Đề tài Ô nhiễm sông Mêkông do thủy điện

Tài liệu Đề tài Ô nhiễm sông Mêkông do thủy điện: ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG KHOA CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BÀI TẬP VỀ NHÀ MÔN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Chủ đề Ô NHIỄM SÔNG MÊKÔNG DO THỦY ĐIỆN Lớp K13M Nhóm: 13Gồm các SV: SV1: LÊ THỊ LỆ THU SV2: NGHUYỄN LÊ PHƯƠNG UUYÊN SV3: HUỲNH THỊ MĨ TRANG SV4: NGUYỄN TIẾN THÀNH SV5: HỒ NGỌC TOÀN TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 NĂM 2010 Phần 1 GIỚI THIỆU 1.1 BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU Sông Mekong là một trong mười con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng có chiều dài hơn 4.800 km, diện tích lưu vực 795.000 km2, lưu lượng dòng chảy trung bình hàng năm khoảng 15.000 m3/s và tổng lượng dòng chảy hàng năm 475 tỷ m3 tại châu thổ, chảy qua lãnh thổ của 6 quốc gia là Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.  Đây là nơi sinh sống của trên 65 triệu người và có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế của các nước ven sông. Lưu vực sông Mekong có tiềm năng thuỷ điện rất lớn và phát triển thuỷ điện ở khu vực này có khả năng sẽ ...

doc24 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Ô nhiễm sông Mêkông do thủy điện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC DÂN LẬP VĂN LANG KHOA CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BÀI TẬP VỀ NHÀ MÔN ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG Chủ đề Ô NHIỄM SÔNG MÊKÔNG DO THỦY ĐIỆN Lớp K13M Nhóm: 13Gồm các SV: SV1: LÊ THỊ LỆ THU SV2: NGHUYỄN LÊ PHƯƠNG UUYÊN SV3: HUỲNH THỊ MĨ TRANG SV4: NGUYỄN TIẾN THÀNH SV5: HỒ NGỌC TOÀN TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 NĂM 2010 Phần 1 GIỚI THIỆU 1.1 BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU Sông Mekong là một trong mười con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng có chiều dài hơn 4.800 km, diện tích lưu vực 795.000 km2, lưu lượng dòng chảy trung bình hàng năm khoảng 15.000 m3/s và tổng lượng dòng chảy hàng năm 475 tỷ m3 tại châu thổ, chảy qua lãnh thổ của 6 quốc gia là Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.  Đây là nơi sinh sống của trên 65 triệu người và có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế của các nước ven sông. Lưu vực sông Mekong có tiềm năng thuỷ điện rất lớn và phát triển thuỷ điện ở khu vực này có khả năng sẽ tăng lên đáng kể trong những thập kỷ tới. Có 2 xu thế quan điểm về xây dựng các đập thủy điện trên song Mekong. Những người ủng hộ cho là con người ngày càng đông, kinh tế ngày càng phất triển, mọi nhu cầu cho con người và cho phát triển kinh tế đều cần nước, do đó phải xây dựng đập thủy điện là loại năng lượng sạch, tái tạo được, đập có tác dụng để trữ nước, phát điện, cắt lũ và điều tiết nước trong mùa khô cho hạ lưu. Những người phản đối xây đập thủy điện ngày càng gia tăng, lên án mạnh mẽ việc xây dựng dập thủy điện sẽ làm ngập đất, rừng, dân cư phải di dời, làm thay đổi chế độ dòng chảy và môi trường sinh thái. Xét về dòng chảy mùa kiệt, mùa lũ và tổng lượng nước hàng năm từ lưu vực sông Lancang (thượng nguồn sông Mekong) tính đến biên giới Trung Quốc chiếm khoảng 1/4, 1/5 và 1/6 lần dòng chảy mùa kiệt, mùa lũ và tổng lượng nước hàng năm sông Mekong tại Kretia. Các nguy cơ về môi trường và bảo tồn thiên nhiên từ các vùng hạ lưu từ các dự án thủy điện trên dòng chính sông Mekong gồm: Nguy cơ đối với tài nguyên sinh học và hệ sinh thái vùng hạ lưu; Các nguy cơ về tài nguyên và môi trường nước vùng hạ lưu; Ảnh hưởng đến nền kinh tế; Các hiệu ứng cộng hưởng tác động tiêu cực. Như vậy việc khai thác sử dụng tiềm năng thủy điện tại thượng nguồn sông Mekong chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến lượng nước, lượng điện, nông nghiệp, thủy sản, giao thông thủy và môi trường sinh thái vùng hạ lưu sông Mekong, nhất là đối với các nước Lào, Thái Lan, Campuchia và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đất nước ta đang đi vào con đường hội nhập, đòi hỏi phải có chiến lược phát triển chủ động, bền vững, trước mắt cũng như lâu dài. Để phát triển kinh tế - xã hội đúng hướng đòi hỏi phải xây dựng chiến lược phát triển các ngành, các lĩnh vực, trong đó có chiến lược quản lý tài nguyên nước và lưu vực sông. ĐBSCL chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Sản lượng nông nghiệp của ĐBSCL chiếm trên 50% cả nước, riêng lương thực xuất khẩu 90%, cây ăn trái và thuỷ sản khoảng 70% so với cả nước lại nằm hạ nguồn sông Mekongcho nên mọi tác động ở thượng nguồn như xây đập, lấy nước phát triển nông nghiệp đều ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nước ta. Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng kinh tế phát triển năng động của đất nước, đang đối mặt với nguy cơ dâng cao mực nước biển và biến đổi khí hậu; việc triển khai xây dựng các con đập và nhà máy thuỷ điện trên dòng chính của sông Mê Kông sẽ càng cho môi trường sống trở nên khắc nghiệt, đe dọa sự phát triển kinh tế và an toàn môi trường của hàng triệu người dân. 1.2 ĐỊA ĐIỂM, KHU VỰC NGHIÊN CỨU 1.2.1 Địa Điểm Dự án xây dựng đập thủy điện trên thựợng nguồn sông Mekong. 1.2.2 Khu Vực Nghiên Cứu Vùng Đồng bằng sông Cửu Long ( ĐBSCL). 1.3 Vấn Đề Quan Tâm Ảnh hưởng của việc xây dựng đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong đối với ĐBSCL. 1.4 Nội Dung Trình Bày Phần I: Giới thiệu Phần II: Xây dựng đề cương nghiên cứu chi tiết Phần III: Sơ bộ trình bày các nội dung nghiên cứu chính Phần II XÂY DỰNG ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU 2.1 Tên đề tài nguyên cứu Ô nhiễm sông Mekong do thủy điện 2.2 Cơ quan quản lý Cục quản lý tài nguyên nước 2.3 Các cơ quan phối hợp - Sở Tài nguyên môi trường các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - Ủy Ban Nhân Dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 2.4 Tình hình nguyên cứu 2.4.1 Trong nước Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng của sản xuất nông nghiệp là việc sử dụng một cách “vô tội vạ” thuốc bảo vệ thực vật, trong đó có nhiều loại hiện đã bị cấm đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước. Kết quả khảo sát nước tại các khu vực nuôi trồng thủy sản và các kênh rạch tại 7 điểm thuộc tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng, Bến Tre cho thấy, tất cả các mẫu nước đều tồn tại thuốc bảo vệ thực vật, trong đó đến 70% số mẫu có dư lượng vượt mức quy định (Phạm Hồng Thái, thảm họa môi trường sông Mekong đến gần). Như một ảnh hưởng tất yếu của sự phát triển, những năm gần đây hiện tượng ô nhiễm môi trường nước sông ở Đồng Bằng Sông Cửu Long đang gia tăng một cách đáng báo động. Nguyên nhân là do sự đa dạng về dân cư mà tính chất nguồn thải, tập quán sinh hoạt cũng như thói quen hoạt động sản xuất và cả tình hình phát triển kinh tế rất phức tạp; Khảo sát trên dòng Mê Kông, các nhà nghiên cứu còn bắt gặp các cơ sở chế biến, xay xát lúa đổ luôn trấu xuống sông, làm cản trở lưu thông và ô nhiễm nguồn nước... Ở Việt Nam, toàn bộ các nhà máy thủy điện đều xây đập, nên các khu cư trú dạng sông bị thay thế bởi các khu cư trú dạng hồ. Vì vậy, các khu cư trú cho các loài động vật hoang dã trên mặt đất hoặc của các sinh vật sống trong nước sẽ bị mất đi hoặc bị chuyển đổi khi nước dâng làm ngập những đoạn sông dài. Vấn đề lớn nhất là các đập thủy điện ngăn chặn sự di cư dọc dòng sông của nhiều loài cá. Việc xây dựng các đập thủy điện còn gây ra những ảnh hưởng không có lợi đến chất lượng nước dưới nhiều góc độ khác nhau. Việc thu dọn bớt cây cối, giải phóng mặt bằng sẽ làm tăng tốc độ xói mòn, tăng sự bồi lắng tại lòng hồ, các nhánh sông suối trên lưu vực, thậm chí gây tắc các dòng suối nhỏ (một sô vấn đề môi trường của các dự án thủy điện, trường đại học Thủy lợi). Việc nước tràn qua đập tràn sẽ làm cho nước tăng, thậm chí tăng đến mức bão hòa lượng bọt khí lấy từ không khí. Các bọt khí không có lợi cho cuộc sống của cá. Đối với những khu vực có lưu lượng nước về thấp trong mùa khô, nước sẽ bị phân tầng nhiệt độ. Nước bề mặt ấm, nước tầng đáy lại quá lạnh. Do nước tầng đáy cách biệt hẳn với bề mặt thoáng, không được sục khí nên chúng mất dần lượng ôxi hòa tan. Trong điều kiện nước lạnh, lượng ôxi hòa tan thấp những loài cá sống ở tầng đáy không sống được. Khi nước ở tầng đáy được chảy qua tua bin, hàm hượng ôxi hòa tan vẫn thấp, điều này dẫn đến việc nước ở hạ lưu cũng không đủ điều kiện cho sinh vật thủy sinh sinh sống. Khu vực đáy hồ, trong điều kiện thiếu ôxi sẽ làm cho quá trình hòa tan các kim loại nặng có trong sỏi, đá tăng lên. Các kim loại này sau đó sẽ theo nước xuống hạ lưu và gây ra các tác động khác. Ở Việt Nam hiện nay, cơ quan quản lý Nhà nước về tài nguyên nước yêu cầu các chủ đầu tư phải xin cấp phép sử dụng nước. Kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, trong quá trình thu thập thông tin để xem xét việc cấp giấy phép sử dụng nước có nhiều vấn đề phát sinh. Các đập đa mục tiêu có nhiều điểm mạnh nhưng cũng có rất nhiều điểm yếu. Đó là các bên liên quan đều mong muốn thu được nhiều lợi ích nhất từ việc sử dụng hồ chứa. Những chủ đầu tư xây dựng các công trình ven hồ chứa luôn luôn gặp phải sự phản đối của các nhà bảo tồn thiên nhiên muốn duy trì những khu vực có rừng để bảo tồn các loài động vật hoang dã. Một mâu thuẫn muôn thuở khác nảy sinh với chủ đầu tư nhà máy thủy điện khi người ta muốn trích một lượng nước ra để phục vụ cho các nhu cầu công, nông nghiệp. Hay để đạt được mục đích chống lũ, người ta phải xả bớt nước để lấy chỗ chứa nước lũ nhưng cơ quan làm du lịch lại không muốn hạ mức nước xuống trong mùa du lịch làm xấu cảnh quan và không sử dụng được một số cơ sở hạ tầng cho du lịch... Để giải quyết vấn đề này cần đặt ra những quy định thống nhất trong cách trữ nước, xả nước để làm sao ở mức tối đa dung hòa được lợi ích của các bên. Việc duy trì dòng chảy tối thiểu xuống hạ du (dòng chảy môi trường) cũng là một vấn đề cần xem xét, cân nhắc trong quá trình cấp giấy phép sử dụng nước. Nếu như dòng chảy này quá thấp sẽ không duy trì được sự sinh tồn của các loài thủy sinh. Tùy thuộc vào vị trí của đập, dòng chảy này còn phải cung cấp đủ nước cho các nhu cầu dân sinh tại hai bên bờ sông phía hạ lưu (giao thông thuỷ, nuôi thủy sản, lấy nước tưới tiêu...). Dòng chảy môi trường phải được điều chỉnh để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan. “Sẽ xảy ra thảm họa trong thời gian không xa, nếu cứ tiếp tục như hiện nay. Hàng triệu cư dân Đồng Bằng Sông Cửu Long nước ta sẽ gánh chịu, nếu chúng ta không nhanh chóng có biện pháp thích hợp”. Đó là nhận định của hầu hết các các chuyên gia về môi trường trong Hội thảo về bảo vệ sông Mê Kông vừa diễn ra tại TP.Hồ Chí Minh. 2.4.2 Ngoài nước Thủy điện là một ngành công nghiệp không thể thiếu đối với mọi quốc gia , nó là một trong những ngành công nghiệp sản xuất ra điện năng để phục vụ cho nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên việc ngăn dòng chảy để làm nhà máy thủy điện không những gây tác động rất lớn đến vấn đề môi trường mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân sống xung quanh nó. Ở các nước trên thế giới việc xây dựng nhà mấy thủy điện phải được xem xét, và cân nhắc trước khi đưa dự án vào thực hiện.Sau đây là dẩn chứng về một số nước điển hình. a. Đối với Trung quốc Trung Quốc có ý định phát triển thuỷ điện trên sông Mekong (nước này gọi là sông Lan Thương) tại Vân Nam cũng như làm một tuyến đường thuỷ chính nối Vân Nam tới Biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Hoa Nam) với khoảng cánh khoảng 2.500km. Kế hoạch đó đặt ra những vấn đề chưa từng thấy về môi trường và xã hội với các nước thuộc hạ nguồn sông Mekong như Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Sự suy giảm sinh thái trầm trọng với sông Mekong từ dự án là điều được biết trước. Campuchia và Việt Nam, hai nước xa nhất ở hạ nguồn sẽ không còn hưởng lợi ích từ Mekong, đồng thời phải trải qua ảnh hưởng tiêu cực tồi tệ nhất từ dự án trên, đặc biệt là Biển Hồ của Campuchia cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. (Tyson R. Roberts (Tiến sĩ, Đại học Stanford 1968) nghiên cứu ngư học tại lưu vực sông Mekong) Bản thân Trung Quốc cũng sẽ không tránh khỏi tác động bất lợi từ dự án trên. Quan ngại đặc biệt là vấn đề trầm tích của các hồ chứa thuộc đập thuỷ điện Lan Thương; lở đất xảy ra sẽ thường xuyên hơn, lớn hơn cũng như nhiều hậu quả khác mà các đập và hồ chứa gây ra. Tuổi thọ thực tế của các đập thuỷ điện trên dòng Lan Thương dường như sẽ chỉ là vài chục năm thay vì một trăm năm như các nhà đề xuất dự án dự báo và mong muốn. Theo các nhóm môi trường và chuyên gia, do các đập nước xây dựng ở những hẻm núi dốc đứng tại Vân Nam, Trung Quốc nhằm sản xuất điện cho nước này, mực nước ở sông Mekong đang tăng và giảm tới 1m/giờ, xáo trộn môi trường sống của cá, xói mòn bờ sông, cuốn trôi trầm tích và dinh dưỡng khi nó chảy về phía Nam. Dự án cung cấp điện “các đập thủy điện Lan Thương” do Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đưa ra sẽ cho phép điều chỉnh lưu lượng nước vùng hạ du và cuối cùng là phát triển toàn bộ sông Mekong cho vận chuyển đường thuỷ. Lợi ích của dự án thuỷ điện - đường thuỷ với các nước vùng hạ nguồn đòi hỏi việc khảo sát, xem xét thận trọng.Người dân địa phương và các nước vùng hạ du phản đối dự án đập thuỷ điện ,tuyến đường thuỷ ngày một gia tăng khi những thị trấn ven sông ở Myanmar, Lào, Thái Lan đã là nơi sớm nhất đã nếm trải những tác động tiêu cực rõ ràng từ việc xây hệ thống đập vùng thượng nguồn Mekong.Ảnh hưởng tiêu cực về môi trường và xã hội là quan ngại lớn nhất. Sáu hoặc bảy đập thuỷ điện, với độ cao từ 110-300 mét xây dựng trên dòng chính của sông Mekong (sông Lan Thương) ở tỉnh Vân Nam sẽ sản xuất điện vào năm 2020. Những đập này sẽ là mối đe doạ với sinh kế, tài sản, cuộc sống của mọi người dân các nước vùng hạ du. Với diện tích và sức chứa khổng lồ của các hồ chứa, hai đập cao nhất (254 và 300 mét) đặc biệt mang lại nguy cơ lớn nhất. Hiệu ứng “domino” (tác động lôi kéo) của chúng gây nguy hiểm cho toàn bộ hệ thống. Chưa kể việc chặt cây, đốt rừng làm nông nghiệp, xây dựng đường sá sẽ làm gia tăng tỉ lệ xói mòn của các hẻm núi dốc đứng mà sông chảy qua phía trên các đập. Động đất thường xuyên và ngày một lớn, lở đất, cùng hàng loạt nguy cơ nghiêm trọng với đập Lan Thương, có lẽ cũng gia tăng. Lở đất:Nguy cơ này được công nhận là phổ biến nhất. Đập Tiểu Loan cao 300 mét với hồ chứa dài 169km dự kiến hoàn thành và bắt đầu chứa nước vào năm 2010. Đập Nuozhadu cao 254 mét (hồ chứa nước dài 226km) dự kiến hoàn thành sớm nhất vào năm 2017. Ước tính mỗi hồ tại đập cần ít nhất 10 năm để chứa đủ lượng nước cao 248m và 205m tương ứng.Hiện tại, hệ sinh thái Mekong trong điều kiện tương đối “lành mạnh”.  Xây dựng hệ thống đập ở dòng chảy chính vùng thượng nguồn Lan Thương cũng như mạng lưới đường thuỷ sẽ làm tổn thất về mặt môi trường, làm giảm giá trị nghiêm trọng của sinh thái học. Việc tách trầm tích thượng nguồn và các chất dinh dưỡng trong các hồ chứa cũng như “điều khiển” dòng chảy trên cơ sở kiểm soát lượng nước thoát ra từ các đập thuỷ điện sẽ gây ra những tác động tiêu cực chính. Thuỷ năng tự nhiên của dòng sông bị giảm đi, xả nước không đúng quy luật liên quan tới phát điện cũng như những thay đổi tổng thể khác sẽ có hại tới quá trình đơn giản hoá sinh thái học, sụt giảm giá trị sinh thái sông Mekong. Tác động môi trường sẽ không riêng lẻ mà là tổng thể, tích luỹ. Tổn thất to lớn về mặt sinh học chỉ là một trong những hậu quả nghiêm trọng được dự báo. Sẽ không chỉ là việc mất đi một số loài sinh vật đặc biệt, mà còn là những hậu quả bất lợi với con người cũng như thực trạng sụt giảm về số lượng rất nhiều loài cá di trú vốn đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp đánh bắt cá ở sông Mekong. Thuỷ năng tự nhiên là thuộc tính cốt lõi của sông. Hiệu suất, sức khoẻ và sự duy trì của một con sông cũng như các thuộc tính đặc biệt của môi trường sống ven sông như vùng thác ghềnh, cửa sông, châu thổ đều liên quan trực tiếp tới thuỷ năng tự nhiên. Nó vận chuyển trầm tích và chất dinh dưỡng hạ nguồn, cung cấp nước và phù sa cho những đồng bằng châu thổ lớn, bổ sung nước ngầm và nâng cao năng suất, sự màu mỡ của đất. Trong khi các tác động tiêu cực sẽ xảy ra với tất cả các nước có sông Mekong bao gồm cả Trung Quốc, thì hậu quả tồi tệ nhất sẽ là những quốc gia vùng hạ nguồn cách xa nhất với khu vực thượng nguồn: Campuchia và Việt Nam - nước hưởng lợi ít nhất và chịu tổn thất nhiều nhất. Tác động tiêu cực từ sự thay đổi sông Mekong của Trung Quốc bao gồm ảnh hưởng với nghề cá, nông nghiệp, chất lượng nước, sức khoẻ và lâm nghiệp. Những thành phố, trung tâm cư dân lớn ở bên bờ Mekong tại Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam sẽ là “tâm điểm” của nhiều tác động về mặt vật lý học như xói mòn, lũ lụt bởi hệ thống đập thuỷ điện Lan Thương. Tạo ra một tuyến đường thuỷ thích hợp ở sông Mekong sẽ liên quan tới việc di dời đá ngầm, các bãi cát cửa sông, đảo và nhiều thay đổi to lớn khác của lòng sông cũng như dòng chảy. Việc bảo trì tuyến đường yêu cầu liên tục nạo vét sông trên diện rộng. Ảnh hưởng riêng từ tuyến đường thuỷ với khu vực hạ nguồn là suy giảm trầm trọng môi trường sống của các loài cá cũng như chất lượng nước. Giao thông đường thuỷ tấp nập chắc chắn để lại hậu quả ô nhiễm với cộng đồng ven sông cũng như năng suất mùa màng gieo trồng, cá và các sinh vật khác sinh sống tại sông Mekong. Khơi dòng Mekong nhằm tối đa hoá khả năng vận chuyển đường thuỷ - mục đích rõ ràng của người Trung Quốc - sẽ làm giảm khả năng cản dòng của toàn bộ dòng chảy chính sông Mekong khu vực dưới Vân Nam. Nước sẽ chảy nhanh hơn ra biển, gây mất khả năng trữ nước. Hậu quả là khiến lượng nước thoát đi trong dòng chính của Mekong lớn hơn bao giờ hết, trong cả mùa khô lẫn mùa mưa. Nguy cơ lụt lội gia tăng (kể cả lũ quét), hạn hán thêm trầm trọng. Khả năng trữ nước giảm cũng là nguyên nhân gây ra những thay đổi lớn với hệ sinh thái của sông và giảm năng suất nông nghiệp. Tỉnh Vân Nam – khu vực xây dựng hệ thống đập trên sông Lan Thương – đã phá rừng diện rộng từ năm 1950. Trung Quốc vẫn nỗ lực bảo vệ lưu vực sông của hệ thống đập Thuỷ điện Lan Thương bằng các đồn điền cây trồng nhưng tới nay, vẫn chưa nhìn thấy thành công. Biến Mekong thành một tuyến đường thuỷ là rất khó khăn vì lòng sông nhiều đá ngầm, kênh rạch nhỏ, vô số thác ghềnh và đảo. Tạo tuyến đường thuỷ trên phân khúc này sẽ lập tức “phơi bày” rừng cho chặt cây đốn gỗ với quy mô lớn. Những người đốn gỗ không ngại ngần tạo ra thêm nhiều đường sá và tìm tới nhiều nơi khác dọc theo khu vực sông để khai khẩn. Phá rừng trên diện rộng sẽ làm gia tăng tính bất thường của lượng mưa, làm trầm trọng hoá nạn lũ lụt, hạn hán vùng hạ du. b. Đối với Mỹ Các đập nước có giá trị lịch sử lâu đời ở Mỹ trong mọi lĩnh vực, từ giải trí và kiểm soát lũ lụt đến sản xuất điện. Các Đảng viên đảng Tự do thậm chí đã từng coi đó là dấu hiệu của phát triển và tạo cơ hội việc làm. Cựu chủ tịch Đảng Dân chủ Franklin Delano Roosevelt cũng từng xem việc xây dựng các đập nước như một phần quan trọng trong chiến dịch tranh cử Tổng thốngc của ông.  Nhưng những ưu ái dành cho các đập nước đã không còn. Báo cáo của Mạng lưới Sông ngòi Quốc tế (IRN) với tiêu đề “Lũ lụt và sự nóng lên toàn cầu” đã công bố các hồ chứa thải khoảng 4% tổng lượng khí cacbon trên trái đất, góp phần vào sự nóng lên toàn cầu. Theo bài viết ngày 12/6/2002, giám đốc chiến dịch của IRN, Patrick Mc Cully cho biết: “Ở các vùng khí hậu nhiệt đới, các hồ chứa thủy điện có thể là những kẻ phá hủy khí hậu, thậm chí còn tồi tệ hơn cả các nhà máy nhiệt điện.”  Hiện nay các tổ chức môi trường hiếm khi xem thủy điện là nguồn “năng lượng tái tạo” như gió và năng lượng mặt trời. Họ đang nỗ lực đấu tranh nhằm ngăn chặn việc xây dựng thêm các đập nước và các nhà máy thủy điện.  Tổ chức Sông ngòi Mỹ (American Rivers) cho biết có 460 đập nước đã bị dỡ bỏ trong vòng hơn 40 năm qua ở đất nước này. Trang web của tổ chức còn nhận định rằng con số sẽ còn nhiều hơn thế và sẽ có ít nhất 100 đập khác bị đưa vào diện dỡ bỏ hoặc nằm trong diện đặc biệt xem xét dỡ bỏ. Các tổ chức môi trường ở Mỹ đã sử dụng mọi phương thức hoạt động trong các chiến dịch đấu tranh phá bỏ đập nước, kể cả kiện cáo, và họ đã thu được những thành công đáng kể.  Hơn 600 đập nước đã bị dỡ bỏ ở Mỹ trong suốt thế kỷ XX và việc này vẫn tiếp tục tiến triển trong những năm gần đây. Việc dỡ bỏ các đập nước đang ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết. Năm 2000, bốn đập thủy điện trên hạ lưu sông Snake phía Bắc Thái Bình Dương đã trở thành một trong những tiêu điểm của chiến dịch tranh cử Tổng thống. Nhà máy thủy điện đầu tiên của Maine, đập Smelt Hill trên sông Presumpscot đã bị phá hủy năm 2002, 110 năm sau khi được xây dựng. Những đập thủy điện khác ở bang Geogia, Florida và nhiều bang khác cũng bị đóng cửa. Phân tích của Viện Thương mại và Truyền thông về các tin tức được đưa ra từ 1/1/2006 đến 31/1/2007 kết luận: giới truyền hình đã không hề tiết lộ bất kỳ thông tin nào về các chiến dịch đấu tranh phá bỏ đập thủy điện của các nhà môi trường. Trong khi đó, năm tờ báo hàng đầu của Mỹ - USA Today, The Wall Street Journal, The New York Times, The Washington Post và Los Angeles Times – đồng loạt đề cập đến cuộc tranh luận này trên 65 bài viết, trong đó Los Angeles Times dẫn đầu với 39 bài. Trong khi đó, không có một câu chuyện thảo luận nào về kế hoạch phá bỏ đập Klamath hay quyết định của Tòa án Tối cao về việc trao quyền quyết định cho các nhà môi trường, chứ không phải các chủ nhà máy năng lượng. Thậm chí, truyền hình còn coi các con đập của Mỹ như những thành tựu lớn. Chương trình “Chào buổi sáng nước Mỹ” ngày 27/10/2006 đề xuất nên đưa đập Hoover vào danh sách đề cử một trong bảy kì quan hiện đại thế giới. Gần như tất cả các chương trình không đề cập đến mối liên hệ giữa đập nước và phát điện. Trong khi các chính trị gia Mỹ tiếp tục thảo luận vấn đề “độc lập năng lượng”, những nhà môi trường học vẫn tích cực hoạt động nhằm phá bỏ các nguồn cung cấp năng lượng thủy điện. Tính cần thiết của đề tài Lưu vực sông Mekong hiện nay và trong tương lai giữ một vai trò quan trọng, không chỉ trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia ven sông, mà còn cả trong phát triển hợp tác kinh tế và chính trị trong khu vực. Nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực sông Mekong tại các nước ven sông sẽ ngày càng lớn và chắc chắn sẽ tăng đáng kể trong tương lai. Việc xây dựng đập sẽ làm chậm tốc độ dòng chảy tự nhiên của sông, làm bồi lắng một lượng phù sa lớn tại hồ, thay đổi động lực dòng chảy gây xói lở các đoạn sông hạ lưu. Đập chắn đường đi cho chu trình sinh sản đồng thời cũng làm thay đổi chế độ phù du, dinh dưỡng sông ảnh hưởng đến chu trình sinh sản và sinh trưởng của các loài cá, tác động đến sinh kế của người dân ven sông. Như vậy việc khai thác sử dụng tiềm năng thủy điện lưu vực sông Mêkong chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến lượng nước, lượng điện, nông nghiệp, thủy sản, giao thông thủy và môi trường sinh thái vùng hạ lưu sông Mekong. 2.5 Mục tiêu của đề tài Mục tiêu lâu dài: Khi xây dựng hồ chứa nước và nhà máy thuỷ điện thì sẽ phải trưng dụng vùng đất để ngập nước, gia cố bờ chắn sóng, đưa một số công trình và khu vực sinh hoạt cho cán bộ, công nhân xây dựng, xây dựng khu tái định cư cho người dân sinh sống từ trước ở khu vực hồ chứa nước... Những điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người và gây các tác động tiêu cực đến môi trường. Qua bài viết này chúng tôi muốn cảnh báo các vấn đề môi trường liên quan đến việc xây dựng các nhà máy thủy điện và các biện pháp giải quyết. Mục tiêu cụ thể: 1. Nêu các vấn đề môi trường gây ra khi xây dựng một nhà máy thủy điện: làm ngập đất, rừng, dân cư phải di dời, làm thay đổi chế độ dòng chảy, và môi trường sinh thái. 2. Phân tích các tác động tiêu cực - Gây thiệt hại nặng nề về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, giao thông vận tải và du lịch. - Hậu quả lâu dài của chúng đối với con người và hệ sinh thái của dòng sông. - Tác động đến chế độ thủy văn, làm ảnh hưởng đến sản lượng cá và các loài thủy sinh trên hạ lưu của sông Mê Công. - Đe dọa nghiêm trọng đến nguồn lợi thủy sản và khiến một số loài quý hiếm ở đây đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. 3. Đề xuất các biện pháp giảm thiểu và hạn chế việc xây dựng quá nhiều các nhà máy thủy điện trên sông Mê Công. 2.6 Các nội dung nghiên cứu chính 2.6.1 Thu thập, xử lý, phân tích, tổng hợp số liệu và thành phần về môi trường - Môi trường tự nhiên hạ lưu sông Mê Công, thuộc lãnh thổ của Việt Nam. + Vị trí địa lý (địa hình, địa chất, …) + Điều kiện tự nhiên (khí hậu,nhệt độ, độ ẩm, lượng mưa). - Điều kiện kinh tế - xã hội. + Tình hình dân cư, các hoạt động sống của con người có mối quan hệ trực tiếp đến sông Mê Công. + Hiện trạng của sông Mê Công hiện nay: việc phát triển thủy điện theo quy hoạch có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho môi trường sinh thái và nghề cá. 2.6.2 Khảo sát, xem xét tình hình xảy ra trên sông Mê Công - Khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình hạ lưu sông Mê Công hiện nay, phản ánh những thay đổi tiêu cực từ khi các nhà máy thủy điện được xây dựng một cách ồ ạt. - Đo mực nước qua các mùa để thấy lượng nước trên sông Mê Công đang giảm nhanh. - Nghiên cứu sự thay đổi chế độ thủy văn trên sông Mê Công. - Sự suy giảm về số lượng các loài thủy sinh, nguy cơ tuyệt chủng của một số loài cá quý hiếm. 2.6.3 Tác động của việc xây dựng nhà máy thủy điện trên sông Mê Công đến tự nhiên và cuộc sống của con người - Đánh giá tác động của việc xây dựng nhà máy thủy đến môi trường sinh thái lưu vực sông Mê Công. - Tác động đến chế độ thủy văn. - Tác động đến môi trường sống của thủy sinh vật trên sông. 2.6.4 Đề xuất các biện pháp để giảm thiểu các tác động - Đưa ra các công nghệ mới tạo ra năng lượng điện. - Ngày 14/3/2009, Liên minh Cứu Mekong đã bắt đầu một chiến dịch mới bảo vệ sông Mekong. - Quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý tổng hợp lưu vực sông -Thúc đẩy việc xây dựng cơ sở pháp lý của hợp tác quốc tế trong việc khai thác sử dụng các lưu vực sông quốc tế và quảng bá các nguyên tắc này nhằm thiết lập một hệ thống quốc gia cho các hoạt động khai thác nguồn nước - Theo dõi việc sử dụng nguồn nước sông quốc tế trong lãnh thổ Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, cụ thể là tại hai trạm chính ở Tân Châu và Châu Đốc. 2.7 Phương pháp nghiên cứu - Khảo sát thực tế, thu thập số liệu và lấy ý kiến của người dân. - Sử dụng phương pháp liệt kê để đánh giá tác động. - Phân tích, tổng hợp số liệu. - Tập hợp các số liệu đã có, so sánh xác định độ tin cậy của số liệu. - Khảo sát và phân tích các tác động có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người. - Đánh giá tổng hợp. 2.8 Dự toán kinh phí theo nội dung nghiên cứu NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Kinh phí dự kiến 1 Thu thập số liệu về Khí hậu, khí tượng thủy văn vùng dự án, khảo sát. Hiện trạng chất lượng không khí vùng dự án và chung quanh. Hiện trạng chất lượng nước vùng dự án và chung quanh. Hệ sinh thái cạn, hệ sinh thái nước. 500.000đ 1.000.000đ 500.000đ 500.000đ Cộng nội dung 1 2.500.000đ 2 3 Khảo sát quan trắc chi tiết tại vùng nghiên cứu và chung quanh 2.1 Chất lượng nước mặt, nước ngầm khu vực dự án : 15 mẫu ( các thông số hóa và vy sinh ) * 500.000đ/mẫu. 2.2 Khảo sát hệ sinh thái cạn. 2.3 Khảo sát hệ sinh thái nước. - Động vật phiêu sinh : 8 điểm x 250.000đ/mẫu - Thực vât phiêu sinh : 8 điểm x 250.000đ/mầu - Động vật đáy : 8 điểm x 300.000đ/mầu 2.4 Chất lượng không khí hiện trạng - Các thông số vi khí hậu ( to, độ ẩm, gió ) : 15 mẫu x 450.000đ/mẫu - Ổn, rung : 10 mẫu x 250.000đ/mẫu 2.5 Chất lượng bùn đáy ( các thông số) - 5 mẫu x 1.000.000đ/mẫu 2.6 Khảo sát nghiên cứu hiện trạng KT-XH vùng dự án các khu vực ven dự án. Nghiên cứu, đánh giá tác động của các hoạt động dự án tới MT 3.1 Đánh giá khả năng gây ô nhiễm nguồn nước từ khu vực dự án - Mô hình tính toán dự báo vi phạm, mức độ ảnh hưởng từ hoạt động thùy điện. 3.2 Đánh giá khả năng lang truyền khí thải và tiếng ồn, chấn động. 3.3 Đánh giá ảnh hưởng đến hệ sinh thái vùng dự án. 3.4 Đánh giá ảnh hưởng đến hệ thủy sinh. 3.5 Đánh giá ảnh hưởng đến KT-XH 7.500.000đ 5.000.000đ 2.000.000đ 2.000.000đ 2.400.000đ 6.750.000.đ 2.500.000đ 5.000.000đ 4.000.000 24.000.000đ 15.000.000đ 3.500.000đ 3.000.000đ 3.000.000đ Cộng nội dung 2 và 3 83.650.000đ 4 Nghiên cứu đề xuất các biện pháp khống chế; giảm thiểu tác động tiêu cực và quản lý môi trường 4.1 Đề suất các biện pháp khống chế ô nhiễm không khí, tiếng ổn, rung. 4.2 Các giải pháp bảo vệ, sử dụng và tái sử dụng nguồn nước. 4.3 Các giải pháp hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đến KTXH. 4.4 Các giài pháp phòng chống sự cố môi trường. 4.5 Đề xuất chương trình quản lý môi trường cho khu dự án 5.500.000đ 3.500.000đ 2.000.000đ 5.000.000đ 2.000.000đ Cộng nội dung 4 18.000.000đ 5 Xây dựng bảo cáo tổng hợp Phân tích tổng hợp, xử lý số liệu, dựng bảo cáo tổng hợp. In ấn, photo đóng cuốn, ảnh. VPP ( mực in. giấy bút ). 2.500.000đ 2.000.000đ 2.000.000đ Cộng nội dung 5 6.500.000đ 6 Chi phí thực địa Chi phí vận chưyển. Thuê ghe. Công tác phí, phụ cấp : 6 tháng x 100.000đ/người x 6 người. 8.000.000đ 6.000.000đ 108.000.000đ Cộng nội dung 6 109.400.000đ 7 Nộp báo cáo, trình bày kết quả nghiên cứu tại Hà Nội Vé máy bay khứ hồi ( 6 người ) : 2.600.000 x 6 người Thuê xe Nội Bài – Hà Nội và ngược lại. Lưu trú tại Hà Nội : 6 người x 3 ngày x 200.000đ/ng.ng. Phụ cấp công tác phí : 6 người x 3 ngày x 50.000đ/ngày. Chi phí tổ chức thẩm định. 15.600.000đ 1.000.000đ 3.600.000đ 900.000đ 3.500.000đ Công nội dung 7 24.600.000đ 8 Chi phí khác, dự trù phát sinh chi phí 8.000.000đ Tổng kinh phí cho nghiên cứu là 252.650.000đ Kinh phí nội theo nội dung nghiên cứu - Tổng dự toán kinh phí 250.000.000 đồng. - Nguồn kinh phí Bộ Tài Nguyên Môi Trường. - Nội dung chi phí trong Bảng kèm Theo 2.9 Tiến độ thưc hiện Thời gian thực hiện 6 tháng. Dự kiến từ tháng 10/06/2010 và kết thúc vào 10/11/2010 Nội dung Tháng 6/2010 Tháng 7/2010 Tháng 8/2010 Tháng 9/2010 Tháng 10/2010 Tháng 11/2010 Thu thập số liệu Khoả sát, quan trắc chi tiết tại cùng dự án và xung quanh Nghiên cứu, đánh giá tác độnh của các hoạt động dự án tới MT Xây dựng báo cáo tổng hợp Bảo vệ tại Hà Nội PHẦN III SƠ BỘ TRÌNH BÀY CÁC NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHÍNH 3.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của ĐBSCL ĐBSCL là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiều nhất Đông Nam Á và thế giới, là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. ĐBSCL cũng là vùng đất quan trọng đối với Nam Bộ và cả nước trong phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước trong khu vực và thế giới.  3.1.1 Vị trí địa lý Hình 3.1 Vị trí ĐBSCL ĐBSCL có vị trí như một bán đảo với 3 mặt Đông, Nam và Tây Nam giáp biển (có đường bở biển dài 700km), phía Tây có đường biên giới giáp với Campuchia và phía Bắc giáp với vùng kinh tế Đông Nam Bộ - vùng kinh tế lớn nhất của Việt Nam hiện nay. - Diện tích tự nhiên toàn vùng là 39.747 km2; trong đó có khoảng 65% diện tích đất được dùng để sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.  - Dân số: đến năm 2004 dân số toàn vùng đạt trên 17,076 triệu người, mất độ dân số: tỷ lệ nữ giới chiếm 51,2%, tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị là 18,17%. Theo thống kê về lao động việc làm, dân số trong độ tuổi lao động có việc làm thường xuyên năm 2004 trong khu vực I chiếm 60,13%, KV II chiếm 13,11% và KV III chiếm 26,76%. (Theo Thống kê Lao động Việc làm 2004- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội)  - ĐBSCL có 13 đơn vị hành chính bao gồm: 1 thành phố trực thuộc trung ương (Thành phố Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. 3.1.2 Điều kiện tự nhiên Địa hình: Đồng bằng sông Cửu Long nằm trên địa hình bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố dày, rất thuận lợi phát triển cả giao thông thủy và bộ. Ngoài ra với bờ biển dài 700km là nhân tố quan trọng để vùng này phát triển kinh tế biển, du lịch, hàng hải và thương mại. Khí hậu: ĐBSCL có một nền nhiệt độ cao, ổn định trong toàn vùng, trung bình là 280 C. Chế độ nắng cao, số giờ nắng trung bình cả năm 2.226 - 2.709 giờ. Một năm chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa nắng từ tháng 12 đến tháng 4. Những đặc điểm khí hậu trên đã tạo ra ở ĐBSCL những lợi thế riêng mà các nơi khác khó có được. Đây cũng là nơi ít xảy ra thiên tai do khí hậu đặc biệt là bão. Nguồn nước: ĐBSCL lấy nước ngọt từ sông Mêkông và nước mưa. Cả hai nguồn này đều đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Sông Mekông, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, qua Vân Nam – TQ, Mianma, Thái Lan, Lao, Cambodia chảy vào Việt nam bằng hai nhánh, Tiền giang và Hậu giang (Bassac), chiều dài từ biên giới Việt Nam – Campuchia, đến cửa biển là 230km, lượng nước bình quân của sông Mêkông chảy qua nơi đây hơn 460 tỷ m3 ,vận chuyển khoảng 150 - 200 triệu tấn phù sa. Chính lượng nước và khối lượng phù sa đó trong quá trình bồi bổ lâu dài đã tạo nên Đồng bằng châu thổ phì nhiêu ngày nay. 3.1.3 Kinh tế xã hội ĐBSCL có nhiều lợi thế phát triển kinh tế, xã hội so với các vùng miền trong cả nước. Tuy nhiên, các tiềm năng, lợi thế trên chưa được đầu tư thai thác đúng mức, nên kinh tế -xã hội vùng ĐBSCL thuộc nhóm thấp kém so với cả nước, tỷ lệ hộ nghèo, trình độ văn hóa và mức độ hưởng thụ văn hóa ở khu vực ĐBSCL còn thấp so với các vùng miền khác trong cả nước.  3.2 Vấn đề môi trường đang thách thức Xây dựng đập thuỷ điện trên sông Mekong ảnh hưởng đến ĐBSCL 3.3 Qui mô, phạm vi của vấn đề, và ảnh hưởng đến môi trường sống Việc xây dựng đập thuỷ điện trên sông Mekong có ảnh hưởng đến tất cả các nước có sông Mekong đi qua, gồm: Trung Quốc, Myanmar và đặc biệt là 4 nước ở vùng trung lưu và hạ lưu sông là Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam ( 4 nước thành viện Uỷ hội Mekong, viết tắt là MRC ). Nguy cơ đối với tài nguyên sinh học và hệ sinh thái vùng hạ lưu Nguy cơ ngập chìm các khu rừng nhiệt đới Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (World Wide Fund for Nature hay World Wildlife Fund - WWF), trên sông Mekong có mặt các loài cá, như: cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá chép lớn, cá tầm (để làm trứng cá muối) và cá hồi ăn thịt.  Ở sông Mekong, các loài cá này có thể nặng tới hơn 90 kg và dài hơn 1,80 mét. Đặc biệt, sông Mekong còn có các loài cá chiên và cá lăng quý hiếm, chưa kể đến cá hổ và cá chép khổng lồ. Cá úc khổng lồ sông Mekong được coi là loài cá nước ngọt lớn nhất cùng họ với loài cá nhám chó, đã được đưa vào danh sách những loài bị đe dọa vào năm 2003; các nghiên cứu cho thấy: số lượng cá úc giảm ít nhất 80% trong hơn 13 năm qua. Robin Abell, nhà sinh học của WWF cho biết: "Các loài cá khổng lồ là những sinh vật nước ngọt có trọng lượng tương đương với voi và tê giác và nếu chúng biến mất thì thế giới sẽ bất ổn. Các đập và nhà máy thuỷ điện trên dòng chính sông Mekong thuộc các nước Campuchia, Lào, Thái Lan sẽ ngăn cản sự di chuyển của các loài cá vào mùa sinh sản, nơi sinh sản và cư trú của chúng. Các hồ thuỷ điện hình thành trên các con đập tạo ra nguy cơ ngậm chìm các khu rừng nhiệt đới, đang là nơi cư trú của nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm. Môi trường và hệ sinh thái sông Mekong sẽ biến đổi theo hướng môi trường nước có sự phân tầng của các hồ thuỷ điện sâu tới hàng trăm mét. Các biến động môi trường sẽ gây ra tác động đối với rất nhiều loài sinh vật nước và trên cạn thuộc lưu vực sông Mekong. Thay đổi thủy văn, thảm họa môi trường với các nước vùng hạ lưu, Việc xây dựng các con đập và nhà máy thuỷ điện trên dòng chảy sông Mekong, đặc biệt là việc xây dựng 12 dự án đập trên dòng chảy chính chắc chắn tạo ra nguy cơ thay đổi chế độ thuỷ văn của vùng hạ lưu: lưu lượng dòng chảy, phân bố dòng chảy năm, thành phần, tính chất của nước. Trong trường hợp một số quốc gia xây đập có nhu cầu nước lớn cho phát triển nông nghiệp (Thái Lan, Campuchia) có thể kết hợp việc xây đập thuỷ điện với việc lấy nước canh tác nông nghiệp, thì việc thay đổi chế độ thuỷ văn và dòng chảy ở hạ lưu có thể trở thành thảm hoạ môi trường đối với các quốc gia hạ lưu (Campuchia và Việt Nam ). Nguy cơ xâm nhập mặn hiện khó đánh giá, tuy nhiên nếu xảy ra việc điều tiết nước từ dòng chính sông Mekong làm nguồn nước tưới nông nghiệp sang lưu vực khác, thì nguy cơ nhiễm mặn đối với đồng bằng sông Cửu Long có thể đến mức cao, làm mất khả năng trồng lúa của dân cư các tỉnh Nam Bộ nước ta. Nước sông Mekong hiện nay là nguồn cung cấp phù sa cho đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Campuchia. Việc xây dựng đập và nhà máy trên dòng chính sông Mekong dẫn tới việc lắng đọng phần lớn phù sa trong lòng hồ mới hình thành. Như vây, lượng phù sa của 453 km3 nước sông Mekong vào lãnh thổ nước ta hiện nay sẽ bị giảm đáng kể, dẫn đến việc giảm lượng chất dinh dưỡng bổ sung cho đồng bằng sông Cửu Long và lượng trầm tích vùng ven biển. Hậu quả của quá trình này là độ phì của đất ngập nước bị suy giảm, một số vùng đất ven bờ biển thiếu trầm tích bổ sung có thể dẫn đến bị xói lở. Một số khu rừng ngập mặn do bị thiếu phù sa và xói lở, có thể tiếp tục bị thu hẹp diện tích. Ảnh hưởng đến nền kinh tế Sông Mekong cung cấp ngành công nghiệp cá nội địa lớn nhất thế giới. Theo Ủy ban sông Mekong, xấp xỉ 2,6 triệu tấn cá hoang dã và những nguồn tài nguyên thủy sinh khác được thu hoạch mỗi năm, đạt giá trị ít nhất 2 tỉ USD. Nếu tính về ngành công nghiệp thứ cấp, như chế biến và tiêu thụ cá, tổng giá trị kinh tế của nghề cá Mekong vào khoảng 5,6 - 9,4 tỉ USD/năm - đóng góp đáng kế vào kinh tế khu vực. Nghề cá không chỉ là nguồn thu nhập quan trọng cho ngư dân địa phương (với rất nhiều người thuộc diện nghèo nhất của khu vực) mà còn có ý nghĩa sống còn trong việc đảm bảo an ninh lương thực. Thu nhập của hàng triệu ngư dân sống dọc theo dòng chảy của sông Mekong và các nhánh sông chính sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp khi việc đánh bắt cá sụt giảm. Khoảng 70% cá đánh bắt thương mại của sông Mekong là loài di cư khoảng cách xa. Việc xây dựng hệ thống đập thuỷ điện trên dòng chính Mekong sẽ ngăn chặn con đường di cư này. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các ảnh hưởng này khó có thể dùng công nghệ để giảm bớt.  Công nghệ “tạo hành lang” di cư cho cá hiện nay không thể đáp ứng được lượng di cư khổng lồ - có thể đạt tới 3 triệu con/giờ vào thời kỳ đỉnh điểm. Và, tính đa dạng trong các cách thức di cư là đặc tính của hàng trăm loài cá Mekong. Ảnh hưởng từ các đập thuỷ điện trên sông Mekong sẽ là cái giá rất lớn với sức khoẻ, dinh dưỡng và an ninh lương thực của con người. Hơn một nửa tiêu thụ đạm động vật của 60 triệu người hạ lưu Mekong đến từ công nghiệp cá của sông. Nghề cá sông Mekong không chỉ nuôi dưỡng các cộng đồng người sống dọc theo con sông, mà cung cấp thực phẩm cho cả người dân ở những thành phố, thị trấn lớn. Việc sụt giảm trong số lượng đánh bắt cá sẽ giảm bớt lượng cá cung cấp cho thị trường, dẫn tới tình trạng khan hiếm và giá cả tăng cao, và cuối cùng là mức tiêu thụ cá xuống thấp. Các gia đình nghèo hơn sẽ đặc biệt khó khăn. Thay thế nguồn đạm từ cá hiện tại bằng các nguồn protein khác sẽ đắt đỏ hơn nhiều và đó là một thách thức trong tiêu dùng gia đình. Khi nguồn đạm từ cá là trung tâm dinh dưỡng cho con người tại khu vực Mekon thì việc giảm sụt lượng đánh bắt sẽ làm gia tăng tình trạng suy dinh dưỡng, vốn luôn là vấn đề lớn tại một số vùng trong khu vực. Do vây, sức khoẻ con người sẽ bị giảm sút, tình trạng ốm đau bệnh tật trở nên phổ biến hơn, khả năng học tập tiếp thu kiến thức giảm, khả năng sản xuất hộ gia đình giảm, nghèo nàn trở nên trầm trọng hơn. Cuối cùng, vì những ảnh hưởng tiềm tàng với an ninh lương thực, dinh dưỡng và sức khoẻ con người, xây dựng các đập thuỷ điện trên dòng Mekong có thể đẩy lùi nỗ lực của chính phủ và các tổ chức quốc tế trong việc xoá đói giảm nghèo, đạt những mục tiêu Thiên niên kỷ. Giảm tiềm năng ngành du lịch Bốn ngành kinh tế chủ yếu ở các quốc gia vùng hạ lưu chịu ảnh hưởng gồm: trồng lúa nước, nuôi trồng thuỷ sản, giao thông vận tải thuỷ, du lịch. Hoạt động trồng lúa nước bị suy giảm do các nguyên nhân: diện tích canh tác bị giảm do thiếu nguồn nước, lượng phù sa trong nước bị giảm do lắng động trước đó trong các hồ thuỷ điện. Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản cũng bị tác động bởi các nguyên nhân như việc trồng lúa nước. Bên cạnh đó, nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên bị giảm sút nghiêm trọng do việc xây đập ngăn cản việc chu kỳ sinh sản bình thường của các giống loài tự nhiên. Việc xây dựng các con đập ngăn cản sự di chuyển bình thường của tầu thuyền trên dòng sông Mekong. Hành khách và hàng hoá trên tầu thuyền muốn vượt qua các con đập cần đến âu thuyền hoặc chuyển tải qua đập cao từ 50 - 100 m. Việc này sẽ làm gia tăng thời gian đi lại của tầu thuyền trong vùng hạ lưu đến các thành phố của Campuchia, Lào, Thái Lan trong vòng nhiều giờ. Du lịch trên sông Mekong hiện nay thường gắn liền với việc khảo sát và tìm hiểu bản chất tự nhiên của sông. Việc xây đập và nhà máy trên dòng chính của sông Mekong sẽ gây nên ảnh hưởng tiêu cực lớn tới hoạt động du lịch, đặc biệt với khách du lịch có mục đích tìm hiểu và nghiên cứu môi trường tự nhiên sông Mekong. Các nguy cơ về tài nguyên và môi trường nước vùng hạ lưu Ngoài những ảnh hưởng nghiêm trọng tới nghề cá và an ninh lương thực khu vực, còn có rất nhiều tác động khác được báo trước nếu hệ thống đập thuỷ điện tiếp tục xây dựng trên sông. Theo ước tính chính thức, tổng cộng các đập sẽ tạo ra khoảng 600km hồ chứa nước dọc sông Mekong, đòi hỏi việc tái định cư cho 88.000 người. Có một thực tế buồn ở khu vực Mekong là, cuộc sống của những người phải thay đổi chỗ ở vì các dự án thuỷ điện trở nên tôồ tệ hơn sau tái định cư. Tính đa dạng hoá môi trường sinh thái dưới nước của Mekong chỉ đứng thứ hai sau Amazon, sẽ bị đe doạ. Một số loài cá di cư bị ảnh hưởng bởi hệ thống đập là nguồn thức ăn quan trọng cho các loài ăn thịt. Những loài này là trung tâm của sự ổn định và khả năng sinh sản của toàn bộ hệ thống sinh thái sông Mekong. Tổn thất của chúng cũng là hậu quả không thể lường trước được với hệ sinh thái. Đập thuỷ điện cũng sẽ đẩy một số loài cá đang ở mức nguy hiểm như cá heo Irrawaddy và cá da trơn khổng lồ Mekong tới bờ vực tuyệt chủng, mất đi hệ sinh thái dồi dào này sẽ là một thảm hoạ mang tính toàn cầu. Đập thủy điện cũng phá vỡ tính thuỷ học đồng thời ngăn chặn sự chuyên chở trầm tích giàu dinh dưỡng của sông. Những trầm tích này là phân bón tự nhiên bồi đắp hai bờ sông, những cánh đồng lúa bát ngát phì nhiêu trải dài khắp tiểu vùng, bồi đắp đất trồng và giảm thiểu sử dụng phân bón nhân tạo đắt tiền. Trung Quốc có kế hoạch xây dựng tám đập thuỷ điện ở thượng nguồn Mekong (Trung Quốc gọi là sông Lan Thương)... Tới thời điểm này, ba dự án đã hoàn thành. Dự án thứ tư, cũng là một trong những công trình thuỷ điện lớn nhất đại lục từ trước tới nay - đập Tiểu Loan - bắt đầu đưa nước vào hồ chứa trong năm nay, và có ít nhất hai dự án khác đang trong quá trình xây dựng. Những dự án này sẽ thay đổi căn bản chu kỳ khô hạn - lũ lụt tự nhiên của sông Mekong, ngăn chặn vận chuyển trầm tích, ảnh hưởng tới hệ sinh thái và sinh kế của hàng triệu người dân vùng hạ nguồn tại Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Những tác động tới mực nước và nghề cá đã được ghi chép lại tại khu vực biên giới Thái Lan - Lào. Bất chấp như vậy, tiến trình xây dựng đập thuỷ điện vẫn diễn ra mà không hề có sự tham vấn của bất kỳ quốc gia vùng hạ nguồn nào nào, cũng như không có một đánh giá hoàn chỉnh về tác động của đập tới con sông và con người sống dọc theo sông. Đập nước phá tan những giá trị văn hóa Nhịp điệu bất tận của chu kỳ nước lớn, nước ròng Mekong nghìn đời nay đã nuôi dưỡng và truyền cảm hứng cho mọi người dân trong khu vực. Con sông đem lại những nền tảng của cuộc sống cho cả người dân nông thôn hay thành thị, nó nuôi dưỡng những giá trị văn hoá, chuẩn mực truyền thống, truyền cảm hứng vào âm nhạc, điệu múa, ca khúc, ẩm thực, nghề thủ công và đời sống tâm linh, tạo nên bức tranh đời sống đa sắc màu của cả một vùng. Dọc theo con sông, những lễ hội truyền thống, văn hoá đã ăn sâu vào tiềm thức người dân tiểu vùng. Ví dụ như Campuchia có “lễ hội nước” nổi tiếng vào tháng 11, khi sông vào mùa cạn. Sông cũng là nguồn cảm hứng của văn hoá dân gian, của những truyền thuyết bao đời như Lễ hội Thần rắn thu hút hàng nghìn người tham gia tại Lào và Thái Lan nói về vị thần huyền bí từ sông. Nếu ngôi nhà sông huyền thoại của thần rắn trở thành những cái hồ lặng sóng vì đập thuỷ điện, thì tâm linh người dân sẽ đi về đâu? Văn hoá đa dạng và giàu bản sắc của khu vực cũng tạo ra thị trường hấp dẫn cho du lịch sinh thái, nhưng đập thuỷ điện đã đe doạ những điểm nóng du lịch ấy. Thúc đẩy du lịch là chính sách chung của tất cả chính phủ dọc khu vực Mekong. Tại Siphandone, phía nam Lào, cá heo Irrawaddy và thác Khone Phapheng trở thành điểm du lịch quốc gia, nhưng cũng trở nên mong manh với đập Don Sahong. Còn ở tỉnh Ubon Ratchathani, Thái Lan, đập Ban Koum đã đe doạ nhấn chìm “moonscape of the Mekong”, một quang cảnh tự nhiên kỳ bí được tạo nên từ hơn 3.000 lỗ chạm khắc vào đá bởi chính dòng sông Mẹ. Thảm kịch với đồng bằng sông Cửu Long? Đồng bằng sông Cửu Long một vùng kinh tế phát triển năng động của đất nước, đang đối mặt với nguy cơ dâng cao mực nước biển và biến đổi khí hậu; việc triển khai xây dựng các con đập và nhà máy thuỷ điện trên dòng chính của sông Mê Kông sẽ càng cho môi trường sống trở nên khắc nghiệt, đe dọa sự phát triển kinh tế và an toàn môi trường của hàng triệu người dân. Mối quan tâm của Việt Nam chính là lượng nước bị mất đi sẽ làm trầm trọng hóa vấn đề vùng trũng tại Đồng bằng sông Cửu Long đang bị nước biển xâm chiếm. Biến đổi khí hậu và hiện tượng tăng mực nước biển có thể dẫn đến nguy cơ một diện tích lớn đất canh tác nông nghiệp bị xâm thực và hàng triệu người phải chuyển chỗ vào cuối thế kỷ này. Các chuyên gia cho rằng sự hiện diện của quá nhiều đập thủy điện trên sông Mekong sắp tới sẽ làm cho mùa khô tại đồng bằng sông Cửu Long thêm kiệt nước. Bị kẹt chặt giữa một bên là ngập úng và nhiễm mặn do dâng cao mực nước biển, thay đổi chế độ thuỷ văn và suy giảm lưu lượng nước ngọt từ sông Mekong, cũng như gia tăng các tai biến môi trường do biến đổi khí hậu; hoạt động kinh tế và đời sống dân cư đồng bằng sông Cửu Long có thể rơi vào tình thế thảm kịch. Có thể dẫn tới mất an ninh xã hội và tái đói nghèo. 3.4 Giải pháp khắc phục đang thực hiện, và dự định sẽ thực hiện 3.4.1 Giải pháp khắc phục đang thực hiện Lo ngại đập thủy điện làm hại sông Mê kông, Ủy Hội sông Mekong vừa có Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về sông Mekong và mở trang web thu thập ý kiến của người dân về dự án xây thủy điện. Từ khi Ủy ban sông Mekong (MRC) gồm bốn nước thành viên Thái Lan, Lào, Campuchia và VN thành lập năm 1995, đã có nhiều cuộc họp, nhiều diễn đàn thảo luận về sự hợp tác Mekong, đại diện cao nhất của các nước cũng chỉ đến cấp bộ trưởng, thứ trưởng. Trong nỗ lực hợp tác và thúc đẩy phát triển bền vững khu vực tiểu vùng sông Mekong, Hội nghị cấp cao MRC lần thứ nhất tổ chức tại Hua Hin (Thái Lan) ngày 5-4 có sự hiện diện của thủ tướng bốn quốc gia hạ lưu sông Mekong và các quan chức của đối tác chiến lược của Trung Quốc và Myanmar. Tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ thực tế hợp tác 15 năm qua cho thấy Hiệp định Mekong là xu thế hợp tác của các dân tộc chung sống trong lưu vực và được sự ủng hộ tích cực của cộng đồng quốc tế. Là quốc gia ở cuối nguồn, VN thấy rõ những biến chuyển của sông Mekong do tác động của tự nhiên và con người. Cam kết thực hiện đầy đủ Hiệp định Mekong, VN sẽ phát huy “tinh thần hợp tác Mekong” nhằm chung sức xây dựng sông Mekong không chỉ là dòng sông kết nối các nền văn hóa, dòng sông của tình đoàn kết và hữu nghị mà còn là dòng sông của hợp tác, phát triển và hội nhập. Hội nghị cấp cao MRC thông qua tuyên bố chung Hua Hin là một dấu hiệu cho thấy các nước đang hướng tới cùng chia sẻ trách nhiệm phát triển bền vững sông Mekong. Lần đầu tiên các lãnh đạo quốc gia ngồi lại với nhau để thảo luận cơ hội và thách thức trong thời gian tới, nhất trí tầm nhìn lưu vực sông Mekong, cam kết mạnh mẽ tiếp tục hợp tác và thúc đẩy việc sử dụng quản lý hợp lý tài nguyên nước và tài nguyên hạ lưu sông Mekong, xác định các lĩnh vực ưu tiên cụ thể cho kế hoạch hành động giai đoạn tới là tín hiệu rất đáng mừng. Người dân trong lưu vực có quyền đòi hỏi Trung Quốc với vai trò là nước ở thượng nguồn sông Mekong phải có trách nhiệm đối với các nước hạ lưu theo thông lệ quốc tế như cung cấp thông tin, số liệu thủy văn, kế hoạch xây dựng, chế độ vận hành của các nhà máy thủy điện... Trung Quốc và Myanmar gia nhập MRC càng sớm ngày nào càng chứng tỏ thiện chí và trách nhiệm đầy đủ của mình đối với việc quản lý chung dòng sông Mekong. 3.4.2 Giải pháp dự định sẽ thực hiện Ngoài việc tăng cường hợp tác hoạt động qua khuôn khổ 4 nước hạ du của Ủy hội sông Mekong (MRC) cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành của Việt Nam qua các chương trình hợp tác song phương và đặc biệt là Sáng kiến tiểu vùng Mekongmở rộng (GMS) có đầy đủ cả 6 thành viên Mê Công. 3.5 Kết luận và kiến nghị Kết luận Trong xu thế hội nhập của thế giới, việc khai thác sử dụng nguồn nước sông Mekong là quyền lợi chung của tất cả các nước trong lưu vực. Cần quan tâm, thúc đẩy việc xây dựng cơ sở pháp lý của hợp tác quốc tế trong việc khai thác sử dụng các lưu vực sông quốc tế và quảng bá các nguyên tắc này nhằm thiết lập một hệ thống quốc gia cho các hoạt động khai thác nguồn nước; theo dõi việc sử dụng nguồn nước sông quốc tế trong lãnh thổ Việt Nam cả về số lượng và chất lượng cụ thể là 2 trạm chính ở Tân Châu và Châu Đốc; quảng bá kinh nghiệm của Việt Nam trong các diễn đàn quốc tế nhằm nâng cao uy tín của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề cần thương lượng. Việc xây dựng đập và các nhà máy thuỷ điện trên sông Mekong đang là xu thế chung của các quốc gia nằm trong lưu vực, tuy nhiên việc nghiên cứu đánh giá tác động môi trường của các dự án này đang còn hạn chế do chưa nhìn nhận đầy đủ các tác động quy mô tổng thể tầm chiến lược. 12 dự án xây đập trên dòng chính sông Mekong có thể gây nên các thảm họa môi trường cho các quốc gia vùng hạ lưu, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh các suy thoái và nguy cơ đối với các loài cá nước ngọt quý hiếm, nhiều ngành kinh tế như: trồng lúa nước, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, du lịch, giao thông vân tải thuỷ của các quốc gia vùng hạ lưu bị ảnh hưởng trầm trọng. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất so với Thái Lan là quốc gia có thể có lợi trong việc xây dựng các đập và nhà máy thuỷ điện trên dòng chính của sông Mekong. Lưu vực sông Mekong hiện nay và trong tương lai giữ một vai trò quan trọng, không chỉ trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia ven sông, mà còn cả trong phát triển hợp tác kinh tế và chính trị trong khu vực. Nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực sông Mekong tại các nước ven sông sẽ ngày càng lớn và chắc chắn sẽ tăng đáng kể trong tương lai. Do đó việc sử dụng công bằng, hợp lý, phát triển bền vững và bảo vệ nguồn tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan đã và đang trở thành một nhu cầu cấp thiết. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý tổng hợp lưu vực sông là hướng đi phù hợp với xu thế chung của thế giới hiện nay. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước và quản lý tổng hợp lưu vực sông bao gồm ba nội dung chính là phát triển (quy hoạch và xây dựng công trình), quản lý (phân bổ, giải quyết tranh chấp, quản lý ô nhiễm...) và bảo vệ (bảo vệ rừng, quản lý phân bón, thuốc trừ sâu, cơ cấu mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp, bảo vệ dải ven bờ...). Một số nhà khoa học cũng lưu ý để tránh tình trạng cực đoan, các nước cần tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin, đối thoại, minh chứng trên luận cứ khách quan và khoa học để làm sao tác động về lợi của các công trình đập thủy điện và đập dâng là lớn nhất và thiệt hại là ít nhất. Kiến nghị Vấn đề thiết thực nhất là cần cập nhật các thông tin, số liệu cơ bản, tiến hành nghiên cứu tổng hợp đánh giá về tác động của các đập thủy điện và các đập dâng của các nước thượng lưu kể cả của Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Campuchia cùng với tác động của biến đổi khí hậu , nước biển dâng ảnh hưởng đến ĐBSCL. Việc các nước ở thượng lưu sông Mekong tiến hành xây dựng các đập thủy điện để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế là xu thế không thể đảo ngược. Sông Mekong là sông quốc tế nên rất cần có tiếng nói chung của các tổ chức quốc tế và các nhà khoa học để minh chứng cho các lập luận về nguyên tắc chia sẻ nguồn nước. Vì vậy, cần có việc hợp tác của các quốc gia lưu vực trong việc nghiên cứu tổng thể và chi tiết tác động môi trường của các dự án trên. Trong trường hợp cần thiết, nếu không ngừng được các dự án trên dòng chính của sông Mekong, phải lựa chọn được địa điểm thích hợp để xây dựng. Mọi phương án xây dựng đập có mục đích chuyển dòng nước từ lưu vực sông Mekong tới các khu vực khác cần phải ngăn cấm. Chính phủ Việt Nam và Tổng công ty điện - dầu khí cần phải xem xét và cân nhắc đầy đủ các tác động môi trường chiến lược đối với dự án đầu tư thuỷ điện Luangprabang trên dòng chính sông Mekong; trên cơ sở xem xét lại các tác động tiêu cực kéo theo của các dự án đập và thuỷ điện của các quốc gia khác vì lợi ích chung của đất nước đối với đồng bằng sông Mekong. 3.6 Tài liệu tham chiếu - Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 2010 - Mạng: PGS.TS. Lưu Đức Hải - Theo vncold - Hội đập lớn và phát triển nguồn nước VN - www.vietnamnet.vn - Theo VOA.News - www.mekongdelta.com.vn - Phạm Hồng Thái, thảm họa môi trường sông Mekong đến gần, - Tyson R. Roberts (Tiến sĩ, Đại học Stanford 1968) nghiên cứu ngư học tại lưu vực sông Mekong

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhóm 13.doc