Tài liệu Đề tài Nồng độ oestrogen trên bệnh nhân nữ lao phổi: NỒNG ĐỘ OESTROGEN TRÊN BỆNH NHÂN NỮ LAO PHỔI
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi nồng độ estradiol trong máu trên bệnh nhân nữ được
chẩn đoán lao phổi và được điều trị lao.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang phân tích
Kết quả: Từ 01/2007 đến 01/2008, có 24 trường hợp bệnh nhân nữ đã được chẩn
đoán xác định lao phổi và được điều trị lao với phác đồ 2RHZ/6HR. Tuổi trung bình
38,2 (25 – 68 tuổi). Tập trung nhiều nhất từ 30 – 49 tuổi (66,8%). Tất cả các trường
hợp đều đã lập gia đình. Trong quá trình điều trị lao, phản ứng phụ xảy ra nhiều nhất
là biểu hiện tăng khả năng ham muốn tình dục (75%). Hiện tượng này xảy ra song
hành với sự gia tăng của estradiol trong máu. Mặt khác, chúng tôi ghi nhận sau giai
đoạn tấn công (ngưng PZA, chỉ còn sử dụng R và H trong giai đoạn duy trì), ham
muốn tình dục và lượng estradiol trong máu vẫn tiếp tục tăng cao. Sau đó, khi ngưng
điều trị lao, hiện tượng này và lượng estradiol trong máu giảm cùng lúc về với trị số
...
12 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nồng độ oestrogen trên bệnh nhân nữ lao phổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỒNG ĐỘ OESTROGEN TRÊN BỆNH NHÂN NỮ LAO PHỔI
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi nồng độ estradiol trong máu trên bệnh nhân nữ được
chẩn đoán lao phổi và được điều trị lao.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang phân tích
Kết quả: Từ 01/2007 đến 01/2008, có 24 trường hợp bệnh nhân nữ đã được chẩn
đoán xác định lao phổi và được điều trị lao với phác đồ 2RHZ/6HR. Tuổi trung bình
38,2 (25 – 68 tuổi). Tập trung nhiều nhất từ 30 – 49 tuổi (66,8%). Tất cả các trường
hợp đều đã lập gia đình. Trong quá trình điều trị lao, phản ứng phụ xảy ra nhiều nhất
là biểu hiện tăng khả năng ham muốn tình dục (75%). Hiện tượng này xảy ra song
hành với sự gia tăng của estradiol trong máu. Mặt khác, chúng tôi ghi nhận sau giai
đoạn tấn công (ngưng PZA, chỉ còn sử dụng R và H trong giai đoạn duy trì), ham
muốn tình dục và lượng estradiol trong máu vẫn tiếp tục tăng cao. Sau đó, khi ngưng
điều trị lao, hiện tượng này và lượng estradiol trong máu giảm cùng lúc về với trị số
ban đầu như trước khi điều trị lao. Điều này chứng tỏ R và H tác động đến sự thay đổi
nồng độ estradiol/máu trong quá trì nh trong và sau khi điều trị lao.
Kết luận: sự thay đổi nồng độ estradiol trong máu trên bệnh nhân nữ lao phổi bị tác
động bởi R và H trong quá trình điều trị lao.
ABSTRACT
SURVEY OF CONCENTRATION OF OESTROGEN IN BLOOD IN WOMEN
PATIENTS
WITH PULMONARY TUBERCULOSIS
Tran Minh Truc Hang, Ngo Thanh Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 152 - 156
Objective: to study the change of concentration of estradiol in blood in women
patients who were diagnosed pulmponary tuberculosis (TB) and were treated with
antituberculous drugs.
Method: analytical cross-sectional study.
Results: From 01/2007 to 01/2008, there were 24 women patients who were
diagnosed pulmonary TB and were treated with 2RHZ/6HR. Their average age was
38.2 (range, 25 – 68). the most common age were from 30 – 49 (66.8%). All were got
married. In the TB treatment, the most common side-effect was the increase of libido
in the women (75%). This phenomenon took place at the same time of the increase of
estradiol in blood. On the other hand, after intial phase of the TB treatment (stop
PZA, only use R and H in the continuing phase), libido and estradiol in blood still
continued to increase. Then, when completing of the TB treatment, both returned
concurrently to the previous situation (before treating TB drugs). As a result, R and H
influenced to the chang of concentration of estradiol in blood in the TB treatment.
Conclusion: the chang of concentration of estradiol in blood in women patients with
pulmonary TB was involved by R and H in the TB treatment.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lao có một lịch sử lâu đời và kéo dài đến tận ngày nay. Bệnh lao đã được ghi
nhận trong y văn của Ai Cập, Ấn Độ và Trung Quốc từ rất lâu, cách nay từ 5.000
năm, 3.300 năm và 2.300 năm(3,4,9). Bệnh lao đã tác động đáng kể không những đến
sức khỏe mà còn ảnh hưởng đến các khía cạnh đời sống sinh hoạt của con người. Các
phác đồ điều trị lao thường kéo dài đến 8 tháng. Các tác dụng phụ của thuốc kháng
lao cũng thường xảy ra và rất đa dạng(1,2,5-8,10,11). Tuy nhiên qua tham khảo nhiều
nghiên cứu trên thế giới cũng như tại Việt nam chưa thấy đề cập đến tác dụng phụ của
thuốc kháng lao gây rối loạn về nội tiết ở bệnh nhân nữ được điều trị lao. Qua quan
sát một vài trường hợp trên lâm sàng, chúng tôi có ghi nhận ban đầu có sự biểu hiện
về thay đổi khả năng tình dục xảy ra ở các bệnh nhân nữ trong quá trình điều trị lao.
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu định lượng estradiol trong máu nhằm
mong muốn tìm câu trả lời về sự thay đổi này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các trường hợp nữ mắc lao phổi đã được chẩn đoán và điều trị tại phòng khám
phổi, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh từ 01/2007 đến 01/2008, đều
được định lượng estradiol trong máu với thời gian theo dõi trung bình là 9 tháng.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Bệnh nhân nữ sau khi được chẩn đoán chính xác lao phổi và tiến hành điều trị lao với
phác đồ 2RHZ/6HR. Ngoài các xét nghiệm tầm soát giúp chẩn đoán bệnh cũng như
xét nghiệm giúp đánh giá, theo dõi trong quá trị điều trị lao, chúng tôi tiến hành đo
lượng estradiol trong máu của các bệnh nhân này vào các thời điểm sau: trước khi
điều trị lao, sau khi điều trị lao được 1 tháng, 2 tháng, 6 tháng, 8 tháng và sau khi
ngưng điều trị lao 1 tháng. Vì nồng độ estradiol trong máu thay đổi theo chu kỳ kinh
nguyệt nên chúng tôi tiến hành đo estradiol của tất cả bệnh nhân vào giữa chu kỳ kinh
nguyệt. Riêng đối với các trường hợp mãn kinh thì đo ở bất kỳ thời điểm nào trong
tháng.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân chưa lập gia đình
Bệnh nhân đang mắc các bệnh lý nội khoa nặng gây suy gan, suy thận, suy hô hấp
cấp, suy tim, rối loạn đông máu, đái tháo đường và nhiễm HIV…
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ 01/2007 đến 01/2008, chúng tôi thu dung được 24 trường hợp bệnh nhân nữ đã
được chẩn đoán xác định lao phổi và được điều trị lao với phác đồ 2RHZ/6HR.
Đặc điểm của nhóm bệnh nhân:
Bảng 1: Đặc điểm tuổi của nhóm nghiên cứu
Tuổi Số trường hợp Tỉ lệ (%)
< 30 4 16,6
30 – 39 9 37,5
40 – 49 7 29,3
≥ 50 4 16,6
Tuổi nhỏ nhất là 25 và lớn nhất là 68. Tuổi trung bình 38,2. Tập trung nhiều nhất từ
30 – 49 tuổi (16 trường hợp, 66,8%)
Các phản ứng phụ của thuốc kháng lao:
Bảng 2: Các phản ứng phụ của thuốc kháng lao
Lứa tuổi Các phản ứng
phụ
N
<
30
30 –
39
40 –
49
≥ 50
Chán ăn 1 0 0 1 0
Ói – Buồn ói 5 1 3 1 0
Ngứa – đỏ da 1 0 1 0 0
Mất ngủ 4 0 0 2 2
Thay đổi về tình
dục
18 3 7 6 2
Phản ứng phụ của thuốc kháng lao gặp nhiều nhất ở bệnh nhân nữ là thay đổi về tình
dục (18 trường hợp, chiếm 75%), trong đó tập trung nhiều ở lứa tuổi từ 30 – 49 tuổi.
Sự thay đổi về trị số trung bình của estradiol của nhóm nghiên cứu
Bảng 3: Bảng theo dõi kết quả trị số trung bình của estradiol của nhóm nghiên cứu
trước, trong và sau khi điều trị lao.
Lứa
tuổi
Trước
khi
điều
trị lao
Sau
điều
trị lao
1
tháng
Sau
điều
trị lao
2
tháng
Sau
điều
trị lao
6
tháng
Sau
điều
trị lao
8
tháng
Sau
khi
ngưng
điều
trị lao
1
tháng
<
30
379,75 401,50 434,25 459,75 462,50 394
30 –
39
382,78 408,89 422,11 433,89 446,67 350
40 –188,43 268 272,43 278 307,14 238
49
≥
50
80,5 88 101 112 129 86,75
Trong thời gian điều trị lao chỉ số estradiol/máu đều tăng cao hơn so với lúc trước khi
điều trị lao, cũng như cao hơn so với thời gian sau điều trị lao 1 tháng. Đồng thời, chỉ
số estradiol/máu đều tăng theo thời gian điều trị lao và khi ngưng điều trị lao, các chỉ
số estradiol/máu có khuynh hướng trở về bình thường. Điều này xảy ra tương tự nhau
ở tất cả các lứa tuổi.
Ở nữ, trị số bình thường của estradiol/máu là: 6 (pg/ml)
Ở thời kỳ có kinh nguyệt:
Giai đoạn nang tố: estradiol 39 – 189 pg/ml
Giai đoạn giữa chu kỳ: 94 – 508 pg/ml
Giai đoạn hoàng thể: 48 – 309 pg/ml
Thời kỳ mãn kinh: < 20 – 41 pg/ml
* Các sơ đồ theo dõi sự thay đổi estradiol theo từng lứa tuổi trong nhóm nghiên cứu:
Trước khi điều trị lao
Sau khi điều trị lao 1 tháng
Sau khi điều trị lao 2 tháng
Sau khi điều trị lao 6 tháng
Sau khi điều trị lao 8 tháng
Sau khi ngưng điều trị lao 1 tháng
Biểu đồ 1: Theo dõi sự biến thiên của estradiol trên nhóm bệnh nhân < 30 tuổi
Biểu đồ 2: Theo dõi sự biến thiên của estradiol trên nhóm bệnh nhân 30 – 39 tuổi
Biểu đồ 3: Theo dõi sự biến thiên của estradiol trên nhóm bệnh nhân 40 – 49 tuổi
Biểu đồ 4: Theo dõi sự biến thiên của estradiol trên nhóm bệnh nhân ≥ 50 tuổi
BÀN LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận bệnh nhân nữ mắc lao phổi tập trung chủ
yếu ở lứa tuổi 30 – 49 (16 trường hợp, 66,8%). Tuổi trung bình 38,2. Điều này cũng
phù hợp trong y văn(3,4). Ngoài ra, trong các phản ứng phụ xảy ra trong quá trình điều
trị lao ở bệnh nhân nữ thì biểu hiện thay đổi tình dục là gặp nhiều nhất (75%), nhiều
hơn so với các phản ưng phụ khác. Biểu hiện tăng ham muốn về tình dục xảy ra trong
quá trình điều trị lao nhiều hơn so với thời điểm trước khi điều trị lao cũng như sau
khi điều trị lao. Điều này cũng tương ứng với sự gia tăng lượng estradiol/máu trong
suốt thời gian điều trị lao và tăng cao điểm sau 6 tháng điều trị. Sau đó, lượng
estradiol/máu giảm dần về trị số ban đầu sau khi chấm dứt điều trị lao. Các biểu đồ
trên cũng đã cho thấy rõ điều đó. Sự thay đổi lượng estradiol/máu thấy rõ nhất ở lứa
tuổi từ 30 – 49. Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi bước đầu ghi nhận sự thay đổi khả
năng tình dục xảy ra tương ứng cùng với sự thay đổi nồng độ estradiol/máu. Do điều
kiện khách quan và chủ quan, chúng tôi chưa thể lý giải được sự thay đổi của hiện
tượng này. Tuy nhiên, chúng tôi ghi nhận sự thay đổi nồng độ estradiol/máu xảy ra
theo từng thời điểm của quá trình điều trị, tức là thuốc lao có ảnh hưởng đến sự thay
đổi nồng độ estradiol/máu. Nhưng một vấn đề được đặt ra: trong các thuốc kháng lao
đã được sử dụng, thuốc nào đã gây nên sự thay đổi nồng độ estradiol trong máu?.
Như chúng ta đã biết, Rifampicin là chất chiết xuất bán tổng hợp của Rifampicin B, là
kháng sinh được phân lập từ nấm Streptomyces Mediterranei. Rifampicin thường gây
phản ứng phụ như nổi mẩn ngoài da, sốt, ói, viêm gan. PZA là chất tổng hợp tương tự
nicotinamide. PZA có độc tính trên gan và can thiêp vào quá trình bài tiết ra urate. Do
đó,viêm khớp là biến chứng thường gặp nhất của PZA. Và INH là hóa chất tổng hợp
vào năm 1912 ở Prague. Thuốc sau khi uống vào được phân bố khắp cơ thể. Nồng độ
thuốc trong dịch não tủy bằng 1/5 nồng độ thuốc trong huyết tương. INH tăng thải
Pyridoxine qua nước tiểu nên có thể gây viêm thần kinh ngoại biên, gây độc gan, và
một số phản ứng về tâm thần… Theo điều trị lao trong nghiên cứu này, chúng tôi sử
dụng phác đồ hai tháng tấn công bằng RHZ, sau đó chuyển sang điều trị duy trì bằng
RH trong 6 tháng (ngưng dùng PZA). Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng độ
estradiol/máu vẫn tiếp tục gia tăng cao cho đến khi tháng thứ 8 của điều trị lao và sau
đó nồng độ estradiol/máu có khuynh hướng giảm dần về trị số ban đầu như trước khi
điều trị lao. Như vậy, sự thay đổi nồng độ estradiol/máu chỉ có liên quan đến hai
thuốc R và/hoặc H mà không liên quan đến PZA. Để có thể xác định một cách chính
xác sự thay đổi estradiol/máu là do R hay do H hay do cả hai, chúng tôi sẽ tiếp tục
nghiên cứu về vấn đề này trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Hóa trị liệu lao là chìa khóa của sự lành bệnh lao. Tuy nhiên, với kết quả nghiên cứu
của chúng tôi bước đầu ghi nhận sự thay đổi nồng độ estradiol/máu chỉ có liên quan
đến hai thuốc R và/hoặc H. Từ đó dẫn đến sự thay đổi khả năng tình dục cho bệnh
nhân trước, trong và sau khi điều trị lao.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 74_931.pdf