ngân hàng thương mại hoặc phát hành tín phiếu để huy động vốn.
Vốn vay dài hạn có thể được thực hiện thông qua các dự án đầu tư phát triển khả thi. Nó có thể được thực hiện bằng vốn trung và dài hạn của ngân hàng thương mại hoặc có thể phát hành trái phiếu công ty nếu được phép.
Liên doanh liên kết cũng là một phương pháp huy động vốn rất phổ biến nhờ đó mà doanh nghiệp có thể nâng cao khả năng về vốn, nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như hiện đại hoá công nghệ.
Căn cứ vào nội dung vật chất vốn
Căn cứ vào nội dung vật chất vốn thì vốn được chia thành vốn thực và vốn tài chính.
a. Vốn thực: Là toàn bộ hàng hoá phục vụ cho sản xuất và dịch vụ khác như máy móc thiết bị, nhà xưởng ..v..v.. phần vốn này phản ánh hình thái vật thể của vốn, nó tham gia trực tiếp vào sản xuất kinh doanh.
b.Vốn tài chính: Là biểu hiện dưới hình thái tiền, chứng khoán và các giấy tờ có giá khác dùng cho việc mua tài sản, máy móc … phần vốn này phản ánh phương tiện tài chính của vốn.
Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp
Qua việc xem xét các khái niệm và phân loại về vốn, ta có thể thấy vốn là tiền đề cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Phải có một lượng tiền nhất định mới có thể tiến hành các hoạt động đầu tư của mình, bắt đầu từ việc doanh nghiệp mua các tài sản cần thiết cho việc xây dựng và khởi động doanh nghiệp ( máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua phát minh sáng chế…), đảm bảo cho sự vận động của doanh nghiệp ( mua nguyên vật liệu, trả lương cho công nhân, trả lãi…) và sự tăng trưởng của doanh nghiệp ( đầu tư mở rộng dây chuyền sản xuất…). Vậy vốn là yếu tố khởi đầu, bắt nguồn của mọi hoạt động kinh doanh, nó tồn tại và đi liền xuyên suốt giúp cho các doanh nghiệp hình thành và phát triển.
Vốn của các doanh nghiệp có vai trò quyết định, là điều kiện tiên quyết quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của từng loại doanh nghiệp theo luật định. Trong những nền kinh tế khác nhau, những loại hình doanh nghiệp khác nhau tầm quan trọng của vốn cũng được thể hiện ở mức độ khác nhau.
Vốn là yếu tố quyết định mức độ trang thiết bị kỹ thuật, quyết định việc đổi mới công nghệ, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, ứng dụng thành tựu mới của khoa học và phát triển sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công và đi lên của doanh nghiệp.
Vốn còn là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và tiềm năng tương lai về sức lao động, nguồn hàng hoá, mở rộng và phát triển thị trường, mở rộng lưu thông hàng hoá, là điều kiện để phát triển kinh doanh, thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh, là chất keo để nối chắp, dính kết các quá trình và quan hệ kinh tế, là dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn tham gia vào tất cả các khâu, ở mỗi khâu nó thể hiên dưới các hình thái khác nhau như vật tư, vật liệu, hàng hoá…và cuối cùng lại trở về hình thái ban đầu là tiền tệ. Như vậy sự luân chuyển của vốn giúp cho doanh nghiệp thực hiện được hoạt động tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng của mình.
PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
Khái niệm và hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
2.1.1 Khái niệm
Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn luôn theo đuổi một mục tiêu chính là làm thế nào để đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất, đem lại lợi nhuận lớn nhất. Ta biết rằng, vốn là một trong ba yếu tố đầu vào quan trọng nhất phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định và các nguồn tài trợ tương ứng thì mới có thể tồn tại, hoạt động và phát triển. Làm thế nào để luôn đủ vốn - Đó là điều quan trọng, là tiền đề của sản xuất song việc sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả mới thực sự là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng của mỗi doanh nghiệp. Việc thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính, tiến hành phân tích để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là nội dung quan trọng trong công tác tài chính của doanh nghiệp. Cách đo lường chính xác thể hiện rõ nhất tính hiệu quả là thước đo tiền tệ để lượng hoá các yếu tố đầu vào và đầu ra. Tuy nhiên quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn được hiểu trên hai khía cạnh
Với số vốn hiện có doanh nghiệp có thể sản xuất thêm sản phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đầu tư thêm vốn ( mở rộng quy mô sản xuất, tăng doanh thu ) sao cho tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của vốn.
Vậy hiệu quả sử dụng vốn chính là thước đo, phản ánh tương quan so sánh giữa kết quả thu được với những chi phí về vốn mà doanh nghiệp bỏ ra trong hoạt động để có được chính kết quả đó. Hiệu quả sử dụng vốn có thể được tính một cách chung nhất bằng công thức:
Hiệu quả sử dụng vốn
=
Kết quả thu được
Chi phí vốn sử dụng
Trong đó : - Kết quả thu được có thể là : Tổng doanh thu , doanh thu thuần , lãi gộp ........
- Chi phí vốn đã sử dụng có thể là : Tổng vốn bình quân , vốn lưu động bình quân , vốn cố định bình quân…
Trong một doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực hiện có. Trình độ sử dụng nguồn lực thể hiện qua kết quả kinh doanh của mỗi kỳ hạch toán, qua đó quy mô vốn của doanh nghiệp có thể bị thu hẹp so với đầu kỳ ( doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu quả, nếu tình trạng này kéo dài có thể doanh nghiệp sẽ bị phá sản ) và cũng có thể được bảo tồn và phát triển. Đây là kết quả mà doanh nghiệp nào cũng cần phải phấn đấu để đạt được bởi vì khi bảo tồn được đồng vốn sẽ là cơ sở vững chắc để doanh nghiệp tồn tại và tìm ra những biện pháp, bước đi đúng đắn phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường nhằm phát triển vốn trong một khoảng thời gian nào đó.
Sử dụng vốn hiệu quả sẽ đảm bảo khả năng an toàn về tài chính cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Qua đó doanh nghiệp sẽ đảm bảo việc huy động các nguồn tài trợ và khả năng thanh toán, khắc phục được rủi ro trong kinh doanh. Mặt khác đối với các doanh nghiệp nâng cao kiệu quả sử dụng vốn nhằm tăng uy tín, thế lực, sự bành trướng của doanh nghiệp trên thương trường đồng thời góp phần tạo ra sản phẩm với chất lượng cao, giá thành hạ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đảm bảo khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ đó tạo ra lợi nhuận lớn hơn. Đó là cơ sở để mở rộng qui mô sản xuất, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, nâng cao hiệu quả đóng góp cho xã hội. Nhưng một doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả khi nào? Chỉ khi doanh nghiệp đó bảo tồn và phát triển được vốn.
2.1.2 Hệ thống chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Mục đích cũng như ý tưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới hiệu quả kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn lực hiện có. Tạo lập, khai thác và sử dụng các tiềm lực về vốn hợp lý hay không sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực tới hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của doanh nghiệp. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc, đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn sẽ thấy được chất lượng của việc kinh doanh và khả năng quản lý vốn của doanh nghiệp. Để thấy rõ được vấn đề trên, thông qua các chỉ tiêu sau đây để nhận xét đánh giá
Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sử dụng vốn
Tỷ trọng
=
Vốn cố định
* 100%
(1)
vốn cố định
Tổng tài sản
Tỷ trọng vốn cố định cho biết : Vốn cố định chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng tài sản
Tỷ trọng
=
Vốn lưu động
*100%
(2)
Vốn lưu động
Tổng tài sản
Tỷ trọng vốn lưu động cho biết : Vốn lưu động chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng tài sản
Tỷ trọng
=
Nợ phải trả
* 100 %
(3)
nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
Tỷ trọng nợ phải trả cho biết : nợ phải trả chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn vốn
Tỷ trọng
=
Vốn chủ sở hữu
*100%
(4)
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Tỷ trọng vốn chủ sở hữu cho biết : Vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu tổng hợp
Tỷ suất
=
Lợi nhuận
* 100%
(5)
Lợi nhuận vốn
Vốn bình quân
Tỷ suất lợi nhuận có thể tính chung hay tính riêng cho từng loại vốn cố định hoặc vốn lưu động. Nếu tỷ suất lợi nhuận của kỳ sau cao hơn kỳ trước thì doanh nghiệp làm ăm có hiệu quả.
Hệ số
=
Vốn bình quân
(6)
đảm nhiệm vốn
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu cho biết để có một vòng luân chuyển thì cần bao nhiêu đồng vốn bình quân. Hệ số của chỉ tiêu này tính ra càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, tiết kiệm được vốn.
Doanh
=
Lợi nhuận ròng
(7)
lợi vốn
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, nó thể hiện hiệu quả thực tế của nguồn vốn chủ sở hữu, thấy được mức độ tiến triển, hiệu quả đầu tư của chủ doanh nghiệp thông qua hệ số của chỉ tiêu. Nếu hệ số của kỳ sau cao hơn kỳ trước nghĩa là doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Hệ số
=
Tổng vốn vay
(8)
nợ chung
Tổng tài sản
Hệ số này cho biết một đồng giá trị tài sản có bao nhiêu đồng vốn vay trong đó, qua chỉ tiêu ta thấy được tính chất của nguồn vốn
Chỉ tiêu phân tích
Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp được phản ánh bằng hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích. Qua chỉ tiêu phân tích sẽ làm rõ được kết quả, mức độ ảnh hưởng đến chỉ tiêu tổng hợp. Sau đây là các chỉ tiêu phân tích cho vốn cố định và vốn lưu động
+ Đối với vốn cố định có các chỉ tiêu phân tích sau:
Hệ số đổi
=
GT TSCĐ mới tăng lên trong kỳ
(9)
mới TSCĐ
Giá trị TSCĐ có ở cuối kỳ
Chỉ tiêu cho biết mức độ đầu tư thêm tài sản cố định vào sản xuất kinh doanh của kỳ sau so với kỳ trước
Sức sản xuất
=
Doanh thu thuần
(10)
TSCĐ
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu cho biết một đồng nguyên giá TSCĐ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần . Nếu hệ số của chỉ tiêu này tính ra kỳ sau cao hơn kỳ trước là tốt
Suất hao phí
=
Nguyên giá bình quân TSCĐ
(11)
TSCĐ
Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu cho biết để thu được một đồng doanh thu thuần phải bỏ ra bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ . Chỉ tiêu tính ra càng nhỏ càng tốt
Tỷ suất lợi nhuận
=
Lợi nhuận
(12)
TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ bình quân
Chỉ tiêu cho biết một đồng nguyên giá TSCĐ bình quân tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận . Chỉ tiêu này tính ra càng lớn càng tốt
Hệ số đảm
nhiệm vốn
=
Vốn cố định bình quân
(13)
cố định
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để có được một vòng luân chuyển thì cần bao nhiêu đồng vốn cố định bình quân . Hệ số của chỉ tiêu này tính ra càng nhỏ càng tốt
Mức doanh lợi vốn
=
Lợi nhuận
(14)
cố định
Vốn sử dụng bình quân
Chỉ tiêu cho biết một đồng vốn sử dụng bình quân vào quá trình sản xuất đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số của chỉ tiêu tính ra càng lớn càng tốt
+ Đối với vốn lưu động có các chỉ tiêu phân tích sau:
Sức sản xuất của
=
Tổng doanh thu thuần
(15)
vốn lưu động
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu cho biết một đồng vốn lưu động bình quân tạo ra bao nhiêu đồng tổng doanh thu thuần . Hệ số của chỉ tiêu tính ra càng lớn càng tốt
Tỷ suất lợi nhuận
=
Lợi nhuận
(16)
Vốn lưu động
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu cho biết một đồng vốn lưu động bình quân tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận . Hệ số của chỉ tiêu tính ra càng lớn càng tốt
Số vòng quay
=
Tổng doanh thu thuần
(17)
vốn lưu động
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển , cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ . Nếu hệ số của chỉ tiêu này tính ra tăng so với kỳ trước là tốt vì nó chứng tỏ được hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại
Thời gian một vòng
=
Thời gian của kỳ phân tích
(18)
luân chuyển
Số vòng quay củaVLĐ trongkỳ
Chỉ tiêu thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng.Thời gian càng ngắn thì tốc độ luân chuyển càng nhanh tức là vốn lưu động được sử dụng triệt để hơn. Chỉ tiêu này tính ra càng nhỏ càng tốt
Hệ số đảm nhiệm
=
Vốn lưu động bình quân
(19)
Vốn lưu động
Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu cho biết để có được một vòng luân chuyển cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số của chỉ tiêu tính ra càng nhỏ càng tốt vì nó thể hiện hiệu qủa sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều.
Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán :
Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu thanh toán sau đây:
Khả năng thanh
=
Tổng tài sản lưu động
(20)
toán hiện hành
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh
=
Tiền + ck n hạn + khoản phải thu
(21)
Toán nhanh
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán
=
Vốn bằng tiền
(22)
tức thời
Nợ đến hạn
2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều nhân tố, bao gồm cả những nhân tố khách quan và chủ quan. Do vậy hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của những yếu tố đó.
2.2.1 Nhân tố khách quan
2.2.1.1 Môi trường pháp luật
Hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế phải tuân theo những quy định pháp luật do Nhà nước ban hành, qua đó có tác dụng hướng hoạt động kinh tế của họ tuân theo ý muốn chủ quan của Nhà nước. Tuy nhiên mục tiêu này không phải lúc nào cũng đạt được kết quả mong muốn bởi vì hệ thống luật pháp ở nhiều quốc gia còn chưa được kiện toàn. Chính vì vậy đã tạo ra kẽ hở trong luật và bị các cá nhân, tổ chức lợi dụng để hoạt động kinh doanh bất hợp pháp hay dựa vào những điều luật còn chồng chéo, thiếu tính cụ thể nghiêm minh nên dẫn tới việc coi thường luật pháp trong hoạt động kinh tế mà hậu quả có thể là đơn phương phá ngang hợp đồng kinh tế đã ký kết, hoặc chiếm dụng vốn mà không thanh toán, gây thiệt hại về kinh tế cũng như hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp là nạn nhân. Vì thế, để chấm dứt được tình trạng này thì biện pháp tối ưu là phải khắc phục những mặt hạn chế trong hệ thống luật pháp, xử lý thật nghiêm minh những tội phạm kinh tế để làm gương răn đe, giáo dục. Có như vậy mới tạo được sự ổn định trong hoạt động kinh tế và mục tiêu của Nhà nước mới thực hiện được triệt để.
2.2.1.2 Chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Nhà nước điều tiết nền kinh tế thông qua các chính sách cơ bản là chính sách thuế, giá cả và lãi suất.
Chính sách thuế thay đổi sẽ ảnh hưởng đến công tác hạch toán kế toán và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật mà đơn vị đang áp dụng.
Chính sách giá của thay đổi sẽ làm thay đổi giá thành sản phẩm cũng như giá bán của sản phẩm đó, vì thế sản lượng tiêu thụ, doanh thu bán hàng ... cũng sẽ chịu ảnh hưởng.
Chính sách về lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng đến thu nhập tài chính của khoản tiền gửi ngân hàng, mức độ thuận lợi hay khó khăn của việc vay vốn, số lượng tiền được vay nhiều hay ít, và chi phí tài chính của đơn vị đi vay.
Tóm lại, khi các chính sách kinh tế kể trên tay đổi sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu qủa sử dụng vốn cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn, trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng thấp thì nhà nước có thể đối phó bằng cách: hạ lãi suất cho vay, tiền gửi, tăng thuế nhằm khuyến khích các tổ chức cá nhân tham gia mạnh mẽ hơn vào hoạt động kinh tế của Đất nước, nhờ đó mà nền kinh tế sẽ có mức tăng trưởng cao hơn. Với một chính sách lới lỏng như vậy, nếu doanh nghiệp nào có những dự án đầu tư tốt, có tính khả thi cao mà số vốn cần thiết để thực hiện dự án chưa đủ thì có thể bổ xung bằng cách huy động số vốn còn thiếu thông qua hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Nhờ vậy, các doanh nghiệp sẽ hạn chế được những cơ hội kinh doanh tốt bị bỏ qua và có thời cơ kiếm lợi nhuận, tăng quy mô vốn, nâng cao hơn hiệu quả sử dụng vốn, đồng thời giảm dần sự phụ thuộc về vốn vào các tổ chức tài chính. Ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế “nóng” thì giải pháp đối phó là hoàn toàn ngược lại. Với chính sách này sẽ hạn chế được những doanh nghiệp thành lập mới, đồng thời ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư phát triển của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như hiệu quả sử dụng vốn của từng doanh nghiệp. Vì thế trong bất kỳ hoàn cảnh nào các doanh nghiệp luôn mong muốn có sự ổn định trong chính sách kinh tế của Nhà nước, trên cơ sở đó để thiết lập chiến lược kinh doanh phù hợp, có như vậy mới tạo tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư, bởi vì chỉ một thay đổi nhỏ trong chính sách kinh tế sẽ có tác động lớn đến chỉ tiêu chi phí, lợi nhuận và hiệu hiệu quả sử dụng vốn.
2.2.1.3 Thị trường và hoạt động cạnh tranh
Tất cả các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều chịu sự tác động của nhân tố thị trường. Có thể nói, nếu vốn giúp cho doanh nghiệp bước vào hoạt động thì thị trường là nhân tố quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng đến “đầu ra”- doanh thu và thị trường “đầu vào”- các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Sự tác động của thị trường đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau:
Nếu doanh nghiệp huy động vốn vay để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng hàng sản xuất ra hay nhập về lại không tiêu thụ được sẽ làm cho vốn lưu động của doanh nghiệp không luân chuyển được, vốn không sinh lời trong khi đó doanh nghiệp vẫn phải trả lãi vay, mục tiêu của doanh nghiệp không những không đạt được mà còn đứng trước nguy cơ thua lỗ.
Sự biến động của thị trường cũng là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Điều đó thể hiện ở cả đầu ra và đầu vào của doanh nghiệp
Sự biến động của thị trường đầu vào các yếu tố sản xuất, nguồn lực đầu vào trở nên khan hiếm, giá cả biến động lớn dẫn đên sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp không đủ bù đắp chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được các hàng hoá đó.
Sự biến đổi của thị trường đầu ra, như thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng, hàng hoá bán được nhưng không đủ bù đắp chi phí…Tất cả các yếu tố này tác động đến rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp.
Những ảnh hưởng của nhân tố thị trường đối với hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không chỉ dừng ở đây mà còn thể hiện ở tính cạnh tranh cố hữu. Ta biết rằng, trong nền kinh tế hiện nay nhu cầu của thị trường về các loại hàng hoá dịch vụ rất đa dạng, phong phú, những yêu cầu liên quan đến sản phẩm khi tham gia vào thị trường ngày càng tăng. Sản phẩm sản xuất ra muốn tiêu thụ được thì phải đáp ứng được 3 tiêu chí cơ bản của thị trường là chất lượng tốt, giá thành hạ, phù hợp với thị hiếu và thu nhập của đa số người tiêu dùng. Để đáp ứng được những yêu cầu ấy đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường công tác quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời đầu tư vốn đổi mới công nghệ sản xuất. Rõ ràng là dưới sức ép của thị trường doanh thu tiêu thụ sản phẩm cũng như chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng. Vì thế, chắc chắn cũng sẽ tác động đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp ấy. Mặt khác, bên cạnh sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh cùng một mặt thì do cơ chế chính sách về kinh tế của Đảng và Nhà nước đã tạo ra sự tăng nhanh số lượng của các loại hình doanh nghiệp mới, trong đó có những doanh nghiệp đăng ký sản xuất kinh doanh những mặt hàng mà thị trường đã có. Vì thế, càng làm tăng thêm sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến doanh thu và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
2.2.1.4 Tính chất ổn định của môi trường
Kết quả sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của một doanh nghiệp tốt hay xấu không những chỉ phụ thuộc vào trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo công ty mà còn phụ thuộc vào tính chất của môi trường kinh doanh. Một môi trường kinh doanh tốt được coi là có thể chế pháp lý chặt chẽ nghiêm minh, các chính sách quản lý về kinh tế của Nhà nước có tính ổn định rõ ràng, cụ thể. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp mới thực sự an tâm sản xuất, lập kế hoạch đầu tư cho tương lai, nhờ đó hiệu quả sử dụng vốn sẽ tốt hơn. Ngược lại, các kế hoạch đầu tư dài hạn cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực gây tâm lý chán nản cho các nhà đầu tư. Do đó sẽ làm giảm khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Nhân tố chủ quan
2.2.2.1 Cơ cấu vốn của doanh nghiệp
Cơ cấu vốn là tỷ trọng của từng loại vốn trong tổng số vốn của doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu vốn của chúng cũng khác nhau, trong các doanh nghiệp thương mại thì vốn lưu động chiếm tỷ trọng chủ yếu. Chính điều này có tác động đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trên hai giác độ là:
Với cơ cấu vốn khác nhau thì chi phí bỏ ra để có được nguồn vốn đó cũng khác nhau
Cơ cấu vốn khác nhau thì khi xét đến tính hiệu quả của công tác sử dụng vốn người ta tập trung vào những khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn như đối với doanh nghiệp thương mại thì khi xét hiệu quả sử dụng vốn người ta chủ yếu tập trung vào xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn thông qua sự ảnh hưởng của nó đến chi phí vốn của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn của doanh nghiệp chỉ được coi là có hiệu quả nếu nó đem lại một tỷ suất lợi nhuận lớn hơn chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được nguồn vốn đó.
2.2.2.2 Chi phí vốn
Chi phí vốn được hiểu là chi phí trả cho nguồn vốn huy động và sử dụng, chi phí vốn được đo bằng tỷ suất doanh lợi mà doanh nghiệp cần phải đạt được trên tổng vốn huy động để giữ không làm thay đổi tỷ lệ sinh lời cần thiết dành cho cổ đông cổ phiếu thưòng hay vốn tự có của doanh nghiệp.
Liên quan đến các nguồn huy động bởi các nguồn khác nhau, là các chi phí vốn khác nhau mà doanh nghiệp phải bỏ ra.
Đối với các doanh nghiệp thì nguồn vốn có thể được huy động bởi các nguồn:
Vốn do Nhà nước cấp
Vốn vay ngân hàng
Lợi nhuận giữ lại
Vay các đơn vị khác
Vốn liên doanh liên kết…
Tuy nhiên ở đây chỉ xét đến chi phí vốn liên quan đến hai nguồn huy động chính của các doanh nghiệp Nhà nước là vốn vay ngân hàng và vốn do Nhà nước cấp
+ Chi phí vốn liên quan đến vốn vay ngân hàng:
Chi phí nợ vay trước thuế ( t) là lãi suất mà các doanh nghiệp phải trả cho khoản vay ngân hàng của mình
Chi phí nợ vay sau thuế Kđ = t (1- T ) với Kđ là nợ vay sau thuế, T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
+ Chi phí liên quan đến vốn ngân sách Nhà nước cấp
Theo nghị định 59/ C P về thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, thì các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước hàng năm phải trả 6 % trên tổng số vốn Nhà nước cấp cho doanh nghiệp. Do đó, 6 % được gọi là chi phí sử dụng vốn do Nhà nước cấp
Từ hai yếu tố trên, ta xác định được chi phí bình quân gia quyền của vốn theo công thức: WACC = wd.kđ + ws.ks
Trong đó: wd tỷ trọng vốn vay trong tổng nguồn vốn
ws tỷ trọng lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư trong tổng nguồn vốn
ks chi phí lợi nhuận giữ lại
WACC ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải tạo ra được tỷ suất lợi nhuận tối thiểu là WACC thì doanh nghiệp mới được coi là sử dụng vốn có hiệu quả.
Từ hai nhân tố trên sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được cho mình một cơ cấu vốn tối ưu. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp nếu cần mở rộng qui mô huy động vốn mà vẫn giữ nguyên tỷ trọng này thì chi phí vốn vẫn là thấp nhất.
2.2.2.3 Nhân tố con người
a. Trình độ quản lý doanh nghiệp
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn trăn trở phải làm gì để có vốn để đầu tư, sử dụng nó như thế nào, quản lý tài sản hiện có ra sao để mang lại hiệu quả sử dụng vốn cao nhất. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ đề ra giải pháp nhằm đối phó với tình hình thực tế. Những giải pháp này có tính khả thi hay không, phần lớn phụ thuộc vào trình độ quản lý của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có trình độ quản lý tốt thì ngoài việc lập được kế hoạch huy động vốn nhanh chóng, kịp thời với chi phí thấp, và sử dụng vào thời điểm thích hợp nhất, còn có thể tổ chức tốt công tác quản lý hàng tồn kho, tiền mặt tại quỹ cũng như khả năng khai thác vốn cao nên hiệu quả sử dụng vốn thường rất tốt. Trường hợp ngược lại, không chỉ có hiệu quả sử dụng vốn bị tác động tiêu cực mà doanh nghiệp còn có thể bị phá sản do quy mô vốn bị thu hẹp
b. Tình trạng tay nghề của người công nhân
Bên cạnh yếu tố về trình độ quản lý doanh nghiệp thì yếu tố chất lượng lao động cũng có tác động đáng kể đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là đối với doanh nghiệp sản xuất thì chất lượng sản phẩm sản xuất ra phụ thuộc rất lớn vào trình độ tay nghề của người công nhân sản xuất. Chính vì vậy mà doanh thu tiêu thụ sản phẩm, chi phí sản xuất cũng như uy tín của một doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn của đối tượng này nên hiệu quả sử dụng vốn cũng bị ảnh hưởng theo.
2.2.2.4 Tính linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Để thích ứng với thị trường thì việc giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản, sản xuất cái gì ? sản xuất cho ai ? sản xuất bao nhiêu và sản xuất như thế nào ? là rất cần thiết. Những vấn đề này được nghiên cứu xuất phát từ nhu cầu và khả năng tiêu thụ của khách hàng. Sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo chất lượng, mẫu mã phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Đời sống của người dân ngày càng cao hơn do đó nhu cầu không ngừng tăng lên cả về chất lượng và số lượng. Thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động, nhạy cảm với thị trường thông qua các hình thức như thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng để đảm bảo sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Khi trên thị trường xuất hiện những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm của doanh nghiệp hoặc xuất hiện các đối thủ cạnh tranh thì phải bằng mọi cách doanh nghiệp phải làm sao cho khách hàng nhận rõ ưu điểm sản phẩm của doanh nghiệp mình. Có thể thông qua các hình thức khuyến mại, tặng quà và các hình thức yểm trợ bán hàng khác, doanh nghiệp phải hướng sự chú ý của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệ, phát sinh nhu cầu và thực sự cảm thấy hữu ích khi dùng sản phẩm đó và có ý định tiêu thụ lâu dài với sản phẩm của doanh nghiệp. Những điều trên là rất cần thiết đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới mức doanh thu của doanh nghiệp trước mắt. Sau đó thực chất là ảnh hưởng đến mức độ luân chuyển vốn, làm tốc độ quay vòng vốn giảm, hiệu quả sử dụng vốn thấp.
CHƯƠNG II : PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÔNG TY MAY ĐỨC GIANG
2.1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY MAY ĐỨC GIANG
2.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của Công ty May Đức Giang
Công ty May Đức Giang là một doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán độc lập thuộc Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam - Bộ Công Nghiệp Nhẹ. Tên giao dịch quốc tế : DUCGIANG GARMENT COMPANY viết tắt là DUGACO. Trụ sở giao dịch 59 Thị trấn Đức Giang- Gia Lâm - Hà Nội.
Công ty có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng tại ngân hàng công thương khu vực Chương Dương và Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển của công ty được tóm tắt như sau:
Công ty May Đức Giang tiền thân là Xí nghiệp may Đức Giang được thành lập vào ngày 2 tháng 5 năm 1989 theo quyết định số 102 CNn/TCLD của Bộ Công Nghiệp Nhẹ. Vào thời điểm này nền kinh tế nước ta đang chuyển mạnh từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Các đơn vị kinh tế cơ sở thực hiện quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, từ đó vai trò của các tổng công ty và liên hiệp các xí nghiệp không còn như trước. Để thích ứng với cơ chế mới các cơ quan này phải sắp xếp lại tổ chức và tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật cùng số lao động dôi dư để hình thành đơn vị sản xuất kinh doanh mới. May Đức Giang là một đơn vị ra đời trong bối cảnh ấy.
Cơ sở vật chất ban đầu của xí nghiệp là trạm vật tư May Đức Giang thuộc liên hiệp các xí nghiệp may gồm 5 nhà kho, 2 dãy nhà cấp 4 trên diện tích đất 18 000 m2 máy móc thiết bị có 132 máy khâu Liên Xô và số máy cũ đã thanh lý của May 10, May Thăng Long và của liên hiệp các xí nghiệp may điều cho. Tổng giá trị của số tài sản này là 265 triệu đồng, không có vốn lưu động. Về lao động, theo danh sách ban đầu là hơn 40 người được điều từ các phòng ban của liên hiệp và số nhân viên coi kho của trạm vật tư May Đức Giang. Song trên thực tế khi xí nghiệp đi vào hoạt động chỉ còn 28 người và chủ yếu là nhân viên coi kho.
Thời gian đầu, xí nghiệp chỉ sản xuất những mặt hàng kỹ thuật trung bình, phù hợp với các đơn đặt hàng trả nợ hoặc đổi hàng cho Liên Xô và các nước Đông Âu. Trong lúc xí nghiệp đang chập chững bước đi đầu tiên thì các doanh nghiệp “đàn anh” trong bầu không khí hối hả đầu tư đổi mới công nghệ, nhiều đơn vị đã hình thành các xưởng sản xuất với máy móc và trang thiết bị hiện đại của Nhật Bản và bắt tay với các đối tác thuộc thị trường khu vực hai. Trước tình hình đó đòi hỏi xí nghiệp không chỉ phải làm ăn tốt trong hiện tại mà phải có ngay một chương trình đầu tư mới, khẩn trương tiến kịp với các đơn vị đàn anh trong ngành.
Năm 1990, năm kế hoạch đầu tiên, xí nghiệp đã hoàn thành tốt nhiệm vụ cấp trên giao
Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 802 triệu đồng
Doanh thu đạt 718 triệu đồng
Kim ngạch xuất khẩu đạt 23 ngàn đô la
Nộp ngân sách 25 triệu đồng
Số lượng lao động 380 người
Thu nhập bình quân đầu người 40 800 đ/ tháng
Cùng với việc phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất, hàng năm công ty thực hiện tốt lộ trình đầu tư đổi mới công nghệ. Đáng chú ý nhất là các thời điểm : Năm 1992 xí nghiệp đầu tư gần 5 tỷ đồng tiếp đến là năm 1994 đầu tư gần 10 tỷ đồng. Đây là thời điểm có ý nghĩa thời cơ tạo bước chuyển cho xí nghiệp có năng lực xứng với tầm cỡ một công ty có đủ sức đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của thị trường với các đơn đặt hàng lớn của nước ngoài. Từ năm 1995 đến năm 2000 mức đầu tư bình quân hàng năm là trên 7 tỷ đồng. Thời kỳ này một mặt bổ sung thêm máy móc thiết bị chuyên dùng công nghệ cao để mở rộng mặt hàng sản xuất đồng thời hoàn thiện xây dựng cơ sở hạ tầng. Mặt khác đầu tư theo chương trình mở rộng thành lập các doanh nghiệp may liên doanh ở các địa phương, tạo hệ thống vệ tinh cho quá trình phát triển của công ty.
Song song với việc đầu tư đổi mới công nghệ là chiến lược thu hút nhân tài, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề. Bằng các chính sách đãi ngộ thoả đáng về mặt vật chất lẫn tinh thần theo tài năng của từng người. Nhờ vậy công ty đã thu hút được một đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề đáp ứng yêu cần sản xuất kinh doanh của công ty và bổ sung cho các đơn vị liên doanh của mình.
Hiện nay, công ty May Đức Giang có một khu sản xuất liên hoàn trên diện tích 4,5 ha, tổng số cán bộ công nhân viên trong công ty gần 3000 người, tổng số vốn kinh doanh trên 70 tỷ đồng, năng lực sản xuất mỗi năm trên 7 triệu áo sơ mi quy đổi. Sản phẩm chủ yếu là áo sơ mi cao cấp, áo Jacket, quần Jean, quần âu các loại. Thị trường xuất khẩu gồm 22 nước trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hông Công, Khối EU, Trung Cận Đông, Bắc Mỹ. Hệ thống tiêu thụ trong cả nước có 39 đại lý ở các tỉnh và thành phố ngoài ra đơn vị còn có 4 đơn vị liên doanh tại các tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Thái Bình giải quyết việc làm cho hơn 3000 lao động tại các địa phương.
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty liên tục tăng trưởng, năm tăng trưởng cao nhất là 171,6% (1994) Năm 2000, 2001 mặc dù gặp không ít khó khăn do sự biến động của thị trường thế giới và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực nhưng công ty đã hoàn thành tốt kế hoạch của Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam giao cho
Doanh thu đạt 83233785000 , tăng 1,3 lần so với năm 2000
Về giá trị sản suất công nghiệp đạt 62,7 tỷ đồng tăng 15,1 % so với năm 2000 và gấp 78,18 lần so với năm 1990
Kim ngạch xuất khẩu đạt 7665 ngàn đô tăng 16,4% so với năm 2000 và gấp 212 lần so với năm 1990
Về giá trị sản suất công nghiệp đạt 62,7 tỷ đồng tăng 15,1 % so với năm 1998 và gấp 78,18 lần so với năm 1990
Kim ngạch xuất khẩu đạt 7665 ngàn đô tăng 16,4% so với năm 1998 và gấp 212 lần so với năm 1990
Thu nhập bình quân 1 người / 1 tháng 1071000đ tăng 12,3% so với năm 1998 và gấp 27 lần so với năm 1990
Với sự phát triển đi lên bằng chính sức lực của mình công ty đã được Đảng và Nhà Nước tin tưởng chọn là một trong những nơi tham quan của các nguyên thủ quốc gia đến thăm Việt Nam, được các tổ chức trong nước tặng thưởng các danh hiệu cao quý sau đây:
Danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Huân chương lao động hạng nhất
3 huân chương lao động hạng ba
Hai năm cờ thi đua của chính phủ
9 năm cờ thì đua của Bộ Công Nghiệp
5 năm liền cờ thi đua của bộ công an
Mười năm liền cờ đảng bộ vững mạnh
Mười năm liền cờ đơn vị quyết thắng
Trong năm 2000 công ty là đơn vị dẫn đầu ngành May Việt Nam, được cấp chứng chỉ quốc tế ISO 9002 , giành được 26 huy chương vàng hội chợ quốc tế hàng công nghiệp, đạt danh hiệu sản phẩm dệt may chất lượng cao.
Mục tiêu phấn đấu của công ty trong năm 2002 là doanh thu tăng 32 %, bán FOB đạt 70 % doanh thu, năng suất lao động bình quân tăng 26% / 1 người, giữ vững và phát huy truyền thống anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, giữ vững cờ thi đua của Chính Phủ
2.1.2 Các yếu tố về nguồn lực
2.1.2.1 Nguồn nhân lực:
Công ty hiện có gần 3000 lao động trong đó cán bộ gián tiếp 228 người người có trình độ trung cấp. Cán bộ trực tiếp điều hành sản xuất tổng số là 230 người trong đó có trình độ đại học là 32 người, cao đẳng và trung cấp là 158 người. Công nhân trực tiếp sản xuất là 2248 người trong đó bậc thợ 6/ 6 là 26 người, 5/6 là 30 người, 4/6 là 256 người, bậc thợ 3/ 6 là 668 người, bậc thợ 2/ 6 là 1268 người. Với cơ cấu lao động kể trên ta thấy tổng số công nhân viên toàn công ty là tương đối phù hợp với quy mô sản xuất của công ty trong tình hình hiện tại, nhưng chất lượng người lao động chưa cao, đặc biệt lao động thuộc khối trực tiếp sản xuất, số người có trình độ đại học còn rất thấp, số lượng công nhân có tay nghề cao ( bậc 6/6) mới chỉ có 26 người, trong khi đó công nhân bậc thợ 2/6 , 3/6 , 4/6 còn chiếm số lượng lớn. Lao động gián tiếp còn chiếm khá nhiều, năng lực làm việc còn có những hạn chế. Vì thế có thể sẽ là nguyên nhân ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sản phẩm, doanh thu cũng như khả năng cạnh tranh của công ty, qua đó cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn. Trong tương lai, để trụ vững trên thị trường và góp sức thực hiện kế hoạch tăng tốc của ngành may công ty cần phải đổi mới nhiều hơn đặc biệt là ở khâu đào tạo, tuyển chọn lao động có chất lượng cũng như sắp xếp lao động sao cho hợp lý. Có như vậy, đồng vốn đầu tư mới có thể được sử dụng hiệu quả đồng thời đảm bảo cho công ty tồn tại và phát triển khi mà sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt.
2.1.2.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật :
Hiện nay công ty đã xây dựng được 2 toà nhà cao 3 tầng phục vụ cho việc điều hành sản xuất kinh doanh, 9 xí nghiệp may với 2081 máy may công nghiệp và các loại máy chuyên dùng tiên tiến do Nhật Bản, Mỹ, Cộng Hoà Liên Bang Đức sản xuất như hệ thống giác sơ đồ trên máy vi tính, 4 máy thêu điện tử, dây chuyền giặt mài ....Ba kho nguyên phụ liệu, phụ tùng cùng ban cơ điện sẵn sàng phục vụ các nhu cầu phát sinh ở các xí nghiệp sản xuất. Xí nghiệp bao bì có nhiệm vụ cung cấp đủ bao gói để hoàn thiện sản phẩm nhập kho, đội vận tải với các loại xe chuyên dùng sẵn sàng lên đường đáp ứng đúng thời hạn giao hàng.
2.1.2.3 Khả năng tài chính
Hiện nay, công ty có tổng số vốn là 72959170000 (đồng) trong đó tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm 58,05%, tài sản cố định và đầu tư dài hạn chiếm 41,95%. Đây là cơ cơ cấu vốn chưa hợp lý bởi vì các khoản phải thu của công ty chiếm tỷ trọng khá lớn (80,68%) trong tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm 46,84% trong tổng tài sản. Điều đó có nghĩa là công ty đang bị chiếm dụng vốn quá nhiều. Cơ cấu về nguồn vốn của công ty được coi là khá hợp lý, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nợ phải trả, trong khi đó nợ dài hạn chiếm tỷ trọng cao ( 59,95%) trong tổng nợ. Tuy nhiên nếu hạ thấp được hơn nữa tỷ trọng nợ phải trả và nâng cao tỷ trọng vốn chủ sở hữu thì tốt, công ty sẽ an toàn và bớt phụ thuộc hơn.
2.1.3 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty
2.1.3.1 Đặc điểm về quy trình công nghệ
Quy trình sản xuất của công ty có đối tượng chế biến là vải được cắt và may thành các chủng loại mặt hàng khác nhau, kỹ thuật sản xuất các cỡ vải của mỗi chủng loại mặt hàng có mức độ khác nhau, phụ thuộc vào số lượng chi tiết của loại hàng đó. Do mỗi mặt hàng, kể cả kích cỡ của mỗi mặt hàng có yêu cầu sản xuất riêng về loại vải, về thời gian hoàn thành cho nên tuỳ từng chủng loại mặt hàng khác nhau, được sản xuất trên cùng một dây chuyền ( cắt, may, là ) nhưng không được tiến hành đồng thời cùng một thời gian và mỗi mặt hàng được may từ nhiều loại khác nhau hoặc nhiều loại khác nhau được may cùng một loại vải. Do đó cơ cấu chi phí chế biến và định mức kỹ thuật của mỗi loại chi phí cấu thành sản lượng sản phẩm của từng mặt hàng là khác nhau.
Quy trình sản xuất sản phẩm của công ty là sản suất phức tạp kiểu liên tục, sản phẩm được trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau. Các mặt hàng mà công ty sản xuất có nhiều kiểu cách, chủng loại khác nhau. Song tất cả đều phải trải qua các giai đoạn cắt, là may, đóng gói ...riêng với mặt hàng có yêu cầu giặt mài hoặc thêu thì được thực hiện ở các phân xưởng sản xuất kinh doanh phụ. Ta có thể thấy được quy trình công nghệ sản suất sản phẩm ở Công ty May Đức Giang qua sơ đồ sau:
Sơ đồ số 1:
QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT CỦA CÔNG TY MAY ĐỨC GIANG
Kho phụ liệu
Kho nguyên liệu
Cắt
Giặt
Thêu
may
Là
KCS
Nhập kho
Đóng hòm
Bao bì
Nguyên vật liệu chính là vải được nhập từ kho nguyên liệu theo từng chủng loại vải mà phòng kỹ thuật đã yêu cầu cho từng loại mã hàng. Vải được đưa vào nhà cắt, tại đây vải được trải, đặt mẫu, đánh số và trở thành bán thành phẩm. Sau đó các bán thành phẩm được nhập kho nhà cắt và chuyển cho các tổ may trong xí nghiệp. Ở các bộ phận may, việc may lại được chia thành ít nhiều công đoạn như may cổ, tay, thân ... tổ chức thành một dây chuyền, bước cuối cùng của dây chuyền may là hoàn thành sản phẩm. Trong quá trình may phải sử dụng các nguyên liệu phụ như cúc, chỉ, khoá, chun ...Cuối cùng khi sản phẩm may song chuyển qua bộ phận là, rồi chuyển sang bộ phận KCS của xí nghiệp để kiểm tra xem sản phẩm có đảm bảo chất lượng theo yêu cầu không . Khi đã qua bộ phận KCS thì tất cả các sản phẩm được chuyển đến phân xưởng hoàn thành để đóng gói, đóng kiện.
2.1.3.2 Đặc điểm tổ chức quản lý
Là đơn vị hạch toán kinh tế, kinh doanh độc lập, Công Ty may Đức Giang có quản lý theo hai cấp. Cấp công ty ( phía trên ) và các Xí nghiệp thành viên (phía dưới )
- Tổng giám đốc : Là đại diện pháp lý của công ty, chịu trách nhiệm cao nhất trước pháp luật và cấp trên về mọi hoạt động của công ty.
- Ba phó tổng giám đốc do Tổng giám đốc đề nghị cấp trên bổ nhiệm gồm :
Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất
Phó tổng giám đốc điều hành kinh doanh
Phó tổng giám đốc điều hành xuất nhập khẩu
Các phòng ban chức năng (khối chức năng ) có nhiệm vụ tham mưu cho ban giám đốc về lĩnh vực mang tính chất chuyên môn hoá gồm :
Phòng tổ chức hành chính ( văn phòng tổng hợp )
Phòng tài chính kế toán
Phòng kế hoạch
Phòng kỹ thuật
Phòng xuất nhập khẩu
Phòng thời trang
Ban điện
Ban cơ
Đội xe
- Các đơn vị thành viên gồm 6 Xí nghiệp may chuyên sản xuất các sản phẩm may mặc theo chỉ đạo của ban lãnh đạo công ty
Qua mô hình tổ chức bộ máy quản lý của công ty cho thấy đó là hình thức tổ chức quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng. Ưu điểm của nó là : Thay vì toàn bộ công việc đều đến tay Tổng Giám Đốc, Giám Đốc giải quyết chịu trách nhiệm thì nay được chia xẻ bớt cho các phòng ban chức năng gánh vác và chịu trách nhiệm đối với khối lượng công việc được giao trước tổng giám đốc, giám đốc vì thế sẽ hạn chế được những quyết định sai lầm gây thiệt hại, thói cửa quyền, độc đoán, nhằm vụ lợi cá nhân. Mặt khác việc chia sẻ bớt quyền lực cho những người đứng đầu các phòng ban còn tạo cho họ có được sự hưng phấn, cống hiến hết mình cho công việc chung của công ty từ đó góp phần vào việc hoàn thành tốt những nghị quyết, mục tiêu đã đề ra. Khi công việc thực hiện không được tốt thì cũng dễ ràng quy trách nhiệm tránh tình trạng đổ lỗi cho nhau và nhanh chóng tìm ra được nguyên nhân vì lỗi xẩy ra ở ngay trong một lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên mô hình này cũng có những hạn chế nhất định đó là nhiều khi có sự hiểu sai ý của cấp trên nên cấp dưới thực hiện không đúng như mong muốn gây hậu quả nhiều khi rất khó lường trước vì thế đòi hỏi các bộ phải thực sự có trình độ, hiểu nhanh ý của cấp trên.
Sơ đồ số 2:
BỘ MÁY QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY MAY ĐỨC GIANG
Kế toán trưởng
Kế toán tổng hợp
Kế toán thanh toán TGNH
Kế toán TSCĐ và tạm ứng
Kế toán nguyên vật liệu
Kế toán tiền lương BHXH,BHYTvà các khoản trích theo lươngthanh toán TGNH
Kế toán chi phí và giá thành SF
Kế toán thành phẩm và tiêu thụ
Kế toán tiền mặt
Kế toán CCDC
Thủ quĩ
Nhân viên hạch toán (kinh tế) xí nghiệp
Kế toán khu CN cao
: Quan hệ cung cấp số liệu
: Quan hệ chỉ đạo
Sơ đồ số 3:
BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY MAY ĐỨC GIANG
XN
giặt mài
XN
thêu
XNmay
9
XNmay
8
XNmay
6
XNmay
4
XNmay
2
Các cửa hàng đại lí
Phòng thời trang
Văn phòng tổng hợp
Phòng ISO
Phòng tài chính kế toán
Phòng kế hoạch và đầu tư
Phòng kỹ thuật
Phòng xuất nhập khẩu
Phó TGĐ điều hành XNK
Phó TGĐ điều hành kinh doanh
Phó TGĐ điều hành kỹ thuật SX
Tổng giám đốc
Chi nhánh Hải Phòng
XNmay
2
: Quan hệ cung cấp số liệu
: Quan hệ chỉ đạo
2.2 Thực trạng sử dụng vốn của công ty May Đức Giang
2.2.1 Thực trạng sử dụng vốn tại công ty
a. Cơ cấu vốn:
Cơ cấu vôn của công ty May Đức Giang được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1 : Cơ cấu vốn của công ty May Đức Giang
Đơn vị tính 1000đ
Năm
1999
2000
2001
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng vốn
39.728.690
100
52.726.563
100
72.959.170
100
Vốn cố định
22.701.897
57,14
33.579.103
63,68
30.604.308
41,95
Vốn lưu động
17.026.793
42,68
19.047.459
36,32
42.354.862
58,05
Nguồn trích : Bảng cân đối kế toán (1999- 2001)
Qua bảng số liệu trên cho thấy tổng vốn của công ty qua các năm đều có sự tăng trưởng chứng tỏ sự lớn mạnh của công ty. Năm 2000 là năm công ty tiếp tục đầu tư tiền của vào xây dựng nhà xưởng đầu tư thêm phương tiện sản xuất làm việc nâng vốn cố định tăng so với năm 1999 là 10.877.206 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 6,54% trong đó việc tăng chủ yếu là do công ty đã đầu tư vào việc mua sắm đổi mới, nâng cấp TSCĐ, chiếm tỷ trọng rất lớn là 94,15% trong vốn cố định năm 2000 và chiếm tới 93,18% trong mức tăng lên của vốn cố định. Trong khi đó các khoản đầu tư tài chính dài hạn và chi phí xây dựng cơ bản dở dang tăng lên không đáng kể, nó chiếm 6,82% trong mức tăng lên đó. Hiện tượng này đã hoàn hoàn chấm dứt vào năm 2001, được thể hiện rõ qua cơ cấu vốn. Vốn cố định chỉ còn chiếm 41,95% trong tổng vốn kinh doanh và vốn lưu động đã chiếm tới 58,15% tăng 21,73% tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 23370403 nghìn đồng so với năm 1999. Việc tăng này chủ yếu là do các khoản phải thu tăng 26.441.288 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 342,04%, và do hàng tồn kho cũng tăng 7.826.249 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 18,32% . Trong khi đó tiền mặt lại giảm –4.271.842 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là -63,82% so với năm 2000. Kết qủa này cho thấy năm 2000 công ty đã sản xuất và tiêu thụ được khá nhiều sản phẩm hàng hoá và lượng hàng tồn kho tăng lên không đáng kể so với mức tăng của các khoản phải thu. Tuy nhiên thực tế cho thấy mặc dù công ty tiêu thụ tốt hàng hoá sản xuất ra nhưng tiền mặt thực sự thu về nằm trong két lại giảm so với năm 2000 vì doanh thu ( lợi nhuận) tạo được trong quá trình sản xuất kinh doanh đã nằm hầu hết trong khoản phải thu. Điều này chứng tỏ công ty đang bị chiếm dụng vốn khá nhiều, gây bất lợi cho công ty trong việc quay vòng vốn. Trên đây là vấn đề mà công ty cần phải giải quyết trong năm 2002 đặc biệt là khoản phải thu của khách hàng vì nó chiếm tới 93,79% trong tổng số phải thu. Công ty cần có những giải pháp thật hợp lý làm sao thu được tiền về két, giảm thiểu số tiền trong lưu thông mà không làm ảnh hưởng tới khách hàng, đối tác. Điều này hết sức quan trọng bởi họ chính là người trực tiếp hoặc gián tiếp tạo công việc làm cho người lao động là nhân tố tích cực trong chiến lược phát triển của công ty.
b. Cơ cấu nguồn vốn của công ty
Là một doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường, ngoài nguồn vốn do ngân sách cấp. Công ty có quyền chủ động trong việc huy động các nguồn vốn khác cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn huy động của công ty chủ yếu là vay ngân hàng. Trong hoạt động này chủ yếu là vay dài hạn và vay ngắn hạn nhưng vay dài hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn hơn vay ngắn hạn trong tổng số nợ phải trả.
Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn của công ty May Đức Giang
Đơn vị tính : 1000đ
Năm
1999
2000
2001
Chỉ tiêu
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Nợ phải trả
31.641.205
79,64
36.368.603
68,98
44.746.357
61,33
Nợ ngắn hạn
14.001.981
37,76
16.316.619
30,95
15.936.415
21,84
Nợ dài hạn
16.466.425
41,45
20.051.984
38,03
26.824.046
36,76
Vốn chủ sở hữu
8.087.485
20,36
16.357.960
31,02
28.212.813
38,67
Tổng nguồn vốn
39728690
100
52.726.563
100
72.959.170
100
(Nguồn trích : Bảng cân đối kế toán ( 1999-2001)
Qua số liệu trên cho thấy công ty đã khá chủ động trong việc huy động vốn. Với tình hình chung ở nước ta thì thị trường chứng khoán chưa phát triển nên việc phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu ra bên ngoài để thu hút vốn từ nguồn vốn rỗi rãi trong dân chúng là khó thực hiện được chính vì vậy công ty chủ yếu là vay nợ ngân hàng để đáp ứng như cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Khoản nợ phải trả đã liên tục tăng qua các năm, điều này chứng cho thấy công ty có nhu cầu vốn lớn và các tổ chức tín dụng đã thực sự tin tưởng bởi uy tín, trách nhiệm mà công ty may Đức Giang đã tạo dựng được trong những năm qua, thì nay lại được chứng minh rõ nét hơn khi mà nợ phải trả chiếm tỷ trọng ngày càng giảm đi trong tổng nguồn vốn điều đó khẳng định sự phát triển đi lên của công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Năm 2000 nợ phải trả tăng 4.727.398 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 14,94% so với năm 2000, nhưng tỷ trọng nợ phải trả trong tổng vốn lại giảm - 10,66%. Năm 2001 nợ phải trả tiếp tục tăng so với năm 2000 với mức tăng tyệt đối là 8.377.754 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 23,06%, nhưng tỷ trọng nợ phải trả trong tổng vốn đã giảm là -7,65%. Qua sự so sánh trên ta thấy sở dĩ có hiện tượng nợ phải trả tăng nhưng tỷ trọng của nó lại giảm trong tổng vốn là do sự tăng lên rất mạnh mẽ của vốn chủ sở hữu. Năm 2000 vốn chủ sở hữu tăng 8.270.475 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng so với năm 1999 là 102,26%. Năm 2001 lại tiếp tục tăng so với năm2000, với mức tăng tuyệt đối là 11.854.853 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng72,47%. Đây là kết quả rất đáng khích lệ đối với công ty vì nó thể hiện được việc sử dụng các khoản vay đã mang lại những kết quả rất khả quan từ đó góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu, giảm bớt sự phụ thuộc vào các nguồn vồn vốn vay, tiết kiệm được một khoản chi phí tài chính và tăng khả năng chủ động về vốn của công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Có điểm đáng chú ý là các khoản nợ của công ty chiếm tỷ trọng không đều nhau. Nợ dài hạn luôn chiếm tỷ trọng cao hơn nợ ngắn hạn và có xu hướng giảm dần nhưng không đáng kể. Điều này có thể được giải thích là trong ba năm 1999-2001 công ty đã chú trọng nhiều hơn vào việc đầu tư đổi mới nâng cấp tài sản cố định nhằm nâng cao năng lực sản xuất, mà muốn làm được điều đó thì cần phải có một lượng vốn lớn và dĩ nhiên nó lớn hơn số vốn cần cho việc bổ xung vào vốn lưu động. Tuy nhiên nhìn chung thì cả hai loại nợ ngắn và dài hạn đều có xu hướng giảm đó là do sự tăng lên của vốn chủ sở hữu đã đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho công ty. Đây là một xu hướng tốt cần phát huy trong thời gian tới để công ty đạt được một cơ cấu vốn hoàn hảo, hợp lý hơn.
2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của công ty
2.2.2.1 Các chỉ tiêu tổng hợp
Để thấy được khái quát tình hình sử dụng vốn của công ty ta sử dụng các chỉ tiêu tổng hơp từ 5-8 đã trình bày để phân tích làm rõ vấn đề:
Bảng số 3: Kết quả các chỉ tiêu tổng hợp
Đơn vị : 1000đ
Năm
1999
2000
2001
2000 so với 1999
2001 so với 2000
Chỉ tiêu
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Mức tăng tuyết đối
%
Mức
%
Tỷ suất lợi nhuận vốn
0,05564
0,09333
0,08366
0,03769
67,74
-0,00967
-10,36
Hệ số đảm nhiệm vốn
0,55658
0,55764
0,64529
0,00106
0,19
0,08765
15,72
Doanh lợi vốn
0,28664
0,3530
0,23591
0,06636
23,15
-0,11709
-33,17
Hệ số nợ
0,80589
0,73559
0,64538
-0,0703
-8,72
-0,09021
-12,26
Nguồn trích : Bảng cân đối kế toán (1999-2001)
a. Tỷ suất lợi nhuận vốn
Năm 2000 cứ 1000đ vốn bình quân tạo ra 0,09333 nghìn đồng lợi nhuận (tăng 0,03769 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 67,74% ) so với năm 1999. Nguyên nhân của sự tăng mạnh lợi nhuận so với vốn bình quân điều đó có nghĩa là công ty đã tiết kiệm được một lượng vốn hay làm gia tăng thêm một lượng lợi nhuận nhất định. Nếu muốn hệ số của chỉ tiêu này đạt được như năm 1999 trong khi lợi nhuận ở mức năm 2000 thì công ty cần sử dụng một lượng vốn bình quân là:
4.314.614
=
77.545.183,32
(1.000đ)
0.05564
Nhưng thực tế công ty chỉ sử dụng 44.227.626,5 nghìn đồng vốn bình quân do vậy đã tiết kiệm được một lượng vốn bình quân là:
77.545.183,32- 44.227.626,5=31.317.556,82 nghìn đồng
Năm 2001 chỉ tiêu này đạt được là 0,08366 nghìn đồng /1000đ vốn cố định bình quân, giảm - 0,00967 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ giảm
-10,36% so với năm 1999. Hiện tượng này xảy ra là do mức tăng của lợi nhuận không theo kịp mức tăng vốn bình quân, nói cách khác thì vốn được đầu tư nhiều nhưng không đem lại hiệu quả bằng năm 2000 đã làm công ty bị lãng phí một lượng vốn hay mất đi một lượng lợi nhuận. Để đạt được hệ số của chỉ tiêu này không đổi so vói năm 2000, trong khi lợi nhuận ở mức năm 2000 thì công ty cần sử dụng một lượng vốn bình quân là:
5.257.398
=
56.331.276,12
(1.000đ)
0.09333
Thực tế, công ty đã sử dụng một lượng vốn bình quân là : 62.842.866,5 nghìn đồng do vậy đã lãng phí một lượng là :
62.842.866,5-56.331.276,12=6.511.590,38 nghìn đồng
b. Hệ số đảm nhiệm vốn
Năm 2000 đạt 0,55764 nghìn đồng vốn bình quân / 1000đ doanh thu thuần tăng rất nhẹ so với năm 1999 với mức tuyệt đối là 0,00106 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 0,19%. Sang năm 2001 hệ số của chỉ tiêu này tiếp tục tăng mạnh so với năm 2000 với mức tăng tuyệt đối là 0,08765 nghìn đồng / 1.000đ doanh thu thuần, tương ứng với tỷ lệ tăng 15,72%. Nghĩa là công ty bị thiệt hại một lượng doanh thu thuần hay lãng phí một lượng vốn bình quân nhất định cụ thể nếu muốn đạt được hệ số của chỉ tiêu này như năm 2000, với mức doanh thu thuần đạt được như năm 2000 thì công ty cần sử dụng một lượng vốn bình quân là :
0,55764 * 97.386.197=54.306.438,9 (1.000đ)
Nhưng thực tế công ty đã sử dụng là 62.842.866,5 nghìn đồng do vậy đã lãng phí một lượng vốn bình quân là :
62.842.866,5-54.306.438,9=8.536.427,6 (1000đ)
c. Doanh lợi vốn
Tương tự như chỉ tiêu khả năng sinh lời của vốn ta thấy năm 2000 công ty đã tiết kiệm được một lượng vốn tự có bình quân so với năm 1999 là:
4.314.614
=
15.052.379,29
-
6.736.083
=
8.316.296,291
(1.000đ)
0.28664
Năm 2001 đã lãng phí một lượng vốn tự có bình quân so với năm 2000 là:
5.257.398
=
14.893.478,75
-
62.842.866,5
=
-7.949.387,75
(1.000đ)
0,3530
Và so với năm 1999 đã lãng phí một lượng vốn là:
5.257.398
=
18.341.466,65
-
62.842.866,5
=
- 44.501.399,85
(1.000đ)
0.28664
Hiện tượng doanh lợi vốn tăng giảm thất thường là do sự biến động của lợi nhuận và vốn chủ sở hữu. Điều này chứng tỏ công tác quản lý và sử dụng vốn còn có sự bất cập nên dẫn đến tình trạng kể trên.
d. Hệ số nợ
Năm 2000 hệ số nợ là 0,73559, giảm - 0,0703 tương ứng với tỷ lệ giảm - 8,72% so với năm 1999, nghĩa là cứ 1000đ vốn bình quân năm 2000 công ty đã có thêm 0,073 nghìn đồng vốn chủ sở hữu bình quân. Tương tự, năm 2001 tỷ lệ vốn vay bình quân trong tổng vốn bình quân tiếp tục giảm
-12,26%, tương ứng với mức giảm tuyệt đối là - 0,09021 nghìn đồng vốn vay bình quân / 1.000đ vốn bình quân hay cứ 1000đ vốn vay bình quân công ty đã tăng thêm được 0,09021 nghìn đồng vốn chủ sở hữu bình quân.
Qua các chỉ tiêu tổng hợp trên ta thấy có sự tăng giảm thất thường, nghĩa là tình hình sản xuất kinh doanh của công ty vẫn chưa ổn định. Cụ thể trong 3 năm 1999-2001 thì chỉ có năm 2000 là năm mà các chỉ tiêu được đánh giá là khá tốt hay nói cách khác là năm mà công ty sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Năm 2001 có xu hướng xấu đi. Thực tế này đòi hỏi công ty cần có biện pháp tháo gỡ trong thời gian tới. Có một đặc điểm nổi bật trong ba năm hệ số nợ liên tục giảm nghĩa là tỷ trọng vốn chủ sở hữu liên tục tăng, báo hiệu mức độ độc lập về tài chính của công ty ngày càng vững mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty chủ động nhu cầu vốn trong kinh doanh giảm được các chi phí tài chính do việc vay vốn từ các nguồn khác nhau.
2.2.2.2. Các chỉ tiêu phân tích
2.2.2.2.1 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định
Trong tỷ trọng cơ cấu tài sản của công ty thì tài sản cố định là một phần quan trọng, do là công ty sản xuất nên tỷ trọng tài sản cố định của công ty tương đối cao. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định dùng các chỉ tiêu từ số 9-14 để phân tích.
Bảng số 4: Kết quả các chỉ tiêu phân tích đối với vốn cố định
Đơn vị: 1000 đ
Năm
1999
2000
2001
2000 so với 1999
2001 so với 2000
Chỉ tiêu
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Mức tăng tuyết đối
%
Mức tăng tuyết đối
%
Hệ số đổi mới TSCĐ
2.6974
2.9752
2.68992
0.27785
109.34
- 0.28528
-53.63
Sức sản xuất TSCĐ
1.98896
1.94364
1.89424
- 0.04532
- 2.28
0.0494
- 2.61
Suất hao phí TSCĐ
0.50277
0.51450
0.52792
0.01173
2.33
0.01342
0.025
Tỷ suất LNCĐ
0.07283
0.12328
0.12119
0.05045
69.27
0.00209
- 1.96
Hệ số đảm nhiệm VCĐ
0.33136
0.33946
0.32953
0.0081
0.024
0.00993
- 2.29
(Nguồn trích: Bảng cân đối kế toán năm 1999 – 2001)
Hệ số đổi mới tài sản cố định
Năm 2000 tăng so với năm 1999 với mức tăng tuyệt đối là 0,27785 nghìn đồng tương ứng với mức tăng 109,34%. Điều này chứng tỏ rằng năm 2000 là năm công ty đầu tư rất mạnh vào tài sản cố định của đơn vị trong đó chủ yếu là tăng cường mua sắm mới các máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao động và sản lượng sản xuất. Sang năm 2001 chỉ tiêu này giảm mạnh so với năm 2000, với mức giảm tương đối là -53,63% tương ứng với mức giảm tuyệt đối là - 0,28528 nghìn đồng. Qua đây có thể thấy rõ một điều là năm 2000 là năm công ty đầu tư vào tài sản cố định mạnh mẽ nhất nhằm mục tiêu tăng sản lượng, doanh thu, lợi nhuận có tính chất nền móng cho những năm tiếp theo. Sang năm 2001 mức đầu tư vào tài sản cố định chỉ có ý nghĩa hoàn thiện chiến lược phát triển công ty mà thôi.
Sức sản xuất của tài sản cố định
Năm 2000 là 1,94364 nghìn đồng/ 1000đ nguyên giá bình quân tài sản cố định giảm xuống so với năm 1999 là - 0,04532 nghìn đồng ( tương ứng với tỷ lệ giảm là -2,28%).Vậy nếu sức sản xuất của tài sản cố định không đổi so với năm 1999 hay nói cách khác là để đạt được mức doanh thu như năm 1999 công ty cần sử dụng:
82.898.307
=
41.679.222
(1.000đ)
1,98896
Thực tế sử dụng của năm 2000, công ty đã lãng phí một lượng nguyên giá tài sản cố định bình quân là :
42.651.138-41.679.222=971.916 (1.000đ)
Tính tương tự như năm 2000 năm 2001, để đạt được sức sản xuất của TSCĐ không đổi so với năm 2000 và năm 1999 thì công ty cần sử dụng tương ứng là:
97.386.197
=
50.105.059
(1.000đ)
1,94364
Và:
97.386.197
=
48.963.376
(1.000đ)
1,98896
nguyên giá bình quân TSCĐ . Thực tế sử dụng năm 2001 công ty đã lãng phí một lượng nguyên giá bình quân TSCĐ so với năm 2000 là :
51.411.852-50.405.059=1.306.793 (1.000đ)
và so với năm 1999 là:
51.411.852-48.963.376=2.248.476 (1.000đ)
Nguyên nhân của hai hiện tượng trên là do mức tăng của doanh thu không theo kịp với mức tăng của tài sản cố định và với thực tế phân tích ở trên chứng tỏ công tác quản lý, khai thác tài sản cố định tại công ty còn nhiều bất cập đặc biệt là trong hai năm 2000 và năm 2001 khi một lượng rất lớn tài sản cố định được đầu tư thể hiện qua hệ số đổi mới tài sản cố định
Tỷ suất lợi nhuận tài sản cố định
Về tỷ suất lợi nhuận tài sản cố định năm 2000 là 0,12328 nghìn đồng/ 1000đ nguyên giá tài sản cố định bình quân, tăng so với năm 1999 với mức tăng tuyệt đối là 0,05045 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 69,27%. Nguyên nhân là do mức tăng của lợi nhuận lớn hơn mức tăng của tài sản cố định. Cụ thể : năm 2000 để đạt được mức lợi nhuận như trên và tỷ suất sinh lời không đổi so với năm 1999 thì công ty cần sử dụng:
2.804.499
=
70.042.432
(1.000đ)
0,04004
nguyên giá bình quân tài sản cố định. Với thực tế sử dụng năm 2000 thì công ty đã tiết kiệm được một lượng là:
70.042.432-42.651.138=27.391.294 (1.000đ)
Sang năm 2001 hệ số của chỉ tiêu này giảm nhẹ so với năm 2000 với mức giảm tuyệt đối là - 0,00209 nghìn đồng lợi nhuận / 1.000 nguyên giá bình quân tài sản cố định, tương ứng với tỷ lệ giảm -1,69%. Nguyên nhân là do lợi nhuận tăng chậm hơn so với mức tăng của nguyên giá tài sản cố định nói cách khác việc khai thác sử dụng tài sản cố định chưa đạt hiệu quả cao nhất. Để giữ không cho hệ số của chỉ tiêu sụt giảm so với năm 2000 trong khi lợi nhuận đạt ở mức năm 2001 thì công ty cần sử dụng là:
6.230.543
=
50.539.771,25
(1.000đ)
0,12328
nguyên giá bình quân TSCĐ, thực tế công ty đã sử dụng một lượng là 51.411.852 nghìn đồng nên đã lãng phí một lượng nguyên giá bình quân tài sản cố định là:
51.411.852-50.539.771,25=872.080,75 nghìn đồng
Thực tế trên cho thấy, chỉ tiêu sức sản xuất tài sản cố định liên tục giảm qua ba năm nhưng sức sinh lời của nó tăng rất mạnh ở năm 2000 và có giảm nhẹ ở năm 2001. Điều đó chứng tỏ các chi phí gián tiếp đã được tiết kiểm soát chặt chẽ hơn, đúng với tình hình sản xuất kinh doanh hơn do đó cùng với mức tăng mạnh mẽ của tổng doanh thu cộng với một cơ cấu chi phí gián tiếp hợp lý đã góp phần làm cho lợi nhuận của công ty tăng trưởng nên đã có ảnh hưởng tích cực đến chỉ tiêu sức sinh lời của tài sản cố định
Suất hao phí tài sản cố định
Suất hao phí của tài sản cố định năm 2000 là 0,51450 nghìn đồng nguyên giá bình quân TSCĐ / 1000 đồng doanh thu thuần, tăng tuyệt đối 0,01173 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 2,33% so với năm 1999. Chỉ tiêu này tiếp tục tăng trong năm 2001 so với năm 2000 với mức tăng tuyệt đối là 0,01342 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 2,61%. Điều này chứng tỏ cứ mỗi một 1000đ doanh thu thuần thu được năm 2000 công ty đã lãng phí thêm 0,01173 nghìn đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định so với năm 1999 ,năm 2001 con số này là 0,01342 nghìn đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định so với năm 2000. Hiện tượng suất hao phí tài sản cố định tăng trong năm 2000, sang năm 2001 vẫn chưa khắc phục được đó chính là vấn đề quan trọng mà công ty phải có phương hướng và biện pháp hiệu quả để giảm chỉ tiêu này xuống càng thấp càng tốt, có vậy thì công ty mới sử dụng và quản lý tốt tài sản cố định của mình
Hệ số đảm nhiệm vốn
Năm 2000 chỉ tiêu này đạt 0,33946 nghĩa là cứ 1.000đ doanh thu thuần được tạo ra cần phải tiêu tốn mất 0,33946 nghìn đồng vốn cố định bình quân, tăng tuyệt đối 0,0081 nghìn đồng/1.000đ doanh thu thuần (tương ứng với tỷ lệ tăng 2,44% so với năm 2000), đã làm thiệt hại (lãng phí ) một lượng vốn bình quân hay doanh thu thuần. Cụ thể : Với mức vốn cố định bình quân chi ra trong năm 2000 mà lại đạt được hệ số như năm 1999 thì doanh thu thuần công ty phải thực hiện được là :
28.140.500
=
84.924.251,75
(1.000đ)
0,33136
nhưng thực tế thì chỉ thực hiện được 82.898.307 nghìn đồng tức là đã lãng phí một lượng:
84.924.251,57 - 82.898.307=2.025.944,57 (1.000đ)
Nhưng sang năm 2001 hiện tượng lãng phí vốn cố định bình quân hoặc doanh thu thuần đã được chặn đứng. Chứng tỏ công ty đã có biện pháp sử lý hữu hiệu kịp thời trong công tác quản lý và sử dụng vốn đặc biệt là khâu khai thác sử dụng tài sản cố định nên đã làm cho đồng vốn sử dụng có hiệu quả hơn cụ thể : năm 2001 chỉ cần 0,32953 nghìn đồng vốn cố định bình quân đã tạo được 1000đ doanh thu thuần giảm tuyệt đối –0.00993 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là -2,92% so với năm 2000 nên tiết kiệm một lượng vốn cố định bình quân hay làm tăng thêm một lượng doanh thu thuần nhất định. Cụ thể, để đạt được hệ số bằng năm 2000 với mức sử dụng vốn cố định bình quân như năm 2001 thì doanh thu thuần công ty sẽ đạt được là :
32.091.705
=
94.537.515
(1.000đ)
0,33946
nhưng thực tế công ty đã tạo được một lượng doanh thu thuần là 97.386.197 do vậy đã làm tăng thêm một lượng doanh thu thuần là:
97.386.197-94.537.515,47=2.848.682 (1.000đ)
Doanh lợi vốn
Hiệu quả sử dụng vốn cố định qua các năm liên tục tăng và đã mang lại mức tiết kiệm vốn cố định bình quân cho công ty cụ thể là. Năm 2000 tiết kiệm được
5.258.250
=
47.581.666,82
-
28.140.500
=
19.441.166,82
(1.000đ)
0,11051
so với năm 1999. Năm 2001 tiết kiệm được
6.230.543
=
33.343.374,72
-
32.091.705,5
=
1.251.669,219
(1.000đ)
0,18686
so với năm 2000
Tóm lại qua ba năm 1999-2001 thì năm 2000 là năm công ty sử dụng vốn cố định có hiệu quả nhất với mức tăng rất cao theo chỉ tiêu doanh lợi là 69,09% so với năm1999 và theo chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm vốn thì tăng 2,44% so với năm1999. Điều đó cho thấy năm 2000 cũng là năm công ty có chính sách quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hợp lý nhất nên đã mang lại doanh lợi vốn rất cao mặc dù hệ số đảm nhiệm vốn cũng tăng
2.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Trong đánh giá hay phân tích hiệu quả sử dụng vốn của một doanh nghiệp hay công ty thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một phần rất quan trọng. Qua đó có thể thấy được hiệu quả thường xuyên của một công ty. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động ta sử dụng các chỉ tiêu từ 15-19 để phân tích làm rõ vấn đề.
Bảng 5: Kết quả chỉ tiêu phân tích đối với vốn lưu động
Đơn vị: 1000 đ
Năm
1999
2000
2001
2000 so với 1999
2001 so với 2000
Chỉ tiêu
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Mức tăng tuyết đối
%
Mức tăng tuyết đối
%
Sức sản xuất VLĐ
4.44
4.59598
3.23465
0.15598
3.51
-1.36133
-29.62
Tỷ suất lợi nhuận VLĐ
0.16259
0.29152
0.29294
0.12893
79.297
-0.08858
-30.38
Số vòng quay VLĐ
4.44
4.59598
3.23465
0.15598
3.51
-1.36133
-29.62
Thời gian 1 vòng luân chuyển
75.58
78.33
111.29
- 2.75
- 3.39
32.96
42.08
Hệ số đảm nhiệm VLĐ
0.207
0.216
0.315
- 0.009
- 0.04
0.099
0.03
(Nguồn trích: Bảng cân đối kế toán năm 1999 – 2001)
Sức sản xuất của vốn lưu động
Năm 2000 là 4,59598 nghìn đồng / 1000đ vốn lưu động bình quân tăng so với năm 1999 với mức tăng tuyệt đối là 0,15598 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng 3,51%. Điều đó đã tiết kiệm được một lượng vốn lưu động bình quân là :
82.898.307
=
18.670.789,86
-
18.037.126
=
633.663
(1.000đ)
4,44
(trong đó : 82.898.307/4,44 là mức vốn lưu động bình quân cần thiết để sức sản xuất của vốn lưu động đạt bằng so với năm 1999 với doanh thu thuần ở mức năm 2000). Sang năm 2001 chỉ tiêu này giảm so với năm 2000 với mức giảm tuyệt đối là -1,36133 nghìn đồng doanh thu thuần / 1.000đ vốn lưu động bình quân tương ứng với tỷ lệ giảm là -29,62%, chứng tỏ năm 2001 công ty đã sử dụng lãng phí một lượng vốn lưu động bình quân là :
=
-
=
97.386.197
=
21.189.430,11
-
30.701.160,5
=
- 9.511.730
(1.000đ)
4,59598
Nguyên nhân là do vốn lưu động bình quân năm 2001 tăng cao hơn mức tăng của doanh thu thuần hay nói cách khác sức sản xuất của vốn lưu động năm 2001 không bằng năm 2000
Sức sinh lời của vốn lưu động
Sức sinh lời của vốn lưu động năm 2000 đạt 0,29152 nghìn đồng lợi nhuận / 1.000đ vốn lưu động bình quân , tăng so với năm 1999 với mức tăng tuyệt đối là 0,12893 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 79,297% . Vậy để mức sinh lời năm không đổi so với năm 1999, với mức lợi nhuận đạt được ở năm 2000 thì công ty cần sử dụng một lượng vốn lưu động bình quân là:
5.258.250
=
32.340.549,85
(1.000đ)
0,16259
so với thực tế sử dụng năm 2000 ta thấy công ty đã tiết kiệm được một lượng vốn lưu động bình quân là :
32.340.549,85 – 18.037.126 = 14.303.423,85 nghìn đồng .
Sang năm 2001 chỉ số này giảm so với năm 2000 với mức giảm tuyệt đối là - 0,08858 nghìn đông lợi nhuận/ 1.000đ vốn lưu động bình quân tương ứng với tỷ lệ giảm -30,38%, chứng tỏ công ty đã sử dụng lãng phí một lượng vốn lưu động bình quân là :
30.701.160
-
6.230.543
=
9.328.550,917
(1.000đ)
0,29152
(trong đó 6.230.543/0,29152 là vốn lưu động bình quân cần thiết để đạt được hệ số của chỉ tiêu bằng với năm 1999 với mức lợi nhuận đạt ở mức năm 2000)
Vòng quay của vốn lưu động
Số vòng quay của vốn lưu động năm 2000 là 4,59598 vòng một năm tăng so với năm 1999 là 0,15598 vòng/ năm tương ứng với tỷ lệ tăng là 3,51% nguyên nhân là do tổng doanh thu thuần tăng cao hơn mức tăng của vốn lưu động bình quân hay nói cách khác vốn lưu động đã được sử dụng rất có hiệu quả, chỉ với tỷ lệ đầu tư vốn lưu đông vào sản xuất kinh doanh ở mức thấp nhưng đã tạo ra đươc một lượng doanh thu với tỷ lệ tăng vượt xa so với mức tăng của vốn lưu động vì thế đã nâng tốc độ quay vòng vốn tăng so với năm 1999. Đi sâu phân tích ta thấy để số quay vòng vốn bằng năm 1999 thì công ty phải sử dụng một lượng vốn lưu động bình quân là 18.670.789 nghìn đồng nhưng thực tế công ty chỉ sử dụng 18.037.126 nghìn đồng nên đã tiết kiệm được là:
18.670.789 – 18.037.126 = 633.663 (1000.đ)
Sang năm 2001 chỉ số này giảm so với năm 2000 với mức giảm tuyệt đối là -1,36133 vòng / năm tương ứng với mức giảm - 29,62% nguyên nhân là do doanh thu thuần tăng không kịp so với mức tăng lên của vốn lưu động hay nói cách khác vốn lưu động đã không được sử dụng hiệu quả nên làm giảm vòng quay của vốn lưu đông vì thế làm lãng phí một lượng vốn lưu động bình quân là :
30.701.160
--
97.386.197
=
9.511.730
(1.000đ)
4,59598
( trong đó 97.386.197/4,59598 là mức vốn lưu động bình quân cần thiết để đạt được hệ số của chỉ tiêu bằng so với năm 2000 với mức doanh thu thuần thực hiện ở năm 2001)
Thời gian của một vòng quay vốn
Thời gian một vòng quay của vốn lưu động năm 2000 là 78,33 giảm -2,75 ngày tương ứng với tỷ lệ giảm - 3,39% so với năm 1999. Điều này chứng tỏ công ty sử dụng tiết kiệm vón lưu động bình quân. Ta có thể xác định số vốn lưu động đã tiết kiệm được qua công thức:
Số vốn lưu động lãng phí hay tiết kiệm
=
Doanh thu thuần
*
Thời gian 1 vòng quay (kỳ phân tích)
-
Thời gian 1 vòng quay( kỳ báo cáo)
360
Vậy số vốn lưu động bình quân đã tiết kiệm được do giảm thời gian 1 vòng quay vốn là:
82.898.307
*
(78,33 - 81,08)
=
-
633.250,956
(1.000đ)
360
Sang năm 2001 thời gian 1 vòng quay vốn lưu động tăng lên so với năm 2000 là 32,96 ngày / 1 vòng quay, tương ứng với tỷ lệ tăng 42,08%, sử dụng công thức nêu trên ta tính được số vốn lưu động bình quân công ty đã lãng phí do tăng thời gian 1vòng quay trong năm 2001 là :
97.386.197
*
(111,29 - 78,33)
=
8.916.247
(1.000đ)
360
Hệ số đảm nhiệm vốn
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động năm 2000 đạt 0,216 nghĩa là cứ 0,216 nghìn đồng vốn lưu động bình quân đầu tư vào sản xuất thì thu được 1.000đ doanh thu thuần , giảm so với năm 199 với mức giảm tuyệt đối là
- 0,009 nghìn đồng vốn lưu động bình quân / 1.000đ doanh thu thuần tương ứng với tỷ lệ giảm là - 0,04% . Điều này chứng tỏ công ty đã sử dụng tiết kiệm được 0,009 nghìn đồng đối với mỗi đồng doanh thu thuần được tạo ra. Ngược lại trong năm 2001 chỉ số của chỉ tiêu này tăng lên có nghĩa là công ty đã sử dụng lãng phí một lượng vốn lưu động bình quân là 0,099 nghìn đồng trong mỗi một nghìn đồng doanh thu thuần tạo ra
Nhìn chung qua ba năm 1999-2001 thì năm 2000 là năm công ty sử dụng tốt vốn lưu động thể hiện ở các kết quả của chỉ tiêu phân tích đều tốt mang lại hiệu quả nổi bật nhất
2.2.2.3 Một số tỷ lệ tài chính phản ánh thực trạng quản lý tiền mặt
Như đã trình bày ở chương I ta sử dụng công thức từ 20 đến 22 để phân tích làm rõ tình hình tài chính của công ty.
Bảng 6 : Các chỉ tiêu tài chính
Đơn vị : 1000đ
Năm
1999
2000
2001
Chỉ tiêu
Đầu kỳ
Cuối kỳ
Đầu kỳ
Cuối kỳ
Đầu kỳ
Cuối kỳ
Tỷ suất thanh toán hiện hành
0,8654
1,1349
1,1349
1,1674
1,1674
2,6577
Tỷ suất thanh toán VLĐ
0,0231
0,1364
0,1364
0,1993
0,1993
0,0791
Tỷ suất thanh toán tức thời
0,0336
0,2064
0,2064
0,4102
0,4102
0,1520
( Nguồn trích: Bảng cân đối kế toán 1999-2001)
Về khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn ( phải thanh toán trong vòng một năm ) dùng chỉ tiêu tỷ suất thanh toán hiện hành để phân tích ta thấy: Trong 3 năm chỉ só chỉ tiêu này luôn lớn hơn 1 điều này cho thấy công ty có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là khả quan.Riêng chỉ có đầu năm 1999 chỉ số này là 0,8654 cho thấy tình hình tài chính là không tốt, công ty không đủ khả năng thanh toán được tổng số các khoản nợ ngắn hạn. Nhưng đến cuối năm 1999 thì tình hình đó được cải thiện, vào thời điểm cuối kỳ chỉ số này là 1,1349 cho thấy công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính của công ty đang đi dần vào thế ổn định. Nếu xét trong cả 3 năm thì cuối năm 2001 chỉ số này là cao nhất do vậy có thể nói năm 2001 là năm tình hình tài chính của công ty là khả quan nhất
Về tỷ suất thanh toán của vốn lưu động năm 1999 chỉ số đầu năm là 0,0231 và cuối năm là 0,1364 tăng 0,1364-0,0231 = 0,1133 cho thấy đến cuối năm công ty đã cải thiện được vấn đề tiền mặt để thanh toán. Năm 2000 ( tính tương tự như năm 1999) ta thấy tình hình tiền mặt của công ty ngày càng được cải thiện đầu kỳ là 0,1364 đến cuối kỳ là 0,1993 do đó có thể nói công ty đã làm tốt nghiệp vụ kế toán làm giảm được các khoản phải thu và tăng lượng tiền mặt. Năm 2001 (tính tương tự như năm 1999), chỉ số thanh toán vốn lưu động đầu kỳ là 0,1993 cuối kỳ là 0,0791 giảm - 0,1202 so với đầu kỳ. Rõ ràng đến cuối kỳ công ty lại lâm vào tình trạng thiếu tiền mặt để thanh toán nguyên nhân ở đây là do các khoản thu tăng lên quá cao làm tăng lượng tiền trong lưu thông và giảm lượng tiền mặt tại quỹ của công ty
Qua 3 năm 1999 - 2001 thì chỉ có năm 2000 là tỷ suất thanh toán vốn lưu động là hợp lý nhất nó phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản cố định là hoàn toàn hợp lý. Về tỷ suất thanh toán tức thời, năm 1999 đầu kỳ là 0,0336 cuối kỳ là 0,2046cho thấy công ty có thể lâm vào tình trạng khó khăn trong thanh toán ở đầu kỳ nhưng xét trong kỳ thì tình hình tài chính đã phần nào được cải thiện ở cuối kỳ chỉ số này tăng hơn đầu kỳ là 1,1728 chỉ số này tăng là do tiền mặt của công ty tăng từ 429.283 nghìn đồng lên tới 30.96.987 nghìn đồng trong khi đó nợ ngắn hạn tăng lên nhưng không đáng kể từ 12.777.801 lên 15.001.981 nghìn đồng. Năm 2000 (tính tương tự như năm 1999) chỉ số đầu kỳ là 0,2064 và đến cuối kỳ là 0,4102 cho thấy khả năng thanh toán nhanh ( tức thời ) tiếp tục tăng. Chỉ số này tăng lên cũng lại do tiền mặt của công ty tăng cao với mức tăng tương đối là 116,15% tương ứng với mức vượt tuyệt đối là 3.579.156 nghìn đồng, đồng thời công nợ tăng không đáng kể với mức tăng tuyệt đối là 1.314.638 nghìn đồng tương ứng với tỷ lệ tăng tương đối là 8,76% so với đầu năm. Năm 2000 (tính tương tự như năm 1999) chỉ số đầu kỳ là 0,4102 và tới cuối kỳ chỉ còn 0,1520 cho thấy công ty lại lâm vào tình trạng thiếu tiền cho việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
Nếu đem so sánh cả ba năm về hai chỉ tiêu “ tỷ suất thanh toán của vốn lưu động” và “ tỷ suất thanh toán tức thời” thì năm 2000 là năm mà khả năng thanh toán của công ty là tốt nhất. Trong hai năm 1999 và 2001 thì khả năng chuyển đổi thành tiền của vốn lưu động và khả năng thanh toán tức thời các khoản nợ còn thấp
2.3 NHẬN XÉT CHUNG
2.3.1 Những mặt đã đạt được
Qua số liệu trên , ta thấy doanh thu và lợi nhuận liên tục tăng qua 3 năm đã thể hiện sự phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu của của Công ty May Đức Giang trong chặng đường đi lên của mình. Mục tiêu mà công ty thực hiện được triệt để nhất đó là mở rộng quy mô sản xuất, hiện đại hoá trang thiết bị, điều này được thể hiện rõ qua hệ số đổi mới tài sản cố định tăng cao năm 2000 và ở năm 2001 tuy có giảm nhưng vẫn tăng so với năm 1999 đã làm quy mô vốn cố định của công ty phát triển năm sau cao hơn năm trước. Năm 2000 cũng là năm mà công ty sử dụng vốn có hiệu quả nhất, được thể hiện qua kết quả các chỉ tiêu đều rất tốt như doanh lợi vốn cố định bình quân tăng 69,09%, tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động bình quân tăng 73,97% nên đã có ảnh hưởng tích cực đến khả năng thanh toán của công ty
2.3.2 Những hạn chế cần khắc phục
Ta có thể thấy ngay hiệu quả sử dụng vốn của công ty năm 2001 giảm sút so với năm 2000 nhưng vẫn tăng hơn so với năm 1999. Chứng tỏ việc sản xuất kinh doanh của công ty vẫn chưa đi vào thế ổn định.
Xét về vốn cố định thì năm 2001 vẫn có sự tăng trưởng trong đó chủ yếu vẫn là sự tăng lên của TSCĐ được đầu tư mới nhưng với mức tăng nhỏ hơn so với năm 2000 . Hầu hết các chỉ tiêu liên quan đến vốn cố định đều không duy trì được sự ổn định tốt đẹp như năm 2000 cá biệt có những chỉ tiêu năm 2000 đã không khắc phục được những hạn chế so với năm 1999 mà sang năm 2001 vẫn lâm vào tình trạng xấu hơn cụ thể là : Doanh lợi vốn cố định tăng 3,9% so với năm 2000 trong khi đó chỉ tiêu này tăng
69,09% so với năm 1999 . Sức sản xuất TSCĐ giảm -2,54% so với năm 2000 và còn giảm :
(1,89424 - 1,98896)
*
100
=
- 4,76 %
1,98896
so với năm 1999 . Suất hao phí tăng 2,61% so với năm 1999 tăng :
(0,52792 - 0,50277)
*
100
=
5 %
0,50277
so với năm 1999 . Hệ số đảm nhiệm vốn cố định tăng 3,01% so với năm 2000 và tăng:
(3,03462 - 3,01784)
*
100
=
0,556%
3,01784
so với năm 1999 đã làm lãng phí vốn .
- Xét về vốn lưu động thì cũng tương tự như vốn cố định sang năm 2001 đều có dấu hiệu rõ ràng của sự giảm sút hiệu quả so với năm 2000 . Sức sản xuất vốn lưu động giảm - 29,62% so với năm 2000 và giảm:
(3,23465 - 4,44)
*
100
=
-27,15%
4,44
so với năm 1999 . Tỷ suất vốn lưu động giảm - 25,10% so với năm 2000 . Số vòng quay vốn lưu động giảm - 29,62% so với năm 2000 và giảm -27,15% so với năm 1999 . Thời gian 1 vòng quay vốn tăng 42,08% so với năm 2000 và tăng :
(111,29 - 81,08)
*
100
=
37,26%
81,08
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động tăng 45,83% so với năm 2000 và tăng:
(0,315 - 0,225)
*
100
=
40%
0,225
so với năm 2000 làm lãng phí vốn lưu động .
- Về khả năng thanh toán của công ty còn nhiều bất cập . Nếu xét khả năng thanh toán nợ ngắn hạn trong cả kỳ thì đảm bảo nhưng nếu thanh toán tức thời các khoản nợ ngắn hạn và vốn lưu động thì công ty lại bị thiều tiền mặt để thanh toán ở các thời điểm đầu năm 1999 và cuối năm 2001
Như vậy , từ thực tế sử dụng vốn cố định và vốn lưu động trong năm 2001 đã tổng hợp ở trên ta thấy hiệu quả sử dụng vốn của công ty không tốt bằng năm 2000, nguyên nhân dẫn đến kết quả trên thì có nhiều , trong đó có nguyên nhân về yếu tố quản lý , điều hành sản xuất chung của công ty . Thực tế này đòi hỏi ban lãnh đạo công ty cần phải có biện tháo gỡ nhằm chặn được đà giảm sút cũng như nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của công ty trong những năm tiếp theo.
CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TẠI CÔNG TY MAY ĐỨC GIANG
3.1 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY MAY ĐỨC GIANG
Trong những năm qua theo đường lối phát chính sách triển kinh tế của Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều các loại hình doanh nghiệp được ra đời với số lượng lớn, trong đó có doanh nghiệp chuyên sản xuất, gia công hàng may mặc.Vì thế ngoài việc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác về vốn tín dụng, các chính sách ưu đãi của Nhà nước thì các doanh nghiệp còn phải cạnh tranh lẫn nhau về thị phần tiêu thụ trong nước và các hợp đồng gia công hàng may mặc xuất khẩu. Đặc biệt là sự cạnh sự cạnh tranh ấy sẽ trở lên gay gắt và cơ hội giành được các đơn đặt hàng lớn, lâu dài của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam trở lên khó khăn hơn khi phải đối đầu với các doanh nghiệp nước ngoài chuyên sản xuất kinh doanh những mặt hàng tương tự. Bởi lẽ họ có kinh nghiệm, trình độ trong quản lý sản xuất kinh doanh, có sức mạnh về tài chính nên giá thành sản phẩm của họ chắc chắn sẽ ở mức thấp, kết hợp với mẫu mã sản phẩm lại đa dạng, phong phú nên sản phẩm của họ có sức cạnh tranh tốt. Ví dụ như sản phẩm dệt may của Trung Quốc đã tràn ngập thị trường Việt Nam với giá cả phù hợp với đại đa số thu nhập của người lao động, mẫu mã lại đa dạng để người tiêu dùng có thể lựa chọn trong khi đó sản phẩm dệt may của ta đa số là giá thành khá cao, mẫu mã còn đơn điệu nên khó có thể cạnh tranh được với hàng của Trung Quốc. Trong tương lai, chắc chắn là sự cạnh trạnh sẽ còn khốc liệt hơn khi các doanh nghiệp may mặc được ra đời nhiều thêm không những ở Việt Nam mà còn ở nước ngoài, và nhu cầu chung thì tăng chậm hoặc chững lại, điều đó được xem như là một quy luật tất yếu của nền kinh tế . Trước bối cảnh ấy, Công ty May Đức Giang đã đưa ra mục tiêu và phương hướng phát triển trong thời gian tới như sau:
Tiếp tục đầu tư, cải tiến đổi mới theo chiều sâu máy móc thiết bị công nghiệp hiện đại, tạo cơ sở vật chất vững chắc cho sự phát triển lâu dài . Đẩy mạnh công tác thiết kết , đa dạng hoá mãu mã sản phẩm , nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nữa . Tiếp tục duy trì áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 để hội nhập khu vực và thế giới.
Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm ( về giá cả , chất lượng, mẫu mã) với các sản phẩm nhập khẩu từ khu vực ASEAN vào Việt Nam, đặc biệt là sản phẩm của Trung Quốc. Vì đến năm 2003 thuế hàng xuất nhập khẩu vào Việt Nam chỉ còn từ 0% đến 5% và sẽ giảm xuống 0% sau năm 2006
Gia tăng sản lượng tiêu thụ nội địa, mở rộng thị trường tiêu thụ đến các vùng nông thôn miền núi vì đây là một thị trường rất rộng lớn mà công ty còn chưa khai thác được đồng thời phấn đấu xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài.
Chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên của công ty để họ có đủ năng lực làm chủ máy móc thiết bị hiện đại và đủ năng lực để quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện thị trường luôn biến động.
Xây dựng hệ thống các kênh phấn phối tiêu thụ, các đại lý bán hàng, mở rộng và phát triển các mối quan hệ với các mối trung gian thương mại tạo thành cầu nối vững chắc giữa sản xuất và tiêu dùng.
Tổ chức sản xuất khoa học, hiệu quả xây dựng phương án tiết kiệm trong sản xuất, hội tụ sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm để tạo điều kiện cho sản phẩm của công ty có khả năng thâm nhập vào thị trường mới.
Tạo đủ công ăn việc làm, cố gắng nâng cao thu nhập, đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên, thực hiện đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, chấp hành đầy đủ chính sách của Đảng và Nhà nước.
Từng bước lập kế hoạch chuẩn bị cho công tác cổ phần hoá doanh nghiệp theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Một số chỉ tiêu cụ thể năm 2002
Giá trị sản xuất công nghiệp: 970.461triệu đồng
Doanh thu 280.800 triệu đồng
( Trong đó doanh thu bán FOB là 60 %)
Kim ngạch xuất khẩu 10.6 triệu USD
Lợi nhuận 7.500 triệu đồng
Nộp Ngân sách 2.500 triệu đồng
Thu nhập bình quân 1.243.000 đồng
Tổng số cán bộ công nhân viên 3.120 người
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 0.55
Trước mắt công ty cần phấn đấu hoành thành kế hoạch đặt ra trong năm 2002 là doanh thu tăng 32% , năng suất lao động bình quân tăng 26%/ người, bán FOB đạt 70% doanh thu, giảm tỷ trọng nợ phải trả, giá vốn hàng bán chiếm 66% trong doanh thu.
Để thực hiện tốt các mục tiêu và phương hướng nêu trên đồng thời hoàn thành các nhiệm vụ đề ra, công ty cần phải xem xét và khắc phục những khó khăn, những điểm yếu đồng thời phải biết tận dụng thời cơ, phát huy những thế mạnh sẵn có. Đòi hỏi phải có sự đoàn kết nội bộ, sự nỗ lực lớn của cán bộ công nhân viên của công ty, sự chỉ đạo, lãnh đạo của Tổng công ty dệt may Việt Nam.
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
3.2.1 Về phía công ty May Đức Giang
3.2.1.1 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
Vốn cố định của một doanh nghiệp là một phần vốn ứng ra để mua sắm tài sản cố định, đối với công ty May Đức Giang - là một doanh nghiệp sản xuất, vì vậy vốn cố định chiếm một tỷ lệ cao trong tổng số vốn của công ty. Chính vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Để thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định cần phải:
Xác định cơ cấu tài sản cố định hợp lý phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của công ty, ở công ty tài sản cố định hữu hình là bộ phận chủ yếu chiếm tỷ trọng 100%, trong bộ phận này thì máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng rất cao nên cùng với việc huy động tối đa tài sản cố định vào sản xuất kinh doanh phải tiến hành xử lý dứt điểm những tài sản hư hỏng, không cần dùng và không có hiệu quả kinh tế, những tài sản đã khấu hao hết chờ thanh lý nhằm tận thu, thu hồi vốn cố định chưa sử dụng hết.
Nâng cao trình độ sử dụng tài sản cố định về mặt thời gian và công suất. Biện pháp này làm cho với một lượng tài sản cố định nhất định có thể sản xuất ra một khối lượng sản phẩm lớn hơn, tiền khấu hao với một đơn vị sản phẩm giảm, vốn cố định luân chuyển nhanh hơn. Thực tế ở Công ty may Đức Giang máy móc thiết bị thực tế chỉ khai thác được từ 94-96% công suất, một mặt do trình độ tay nghề của công nhân còn chưa cao, một mặt do sự xuống cấp của máy móc thiết bị và khả năng sử dụng những thiết bị mới chưa thành thạo. Vì vậy công ty cần phải chú ý tới việc nâng cao và tăng thời gian hoạt động có ích và tăng công suất của tài sản cố định.
Tổ chức tốt công tác giữ gìn sửa chữa tài sản cố định có ảnh hưởng đến việc duy trì tính năng, công dụng, công suất tài sản cố định. Ở Công ty May Đức Giang trách nhiệm giữ gìn được giao cho từng xí nghiệp sản xuất, từng phòng ban vì vậy ý thức giữ gìn tài sản khá cao. Tuy vậy công tác sửa chữa tài sản cố định còn nhiều điểm chưa hợp lý: Đội ngũ công nhân kỹ thuật nhiều khi không sửa chữa được loại máy móc, thiết bị hiện đại mà phải thuê chuyên gia nên việc sửa chữa kéo dài, tốn phí, làm ảnh hưởng đến tính liên tục của quá trình sản xuất ......Vì vậy công ty cần phải nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân, kỹ sư, phải tính toán lựa chọn giữa sửa chữa lớn và quyết định thanh lý sao cho hợp lý nhất biện pháp này cần hướng vào việc khắc phục những tổn thất do hao mòn trong quá trình sử dụng cũng như do tác động của tự nhiên. Để thực hiện tốt công tác sửa chữa, giữ gìn tài sản cố định cần phải kết hợp kế hoạch sửa chữa với các kế hoạch sản xuất, cung ứng vật tư, phát triển ứng khoa học kỹ thuật.
Cải tiến hiện đại hoá máy móc thiết bị, đây là một biện pháp quan trọng để giảm bớt tổn thất do hao mòn vô hình gây ra. Cần phải tính toán, cân nhắc hiệu quả kinh tế của biện pháp này, cần lập ra nhiều phương án để lựa chọn phương án có hiệu quả nhất.
Nâng cao trình độ tay nghề và ý thức trách nhiệm của người lao động. Trình độ tay nghề của công nhân càng cao thì việc sử dụng tài sản sẽ tốt hơn, ý thức trách nhiệm trong bảo quản sử dụng càng tốt thì mức độ hao mòn tài sản càng giảm đi, tránh được những hư hỏng và tai nạn bất ngờ. Ở công ty nhìn chung trình độ tay nghề của người công nhân chưa cao, có một số thiết bị hiện đại trình độ sử dụng của công nhân còn hạn chế ...Vì vậy công ty cần phải tăng cường đào tạo bồi dưỡng trình độ, tay nghề cho công nhân, đặc biệt là những bộ phận thiết bị hiện đại, đồng thời phải nâng cao hơn ý thức trách nhiệm của người lao động, kết hợp với các biện pháp kinh tế như thưởng, phạt để kích thích người lao động giữ gìn máy móc tốt hơn.
Phân cấp quản lý tài sản cố định, giao quyền sử dụng cho các đơn vị, xí nghiệp, phòng ban nhằm nâng cao trách nhiệm quản lý và sử dụng của các đơn vị.Thực tế trong công ty việc quản lý tài sản cố định lớn nhất là Tổng giám đốc công ty, ở các xí nghiệp là giám đốc các xí nghiệp, ở các phòng ban là trưởng phòng, tuy đã phân cấp quản lý cho các đơn vị song việc phân cấp còn nhiều bất cập. Tóm lại nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định đối với Công ty là một biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
3.2.1.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tư liêu lao động các doanh nghiệp cần phải có đối tượng lao động (như nguyên vật liệu , bán thành phẩm ......) vốn lưu động cùng một lúc được phân bổ trên khắp các gian đoạn luân chuyển và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Muốn cho qúa trình tái sản xuất được thực hiện liên tục doanh nghiệp phải có đủ vốn lưu động đầu tư vào các quá trình khác nhau đó. Doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động hiệu quả bao nhiêu thì sản phẩm tiêu thụ được nhiều bấy nhiêu. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
Tổ chức và quản lý tốt quá trình thu mua, dự trù vật tư nhằm giảm bớt chi thu mua dự trữ vật tư góp phần hạ giá thành, tăng lợi nhuận. Như đã phân tích trong phần dự trữ hàng tồn kho, cho thấy mức dự trữ nguyên vật liệu ở đầu năm và cuối năm khá cao mà thực tế nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp không thể dùng hết, mặt khác giá cả các loại nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất của công ty hầu như không có sự biến đổi lớn vì thế nên chăng công ty nên giảm bớt lượng dự trữ này để tăng cường lượng vốn ở các khâu khác.Công ty cần quản lý tốt khâu này để vật tư phục vụ cho sản xuất có chất lượng tốt, giá cả thấp nhưng vẫn cung cấp kịp thời.
Đẩy nhanh hơn nữa tốc độ chu chuyển của vốn lưu động trong khâu lưu thông. Đây là điểm yếu của công ty vì giá trị của thành phẩm và các khoản phải thu trong vốn lưu động của công ty là rất lớn . Cụ thể các khoản phải thu chiếm tỷ trọng cao trong vốn lưu động tăng mạnh nhất là ở năm 2000 làm cho kỳ thu tiền bình quân của công ty tăng lên, gây ứ đọng vốn trong khâu lưu thông. Để đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động trong khâu lưu thông công ty cần giảm các khoản phải thu xuống, tăng cường công tác thu nợ, điều chỉnh lại chính sách tín dụng thương mại sao cho hợp lý. Công ty cần giảm bớt thành phẩm tồn kho bằng cách tăng lượng bán ra, cân đối giữa sản xuất và nhu cầu thị trường, mở rộng thị trường tiêu thụ ... cùng với việc đẩy mạnh tốc độ chu chuyển vốn lưu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TC01.docx