Tài liệu Đề tài Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp Kim Hà Nội: Phần thứ nhất
đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục cần phải có vốn nhằm phục vụ cho đầu tư ban đầu và bổ sung để đáp ứng nhu cầu của quá trình sản xuất và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Trong thực tế hiện nay ở nhiều doanh nghiệp. Việc sản xuất vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng còn phải gặp nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. Tuy nhiên, để quản lý và sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, cần phải kết hợp một cách đồng bộ các giải pháp kinh tế, kỹ thuật, công nghệ... Bên cạnh đó cũng cần có hành lang pháp lý nhất định của Nhà nước để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong cơ chế quản lý tài chính. Trong vấn đề huy động, sử dụng và bảo toàn vốn lưu động các doanh nghiệp cần phải có sự phân tích, đánh giá thường xuyên để kịp thời rút kinh nghiệm nhằm sử dụng vốn lưu động có hiệu quả nhất.
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề hiệu quả kinh tế luôn là mối quan tâm chung của mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ...
64 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp Kim Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất
đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Để hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục cần phải có vốn nhằm phục vụ cho đầu tư ban đầu và bổ sung để đáp ứng nhu cầu của quá trình sản xuất và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Trong thực tế hiện nay ở nhiều doanh nghiệp. Việc sản xuất vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng còn phải gặp nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết. Tuy nhiên, để quản lý và sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, cần phải kết hợp một cách đồng bộ các giải pháp kinh tế, kỹ thuật, công nghệ... Bên cạnh đó cũng cần có hành lang pháp lý nhất định của Nhà nước để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong cơ chế quản lý tài chính. Trong vấn đề huy động, sử dụng và bảo toàn vốn lưu động các doanh nghiệp cần phải có sự phân tích, đánh giá thường xuyên để kịp thời rút kinh nghiệm nhằm sử dụng vốn lưu động có hiệu quả nhất.
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề hiệu quả kinh tế luôn là mối quan tâm chung của mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả mới có khả năng tồn tại được, trên cơ sở đó mới có vốn để đầu tư công nghệ mở rộng sản xuất nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước Xí nghiệp Kim Hà Nội cũng có những tăng trưởng đáng kể. Tuy nhiên, sản xuất Kim hiện nay đang phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập về giá cả và chất lượng sản phẩm, vì vậy vấn đề đặt ra cho các xí nghiệp là phải làm thế nào để có thể cạnh tranh, đứng vững trên thị trường. Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh không thể thiếu được trong quá trình sản xuất của tất cả các doanh nghiệp trong đó có xí nghiệp Kim nói riêng. Nó đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục từ việc nghiên cứu thị trường, mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất cho đến khâu tiêu thụ. Nó chính là vốn luân chuyển cho xí nghiệp sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị sản xuất và lao động.
ở Xí nghiệp Kim Hà Nội, từ khi thành lập đến nay quá trình sản xuất kinh doanh có nhiều tiến triển tốt đẹp, sản phẩm của xí nghiệp có chất lượng khá cao và đang dần chiếm được ưu thế trên thị trường. Nhưng do mới thành lập nên xí nghiệp còn phải gặp không ít khó khăn như phải cạnh tranh gay gắt với các loại kim ngoại, thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm và đặc biệt là tên tuổi của xí nghiệp còn khá mới mẻ trên thị trường. Xuất phát từ các khó khăn trên xí nghiệp cần phải không ngừng hoàn thiện mình nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mục tiêu của xí nghiệp là đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm nhằm tiêu thụ tối đa lượng sản phẩm, sản xuất ra và thu được lợi nhuận cao nhất. Để sử dụng vốn có hiệu quả một cách hoàn hảo các doanh nghiệp cần có chiến lược doanh nghiệp đúng đắn cả trước mắt cũng như lâu dài.
Qua các kiến thức đã được các thầy cô giáo ở trường Đại học Nông nghiệp I giảng dạy. ở bài viết này tôi xin nghiên cứu đề tài: "Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp Kim Hà Nội"
1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài.
1.2.1. Mục tiêu chung.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể.
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về hiệu quả, hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu nghiên cứu vấn đề có liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động và một số biện pháp quản lý để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động cuả xí nghiệp Kim Hà Nội.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Về không gian: Xí nghiệp Kim Hà Nội
- Về thời gian : Từ ngày 01 - 4 - 2002 đến ngày 20 - 8 - 2002
- Nội dung : Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp
Kim Hà Nội.
Phần thứ hai
Tổng quan tài liệu
2.1. Cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn lưu động
2.1.1. Một số khái niệm
2.1.1.1. Tài sản lưu động.
Là những tư liệu sản xuất tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm, chuyển toàn bộ giá trị vào giá trị của sản phẩm.
Tài sản lưu động là tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp kinh doanh sản xuất thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp sản xuất. Quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ do quản trị vốn lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng sự bất lực của một số Công ty trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động, các khoản nợ ngắn hạn hầu như là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa hết sức sống còn đối với doanh nghiệp. Nó nao gồm việc quản lý, sử dụng và huy động nguồn lực về vốn, tài sản lưu động của doanh nghiệp.
Như ta đã biết để tiến hành hoạt động kinh doanh ngoài tài sản cố định, doanh nghiệp còn phải có tài sản lưu động, tài sản lưu động của doanh nghiệp thường gồm hai bộ phận là tài sản lưu dộng sản xuất và tài sản lưu dodọng trong lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động trong lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất bao gồm một bộ phận là những vật tư dự trữ để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục như nguyên liệu,vật liệu, nhiên liệu... và một bộ phận là những sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất. Tài sản lưu động trong lưu thông bao gồm sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán (nợ phải thu).
2.1.1.2. Vốn lưu động.
Để kinh doanh trước hết cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ xung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Từ lượng tiền ứng ra ban đầu doanh nghiệp mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... để đưa vào sản xuất tạo ra hàng hoá, từ đó tiêu thụ và thu hồi tiền về.
Lượng vốn ban đầu ứng ra gọi là vốn trong doanh nghiệp vốn trong doanh nghiệp là số tiền ứng ra ban đầu nhằm mua các yếu tố đầu và của sản xuất, được thu hồi lại sau khi doanh nghiệp bán ra các sản phẩm hàng hoá của mình.
Vốn là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp là cơ sở ban đầu trong việc mua sắm các tư liệu sản xuất, nhằm tạo ra của cải vật chất.
Để kinh doanh, ngoài vốn ban đầu của chủ sở hữu, doanh nghiệp còn huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Nếu ta chia vốn lưu động của doanh nghiệp theo nguồn hình thành ta có:
Vốn chủ sở hữu:
Đối với doanh nghiệp Nhà nước: nguồn vốn này chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp phát, đồng thời doanh nghiệp bổ xung thêm từ lợi nhuận hoặc từ các khoản khác.
Đối với Công ty cổ phần: vốn chủ sở hữu là vốn do các cổ đông đóng góp thông qua việc mua cổ phiếu. ở các doanh nghiệp tư nhân vốn chủ sở hữu do các cá nhân thành lập doanh nghiệp bỏ ra.
Nói chung trong các dự án đầu tư vốn tự có của chủ đầu tư thường không đủ, đòi hỏi phải huy động từ các nguồn khác.
Theo luật Công ty: Công ty được phép huy động vốn để bổ xung vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó bên cạnh nguồn vốn của chủ sở hữu còn có nguồn vốn đi vay và do vốn liên doanh liên kết. Vốn bổ xung được huy động bằng nhiều hình thức khác nhau (như phát hành thêm cổ phiếu, vay tín dụng ngân hàng tín dụng thương mại, vốm chiếm dụng...) Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chủ yếu mang tính chất dài hạn thì các nguồn vốn huy động bổ xung rất đa dạng về thời hạn. Các nguồn vốn huy động qua phát hành thêm cổ phiếu và trái phiếu mang tính chất dài hạn, trung hạn và ngắn hạn; các khoản tín dụng thương mại, các khoản nợ chưa trả hoặc các khoản ứng trước của khách hàng thường mang tính chất trung hạn và ngắn hạn.
Ngoài việc phân chia vốn theo nguồn hình thành người ta còn phân chia vốn theo thời hạn sử dụng vốn bao gồm:
Vốn trung hạn và dài hạn, sử dụng chủ yếu để đầu tư vào tài sản cố định.
Vốn ngắn hạn sử dụng nhằm đảm bảo cho sản xuất kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp như để mua nguyên vật liệu, trả lương...
Nói chung để xem xét về vốn sản xuất điều kiện người ta xem xét theo nhiều khía cạnh, tiêu thức khác nhau và phân chia ra một cách tương đối riêng biệt. Chẳng hạn theo nguồn hình thành gồm vốn của chủ sở hữu và vốn huy động (như đã phân tích ở trên) theo thời hạn sử dụng (vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn...) theo hình thái tồn tại (gồm vốn tiền tệ và vốn hiện vật).
Ngoài ra cách phân chia ở trên, người ta còn hay phân loại vốn sản xuất kinh doanh theo tính chất luân chuyển của các bộ phận trong vốn sản xuất kinh doanh. Theo phương thức này người ta chia vốn sản xuất kinh doanh ra làm hai loại vốn là: vốn lưu động và vốn cố định.
Trước hết, số vốn huy động được phải được phân chia thành hai phần; phần để đầu tư xây dựng cơ bản muaams máy móc thiết bị và phần để mua sắm nguyên vật liệu, phụ tùng, trả lương, năng lượng...
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản được chi phí cho việc chuẩn bị đầu tư bao gồm: chi phí cho việc hoàn thành thủ tục pháp lý, các khoản lệ phí, chi về lập dự toán cho đến việc xây dựng, mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ... để phục vụ cho yêu cầu sản xuất và quản lý của doanh nghiệp.
Khi các công việc trên đây được hoàn thành thì quá trình đầu tư kết thúc. Nhà kinh doanh đã tạo ra một số chuyển hoá rất quan trọng của nguồn vốn từ trạng thái tiền tệ (động sản tài chính) sang trạng thái vật chất (tài sản tài chính). Các tài sản được đầu tư ở trên có thời hạn sử dụng lâu, được gọi là tài sản cố định. Phần vốn của doanh nghiệp chi phí cho việc hình thành nên tài sản cố định là vốn cố định. Phần vốn còn lại dùng để mua sắm các loại nguyên vật liệu phụ tùng... gọi là vốn lưu động. Các loại tài sản trên được gọi là tài sản lưu động. Tài sản lưu động thường có giá trị nhỏ hoặc thời gian sử dụng ngắn (thường chỉ sử dụng cho một chu kỳ sản xuất. Phần vốn này khi chưa sử dụng vẫn là vốn chuyển hoá thành tài sản phi tài chính nằm trong giá trị của các loại nguyên vật liệu dự trữ, trong giá trị sản phẩm dở dang hoặc trong giá trị chưa tiêu thụ.
Nói chung mỗi doanh nghiệp không bao giờ cho chuyển hoá toàn bộ nguồn vốn lưu động mà luôn luôn có trong tài khoản của mình một lượng dự trữ nhất định để thực hiện các nghiệp vụ chi trả cần thiết. ở bài viết này chúng ta chủ yếu xem xét về nội dung thành phần của vốn lưu động và một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
2.1.1.3. Hiệu quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Ngày nay, hiệu quả kinh tế là vấn đề số một là điều kiện sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Nó là kết quả tổng hợp của một số loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố bộ phận. Trong đó, hiệu quả sử dụng vốn lưu động gắn liền với lợi ích cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sử dụng hiệu quả vốn lưu động được biểu hiện tất cả ở các khâu của quá trình sản xuất từ các khai thác các nguồn vốn, sử dụng vốn để mua sắm vật tư cho đến khi tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn để đầu tư cho quá trình tái sản xuất. Các doanh nghiệp luôn phải tìm cách để cung ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất, đồng thời phải tiết kiệm được vốn và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp.
Sử dụng hiệu quả vốn lưu động có tính cấp thiết đối với sự tồn tại của doanh nghiệp và là một mục tiêu mà doanh nghiệp cần phấn đấu cao để đạt được. Vốn lưu động là một bộ phận quan trọng của vốn sản xuất, là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh. Mặt khác, do đặc điểm của vốn lưu động là vận động không ngừng trong mọi giai đoạn sản xuất hình thái biểu hiện phức tạp và khó quản lý nên sử dụng tốt vốn lưu động có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn không tốt, không bảo toàn được vốn sẽ dẫn đến thất thoá vốn làm ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất, quy mô sẽ bị thu hẹp, vốn luân chuyển chậm, hiệu quả sử dụng đồng vốn sẽ thấp có nghĩa là doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Nếu tình trạng này kéo dài chắn chắn doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại trên thị trường.
Chuyển sang cơ chế thị trường, các khoản bao cấp về vốn qua cấp phát không còn nữa từ đó nảy sinh ra thực tế là hiện nay nhiều doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Để bù đắp cho thiếu hụt, nhiều doanh nghiệp phải huy động vốn bằng cách như: vay ngân hàng, vay của cán bộ công nhân viên, nợ nhà cung cấp, nợ tiền thuê, và các khoản phải nợ ngân sách... số lãi phải trả do việc huy đọng vốn hàng năm của doanh nghiệp tương đối lớn do vậy các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động để hạn chế bớt các khoản phải chi phí do huy động vốn gây ra.
Có thể nói hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Nó có ý nghĩa quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
2.1.2. Phân loại vốn lưu động
2.1.2.1. Nếu dựa theo hình thái biểu hiện của vốn thì vốn lưu động chia thành các loại.
+ Vốn bằng tiền và các khoản phải thu: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản phải thu chủ yếu là khoản phải thu từ khách hàng thể hiện số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng hoá, dịch vụ, tiền ứng trước cho người cung cấp, tạm ứng...
+ Vốn vật tư hàng hoá: nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được thường xuyên, liên tục không bị gián đoạn đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một lượng dự trữ nhất định gồm nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm.... gọi chung là hàng tồn kho.
2.1.2.2. Nếu dựa theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình sản xuất kinh doanh có thể chia vốn lưu động thành các loại gồm:
- Vốn lưu động trong khoản dự trữ sản xuất (gồm nguyên liệu, vật liệu chính, nguyên liệu, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ).
- Vốn lưu động trong lưu thông (gồm thành phẩm, vốn bằng tiền, đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, vốn trong thanh toán....)
2.1.3. Vai trò của vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh
Vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên vận động và chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất: vốn lưu động phát triển hình thái ban đầu là tiền được chuyển hoá sang hình thái vật tư dự trữ và tiếp tục chuyển hoá lần lượt sang hình thái sản phẩm dở dang, thành phẩm hàng hoá và khi kết thúc quá trình tiêu thụ lại trở về hình thái ban đầu là tiền. Đối với doanh nghiệp thương mại thì sự vận động của vốn lưu động nhanh hơn: từ hình thái tiền chuyển hoá sang hình thái hàng hoá và lại chuyển hoá về hình thái tiền. Sự vận động của vốn lưu động như vậy được gọi là sự tuần hoàn của vốn. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn lưu động.
Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh, vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được hoàn lại toàn bộ sau khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm thu được bằng tiền bán hàng. Như vậy vốn lưu động hoàn hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh tài sản lưu động thay đổi hình thái không ngừng do đó tại một thời điểm nhất định vốn lưu động cùng tồn tại dưới các hình thái khác nhau trong các giai đoạn mà vốn đi qua.
Như vậy: vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn ứng ra để hình thành nền tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại một lần sau một kỳ kinh doanh.
2.1.4. Chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Để đánh giá đầy đủ hơn về kết quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động cần phải xem xét hiệu quả đó từ nhiều góc độ khác nhau. Vì thế trong công tác quản lý cũng sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau để đánh giá mức sinh lợi của đồng vốn. Ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong kỳ có thể sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Chỉ tiêu kết quả.
Hệ số khả năng sinh lời vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay
Vốn kinh doanh sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vồn kinh doanh và không tính đền ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh doanh. Chỉ tiêu này cũng có thể đánh giá được trình độ sử dụng vốn và trình độ kinh doanh của doanh nghiệp qua các kỳ khác nhau.
Trong đó:
Chỉ tiêu vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
=
Số vốn kinh doanh đầu kỳ + Số vốn kinh doanh cuối kỳ
2
* Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh trong kỳ
=
Lợi nhuận trước thuế trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này thể hiện mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ có khả năng đưa lại cho chủ sở hữu bao nhiêu đồng lợi nhuận sau khi đã trang trải lãi tiền vay. Như vậy nó cũng phản ánh mức sinh lời của đồng vốn có tính đến ảnh hưởng của lãi vay nhưng chưa tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp.
* Tỷ suất lợi nhuận ròng của vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng hay là đưa lại bao nhiêu đồng thực lãi.
* Vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Giá trị hàng tồn kho
Cho biết trong kỳ hàng tồn kho quay vòng được bao nhiêu vốn.
* Vòng quay vốn lưu động
=
Doanh thu thuần
Giá trị tài sản lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ vốn lưu động của doanh nghiệp thực hiện được bao nhiêu vòng luân chuyển. Để cụ thể hoá chỉ tiêu này người ta còn sử dụng chỉ tiêu:
Kỳ chu chuyển của vốn lưu động
=
360 ngày
Số vòng quay của vốn lưu động
- Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
* Kỳ thu tiền bình quân
=
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân một ngày
Chỉ tiêu này phản ánh trong doanh thu một ngày kỳ thu tiền bình quân là bao nhiêu ngày. Ngoài ra để khái quát khả năng thanh toán của doanh nghiệp người ta còn sử dụng nhóm các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Hệ số thanh toán ngắn hạn
=
Giá trị tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán nhanh
=
Vốn bằng tiền + các khoản phải thu
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán tức thời
=
Vốn bằng tiền
Nợ đến hạn
Để sử dụng vốn có hiệu quả đòi hỏi doanh nghiệp phải áp dụng nhiều biện pháp khác nhau nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Các biện pháp này đòi hỏi phải thực hiện một cách đồng bộ, kịp thời dựa trên các tính toán cụ thể.
2.1.5. Đặc điểm sử dụng vốn lưu động.
Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được liên tục thì tương ứng với quy mô kinh doanh nhất định thường xuyên phải có một lượng tài sản lưu động nhất định nằm trong các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh bao gồm các khoản dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, nợ phải thu từ khách hàng. Do vậy những tài sản lưu động này được gọi là tài sản lưu động thường xuyên. Tuy nhiên có nhiều nguyên nhân khác nhau giữa các thời kỳ khác nhau trong năm hay trong các chu kỳ kinh doanh dẫn đến việc hình thành bộ phận tài sản lưu động có tính chất tạm thời để trang trải. Chẳng hạn như: dự kiến giá vật tư, nguyên liệu... tăng doanh nghiệp phải tăng dự trữ, sản xuất tiêu thụ hàng hoá của xí nghiệp sản xuất kinh doanh theo thời vụ, đột xuất xí nghiệp nhận được đơn đặt hàng mới có tính chất riêng lẻ...
Những tài sản lưu động hình thành không có tính chất thường xuyên được gọi là tài sản lưu động tạm thời và biểu hiện bằng tiền của chúng là vốn lưu động tạm thời xí nghiệp phải có nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu nói trên. vấn đề đặt ra có tính chất chiến lược là cần tạo ra sự phù hợp chặt chẽ giữa thời hạn của nguồn vốn với thời hạn sử dụng của tài sản được tạo ra. Đối với tài sản cố định là loại tài sản có thời gian sử dụng lâu dài tất yếu phải đảm bảo hình thành bằng nguồn vốn thường xuyên nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn. Những tài sản lưu động có thời gian sử dụng tương đối ngắn và luôn luôn được đổi mới. Tuy vậy để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh thực hiện được liên tục phải có một lượng tài sản lưu động thường xuyên ở mức độ nhất định được hình thành bằng nguồn vốn thường xuyên có tính chất ổn định và dài hạn. Bộ phận tài sản lưu động tạm thời có thể đảm bảo bằng nguồn vốn có tính chất tạm thời. Mỗi xí nghiệp có cách thức phối hợp khác nhau giữa nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời trong việc đảm bảo nhu cầu chung về vốn lưu động của xí nghiệp.
Nguồn vốn lưu động thường xuyên
=
Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn
Hoặc:
Nguồn vốn lưu động thường xuyên
=
Tổng nguồn vốn thường xuyên
-
Giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp (đã trừ số khâu hao)
Nguồn vốn lưu động thường xuyên tạo ra một mức độ an toàn cho xí nghiệp trong kinh doanh, làm cho tình trạng tài chính của xí nghiệp được đảm bảo vững chắc hơn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp sử dụng nguồn vốn lưu động thường xuyên để đảm bảo cho việc hình thành tài sản lưu động thì xí nghiệp phải trả chi phí cao hơn cho việc sử dụng vốn. Do đó phải đòi hỏi người quản lý xí nghiệp phải xem xét tình hình thực tế của xí nghiệp để có quyết định phù hợp trong việc tổ chức vốn.
Khi: nguồn vốn dài hạn < tài sản cố định
Hoặc: tài sản lưu động < nguồn vốn ngắn hạn.
Có nghĩa nguồn vốn thường xuyên < 0. Nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho tài sản cố định. Xí nghiệp phải đầu từ vào tài sản cố định một phần nguồn vốn ngắn hạn, tài sản lưu động không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của xí nghiệp mất thăng bằng xí nghiệp phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Trong trường hợp như vậy giải pháp của xí nghiệp là phải tăng cường huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dàu hạn hoặc thực hiện đồng thời hai giải pháp đó.
Khi: Nguồn vốn dài hạn > tài sản cố định
Hoặc: Tài sản lưu động > nguồn vốn ngắn hạn
Tức vốn lưu động thường xuyên > 0 nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào tài sản cố định phần thừa đó đầu vào tài sản lưu động. Đồng thời tài sản lưu động > nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của xí nghiệp tốt. Vốn thường xuyên = 0 có nghĩa là nguồn vốn dài hạn tài trợ đủ cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn tình hình tài chính như vậy là lành mạnh.
Vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của xí nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết: xí nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không? Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không?
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu.
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
=
Hàng tồn kho và các khoản phải thu
-
Nợ ngắn hạn
Khi nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn. Tại đây các sử dụng ngắn hạn của xí nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà xí nghiệp có từ bên ngoài, xí nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ phần chênh lệch. Giải pháp trong trường hợp này là nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho và giảm các khoản phải thu ở khách hàng.
Khi nhu cầu vốn lưu động thường xuyên <0 có nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của xí nghiệp:
Xí nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh:
Ta có mối quan hệ:
Vốn bằng tiền =
Vốn lưu động thường xuyên
-
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
Nguồn vốn dài hạn > tài sản cố định
-> Vốn lưu động thường xuyên > 0
Nguồn vốn dài hạn < tài sản cố định
-> Vốn lưu động thường xuyên < 0
Tài sản lưu động > nguồn vốn ngắn hạn
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0
Tài sản lưu động < nguồn vốn ngắn hạn
-> Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên < 0
Dựa vào các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán ta thấy các mỗi quan hệ:
Nếu tồn kho và khoản phải thu > nợ ngắn hạn nghĩa là sử dụng ngắn hạn > nợ ngắn hạn mà xí nghiệp huy động được -> Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên dương. Để tài trợ phần chênh lệch này xí nghiệp cần tới vốn lưu động thường xuyên.
Nếu vốn lưu động thường xuyên > nhu cầu vốn lưu động thường xuyên -> vốn bằng tiền dương và ngược lại.
Nếu tồn kho và khoản phải thu vốn bằng tiền dương lớn hơn. Nếu vốn lưu động thường xuyên âm và nhỏ hơn cả nhu cầu vốn lưu động thường xuyên - > xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn (vốn ngắn hạn nhiều, vốn dài hạn ít) hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn (đầu tư dài hạn quá nhiều). Giải pháp quan trọng lúc này là: tăng cường vay dài hạn, giải phóng hàng tồn kho, tăng thu tiền từ khách hàng để trả nợ ngắn hạn; giảm đầu tư dài hạn...
Như vậy, để đảm bảo ngồn vốn và sử dụng vốn kinh doanh đảm bảo sự lành mạnh về tài chính trước tiên xí nghiệp phải có vốn lưu động thường xuyên ³ 0 có nghĩa là đảm bảo tài trợ tài sản cố định bằng nguồn vốn dài hạn. nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0 -> phải tìm cách giảm hàng tồn kho, tăng thu từ các khoản phảu thu ở khách hàng. Nếu nhu cầu vốn lưu động thường xuyên phải hạn chế vay ngắn hạn từ bên ngoài.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của xí nghiệp cũng kà quá trình hình thành và sử dụng vốn kinh doanh. Mục tiêu hàng đầu của xí nghiệp kinh doanh là thu được lợi nhuận. Vì thế hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện ở số lợi nhuận xí nghiệp thu được trong kỳ và mức sinh lợi của một đồng vốn kinh doanh. Xét trên góc độ sử dụng vốn, lợi nhuận thể hiện kết quả.
Phần thứ ba
địa bàn và phương pháp nghiên cứu
3.1. đặc điểm địa bàn nghiên cứu
* Khái quát về Xí nghiệp Kim Hà Nội
Xí nghiệp Kim Hà Nội là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Sở công nghiệp Hà Nội có trụ sợ tại Cầu Bươu - Thanh Liệt - Thanh Trì - Hà Nội. Tiền thân của xí nghiệp là các cơ sở Mạ Kền tư nhân, năm 1958 vào công tư hợp doanh. Ngày 16 tháng 5 năm 1963. Xí nghiệp Mạ Kền Hà Nội (nay là xí nghiệp Kim Hà Nội) được thành lập.
Năm 1976 xí nghiệp được Nhà nước giao tiếp nhận, lắp đặt và đưa vào hoạt động sản xuất một dây chuyền công nghệ mạ và được xây dựng nhà xưởng mới tại Cầu Bươu - Thanh Liệt - Thanh Trì - Hà Nội. Đây là dây chuyền công nghệ vào loại tiên tiến của thời kỳ đó với thiết bị toàn bộ của Cộng hoà Dân chủ Đức. Tháng 8 năm 1978 dây chuyền mạ của Đức chính thức được đưa vào hoạt động.
Năm 1982, xí nghiệp nhận tiếp và lắp đặt một xưởng sản xuất kim khâu tay và kim khâu máy do Công hoà Liên bang Đức viện trợ nhân đạo bằng dây chuỳên thiết bị toàn bộ của Nhật Bản.
Năm 1985, xí nghiệp được UBND thành phố Hà Nội giao nhiệm vụ vay vốn để mua dây chuyền sản xuất kim dệt len bằng thiết bị toàn bộ của Nhật Bản. Đến giữa năm 1986, xưởng sản xuất kim dệt đã được đưa vào hoạt động. Đến thời kỳ này tỷ trọng các mặt hàng sản xuất kim đã lớn hơn rất nhiều so với giá trị sản xuất các mặt hàng mạ. Tháng 6 năm 1986 xí nghiệp được UBND thành phố Hà Nội cho đổi tên thành Xí nghiệp Kim Hà Nội.
Từ khi chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước. Xí nghiệp đã dần thích ứng được với các điều kiện khắc nghiệt của thị trường để tồn tại và phát triển.
Ngày 9 tháng 01 năm 1997, xí nghiệp Kim Hà Nội được thành lập lại theo quyết định số 89/QĐ - UB của UBND thành phố Hà Nội với:
Tổng số vốn: 7.085 triệu đồng
Trong đó:
- Vốn cố định:
5.601
Triệu đồng
- Vốn lưu động:
319
Triệu đồng
- Vốn khác:
1.165
Triệu đồng
* Xí nghiệp có các chức năng và nhiệm vụ là:
Sản xuất các loại kim khâu tay, kim công nghiệp đay, sợi, kim dệt, mạ trang trí và mạ bảo vệ, phun kẽm trên kim loại và sản xuất các mặt hang cơ khí dân dụng khác. Các mặt hàng sản xuất chủ yếu là sản xuất các chủng loại kim khâu tay, kim dệt, kim máy gia đình kim máy công nghiệp, mạ niken, mạ crôm...
Với các chức năng và nhiệm vụ được giao xí nghiệp đã tổ chức sắp xếp lại sản xuất với bộ máy quản lý được tinh giảm gọn nhẹ và hiệu quả.
Tổng số cán bộ công nhân viên tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2001 là 320 người.
3.1.1. Tình hình chung của xí nghiệp Kim Hà Nội.
* Cơ cấu bộ máy quản lý và các chức năng của Xí nghiệp Kim Hà Nội.
Mô hình tổ chức quản lý - sản xuất
Phân xưởng cơ điện
Phân xưởng phun kẽm, mạ kẽm
Phân xưởng mạ niken
Phân xưởng gia công
Phòng kế toán
Phân xưởng sản xuất Kim
Phòng tổ chức - hành chính
Phòng sản xuất kinh doanh và kỹ thuật
Ban giám đốc
* Ban giám đốc
Chỉ đạo sản xuất, kinh doanh chung toàn xí nghiệp. Chịu trách nhiệm trước Nhà nước cũng như trước tập thể cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp là giám đốc. Giúp việc cho giám đốc là hai phó giám đốc (một phó giám đốc phụ trách kỹ thuật, một phó giám đốc phụ trách sản xuất).
* Phòng tổ chức - hành chính.
Có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về các vấn đề nhân sự, tiền lương, bảo vệ, an ninh, an toàn trong xí nghiệp và các công việc mang tính chất hành chính.
* Phòng sản xuất kinh doanh và kỹ thuật
Quản lý việc sản xuất kinh doanh cũng như làm việc công tác kỹ thuật, để đảm bảo việc giám sát chất lượng sản phẩm, định mức kinh tế kỹ thuật trong sản xuất: từ khâu ban đầu đến khaua cuối cùng, xí nghiệp đã để bộ phận kỹ thuật vào cũng với bộ phận sản xuất, kinh doanh. Từ đó để quản lý được chất lượng sản phẩm từ khi mua vật tư đưa vào sản xuất. Đồng thời với việc quản lý chất lượng và việc điều động sản xuất, đôn đốc tiến độ sản xuất để phục vụ kịp thời khách hàng. trực thuộc phòng sản xuất kinh doanh và kỹ thuật còn có một bộ phận làm công tác thị trường với chức năng luôn tìm hiểu nhu cầu thị trường về chủng loại, giá cả, mẫu mã của sản phẩm.
* Phòng kế toán
Có chức năng tổ chức bộ máy kế toán trong xí nghiệp. Tham mưu cho lãnh đạo về việc huy động và việc sử dụng vốn một cách có lợi nhất. Thực hiện việc hạch toán kế toán trong doanh nghiệp, phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn xí nghiệp cũng như định kỳ phân tích hiệu quả sản xuất của từng bộ phận sản xuất trong xí nghiệp.
Việc phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện thường xuyên, liên tục từ đó kịp thời từ đó tìm ra những điểm mạnh để phát huy, tìm những điểm cònhạn chế trong sản xuất kinh doanh để tìm biện pháp quản lý kịp thời.
* Phân xưởng kim khâu.
Có nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất các chủng loại kim bao gồm: kim khâu tay các loại, kim khâu len, kim khâu máy gia đình, kim khâu công nghiệp, kim dệt len... với công suất thiết kế 45 triệu kim khâu tay/ năm, 55 triệu chiếc kim khâu máy/ năm và 6,2 triệu chiếc kim dệt/ năm.
Ngoài các mặt hàng chủ yếu trên xí nghiệp còn tận dụng cải tiến thiết bị để sản xuất các loại kim công nghiệp đay, kim gút cho ngày may và các phụ kiện cho ngành dệt...
* Phân xưởng mạ niken.
Với sản phẩm truyền thống là mạ trang trí kim loại; mặc dù cho đến nay thiết bị đẵ lạc hậu xuống cấp nhiều vì đẵ qua hơn 20 năm sử dụng nhưng sản phẩm mạ niken của Xí nghiệp vẫn có chỗ đứng nhất định trên thị trường. Bên cạnh sản phẩm mạ trang trí, Xí nghiệp còn kết hợp đầu tư thêm một dây chuyền sơn tĩnh điện để phục vụ sản xuất cho các bộ phận khác của Xí nghiệp một cách khép kín sản xuất và chủ động.
* Phân xưởng phun kẽm
Trước nhu cầu về xây dựng, giao thông ngày càng tăng xí nghiệp đã thành lập và đưa vào sản xuất dây chuyền phun phủ kim loại (chủ yếu là phun kẽm) lên bề mặt kim loại. Các sản phẩm phun phủ kẽm của xí nghiệp từ chỗ bỡ ngỡ trên thị trường đến nay đã tạo được uy tín với khách hàng. Ngoài ra còn có một dây chuyền công nghệ mạ kẽm để bảo vệ bề mặt cho các chi tiết có kích thước nhỏ.
* Phân xưởng cơ điện.
Có nhiệm vụ chính là sửa chữa máy móc thiết bị, quản lý hệ thống điện, nước của xí nghiệp. Ngoài ra phân xưởng còn kết hợp với xí nghiệp để tìm các hợp đồng sản xuất các mặt hàng cơ kim khí, chế tạo ra các thiết bị phục vụ cho ngành dệt, ngành nhựa.
* Phân xưởng gia công.
Để mở rộng sản xuất, từ tháng 1 năm 1997 xí nghiệp đã ký và triển khai hợp đồng hợp tác gia công sản xuất các mặt hàng tiêu dùng cao cấp với Nhật Bản. Phân xưởng gia công kim loại với khoản 200 công nhân có nhiệm vụ chuyên sản xuất các mặt hàng cơ khí bằng Inox theo mẫu mã, chủng loại của Nhật Bản. Mặc dù mới thành lập nhưng đã mở ra được hướng phát triển mới cho xí nghiệp. Tỷ trọng doanh thu hàng xuất khẩu trong tổng doanh thu của xí nghiệp ngày càng cao, bước đầu đã tạo được uy tín trên thị trường để thu ngoại tệ cho mở rộng sản xuất.
3.1.2. Tình hình sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp Kim Hà Nội trong ba năm 1999, 2000, 2001.
3.1.2.1. Tình hình sử dụng lao động, tình hình trang bị cơ sở vật chất.
Với ưu thế chủ yếu của xí nghiệp là: trình độ của cán bộ quản lý tương đối cao, đồng đều, tay nghề của công nhân đã được thử thách qua nhiều năm. Do đó, việc tổ chức, sản xuất của xí nghiệp gặp những thuận lợi nhất định. Công suất sản xuất kim các loại của xí nghiệp ngày càng cao so với công suất thiết kế.
Bảng 1: Khối lượng sản phẩm của xí nghiệp Kim
Chỉ tiêu
ĐVT
1999
2000
2001
Bình quân
Công suất thiết kế
So sánh thực tế/ thiết kế (%)
1. Kim khâu tay
1000C
33.000
36.000
40.000
36.300
45.000
42
2. Kim khâu máy
1000C
2.000
7.000
10.000
6.300
55.000
8,7
3. Kim dệt
1000C
500
1.000
12.000
4.500
6.200
1,3
4. Doanh thu từ sản xuất kim
Triệu đồng
2.025
4.350
5.700
4.025
Với lợi thế dây chuyền sản xuất kim là cơ sở duy nhất ở Đông Dương sản xuất được kim các loại theo công nghệ của Nhật Bản do đó việc tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp tương đối thuận lợi. Các sản phẩm sản xuất ra trong những năm gần đây hầu hết là tiêu thụ ngay, ít tồn kho. Tuy nhiên, công suất sản xuất thực tế so với thiết kế mặc dù qua các năm ngày càng cao nhưng vẫn còn thấp so với tiềm năng của dây chuyền công nghệ nhất là đối với các sản phẩm kim may dệt của ngoại tràn vào thị trường qua nhiều luồng với giá bán quá thấp dẫn đến sản phẩm xí nghiệp khó cạnh tranh trên thị trường do vậy việc sản xuất kim máy khâu và kim dệt nhiều lúc chỉ mang tính cầm chừng. Bên cạnh đó dây chuyền sản xuất kim máy và kim dệt thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu quả sử dụng của hai dây chuyền này chưa cao.
Dây chuyền mạ niken của xí nghiệp có công suất 45.000m2/năm được đầu tư năm 1978. Qua thực tế sản xuất đến nay đã 20 năm nên hầu hết các thiết bị lạc hậu, cũ nát. Tuy nhiên, với đội ngũ công nhân lâu năm, lành nghề cùng với sự đầu tư hợp lý nhằm tận dụng công suất còn lại của thiết bị. Trong các năm từ năm 1999 đến 2001 doanh thu của phân xưởng vẫn giữ được sự ổn định.
Doanh thu của bộ phận mại niken từ năm 1999 đến 2001:
Năm 1999 doanh thu về mạ gia công:
750 triệu đồng
Năm 2000 doanh thu về mạ gia công:
800 triệu đồng
Năm 2001 doanh thu về mạ gia công:
800 triệu đồng
Dây chuyền phun kẽm cùng từ chỗ còn bỡ ngỡ trên thị trường đến nay cũng phát huy được hiệu quả. Với công dụng phun phủ kim loại để bảo vệ bề mặt của kim loại (chủ yếu là phun kẽm, đồng, nhôm... lên thép) với chất lượng cao, chống lại được các điều kiện ăn, mòn tự nhiên, công suất sử dụng của dây chuyền ngày càng cao, tiến độ ngày càng nhanh từ đó đáp ứng được các đòi hỏi về chất lượng và chủ yếu là đòi hỏi về tiến độ của khách hàng.
Doanh thu của bộ phận phun phủ kim loại qua các năm từ 1999 đến 2001 là:
Doanh thu năm 1999 đạt:
1.200 triệu đồng
Doanh thu năm 2000 đạt:
1.200 triệu đồng
Doanh thu năm 2001 đạt:
1.800 triệu đồng
Bên cạnh sản xuất các mặt hàng truyền thống của xí nghiệp là sản xuất kim các loại và gia công bảo vệ bề mặt kim loaị, xí nghiệp còn tận dụng công suất máy móc thiết bị để chế tạo các sản phẩm cơ kim khí khác như sản xuất các phụ kiện cho ngành dệt, các linh kiện để lắp ráp cho hệ thống đèn chiếu sáng công cộng, cột viba cho ngành bưu điện, giải phân cách giao thông, ghế và các sản phẩm khác.
Doanh thu sản xuất hàng cơ khí qua các năm từ 1999 đến 2001 là:
Doanh thu năm 1999 đạt:
ằ 1.000 triệu đồng
Doanh thu năm 2000 đạt:
ằ 1.300 triệu đồng
Doanh thu năm 2001 đạt:
ằ 1.800 triệu đồng
Từ tháng 1 năm 1997, xí nghiệp bắt đầu hợp tác gia công sản xuất hàng xuất khẩu với Nhật Bản. Mặc dù là các sản phẩm mới nhưng đã được thị trường chấp nhận. Kim ngạch xuất khẩu qua hai năm:
- Năm 2000 đạt 100.000 USD (tương đương 1.350 triệu đồng)
- Năm 2001 đạt 130.000 USD (tương đương 1.755 triệu đồng).
Từ các thành công bước đầu về sản xuất, gia công hàng xuất khẩu năm 2002 xí nghiệp đặt kế hoạch xuất khẩu hàng hoá trị giá 250.000 USD.
Trong ba năm từ năm 1999 đến 2001 xí nghiệp đã bảo toàn được vốn tăng thu cho ngân sách Nhà nước đồng thời có tích luỹ cho xí nghiệp dù ở mức độ còn khiêm tốn.
Đời sống của tập thể cán bộ công nhân viên được bảo đảm ở mức độ có thể chấp nhận được so với tình hình chung của ngành cơ khí. Lợi nhuận mặc dù ở mức độ khiêm tốn nhưng cũng có sự tăng trưởng qua các năm.
Bảng 2: Tổng hợp tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Kim.
Chỉ tiêu
ĐVT
Sản xuất năm
So sánh %
1999
2000
2001
2000/1999
2001/2000
1. Doanh thu
Triệu đồng
4.975
9.000
11.855
180
132
Trong đó:
- Doanh thu sản xuất kim
Triệu đồng
2.025
4.350
5.700
215
131
- Doanh thu mạ
Triệu đồng
750
800
800
107
100
- Doanh thu phun kim loại
Triệu đồng
1.200
1.200
1.800
100
150
- Doanh thu hàng cơ khí khác
Triệu đồng
1.000
1.300
1.800
130
138
- Doanh thu gia công xuất khẩu
Triệu đồng
1.100
1.350
1.755
120
130
2. Lương bình quân 1CN/tháng
Triệu đồng
0,45
0,48
0,55
107
115
3. Nộp ngân sách
Triệu đồng
420
610
800
145
131
4. Lợi nhuận trước thuế
Triệu đồng
214
370
714
173
192
5. Lợi nhuận sau thuế
Triệu đồng
150
259
500
173
192
Trong các năm từ 1999 đến 2001 lợi nhuận sau thuế xí nghiệp đã bổ sung một phần vào nguồn vốn kinh doanh của xí nghiệp. Mặt khác từ nguồn vốn khấu hao xí nghiệp đã đầu tư thêm vào máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm.
3.1.2.2. Một số chỉ tiêu tài chính về hiệu quả sản xuất vốn lưu động của Xí nghiệp Kim Hà Nội.
Qua các số liệu của bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp trong hai năm 2000 và 2001. Một số chỉ tiêu về hoạt động sản xuất kinh doanh về tài chính của xí nghiệp như sau:
Bảng 3: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp
Chỉ tiêu
ĐVT
2000
2001
So sánh 2001/2000 (%)
Số tuyệt đối
Số tương đối
- Số vòng quay vốn lưu động
Lần
1,52
1,98
- Số ngày.vòng quay VLĐ
Ngày
236,8
181,8
- Hệ số nợ/ tổng tài sản
0,57
0,55
- Hệ số nợ/ vốn cổ phần
1,35
1,22
- Hệ số cơ cấu vốn chủ sở hữu
0,43
0,45
- Hệ số thanh toán lãi vay
25,34
34,2
- Hệ số doanh lợi
0,03
0,04
- Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu
0,03
0,056
- Hệ số sinh lợi tổng tài sản
0,014
0,026
- Tài sản lưu động bình quân
5.764.218
5.803.304
- Kỳ thu tiền bình quân
Ngày
30
43
- Kỳ luân chuyển hàng tồn kho
Ngày
192
125
- Vòng quay của hàng tồn kho
Ngày
1,87
487
- Kỳ luân chuyển VLĐ thực tế
Ngày
191
146
Qua xem xét tình hình tài chính của xí nghiệp trong hai năm 2000 và 2001 thông qua các chỉ tiêu về tài chính chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp kim Hà Nội, phần lớn các chỉ tiêu của xí nghiệp đều có sự tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Điều đó thể hiện sự phấn đấu của xí nghiệp trong thời gian vừa qua dù ở mức độ khiêm tốn, nhiều chỉ tiêu còn đạt tới mức độ chưa cao so với tiềm năng của xí nghiệp nhưng nói chung là đáng khích lệ. Trong quản lý và sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng còn có một số vấn đề chưa hợp lý đến hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, xí nghiệp đang có hướng để hoàn thiện dần trong thời gian tới.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu.
Thông qua việc thu thập các tài liệu, số liệu (trong khoảng thời gian nghiên cứu) qua đó phát hiện tính quy luật của hiện tượng và xu hướng vận động của doanh nghiệp.
* Thu thập tài liệu đã công bố: các tài liệu này có sắn đã công khai. Trong luận văn này, tôi có sử dụng một số tài liệu về sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Kim Hà Nội qua các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh.... Ngoài ra, tôi còn tham khảo các công trình nghiên cứu của cán bộ xí nghiệp, các sách báo tạp chí...
* Thu thập tài liệu mới: đây là những tài liệu không có sẵn do đó, để có được chúng cần phải điều tra thực tế tại xí nghiệp. Để thu thập được tài liệu này, phải tiến hành khảo sát tình hình của xí nghiệp với nội dung. Tình hình sử dụng lao động và chi phí của các phân xưởng sản xuất qua các bước sau:
Bước 1: Xác định đối tượng khảo sát: là các phân xưởng sản xuất.
Bước 2: Chọn mẫu điều tra: do điều kiện không thể kiểm tra hết tất cả mọi người trong phân xưởng nên phải chọn mẫu điều tra. Nhưng mẫu điều tra này phải là những người nắm vững những thông tin như: quản đốc phân xưởng, tổ trưởng, tổ phó các ca sản xuất...
Bước 3: Tiến hành điều tra bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp các đối tượng mẫu đã chọn.
3.2.2. Phương pháp phân tích
* Phương pháp thông kê.
Qua các số liệu tài liệu đã có được tôi tiến hành hệ thống hoá và phân tổ thống kê, sau đó các số liệu này được xử lý theo một phương pháp đặc biệt: qua các số liệu đã được xử lý, tôi đã tiến hành phân tích các hiện tượng để thấy được sự biến đổi hay tốc độ tăng trưởng giữa các mốc thời gian để rút ra kết luận, nhận xét để giúp cho công tác quản lý doanh nghiệp dễ dàng hơn thuận lợi hơn.
* Phương pháp so sánh.
Là phương pháp so sánh các chỉ tiêu số liệu đã xử lý qua các mốc thời gian. Qua đây tôi sử dụng hai kỳ nghiên cứu là năm 2000 và 2001. Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu đề tài với mục đích nhằm đánh giá (so sánh) hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp Kim Hà Nội.
3.2.4. Phương pháp dự báo.
Dự báo thống kê là việc xác định các thông tin chưa biết có thể xảy ra trong tươnglai của hiện tượng nghiên cứu dựa trên những số liệu thống kê và hiện tượng đó trong những giai đoạn đã qua:
Mô hình dự báo: Yn + m = YnX (t)m
Với:
Trong đó:
T : tốc độ phát triển bình quân
Yn : Mức độ cuối cùng của dãy số biến động thời gian
Yn + m: Mức độ dự báo thời kỳ m + n
Y1 : Mức độ ban đầu của dãy số biến động thời gian
m : Tầm nhìn xa của dự báo
Phần thứ tư
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Tình hình chung về nguồn vốn dùng trong sản xuất kinh doanh của xí nghiệp
Bảng 4: Thời gian từ năm 1999 đến 2001 tình hình bảo toàn vốn của xí nghiệp như sau:
Năm
1999
2000
2001
So sánh
Chỉ tiêu
2000/1999
2001/2000
Tổng nguồn vốn kinh doanh
7.085
7.185
7.385
101
102
Trong đó:
Vốn cố định
5.601
5.651
5.751
100
101
Vốn lưu động
319
369
469
115
127
Vốn khác
1.165
1.165
1.165
Mặc dù xí nghiệp đạt được các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, vốn được bảo toàn và phát triển, tuy nhiên trong ba năm từ năm 1999 đến 2001 cơ cấu vốn xí nghiệp còn có nhiều điều bất hợp lý dẫn đến việc sử dụng vốn còn đạt được hiệu quả chưa cao.
Bảng 5: Một số chỉ tiêu khái quát tình hình hoạt động của
doanh nghiệp
Năm
1999
2000
2001
So sánh
Chỉ tiêu
2000/1999
2001/2000
1. Cơ cấu vốn
- % VCĐ/ tổng vốn KD
79
78,6
77,87
0,99
0,99
- % VLĐ/ tổng vốn KD
4,5
5,13
6,35
1,14
1,23
- % Vốn khác/ tổng vốn KD
16,5
16,27
15,78
0,98
0,96
2. Tỷ suất lợi nhuận
- % Lợi nhuận/ tổng DT
4,3
4,12
6,23
0,95
1,51
- % lợi nhuận/ vốn
3,02
4,16
9,67
1,37
2,32
Trong cơ cấu vốn của xí nghiệp, tỷ trọng của vốn lưu động chia tổng vốn kinh doanh quá thấp từ đó dẫn đến thiếu vốn cho sản xuất. Với tỷ trọng (năm 1999) vốn lưu động/ tổng vốn kinh doanh chỉ xấp sỉ 4,5% việc quay vòng vốn kinh doanh của xí nghiệp gặp nhiều khó khăn. Từ việc thiếu vốn lưu động trầm trọng dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao vì xí nghiệp luôn phải đi huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau như: vay ngân hàng, vay của cán bộ công nhân viên và vay từ nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, do thiếu vốn dẫn đến nhiều mặt hàng hợp đồng sản xuất qua tính toán sơ bộ là có hiệu quả nhưng do không đủ vốn để sản xuất hoặc lúc đó mới đi huy động vốn dẫn đến chậm tiến độ sản xuất từ đó không ký được hợp đồng sản xuất và mất khách hàng.
Ngoài ra dây chuyền sản xuất kim khâu máy và dây chuyền sản xuất kim dệt được đầu tư từ thời kỳ bao cấp từ nguồn viện trợ nhân đạo và vốn vay, tính đến nay đã gần 15 năm sử dụng. Trong quá trình sản xuất do máy móc thiết bị nhập về thiếu đồng bộ dẫn đến có những thiết bị thiếu trong việc phục vụ công nghệ sản xuất bên cạnh đó lại thừa quá nhiều thiết bị trên dây chuyền sản xuất.
Đến ngày 31 tháng 12 năm 2001 giá trị tài sản không cần dùng và chờ thanh lý của xí nghiệp trị giá (theo giá trị còn lại) là trên 4 tỷ đồng, từ đó dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn của xí nghiệp không cao vì số vốn không phát huy được hiệu quả lớn.
Mặt khác do ngành sản xuất kim là một ngành hoàn toàn mới do đó trong những năm đầu nhập dây chuyền về phải qua nhiều lần chế thử để rút kinh nghiệm, nhằm hoàn thiện sản phẩm dẫn đến sản phẩm tồn kho, ứ đọng, kém phẩm chất từ những năm chế thử chiếm giá trị tương đối lớn mà chưa thu hồi được vốn. Ngoài ra xí nghiệp còn tồn đọng nhiều sản phẩm kim dệt xuất khẩu do sản xuất theo hợp đồng cho Liên Xô cũ nhưng thị trường Liên Xô bị vỡ dẫn đến không tiêu thụ được (vì là hàng đặc chủng).
ở bài viết này sẽ đề cập đến một số vấn đề trong sử dụng và bảo toàn vốn lưu động tại xí nghiệp cùng một số giải pháp trước mắt cũng như lâu dài trong huy động và sử dụng vốn để khắc phục các hạn chế trong sử dụng và bảo toàn vốn của xí nghiệp.
4.2. Thực trạng sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp Kim Hà Nội.
Kết quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội năm 2000 - 2001.
Trong những năm gần đây, việc phát huy hiệu quả sử dụng vốn đặc biệt làvốn lưu động của xí nghiệp ngày càng có tiến triển khả quan. Theo các số liệu chính thức của bảng cân đối kế toán trong hai năm 2000 và 2001 cho thấy các số liệu như sau:
Bảng 6: Bảng cân đối kế toán năm 2000 và 2001
Chỉ tiêu
Năm 20000
Năm 2001
Đầu năm
Cuối năm
Đầu năm
Cuối năm
A - Tài sản
I. TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
5.762.568
5.765.686
5.765.686
5.840.740
1. Vốn bằng tiền
194.715
373.998
373.998
517.237
2. Các khoản phải thu
698.606
743.994
743.994
1.428.271
3. Hàng tồn kho
4.413.074
3.769.284
3.769.284
3.153.106
4. Tài sản lưu động khác
456.173
878.592
878.592
742.126
II. TSCĐ và đầu tư dài hạn
13.741.255
13.723.238
13.723.238
13.705.533
1. TSCĐ hữu hình
13.733.284
13.679.321
13.679.321
13.625.358
- Nguyên giá
21.494.443
21.594.443
21.594.443
21.694.433
- Giá trị hao mòn luỹ kế
(7.761.159)
(7.915.122)
(7.915.122)
(8.069.085)
2. Chi phí XDCB dở dang
7.971
43.971
43.971
80.175
Cộng A (tài sản)
19.503.823
19.489.106
19.489.106
19.546.273
B - Nguồn vốn
I. Nợ phải trả
11.107.490
11.108.397
11.108.397
10.763.447
1. Nợ ngắn hạn
1.595.753
1.668.660
1.668.660
1.251.710
- Nợ ngân hàng
54.669
-
-
24.288
- Nợ nhà cung cấp
1.002.951
1.334.918
1.334.918
935.590
- Nợ ngân sách
538.133
333.742
333.742
291.832
2. Nợ dài hạn
9.511.737
9.511.737
9.511.737
9.511.737
II. Vốn chủ sở hữu
8.396.333
8.308.709
8.308.709
8.782.826
1. Nguồn vốn quỹ
8.396.333
8.308.709
8.308.709
8.782.826
- Nguồn vốn kinh doanh
7.085.000
7.185.000
7.185.000
7.385.000
- Lãi chưa phân phối
150.000
259.000
259.000
500.000
- Nguồn vốn xây dựng cơ bản
1.161.333
864.709
864.709
897.826
2. Kinh phí sự nghiệp
Cộng B (nguồn vốn)
19.503.823
19.489.106
19.489.106
19.546.273
4.2.1. Thực trạng sử dụng vốn lưu động dùng trong sản xuất.
Để nhằm đảm bảo phục vụ cho quá trình sản xuất ta phải xác định được nhu cầu về vốn lưu động của xí nghiệp từ đó có kế hoạch huy động vốn. Trong chu kỳ kinh doanh phát sinh ra nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh. Nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp là thể hiện số vốn tiền cần thiết xí nghiệp phải trực tiếp ứng ra để hình thành một lượng dự trữ hàng tồn kho (vật tư, sản phẩm dở dang, thành phẩm và khoản cho khách hàng nợ sau khi đã sử dụng khoán tín dụng của người cung cấp).
Chu kỳ kinh doanh của xí nghiệp là thời gian trung bình cần thiết để thực hiện việc mua sắm, dự trữ vật tư sản xuất ra sản phẩm và bán thành phẩm thu được tiền bán hàng. Ta có thể chia chu kỳ kinh doanh của xí nghiệp thành ba giai đoạn gồm:
+ Giai đoạn mua sắm và dự trữ vật tư: nhằm tạo lập nên một lượng vật tư dự trữ. Giai đoạn này phát sinh một luồng vật tư đi vào xí nghiệp. Trong trường hợp phải trả tiền ngay thì có luồng tiền ra khỏi xí nghiệp. Tuy nhiên, trong trường hợp trả tiền sau thì có nghĩa là người cung cấp vật tư đã cấp cho xí nghiệp một khoản tín dụng.
+ Giai đoạn sản xuất: giai đoạn này vật tư được sử dụng và chuyển hoá sang hình thái sản phẩm dở dang và thành phẩm. Để thực hiện quá trình này doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn nhất định.
+ Giai đoạn bán sản phẩm và thu tiền bán hàng: sau khi hàng đã sản xuất song hoặc mua song phải phân kho và hình thành nên một lượng dự trữ nhất định. Nếu doanh nghiệp bán hàng và thu tiền ngay thì khi xuất hàng doanh nghiệp đã thu hồi được vốn đã ứng ra để phục vụ chu kỳ kinh doanh mới. Nếu doanh nghiệp bán chịu hàng cho khách thì khi nào thu được tiền mới thu hồi được số vốn ứng ra.
Nhu cầu vốn lưu động
=
Mức dự trữ hàng tồn kho
+
Khoản phải thu từ khách hàng
-
Khoản phải trả người cung cấp
4.2.2. Vốn lưu động trực tiếp sản xuất
Theo phương pháp trực tiếp để xác định nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp theo trình tự sau: xác định lượng hàng tồn kho cần thiết cho hoạt động kinh doanh của xí nghiệp theo trình tự sau: xác định lượng hàng tồn kho cần thiết cho hoạt động kinh doanh của xí nghiệp, xác định chính sách tiêu thụ sản phẩm và khoản tín dụng cung cấp cho khách hàng, xác định các khoản nợ phải trả cho người cung cấp, tổng hợp xác định nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp.
Trong đó:
+ Xác định lượng hàng tồn kho cần thiết: để quá trình sản xuất được thực hiện liên tục đòi hỏi phải duy trì một lượng dự trữ sản xuất nhất định bao gồm nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế vật đóng gói, công cụ, dụng cụ... Việc xác định lượng dự trữ nguyên vật liệu được xác định bằng công thức tổng quát:
Dn = Nd x Fn
Trong đó:
Dn: Dự trữ cần thiết nguyên vật liệu chính trong kỳ
Nd: Số ngày dự trữ cần thiết về nguyên vật liệu chính
Fn: Chi phí nguyên vật liệu chính bình quân 1 ngày trong kỳ.
4.2.3. Vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh.
Nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó cần chú ý một số yếu tố chủ yếu sau:
- Tính chất của ngành nghề kinh doanh và mức độ kinh doanh của xí nghiệp: Từ quy mô chu kỳ kinh doanh, công nghệ,... có ảnh hưởng rất lớn đến lượng vốn lưu động mà xí nghiệp phải ứng ra và thời gian thu hồi vốn.
- Các yếu tố và mua sắm vật tư tiêu thụ sản phẩm như khoản cách giữ nơi mua, nơi bán, điều kiện giao thông điều kiện thanh toán, kỳ hạn thanh toán, thủ tục thanh toán... ảnh hưởng đến vốn lưu động phục vụ sản xuất.
- Các yếu tố về giả cả vật tư, hàng hoá dự trữ cũng ảnh hưởng lớn đến vốn lưu động phục vụ sản xuất, số vốn lưu động xí nghiệp phải ứng ra trực tiếp phụ thuộc vào nhu cầu vốn lưu động trong từ kỳ kinh doanh. Trong công tác quản lý vốn lưu động phục vụ sản xuất một vấn đề quan trọng là phải xác định được nhu cầu cần thiết tương ứng với quy mô và định hướng kinh doanh nhất định, đây là một vấn đề phức tạp. có thể áp dụng các phương pháp khác nhau để xác định vốn lưu động dùng trong phân phối sản phẩm (tiêu thụ sản phẩm) thường xuyên.
4.2.4. Thực trạng vốn lưu động dùng trong phân phối sản phẩm (tiêu thụ sản phẩm).
Do quá trình sản xuất diễn ra liên tục vì thế trong dây chuyền có một lượng sản phẩm dở dang nhất định. Xí nghiệp phải ứng vốn ra một lượng nhất định về sản phẩm dở dang. Lượng vốn ứng ra tuỳ thuộc vào lượng giá trị của sản phẩm dở dang.
Bên cạnh việc dự trữ về nguyên, nhiên liệu, công cụ, phụ tùng, sản phẩm dở dang... để đảm bảo cho quá trình tiêu thụ sản phẩm được thường xuyên, liên tục đòi hỏi xí nghiệp phải dự trữ một lượng nhất định thành phẩm trong kho. Mức dự trữ được xác định dựa trên cơ sở xem xét quá trình sản xuất và cách thức tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp. Nhu cầu dự trữ thành phẩm được xác định theo công thức:
Dt = Zn x Nt
Trong đó:
Dt: Số dự trữ cần thiết về thành phẩm trong kỳ
Zn: Giá thành sản xuất của sản phẩm sản xuất bình quân
mỗi ngày kỳ kế hoạch
Nt: Số ngày dự trữ thành phẩm.
Giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hoá bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch có thể tính bằng cách lấy tổng giá thành sản xuất hàng hoá sản phẩm trong năm chia cho số ngày trong năm. Số ngày dự trữ thành phẩm là số ngày kể từ lúc thành phẩm nhập kho cho đến khi thành phẩm được xuất khỏi kho tiên thụ.
Trên cơ sở xác định mức dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm tổng hợp lại sẽ xác định được tổng mức dự trữ hàng tồn kho:
+ Dự kiến khoản phải thu: trong tiêu thụ sản phẩm, xí nghiệp đã sử dụng biện pháp bán chịu cho khách hàng từ đó hình thành nên các khoản phải thu từ khách hàng. Khi bán chịu cho khách hàng cũng có nghĩa là xí nghiệp đã cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Việc bán chịu có thể giúp cho xí nghiệp tăng thêm được lượng hàng hoá bán ra và từ đó tăng được lợi nhuận. Nhưng việc bán chịu cũng khiến cho xí nghiệp phải ứng thêm một lượng vốn, tăng thêm chi phí quản lý, chi phí thu hồi tiền bán chịu và mức độ rủi ro cũng tăng lên. Điều đó đòi hỏi xí nghiệp phải có sự cân nhắc để lựa chọn phương thức bán chịu thích hợp. Một trong những yếu tố quan trọng là cần xác định trong việc bán chịu là thời gian bán chịu hàng, thời gian cho khách nợ. Trên cơ sở xác định được độ dài thời gian này có thể xác định được khoản nợ phải thu trung bình từ khách hàng theo công thức sau:
Nợ phải thu dự kiến trong kỳ
=
Thời hạn trung bình cho khách hàng nợ
x
Doanh thu tiêu thụ bình quân 1 ngày trong kỳ
+ Dự kiến khoản nợ phải trả: trong hoạt động kinh doanh xí nghiệp có thể mua chịu nguyên vật liệu, hàng hoá... của người cung cấp từ đó hình thành khoản phải trả người cung cấp khi được chấp thuận mua chịu cũng có nghĩa là người bán đã âps một khoản tín dụng thương mại cho người mua hàng. Việc sử dụng tín dụng thương mại đòi hỏi xí nghiệp phải xem xét xác điều kiện do người cung cấp đưa ra và tình hình tài chính của xí nghiệp, từ đó có thể dự kiến khoản phải trả người cung cấp theo công thức:
Nợ phải trả người cung cấp
=
Kỳ trả tiền trung bình
x
Giá trị vật tư, hàng hoá mua vào (mua chịu) bình quân 1 ngày trong kỳ
Từ các yếu tố tính toán về nhu cầu hàng tồn kho, khoản phải thu, khoản phải trả như tính toán ở trên ta có thể xác định được nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của xí nghiệp.
Để xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, ngoài phương pháp trực tiếp đã nêu ở trên ta còn có thể xác định được một cách gián tiếp. Dựa vào tình hình thực tế sử dụng, vốn lưu động ở thời kỳ vừa qua của xí nghiệp để xác định nhu cầu về vốn cho các thời kỳ tiếp theo. Nội dung chủ yếu của phương pháp này là dựa vào mối quan hệ giữa các mối quan hệ hợp thành nhu cầu vốn lưu động với doanh thu của kỳ vừa qua để xác định tỷ lệ chuẩn nhu cầu vốn lưu động tính theo doanh thu và tỷ lệ này để xác định nhu cầu vốn lưu động cho các kỳ tiếp theo. Có thể thực hiện phương pháp này theo các trình tự sau:
+ Xác định số dư bình quân các khoản trong năm, bao gồm số hàng tồn kho bình quân (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm...) số phải thu từ khách hàng bình quân, số nợ phải trả bình quân. Khi xác định số dư bình quân các khoản phải phân tích tình hình để loại trừ số không hợp lý.
+ Xác định tỷ lệ các khoản trên so với doanh thu thuần trong năm từ đó xác định tỷ lệ nhu cầu vốn lưu động so với doanh thu, đồng thời có thể xác định nhu cầu vốn lưu động cho các kỳ sau. Chỉ khi tình hình kinh doanh, quản lý có sự thay đổi tương đối lớn vì điều kiện và tổ chức mua sắm, dự trữ vật tư, công nghệ sản xuất, chính sách tiêu thụ, chính sách tín dụng... của xí nghiệp thì mới cần thay đổi, điều chỉnh tỷ lệ này.
4.2.5. Đánh giá chung về tình hình sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp.
Vốn là yếu tố rất cần thiết cho doanh nghiệp, không có vốn mọi hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị ngừng trệ hoặc kém hiệu quả, nguồn vốn là có hạn và không phải doanh nghiệp nào cũng có nhiều vốn. Do vậy vấn đề sử dụng vốn như thế nào để có hiệu quả cao là vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm và giải quyết.
Để biết được nguồn vốn trong xí nghiệp sử dụng có hiệu quả hay không chung ta cần tiến hành xem xét đánh giá một cách khách quan thông qua các chỉ tiêu sau:
+ Số vòng quay vốn = Tổng doanh thu/ vốn kinh doanh
+ Hiệu quả sử dụng vốn cố định = Lợi nhuận/vốn cố định
+ Hiệu quả sử dụng vốn lưu động = Lợi nhuận/ vốn lưu động
+ Số vòng luân chuyển vốn lưu động = Doanh thu/ vốn lưu động
Qua các số liệu thực tế của xí nghiệp Kim Hà Nội trong hai năm 2000 và 2001 về các chỉ tiêu tài chính, sự tăng trưởng đóng góp cho Nhà nước. Xí nghiệp đã xó sự tăng trưởng nhất định.
Doanh thu năm 2000 tăng so với năm 1999 là 80% năm 2001 tăng so với năm 2000 là 32%. Nộp ngân sách năm 2000 tăng 45% so với năm 1999. Năm 2001 tăng 31% so với năm 2000. Lợi nhuận trước thuế năm 2000 tăng 37% so với năm 1999. Năm 2001 tăng 92% so với năm 2000. Bên cạnh đó xí nghiệp đã đảm bảo được đời sống cho tập thể cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp, có được tích luỹ cho sản xuất.
Bên cạnh sự tăng trưởng cơ bản trên, tình hình tài chính của xí nghiệp cũng ngày càng lành mạnh hơn, các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá khả năng tài chính của xí nghiệp năm 2001 nói chung đều tốt hơn 2000. Cụ thể:
- Nhu cầu vốn lưu động so với doanh thu thuần năm 2000 là 44,38%; năm 2001 là 40%.
- Vốn lưu động thường xuyên năm 2000 có 4.097.208 (nghìn đồng); năm 2001 có 4.589.030 (nghìn đồng).
- Hàng tồn kho và các tài sản lưu động khác của xí nghiệp cuối năm so với đầu năm đều có biến động giảm. Năm 2000 giảm 221.371 (nghìn đồng), năm 2001 giả: (616.178 + 136.466) = 752.644 (nghìn đồng).
Điều này cho thấy xí nghiệp đã tích cực tiêu thụ sản phẩm, tăng nhanh vòng quay của vốn bằng cách chỉ để lượng tồn kho hợp lý. Lượng hàng tồn kho đã được giải phóng nhanh để thu hồi vốn cho sản xuất. Mặt khác, lượng tiền dự trữ của xí nghiệp cũng tăng nên đáp ứng nhu cầu chi trả trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Các khả năng thanh toán của xí nghiệp năm 2001 đều cao hơn năm 2000. Số nợ phải trả năm 2001 giảm đi so với năm 2000. Từ các chỉ số cơ bản trên cho thấy vòng quay của vốn lưu động của xí nghiệp năm 2001 tăng cao hơn năm 2000, số ngày của một kỳ luân chuyển giảm đi từ đó giúp xí nghiệp có thể tiết kiệm được vốn lưu động cho sản xuất. Hàng tồn kho của xí nghiệp cũng tăng được vòng quay nhiều hơn các hệ số sinh lời năm 2001 nói chung đều cao hơn năm 2000.
* Bên cạnh những thành tích đã đạt được, trong quản lý và sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp cũng còn có một số tồn tại cần khắc phục cụ thể là:
- Số nợ phải thu của năm 2000 và năm 2001 đều tăng cao khi so sánh cuối năm so với đầu năm. Năm 2000 tăng 45.388 nghìn đồng thì năm 2001 tăng 684.277 nghìn đồng từ đó dẫn đến kỳ thu tiền bình quân của năm 2001 tăng nên so với năm 2000 là 13 ngày. Xí nghiệp cần tích cực có phương án thu hồi nợ để thu hồi vốn cho xí nghiệp. Hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
- Lượng hàng hoá tồn kho, ứ đọng mất phẩm chất khá lớn dẫn đến ứ đụng không có vốn cho sản xuất và có khả năng không thu hồi được vốn nên xí nghiệp cần có phương án bán thanh lý nhanh số vật tư hàng hoá này (trị giá theo sổ sách là: 1.126.812 nghìn đồng, số này không có khả năng thu hồi vốn).
* Đứng trước thực trạng trên, xí nghiệp đã có một số giải pháp nhằm phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục nghiên cứu mặt hạn chế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Một số biện pháp cơ bản xí nghiệp đã tiến hành là:
- Tiếp tục nâng cao công suất sử dụng máy móc thiết bị, ổn định thị trường tiêu thụ đồng thời tìm kiếm thị trường mới. Cải tiến mẫu mã sản phẩm để tăng tính cạnh tranh trên thị trường.
- Triệt để thực hiện tiết kiệm để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Tăng cường thu hồi nợ nhằm tránh rủi ro đối với các khoản nợ phải thu và tận thu vốn cho sản xuất. Hạn chế bán chịu cho khách hàng.
- Tìm các biện pháp bán thanh lý đối với các vật tư, hàng hoá ứ đọng, kém, mất phẩm chất như: chấp nhận bán lỗ, bán trả chậm... để thu hồi phần nào vốn đã bỏ ra.
- Huy động vốn trong cán bộ công nhân viên để phục vụ cho sản xuất của xí nghiệp.
- Thanh lý bớt các tài sản cố định không cần dùng cho sản xuất kinh doanh.
Trên đây là một số thành tích cũng như các mặt còn hạn chế của xí nghiệp trong việc sử dụng vốn cho sản xuất kinh doanh và các biện pháp của xí nghiệp để sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, xí nghiệp cần có những giải pháp triệt để hơn nữa để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và sử dụng vốn lưu động nói riêng.
4.2.6. Kết quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp.
Bảng 7: Kết quả sử dụng vốn lưu động qua hai năm 2000 và 2001
Đơn vị tính: nghìn đồng.
Chỉ tiêu
2000
2001
So sánh % 2001/2000
Vốn lưu động huy động cho sản xuất
Trong đó:
- Hàng tồn kho bình quân trong năm
4.091.175
3.461.195
84
- Số phải thu từ khách hàng bình quân trong năm
721.300
1.086.132,5
150
- Tài sản lưu động khác bình quân trong năm
721.300
810.359
112
- Số phải trả bình quân trong năm
1.604.872
1.448.041
90
Tổng nhu cầu vốn lưu động của xí nghiệp
3.874.989,5
3.909.645,5
100
So với DT thuần nhu cầu VLĐ của xí nghiệp
44,38%
40%
Cũng từ bảng cân đối kế toán của năm 2000 và 2001 cho thấy vốn lưu động thường xuyên của xí nghiệp Kim trong năm 2000 và 2001 là:
Năm 2000:
Vốn lưu động thường xuyên = 5.840.740 - 1.251.710 = 4.589.030
Như vậy, trong năm 2000 vốn lưu động thường xuyên của xí nghiệp cần là: 4.097.208 đồng, nguồn vốn dài hạn của xí nghiệp đầu tư vào tài sản lưu động.
Các khoản phải thu của xí nghiệp cuối năm 2000 so với đầu năm 2000 đã tăng lên là:
743.994 - 698.606 = 45.388
Hàng tồn kho và các tài sản lưu động khác cuối năm 2000 so với đầu năm 2000 là:
(3.769.284 + 878.592) - (4.413.074 + 456.173) = -211.371
Điều này chứng tỏ trong năm 2000 xí nghiệp đã tích cực tiêu thụ sản phẩm, giảm bớt số tồn kho quá mức nhằm thu hồi vốn. Tuy nhiên số nợ phải thu cũng tăng lên so với đầu năm là 45.388 đồng do đó xí nghiệp cần có phương án thu hồi nợ. Mặt khác, nợ ngắn hạn của xí nghiệp cuối năm cũng tăng lên so với đầu năm là:
1.668.680 - 1.595.753 = 72.927
Mặc dù như vậy nhưng lượng tiền tệ của xí nghiệp cũng được cải thiện đáng kể, so với đầu năm, cuối năm xí nghiệp đã tích luỹ thêm để dự phòng cho sản xuất kinh doanh là:
373.998 - 194.715 = 179.283
Năm 2001:
Tương tự như vậy, năm 2001 vốn lưu động thường xuyên của xí nghiệp có 4.589.030 đồng cũng cho thấy nguồn vốn dài hạn của xí nghiệp đã đầu tư một phần vào tài sản lưu động. Trong năm, xí nghiệp đã tích cực tiêu thụ sản phẩm nhằm giảm bớt số tồn kho. Lượng hàng tồn kho cuối năm giảm so với đầu kỳ là:
3.1530.106 - 878.592 = -616.178
Tài sản lưu động khác cuối năm 2001 giảm so với đầu năm 2001 là:
742.126 - 1.668.660 = 416.950
Mặt khác, lượng tiền dự trữ cho sản xuất của xí nghiệp cũng được tăng lên nhằm chuẩn bị cho dự trữ vật tư cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Lượng tiền dự trữ tăng lên là;
517.237 - 337.998 = 143.239
Tuy nhiên, xí nghiệp cần có các biện pháp thiết thực hơn để đôn đốc việc thu hồi các khoản nợ phải thu. Số nợ phải thu của xí nghiệp số cuối năm không những không giảm bớt đi so với đầu năm mà còn tăng lên. với số lượng lớn. Số nợ phải thu cuối năm tăng so với đầu năm là:
1.428.271 - 743.994 = 684.277
4.2.7. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp.
Giữa năm 2001 và năm 2000 hệ số thanh toán tức thời tăng lên gần gần hai lần. Khả năng thanh toán của xí nghiệp ngày càng ổn định. Mặt khác, mặc dù số vốn của xí nghiệp được bổ xung chưa nhiều nhưng xí nghiệp đã tăng được vòng quay của vốn lưu động, đạt các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận... ở mức độ khả quan. Mặc dù tốc độ tăng vòng quay vốn lưu động tốc độ tăng doanh thu, đặc biệt là các chỉ số doanh thu/vốn, lợi nhuận/vốn... nói chung vẫn còn ở mức độ khiêm tốn. Nhưng điều đáng khích lệ là các chỉ tiêu này đều có sự tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Điều đó cho thấy xí nghiệp đang có triển vọng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bảng 8: Báo cáo kết quả kinh doanh trong năm 2000 và 2001 như sau
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
1. Doanh thu bán hàng
9.000.000
11.855.000
- Thuế doanh thu
270.000
355.000
- Hàng bán trả lại
2. Doanh thu thuần
8.730.000
11.499.350
3. Giá vốn hàng bán
7.050.500
9.060.350
4. Lãi gộp
1.679.500
2.439.000
5. Chi phí bán hàng, quản lý
1.309.500
1.725.000
Trong đó:
- Lãi tiền vay
15.200
21.000
6. Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh
370.000
714.000
7. Kết quả từ các hoạt động khác
-
-
- Thu bất thường
-
-
- Chi bất thường
-
-
8. Lợi nhuận trước thuế
370.000
714.000
9. Thuế lợi tức
111.000
214.200
10. Lợi nhuận sau thuế
259.000
449.800
Căn cứ vào các số liệu của bảng cân đối kế toán báo cáo kết quả kinh doanh của xí nghiệp trong hai năm 2000 và 2001 ta có các chỉ tiêu sau:
Bảng 9: Tổng hợp vật tư, dụng cụ ứ đọng, kém phẩm chất
Đơn vị tính: 1000 đồng
Chỉ tiêu
Theo giá hạch toán
Dự kiến thu hồi
1 - Nguyên vật liệu
27.242
3.204
2 - Công cụ dụng cụ
9.427
500
Cộng
36.669
3.704
Tổng số giá trị thành phẩm, vật tư ứ đọng kém phẩm chất không thể thu hồi được là:
Bảng 10: Hiệu quả thanh toán vốn lưu động của xí nghiệp Kim các năm 2000 và 2001.
Chỉ tiêu
2000
2001
So sánh 2001 và 2000 (%)
Hệ số thanh toán ngắn hạn
3,46
4,67
1,34
Hệ số thanh toán ngắn hạn
2,78
3,77
1,35
Khả năng thanh toán nhanh
0,67
1,55
2,31
Hệ số thanh toán tức thời
0,22
0,41
1,86
Tuy hệ số thanh toán nợ ngắn hạn của xí nghiệp trên thực tế thấp hơn khá nhiều so với tính toán trên bảng cân đối kế toán. Lý do như đã trình bày ở phần trên, là do trong số hàng tồn kho của xí nghiệp số hàng hoá, vật tư, thành phẩm tồn kho ứ đọng, kém phẩm chất, không thể tiêu thụ được với số lượng tương đối lớn (1.126.812 chiếm gần 30% trong tổng số hàng tồn kho). Tuy nhiên, do trong tài sản lưu động của xí nghiệp vẫn còn có nhiều tiềm năng trong khả năng thanh toán. Mặt khác, số nợ phải trả của xí nghiệp năm 2001 cũng giảm đáng kể so với năm 2000, do đó trên thực tế hệ số thanh toán nợ ngắn hạn của xí nghiệp vẫn ở mức độ cao và có chiều hướng tốt (hệ số năm 2001 cao hơn rất nhiều so với năm 2000).
Tuy nhiên, trên thực tế hệ số thanh toán nợ ngắn hạn của xí nghiệp thấp hơn khá nhiều, lý do là sản phẩm của xí nghiệp bị tồn đọng không thể tiêu thụ được và hầu như không thu hồi được vốn. Các sản phẩm tồn đọng này do sản xuất từ những năm chế thử (do dây chuyền sản xuất kim của xí nghiệp là dây chuyền hoàn toàn mới ở Việt Nam và là dây chuyền duy nhất ở Đông Dương. Do vậy trong quá trình đi vào sản xuất, xí nghiệp phải sản xuất vừa phải tự rút kinh nghiệm để hoàn thiện công nghệ sản xuất). Mặt khác, trong thời kỳ 1990 đến 1991 xí nghiệp sản xuất để xuất khẩu cho Liên Xô cũ nhưng do thị trường Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến sản phẩm của xí nghiệp không thể tiêu thụ được. Việc khắc phục sự cố này gần như không thể được vì sản phẩm kim thuộc loại đặc củng dành riêng cho từng loại máy dệt khác nhau. Các sản phẩm ứ đọng của xí nghiệp chỉ còn cách huỷ bỏ không thể tận dụng được. Ngoài hàng hoá tồn kho, lượng vật tư của xí nghiệp cũng bị ứ đọng khá nhiều so được phân phối chỉ tiêu mua từ những năm bao cấp, trải qua năm tháng đến nay có nhiều chủng loại, vật tư không thể đưa vào sản xuất được do bị kém hoặc mất phẩm chất. Đến thời điểm hiện nay số hàng hoá sản phẩm, vật tư bị kém, mất phẩm chất không thể thu hồi được vốn là:
Bảng 11: Tổng hợp thành phẩm, ứ đọng, mất phẩm chất
Chỉ tiêu
Số lượng (c)
Theo giá thành (1000đ)
Dự kiến thu (1000đ)
1 - Kim dệt
2.951.272
956.019
0
2 - Kim tay
2.884.427
46.603
0
3 - Kim máy khâu
1.831.707
91.225
0
Cộng thành phẩm
1.093.847
0
4.3. Định hưỡng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội.
4.3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội trong thời gian tới.
Pháp huy những thành tích đã đạt trong thời gian vừa qua, đặc biệt là trong năm 2000và 2001. Xí nghiệp đã đặt kế hoạch phát triển cho những năm trước mắt cũng như lâu dài. Xét về tiêm năng của xí nghiệp : trong thời gian tới xí nghiệp hoàn toàn có khả năng nâng cao sản lượng sản xuất các mặt hàng chủ yếu. Sản lượng Kim Khâu tay trong năm 2001 đã đạt được gần đến với công suất thiết kế( 40 triệu/ 45 triệu cây Kim= 89% so với công suất thiết kế ). Tuy nhiên, các mặt hàng chính có thể đem lại doanh thu cao như Kim máy Khâu, Kim dệt của xí nghiệp lại chưa khai thác hết công suất. Sản lượng Kim máy Khâu năm 2001 so với công suất thiết kế mới chỉ đạt 10 triệu kim trên 55 triệu Kim = 18,8%; sản lượng kim dệt năm dệt năm 2001 mới sản xuất được so với công suất thiết kế là 1,2 triệu kim/6,2 triệu kim bằng 19,3% so với công suất thiết kế. Do vậy khả năng sản xuất của xí nghiệp vẫn còn nhiều tiềm năng chưa khai thác hết.
Với lợi thế dây chuyền sản xuất kim là cơ sở duy nhất ở Đông Dương sản xuất các loại kim do đó việc tiêu thụ của xí nghiệp có nhiều thuận lợi. Mặt khác, thị trường tiêu thụ của xí nghiệp cũng rộng vì trong nước cũng có nhiều cơ sở dệt may... nên xí nghiệp có nhiều khả năng trong khai thác thị trường. Đứng trướ nhiều thuận lợi như vậy, xí nghiệp đã có chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để cạnh tranh với các loại kim ngoại nhapạ (chủ yếu là Kim Trung Quốc). Xí nghiệp đặt chỉ tiêu phấn đấu trong ba năm tới với sản lượng và doanh thu hàng năm tăng từ 15% đến 20%.
Bên cạnh việc đặt kế hoạch tăng sản lượng kim máy khâu và kim dệt, từ các thành công ban đầu trong sản xuất hàng gia công kim khí cho Nhật Bản, xí nghiệp đang tiếp tục đẩy mạnh sản xuất hàng gia công đồng thời hoàn thiện công nghệ sản xuất để tiến tới tự sản xuất để bản sản phẩm trên thị trường. Song song với việc tăng cường sản xuất kim, đẩy mạnh và hoàn thiện sản xuất hàng cơ kim khí phục vụ cho sản xuất và phục vụ cho thị trường trong nước xí nghiệp tiếp tục sản xuất các mặt hàng truyền thống như mạ gia công, phun phủ kẽm lên bề mặt kim loại... Đồng thời xí nghiệp tiếp tục có hướng đầu tư thêm trang thiết bị, công nghệ sản xuất các mặt hàng mới.
Để có thể sản xuất tiếp tục ổn định và tăng trưởng xí nghiệp cần có các biện pháp, chính sách huy động và sử dụng vốn hợp lý hơn nữa nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. ở phần tiếp theo chúng ta sẽ xem xét một số giải pháp trước mắt cũng như lâu dài để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
4.3.2. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở xí nghiệp Kim Hà Nội.
Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, trong thời gian tới bên cạnh các giải pháp đồng bộ về kinh tế, kỹ thuật công nghệ.... xí nghiệp cần có những giải pháp cụ thể về việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiêu thụ sản phẩm, hạn chế rủi ro.
Một số giải pháp cơ bản bao gồm:
4.3.2.1. Giải pháp về tiêu thụ sản phẩm.
Có chiến lược đầu tư chiều sâu để sản xuất các mặt hàng mới, đa dạng hoá, mặt hàng, ngành hàng. Tích cực cải tiến công nghệ, chất lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm để sản phẩm của xí nghiệp tiếp tục đứng vững trên thị trường. Hàng năm nên để một phần kinh phí hợp lý cho nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thị trường từ đó các các chính sách hợp lý về giá cả, phương thức bán hàng... để sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
* Quản lý vốn dự trữ.
Một trong những vấn đề quan trọng để tăng tốc độ luân chuyển vốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là phải thực hiện quản lý tốt vốn dự trữ hàng tồn kho nhằm đạt tới mục tiêu: Tổ chức hợp lý việc dự trữ đảm bảo cho quá trình kinh doanh diễn ra liên tục tránh mọi sự gián đoạn do dự trữ gây ra. Đồng thời giảm tới mức thấp nhất có thể được số vốn cần thiết cho dự trữ. Để quản lý tốt vốn dự trữ đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận quản lý trong doanh nghiệp như: bộ phận cung ứng vật tư, bộ phận tiêu thụ sản phẩm, bộ phận quản lý tài chính...
Doanh nghiệp cần chú ý một số biện pháp sau:
- Xác định đúng đắn lượng nguyên vật liệu, hàng hoá cần mua trong kỳ và lượng tồn kho dự trữ thường xuyên. Xác định và lựa chọn người cung ứng thích hợp: mục tiêu cần đạt được là lựa chọn giá cả thấp, những điều khoản thương lượng thuận lợi (thời gian, địa điểm giao hàng, điều kiện thanh toán...) chất lượng phù hợp. Lựa chọn hình thức vận chuyển phù hợp.
- Thường xuyên theo dõi sự biến động của thị trường vật tư hàng hoá từ đó dự toán và quyết định điều chỉnh kịp thời việc mua sắm nguyên vật liệu, hàng hoá có lợi cho doanh nghiệp trước sự biến động của thị trường. Đây là biện pháp rất quan trọng để bảo toàn vốn của doanh nghiệp.
- Tổ chức tốt việc dự trữ, bảo quản nguyên vật liệu tránh mất mát, hao hụt quá mức. Thường xuyên kiểm tra nắm vững tình hình dự trứ phát triển kịp thời hàng hoá bị ứ đọng nhằm có biện pháp giải phóng hàng ứ đọng thu hồi vốn.
- Thực hiện việc mua bảo hiểm với vật tư, hàng hoá lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho... nhằm chủ động bảo toàn vốn lưu động.
* Quản lý phải thu.
Trong hoạt động kinh doanh thường xuyên nảy sinh việc xuất giao thành phẩm hàng hoá cho khách hàng và một thời gian sau mói thu được tiền. Tình hình đó làm nảy sinh khoản phải thu từ khách hàng. Quản lý khoản phải thu từ khách hàng là một vấn đề rất quan trọng và phức tạp trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp bởi vì:
- Việc quản lý khoản phải thu có liên quan chặt chẽ với việc tiêu thụ sản phẩm từ đó có ảnh hưởng lớn tới doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi lượng hàng hoá bán chịu sẽ làm tăng khoản phải thu nhưng có khả năng tăng được lượng hàng hoá bán ra và tăng lợi nhuận.
- Quản lý khoản phải thu liên quan chặt chẽ tới việc tổ chức và bảo toàn vốn lưu động. Việc tăng nợ phải thu sẽ kéo theo nhiều chi phí để thu hồi nợ, đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm thêm nguồn vốn vay để đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình kinh doanh tiếp theo và phải trả lãi cho tiền vay.
- Nợ phải thu tăng nên cũng làm tăng rủi ro đối với doanh nghiệp dẫn đến tình trạng nợ khó đòi hoặc không thu hồi được do khách hàng vỡ nợ gây tổn thất vốn cho doanh nghiệp.
Để quản lý tốt nợ phải thu từ khách hàng doanh nghiệp cần chú ý một số biện pháp sau:
- Xác định chính sách bán chịu và mức độ nợ phải thu. Mỗi doanh nghiệp cần xác định chính sách, định hướng bán chịu cho khách hàng căn cứ vào các mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp như:
+ Mục tiêu mở rộng thị trường để tiêu thụ, tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Tính chất thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ của một số sản phẩm.
+ Tình trạng cạnh tranh: doanh nghiệp cần phải xem xét tình hình bán chịu của đối thủ cạnh tranh để có đối sách thích hợp.
+ Tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
+ Phân tích khách hàng, xác định đối tượng bán chịu nhằm đánh giá khách hàng nhất là đối với khách hàng tiềm năng.
+ Xác định điều kiện thanh toán: trong đó chú ý đến thời hạn thanh toán và chiếthâu bán hàng (hay chiết khấu thanh toán).
Việc quản lý nợ phải thu là một vấn đề rất quan trọng và phức tạp trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp do đó cần kiểm soát chặt chẽ nợ phải thu từ khách hàng, trong đó càn chú ý: mở sổ theo dõi nợ phải thu và tình hình thanh toán với khách hàng. Thường xuyên nắm vững và kiểm soát tình hình nợ phải thu và tình hình thu hồi nợ. Cần xác định giới hạn hệ số nợ phải thu.
Hệ số nợ phải thu =
Nợ phải thu từ khách hàng
Doanh số bán hàng
Thường xuyên theo dõi, phân tích cơ cấu nợ phải thu theo thời gian và chuẩn bị các biện pháp thu hồi. Khi phát sinh các khoản nợ khó đòi cần phân tích, đánh giá tìm nguyên nhân và cá biện pháp để hạn chế sự tổn thất.
* Quản lý vốn bằng tiền.
Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp và có thể dễ dàng chuyển hoá thành các tài sản khác nhau. Vốn bằng tiền là yếu tố trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của một doanh nghiệp. Tương xứng với quy mô kinh doanh nhất định đòi hỏi phải thường xuyên có một lượng tiền tương xứng mới đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp ở trạng thái bình thường. Chính vì vậy việc quản lý vốn bằng tiền là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp.
Nội dung chủ yếu của quản lý vốn bằng tiền bao gồm các vấn đề chủ yếu sau:
- Quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi bằng tiền: nhằm tránh mất mát, lạm dụng. Xác định chặt chẽ các khoản tạm ứng tiền mặt về đối tượng, số lượng và thời hạn thanh toán tạm ứng.
Chỉ đề tồn quỹ tiền mặt ở mức tối thiểu, phần vượt quá mức tối thiểu cần gửi ngay vào ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn và sinh được số lãi nhất định.
- Đảm bảo khả năng thanh toán, duy trì dự trữ tiền tệ ở mức cần thiết. Đảm bảo đủ cho yếu tố giao dịch kinh doanh và một lượng tiền nhất định để dự phòng.
Trên đây là một số vấn đề lý luận trong việc quản lý, sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng ốn (đặc biệt là vốn lưu động) của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
4.3.2.2. Giải pháp về bảo tồn vốn.
Một là: có những biện pháp cụ thể, triết để nhằm thu hồi các khoản nợ phải thu.
Qua các số liệu ở phần thứ ba: địa bàn và phương pháp nghiên cứu cho thấy số nợ phải thu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2000 số nợ phải thu cuối năm tăng so với đầu năm là:
743.994 - 698.606 = 45.388
Năm 2001 số nợ phải thu không những không giảm đi mà còn tăng lên khá cao. Năm 2001 số nợ phải thu cuối năm tăng nên so với đầu năm là:
1.428.271 - 743.994 = 684.277
Do các khoản nợ phải thu năm 2001 tăng lên rất nhiều so với năm 2000 trong khi tốc độ doanh thu tăng không nhiều. Vì vậy kỳ thu tiền bình quân của xí nghiệp từ 30 ngày năm 2000 đã tăng lên đến 43 ngày năm 2001.
Việc bán hàng trả chậm có thể làm tăng được doanh thu từ đó tăng được khả năng sinh lời cho xí nghiệp nhưng xí nghiệp cần có biện pháp cụ thể, cương quyết, khéo léo nhằm thu hồi vốn cho sản xuất. Do số nợ phải thu quá cao có thể dẫn đến tình trạng xí nghiệp bị động trong việc huy động vốn cho sản xuất, khả năng rủi ro cao có thể dẫn đến thất thoát vốn. Mặt khác, do tiền vốn của xí nghiệp còn đọng ở các khoản phải thu trong khi đó xí nghiệp vẫn phải huy động vốn cho sản xuất điều này dễ dẫn đến tăng chi phí do huy động vốn làm giảm lợi nhuận.
Để quản lý chặt chẽ các khoản phải thu đòi hỏi xí nghiệp khi tiêu thụ sản phẩm cần xác định bán chịu cho ai? Cần đánh giá tiềm năng của khách hàng trong khả năng thanh toán. Đồng thời có thể áp dụng chính sách chiết khấi hợp lý để khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh các khoản nợ tiền hàng. Bên cạnh đó cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa các khoản nợ tiền hàng, mở sổ theo dõi nợ phải thu, thường xuyên nắm vững và kiểm soát được tình hình nợ phải thu, các khoản nợ quá hạn và tình hình thu hồi nợ.
Xí nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng các chứng từ cần thiết để đối với các khoản nợ sắp đến kỳ thanh toán, thực hiện kịp thời các thủ tục và đôn đốc khách hàng thanh toán các khoản nợ đến hạn thanh toán. Chủ động áp dụng các biện pháp thích hợp để thu hồi nợ quá hạn. Khi phát sinh các khoản nợ khó đòi cần phân tích, đánh giá tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục để hạn chế tổn thất.
Hai là: Quản lý, đánh giá chính xác, các khoản dự trứ, tồn kho để mức tồn kho dự trứ phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh. Thường xuyên kiểm kê, đánh giá lại vật tư hàng hoá để tránh mất mát, hao hụt, mất phẩm chất dẫn đến ứ đọng. Đối với các vật tư, sản phẩm nếu đã thấy có dấu hiệu kém, mất phẩm chất cần có biện pháp giải phóng ngay để thu hồi vốn tránh bị mất quá nhiều. Tiêu thụ nhanh những sản phẩm có chiều hướng bị lạc hậu về công nghệ.
Như ở phần thứ ba đã trình bày: vật tư, sản phẩm của xí nghiệp hiện đang ứ đọng không có khả năng tiêu thụ trị giá gần bằng 1.126.812.000 đồng, nên xí nghiệp cần có chính sách hợp lý để tiêu thụ nhanh số vật tư, hàng hoá này. Việc tiêu thụ này có thể chỉ thu hồi được rất ít vốn so với giá trị trên sổ sách nhưng cũng nên làm bởi càng để lâu số vật tư, sản phẩm này càng hư hỏng và có thể không thu hồi được số tiền nào.
Ba là: Quản lý tốt vốn bằng tiền khi chưa sử dụng đến không nên để tồn quỹ tiền mặt với số tiền lớn mà nên gửi vào tài khoản của xí nghiệp taị ngân hàng. chỉ đề tồn quỹ tiền mặt ở mức tối thiểu. Thường xuyên đối chiếu, kiểm quỹ để tránh nhầm lẫn, thất thoát... trong thời gian tới cần xây dựng nguyên tắc chi tiêu bằng tiền mặt, quản lý chặt chẽ các khoản tạm ứng xác định rõ đối tượng, thời gian phải hoàn tạm ứng, khi gửi có khoản tiền mặt chưa sử dụng đến vào tài khoản của xí nghiệp tại ngân hàng sẽ giúp xí nghiệp có được sự an toàn hơn trong quản lý tiền tệ, đồng thời sẽ mang lại số tiền lãi nhất định.
Ngoài ra, đối với các khoản tiền tạm thời chưa sử dụng đến xí nghiệp có thể đầu tư ngắn hạn, đầu tư tạm thời để có thể góp một phần lợi nhuận cho hoạt động của xí nghiệp.
Bốn là: đối với các tài sản cố định không cần dùng cho sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp cần có hướng cho thuê hoặc cải tạo, lại công năng để tận dụng công suất máy móc thiết bị. Nếu thấy không thể cho thuê hoặc không thể cải tạo được thì xí nghiệp cần nhanh chóng thanh lý để tạo vốn cho tái sản xuất. Hiện tại, số máy móc thiết bị của xí nghiệp không cần dùng và chờ thanh lý tương đối nhiều do được đầu tư từ thời kỳ bao cấp nên đến nay không còn phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Số máy móc thiết bị không cần dùng có giá trị 6 tỷ đồng - đây là số tiền tồn đọng rất lớn so với tổng tài sản của xí nghiệp. Xí nghiệp cần thanh lý nhanh để thu hồi phần nào tiền vốn cho sản xuất. Mặt khác, số thiết bị này càng để lâu càng lạc hậu công nghệ, hư hỏng nên càng mất giá do đó xí nghiệp càng nên nhanh chóng xử lý.
Năm là: tìm thêm các biện pháp huy động vốn cho sản xuất, trong nước năm vừa qua xí nghiệp đã vừa vay vốn ngân hàng, vừa vay vốn của cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp để phục vụ sản xuất kinh doanh. ở thời điểm hiện nay, xí nghiệp nên chú trọng tới việc huy động vốn trong cán bộ công nhân viên với lãi suất vay bằng với lãi suất vay ngắn hạn Ngân hàng và đã được nhiều cán bộ công nhân viên hưởng ứng cho vay với số tiền tương đối lớn. Điều này vừa mang lại thu nhập thêm cho cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp vừa đơn giản trong thủ tục vay. Mặt khác, người công nhân khi mang lại đồng vốn của mình cho xí nghiệp vay sẽ có lòng tin hơn với việc sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, tạo phấn khích cho sản xuất. Mặt khác, xí nghiệp nên thí điểm cổ phần hoá từng bộ phận sản xuất trong xí nghiệp để tạo chủ động hơn cho việc huy động vốn, sản xuất kinh doanh của bộ phận sản xuất được cổ phần. Từ đó tiến dần từng bước trong cổ phần hoá các bộ phận sản xuất khác trong xí nghiệp.
Trên đây là một số giải pháp trong việc phát huy hiệu quả sử dụng vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng của xí nghiệp. Nhưng để các giải pháp của xí nghiệp có thể thực hiện được và xí nghiệp chủ động phát huy hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, ở góc độ Nhà nước cũng cần có những cơ chế phù hợp nhằm tháo gỡ bớt khó khăn cho xí nghiệp.
Phần thứ năm
Kiến nghị và kết luận
5.1. Kiến nghị.
Để xí nghiệp thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, xí nghiệp cũng kiến nghị với Nhà nước và các ban ngành chức năng một số yêu cầu cần được tháo gỡ. Nhưng kiến nghị cơ bản là:
- Như ở phần trên đã trình bày: xí nghiệp có lượng sản phẩm, vật tư ứ đọng từ thời kỳ chế thử sản phẩm, từ những năm bao cấp sản xuất theo kế hoạch và kim xuất khẩu tồn tại từ quá lâu trị giá gần bằng 1.126 triệu đồng. Số vật tư thành phẩm này nếu bán thì khả năng sẽ thu hồi vốn được rất í nên sẽ dẫn đến lỗ hàng tỷ đồng nếu bán thanh lý số vật tư, sản phẩm trên. Nhưng nếu không bán thanh lý thì có thể sẽ hỏng hết không thể thu hồi được phần vốn nào. Do đó xí nghiệp đề nghị Nhà nước cho bán thanh lý phần lỗ do thanh lý sữ được ghi nhận để lấy phần lợi nhuận trước thuế của các năm, sau bù đắp dần.
- Công trình sản xuất kim ngâu tay của xí nghiệp hình thành từ nguồn viện trợ nhân đạo (nay tính là vốn ngân sách cấp) do đó chưa đánh giá đúng giá trị thực của tài sản so với giá trên sổ sách. Giá trên sổ sách quá cao so với giá trị thực (do trước kia là viện trợ nhân đạo nên phía xí nghiệp chỉ nhận hiện vật, sau đó phía bạn thông báo giá trị của lô hàng) nên để giao vốn cho xí nghiệp được chính xác hơn cần có kiểm định lại về giá, về độ lạc hậu công nghệ... Bên cạnh đó, có nhiều thiết bị không cần dùng nên Nhà nước cần cho khoanh lại không tính thuế vốn đối với số tài sản này. Trong những năm vừa qua sau khi nộp thuế lợi tức xí nghiệp hầu như không còn lợi nhuận sau thuế để trích các quỹ vì phải nộp thuế vốn theo Nghị định 59 của Chính phủ. Nếu được khoanh lại phần TSCĐ không dùng thì sau khi nộp thuế vốn (loại trừ phần thuế đối với các TSCĐ khoanh lại) xí nghiệp sẽ còn một phần để trích các quỹ, trong đó có quỹ đầu tư và quỹ dự phòng cho rủi ro.
- Từ năm 1999 Nhà nước áp dụng luật thuế giá trị gia tăng các sản phẩm cơ khí của xí nghiệp chịu mức thuế suất 10% trong khi giá bán sản phẩm của xí nghiệp không tăng được so với thuế doanh thu cũ sản phẩm của xí nghiệp chỉ chịu thuế suất 2% thì mức thuế mới của xí nghiệp quá lớn. Điều này ảnh hưởng nhiều đến doanh thu thuần của xí nghiệp dẫn đến lợi nhuận của xí nghiệp cũng bị giảm theo. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về thuế đối với các sản phẩm thuộc ngành cơ khí.
Mặt khác, việc sản xuất kim chủ yếu là tiền lương công nghệ, giá trị vật tư trong giá thành sản phẩm rất ít nên số thuế được khấu trừ cũng ít. Sau khi khấu trừ thuế đầu vào, phần thuế phải nộp của xí nghiệp chiếm khoảng 6,0% - 6,5% so với doanh thu, tỷ lệ này quá cao so với mức thuế suất thuế doanh thu cũ là 2%. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp để xí nghiệp có thể có tiền cho tái sản xuất (vì số tiền thuế phải nộp quá cao).
- Sản phẩm của xí nghiệp bị kim ngoại tràn voà bằng nhiều luồng với giá bán rẻ 9chất lượng kim ngoại kém nhiều so với kim của xí nghiệp), đồng thời có nhiều sản phẩm của xí nghiệp bị bên ngoài làm giả, bao bì để bán với giá nhãn mác giống của xí nghiệp. Nhà nước cần có chính sách bảo hộ đối với hàng sản xuất ở trong nước để tránh các sản phẩm kim của nước ngoài được nhập lậu mang vào cạnh tranh với giá rẻ (do chốn được thuế) và giả danh sản phẩm của xí nghiệp.
Trên đây là một số kiến nghị với Nhà nước nhằm tháo gỡ bớt một phần khó khăn cho xí nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
5.2. Kết luận.
Quản lý và sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và bảo toàn phát triển vốn lưu động trong các doanh nghiệp quốc doanh là vấn đề hết sức cần thiết trong tình hình kinh tế quản lý tài chính hiện hay khi Nhà nước đã thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý. Trong điều kiện hiện nay, việc sản xuất kinh doanh cũng như bảo tòn vốn của các doanh nghiệp hết sức khó khăn do tính cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Mở rộng quyền làm chủ đồng thời, cũng tăng thêm trách nhiệm của các doanh nghiệp trước diễn biến phức tạp và tình hình cạnh tranh gay gắt của thị trường buộc các doanh nghiệp phải quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sử dụng của mỗi đồng vốn đưa vào sử dụng.
Nhìn chung, quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh tại Xí nghiệp Kim Hà Nội chưa lớn lắm nhưng ta có thể nhận xét là xí nghiệp Kim Hà Nội đã biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Lợi ích trước mắt hiện nay còn chưa cao lắm nhưng theo đuổi lợi ích lâu dài thì có thể đảm bảo sự tích luỹ đủ lực và điều kiện để có những bước tiến xa hơn sau này là: phát triển hiệu quả - ổn định - bền vững.
Sau những giải pháp và kiến nghị được đề ra để giải quyết những tồn tại trong công tác đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp Kim Hà Nội. Nếu được áp dụng và thực hiện sẽ mang lại những hiệu quả nhất định và rất có ý nghĩa không chỉ đối với xí nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với nền kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Quản trị tài chính doanh nghiệp của PTS Vũ Duy Hoàn - Đàm Văn Huệ - Thạc sỹ Nguyễn Quang Ninh - NXB Thống kê năm 1997.
2. Tạp chí tài chính các số liên tiếp từ năm 1999 đến tháng 6 năm 2001 - NXB Tài chính.
3. Tài chính trong nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển của Việt Nam của GS Võ Đình Hảo - Nguyễn Công Nghiệp - NXB Pháp lý năm 1991.
4. Các văn bản về chế độ tài chính hiện hành.
5. Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và Thuyết minh báo cáo tài chính của Xí nghiệp Kim Hà Nội các năm 1999, 2000, 2001.
6. Một số tài liệu, giáo trình khác trong quá trình học tập tại trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội.
Lời cảm ơn
Trong thời gian thực tập tại xí nghiệp Kim Hà Nội với sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, các bác, các anh, chị phòng ban tại Xí nghiệp đã giúp tôi hoàn thành báo cáo thực tập này. Qua trang giấy trắng này tôi xin.
Chân thành cảm ơn thầy cô giáo Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội đã trang bị cho em những kiến thức vô cùng quý báu.
Chân thành cảm ơn thầy Dương Văn Hiếu đã hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và viết báo cáo.
Chân thành cảm ơn Ban giám đốc xí nghiệp Kim Hà Nội đã tạo điều kiện tốt cho tôi trong suốt thời gian thực tập.
Với thời gian thực tập ngắn ngủi cùng với sự hiểu biết còn hạn hẹp của bản thân chắc chắn báo cáo thực tập còn nhiều hạn chế và sai sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến chỉ dẫn thêm của các thầy cô, các bác các anh chị và các bạn trong Xí nghiệp Kim Hà Nội.
Mục lục
Trang
Phần thứ nhất - đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 2
1.2.1. Mục tiêu chung 2
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu 2
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
Phần thứ hai - Tổng quan tài liệu
2.1. Cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn lưu động 4
2.1.1. Một số khái niệm 4
2.1.2. Phân loại vốn lưu động 9
2.1.3. Vai trò của vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh 10
2.1.4. Chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sử dụng vốn lưu động.. 10
2.1.5. Đặc điểm sử dụng vốn lưu động 13
phần thứ ba - địa bàn và phương pháp nghiên cứu
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 18
3.1.1. Tình hình chung của xí nghiệp Kim Hà Nội 19
3.1.2. Tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Kim Hà Nội trong ba năm 1999, 2000, 2001 23
3.2. Phương pháp nghiên cứu 28
3.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 28
3.2.2. Phương pháp phân tích 28
3.2.4. Phương pháp dự báo 29
Phần thứ tư - kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Tình hình chung về nguồn vốn dùng trong sản xuất kinh doanh của xí nghiệp 30
4.2. Thực trạng sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp Kim Hà Nội 32
4.2.1. Thực trạng sử dụng vốn lưu động dùng trong sản xuất 34
4.2.2. Vốn lưu động trực tiếp sản xuất 35
4.2.3. Vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh 35
4.2.4. Thực trạng vốn lưu động dùng trong phân phối sản phẩm (tiêu thụ sản phẩm) 36
4.2.5. Đánh giá chung về tình hình sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp Kim Hà Nội 39
4.2.6. Kết quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp 42
4.2.7. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp 44
4.3. Đánh giá và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội 48
4.3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp Kim Hà Nội trong thời gian tới 48
4.3.2. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở xí nghiệp Kim Hà Nội 49
phần thứ năm - kiến nghị và kết luận
5.1. Kiến nghị 57
5.2. Kết luận 59
Tài liệu tham khảo 60
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12087.DOC